BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
………/……… …./….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÂM THỊ NHƯNG
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK - NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
……./…… …../….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÂM THỊ NHƯNG
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Khuyên
ĐẮK LẮK - NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu “Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật
hiến pháp và Luật hành chính của tôi tại Học viện Hành chính Quốc gia.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi thực hiện.
Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng
và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Đắk Lắk, tháng 12 năm 2022
Tên tác giả luận văn
Lâm Thị Nhưng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ tập tình của các thầy cô giáo, bạn bè và gia đình; sự tham gia góp ý
của các cô chú, anh chị làm việc tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lăk. Đến
nay, tôi đã hoàn thành Luận văn với đề tài “Tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Khuyên -
người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy, cô giáo Phòng Quản
lý Đào tạo, Bồi dưỡng - Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây
Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi
trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Dù đã rất cố gắng để hoàn thành Luận văn một cách tốt nhất, song bài
Luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp
ý, nhận xét từ quý thầy cô để Luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang i ii iii iv v 1 9 9 18 35 41 42
Trang phụ bìa Lời cam đoan cảm ơn Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của TAND cấp huyện 1.2. Cơ cấu tổ chức, chức, chức năng, nhiệm vụ của TAND cấp huyện 1.3. Điều kiện đảm bảo tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện Tiểu kết chương 1 Chương 2. THỰC TRẠNG TTỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của TAND cấp 42
huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn 45
tỉnh Đắk Lắk
2.3. Đánh giá Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện 73
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
86 87
Tiểu kết chương 2 Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ chức và hoạt động của 87
TAND cấp huyện
3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên 91
địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Tiểu kết chương 3 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 113 114 116
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự
BLDS: Bộ luật Dân sự
BLHS: Bộ luật Hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
HTND: Hội thẩm nhân dân
HĐTP: Hội đồng Thẩm phán
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TAND: Tòa án nhân dân
TTLT: Thông tư liên tịch
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
UBND: Ủy ban nhân dân
HĐND: Hội đồng nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang Tên bảng
STT 1 Bảng 2.1. Số lượng cán bộ công chức tại các Tòa án cấp 60
huyện
2 Bảng 2.2 Số liệu các vụ án hình sự sơ thẩm TAND cấp 64
huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết được trong
các năm 2017, 2018, 2019, 2020 và 2021
3 Bảng 2.3 Số liệu các vụ án dân sự sơ thẩm TAND cấp 65
huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết trong các năm
2017, 2018, 2019, 2020 và 2021
4 Bảng 2.4 Số liệu các vụ án hành chính sơ thẩm TAND cấp 65
huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết trong các năm 2017, 2018, 2019, 2020 và 2021
MỞ ĐẦU
1.1.1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ đất nước phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng, nhiệm
vụ phát triển và bảo vệ đất nước trước yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới là một trong những nhiệm vụ quan
trọng. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp được
coi là một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình cải cách tư pháp. Đấu tranh, phòng
và chống tội phạm ở nước ta hiện nay đặt ra yêu cầu phải đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân, đây là một trong những nội dung được thể hiện
nhiều trong văn kiện, Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Nghị quyết số
08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo và
các nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp đối với ngành Tòa án như “Khi xét
xử, các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn
và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định
đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định”.
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW
về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, đã xác định Tòa án là: “Cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài
sản, tự do, danh dự và nhân phấm của công dân. Nghị Quyết đề ra nhiệm vụ
1
đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, với mục tiêu là xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa.
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy
định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp” [1, tr. 26]. Qua đó củng cố thêm vị trí, vai trò quan
trọng của TAND trong thời kỳ mới nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới. Để thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu câu cải cách tư pháp, toàn
ngành TAND đã đồng bộ thực hiện tốt hoạt động xét xử được tiến hành có
hiệu quả và hiệu lực cao. Tuy nhiên, việc tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương nói riêng theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 cũng đặt ra những vấn đề cần giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn,
đặc biệt trong bối cảnh chuẩn bị tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị, sơ kết việc thực hiện Luật Tổ chức
TAND năm 2014. Trong thời gian qua công tác tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk đã đạt được những kết quả nhất định, là cấp Tòa án thực hiện
chức năng xét xử sơ thẩm, được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, đảm bảo tính
độc lập của Tòa án, tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương đã từng bước đáp ứng với yêu cầu
cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên vẫn còn
tồn tại những bất cập trong tổ chức và hoạt động dẫn đến công tác tổ chức và
hoạt động của TAND nói chung và TAND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương nói riêng trong thời gian qua còn chậm và chưa đáp
2
ứng đúng yêu cầu. Chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương còn để xảy ra oan sai, án tồn động kéo
dài, đội ngủ cán bộ nhất là đội ngủ Thẩm phán, Thư ký vừa thiếu về số lượng,
vừa yếu về trình độ chuyên môn nên ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, cơ sở
vật chất, điều kiện làm việc của một số TAND chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ,
nhất là ở cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nhiều nơi trụ
sở còn rất chật chội, phương tiện làm việc vừa thiếu vừa lạc hậu; chính sách
đối với cán bộ công chức chưa tương xứng với nhiệm vụ và chức trách được
giao. Từ những vấn đề đặt ra cần giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn nêu
trên. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những
cấp độ khác nhau có liên quan đến vấn đề Tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân đã được công bố thể hiện qua các đề tài nghiên cứu khoa học, luận án,
luận văn, các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín. Có thể kể
đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Đồ Thị Ngọc Tuyết năm (2005), "Những vấn để lý luận và thực tiễn về
cải cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền"[3]. Luận án đã cung cấp kịp thời về mặt lý luận và thực tiễn
cũng như những giải pháp phù hợp cho việc cải cách hệ thống Tòa án trong mô
hình nhà nước pháp quyền. Đồng thời phân tích cụ thể, đối chiếu với thực tiễn
về tổ chức và hoạt động của Tòa án, làm cho các Điều luật được giải thích rõ
ràng, cụ thể, dễ hiểu, phần nào đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, tìm hiểu, nâng cao
nhận thức và triển khai có hiệu quả Luật tổ chức TAND năm 2002 và chỉ ra
những tồn tại và các giải pháp mới trong hoạt động cải cách tư pháp.
3
Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, TANDTC, số 07/2014 “Tiếp tục
hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, tương xứng với
chức năng, nhiệm vụ Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp” [5, tr.01]. Bài viết đã làm rõ thực trạng tổ chức và
hoạt động của TAND, từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế chủ yếu về tổ chức
và hoạt động của hệ thống TAND và đưa ra các định hướng cơ bản về việc đổi
mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND.
Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án, giải pháp đột phá để Tòa
án nhân dân thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [4] đăng trên tạp chí
Tòa án nhân dân, TANDTC, số 21/2014, ngày 29/10/2014 bài viết đã làm rõ
được vị trí của tranh tụng là khâu đột phá của cải cách tư pháp, từ đó chỉ ra bản
chất của tranh tụng tại Tòa án và những định hướng nâng cao chất lượng tranh
tụng tại Tòa án; “ Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp”[6] đăng trên tạp chí
Tòa án nhân dân, TANDTC, số 16/2014, tr. 01 – 14, bài viết cho cái nhìn tổng
quát về xu hướng độc lập của tư pháp trên thế giới và tại Việt Nam, qua đó chỉ
ra các yếu tổ để đảm bảo cho hoạt động tư pháp.
Đỗ Gia Thư năm 2006 “Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ
Thẩm phán ở nước ta hiện nay” [7]. Luận án đã đưa ra các cơ sở lý luận, căn
cứ pháp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán cũng như đưa ra các giải
pháp hoàn thiện nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu khác như các báo cáo tổng
kết, những bài viết trên các tạp chí chuyên ngành có đề cập đến lĩnh vực tổ chức
và hoạt động của TAND.
4
Có thể thấy các công trình nghiên cứu trước đây đã đề cập những nội
dung cơ bản về tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND, phân tích tính ưu việt
của pháp luật Việt Nam về tổ chức, hoạt động của TAND, những điểm chưa hợp
lý trong tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND hiện nay, góp phần giúp chúng
ta nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí của TAND trong hoạt động cải cách tư pháp.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu trực tiếp và có
hệ thống về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ khi Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức TAND
năm 2014 được triển khai, thực hiện. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm
đề tài luận văn với mong muốn hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả
và hiệu lực, bảo đảm việc thực hiện pháp luật được nghiêm minh, bảo đảm cho
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và đánh giá thực
trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm tổ
chức và hoạt động của TAND cấp huyện nói chung và TAND cấp huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND
cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy của TAND cấp
huyện, hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của TAND cấp huyện, thị xã,
5
thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Thứ ba: Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức và hoạt động của
TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu
làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Về thời gian: Từ năm 2018 đến 2022.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về tổ chức
và hoạt động của TAND mà không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
Tòa án quân sự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Về phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Marx
– Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước về tổ chức và hoạt động của TAND.
5.2. Về phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như: Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp…. Các phương pháp này sử dụng đan xen,
phối hợp nhằm đem lại hiệu quả trong nghiên cứu.
Ngoài ra tác giả sử dụng kết hợp nghiên cứu luật và văn bản dưới luật,
các báo cáo tổng kết, hồ sơ các vụ việc đã được TAND cấp huyện giải quyết,
xét xử từ năm 2017 đến nay.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của TAND từ thực tiễn TAND cấp huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; vai trò của TAND cấp
huyện trong bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý; tuyên truyền, nâng cao hiểu biết
của nhân dân về tổ chức, hoạt động của TAND nói chung và TAND cấp huyện
nói riêng. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy và công việc thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý về tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân cấp huyện
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trò của Toà án nhân dân cấp
huyện
1.1.1. Khái niệm Tòa án nhân dân cấp huyện
Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, trong đó hoạt động tư pháp
là hoạt động giải quyết các tranh chấp trong xã hội, xử lý các vi phạm pháp
luật. Hoạt động đó liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích của con người,
của công dân được thực hiện thông qua việc phân xử và phán xét tính đúng đắn,
tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về
các quyền và lợi ích của các chủ thể pháp luật. Nói đến tư pháp là nói đến việc
xét xử theo pháp luật và quyền tư pháp do hệ thống Tòa án độc lập thực hiện
với chức năng đặc trưng là xét xử, là một phương thức thực thi quyền lực nhà
nước. Từ xưa, một người có oan khuất thường tìm đến cửa quan để đánh trống
kêu oan mong được minh xét. “Tòa án” lúc bấy giờ chưa được gọi là Tòa án,
nhưng khái niệm về một mô hình có chức năng bảo vệ công lý như vậy thời
nào cũng có và luôn được chú trọng. Ở giai đoạn sơ khai của văn minh loài
người, công lý được thể hiện khá rõ nét thông qua cơ chế dĩ oán báo oán, với
nguyên tắc “công bằng”: mắt đền mắt, răng đền răng. Giai đoạn tiếp theo, các
hình thức bồi thường, phạt vạ xuất hiện nhằm đảm bảo tinh thần hòa hảo trong
nội bộ tổ chức. Đến giai đoạn thứ ba, để duy trì hòa bình, trật tự, ổn định của
toàn xã hội, thiết chế “Tòa án” đã được thành lập để thẩm định, đánh giá mức
độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều đình cho các xung đột giữa các cá nhân trong
xã hội. Công lý và tư pháp xét xử đã vững bước song hành qua các kiểu Nhà
nước khác nhau. Ngay từ khi ra đời Nhà nước quản lý xã hội bằng cách biến ý
chí của giai cấp thống trị thành pháp luật và dùng các công cụ, biện pháp quyền
8
lực để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Tòa án là cơ quan nhân danh Nhà
nước thực hiện việc xét xử, bảo vệ công lý; hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa
án là thước đo tính dân chủ, công bằng và lòng tin của nhân dân. Bản chất hoạt
động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và thông qua đó Tòa án chuyển
tải, thể hiện quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị vào đời sống xã
hội. Do đó, tổ chức và hoạt động tư pháp, nhất là của Tòa án một mặt phải hiệu
quả, bảo vệ quyền con người, lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
Vì vậy mà TAND là nơi thể hiện công lý trong bộ máy nhà nước và
không thể thiếu trong hệ thống bộ máy nhà nước.
Theo Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”
[1, tr. 26]. Bằng quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ quan thực hiện
quyền tư pháp ở Việt Nam được khẳng định là Tòa án nhân dân, theo đó, quyền
tư pháp được hiểu là quyền xét xử, là quyền lực nhà nước giao cho Tòa án thực
hiện, bao gồm trước hết là quyền xét xử và giải quyết các việc khác theo quy
định của pháp luật; áp dụng, kiểm tra, hoặc hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế Nhà nước hạn chế quyền con người, quyền công dân; áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của
công dân theo quy định của pháp luật; quyết định, giám sát việc thi hành bản
án, quyết định của Tòa án; hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật; kiểm soát
hoạt động tư pháp, hoạt động của cơ quan hành pháp theo cơ chế phân công,
phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các quyền khác
bảo đảm để Tòa án thực thi quyền lực tư pháp theo quy định của pháp luật. Cụ
thể hoá quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 tại
Điều 2 quy định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án: “Tòa án nhân danh nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn
9
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết
các việc khác theo quy định của pháp luật” [2, tr.5]. Chỉ có Tòa án là cơ quan
duy nhất được nhân danh Nhà nước xét xử, kết luận một người có tội hay không
có tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội. Việc pháp luật quy định
như vậy nhằm đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tránh tùy
tiện trong việc kết tội một ai đó vì việc kết tội một ai đó sẽ gây hậu quả, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản, sức khỏe, tính
mạng, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân.
Hiến pháp 2013 đã quy định lại vị trí, chức năng của TAND theo hướng
mới xây dựng nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân
dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân là phù hợp với xu hướng
chung của thế giới về hoạt động tư pháp của Tòa án. Với việc thực hiện chức
năng xét xử, TAND có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập
quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là nơi nhân dân gửi gắm niềm tin trong
việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu
bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật.
Vai trò đó được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ
chức TAND năm 2014. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “TAND có
nhiệm vụ bảo vệ công lý; bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân” [1, tr.5].
Như vậy, TAND cấp huyện là cơ quan xét xử được tổ chức ở đơn vị hành
chính cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, có nhiệm vụ sơ thẩm các vụ việc
theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân cấp huyện
10
Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, công cuộc cải cách
tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với
quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công
tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp
đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới
tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Đảng ta nhận định: “…Tổ
chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp
còn bất hợp lý...”.
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết 49/NQ-TW về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết 49/NQ-TW đã thể hiện
quyết tâm cao của Đảng ta nhằm cải cách cơ bản, sâu rộng nền tư pháp nước
nhà. Theo đó, nền tư pháp Việt Nam là nền tư pháp Xã hội chủ nghĩa, của nhân
dân, vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Đối với hệ thống Tòa án nhân dân, Nghị
quyết 49/NQ-TW nêu rõ: “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và
hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp”. Trọng tâm là xây dựng, hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo hướng: “Tổ chức hệ thống
Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính” [8].
Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo
Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã xác định tổ chức Tòa án 4 cấp, trong đó: “Tòa án nhân dân cấp
huyện có chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo thẩm quyền và giải quyết
các việc khác theo quy định pháp luật” [9].
Kết luận 92/KL-TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực
11
hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa X về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xác định về tổ chức Tòa án nhân
dân: Tiếp tục thực hiện chủ trương tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp xét xử,
không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Tòa án nhân dân được tổ chức 4 cấp
như Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị [10].
Ngày 24/11/2014, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, được Quốc
Hội nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua là bước ngoặt quan
trọng trong cơ cấu, tổ chức của hệ thống Tòa án. Tại điều 3 của Luật TCTAND
năm 2014 qui định hệ thống Tòa án nước ta sẽ được tổ chức theo 4 cấp, gồm:
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
Tòa án nhân dân cấp huyện [11].
Như vậy, TAND cấp huyện là một bộ phận của hệ thống TAND thực
hiện chức năng xét xử ở phạm vi lãnh thổ cấp huyện. Đây là cấp Tòa án thực
hiện xét xử thấp nhất tại địa phương đối với các vụ án được pháp luật quy định.
Trong đó thẩm quyền của TAND cấp huyện trên các lĩnh vực hình sự, dân sự
và các việc khác theo quy định của pháp luật ngày càng được mở rộng, cụ thể
như:
Một là: Về dân sự: Tại khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003 được
sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà
đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất
thì do TAND giải quyết” [12, 2003, Điều 136] và được mở rộng hơn như tại
khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 quy định: “TAND có thẩm quyền có
quyền giải quyết sơ thấm các tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy
chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của
Luật này” [13, 2013, Điều 203].
12
Hai là: Về hình sự, tại khoản 1 Điều 145 của BLTTHS năm 1988 quy
định: “TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm những tội phạm mà BLHS quy định
hình phạt từ bảy năm tù trở xuống” [14, 1988]; nay đã được mở rộng hơn theo
quy định tại khoản 1 Điều 268 của BLTTHS năm 2015: “TAND cấp huyện xét
xứ sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng…'’ [15, 2015, Điều 268]
Ba là: về chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo thẩm quyền và giải
quyết các việc khác theo quy định pháp luật của TAND cấp huyện hiện nay
được quy định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014, BLTTDS năm 2015,
BLTTHS năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015 và một số văn bản pháp
luật có liên quan khác.
Cán bộ, công chức làm việc tại TAND cấp huyện có chế độ lương, phụ
cấp theo quy định chung của hệ thống Tòa án giống như các Tòa án khác trong
hệ thống TAND, chịu sự điều chỉnh của quy chế, quy định riêng về quy tắc ứng
xử, về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của nội bộ hệ thống Tòa án.
1.1.3. Vai trò của Toà án nhân dân cấp huyện
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp
luật, bảo đảm tính thượng tôn pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng
và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp
luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của
công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan Nhà nước và
công chức Nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ
cương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Đó là Nhà nước
mà tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, cá nhân đều phải hoạt động theo
pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động
của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp, pháp luật của
13
Nhà nước. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định Tòa án là hệ thống cơ quan
riêng biệt thực hiện chức năng xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện góp phần quan trọng trong việc
xây dựng và củng cố Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vì vậy tổ chức
và hoạt động TAND cấp huyện cần được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Quyền lực Nhà nước được thể hiện dưới các hình thức là xây dựng pháp
luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Các hình thức này tương
ứng với ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở Việt Nam quyền tư pháp
luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và hành pháp trong tổng thể của quyền
lực Nhà nước. Trong khi hoạt động chủ yếu của cơ quan lập pháp là ban hành
hiến pháp, pháp luật; của cơ quan hành pháp là tổ chức thực hiện pháp luật để
điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trong giới hạn mà pháp luật quy định.
Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện tượng xâm phạm Hiến
pháp và pháp luật luôn là một nguy cơ trong đời sống xã hội. Để bảo vệ pháp
luật, khôi phục trật tự pháp luật bị xâm phạm là một đòi hỏi khách quan của xã
hội, từ đó hình thành nên hoạt động bảo vệ pháp luật là nội dung cơ bản của
quyền tư pháp. Hoạt động xét xử của Tòa án là lĩnh vực thể hiện tập trung của
quyền tư pháp. TAND là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện việc xét xử.
Bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và thông qua đó Tòa
án chuyền tải, thể hiện quyền lực Nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị vào đời
sống xã hội. Từ những phân tích nêu trên cho ta thấy TAND có vai trò cụ thể
như sau:
Một là TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tồ chức, cá nhân.
Hai là TAND cấp huyện có vị trí quan trọng trong việc giữ vững an ninh
14
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ồn định cho sự phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
Ba là TAND công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN, đấu
tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời
nâng cao ý thức pháp luật và giáo dục trong xã hội.
Nhiệm vụ này của TAND cấp huyện được khẳng định trong Hiến pháp
năm 2013 và cũng là nhiệm vụ của hệ thống TAND nói chung. TAND cấp
huyện là cơ quan nhân danh Nhà nước ra các phán quyết ảnh hưởng đến lợi ích
của tổ chức, cá nhân, Nhà nước trong phạm vi thẩm quyền của mình, vì vậy
TAND cấp huyện cần thực hiện tốt chức năng này của mình để lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức được bảo đảm.
Những đặc điểm trên cho thấy Tòa án nói chung, TAND cấp huyện nói
riêng đóng vai trò quan trọng, chủ chốt trong bộ máy Nhà nước ta. Là nơi thể
hiện công lý trong xã hội. Bằng hoạt động của mình, TAND cấp huyện còn góp
phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành pháp luật và tôn
trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh trước các hành
vi vi phạm pháp luật.
1.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân
cấp huyện
1.2.1. Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân cấp huyện
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 11 năm
2013. Hiến pháp năm 2013 quy định nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của TAND, về Thẩm phán, Hội
thẩm, Thư ký Tòa án đã được sửa đổi, bổ sung. Do đó, ngày 24/11/2014, Quốc
hội đã thông qua Luật Tổ chức TAND năm 2014. Luật này đã thể chế hóa các
chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, bảo đảm cụ
thể hóa tinh thần cũng như các quy định của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án.
15
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 nhiều nội dung
quan trọng về cơ cấu tồ chức của TAND về Thẩm phán.
Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên đã được sửa đổi, bồ sung, cụ thể như sau:
Về cơ cấu tổ chức: Điều 3 của Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định
cơ cấu tổ chức TAND bao gồm: TANDTC, TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tương đương và Tòa án quân sự. Như vậy, Tòa án được tổ chức trong
một hệ thống thống nhất là hệ thống TAND, gồm các TAND và các Tòa án
quân sự. Tòa án cấp huyện nằm trong hệ thống TAND. Trong đó, các TAND
được tổ chức gồm 4 cấp theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị
hành chính theo định hướng đã được xác định trong Nghị quyết số 49 - NQ/TW
và Kết luận số 79 - KL/TW của Bộ chính trị. TAND cấp huyện được xác định
là cấp cơ sở ban đầu trong hoạt động xét xử. Việc tổ chức các TAND theo
hướng này là phù hợp với các nguyên tắc về tồ chức của cơ quan thực hiện
quyền tư pháp, đó là tổ chức theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm độc lập xét xử,
góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong cơ cấu tổ chức của Tòa án
hiện nay. Đây cũng là phương thức để nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án trong
Nhà nước pháp quyền XHCN.
Đối với TAND cấp huyện, Luật Tổ chức TAND năm 2014 có những
quy định mới cơ bản so với Luật Tố chức TAND năm 2002, góp phần vào hoàn
thiện hệ thống TAND, gồm:
TAND cấp huyện có thể có các Tòa chuyên trách như Tòa Hình sự, Tòa
Dân sự, Tòa Gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường
hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên
trách khác theo đề nghị của Chánh án TANDTC. Căn cứ quy định này và yêu
cầu thực tế xét xử ở mỗi TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
và tương đương, Chánh án TANDTC quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách,
16
bộ máy giúp việc.
Tòa án nhân dân cấp huyện có vị trí, vai trò, chức năng giống TAND và
hoạt động dựa trên các nguyên tắc Hiến pháp 2013 quy định. Tuy nhiên, về cơ
cấu tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện khác với TAND tối cao, TAND
cấp cao và TAND cấp tỉnh, cụ thể:
- Cơ cấu tổ chức của TAND cấp huyện theo Điều 45 Luật Tổ chức TAND
năm 2014 quy định TAND cấp huyện có Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa,
Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên về thi hành án, công
chức khác và người lao động.
+ Chánh án TAND cấp huyện (Điều 47 Luật tổ chức TAND năm 2014),
do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; nhiệm kỳ của Chánh
án TAND cấp huyện là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Chánh án TAND
có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật tổ chức TAND tối cao và các
văn bản hướng dẫn của TAND tối cao. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của luật tố tụng; giải quyết những việc khác theo quy định của pháp
luật.
+ Phó Chánh án TAND cấp huyện (Điều 48 Luật tổ chức TAND năm
2014) do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; nhiệm kỳ của
Chánh án TAND cấp huyện là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Phó Chánh
án TAND cấp huyện giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của
Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm
Lãnh đạo công tác của Tòa án. Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án
về nhiệm vụ được giao. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật
tố tụng.
+ Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên: Lần đầu tiên trong Luật tổ chức
TAND năm 2014 ghi nhận Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên là một chức danh
tư pháp, đây là một bước tiến mới trong quá trình cải cách tư pháp. Ngoài ra
17
còn quy định rõ về điều kiện, tiêu chuẩn để trở thành Thư ký Tòa án và Thẩm
tra viên. Bên cạnh đó, quy định nhiệm vụ, quyền hạn cũng như chế độ chính
sách của từng ngạch Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên (Điều 92, Điều 93 Luật
Tổ chức TAND năm 2014).
+ Ngoài ra, còn có các công chức khác và người lao động: Ví dụ: Kế
toán, Lưu trữ viên, Lái xe, Nhân viên bảo vệ, Nhân viên phục vụ.
+ Hội thẩm nhân dân không nằm trong Tổ chức của TAND cấp huyện
nhưng lại nằm trong Hoạt động của TAND cấp huyện đó là thành viên Hội
đồng xét xử sơ thẩm. HTND được bầu theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân
đã bầu ra Hội thẩm nhân dân. Nhiệm kỳ của HTND là 05 năm.
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp huyện
Chức năng của TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tồ chức, cá nhân. Khi xét xử vụ án hình sự, Tòa
án có quyền xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố
tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình
chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án; xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các
chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên thu thập, do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác
cung cấp; khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ
sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra,
xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của BLTTHS; yêu cầu
Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có
liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc
bỏ lọt tội phạm. Khi giải quyết việc xử lý vi phạm hành chính, Tòa án có quyền
18
xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công
dân theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Tòa án có quyền ra quyết định hoàn,
miễn, giảm, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp xử lý hành chính do Tòa án áp
dụng và thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Luật xử lý vi phạm
hành chính.
Theo Hiến pháp 2013 và cụ thể hóa bằng Luật tổ chức TAND năm 2014
TAND cấp huyện có thẩm quyền:
Về Thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện nước ta cơ bản đã hoàn
thiện trong việc phân cấp, phân quyền. Quy định hiện nay đã tăng thẩm quyền
cho TAND cấp huyện trong việc xét xử sơ thẩm, không giống trước đây pháp
luật giới hạn thẩm quyền xét xử của sơ thẩm dẫn đến việc xét xử sơ thẩm chủ
yếu ở cấp tỉnh, kéo theo đó là TAND tối cao xét xử phúc thẩm đã bị ách tắc khi
mà lượng án giải quyết quá nhiều, đồng thời với đó là vi phạm tố tụng (kéo dài
thời gian giải quyết) và hàng loạt các vấn đề khác phát sinh như gây khó khăn
cho người dân do đi lại đến Tòa án, mất công mất sức cho việc khiếu kiện, hao
tốn tiền của, gây tâm lý bức xúc cho người dân.
Mặt khác, tại Điều 44 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định TAND
cấp huyện có quyền “Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật và giải quyết
việc khác theo quy định của pháp luật”. Theo quy định của pháp luật hiện hành
TAND cấp huyện được quyền sơ thẩm các vụ việc sau:
+ Tại khoản 1 Điều 268 Bộ luật TTHS quy định thẩm quyền xét xử sở
thẩm của TAND cấp huyện gồm: Vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ một số tội phạm
về an ninh quốc gia, tội phá hoại hòa bình…quy định tại điểm a, b,c và d khoản
1 Điều 168 Bộ luật TTHS.
+ Tại Điều 31 Bộ luật TTHC, quy định thẩm quyền xét xử sở thẩm của
19
TAND cấp huyện gồm: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi
địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy
ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; Khiếu kiện
quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp
huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án đối với công
chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó; Khiếu kiện danh sách
cử tri của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành chính
với Tòa án.
+ Tại Điều 36 Bộ luật TTDS, quy đinh thẩm quyền Tòa án nhân dân cấp
huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau: Tranh
chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ
luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này; Tranh
chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này;
Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này; Yêu cầu về dân
sự quy định tại khoản 1 đến khoản 10 Điều 27 của Bộ luật này; Yêu cầu về
hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 1 đến khoản 11 Điều 29 của Bộ luật
này; Yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều
31 của Bộ luật này; Yêu cầu về lao động quy định tại khoản 1 và khoản 5 Điều
33 của Bộ luật này; Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản
2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư
pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều này. Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt
Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về
20
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi
con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với
công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam
theo quy định của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
+ Tại khoản 1, khoản 2 Điều 44 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định
TAND cấp huyện có quyền: …và giải quyết việc khác theo quy định của pháp
luật. Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật là một quy định mở về
thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện. Căn cứ vào các văn bản quy phạm
pháp luật khác quy định về thẩm quyền giải quyết các việc khác của TAND cấp
huyện, ví dụ như: Ra quyết định thi hành án; ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ,
đình chỉ chấp hành án phạt tù; miễn, giảm thời hạn chấp hành án; kéo dài thời
hạn trục xuất; rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo;
gửi bản án, quyết định được thi hành và quyết định, tài liệu có liên quan cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi hành án hình
sự theo thẩm quyền và nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật thi
hành án hình sự; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình
giải quyết tranh chấp thương mại theo Trọng tài trong Luật trọng tài thương mại
vv…
1.2.3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện
Với tư cách là một trong các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, để thực
hiện vai trò của cơ quan có chức năng xét xử, bảo đảm công lý, tổ chức và hoạt
động của Tòa án phải được tổ chức trên cơ sở những nguyên tắc chung đã được
Hiến pháp ghi nhận như nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân
chủ. Với chức năng riêng của mình so với các cơ quan Nhà nước khác, TAND
còn được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù như:
1.2.3.1. Nguyên tắc tổ chức của Toà án nhân dân cấp huyện
21
* Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán
Hiến pháp năm 1946, “Thẩm phán các TAND đều do Chính phủ bổ
nhiệm” [15, 1946]; Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức
TAND năm 1960, Luật Tổ chức TAND năm 1981 thì “Thẩm phán TANDTC
do Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, Hội đồng Nhà nước cử, Thẩm phán
các TAND khác do cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp bầu và bãi nhiệm”.
Theo Hiến pháp năm 1992 thì “Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Thẩm phán TAND các cấp” [16, 1992].
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật Tổ chức
TAND năm 2002 thì Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TANDTC
theo đề nghị của Chủ tịch nước; Phó Chánh án và Thẩm phán TAND tối cao,
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự Trung ương do Chủ tịch nước bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp do
Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của các hội
đồng tuyển chọn Thẩm phán; Chánh án, Phó Chánh án TAND địa phương do
Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với
thường trực UBND địa phương; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự quân
khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực do Chánh án TANDTC bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
Đến Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì Chủ tịch
nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án các cấp. Việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TANDTC phải được Quốc hội phê
chuẩn. Chánh án TANDTC trình Quốc hội phê chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Thẩm phán TANDTC theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn, giám
sát Thẩm phán quốc gia; căn cứ vào Nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội, Chủ
tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TANDTC. Nhiệm kỳ
của Chánh án TANDTC theo nhiệm kỳ của Quốc hội; nhiệm kỳ của Phó Chánh
22
án TANDTC, Chánh án, Phó Chánh án TAND khác là 05 năm, kể từ ngày được
bổ nhiệm; nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm
lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là
10 năm.
Việc thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán sẽ giúp Nhà nước chọn được
những người có đủ tiêu chuẩn để thực hiện tốt chức năng xét xử của TAND.
Các Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ có điều kiện để tích lũy kinh nghiệm xét xử,
nâng cao ý thức, trách nhiệm cá nhân cũng như tính độc lập trong công tác xét
xử của Thẩm phán.
* Nguyên tắc bầu hoặc cử Hội thẩm
HTND được thực hiện theo chế độ bầu, HTND được thực hiện theo chế
độ cử Hội thẩm nhân dân TAND cấp huyện do HĐND cùng cấp bầu theo sự
giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và do HĐND cùng
cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án TAND cùng cấp sau khi
thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Nhiệm kỳ của
HTND theo nhiệm kỳ của HĐND bầu ra HTND.
* Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ
trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn
Đây là một nguyên tắc đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 103 Hiến pháp
năm 2013. Điều 8 Luật Tổ chức TAND 2014 đã qui định vấn đề này. Theo
nguyên tắc đó, khi xét xử sơ thẩm các vụ án thì trong thành phần Hội đồng xét
xử có sự tham gia của các Hội thẩm nhân dân. Đây là thành phần đại diện cho
nhân dân khi xem xét các khía cạnh của vụ việc, góp phần bảo đảm việc xét xử
có lý và có tình. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ pháp lý, trình độ
chuyên môn cho các Hội thẩm nhân dân thì điều quan trọng, người Hội thẩm
phải là người đại diện, nói được tiếng nói đại diện cho dư luận xã hội tại nơi và
thời điểm xảy ra vụ án. Tinh thần chung của nguyên tắc này là quá trình xét xử
23
của Tòa án có sự tham gia thực hiện bởi một chủ thể không đại diện cho chuyên
môn pháp luật mà đại diện cho nhận thức chung của xã hội - Hội thẩm. Nhà
nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân, nguyên tắc xét xử sơ thầm của TAND có Hội thẩm tham gia khẳng định
tính dân chủ của Nhà nước ta, nhân dân là chủ đất nước, có quyền tham gia
quản lý đất nước bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó tham gia vào hoạt
động xét xử của Tòa án là một hình thức quản lý, giám sát hoạt động xét xử của
Tòa án. Hội thẩm thay mặt nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa
án, bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Việc tham gia của HTND giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà
còn phù họp với nguyện vọng của nhân dân. HTND có đời sống chung trong
cộng đồng, trong tập thể lao động, nên họ hiểu sâu hơn tâm tư nguyện vọng,
nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi được cử hoặc bầu làm Hội
thẩm, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao động sản xuất của cơ quan, đơn
vị mình. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, sự am hiểu về
phong tục tập quán địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những
kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết
đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ.
Đối với việc xét xử theo thủ tục rút gọn thì Hội thẩm không tham gia.
* Nguyên tắc Thấm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật
Nguyên tắc này được quy định tại các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,
1992, 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 1960, 1981, 1992, 2002, 2014. Để
đảm bảo nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 khẳng định:
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm
24
cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm
dưới bất kỳ hình thức nào”.
Xét xử là quá trình áp dụng pháp luật để xử lý, giải quyết các tranh chấp,
hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ pháp luật. Bản chất của hoạt động xét xử
là hoạt động đòi hỏi phải độc lập để đảm bảo công bằng, nếu hoạt động xét xử
không độc lập thì việc xét xử sẽ không khách quan, sự độc lập của Tòa án được
thể hiện qua sự độc lập của Thẩm phán, HTND khi xét xử. Thẩm phán, Hội
thẩm phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để đưa ra quyết định của mình
về từng vấn đề của vụ án, không được tùy tiện hay bằng cảm tính. Để đảm bảo
được sự công bằng, đòi hỏi khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải độc lập,
không bị ràng buộc hay bị chi phối bởi ý kiến của ai; không một cơ quan, tồ
chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm.
1.2.3.2. Nguyên tắc hoạt động của Toà án nhân dân cấp huyện
* Nguyên tắc TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số trừ trường
hợp xét xử theo thủ tục rút gọn
Đây là nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 103 và
được Luật tổ chức TAND năm 2014 cụ thể hóa tại Điều 10. Tòa án xét xử tập
thể và quyết định theo đa số. Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở việc bảo
đảm tính toàn diện, đầy đủ, khách quan của việc nghiên cứu, thẩm vấn, giải
quyết các vụ án về hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, hôn nhân và gia đình,
lao động được bảo đảm tính đúng đắn, công bằng, khách quan của các bản án,
quyết định của Toà án, tránh được tính chủ quan, độc đoán và tùy tiện trong
hoạt động xét xử. Theo nguyên tắc này, việc xét xử các vụ án ở mọi cấp đều do
HĐXX được thành lập theo quy định của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên, để thực
hiện cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả của việc xét xử, bảo đảm cho việc xét
xử nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm, Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp
25
luật khác quy định ngoại lệ cho phép Tòa án xét xử bởi một Thẩm phán trong
trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn.
* Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai
Đây là nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 103 và
được Luật tổ chức TAND năm 2014 cụ thể hóa tại Điều 11.
Nội dung của nguyên tắc Tòa án xét xử công khai này một mặt thể hiện
tính dân chủ, tạo điều kiện cho Nhân dân kiểm tra, giám sát được các hoạt động
của Tòa án, của các chủ thể tiến hành tố tụng, qua đó phát hiện những thiếu sót
hoặc sai lầm trong tiến trình giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà
nước, của công dân theo quy định của pháp luật, mặt khác qua xét xử công khai
còn có tác dụng tuyên truyền pháp luật cho quần chúng nhân dân. Như vậy, có
thể thấy xét xử công khai nhằm đảm bảo cơ chế kiểm tra và giám sát của Nhân
dân đối với hoạt động xét xử, mặt khác góp phần tuyên truyền, giáo dục ý thức
pháp luật cho người dân, thu hút nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm và các vi phạm pháp luật.
Tại các phiên tòa, mọi công dân từ đủ 16 tuổi trở lên có quyền tham dự
phiên tòa. Tuy nhiên, Hiến pháp và các văn bản tố tụng khác như Điều 25 Bộ
luật TTHS năm 2015 quy định về nguyên tắc ngoại lệ của việc xét xử công khai
là xử kín vì những trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước, thuần phong
mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo
yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên
án công khai.
* Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là nguyên tắc mới, căn
cứ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền con người, quyền công dân được quy
định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 13 Luật Tổ chức TAND
năm 2014 đã cụ thể hóa nguyên tắc này. Để thực hiện Nghị quyết của Đảng về
26
cải cách tư pháp: “Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng
tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những
người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án đúng pháp luật có sức
thuyết phục và trong thời hạn quy định”.
Tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử, chất lượng
tranh tụng sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử, chống oan sai, bảo vệ các
quyền con người cơ bản của người bị buộc tội, nhanh chóng xác định sự thật
khách quan của vụ án. Tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
xét xử của Tòa án lần đầu tiên được quy định. Điều này cho thấy quyết tâm của
Đảng và Nhà nước tiếp tục thực hiện tiến trình cải cách tư pháp với mục tiêu
“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa” [8].
* Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người. Đó là quyền
được xác lập tư cách con người trước pháp luật; không bị pháp luật phân biệt
đối xử, quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ
như nhau. Nó được xem xét ở các cấp độ khác nhau. Thứ nhất, quyền bình đắng
trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người. Thứ hai, quyền bình đẳng
trước pháp luật được thể hiện là nhu cầu của một chủ thể tự nhiên với tư cách
là một con người buộc phải có và cần phải có. Thứ ba, người ta thực hiện quyền
binh đẳng đó bằng công cụ pháp luật thông qua việc thể chế hóa và tạo ra cơ
chế bảo vệ khi nó bị xâm phạm. Nói cách khác, quyền bình đẳng trước pháp
luật là sự bao quát gần như toàn bộ các quyền bình đẳng trong mọi lĩnh vực
như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… trong phạm vi điều chỉnh của pháp
luật. Điều này được quyết định bởi thuộc tính, vai trò của pháp luật trong xã
27
hội với tư cách là các quy phạm do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm
bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật là nguyên tắc quan
trọng của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
nó thể hiện nền dân chủ XHCN, khẳng định nước ta các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc này là một
trong những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, được
quy định tại khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa tại Điều
12 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Trong hoạt động xét xử của TAND phải
tuân theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá
nhân, cơ quan, tố chức đều bình đẳng trước pháp luật. Theo nguyên tắc này thì
mọi tội phạm, mọi tranh chấp pháp lý do bất kỳ ai thực hiện đều phải được
TAND xét xử công bằng. Trong những điều kiện hoàn cảnh như nhau mà hành
vi vi phạm pháp luật hoặc tội phạm như nhau, tính chất, mức độ phạm tội như
nhau, hậu quả do tội phạm gây ra như nhau thì Tòa án phải áp dụng các quy
định pháp luật như nhau để giải quyết, xét xử. Mặt khác, khi xét xử TAND phải
bảo đảm sự bình đẳng của mọi người về quyền và nghĩa vụ khi họ tham gia vào
các thủ tục tố tụng do pháp luật tố tụng quy định.
Để nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật được thực hiện
trên thực tế, đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm phải tinh thông về nghiệp vụ, trong
sáng về đạo đức nghề nghiệp, có tinh thần bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, thật sự “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” trong hoạt động xét xử.
* Nguyên tắc hai cấp xét xử (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm)
Xét xử là hoạt động liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của con
người, quyền công dân (quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu, danh dự, nhân
28
phẩm...). Các bản án, quyết định giải quyết vụ, việc về hình sự, dân sự, kinh
doanh - thương mại, hành chính, hôn nhân và gia đình, lao động của Tòa án sơ
thẩm khi ban hành sẽ chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà được ấn định một
thời hạn nhất định cho các đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị. Hết
thời hạn đó mà các chủ thể không kháng cáo, kháng nghị thì bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật, còn nếu bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì
sẽ phải được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Bản án, quyết định của Tòa án
cấp phúc thẩm không thể bị kháng cáo, kháng nghị mà có hiệu lực pháp luật
ngay. Nhằm bảo đảm cho tính nhanh chóng của tố tụng cũng như tránh tình
trạng lạm dụng quyền yêu cầu xét lại của đương sự để kéo dài vụ án, pháp luật
quy định chỉ cho phép đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị một lần
mà thôi. Nội dung phúc thẩm là chỉ xét lại những nội dung do đương sự
kháng cáo và bị giới hạn bởi phạm vi mà bản án sơ thẩm đã giải quyết và
bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay. Giám đốc thẩm và tái
thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục đặc biệt để xem
xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong những
trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định.
Vì vậy, yêu cầu đối với hoạt động xét xử là phải đảm bảo sự công bằng,
khách quan, đúng pháp luật. Thực tế cho thấy rằng hoạt động xét xử là hoạt
động tư duy của con người có thẩm quyền xét xử là Thẩm phán, Hội thẩm, vì
thế có thể có những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án không khách
quan, không đúng pháp luật đòi hỏi phải có sự xem xét lại theo trình tự, thủ tục
phúc thẩm để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”. Quy định này để bảo đảm việc thực hiện
quyền tố tụng của bị cáo và đương sự được xét xử qua hai cấp: cấp xét xử sơ
thẩm và cấp xét xử phúc thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
29
những người tham gia tố tụng, tránh được những sai lầm dẫn đến số lượng án
bị sửa, bị hủy hàng năm của các Tòa án. Đồng thời khi thực hiện chế độ hai cấp
xét xử sơ thẩm và phúc thẩm sẽ đưa thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm về đúng
với bản chất là trình tự xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay có tình tiết mới
làm thay đổi bản chất của vụ việc, chứ không phải là cấp xét xử thứ ba.
* Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Bảo vệ quyền con người là mục tiêu của các Nhà nước dân chủ và tiến
bộ. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả quyền công dân là tiêu chí đánh giá sự văn
minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại. Ngày nay, đất nước ta đang trên đà phát
triển về mọi mặt. Song song với việc phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cũng
chăm lo xây dựng một Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân, xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm cho việc phát triển các
quyền tự do dân chủ của công dân.
Đây là một nguyên tắc Hiến định được quy định tại khoản 7 Điều 103
Hiến pháp 2013 và Điều 14 Luật Tổ chức TAND năm 2014. So với các bản
Hiến pháp trước đây, Hiến pháp mới đã mở rộng phạm vi các đối tượng được
đảm bảo quyền bào chữa, không chỉ bị cáo mới có quyền bào chữa, mà ngay từ
khi bị bắt, đã phát sinh quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc người
khác bào chữa đối với họ: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Quyền bào chữa, được bào chữa cho phép người bị buộc tội có chỗ dựa về pháp
lý, tinh thần, kiến thức, niềm tin để công khai đứng ra bảo vệ mình, chống lại
sự cáo buộc có tội của bên buộc tội. Người bị buộc tội có quyền bào chữa, nhờ
người khác bào chữa hoặc bắt buộc phải có người bào chữa kể từ khi bị tạm
giữ, bị khởi tố về hình sự, tức là từ khi có quyết định khởi tố bị can, trở thành
30
bị can trong vụ án hình sự đến khi bị đưa ra xét xử, trở thành bị cáo.
Mặt khác, ngoài bị can, bị cáo được Tòa án bảo đảm quyền bào chữa thì
đương sự khi cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, có quyền nhờ
người khác, luật sư hay chính mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
và Tòa án phải bảo đảm thực thi quyền này. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
quyền bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của đương sự là một quyền quan trọng
của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo, đương sự.
Việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế đã góp phần không nhỏ vào
việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự; giúp cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án giải quyết vụ án một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
chưa được thực hiện một cách đầy đủ, nhiều cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng vẫn còn xem nhẹ nguyên tắc
này. Tình trạng bắt, giam giữ, xét xử oan sai, vẫn còn tồn tại trên thực tế.
Để thực hiện quyền bào chữa của mình, bị can, bị cáo có thể tự mình bào
chữa hoặc nhờ luật sư, người có đủ điều kiện khác để bào chữa cho mình; đương
sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư, người có đủ điều kiện khác để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho minh. Trong trường hợp cần thiết, mặc dù bị
can, bị cáo không yêu cầu nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải yêu cầu
Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử người bào chữa cho bị
can, bị cáo, cụ thề trong trường hợp bị can, bị cáo có khuyết tật về thể chất và
tinh thần; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt cao nhất là tử
hình; bị can, bị cáo là người vị thành niên phạm tội.
Ngoài những nguyên tắc nêu trên, trong hoạt động của Tòa án còn tuân
theo một số nguyên tắc khác như: Nguyên tắc về dùng tiếng nói, chữ viết trước
Tòa án là tiếng Việt. Tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền
31
dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước TAND, trường hợp này phải
có phiên dịch; nguyên tắc bảo đảm xét xử kịp thời, công bằng để đảm bảo quyền
và lợi ích của công dân.
1.3. Điều kiện đảm bảo tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện
1.3.1. Bảo đảm về chính trị
Cải cách tư pháp mà trọng tâm là đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng phải trên cơ sở thực hiện
quan điểm của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân là tư tưởng xuyên suốt được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng ta nhiều
năm nay. Từ góc độ tổ chức và hoạt động của TAND, Nhà nước pháp quyền
XHCN mang những đặc điểm chính sau đây:
Một là, bảo đảm dân chủ XHCN; tôn trọng và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân. Tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp phải nhằm mục
đích bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con người theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tư pháp là hoạt động giải quyết các tranh chấp trong xã hội,
xử lý các vi phạm pháp luật. Hoạt động đó liên quan trực tiếp đến các quyền và
lợi ích của con người, của công dân. Vì vậy, trong hoạt động Tư pháp, vi phạm
quyền con người, quyền công dân và lợi ích chính đáng có nguy cơ xảy ra rất
cao. Do đó, tổ chức và hoạt động tư pháp, nhất là của Tòa án một mặt phải hiệu
quả, bảo vệ quyền con người, lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân; nhưng trước hết, Tòa án phải là biểu tượng của Công lý, là nơi
công dân gửi gắm niềm tin rằng bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng bị xử lý
nghiêm minh; bất kỳ quyền hoặc lợi ích hợp pháp nào của con người, của công
dân bị xâm phạm đều được bảo vệ theo đúng pháp luật. Do vậy, mỗi khi con
người có tranh chấp và khởi kiện đến toà án thì toà án không được từ chối giải
32
quyết vì bất cứ một lý do gì.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
Quyền lực nhà nước (cũng là quyền lực của nhân dân) là thống nhất,
không thể phân chia. Tuy nhiên, việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp phải được phân công rõ ràng theo chức năng cơ bản của mỗi loại cơ
quan: Quyền lập pháp phải do cơ quan lập pháp - Quốc hội - thực hiện; quyền
hành pháp phải do cơ quan hành pháp - Chính phủ - thực hiện; quyền tư pháp
phải do cơ quan tư pháp - Toà án - thực hiện. Ví dụ, không thể để tình trạng
giao cho cơ quan hành pháp thẩm quyền xét xử, giải quyết tranh chấp, xử lý vi
phạm pháp luật (thuộc chức năng tư pháp) và ngược lại
Bởi vì điều đó trái với nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực của
Nhà nước pháp quyền, dẫn đến tình trạng chồng chéo nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan và vì vậy làm giảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Khi đã có sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước thì không thể thiếu
sự giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực giữa các cơ quan để tránh lạm
quyền. Đây là điểm mới rất quan trọng trong quan điểm xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta. Do đó, việc xây dựng các cơ chế ( giám sát ngoài
hệ thống, giám sát trong từng hệ thống; giám sát Nhà nước và giám sát xã
hội…) để hoạt động giám sát phù hợp với từng loại cơ quan, tránh chồng chéo,
trùng lắp, bảo đảm khách quan, hiệu quả là rất cần thiết. Đối với TAND, do
xuất phát từ chức năng (xét xử, áp dụng pháp luật để xử lý các vi phạm, tranh
chấp pháp luật), tổ chức (theo cấp xét xử, không theo đơn vị hành chính) và các
nguyên tắc hoạt động cơ bản (như nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; nguyên tắc hai cấp xét xử; nguyên tắc Tòa án cấp trên giám đốc hoạt
động xét xử Tòa án cấp dưới)… đòi hỏi cơ chế kiểm soát, giám sát phải có tính
33
đặc thù, đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
Thứ hai, việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta nhằm mục
đích xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, bảo vệ công
lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Làm rõ quyền tư pháp và từ đó xác định cơ quan có chức năng thực hiện
quyền tư pháp là rất quan trọng. Quyền tư pháp là quyền xét xử, tức quyền áp
dụng pháp luật để ra phán quyết về các vi phạm pháp luật và các tranh chấp xảy
ra trong xã hội. Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là cơ quan
xét xử duy nhất của Nhà nước. Vì vậy, xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế
tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực Nhà nước đều phải
thuộc thẩm quyền của Tòa án. Các cơ quan nhà nước khác tham gia vào việc
xử lý, giải quyết đó không phải là cơ quan tư pháp, không có chức năng thực
hiện quyền tư pháp mà các cơ quan này chỉ thực hiện các hoạt động tư pháp.
Từ đó, mở rộng thẩm quyền của TAND cấp huyện trong xét xử các loại vụ án,
giao cho Tòa án bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật là xu thế tất yếu của
Nhà nước pháp quyền. Điều đó thể hiện vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ
thống tư pháp, khẳng định vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt
động tư pháp
1.3.2. Bảo đảm về pháp lý
Một trong những điều kiện để tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện
đạt được hiệu quả cao là các điều kiện đảm bảo về mặt pháp lý. Điều này đã
được thể chế hóa tại Hiến pháp; Luật tổ chức TAND và các quy định khác có
liên quan. Tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “TAND là cơ
quan xét xử của Nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, ngày 12/3/2014, Bộ
Chính trị có Kết luận số 92-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư
34
pháp đến năm 2020. Kết luận yêu cầu: “Tiếp tục thực hiện chủ trương tổ chức
TAND, VKSND theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
TAND được tổ chức 4 cấp như Kết luận số 79-KL/TW, ngày 28/7/2010 của Bộ
Chính trị. Đối với TAND cấp sơ thẩm và VKSND tương ứng, cần tiếp tục
nghiên cứu xây dựng 2 phương án (Phương án 1, tổ chức theo khu vực như Kết
luận số 70-KL/TW; phương án 2, tổ chức TAND sơ thẩm đặt tại các đơn vị
hành chính cấp huyện)” đồng thời yêu cầu tiếp tục nghiên cứu, xác định rõ nội
hàm quyền tư pháp, xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các hoạt động tư pháp. Như vậy, việc cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp về quyền tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND, đã được
đặt lên hàng đầu trong công tác cải cách tư pháp hiện nay.
1.3.3. Bảo đảm về con người
Công tác tổ chức cán bộ của các Tòa án được tập trung vào việc tổ chức
quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa XII về
việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Hoàn thiện các quy định, quy chế về công tác tổ chức, cán bộ của hệ
thống Tòa án làm cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán cấp
huyện có đủ phẩm chất, năng lực theo yêu cầu của nền công vụ tiên tiến, chuyên
nghiệp và hiện đại; bảo đảm cho các TAND cấp huyện sẵn sàng đảm nhận và
hoàn thành tốt những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của thời kỳ hội nhập, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Công tác quy hoạch cán bộ Lãnh đạo, quản lý phải được quan tâm và
thực hiện đúng quy định. Cùng với việc tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng định
kỳ, lãnh đạo TANDTC luôn khuyến khích cán bộ, công chức trong toàn hệ
thống tự học tập, trau rồi để nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là việc tự
học thông qua hoạt động rút kinh nghiệm công tác xét xử. Cùng với việc chú
35
trọng đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, công tác giáo dục chính trị
tư tưởng và rèn luyện phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức Tòa
án các cấp cũng phải được quan tâm thường xuyên, kịp thời.
Việc tổ chức thi tuyển cán bộ công chức và đội ngũ Thẩm phán, đặc biệt
nguồn thẩm phán của Tòa án cấp huyện phải được thực hiện nghiêm túc, công
khai, theo hướng mở rộng nguồn, nhằm lựa chọn những người có trình độ, năng
lực tốt nhất để bổ nhiệm, từ đó tạo động lực và mở ra phong trào thi đua học
tập, trau rồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ trong đội ngũ cán bộ, công chức.
1.3.4. Bảo đảm về điều kiện cơ sở vật chất
Trong Nghị quyết 49 ngày 02/6/005 của Bộ chính trị, tại mục 2.7.II của
Nghị quyết có nêu: "Đảm bảo cơ sở vật chất cho ngành tư pháp, ưu tiên trang
thiết bị phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng chống tội phạm, công tác
xét xử. Khẩn trương trong một vài năm xây dựng xong trụ sở làm việc các cơ
quan tư pháp cấp huyện".
Để TAND các cấp mà trọng tâm là TAND cấp huyện thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao theo yêu cầu cải cách tư pháp, có đủ điều kiện để Tòa án trở thành
biểu tượng của công lý, lẽ phải và niềm tin như mong đợi của nhân dân, phù
hợp với xu thế phát triển của đất nước, việc bảo đảm về điều kiện cơ sở vật chất
như trụ sở làm việc, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác xét xử phải được
quan tâm chú trọng đầu tư.
Tiểu kết chương 1
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND
nói chung và TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh nói riêng trong điều kiện cải
cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận sau: Quyền Tư pháp là một
trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền lực Nhà nước, trong đó Tòa án
là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa án là cơ quan được thành lập để
36
thực hiện chức năng xét xử.
Ở nước ta, hệ thống TAND được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh
thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết các việc khác theo
quy định của pháp luật. Luật tổ chức TAND 2014 quy định rõ điều kiện, tiêu
chuẩn về các chức danh tư pháp và thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp
huyện.
Tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện phải tuân thủ các nguyên tắc
chung được Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định.
Tổ chức và hoạt động của TAND cấp tỉnh chịu sự tác động của nhiều
yếu tố như: Pháp luật, kinh tế - xã hội, số lượng, chất lượng đội ngũ công chức,
điều kiện vật chất, chế độ, chính sách đối với công chức, người lao động.
37
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, độ cao trung bình 400
- 800 mét so với mặt nước biển, nằm cách Hà Nội 1.410 km và cách Thành phố
Hồ Chí Minh 350 km.
Đắk Lắk là tỉnh miền núi Tây Nguyên có diện tích tự nhiên 1.303.049
ha; Có vị trí địa lý: Phía bắc giáp tỉnh Gia Lai; Phía đông giáp các tỉnh Phú
Yên, Khánh Hoà; Phía nam giáp các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông; Phía tây giáp
tỉnh với tỉnh Mondulkiri - Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài
73km.
Đặc điểm địa hình: Có hướng thấp dần từ đông nam sang tây bắc: nằm ở
phía tây và cuối dãy Trường Sơn, là một cao nguyên rộng lớn, địa hình dốc
thoải, khá bằng phẳng xen kẽ với các đồng bằng thấp ven các dòng sông chính
như hệ thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, có diện tích 13.125,37
km2. Độ cao trung bình 400 – 800 mét so với mặt nước biển, cao nhất là đỉnh
núi Chư Yang Sin có độ cao 2442 m so với mực nước biển, đây cũng chính là
đỉnh núi cao nhất ở Đắk Lắk.
Dân số ước tính hơn 1,9 triệu người; có 15 đơn vị hành chính cấp huyện
(trong đó có 01 thành phố, 01 Thị xã và 13 huyện); 184 đơn vị xã, phường, thị
trấn (gồm: 20 phường, 12 thị trấn và 152 xã); 2.481 thôn, buôn, tổ dân phố
(gồm: 1.559 thôn, 599 buôn, 323 tổ dân phố); Cộng đồng dân cư Đắk Lắk gồm
47 dân tộc. Người Kinh chiếm trên 70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông,
38
Thái, Tày, Nùng... chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh. Mỗi dân tộc có những nét
đẹp văn hoá riêng. Đặc biệt là văn hoá truyền thống của các dân tộc bản địa Ê
Đê, M'Nông, Gia Rai... với lễ hội cồng chiêng, đua voi; kiến trúc nhà sàn, nhà
rông; các bản sử thi, trường ca là những sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật
thể quý giá, trong đó “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đã được
tổ chức UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật
thể của nhân loại.
Đắk Lắk có bề mặt khá bằng phẳng, khí hậu ôn hòa, tài nguyên nước,
khoáng sản phong phú, nếu khai thác hợp lý, có thể cung cấp nguồn tài nguyên
đa dạng cho phát triển cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Diện tích đất
nông nghiệp khá lớn, chất đất tốt, khí hậu phù hợp với việc trồng các loại cây
công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, tiêu, điều và cây ăn trái. Các ngành
công nghiệp khai khoáng, chế biến nông, lâm sản có điều kiện phát triển thuận
lợi. Vị thế trung tâm vùng thuận lợi cho phát triển các cơ sở dịch vụ cho cả
vùng Tây Nguyên. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích và sản phẩm cà phê xuất khẩu
lớn nhất cả nước, với diện tích 182.343 ha và sản lượng thu hoạch hàng năm
đạt trên 400.000 tấn, chiếm 40% sản lượng cả nước. Tỉnh cũng là nơi trồng
bông, ca cao, cao su, điều lớn của Việt Nam. Đồng thời, là nơi phát triển các
loại cây ăn quả khác như bơ, sầu riêng, chôm chôm, xoài.... Tuy nhiên, nền kinh
tế phát triển nhanh ồ ạt kéo theo đó là tội phạm có chiều hướng gia tăng, phức
tạp, sự mâu thuẫn trong quyền lợi của người bị thu hồi đất với bên đền bù và
tình trạng sai phạm của chính quyền địa phương trong việc thu hồi đất của
người dân để phục vụ hoạt động phát triển kinh tế của địa phương dẫn đến tình
trạng khiếu kiện hành chính ngày càng nhiều ở các địa phương trên địa bàn
tỉnh. Điều này tạo nên áp lực lớn cho các Tòa án địa phương trong quá trình thụ
lý và giải quyết vì số lượng vụ án ngày càng tăng lên, đội ngũ cán bộ, biên chế
không tăng mà còn phải tinh giảm biên chế. Thêm vào đó, tình trạng bất hợp
39
tác với Tòa án của một số UBND và Chủ tịch UBND vẫn còn.
Nền kinh tế nước ta hiện nay với nhiều loại hình kinh tế khác nhau đặc
biệt là kinh tế tư nhân đã được nhà nước công nhận và ngày càng phát triển vì
vậy các hoạt động giao dịch dân sự ngày càng nhiều, ồ ạt dẫn đến tình các tranh
chấp dân sự nhiều hơn nên số lượng các vụ án dân sự tăng nhanh số lượng và
tính chất phức tạp ngày càng tăng gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải
quyết các vụ, việc dân sự.
Mặt khác, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tiếp tục gia tăng
kéo theo nhiều người lao động mất việc làm dẫn đến các tội phạm về tệ nạn xã
hội kéo theo như: Ma túy, mại dâm, cướp giật, trộm cắp tài sản, cố ý gây thương
tích, đánh bạc vv… ngày càng tăng nhanh về số lượng cũng như tính chất phức
tạp của vụ án. Kinh tế phát triển, xã hội phát triển nhưng bị phụ thuộc vào kinh
tế nhiều hơn, con người chạy theo các giá trị vật chất, bỏ qua các giá trị truyền
thống, hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng nên quan niệm, tư tưởng cũng ảnh
hưởng phần nào của nước ngoài. Bên cạnh những giá trị tinh thần tốt đẹp thì
những điều tiêu cực, các văn hóa phẩm đồ trụy xuất hiện trên mạng internet,
các phim về bạo lực, tình dục trên mạng xã hội đã phần nào ảnh hưởng đến giới
trẻ về mặt tâm lý, tư tưởng nên các loại tội phạm về hiếp dâm, cố ý gây thương
tích ngày một gia tăng, đối tượng phạm tội ngày một trẻ hóa đã ảnh hưởng đến
việc tổ chức xét xử của Tòa án, đòi hỏi các quy định của pháp luật về việc thay
đổi các mô hình Tòa chuyên trách sao cho phù hợp với tình hình tội phạm thực
tế tại địa phương như thành lập Tòa Gia đình và người chưa thành niên.
2.1.2. Hệ thống Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và hệ thống Tòa án nhân dân cấp huyện
được thành lập vào năm 1976. Khi mới thành lập, Tòa án hai cấp gồm có Tòa
án nhân dân tỉnh và 05 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện. Trải qua các đợt chia
tách địa giới hành chính, số đơn vị Tòa án cấp huyện tăng lên 18 đơn vị. Ngày
40
01/01/2004, tỉnh Đắk Lắk được chia tách thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông
theo Nghị Quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội khóa XI.
Theo đó, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk gồm có Tòa án nhân dân tỉnh
và 15 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện. Trên cơ sở quy định của Luật tổ chức
TAND năm 2014, TAND tỉnh Đắk Lắk đã kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức,
rà soát về số lượng cũng như về chất lượng để sắp xếp bố trí cán bộ phù hợp
với năng lực chuyên môn, có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ để đảm bảo
tính kế thừa
2.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Thực tiễn tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk
Về lịch sử hình thành Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk: TAND tỉnh Đắk Lắk được thành lập ngay sau khi giải phóng tỉnh Đắk Lắk
vào tháng 03 năm 1975 để xét xử các vụ án chống đối chính quyền cách mạng,
các vụ án về kinh tế, trật tự và an toàn xã hội góp phần ổn định tình hình an
ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Đến cuối năm 1976,
TAND tỉnh chính thức thành lập. Ngày 01/01/2004 tỉnh Đắk Lắk được chia
tách thành 02 tỉnh là Đắk Lắk và Đắk Nông theo Nghị Quyết số 22/2003/QH11
ngày 26/11/2003 của Quốc hội khóa XI - kỳ họp thứ 4. Hiện nay, hệ thống
TAND của tỉnh Đắk Lắk có TAND cấp tỉnh và 15 TAND cấp huyện.
Căn cứ Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức TAND năm 2014,
TANDTC đã ban hành một số văn bản liên quan đến tổ chức và hoạt động của
TAND tỉnh Đăk Lắk như: Quyết định số 345/QĐ-CA, ngày 07/4/2016 Chánh
án TAND tối cao ban hành về việc tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của
các đơn vị trong bộ máy giúp việc của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (QĐ 345/QĐ-CA);
41
Quyết định số 1865/QĐ-TANDTC ngày 15/10/2018 của TAND tối cao về việc
tổ chức Tòa chuyên trách tại TAND các cấp tỉnh Đắk Lắk ; Quyết định số
2228/QĐ-TCCB ngày 27/12/2018 của TAND tối cao về tổng biên chế và số
lượng Thẩm phán TAND cấp huyện trên địa bàn cấp tỉnh Đắk Lắk với tổng
biên chế của TAND tỉnh Đắk Lắk gồm 294 người, trong đó có 148 Thẩm phán
(Thẩm phán trung cấp có 48 người, Thẩm phán sơ cấp có 99 người), 117 Thư
ký, 30 biên chế khác (kế toán, chuyên viên lưu trữ). Biên chế hiện có tính đến
ngày 01/11/2022 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có 281 biên chế,
trong đó có 45 Thẩm phán trung cấp; 94 Thẩm phán sơ cấp; 114 Thư ký Tòa
án (có 02 Thư ký viên chính); 14 Kế toán, 14 Chuyên viên lưu trữ. Ngoài ra còn
có 06 Lái xe, 15 Nhân viên phục vụ, 15 Nhân viên bảo vệ theo hợp đồng 68 và
hợp đồng ngắn hạn. So sánh biên chế được giao với số biên chế hiện có thì TAND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thiếu 13 biên chế, trong đó thiếu 3 Thẩm
phán trung cấp, 05 Thẩm phán sơ cấp, 03 Thư ký và 02 biên chế khác. Vì vậy
trong quá trình xét xử, giải quyết các vụ việc vẫn còn nhiều khó khăn trở ngại khi
số lượng án ngày càng nhiều, vụ việc có tính chất phức tạp ngày càng tăng. Tuy
nhiên, với tinh thần là Thẩm phán nhân dân mẫu mực, các cán bộ, công chức
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao, hạn chế tình trạng án bị hủy sửa, không để xảy ra tình trạng oan sai.
Về trình độ chuyên môn: Có 97 Thạc sĩ gồm các Thẩm phán, Thư ký Tòa
án và Thẩm tra viên; 150 Cử nhân Luật và Cử nhân Kinh tế, trong đó có có 39
trường hợp đã và đang bảo vệ luận văn Thạc sỹ tại các trường Đại học Kinh tế
luật, Học viện Hành chính Quốc gia; các chức danh khác như kế toán, chuyên
viên lưu trữ đều có trình độ đại học và Cao đẳng. Nhìn chung, trình độ chuyên
môn của cán bộ, công chức TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk đều đạt Cử nhân Luật trở lên, đáp ứng các điều kiện về vị
trí việc làm, không có tình trạng cán bộ, công chức được bố trí sắp xếp công
42
việc không đúng với vị trí việc làm.
Cơ cấu Tổ chức TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk hiện có: Chánh án, Phó Chánh án, Tòa chuyên trách và bộ máy giúp
việc. Các công việc tại TAND huyện do Chánh án huyện trực tiếp điều hành. Chánh
án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực
công tác được phân công.
Về bộ máy lãnh đạo: các TAND huyện đã hoàn thiện về bộ máy lãnh đạo
theo Quyết định số 663/QĐ-TANDTC ngày 12/4/2017 của Chánh án TAND
tối cao quy định về số lượng lãnh đạo, quản lý cấp phó đối với TAND cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Lãnh đạo TAND huyện trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk gồm có Chánh án và Phó Chánh án.
Nhìn chung, các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án TAND
huyện đã đảm bảo cho mọi hoạt động của Tòa án được triển khai thực hiện, quy
định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu trong cơ quan tư pháp.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án trong Bộ luật tố tụng dân sự gần giống
với Bộ luật tố tụng hành chính, khác với Bộ luật tố tụng hình sự, việc pháp luật
quy định như vậy vì đặc thù tính chất của vụ việc (hình sự gắn với quyền con
người phải được đảm bảo).
Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Chánh án TAND huyện pháp luật đã được
quy định đầy đủ. Về bản chất, Phó Chánh án là người giúp việc cho Chánh án
trong quá trình thực hiện công vụ về công tác quản lý cũng như công tác chuyên
môn, ngoài ra Phó Chánh án còn đóng vai trò thay mặt Chánh án thực hiện các
nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án khi Chánh án đi vắng, trừ một số trường
hợp pháp luật quy định Phó Chánh án không được thực hiện thay.
- Lãnh đạo các tòa, phòng:
Gồm có Chánh tòa, phó Chánh tòa; Chánh Văn phòng, Phó Chánh văn
phòng. Đội ngũ làm công tác lãnh đạo của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
43
Đắk Lắk là những người có tinh thần tổ chức kỷ luật cao, có ý thức tự chủ, năng
động và sáng tạo trong công việc, có kiến thức trình độ năng lực thực tiễn, có
tinh thần khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Có tinh thần
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu, tự giác; không quan liêu,
tham nhũng, lãng phí; có tinh thần đoàn kết, hợp tác và phong cách làm việc
khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm; có khả
năng quy tụ và đoàn kết. Giữa lãnh đạo với cán bộ, công chức có mối quan hệ
công tác tốt, bảo đảm phục vụ tốt các nhiệm vụ của cơ quan. Lãnh đạo có bản
lĩnh chính trị vững vàng, là người đi đầu là tấm gương để mọi công chức noi
theo.
- Về Tòa chuyên trách:
Thực hiện theo Quyết định số 1865/QĐ-TANDTC ngày 15/10/2018 của
TAND tối cao về việc tổ chức Tòa chuyên trách tại TAND cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk, mới chỉ có TAND thành phố Buôn Ma Thuột có Tòa chuyên
trách gồm Tòa hình sự và Tòa dân sự với 13 biên chế là 02 Chánh tòa, 02 Phó chánh
tòa 05 Thẩm phán và 04 Thư ký; còn lại 01 TAND thị xã và 13 TAND huyện chưa
có Tòa chuyên trách.
Các tòa chuyên trách thực hiện đầy đủ và đúng các nhiệm vụ, quyền hạn
pháp luật quy định, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Bộ máy giúp việc gồm có:
Văn phòng là bộ máy giúp việc cho TAND huyện thực hiện theo quy
định Luật tổ chức TAND và Quyết định 345/QĐ-CA. Tất cả TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đều đã thành lập văn phòng gồm: Chánh Văn phòng
(Thẩm phán); 01 Phó Chánh Văn phòng (Thẩm phán hoặc Thư ký); các Thư ký
giúp việc (Tùy vào tình hình biên chế của đơn vị sẽ có 02 hoặc 3 Thư ký giúp
việc văn phòng); 01 Kế toán; 01 Lưu trữ viên; Lái xe cơ quan, Nhân viên Bảo
vệ và Nhân viên Phục vụ.
44
Về nhiệm vụ của Văn phòng hiện nay có một số điểm khác với chức
năng, nhiệm vụ Văn phòng trước kia, cụ thể: Trước tháng 9 năm 2017 việc thụ
lý tiếp nhận, thụ lý các đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh do 01 Thẩm phán được lãnh đạo
phân công tiếp nhận và tham mưu cho Lãnh đạo xử lý. Đến ngày 01/9/2017
TAND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 345/QĐ-TAND của Chánh án
TAND tỉnh Đắk Lắk về việc thành lập Văn phòng -Tổ Hành chính Tư pháp và
ban hành kèm theo quyết định là Quy chế hoạt động của Tổ Hành chính Tư
pháp. Việc TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thành lập Tổ Hành
chính Tư pháp - bộ phận một cửa là thực hiện theo chủ trương cải cách tư pháp,
đơn giản hóa thủ tục hành chính tại Tòa án, mọi hoạt động hành chính quy về
một mối để người dân thuận tiện trong quá trình làm việc tại Tòa án, TAND
hai cấp tỉnh Đắk Lắk là một trong những Tòa án đi đầu trong việc cải cách thủ
tục hành chính tại Tòa án, hướng đến cải cách tư pháp.
Tổ Hành chính tư pháp hoạt động như một bộ phận chuyên trách của TAND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, có Tổ trưởng (Thẩm phán- Chánh văn
phòng) và các Tổ viên (Thẩm phán hoặc Thư ký Tòa án) cơ chế hoạt động do
Chánh án trực tiếp quản lý, chỉ đạo hoặc ủy quyền cho một Phó Chánh án phụ
trách quản lý, chỉ đạo.
Nhiệm vụ của Tổ Hành chính tư pháp gồm: Thực hiện tiếp công dân định
kỳ và tham mưu cho lãnh đạo trong công tác tiếp công dân định kỳ; Xử lý và
giải quyết các loại đơn khởi kiện và công văn hành chính tư pháp trong các lĩnh
vực án Dân sự, Hình sự, Hành chính, Kinh tế, Lao động, Hôn nhân gia đình;
Nhận và thụ lý hồ sơ các loại vụ việc Dân sự, Kinh tế, Lao động, Hành chính,
Hình sự, Hôn nhân gia đình; Đề xuất tham mưu cho lãnh đạo TAND huyện
trong việc phân công các Thẩm phán giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền và
lên lịch xét xử các loại vụ án.
45
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị ( Trong đó 01
Tòa thành phố, 01 Tòa Thị xã và 13 Tòa huyện), cụ thể:
- TAND thành phố Buôn Ma Thuột:
+ Về cơ cấu tổ chức: Tòa án Nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột hiện có 51
công chức, người lao động, trong đó có 24 Thẩm phán, 20 Thư ký, 01 kế toán,
01 lưu trữ viên, 05 nhân viên hợp đồng làm công tác phục vụ, lái xe và bảo vệ;
Về trình độ chuyên môn: Toàn bộ cán bộ, công chức trong biên chế đều có trình
độ Đại học, trong đó có 29 đồng chí có trình độ Thạc sĩ và có 06 đồng chí đang
theo học Cao học Luật; Về trình độ lý luận chính trị: 05 đồng chí có trình độ lý
luận chính trị cao cấp, 20 đồng chí có trình độ lý luận chính trị trung cấp.
TAND thành phố Buôn Ma Thuột có 01 Chánh án phụ trách, quản lý
chung và tham gia giải quyết án, 02 Phó Chánh án, 02 Chánh tòa, 02 Phó Chánh
tòa, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh văn phòng.
- TAND thị xã Buôn Hồ:
+ Về cơ cấu tổ chức: Có 14 cán bộ, công chức, người lao động, trong đó
có 07 Thẩm phán, 4 thư ký, 1 kế toán, 1 văn thư, 1 lái xe, 1 tạp vụ; Trình độ
chuyên môn: 03 Thạc sĩ Luật, 08 Cử nhân Luật, 01 Đại học kế toán; Trình độ
lý luận chính trị: 02 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 02 đồng chí trình độ
lý luận trung cấp chính trị, 03 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND thị xã Buôn Hồ có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và tham
gia giải quyết án; 02 Phó Chánh án (01 Phó chánh án đã nghỉ hưu từ ngày
01/9/2022), 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh văn phòng.
- TAND huyện Krông Pắk:
Về cơ cấu tổ chức: TAND huyện Krông Pắk có 21 công chức, người lao
động, trong đó có 11 Thẩm phán, 6 thư ký, 1 kế toán, 1 văn thư, 1 lái xe, 1 tạp
vụ; Trình độ chuyên môn: 07 Thạc sĩ Luật, 10 Cử nhân Luật, 01 Cao đẳng kế
toán, 01 trung cấp văn thư lưu trữ, tạp vụ, lái xe có trình độ văn hoá 12/12;
46
Trình độ lý luận chính trị: 02 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 07 đồng
chí trình độ lý luận trung cấp chính trị, 10 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính
trị.
TAND huyện Krông Pắk có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và
tham gia giải quyết án, 02 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh
văn phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Ea Hleo:
Về cơ cấu tổ chức: TAND huyện Ea Hleo có 23 công chức, người lao
động, trong đó có 09 Thẩm phán, 09 Thư ký, 1 kế toán, 1 văn thư, 1 lái xe, 01
bảo vệ và 1 tạp vụ; Trình độ chuyên môn: 05 Thạc sĩ Luật, 16 Cử nhân Luật;
Trình độ lý luận chính trị: 02 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 05 đồng
chí trình độ lý luận trung cấp chính trị, 11 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính
trị.
TAND huyện Ea Hleo có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và tham
gia giải quyết án, 02 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh văn
phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar:
Về cơ cấu tổ chức: Có 19 công chức, người lao động, trong đó có 10
Thẩm phán, 06 Thư ký, 1 văn thư, 01 bảo vệ và 1 tạp vụ; Trình độ chuyên môn:
05 Thạc sĩ Luật, 10 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận chính trị: 02 đồng chí có
trình độ cao cấp chính trị; 04 đồng chí trình độ lý luận trung cấp chính trị, 10
đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Cư Mgar có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và tham
gia giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh văn
phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Krông Năng:
Về cơ cấu tổ chức: Có 22 công chức, người lao động, trong đó có 08
47
Thẩm phán, 09 Thư ký, 01 kế toán, 01 văn thư, 01 bảo vệ, 01 lái xe và 01 tạp
vụ; Trình độ chuyên môn: 09 Thạc sĩ Luật, 07 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận
chính trị: 03 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 05 đồng chí trình độ lý luận
trung cấp chính trị, 09 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Krông Năng có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và
tham gia giải quyết án, 02 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh
văn phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Ea Kar:
Về cơ cấu tổ chức: Có 18 công chức, người lao động, trong đó có 06
Thẩm phán, 06 Thư ký, 01 kế toán, 01 văn thư, 01 bảo vệ và 1 tạp vụ; Trình độ
chuyên môn: 12 Thạc sĩ Luật, 02 Cử nhân; Trình độ lý luận chính trị: 02 đồng
chí có trình độ cao cấp chính trị; 04 đồng chí trình độ lý luận trung cấp chính
trị, 06 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Ea Kar có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và tham
gia giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh văn
phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Krông Buk:
Về cơ cấu tổ chức: Có 14 công chức, người lao động, trong đó có 06
Thẩm phán, 03 Thư ký, 1 kế toán, 1 văn thư, 1 lái xe, 01 bảo vệ và 1 tạp vụ;
Trình độ chuyên môn: 05 Thạc sĩ Luật, 06 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận chính
trị: 02 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 05 đồng chí trình độ lý luận trung
cấp chính trị, 11 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Krông Búk có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và
tham gia giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin:
Về cơ cấu tổ chức: Có 10 công chức, người lao động, trong đó có 04
Thẩm phán, 02 Thư ký, 1 kế toán, 1 văn thư, 01 bảo vệ và 1 tạp vụ; Trình độ
48
chuyên môn: 02 Thạc sĩ Luật, 04 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận chính trị: 01
đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 03 đồng chí trình độ lý luận trung cấp
chính trị, 02 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Cư Kuin có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và tham
gia giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh văn
phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Ea Súp:
Về cơ cấu tổ chức: Có 14 công chức, người lao động, trong đó có 06
Thẩm phán, 04 Thư ký, 01 kế toán, 01 văn thư, 01 bảo vệ, 01 lái xe và 01 tạp
vụ; Trình độ chuyên môn: 02 Thạc sĩ Luật, 09 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận
chính trị: 01 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 05 đồng chí trình độ lý luận
trung cấp chính trị, 04 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Ea Súp có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và tham
gia giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh văn
phòng.
- Tòa án nhân dân huyện M Drắk:
Về cơ cấu tổ chức: Có 11 công chức, người lao động, trong đó có 04
Thẩm phán, 03 Thư ký, 01 văn thư, 01 bảo vệ, 01 lái xe và 01 tạp vụ; Trình độ
chuyên môn: 02 Thạc sĩ Luật, 05 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận chính trị: 01
đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 03 đồng chí trình độ lý luận trung cấp
chính trị, 03 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện M Drắk có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và tham
gia giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Krông Ana:
Về cơ cấu tổ chức: Có 15 công chức, người lao động, trong đó có 05
Thẩm phán, 06 Thư ký, 1 kế toán, 1 văn thư, 01 bảo vệ và 1 tạp vụ; Trình độ
chuyên môn: 05 Thạc sỹ Luật, 06 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận chính trị: 01
49
đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 04 đồng chí trình độ lý luận trung cấp
chính trị, 06 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Krông Ana có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và
tham gia giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh
văn phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Lắk
Về cơ cấu tổ chức: Có 11 công chức, người lao động, trong đó có 04
Thẩm phán, 03 Thư ký, 1 kế toán, 1 văn thư, 01 bảo vệ và 1 tạp vụ; Trình độ
chuyên môn: 04 Thạc sĩ Luật, 03 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận chính trị: 01
đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 03 đồng chí trình độ lý luận trung cấp
chính trị, 03 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Lắk có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và tham gia
giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Krông Bông:
Về cơ cấu tổ chức: Có 13 công chức, người lao động, trong đó có 04
Thẩm phán, 05 Thư ký, 1 kế toán, 1 văn thư, 01 bảo vệ và 1 tạp vụ; Trình độ
chuyên môn: 05 Thạc sĩ Luật, 04 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận chính trị: 01
đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 03 đồng chí trình độ lý luận trung cấp
chính trị, 06 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Krông Bông có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và
tham gia giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng, 01 Phó chánh
văn phòng.
- Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn:
Về cơ cấu tổ chức: Có 12 công chức, người lao động, trong đó có 04
Thẩm phán, 04 Thư ký, 01 kế toán, 01 văn thư, 01 bảo vệ và 01 tạp vụ; Trình
độ chuyên môn: 04 Thạc sĩ Luật, 08 Cử nhân Luật; Trình độ lý luận chính trị:
01 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị; 02 đồng chí trình độ lý luận trung cấp
50
chính trị, 05 đồng chí trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
TAND huyện Buôn Đôn có 01 Chánh án phụ trách, quản lý chung và
tham gia giải quyết án, 01 Phó Chánh án, 01 Chánh văn phòng.
Ngoài ra TAND cấp huyện còn có tổ chức cơ sở Đảng và đoàn thể của
từng đơn vị.
Nhìn chung, cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân các huyện trên địa bàn đều
có một Chánh án và một Phó chánh án, riêng Tòa án nhân dân thành phố Buôn
Ma Thuột, TAND huyện Ea Hleo, TAND huyện Krông và TAND huyện Krông
Pắk có hai Phó chánh án. Hầu hết các chức danh Lãnh đạo Tòa án cấp huyện
đều là Thẩm phán Trung cấp, một số là Thẩm phán cao cấp và chỉ một số vị trí
do chưa đủ số lượng án hoặc chưa đủ thời gian trong thời gian giữ chức vụ nên
chưa đủ điều kiện để bổ nhiệm theo chức danh. Về trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và lý luận chính trị của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện 100% có
trình độ cử nhân luật; 80% Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện có trình độ
cử nhân chính trị hoặc cao cấp lý luận chính trị. Về phẩm chất đạo đức, 100%
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam,
đa số đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ,
Đảng viên theo quy định. 15/15 đơn vị đã thành lập Văn phòng theo quy định,
các phòng đã thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ theo quy định, đó là thực
hiện công tác văn thư, lưu trữ, quản lý con dấu của đơn vị. Thực hiện công tác
hành chính quản trị, kế toán tài chính của Tòa án nhân dân cấp huyện. Giúp
Chánh án trong việc quản lý công sản, cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện. Thực hiện việc tiếp nhận, thụ lý các
đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân cấp huyện; thực hiện công tác tiếp công dân theo quy định của pháp luật.
Tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc phân công các
Thẩm phán giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền. Tham mưu cho Chánh án
51
Tòa án nhân dân cấp huyện trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tố tụng. Thực hiện công tác tổng hợp, thống kê tình hình hoạt động
của Tòa án nhân dân cấp huyện. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện
xây dựng các báo cáo công tác của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc quyền
quản lý để báo cáo Tòa án nhân dân cấp trên, Hội đồng nhân dân cấp huyện và
các cơ quan hữu quan khác. Làm đầu mối thực hiện việc rà soát, tra cứu, xác
minh, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư
pháp. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện quản lý, tổ chức áp dụng
thống nhất các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Tham mưu giúp Chánh
án Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc xây dựng, khai thác, duy trì và phát
triển Trang thông tin điện tử. Thực hiện các công việc khác theo sự phân công
của Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện; Đối với Hội thẩm nhân dân, đều là
những đại diện ưu tú được lựu chọn đúng thành phần và được bầu đúng theo
quy định, đáp ứng các tiêu chuẩn luật định. Tòa án nhân dân cấp huyện hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách do
Chánh án trực tiếp điều hành. Chánh án, Phó Chánh án chịu trách nhiệm cá
nhân về lĩnh vực công tác được phân công. Chánh án TAND là người đứng đầu
cơ quan, chịu trách nhiệm quản lý, điều hành chung, hoạt động theo chức năng
quy định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014. Phó Chánh án giúp việc cho Chánh
án trên cơ sở sự phân công của Chánh án. Phó Chánh án theo dõi, điều hành
một số lĩnh vực công tác được phân công phụ trách và chịu trách nhiệm trước
Chánh án về những hoạt động thuộc phạm vi của mình quản lý. Xác định mục
tiêu trọng tâm là kiện toàn cơ cấu tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ có chất
lượng nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các loại án nên trong những năm
gần đây, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk luôn quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức trong các đơn vị cấp
huyện, nhất là đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ,
52
Thẩm phán tham gia các lớp đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp trong tình hình
mới. Nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho việc hội nhập về pháp
luật và tư pháp ngày càng sâu rộng, trong thời gian qua công tác đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức Tòa án được
lãnh đạo đặc biệt chú trọng và quan tâm; đổi mới mạnh mẽ theo hướng thực
chất và hiệu quả, tăng mạnh về số lượng và đối tượng được tham gia đào tạo.
Trong năm 2021, cán bộ công chức có chức danh tư pháp đều tham gia các lớp
bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức. Bên cạnh
đó, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19, các đơn vị đã linh hoạt ứng dụng
công nghệ thông tin, học tập, thi cử, tập huấn, tọa đàm... dưới hình thức trực
tuyến do các đơn vị đào tạo tổ chức.
Ngoài ra, TAND tỉnh cũng đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho Hội thẩm
nhân dân cấp huyện về nghiệp vụ xét xử và những điểm mới của các Bộ luật
Hình sự, Bộ luật dân sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng
hành chính… nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán,
Thẩm tra viên, Thư ký và Hội thẩm nhân dân. Bên cạnh đó, các TAND cấp
huyện đã phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tổ chức tổng cộng 198 phiên tòa
rút kinh nghiệm, qua đó giúp các Thẩm phán, HTND, Thư ký đề cao tinh thần
trách nhiệm trong chuẩn bị xét xử, bổ sung thêm kinh nghiệm tổ chức phiên
tòa.
Hiện nay, tổ chức bộ máy của hệ thống Tòa án nhân dân cấp huyện tiếp
tục được hoàn thiện, củng cố, đáp ứng yêu cầu công tác chỉ đạo, điều hành của
các đơn vị. Cụ thể, có 32 cán bộ, công chức được điều động; thuyên chuyển 01
công chức; gia hạn biệt phái đối với 05 công chức. Với cơ cấu tổ chức đảm bảo
đúng quy định pháp luật, cùng với những điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết
bị hoạt động ngày càng được nâng lên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án
53
nhân dân cấp huyện trên địa bàn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần
giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương. Bên
cạnh những thuận lợi, cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
hiện nay cũng gặp không ít khó khăn, bất cập như số lượng cán bộ, công chức,
nhất là lực lượng Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên mà Tòa án nhân dân tối
cao phân bổ hàng năm cho các đơn vị quá ít trong khi tình hình số lượng các
loại án tăng lên, tính chất ngày càng phức tạp đã tạo áp lực lớn cho đơn vị trong
việc đảm bảo tiến độ xét xử của Hệ thống Tòa án, ảnh hưởng đến công tác bồi
dưỡng, đào tạo, quy hoạch cán bộ. Qua nghiên cứu cơ cấu tổ chức, hoạt động
của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có thể rút ra một số
nhận xét sau đây: Một là, về cơ cấu tổ chức đảm bảo theo quy định của Hiến
pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Hầu hết các đơn vị đều có
đầy đủ các chức danh quản lý, chức danh tố tụng và bộ máy giúp việc đảm bảo
cho Tòa án nhân dân cấp huyện hoạt động độc lập và có hiệu quả. Hai là, về
chất lượng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ công chức Tòa án nhân dân cấp huyện
đều có trình độ đại học trở lên và thường xuyên được sự quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, từng bước đáp ứng yêu
cầu công tác trong giai đoạn hiện nay. Ba là, so với yêu cầu nhiệm vụ thì số
lượng biên chế của Tòa án nhân dân tối cao phân bổ cho TAND cấp huyện trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay vẫn còn thiếu, nhất là số lượng Thẩm phán sơ
cấp và Thư ký.
Đội ngũ công chức tại các TAND cấp huyện tương đối đồng đều về trình
độ chuyên môn. Kể từ năm 2005, TAND tỉnh Đắk Lắk có chủ trương ưu tiên
tuyển dụng cán bộ công chức làm công tác chuyên môn có trình độ cử nhân
Luật chính quy, có bằng tốt nghiệp từ loại khá trở lên. Đối với các cử nhân tốt
nghiệp loại giỏi, có thành tích xuất sắc sẽ được xét tuyển thẳng. Bởi vậy, hầu
hết đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên trên toàn tỉnh hiện nay có trình
54
độ cử nhân luật chính quy. Số công chức có trình độ thạc sĩ Luật tính đến hết
năm 2022 là 97 người, chiếm tỷ lệ 35% trên tổng số cán bộ công chức trong
toàn tỉnh. Trình độ chuyên môn ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu cầu phục
vụ công tác tại các đơn vị. Công tác luân chuyển, điều động, biệt phái nhằm
nâng cao năng lực của cán bộ, công chức cũng như phù hợp với tình hình của
từng TAND cấp huyện được thực hiện hiệu quả. Trong 5 năm từ năm 2018 đến
năm 2022 các TAND cấp huyện đều có công chức được luân chuyển, điều
động, biệt phái, cũng như có sự bổ nhiệm mới chức danh lãnh đạo Chánh án,
Phó Chánh án trong trường hợp bị khuyết để kịp thời phục vụ yêu cầu công tác
tại đơn vị. Hầu hết Chánh án các TAND cấp huyện đều là thành viên của Ban
thường trực huyện ủy. Số lượng công chức được phân bổ tại TAND cấp huyện
được dựa trên số lượng án mà từng đơn vị phải giải quyết hàng năm, TAND
thành phố Buôn Ma Thuột thường xuyên là đơn vị có số lượng vụ việc hàng
năm phải giải quyết cao nhất tỉnh. Vì vậy, số lượng nhân sự ở đơn vị này cũng
cao nhất tỉnh. TAND các huyện còn lại đều có tỷ lệ án tương đương với nhau.
Các đơn vị đều được sắp xếp biên chế đầy đủ các chức vụ, chức danh như
Chánh án, Phó chánh án cũng như các vị trí khác gồm Thẩm phán, Thư ký Tòa
án, kế toán, văn phòng.
Bảng 2.1. Số lượng cán bộ công chức tại các Tòa án cấp huyện
ĐVT: người
55
350
300
250
200
150
100
50
0
2018
2019
2020
2021
2022
Tổng số Thư ký
Tổng số cán bộ công chức
Tổng số Thẩm phán
(Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk 2018-2022)
Qua số liệu báo cáo của TAND tỉnh Đắk Lắk từ năm 2018 đến năm 2022
thì thấy số lượng cán bộ, công chức hàng năm có chuyển biến giảm. Nguyên
nhân dẫn đến việc giảm biên chế là do ngành Tòa án thực hiện Nghị quyết
39NQ/TW của Bộ chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức; Kết luận số 17 - KL/TW ngày 11/9/2017 của Bộ Chính
trị về tình hình thực hiện biên chế, tinh giản biên chế, tinh giản biên chế của
các tổ chức trong hệ thống chính trị năm 2015 -2016, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp giai đoạn 2017 - 2021. Năm 2019, do có sự giảm biên chế tự nhiên (nghỉ
hưu, chuyển công tác) nên TAND tỉnh Đắk Lắk thực hiện tuyển dụng biên chế
mới nhưng vẫn đảm bảo lộ trình giảm biên chế theo kế hoạch đã đề ra.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương 6 về “Tiếp tục cải cách tổ chức
bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Ban cán
sự Đảng TANDTC đã nghiên cứu, xây dựng đề án tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của TAND bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả nhằm
bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới. Đề án đưa ra các tiêu chí
56
sáp nhập và căn cứ tình hình thực tế để điều chỉnh. Theo đó, đề nghị sáp nhập
đối với Tòa án cấp huyện có dưới 10 biên chế, số lượng án dưới 200 vụ,
việc/năm và có địa bàn kế tiếp nhau, giao thông thuận lợi… Đây là một trong
những bước tiến trong công tác cải cách hành chính ngành Tòa án. Thực tiễn
15 TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
đều có số lượng án trên 200 vụ/ 01 năm. Vì vậy không có huyện nào phải thực
hiện việc sát nhập địa bàn. Tuy nhiên, do số lượng biên chế giảm, lượng án
hàng năm tại địa bàn các huyện đều tăng nên trước yêu cầu tinh giản biên chế
hiện nay đối với ngành Tòa án là chưa phù hợp. Điều này đã gây áp lực đối với
các Thẩm phán trong quá trình giải quyết án, ngoài việc phải giải quyết một
lượng án vượt quá quy định (15 vụ/tháng) còn phải chú trọng đến thời hạn tố
tụng của vụ án dẫn đến không có thời gian nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cũng như các sai sót trong quá trình giải quyết án.
Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ được lãnh đạo TAND tỉnh xác định
có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Hàng
năm đơn vị đều lựa chọn sắp xếp để cử cán bộ đi đào tạo các chức danh chuyên
môn như đào tạo nghiệp vụ thư ký, thẩm tra viên, thẩm phán… Ngoài ra, TAND
tỉnh cũng tổ chức tập huấn chuyên sâu cho các Thẩm tra viên, Thư ký, Thẩm
phán, đặc biệt là cán bộ cấp huyện về các Bộ luật, Luật mới, các nghị quyết của
Hội đồng Thẩm phánTANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật, tập huấn về kỹ
năng viết bản án… Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục
truyền thống để mỗi Thẩn phán phải thấm nhuần lời dạy của Bác về “Phụng
công, thủ pháp, chí công, vô tư”, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khoán XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “Tự diễn
biến” “ Tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Trên cơ sở quy định mới của Luật tổ chức TAND năm 2014, Thẩm phán
57
trung cấp được bổ nhiệm và xây dựng trên cơ sở nguồn là Thẩm phán sơ cấp
hoặc các chức danh khác đã có thời gian giữ một số chức vụ theo quy định đã
đạt kết quả qua các kỳ thi Thẩm phán trung cấp. Thẩm phán trung cấp không
chỉ xét xử các vụ án tại TAND cấp tỉnh mà mỗi huyện có ít nhất 1 Thẩm phán
trung cấp. Việc quy định xem xét để bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp từ TAND
cấp huyện giúp cho việc xây dựng nguồn Thẩm phán cấp tỉnh được thực hiện
kế thừa. Trên cơ sở đó, Tòa án cấp tỉnh có những kế hoạch đào tạo dài hạn, tạo
điều kiện cho cán bộ công chức học tập, phấn đấu, cọ xát với thực tế từ cấp cơ
sở để trau rồi kinh nghiệm cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Công tác đào tạo các lớp nghiệp vụ xét xử, đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra
viên, Thẩm tra viên chính, Thư ký, Thư ký chính thực sự phát huy hiệu quả
trong việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Kể từ năm 2018 đến 2022,
số lượng Thư ký, Thẩm tra viên được cử đi đào tạo nghiệp vụ xét xử để tạo
nguồn bổ nhiệm Thẩm phán đã được chú trọng. Tỉnh Đắk Lắk không có tình
trạng thiếu nguồn bổ nhiệm Thẩm phán hoặc nguồn bổ nhiệm không đạt tiêu
chuẩn theo quy định tại Luật tổ chức TAND. Phương pháp đào tạo tập trung
với thời hạn 06 tháng tại Học viện Tòa án đã tạo điều kiện cán bộ ngành Tòa
án tập trung nghiên cứu, tổng hợp kiến thức đồng thời có thời gian học hỏi kinh
nghiệm từ đồng nghiệp. Kể từ năm 2018, ngành TAND đã thực hiện tập huấn
trực tuyến trong toàn ngành tòa án để giải đáp những vướng mắc trong quá trình
giải quyết án tại các Tòa án, đồng thời triển khai, cập nhật kịp thời các nội dung
văn bản luật mới tạo điều kiện thống nhất áp dụng pháp luật khi giải quyết
2.2.2. Thực tiễn hoạt động Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk
2.2.2.1. Ban hành các văn bản hướng dẫn trong các hoạt động xét xử
Các TAND cấp huyện hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách do Chánh án trực tiếp điều hành. Chánh án, Phó
58
Chánh án chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực công tác được phân công.
Trong đó Chánh án TAND cấp huyện là người đứng đầu cơ quan, chịu
trách nhiệm quản lý, điều hành chung, hoạt động theo chức năng quy định tại
Luật tổ chức TAND và Quyết định số 1138/QĐ - TCCB, ngày 22/8/2008 của
Chánh án TANDTC về phân cấp quản lý cán bộ TAND địa phương. Phó Chánh
án giúp việc cho Chánh án trên cơ sở sự phân công của Chánh án. Phó
Chánh án theo dõi, điều hành một số lĩnh vực công tác được phân công
phụ trách và chịu trách nhiệm trước Chánh án về những hoạt động thuộc phạm
vi của mình quản lý. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án, các
Thẩm phán, các Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động được quy
định cụ thể trong Luật tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, BLTTHS năm 2015 và các văn bản
quy phạm pháp luật do TANDTC ban hành cũng như quy định trong Quy chế
làm việc của từng đơn vị phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương.
Thẩm quyền, nhiệm vụ của Tòa án các cấp đã được quy định rõ trong
các Bộ luật tố tụng hình sự, dân sự, hành chính. Thông qua báo cáo tổng kết
công tác năm của TAND tỉnh Đắk Lắk từ năm 2018 đến năm 2022 số lượng
các vụ án mà TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk phải thụ lý và giải
quyết cụ thể như sau:
Năm 2018: Thụ lý 9.903 vụ, việc; giải quyết 9.192 vụ, việc. Đạt tỷ lệ 93% .
Năm 2019: Thụ lý 12.532 vụ, việc; giải quyết 11.467 vụ, việc. Đạt tỷ lệ 92%
Năm 2020: Thụ lý 11.001 vụ, việc; giải quyết 11.893 vụ, việc. Đạt tỷ lệ 92%.
Năm 2021: Thụ lý 14.051 vụ, việc; giải quyết 12.280 vụ, việc. Đạt tỷ lệ 87%.
Năm 2022: Thụ lý 13.048 vụ, việc; giải quyết 11.469 vụ, việc. Đạt tỷ lệ 87%.
Trung bình mỗi đơn vị TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh thụ lý mỗi
năm 807 vụ án, tỷ lệ giải quyết đạt 90,2% vượt qua mức chỉ tiêu mà TAND tối
cao đã đề ra, riêng TAND thành phố Buôn Ma Thuột mối năm thụ lý hơn 1.000
59
vụ, việc các loại, nhiều nhất so với toàn tỉnh. Số vụ án còn lại chưa giải quyết
đều là những vụ án còn trong thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật
và đang được tiếp tục xem xét, giải quyết. Cụ thể:
Về xét xử án hình sự
Bảng 2.2. Số liệu các vụ án hình sự sơ thẩm TAND cấp huyện trên địa bàn
1800
1600
1400
1200
1000
800
600
400
200
0
2018
2019
2020
2021
2022
Tổng thụ lý (vụ/bị cáo)
Đã giải quyết (vụ/bị cáo)
Còn lại (vụ/bị cáo)
tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết được trong các từ năm 2017 đến năm 2021
(Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk năm 2017- 2021)
Qua bảng số liệu về số lượng án hình sự sơ thẩm mà TAND tỉnh Đắk
Lắk đã giải quyết trong 05 năm vừa qua, số lượng vụ án và số lượng bị cáo năm
sau nhiều hơn năm trước, tính chất phức tạp của từng vụ án ngày càng tăng nên
việc xét xử còn gặp nhiều khó khăn. Tình hình này xuất phát từ những nguyên
nhân khác nhau. Địa bàn rộng lớn, nhiều dân tộc cùng sinh sống, trình độ dân trí
chưa cao nên các tội phạm chủ yếu xảy ra là xâm phạm sở hữu; tính mạng, nhân
phẩm, danh dự của con người; an toàn công cộng, trật tự công cộng; tội phạm về
ma túy có nhiều diễn biến phức tạp. Các vụ án điểm, nghiêm trọng và rất nghiêm
trọng đều có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng trong quá trình giải
60
quyết trên cơ sở quy định của pháp luật và được giải quyết kịp thời, nghiêm
minh.
- Về xử án dân sự, (bao gồm các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, phá sản, lao động):
Bảng 2.3 Số liệu các vụ án dân sự sơ thẩm TAND cấp huyện trên địa bàn
14000
12000
10000
8000
6000
4000
2000
0
2018
2019
2020
2021
2022
Tổng thụ lý
Đã giải quyết
Còn lại
tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết trong các năm từ năm 2018 đến năm 2022
(Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk năm 2018- 2022)
Qua bảng số liệu thống kê số lượng án dân sự sơ thẩm của TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong 05 năm gần đây, số lượng án dân sự sơ thẩm thụ
lý và giải quyết năm sau cao hơn năm trước, trong đó số lượng vụ án dân sự sơ
thẩm năm 2021, 2022 tăng nhiều so với năm 2018, tính chất phức tạp của từng vụ
án ngày một tăng. Qua thống kê cho thấy, các vụ án dân sự mà TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giải quyết chủ yếu là các vụ án ly hôn, tranh chấp về
hợp đồng dân sự, tranh chấp về quyền sử dụng đất và tranh chấp về quyền sở hữu.
Riêng các tranh chấp liên quan đến đất đai ngày càng nhiều và phức tạp. Việc giải
quyết các vụ việc dân sự về cơ bản đảm bảo đúng pháp luật, bảo vệ kịp thời
61
quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự.
- Về xét xử án hành chính
Bảng 2.4 Số liệu các vụ án hành chính sơ thẩm TAND cấp huyện trên địa
30
25
20
15
10
5
0
2018
2019
2020
2021
2022
Tổng phải giải quyết
Đã giải quyết
Còn lại
bàn tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết trong các từ năm 2018 đến năm 2022
(Nguồn từ TAND tỉnh Đắk Lắk năm 2018- 2022)
Theo bảng số liệu thống kê, các vụ án hành chính sơ thẩm mà TAND cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết trong các năm 2018, 2019, 2020,
2021 và 2022 có xu hướng giảm. Đặc biệt, Bộ luật tố tụng hành chính 2015 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017 thay đổi về thẩm quyền xét xử án hành
chính sơ thẩm nên số lượng vụ án thụ lý và xét xử sơ thẩm năm 2022 giảm ½
so với năm 2018.
Hầu hết các vụ án hành chính đều liên quan đến kiện quyết định hành
chính và hành vi hành chính về quản lý đất đai, tính chất rất phức tạp, nhiều
loại việc còn khá mới nên trong quá trình giải quyết còn gặp phải những khó
khăn nhất định. Tuy nhiên, Tòa án đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp với
các cơ quan, tổ chức xây dựng hồ sơ vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết
62
để đảm bảo giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật về nội dung và thời
hạn xét xử.
Để chất lượng xét xử được nâng cao, lãnh đạo từng đơn vị đã quán triệt,
chấn chỉnh việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị cho phiên xét xử. HĐXX đã chú
trọng xây dựng kế hoạch xét hỏi và tranh luận, đảm bảo cho các bên tham gia
tố tụng bình đẳng trong việc trình bày toàn bộ ý kiến liên quan đến việc giải
quyết vụ án, đưa ra các chứng cứ, yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên tòa.
Phán quyết của HĐXX đều căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng và
trên cơ sở xem xét toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa. Vì vậy, chất lượng xét xử các loại án của TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ngày càng được nâng cao, không để xảy ra tình
trạng oan sai, hạn chế tình trạng án bị hủy, sửa nghiêm trọng. Về cơ bản các
phán quyết của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đúng pháp luật;
bảo vệ công lý, các quyền con người, quyền công dân. Các phán quyết của
được ban hành trong thời hạn luật định, không có án bị quá hạn.
- Về Hội thẩm nhân dân
Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk bầu chọn HTND
tham gia công tác xét xử của Tòa án. Trong đó có các HTND là người dân tộc
thiểu số, đại diện ngành giáo dục, đoàn thanh niên đảm bảo cho việc xét xử
những vụ án có bị cáo là người chưa thành niên. Đa số các HTND đều là trưởng,
phó các cơ quan, đơn vị, các tổ chức hội hoặc cán bộ về hưu có trình độ, nhận
thức về xã hội và pháp luật và uy tín trong cộng đồng dân cư, đảm bảo cho quá
trình xét xử được đánh giá khách quan, toàn diện hơn.
Ngoài ra TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk còn giải quyết các hồ
sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính và thi hành án hình sự. Hàng
năm TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định thi hành án
hàng trăm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; xét giảm thời gian thử thách
63
án treo và giảm thời gian cải tạo không giam giữ cho các bị án có nhiều tiến bộ.
Các trường hợp được hoãn, tạm đình chỉ thi hành án và xét miễn, giảm án đều
đảm bảo đúng quy trình, thủ tục và điều kiện do pháp luật quy định, không để
xẩy ra sai sót.
Tất cả các hoạt động xét xử đều được tuân theo quy định của pháp luật,
ngoài các văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm, quyền hạn của
lãnh đạo, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động thì
Quy chế làm việc của hầu hết các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
đều có quy chế làm việc cụ thể.
2.2.2.2. Tổ chức tiếp nhận đơn thư và xét xử các vụ án theo thẩm quyền
Trong thời gian từ ngày 01/10/2020 đến ngày 30/9/2022, Tòa án nhân
dân cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tiếp nhận
48 đơn các loại. Đã phân loại, xử lý: 48 đơn; trong đó: Số đơn không thuộc
thẩm quyền: 15 Đơn. Số đơn thuộc thẩm quyền và đã thụ lý để xem xét giải
quyết: 33 đơn.
Thực hiện phương châm “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” kịp
thời giải quyết những kiến nghị, khiếu nại, yêu cầu của nhân dân, Tòa án nhân
dân huyện Krông Pắc đã đề ra nhiều biện pháp để thực hiện tốt công tác tiếp
dân và giải quyết khiếu nại tố cáo. Toà án đã phân công cán bộ tiếp dân theo
đúng quy chế và lịch tiếp công dân, có sổ sách theo dõi, thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc và nhắc nhở xử lý kịp thời, không để tình trạng tồn đọng đơn thư,
không để khiếu nại, tố cáo kéo dài. Công tác phối hợp trong việc giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo được thực hiện thường xuyên.
Công tác trực tiếp dân được chú trọng, có các quy trình, quy định liên
quan đến hoạt động tiếp dân, lịch tiếp công dân, nội quy phiên tòa; lịch xét xử
vv... đều được niêm yết công khai trên bảng tin cơ quan để người dân dễ dàng
tiếp cận, tra cứu khi có công việc liên quan đến Tòa án.
64
Trong 05 năm qua, hầu hết đơn khiếu nại, tố cáo mà TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nhận được chủ yếu khiếu nại đối với các quyết định
tố tụng, hành vi tố tụng của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký Toà
án liên quan đến hành vi không kịp thời giải quyết các yêu cầu của đương sự.
Các đơn khiếu nại được giải quyết đúng quy trình, kịp thời không để xảy ra tình
trạng khiếu nại kéo dài, khiếu nại vượt cấp, đảm bảo được quyền của người
khiếu nại theo quy định của pháp luật.
- Chất lượng xét xử sơ thẩm: Trong năm 2022, Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh có 208/12.230 vụ án bị cấp phúc thẩm hủy, sửa (chiếm
tỷ lệ 0,51%).
Công tác giải quyết, xét xử các vụ án hình sự trong năm qua đảm bảo
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc tranh tụng tại phiên tòa được chú
trọng theo hướng thực chất, không hạn chế thời gian tranh tụng, tôn trọng và
đảm bảo cho các bên tham gia tố tụng đưa ra chứng cứ và trình bày hết các ý
kiến của mình; hình phạt áp dụng đối với các bị cáo tương xứng với tính chất,
mức độ hành vi phạm tội, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
Trong công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, Tòa án nhân dân
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã quán triệt đến cán bộ, công chức đặc
biệt là Thẩm phán, Thư ký thực hiện đúng qui định của Bộ luật TTDS 2015,
từng bước khắc phục có hiệu quả việc để các vụ việc dân sự quá thời hạn giải
quyết theo quy định của pháp luật; làm tốt việc hướng dẫn các đương sự thực
hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ; đồng thời, chủ động xác minh, thu
thập bổ sung chứng cứ trong những trường hợp cần thiết theo quy định của
pháp luật tố tụng, chú trọng công tác hòa giải nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ
án được nhanh chóng, kịp thời, góp phần củng cố mối đoàn kết trong nhân dân.
Công tác giải quyết, xét xử các vụ án hành chính, Tòa án nhân dân cấp
65
huyện luôn quan tâm đến việc tổ chức đối thoại, tích cực phân tích, giải thích
pháp luật để các bên tự thống nhất hướng giải quyết vụ án; đồng thời chủ động
trong việc xác minh, thu thập chứng cứ.
2.2.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho bộ máy Tòa án
Cán bộ được bố trí đi học các lớp Cao cấp lý luận chính trị; hàng loạt
Thẩm phán được cử đi tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ; cử cán bộ đi đào
tạo sau đại học tại các trường Đại học trong nước; hàng chục cán bộ được cử
đi tập huấn nghiệp vụ, tham gia hội thảo do Tòa án nhân dân tối cao và các cơ
quan Trung ương tổ chức. Ngoài ra, TAND cấp huyện cũng đã tổ chức các buổi
rút kinh nghiệm xét xử, tổ chức cho HTND tham gia các đợt tập huấn do TAND
cấp tỉnh tổ chức cho Hội thẩm nhân dân về nghiệp vụ xét xử và những điểm
mới của các Bộ luật Hình sự, Bộ luật dân sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật tố tụng
dân sự, Luật tố tụng hành chính… nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký và Hội thẩm nhân dân.
2.2.2.4. Thanh tra các hoạt động xét xử thông qua các kháng nghị, kháng
cáo của cơ quan có thẩm quyền
Trong năm 2021, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức kiểm tra công
tác chuyên môn của 15 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, trực tiếp kiểm tra đối với 672 hồ sơ vụ án, 63 hồ sơ thi hành án và
4.279 bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật do Tòa án cấp huyện giải quyết.
Bên cạnh các đợt kiểm tra định kỳ, Tòa án nhân dân tỉnh còn tổ chức nhiều đợt
kiểm tra theo chuyên đề, đặc biệt là chuyên đề về án tạm đình chỉ, án kéo dài,
quá hạn luật định. Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị thường
xuyên rà soát, nắm các vụ án tạm đình chỉ, nguyên nhân, lý do tạm đình chỉ để
có biện pháp đôn đốc giải quyết kịp thời khi lý do tạm đình chỉ không còn đồng
thời hạn chế tình trạng các đơn vị ra quyết định tạm đình chỉ vụ án không đúng
quy định của pháp luật; tránh tình trạng khiếu nại về việc chậm giải quyết vụ
66
án với lý do tạm đình chỉ không đúng. Thông qua công tác kiểm tra đã kịp thời
phát hiện, khắc phục, sửa chữa các sai sót trong công tác xét xử, giải quyết các
loại án của Tòa án nhân dân cấp huyện.
2.2.2.5. Tuyên truyền phổ biến pháp luật
Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật được Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có nhiều đổi
mới sáng tạo, được thực hiện thông qua nhiều hình thức như: Tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử; Công tác hoà giải, đối
thoại tại Tòa án; Phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành;
Công khai các bản án, quyết định của Tòa án và phát triển án lệ; Công tác tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ; Phối hợp với các cơ quan, bộ, ngành thực hiện công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật...
* Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
là một chức năng, nhiệm vụ quan trọng của Tòa án. Thông qua hoạt động xét
xử, các quy định của pháp luật đến với người dân cụ thể, dễ hiểu; qua đó nhận
thức, hiểu biết về pháp luật của người dân được nâng lên, tạo sự chuyển biến
cơ bản về ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật trong quần
chúng nhân dân. Do vậy, đây là hình thức tuyên truyền có ý nghĩa thiết thực và
dễ dàng đi vào đời sống nhân dân. Những người tham dự phiên tòa được chứng
kiến toàn bộ diễn biến quá trình Tòa án giải quyết, xét xử một vụ việc cụ thể,
họ sẽ hiểu rõ hơn pháp luật quy định đối với từng trường hợp như thế nào và bị
xử lý ra sao, từ đó sẽ có ứng xử phù hợp với quy định của pháp luật.
Bên cạnh việc xét xử các vụ án tại trụ sở Tòa án, các TAND còn tổ chức
các phiên tòa rút kinh nghiệm, phiên toà được truyền hình trực tuyến, đặc biệt
tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động tại địa bàn nơi xảy ra vụ án hoặc các địa
bàn trọng điểm về một số loại tội phạm. Hoạt động này luôn mang lại hiệu quả
67
cao trong công tác tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; có tác dụng trực
tiếp đến những người tham dự hoặc theo dõi phiên toà; tạo ra sự quan tâm của
đông đảo cộng đồng dân cư ở địa phương; giúp cho nhân dân dễ hiểu, dễ nhớ
những quy định pháp luật mà họ được nghe trực tiếp; nâng cao ý thức pháp luật
của nhân dân trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm; đề cao tính răn đe
(trừng trị) và tính giáo dục, thuyết phục của phiên toà.
* Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua công tác hoà giải,
đối thoại
Sau khi Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án có hiệu lực pháp luật, lãnh đạo
Tòa án nhân dân cấp huyện đã triển khai phổ biến đến toàn thể cán bộ, công
chức trong đơn vị, tiến hành triển khai Luật các các văn bản liên quan như
Thông tư số 02/2020/TT- TANDTC ngày 16/11/2020 quy định chi tiết về trách
nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án và
Thông tư số 03/2020/TT- TANDTC ngày 16/11/2020 quy định chi tiết về trình
tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định hòa giải viên.
Chỉ thị số 02/2022/CT- CA ngày 14/03/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao về việc tăng cường công tác hòa giải, đối thoại theo Luật Hòa giải, đối thoại
tại Tòa án; Việc tiếp nhận đơn khởi kiện, hướng dẫn cho người khởi kiện về
thủ tục hòa giải, đơn yêu cầu, ghi nhận ý kiến hòa giải, đối thoại được thực hiện
đúng theo quy định trong Luật và thông tư. Đa số TAND trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk đều đã có Hòa giải viên.Thông qua công tác hòa giải, đối thoại, các quy
định của pháp luật trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại và hành chính được các Hòa giải viên, Đối thoại viên phổ biến đến
các đương sự trong từng vụ án. Mặt khác, thông qua việc hòa giải, đối thoại,
người tiến hành hòa giải, đối thoại còn có thể giải thích, nâng cao nhận thức
pháp luật cho các bên, giúp việc thi hành pháp luật được thuận lợi.
* Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tiếp
68
công dân, thanh tra, kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ
Công tác tiếp công dân luôn được lãnh đạo TANDTC quan tâm chú
trọng. Trong những năm qua, TANDTC đã tích cực thực hiện đổi mới thủ tục
hành chính tư pháp theo hướng công khai, đơn giản, thuận tiện; công khai hóa
các thủ tục tiếp nhận hồ sơ, cung cấp tài liệu của Tòa án theo quy định của pháp
luật. Thực hiện nghiêm các quy định về tiếp công dân, xây dựng nội quy tiếp
công dân; cán bộ làm công tác tiếp dân đã tận tình giải thích các quy định pháp
luật có liên quan đến tranh chấp để người dân được hiểu, kết hợp công tác tiếp
dân với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho công dân.
* Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua công tác phổ biến
các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành
Ngay sau khi các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, TANDTC
đã tổ chức triển khai thực hiện phổ biến, quán triệt thi hành đến toàn thể các
cán bộ, công chức trong hệ thống Tòa án bằng nhiều hình thức tổ chức khác
nhau như: Hội nghị trực tuyến, giải đáp các vướng mắc, Công văn quán triệt
thực hiện. Trong thời gian qua nhiều luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị quyết và các
văn bản quy phạm pháp luật khác đã được TANDTC phổ biến, quán triệt đến
toàn thể các cán bộ, công chức.
* Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua công khai các
bản án, quyết định của Tòa án
Để nhân dân được tiếp cận pháp luật thông qua nhiều cách thức thì việc
công khai các bản án, quyết định của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử được
quan tâm. Theo đó, từ ngày 01-7-2018, TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh đã
thực hiện việc công bố các bản án, quyết định của Tòa án mình trên Cổng thông
tin điện tử của Tòa án. Tính đến ngày 01-12-2022 đã có 7.052 bản án, quyết
định của Tòa án được công bố, trong đó có 2.334 bản án, quyết định về hình
sự, 2.016 bản án, quyết định về dân sự, 1.636 bản án, quyết định về hôn nhân
69
và gia đình, 86 bản án, quyết định về kinh doanh thương mại, 20 bản án, quyết
định về hành chính, 6 bản án, quyết định về lao động, 954 quyết định áp dụng
biện pháp xử lý hành chính
2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động tại Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk
2.3.1. Kết quả đạt được
- Về đội ngũ cán bộ, công chức:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần đoàn kết tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có ý thức tự chủ, năng động
và sáng tạo trong công việc, có kiến thức trình độ năng lực thực tiễn, luôn có
tinh thần học tập, nghiên cứu nâng cao kiến thức, trình độ về lý luận chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, đội ngũ công chức trẻ, khỏe, năng động thích nghi nhanh với cơ
chế quản lý mới. Trình độ chuyên môn cán bộ, công chức TAND cấp huyện trên
địa bàn tỉnh ngày càng được nâng cao, mỗi cơ quan đã và đang tạo mọi điều kiện
cho cán bộ, công chức trau dồi chuyên môn nghiệp vụ.
Về biên chế, TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã đầy đủ các
vị trí việc làm, trình độ chuyên môn cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc
làm được đảm nhận và phân công.
Hàng năm, công chức, người lao động được đánh giá xếp loại hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, hoàn thành
nhiệm vụ được giao, không có công chức, người lao động không hoàn thành nhiệm
vụ.
- Về đội ngũ lãnh đạo:
Về cơ bản đội ngũ lãnh đạo TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
đã hoàn thiện. Hoạt đông trên nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách do Chánh án trực tiếp điều hành. Sự phân công nhiệm vụ,
70
quyền hạn dựa trên từng chức danh rất rõ ràng, cụ thể.
- Về bộ máy giúp việc:
Nhìn chung bộ máy giúp việc của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk đã kiện toàn về tổ chức và hoạt động, thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ giúp việc cho TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh hoạt động độc lập và có
hiệu quả.
- Về hoạt động xét xử:
Công tác xét xử tại TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã
thực hiện đúng theo quy định pháp luật, khẳng định Tòa án giữ vị trí trung
tâm của hoạt động tư pháp thể hiện qua: HĐXX độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; tôn trọng quyền con người; thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng,
nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án được triển khai sâu rộng, đảm bảo
cho người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của họ, đặc
biệt trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận
dân chủ trước Tòa án; người bào chữa được tạo điều kiện thuận lợi trong
tham gia tố tụng tại Tòa án; thực hiện việc khởi tố tội phạm, người phạm tội
ngay tại phiên tòa; quyết định thay đổi các biện pháp ngăn chặn tạm giam
sang biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ngay tại phiên tòa; thay đổi diện mạo
mới của HĐXX thông qua đổi mới phòng xét xử, trang phục xét xử.
+ Về hình sự:
Trong việc xét xử án hình sự, TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật, chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa được chú trọng và đảm bảo tính dân chủ, khách quan. Kết quả xét
xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không
xử oan người vô tội, thời gian giải quyết đều trong hạn luật định, đảm bảo
được quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Hình phạt mà TAND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt đối với các bị cáo đảm bảo đúng
71
chính sách hình sự của Nhà nước là nghiêm trị những kẻ chủ mưu, cầm đầu và
khoan hồng đối với những người nhất thời phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn
hối cải, không bỏ lọt tội phạm, áp dụng các biện pháp ngăn chặn đúng quy định.
Việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa đã được triển khai sâu
rộng, các Luật sư được tạo điều kiện thuận lợi khi tham gia tố tụng tại Tòa án.
Trong các phiên tòa, HĐXX đã thực hiện đúng tinh thần cải cách tư pháp theo
Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị, đảm bảo quyền tự bào chữa, tranh tụng của
bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, thể hiện được tính
dân chủ, khách quan, đúng pháp luật.
Việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam
giữ, áp dụng các biện pháp ngăn chặn cơ bản đúng quy định của pháp luật.
+ Về dân sự:
Việc giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự của Tòa án cơ bản đảm bảo
đúng quy định của pháp luật, bảo vệ kịp thời các quyền, lợi ích chính đáng của
các bên đương sự. Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự: Tích cực hướng dẫn đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ, tài liệu của vụ án; chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường
hợp quy định nhằm đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết vụ án.
Trong việc giải quyết án dân sự, hôn nhân gia đình, lao động và kinh doanh
thương mại luôn chú trọng và làm tốt công tác hòa giải để giảm bớt căng thẳng
giữa các bên đương sự, hàn gắn mâu thuẫn trong nhân dân, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác thi hành án dân sự, góp phần giải quyết tốt, triệt để
vụ án, tỷ lệ hòa giải thành ngày càng tăng.
+ Về hành chính:
Các phán quyết đều dựa trên các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ
án và quá trình tranh luận tại phiên tòa. Trong quá trình giải quyết, TAND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã chú trọng việc tổ chức đối thoại giữa
72
người khởi kiện và người bị kiện; tích cực phân tích, giải thích pháp luật để
các bên tự thống nhất hướng giải quyết vụ án, thông qua đó giúp giải quyết
nhanh chóng và triệt để nhiều vụ án.
Tòa án đã có nhiều cố gắng làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan có
liên quan xây dựng hồ sơ vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết để đảm bảo
giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật.
Mặc dù án hành chính là loại án nhạy cảm, phức tạp nhưng nhìn chung
việc giải quyết, xét xử các vụ án hành chính trong thời gian qua đã có những
chuyển biến tích cực, góp phần bảo vệ kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, công dân, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính
Nhà nước. Hàng năm, tỷ lệ giải quyết án hành chính của TAND cấp huyện trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk chiếm tỷ lệ cao, trung bình là 90%, vượt qua chỉ tiêu của
TAND tối cao đưa ra là 65% và đứng đầu cả nước về tỷ lệ giải quyết án hành
chính .
- Hội thẩm nhân dân:
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các HTND đã nêu cao tinh thần trách
nhiệm, phối hợp chặt chẽ với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa làm rõ nội dung vụ
án, đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, đúng tinh thần cải cách tư pháp, các
phán quyết của HĐXX khách quan, trung thực, đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân và đúng quy định của pháp luật.
- Công tác thi hành án hình sự:
Nhìn chung, công tác thi hành án hình sự được thực hiện theo đúng các
quy định của pháp luật. Đảm bảo ban hành quyết định thi hành án hình sự và ủy
thác thi hành án hình sự đúng trình tự, thời hạn đối với 100% số người bị kết án
mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Việc cho hoãn chấp hành án, tạm
đình chỉ chấp hành án, miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và thời gian
thử thách của án treo đảm bảo chính xác và được theo dõi chặt chẽ. Đồng thời
73
phối hợp tốt với chính quyền địa phương trong việc quản lý các đối tượng thi
hành hình phạt án treo, cải tạo không giam giữ ở địa phương.
- Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tư pháp:
Công tác trực, tiếp dân được chú trọng, quy trình, quy định có liên quan
đến hoạt động tiếp dân, lịch tiếp công dân, nội quy phiên tòa; lịch xét xử... đều
được niêm yết công khai trên bảng tin cơ quan để người dân dễ dàng tiếp cận,
tra cứu khi có công việc liên quan đến Tòa án.
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh đều có phòng tiếp dân, phân công
Thẩm phán tiếp công dân. Việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết đơn thư khiếu nại,
tố cáo được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật. Công tác này
thường xuyên được kiểm tra, đôn đốc và xử lý kịp thời không để xảy ra tình
trạng tồn đọng đơn thư, không để khiếu nại, tố cáo kéo dài.
2.3.2. Hạn chế
- Về đội ngũ cán bộ, công chức:
Mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng được lãnh đạo TAND cấp trên chú
trọng nhưng nhìn chung chất lượng đội ngũ Thẩm phán vẫn còn hạn chế. Một số
Thẩm phán chưa nắm vững các quy định của pháp luật trong quá trình giải
quyết án; năng lực nghiên cứu, phân tích đánh giá chứng cứ còn hạn chế; việc
đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, toàn diện dẫn đến việc giải quyết án không
đúng như: Xác định tội danh không chính xác, trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để
điều tra bổ sung thiếu căn cứ, xác định sai quan hệ pháp luật có tranh chấp, sai
đối tượng khởi kiện hoặc xác định sai tư cách đương sự; năng lực lựa chọn các
quy phạm pháp luật và năng lực ban hành bản án, quyết định của một số Thẩm
phán còn yếu; một số trường hợp áp dụng thay đổi biện pháp ngăn chặn thiếu
căn cứ, nhất là việc áp dụng, thay đổi biện pháp tạm giam; quyết định xử lý vật
chứng còn thiếu chính xác, không kịp thời.
Một số ít Thẩm phán có biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị
74
và đạo đức lối sống như: Nhạt phai lý tưởng cách mạng, không kiên định con
đường xã hội chủ nghĩa, sa sút ý chí chiến đấu, không làm tròn bộn phận chức
trách được giao, quan liêu, hách dịch, tham nhũng, cửa quyền, thiếu trách nhiệm
tinh thần phục vụ, “vô cảm” trước những yêu cầu bức xúc chính đáng của nhân
dân. Một số ít người chưa chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; thiếu ý
thức cầu thị, phấn đấu tự học tập. Nhiều công chức không tiếp thu phê bình và
tự phê bình, tính chiến đấu không cao, tình trạng nể nang, né tránh, ngại nói
thẳng, nói thật.
Nguồn Thẩm phán có trình độ chuyên môn cao như Thẩm phán trung
cấp vẫn còn thiếu vì nguồn Thẩm phán sơ cấp có đủ điều kiện về năng lực xét
xử, bản lĩnh chính trị cũng như thời gian công tác để thi nâng ngạch Thẩm phán
trung cấp còn thiếu, cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức còn mất cân đối, thiếu
đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài.
- Về đội ngũ lãnh đạo: Bên cạnh những kết quả đã đạt được, năng lực
đội ngũ lãnh đạo TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn còn hạn chế
nhất định ở một số lĩnh vực như: Khả năng ứng dụng công nghệ tin học trong
hoạt động công vụ, kỹ năng dân vận, kiến thức về quản lý hành chính nhà nước.
- Về bộ máy giúp việc: Bên cạnh những mặt đạt được vẫn còn tồn tại một
số khuyết điểm như: Công tác thống kê, tổng hợp số liệu báo cáo hàng quý vẫn
còn chậm trễ, đôi khi có sai sót phải điều chỉnh lại. Công tác tiếp công dân, giải
quyết đơn thư khiếu nại vẫn chưa nhanh chóng, kịp thời giải tỏa được những
bức xúc của người dân.
- Về hoạt động xét xử: Bên cạnh những kết quả đạt được, tình trạng án
bị hủy, sửa vẫn còn cụ thể:
Năm 2018: Tỷ lệ các vụ án mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk bị
hủy án theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm do lỗi chủ quan là 1,35%; sửa
1,19%.
75
Năm 2019: Tỷ lệ các vụ án mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk bị
hủy án theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm do lỗi chủ quan là 0,62%; sửa
0,64%.
Năm 2020: Tỷ lệ các vụ án mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk bị
hủy án theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm do nguyên chủ quan là 0,6%;
sửa 1,1%,
Năm 2021: Tỷ lệ các vụ án mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk bị
hủy án theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm do nguyên chủ quan là 0,6%;
sửa 0,48%.
Năm 2022: Tỷ lệ bản án, quyết định của Tòa án hai cấp bị cấp phúc thẩm,
giám đốc thẩm hủy, sửa là 0.51%.
+ Lĩnh vực hình sự: vẫn còn tình trạng án bị sửa, bỏ lọt tội phạm, bỏ sót
người tham gia tố tụng, áp dụng không đúng điều, điểm, khoản của Bộ luật hình
sự cũng như các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, không áp dụng những
quy định của pháp luật hình sự mới có lợi cho bị cáo hoặc áp dụng điều luật
của Bộ luật hình sự mới gây bất lợi cho bị cáo. Một số vụ án xử cho hưởng án
treo, cải tạo không giam giữ không đúng với Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP
ngày 06 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Có những vụ án bị định tội danh, áp dụng tình tiết giảm nhẹ không đúng (nộp
tiền thu lợi bất chính nhưng lại được xem là tình tiết bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả để xác định tình tiết giảm nhẹ). Có trường hợp bỏ qua tình tiết
tăng nặng, mặc dù bị cáo có tình tiết tăng nặng nhưng chỉ quan tâm áp dụng
tình tiết giảm nhẹ.
+ Lĩnh vực dân sự: việc giải quyết án dân sự tại TAND cấp huyện trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk còn hạn chế như: Xác minh thu thập chứng cứ chưa đầy
đủ, xác định không đúng tư cách, bỏ sót người tham gia tố tụng, giải quyết vụ
án vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện của đương sự, xác định sai quan hệ
76
tranh chấp, việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ và đánh giá chứng cứ không
đúng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, còn có trường hợp xác định
người đại diện theo ủy quyền của đương sự không đúng dẫn đến tống đạt giấy
triệu tập phiên tòa không hợp lệ nhưng Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.
+ Lĩnh vực hành chính: hạn chế của việc giải quyết án hành chính tại
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk là còn vi phạm một số thủ tục tố
tụng hành chính như: Chứng cứ, thu thập, xác minh chứng cứ chưa đầy đủ, xác
định sai quan hệ tranh chấp và tư cách người tham gia tố tụng làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ nên cấp phúc thẩm xử hủy bản án sơ thẩm
để xét xử lại.
- Về Hội thẩm nhân dân: bên canh những HTND tham gia nhiệt tình và
có trách nhiệm trong công tác xét xử thì vẫn còn những HTND tham gia xét xử
còn ít, có HTND cả một nhiệm kỳ chỉ tham gia HĐXX sơ thẩm được 02 vụ.
Trong các đợt tập huấn nghiệp vụ xét xử do TAND tỉnh tổ chức, vẫn còn một
số ít các HTND chưa tham gia đầy đủ.
- Về công tác thi hành án hình sự: công tác thi hành án hình sự vẫn còn
nhiều khó khăn và bất cập như: Việc phối hợp giữa Tòa án với chính quyền
địa phương, các cơ quan đoàn thể, cơ quan Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành
án hình sự và Hỗ trợ tư pháp vẫn còn nhiều điểm chưa ăn khớp trong việc
chuyển giao bản án cũng như phối hợp thi hành án. Tình trạng gửi quyết định
thi hành án cho Viện kiểm sát cùng cấp, người bị kết án, nhà tạm giữ, trại tạm
giam quản lý người bị kết án, cơ quan thi hành án hình sự và chính quyền địa
phương nơi cư trú của người bị kết án còn chậm so với quy định. Vẫn còn việc
phải đính chính quyết định thi hành án do bản án, quyết định có hiệu lực phải
đính chính sửa đổi, bổ sung bản án, quyết định.
- Về công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tư pháp:
77
Vẫn còn tình trạng người dân đến trụ sở Tòa án để khiếu nại, đã được
cán bộ Tòa án giải thích theo quy định của pháp luật nhưng do sự am hiểu pháp
luật còn hạn chế nên đã có những hành động quá khích như: dùng lời lẽ xúc
phạm cán bộ, lôi kéo nhiều người đến trụ sở Tòa án gây mất trật tự.
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, công tác đánh giá cán bộ, công chức nói chung và Thẩm phán
nói riêng vẫn dung phương pháp truyền thống là bình bầu. Do đó rất dễ chi phối
bởi nể nang, tình cảm cá nhân, thiếu khách quan công bằng gây hậu quả xấu
cho công tác lựa chọn bố trí sắp xếp bổ nhiệm, quy hoạch chức danh, chức vụ.
Thứ hai, đa số lãnh đạo là những người gần về hưu, tuổi cao nên việc
tiếp cận ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, có một số lãnh đạo chưa
được cử đi đào tạo về quản lý hành chính nhà nước nên trong công tác quản lý
vẫn còn nhiều khó khăn. Đội ngũ lãnh đạo chưa phát huy hết tinh thần trách
nhiệm trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo.
Thứ ba, công tác cập nhật nghiên cứu xây dựng sửa đổi, bổ sung, hướng
dẫn các văn bản Luật do bất cập trong thực tiễn còn chậm. Ngành Tòa án đặc
biệt các Tòa án cấp huyện đã chủ động xây dựng và ký kết các quy chế phối
hợp với các cơ quan chức năng trên cùng địa bàn để thực hiện việc phối hợp về
chuyên môn trong quá trình giải quyết án nhưng chưa đạt kết quả cao. Nguyên
nhân một phần do quy định của Pháp luật chưa có những quy định hoặc chế tài
đối các cơ quan né tránh không phối hợp hoặc không thực hiện đúng thời gian
yêu cầu cung cấp chứng cứ.
Thứ tư, các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh vẫn còn tình trạng án quán
hạn, bị hủy, bị sửa do số lượng Thẩm phán vẫn còn thiếu so với thực tế. Quy trình
bổ nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán còn chậm. Quy định của pháp luật thay đổi mà
chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng kịp thời. Số lượng các vụ án hàng năm thụ lý
78
và giải quyết năm sau cao hơn năm trước, độ phức tạp của từng vụ việc ngày càng
nhiều, trong khi số lượng Thẩm phán không được đảm bảo. Có Thẩm phán phải
giải quyết, xét xử 16 vụ việc trong một tháng gây nên áp lực cho Thẩm phán. Theo
TAND tối cao nếu 01 Thẩm phán giải quyết trên 12 vụ án trong một tháng thì
nguy cơ rủi ro rất cao vì không có nhiều thời gian nghiên cứu kỹ hồ sơ. Áp lực về
án quá hạn, áp lực chất lượng xét xử, giải quyết các vụ án, thời gian để nghiên cứu
hồ sơ chuẩn bị xét xử quá ít.
Thứ năm, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán vẫn còn nhiều bất hợp lý.
Mức lương của Thẩm phán chưa tương xứng với mức độ cống hiến, không bảo
đảm bù đắp cho những hao tổn về sức lao động, kiến thức, trí tuệ mà Thẩm
phán đã bỏ ra, chưa đảm bảo sự công bằng. Đây là một trọng những nguyên
nhân quan trọng có thể làm ảnh hưởng đến tính độc lập, công minh của Thẩm
phán trong khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Bên cạnh đó, một trong những yếu
tố tác động đến năng lực độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán đó là
cơ chế bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đối với Thẩm
phán và gia đình họ. Trong những năm gần đây xuất hiện khá nhiều trường hợp
Thẩm phán bị hành hung. Đây là vấn đề đáng báo động vì trên thực tế đã xảy
ra những việc Thẩm phán bị hành hung, bị giết để trả thù vì lý do công vụ. Điều
này khiến cho Thẩm phán không thể yên tâm trong khi thực hiện nhiệm vụ xét
xử. Vấn đề này cần được sớm quan tâm giải quyết để góp phần vào việc nâng
cao năng lực độc lập của Thẩm phán.
Thứ sáu, Cán bộ công chức làm công tác văn phòng tại các TAND cấp
huyện trên địa bàn tỉnh là Thẩm phán và Thư ký vừa làm công tác chuyên môn
vừa thực hiện công tác Văn phòng- Tổ hành chính tư pháp. Trong khi khối
lượng công việc rất lớn thì số lượng lại không đủ để đáp ứng cho hoạt động của
bộ máy giúp việc được hiệu quả, dẫn đến công tác tham mưu giúp việc cho
Lãnh đạo đơn vị chưa thực sự hiệu quả.
79
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, tinh thần trách nhiệm, tinh thần hợp tác của một số công chức
còn yếu và chậm đổi mới. Vẫn còn có những Thẩm phán thiếu tích cực rèn
luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, còn tư tưởng cơ hội, vụ lợi; có
những Thẩm phán chưa tích cực, chủ động trong việc tự học, tự bồi dưỡng để
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; vẫn còn hiện tượng Thẩm phán có
tư tưởng chán nản, không yên tâm công tác muốn được chuyển sang những
công việc có thu nhập cao hơn.
Thư hai, nguyên tắc thẩm Thẩm phán, HTND xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật được thực hiện nhưng chưa tuyệt đối, cụ thể:
+ HTND là những thành viên không thể thiếu được trong hoạt động xét
xử của mỗi vụ án. Một số HTND tham gia hoạt động xét xử của Tòa án còn
mang tính hình thức, vẫn chưa phát huy được hết vị trí, vai trò quan trọng mà
Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Qua công tác xét xử cho thấy, HTND chưa
phát huy được hết quyền năng của mình, có những HTND chỉ đến nghiên cứu
kết luận điều tra, bản cáo trạng hoặc có trường hợp không nghiên cứu hồ sơ
nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại Tòa án, vì vậy, HTND sẽ rơi vào tình
trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá trình chứng minh tội phạm cũng như
quyết định việc giải quyết vụ án, khiến cho công chúng nhìn nhận về sự tham
gia của HTND chỉ là hình thức, tham gia cho đủ thành phần.
+ Thẩm phán bị áp lực khác tác động, bị lúng túng khi tham gia giải quyết
vụ án như: Vẫn còn tình trạng Thẩm phán tham khảo ý kiến của lãnh đạo Tòa
án. Việc trao đổi ý kiến lãnh đạo về “đường lối giải quyết vụ án” vẫn chiếm
một tỷ lệ lớn trong các Thẩm phán. Tình trạng “báo cáo án”, “thỉnh thị án” đã
phá vỡ nhiều nguyên tắc quản lý và nguyên tắc tư pháp trong hoạt động Tòa
án, như “nguyên tắc Thẩm phán, HTND xét xử độc lập”, “nguyên tắc xét xử
tập thể”, làm cho những nguyên tắc này trở nên hình thức và không được tôn
80
trọng, làm giảm vai trò của HTND, phá vỡ nguyên tắc tính đại diện của nhân
dân trong xét xử. Thẩm phán, HTND đôi khi còn chịu áp lực của công luận là
đăng tải nhiều bài viết về một vụ án chưa xét xử; chịu ảnh hưởng và tác động
của bản kết luận điều tra hoặc cáo trạng khi nghiên cứu hồ sơ nên có thể không
độc lập trong quá trình xem xét và đánh giá chứng cứ.
Tiểu kết chương 2
Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, TAND cấp huyện
giữ vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ thẩm theo thẩm
quyền. Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã hoàn thiện về
mặt tổ chức, cán bộ công chức có bằng cấp và năng lực phù hợp với từng vị
trí việc làm. Chất lượng xét xử ngày càng nâng lên. Việc giải quyết các vụ án
đạt tỷ lệ cao với chất lượng được đảm bảo; tỷ lệ án bị hủy, sửa giảm trong
phạm vi cho phép. Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế,
bất cập trước yêu cầu cải cách tư pháp, cụ thể như: Năng lực của Thẩm phán,
HTND không đồng đều, các chế độ chính sách đãi ngỗ Thẩm phán vẫn chưa
tương xứng phần nào ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm phán
trong hoạt động xét xử. Nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn
chế trên là do một số ít cán bộ, công chức không chịu học tập nâng cao rèn
luyện kiến thức; công tác đào tạo bồi dưỡng chưa đáp ứng được nhu cầu; việc
phối hợp thực hiện giữa các cơ quan liên quan chưa được thống nhất, nhịp
nhàng; tình hình an ninh, chính trị, kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh ngày càng
phức tạp. Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
81
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân cấp huyện
3.1.1. Ðẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức
về Nhà nưóc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ðẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán
bộ, đảng viên và Nhân dân về Hiến pháp và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Quán
triệt sâu sắc việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; được tiến hành
đồng bộ với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
82
3.1.2. Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm
minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân
- Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng
ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư
pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
- Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng
là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền,
hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương
thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp. Ðổi mới và nâng
cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án. Tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong
trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp
liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện.
- Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án
là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm
phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc
thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng
tòa án điện tử. Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn
quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành
chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công
dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa,
những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử.
- Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu
hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý
83
các cơ sở đào tạo cử nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp
vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức
pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân
lực tư pháp. Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm
các chức danh tư pháp. Ðổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ
nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm
chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới, nhất là đối với đội ngũ Thẩm phán.
3.1.3. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực
- Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn vai trò,
vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi cơ quan và mối quan hệ
giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch,
phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong mỗi cơ quan
và giữa các cơ quan nhà nước, giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp
chính quyền địa phương và giữa các cơ quan trong cùng một cấp chính quyền.
Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm
soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp
trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp. Mọi
quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng
trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách
nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và
xử lý. Kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động
của Nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức.
84
Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng
buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng
cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách
nhiệm và xử lý. Kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong
hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức.
- Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát
quyền lực nhà nước của Ðảng, Nhà nước và Nhân dân; thực hiện đầy đủ nguyên
tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch trong từng
cơ quan nhà nước. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan kiểm tra đảng, cơ quan tham mưu, giúp việc của Ðảng, cơ quan thanh tra,
kiểm toán nhà nước. Hoàn thiện cơ chế để Nhân dân trực tiếp kiểm soát quyền
lực nhà nước; bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền kiến nghị, phản ánh,
khiếu nại, tố cáo và các quyền khác của công dân theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị-xã hội, đoàn thể và các cơ quan báo chí trong giám sát, kiểm soát
quyền lực nhà nước.
- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực.
Nghiên cứu thành lập các thiết chế mới về kiểm soát quyền lực, phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực; ban hành các quy định về kiểm soát quyền lực để phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án; trong công tác xây dựng pháp luật và quản lý,
sử dụng tài chính, tài sản công. Hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để
không thể tham nhũng, tiêu cực; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các
hành vi tham nhũng, tiêu cực để không dám tham nhũng, tiêu cực; đẩy mạnh
cải cách chính sách tiền lương, nâng cao đời sống của cán bộ, công chức, viên
chức; xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để không cần, không muốn tham
nhũng, tiêu cực.
85
3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Hoàn thiện luật tổ chức tòa án nhân dân và các văn bản hướng
dẫn thi hành
Để có thể đưa ra những giải pháp quyết định đối với tổ chức và hoạt động
của Tòa án, đặc biệt là hệ thống TAND cấp huyện, sự lãnh đạo Đảng cần được
chú trọng những vấn đề sau:
Đảng hoạch định và tổ chức thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp giai
đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo trong đó xây dựng đường lối chủ
trương cụ thể đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Để đạt được những mục tiêu đó, đòi hỏi: Tiếp tục thực hiện những nội
dung trong Nghị quyết số 27 - NQ/TW của Bộ Chính trị mà chúng ta chưa thực
hiện được (giảm khoảng cách khung hình phạt; khắc phục cấp giám đốc thẩm
thành cấp xét xử thứ ba; thúc đẩy hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh
chấp dân sự và khiếu kiện hành chính; bảo đảm cơ sở vật chất cho các cơ quan
tư pháp; thành lập tòa án sơ thẩm khu vực, tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét
xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính...).
Tập trung khắc phục những bất cập còn tồn tại trong nền tư pháp Việt
Nam, như trong lĩnh vực giám định tư pháp, trong thủ tục hành chính tư pháp,
trong thi hành án tử hình, thiết chế phòng, chống tham nhũng, chế độ, chính
sách, biên chế của các cơ quan tư pháp....
Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia các bản án và mở nhiều tiện ích để nâng
cao khả năng quyết định tư pháp và đoán định tư pháp cho người dân khi tham
gia hoạt động tư pháp. Hoàn thiện nền tảng pháp lý và hạ tầng công nghệ thông
tin để xây dựng tòa án điện tử (xây dựng nền hành chính tư pháp và quản lý tòa
án không giấy tờ; chuyển giao, xuất trình, kiểm tra, lưu giữ chứng cứ, xét xử
qua mạng; kết nối và phát huy tác dụng của chương trình quản lý công dân của
86
quốc gia để quản lý đối tượng bị can, bị cáo...).
- Đổi mới, tăng cường lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ.
Chủ trương xuyên suốt của Đảng là xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ
Tòa án toàn diện cả về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn và năng lực
thực tiễn; coi trọng cả “đức” và “tài”, trong đó “đức” là gốc; chất lượng cán bộ
phải trên cơ sở thống nhất tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực. Đề cao kỷ luật,
kỷ cương, nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ Tòa án; bảo đảm sự vô tư, khách
quan, công bằng và phòng ngừa mọi sự thao túng của các quan hệ kinh tế, tình
cảm trong giải quyết công việc. Theo đó, Đảng tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ Tòa án; làm cho
mỗi cán bộ phải thấy rõ hơn trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng, trước
nhân dân để phấn đấu, giữ gìn và rèn luyện phẩm chất đạo đức. Đẩy mạnh công
tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn; tăng cường công tác
quản lý, giáo dục và rèn luyện đội ngũ cán bộ. Chú trọng kiện toàn đội ngũ lãnh
đạo Tòa án các cấp có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín và kinh nghiệm quản lý.
Làm tốt việc luân chuyển cán bộ, thử thách trong thực tế đối với những cán bộ
thuộc diện quy hoạch chức vụ lãnh đạo. Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời
phát hiện những yếu kém để khắc phục; kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm
phẩm chất, đạo đức, lối sống để xây dựng bộ máy tư pháp trong sạch, vững
mạnh. Có chính sách đãi ngộ hợp lý để bảo đảm đội ngũ cán bộ yên tâm công
tác.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án phải tuyệt đối trung thành với Hiến
pháp và pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, công
bằng xã hội.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp nói riêng và luật
pháp nói chung. Các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn
trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; lắng
87
nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân .
Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tình mạng, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung
thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc
của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp
luật khác.
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã quy định, TAND là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; TAND có nhiệm
vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân. Hiến pháp năm 2013 đã có những điểm đổi mới liên quan đến chức năng,
vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống tư pháp và Tòa án. Những thay đổi
này có nhiều điểm thể hiện sự dân chủ hơn, nghĩa là tăng cường việc bảo vệ
quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân; tăng cường hệ
thống tư pháp để xây dựng “Nhà nước pháp quyền” và “Thượng tôn pháp luật”.
Như vậy, trong toàn bộ hệ thống chính trị, chỉ có Tòa án có chức năng xét xử,
thực hiện quyền tư pháp, điều này phù hợp với nhiều nước trên thế giới.
Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thống nhất, đồng
bộ phù hợp, khả thi, dễ hiểu và dễ tiếp cận làm cơ sở pháp lý trong hoạt động
xét xử của Tòa án
TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng có cơ cấu tổ chức về
nhân sự và thực hiện hoạt động công tác của mình về tố tụng và nội dung dựa
trên các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, có hiệu lực thi hành. Bên
cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã và đang
88
bộc lộ những khiếm khuyết, trong đó có vấn đề thiếu tính thống nhất trong pháp
luật cũng như việc chưa dự liệu được nhiều tình huống thực tiễn. Đây cũng là
vấn đề gây rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật khi
giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.
Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đòi hòi phải có một
hệ thống pháp luật khoa học, đồng bộ, thống nhất và dự liệu được cơ bản những
quan hệ pháp luật có thể phát sinh trong xã hội. Đây phải được coi là một
nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quy trình lập pháp, lập quy. Bởi lẽ,
việc chỉnh lý những sai sót, những mâu thuẫn của các dự án, dự thảo đang trong
giai đoạn soạn thảo sẽ dễ dàng hơn. Đồng thời, các nhà làm luật cần nghiên
cứu, tham khảo các văn bản pháp luật của các nước phát triển trên thế giới, lấy
ý kiến nhân dân để có thể dự liệu được cơ bản những quan hệ pháp luật có thể
phát sinh trong xã hội.
Luật tổ chức TAND, các luật tố tụng hiện hành cũng đã ghi nhận nguyên
tắc độc lập của Thẩm phán, HTND. Nhưng các quy định đó còn hạn chế về
phạm vi, mức độ và tính chất, chưa thể hiện hết nội hàm sự độc lập của Tòa án
và của cá nhân Thẩm phán. Vì vậy, cần có sự thể chế hóa hóa nguyên tắc độc
lập của Thẩm phán, HTND để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của
TAND cấp huyện. Mặt khác, cần hoàn thiện các quy định để nâng cao trách
nhiệm của Thẩm phán như quy định về kỷ luật, quy định về bãi miễn khi Thẩm
phán vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc năng lực xét xử yếu, kém. Bởi vì, pháp
luật quy định người Thẩm phán độc lập trong xét xử thì họ cũng phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình
3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ, ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ tại Tòa án nhân dân
TAND tỉnh Đắk Lắk cần phải đổi mới chiến lược đào tạo, bồi dưỡng theo
từng giai đoạn, nội dung chương trình đào tạo phải được xây dựng để phát triển
89
toàn diện năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác của mỗi Thẩm phán TAND
hai cấp tỉnh Đắk Lắk. Ngoài ra, cần mở rộng đối tượng được đào tạo như Hội
Thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, tổ chức các khóa đào tạo, bồi
dưỡng theo từng đối tượng để phát huy hiệu quả. Ví dụ: Đối với Thẩm phán sẽ
tổ chức các khóa bồi dưỡng nâng cao cao kiến thức của Thẩm phán liên quan
đến các lĩnh vực xét xử án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động vv…
Ngoài ra, các Thẩm phán còn được đào tạo các kỹ năng cơ bản liên quan đến
nghề nghiệp như kỹ năng điều hành phiên tòa một cách khoa học chặt chẽ, xây
dựng kế hoạch tổ chức phiên tòa, kế hoạch xét hỏi, dự kiến những tính huống
có thể xảy ra và phương án xử lý phù hợp; kỹ năng tập huấn viết bản án; kỹ
năng làm việc độc lập, quản lý hồ sơ, ứng dụng công nghệ thông tin trong xét
xử; bồi dưỡng thêm trình độ ngoại ngữ, tiếng Êđê, tin học. Bên cạnh việc được
cơ quan đào tạo, các Thẩm phán phải nâng cao ý thức tự trau dồi và cũng cố,
thường xuyên cập nhật, nghiên cứu sự thay đổi của hệ thống pháp luật để áp
dụng chính xác, thống nhất pháp luật.
Phải xây dựng đội ngũ cán bộ công chức phát triển bền vững, có cơ cấu
đồng bộ, trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc, có sự kế thừa
những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các thế hệ
đi trước. Cần chú trọng công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ cán
bộ công chức, Thẩm phán. Đạo đức, phẩm chất của Thẩm phán cũng đóng vai
trò quan trọng trong việc tăng cường tính độc lập của thẩm phán khi xét xử.
Mặc dù đã có các quy định về ứng xử cho tất cả cán bộ tòa án bao gồm cả các
quy định về xung đột lợi ích và kê khai tài sản; tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn
còn thiếu các quy định về một số vấn đề quan trọng như: những hạn chế sau
khi thôi giữ chức vụ và những quy định cụ thể về vai trò và trách nhiệm đặc
thù của Thẩm phán. Trong khi đó, tính chất công việc đòi hỏi các Thẩm phán
phải là người có đạo đức, nhân cách trong sáng; có năng lực chuyên môn tốt,
90
được mọi người kính trọng; có tinh thần dũng cảm trong việc đấu tranh bảo vệ
công lý, bảo vệ niềm tin. Bên cạnh những cán bộ, công chức, Thẩm phán luôn
giữ vững tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, tôn trọng pháp luật, kỷ luật
công vụ và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì vẫn còn một số ít cán
bộ, Thẩm phán có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
như suy sụt ý chí chiến đấu nên có những Thẩm phán bị cám giỗ trước những
lợi ích vật chất tầm thường, không giữ được sự liêm chính và bản lĩnh dẫn đến
có những sai phạm phải bị kỷ luật, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví
dụ: Năm 2019 Thẩm phán - Phó Chánh án TAND huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk
bị kết án về tội nhận hối lộ. Do đó, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm
phán, công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh nghề
nghiệp cho đội ngũ này có ý nghĩa quan trọng. Lãnh đạo TAND tỉnh Đắk Lắk
cần có các chương trình, kế hoạch cụ thể hàng năm về việc bồi dưỡng chính trị
- tư tưởng. Nội dung giảng dạy phải thiết thực đối với từng chức vụ, chức danh,
phương pháp bồi dưỡng cần thường xuyên thay đổi, thường xuyên cập nhật để
có thể thực hiện được mục tiêu định hướng hành động trong tình hình mới và
phải mang tính thống nhất. Đạt mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán
vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về chuyên môn là một yêu cầu quan trọng
trong tiến trình cải cách tư pháp.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng xét xử qua từng vụ án, để nâng cao
uy tín của Thẩm phán xây dựng TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
nói riêng và hệ thống TAND nói chung là biểu tượng của công lý thì nhân tố
quan trọng nữa là phẩm chất, nhân cách, niềm tin và sự tôn trọng của người dân
đối với Thẩm phán và Tòa án.
Thẩm phán không chỉ có hiểu biết pháp luật mà còn cần có ý thức pháp
luật cao hơn những người khác; có tư duy và khả năng vận dụng pháp luật để
giải quyết các vấn đề pháp lý đặt ra. Năng lực xét xử và đạo đức, phẩm chất
91
trong sáng không thể tách rời nhau trong con người Thẩm phán; do đó cần hạn
chế việc các Thẩm phán chỉ chú ý phấn đấu có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao nhưng lại không coi trọng đạo đức và lương tâm nghề nghiệp. Điều này dễ
dẫn đến độc tài trong xét xử. Ngược lại, nếu Thẩm phán chỉ có phẩm chất đạo
đức và lương tâm nghề nghiệp tốt nhưng chuyên môn nghiệp vụ không giỏi thì
cũng khó đảm bảo sự xét xử độc lập do không đủ năng lực bảo vệ pháp luật;
hoặc dễ dàng bị cám dỗ về vật chất.
Để hoàn thành được những nhiệm vụ và trọng trách của Thẩm phán như
đã phân tích ở trên, phải xây dựng một đội ngũ thẩm phán có tâm và có chuyên
môn nghiệp vụ cao thông qua việc tuyển chọn Thẩm phán phải là những người
có đủ các tiêu chuẩn theo yêu cầu của công việc và theo quy định của pháp luật.
Các tiêu chuẩn phải được quy định cụ thể từ trước về chất lượng, năng lực,
chuyên môn và phẩm chất cá nhân.
Ngoài việc cần có sức khỏe, tinh thần trách nhiệm cao, có khả năng phân
tích và phán đoán, có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
có kinh nghiệm thực tế đã trải qua công tác trong ngành luật và đáp ứng độ tuổi
theo tiêu chuẩn bổ nhiệm; Việt Nam cũng có thể nghiên cứu, xem xét học tập
và áp dụng kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đã làm, đó là: bổ nhiệm
Thẩm phán suốt đời để cho các Thẩm phán yên tâm xác định rõ trách nhiệm,
phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ công lý. Tuy
nhiên, xét trên điều kiện thực tế của Việt Nam, duy trì nhiệm kỳ đối với Thẩm
phán vẫn là một biện pháp hợp lý, trong đó chú ý tới cơ chế tái bổ nhiệm lần
đầu thành cơ chế đương nhiên được tái bổ nhiệm trừ trường hợp có những sai
phạm nghiêm trọng.
Cần xây dựng cơ chế thu hút cán bộ có trình độ, sinh viên tốt nghiệp đại
học chuyên ngành Luật, chuyên ngành Tòa án loại giỏi về công tác tại TAND
cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Có chính
92
sách đặc thù ưu tiên cho cán bộ, công chức làm việc tại TAND cấp huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk bởi đặc điểm địa lý tỉnh Đắk
Lắk là nơi khó thu hút nguồn nhân lực có chất lượng trong công tác tuyển dụng
và đào tạo.
3.2.3. Bảo đảm sự phối hợp trong hoạt động của tòa án đối với các cơ
quan có liên quan
TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc phối
hợp phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật, bảo đảm tính độc lập và
kiểm soát lẫn nhau giữa các giai đoạn tố tụng. Hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử được phối hợp ngay từ đầu để Tòa án có điều kiện tiếp cận hồ sơ sớm
nắm chắc tình tiết của vụ án để giải quyết kịp thời, đúng pháp luật.
Một số cơ quan, tổ chức chưa thực sự quan tâm đến công tác phối hợp
với Toà án, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình theo quy định của
pháp luật trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, giám định, tham gia định giá
tài sản, thực hiện uỷ thác tư pháp,…vì vậy cần phải có chế tài riêng dành cho
công tác phối hợp khi không thực hiện phối hợp.
3.2.4. Tăng cường kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của Tòa án nhân
dân
Để kịp thời chấn chỉnh các sai sót trong công tác nghiệp vụ, TAND cấp
trên thường xuyên duy trì công tác kiểm tra các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thẩm quyền quản lý
để phát hiện, đề xuất Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh kiến nghị Chánh án Tòa
án nhân dân cấp cao xem xét, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
khi có căn cứ theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, tổ chức các Đoàn công tác kiểm tra chuyên môn đối với 15
Tòa án cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Việc kiểm tra đảm bảo đúng
93
nội dung, được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, hiệu quả. Kết thúc
đợt kiểm tra, các đoàn kiểm tra đã tổ chức rút kinh nghiệm với các đối tượng
kiểm tra để chỉ ra những hạn chế, thiếu sót cần rút kinh nghiệm; đề xuất với
cấp có thẩm quyền xem xét xử lý đối với những trường hợp có sai lầm nghiêm
trọng. Thông qua công tác kiểm tra, Đoàn công tác nắm tình hình thực hiện các
nhiệm vụ chuyên môn, công tác khác, về các kết quả đạt được và những hạn
chế, thiếu sót của 15 Tòa án cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh để có biện
pháp tháo gỡ, khắc phục hoặc xử lý kịp thời những sai phạm, nhằm chấn chỉnh
những yếu kém trong công tác xét xử; phát hiện sớm và khắc phục, xử lý kịp
thời các trường hợp vi phạm quy chế nghiệp vụ trong hoạt động của Tòa án, vi
phạm pháp luật và kiên quyết xử lý nghiêm hoặc thanh lọc những cán bộ, công
chức, Thẩm phán có vi phạm, thoái hóa, biến chất.
3.2.5. Đổi mới về tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện
Kiện toàn đội ngũ công chức cán bộ có chức danh tư pháp ở Tòa án nhân
dân cấp huyện. Rà soát, sắp xếp, tổ chức lại bộ máy theo hướng tinh gọn đầu
mối bên trong của các Tòa án gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao
chất lượng đội ngũ công chức. Thực hiện việc luân chuyển, điều động, chuyển
đổi vị trí công tác để bổ sung nguồn nhân lực cho các đơn vị có số lượng công
việc nhiều, đồng thời bồi dưỡng, rèn luyện đối với cán bộ thuộc diện quy hoạch
các chức vụ lãnh đạo, quy hoạch bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân các
cấp.
Để cho hoạt động của hệ thống Tòa án, đặc biệt là hệ thống TAND cấp
huyện có hiệu quả thì công tác kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức trong hệ
thống Tòa án là hết sức quan trọng. Ngành Tòa án cần đặc biệt chú trọng xây
dựng đội ngũ Thẩm phán thanh liêm, chính trực, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, có tấm lòng nhân ái. Chú trọng
kiện toàn đội ngũ lãnh đạo tòa án các cấp có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín,
94
kinh nghiệm quản lý, lãnh đạo tòa án; luân chuyển cán bộ, thử thách trong môi
trường thực tế khác nhau đối với những cán bộ thuộc diện quy hoạch chức vụ
lãnh đạo ở Tòa án các cấp.
Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện, khắc phục những yếu
kém trong công tác xét xử; kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm phẩm chất,
đạo đức, lối sống, xây dựng tòa án trong sạch, vững mạnh. Các Đảng bộ Tòa
án các cấp phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "Tự
diễn biến", "Tự chuyển hóa" trong nội bộ. Để thực hiện tốt những nội dung trên
cần xác định phương hướng cụ thể thực hiện các kế hoạch sau:
- Quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng về mục tiêu xây
dựng đội ngũ cán bộ. Thực hiện nghiêm chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu
lại đội ngũ công chức, viên chức theo vị trí việc làm theo tinh thần Nghị quyết
số 39 - NQ/TW của Bộ Chính trị. Quán triệt, xây dựng kế hoạch và tổ chức
thực hiện Nghị quyết số 18 - NQ/TW và Nghị quyết số 19 - NQ/TW của Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả.
- Đổi mới công tác cán bộ. Hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ, xây
dựng và tổ chức thực hiện tốt các quy chế, quy định trong công tác cán bộ: về
tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ, công
chức; về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; về kiểm tra, giám sát và quản
lý cán bộ, công chức; về kỷ luật cán bộ, công chức; về bảo vệ chính trị nội
bộ…, bảo đảm sự gắn kết giữa các khâu trong công tác cán bộ.
Đổi mới cơ chế, phương pháp, nội dung và hình thức tuyển chọn cán bộ
phù hợp với vị trí việc làm, năng lực công chức. Hoàn thiện cơ chế tuyển chọn
cán bộ, thực hiện việc tuyển chọn thông qua thi cử công khai. Đồng thời, kiên
95
quyết loại trừ các hiện tượng tiêu cực nhằm tạo sức thu hút những cá nhân có
tài năng; xử lý kịp thời và nghiêm minh hành vi sai phạm của người làm công
tác tuyển chọn và người đang muốn được tuyển chọn.
- Bố trí sắp xếp nhân sự một cách hợp lý, sử dụng nhân sự đúng người
đúng việc, đúng sở trường; đồng thời có chính sách phù hợp để thu hút đội ngũ
những người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt phục vụ cho sự phát triển
của hệ thống Tòa án.
Thực hiện rà soát để bào đảm bố trí, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ
có hiệu quả, định kỳ hằng năm và theo từng giai đoạn, để bố trí, sắp xếp và sử
dụng cán bộ, thẩm phán bảo đảm phù hợp với năng lực, sở trường đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; đồng thời, để chủ động bố trí, sắp xếp cán
bộ, thẩm phán có năng lực, triển vọng đảm nhiệm các công việc quan trọng,
nhất là đối với diện quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân
chuyển cán bộ. Xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của các khâu trong công
tác cán bộ (phân loại, đánh giá cán bộ là tiền đề, quy hoạch cán bộ là nền tảng,
luân chuyển cán bộ là đột phá và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là yêu cầu vừa cấp
bách vừa lâu dài).
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách đối với cán bộ, Thẩm
phán TAND. Chế độ chính sách, tiền lương là một trong những vấn đề bảo đảm
tính độc lập của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án trong quá trình họ thực hiện
chức trách của mình.
Để bảo đảm xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức
và hoạt động của tòa án nhân dân thì việc xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy
tham mưu về công tác cán bộ là yêu cầu cấp thiết. Trên cơ sở Chiến lược cán
bộ của Đảng, việc xây dựng tổ chức bộ máy tham mưu về công tác cán bộ được
xác định như sau:
96
Một là, tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và
mối quan hệ công tác của cơ quan tham mưu về công tác tổ chức cán bộ: Bộ
máy làm công tác tổ chức cán bộ phải đảm bảo tinh, gọn, hoạt động thật sự có
hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán, chưa thật rõ trách nhiệm,
chưa thật nắm chắc cán bộ, không ít thời gian bị hút vào giải quyết sự vụ.
Hai là, xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ làm công tác tổ chức cán
bộ trên cơ sở cụ thể hoá tiêu chuẩn chung.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Ban cán sự đảng đối với bộ máy làm
công tác tổ chức cán bộ. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp Tòa án, mỗi đơn
vị phải trực tiếp chăm lo công tác cán bộ.
Bốn là, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, chú trọng tổng kết
thực tiễn về công tác tổ chức cán bộ. Đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ đòi
hỏi không chỉ sát thực tiễn, có trình độ, nhanh nhạy nắm bắt những vấn đề về
đường lối, chính sách, nhất là về đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước, mà còn
hiểu biết nhiều lĩnh vực ở trong nước và nước ngoài.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; quản lý cán bộ, tăng
cường kỷ luật công vụ gắn với kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm những cán
bộ, thẩm phán có vi phạm.
Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với cấp dưới. Kịp
thời kiểm tra, kết luận các vụ việc có liên quan đến lịch sử chính trị hoặc chính
trị hiện nay của cán bộ. Xử lý nghiêm những tập thể và cá nhân có sai phạm
trong quản lý, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Tăng cường trau
rồi phẩm chất, đạo đức và nâng cao năng lực nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ,
Thẩm phán gắn với công tác giáo dục chính trị tư tưởng và quản lý cán bộ.
Nâng cao tính độc lập, nghiêm minh của hoạt động xét xử.
Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét
xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND nói chung, TAND
97
cấp huyện nói riêng cần bám sát các quan điểm của Đảng và mục tiêu, yêu cầu
cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện
phải gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của
dân, do dân, vì dân; tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống TAND, các cơ
quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy Nhà nước; thực hiện đồng bộ
với quá trình cải cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, một số giải pháp đổi mới
tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện cần thực hiện là:
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án; xây dựng các cơ chế đảm bảo
việc áp dụng pháp luật
TANDTC tăng cường làm tốt công tác đảm bảo áp dụng thống nhất pháp
luật; thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; triển khai hiệu quả việc công khai
bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án trên cổng thông tin điện tử.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 03/2015/NQ - HĐTP về quy trình lựa
chọn, công bố và áp dụng án lệ, không chỉ dừng lại việc phát triển án lệ từ các
quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, lãnh đạo
TANDTC khuyến khích phát hiện các bản án của các Tòa án mang tính chuẩn
mực trong áp dụng pháp luật để giải quyết các tình huống thực tế phức tạp, hiện
còn có những vướng mắc hoặc cách hiểu khác nhau để đề xuất phát triển làm
án lệ.
Về thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, TANDTC đã hướng dẫn các
tiêu chí đặt ra đối với phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Nhìn chung
thời gian qua, các phiên tòa đã được tổ chức tốt hơn. Việc tranh tụng tại phiên
98
tòa được chú trọng, các Tòa án không hạn chế thời gian dành cho tranh tụng,
tôn trọng, đảm bảo cho các bên tham gia tố tụng đưa ra chứng cứ, trình bày hết
các ý kiến của mình; trên cơ sở kết quả tranh tụng, HĐXX đưa ra các phán
quyết đúng pháp luật, được dư luận xã hội ủng hộ.
Các Tòa án, đặc biệt là TAND cấp huyện cần tiếp tục thực hiện nghiêm
túc, có hiệu quả chủ trương công khai bản án. Đây là bước đột phá trong hoạt
động chỉ đạo điều hành của lãnh đạo TANDTC nhằm nâng cao năng lực, trách
nhiệm của các Thẩm phán, tăng tính thống nhất trong áp dụng pháp luật, tạo
điều kiện để nhân dân tham gia giám sát hoạt động xét xử của Tòa án.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án; đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán;
xem xét quy định kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán để tiến tới chế độ bổ nhiệm
Thẩm phán suốt đời; cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và
tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán; nâng cao năng lực của
HTND.
Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý tiếp tục được quan tâm và
thực hiện đúng quy định. Cùng với việc tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng định
kỳ, lãnh đạo Tòa án phải luôn khuyến khích cán bộ, công chức trong toàn hệ
thống tự học tập, trau rồi để nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là việc tự
học thông qua hoạt động rút kinh nghiệm công tác xét xử. Công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho cán bộ, thẩm phán phải được quan
tâm chú trọng đặc biệt, làm cho mỗi cán bộ, Thẩm phán phải thấy Năm 2018,
Hội đồng tuyển chọn thẩm phán quốc gia đã ban hành "Bộ Quy tắc đạo đức và
ứng xử của thẩm phán". Mỗi thẩm phán phải soi vào, lấy các chuẩn mực của
Bộ quy tắc này để phấn đấu, giữ gìn và rèn luyện. Đẩy mạnh công tác đào tạo,
bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ thẩm phán. Tăng
cường công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện cán bộ, công chức. Chú trọng
99
kiện toàn đội ngũ lãnh đạo Tòa án các cấp có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín,
kinh nghiệm quản lý, lãnh đạo Tòa án. Làm tốt việc luân chuyển cán bộ, thử
thách trong môi trường thực tế khác nhau đối với những cán bộ thuộc diện quy
hoạch chức vụ lãnh đạo ở Tòa án các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra, kịp
thời phát hiện những yếu kém trong công tác xét xử để khắc phục; kiên quyết
xử lý những cán bộ vi phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống để xây dựng Tòa án
trong sạch, vững mạnh.
Các Đảng bộ Tòa án các cấp phải nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện "Tự diễn biến", "Tự chuyển hoá" trong nội
bộ. Thẩm phán cũng phải nêu gương như đảng viên lãnh đạo. Chúng ta chỉ có
thể có được đội ngũ Thẩm phán tốt, đáng tin cậy trên nền của đội ngũ Đảng
viên tiên phong, gương mẫu.
Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk cần phải tăng cường hơn nữa ứng dụng công nghệ thông vào các hoạt
động để đáp ứng nhu cầu đổi mới mạnh mẽ thủ tục hành chính tư pháp và thủ
tục giải quyết các vụ việc tại Tòa án, giúp người dân tiết kiệm được chi phí,
công sức đi lại khi có việc tại Tòa án đó là: Cần xây dựng các phần mềm gửi
đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của
Tòa án bằng phương tiện điện tử; đăng ký sao bản án, tài liệu trong hồ sơ vụ án
qua mạng nhằm tăng cường minh bạch, công khai trong các hoạt động tố tụng
của Tòa án. Việc đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án, xác định công
tác hành chính tư pháp có vai trò quan trọng trong việc bổ trợ cho hoạt động tố
tụng và hoạt động quản lý, điều hành của Tòa án thông suốt và trôi chảy nên
công tác cải cách hành chính tư pháp cần được đẩy mạnh, tăng cường cơ sở vật
chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công
100
chức TAND.
101
Tiểu kết chương 3
Để hoàn thiện về tổ chức và bảo đảm hoạt động của Hệ thống TAND cấp
huyện nói chung và TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk nói riêng cần bám sát các quan điểm của Đảng và nhà nước về
mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp theo hướng tinh gọn bộ máy hoạt động có
hiệu quả, nâng cao năng lực xét xử, từ đó đưa ra các giải pháp mang tính đột
phá, có hiệu lực hiệu quả như: Tăng cường trách nhiệm người đứng đầu; nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ giữ chức danh tư pháp đặc biệt là Thẩm phán
thông qua việc đổi mới phương thức đào tạo và giáo dục chính trị tư tương; có
các chế độ, chính sách bảo vệ người Thẩm phán; ứng dụng công nghệ thông tin
vào hoạt động Tòa án; nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, dân sự,
hành chính; tổ chức phiên tòa theo tình thần cải cách tư pháp; đẩy mạnh quá
trình hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
1.1.2
102
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án
và những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trong
điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân ở nước ta. Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động xét xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND
nói chung, TAND cấp huyện nói riêng cần bám sát các quan điểm của Đảng và
mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của TAND cấp tỉnh phải gắn liền với việc xây dựng Nhànước pháp quyền
XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân; tiến hành đồng bộ với cải cách hệ
thống TAND, các cơ quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy Nhà
nước; thực hiện đồng bộ với quá trình cải cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Ở nước ta, hệ thống TAND được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh
thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết các việc khác theo
quy định của pháp luật. TAND cấp huyện là cấp Tòa án có vai trò quan trọng,
thực hiện việc xét xử sơ thẩm các vụ án theo thẩm quyền.
Trong hệ thống TAND ở nước ta hiện nay, TAND cấp huyện giữ một
vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ thẩm, theo thẩm
quyền. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
TAND cấp huyện đã có những bước phát triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt
động, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước ta.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của TAND nói
chung, TAND cấp huyện nói riêng cũng còn những hạn chế, bất cập trước yêu
cầu cải cách tư pháp, cụ thể như: Năng lực của Thẩm phán, HTND không đồng
103
đều, một bộ phận còn hạn chế; hoạt động của Tòa án còn bị tác động, bởi những
mối quan hệ từ bên ngoài (mối quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương;
cơ quan giám sát...) ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm phán trong
hoạt động xét xử; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của TAND còn nhiều khó
khăn, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của TAND cấp huyện trước
yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong tổng thể đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống TAND, cải cách tư pháp, cải cách hành chính và những
yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, một số giải pháp đổi mới
tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện cần thực hiện là: Hoàn thiện luật
tổ chức tòa án nhân dân và các văn bản hướng dẫn thi hàn; nâng cao năng lực,
trình độ, ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tại Tòa án nhân dân; bảo đảm
sự phối hợp trong hoạt động của tòa án đối với các cơ quan có liên quan; tăng
cường kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của Tòa an nhân dân; đổi mới về
tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của TAND cấp huyện trước
yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong tổng thể đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống TAND, cải cách tư pháp, cải cách hành chính và những
yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét
xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND nói chung, TAND
cấp huyện nói riêng cần bám sát các quan điểm của Đảng và mục tiêu, yêu cầu
cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND cấp tỉnh
phải gắn liền với việc xây dựng Nhànước pháp quyền XHCN Việt Nam của
104
dân, do dân, vì dân; tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống TAND, các cơ
quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy Nhà nước; thực hiện đồng bộ
với quá trình cải cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, một số giải pháp đổi mới
tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện cần thực hiện là: Hoàn thiện luật
tổ chức tòa án nhân dân và các văn bản hướng dẫn thi hàn; nâng cao năng lực,
trình độ, ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tại Tòa án nhân dân; bảo đảm
sự phối hợp trong hoạt động của tòa án đối với các cơ quan có liên quan; tăng
cường kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của Tòa an nhân dân; đổi mới về
tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện.
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Công báo/số 1003 + 1004/ngày
29-12-2013, Hà Nội
2. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Toà án nhân dân, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
3. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về cải
cách hệ thống Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Trương Hòa Bình (2014), “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án,
giải pháp đột phá để Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân”, Tạp chí TAND, Hà Nội.
5. Trương Hòa Bình (2014), “Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt
động của TAND, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ “Tòa án là cơ quan xét
xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện tư pháp”, Tạp chí TAND, Hà Nội.
6. Trương Hòa Bình (2014), “Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng đắn quyền quyền tư
pháp”, Tạp chí TAND, Hà Nội.
7. Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán
ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
8. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
9. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 về đề án đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
10. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp
1
tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa
IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
11. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Toà án nhân dân (năm 1960, 1981,
1992,2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
12. Luật đất đai (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
13. Luật đất đai (2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
14. Bộ luật Tố tụng hình sự (1988), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
15. Bộ luật Tố tụng hình sự (2015), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
16. Hiến pháp 1946, Nxb chính trị quốc gia
17. Hiến pháp 1992, Nxb chính trị quốc gia
18. Bộ chính trị (2022), Nghị quyết 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 về tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn mới, Hà Nội.
19. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
20. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền
dân sự chính trị.
21. Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb Tư Pháp, Hà Nội.
22. Đại hội đại biểu toàn quốc (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII ngày 28/01/2016, Hà Nội.
23. Hội đồng Tuyển chọn giám sát Thẩm phán quốc gia (2018), Quyết định
số 87/QĐ-HĐTC ngày 04/7/2018 của Hội đồng Tuyển chọn giám sát Thẩm
phán quốc gia về việc ban hành bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán,
Hà Nội.
24. Khoa học tổ chức và quản lý (1999), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Thống kê, Hà Nội, tr 25.
2
25. Th.S Nguyễn Bằng Phi (2014), “Luận bàn về Tòa án là cơ quan xét xử,
thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam”, Tạp chí TAND, Hà Nội.
26. TAND tối cao (2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao động, Hà Nội.
27. Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm
phán ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
28. Nguyễn Văn Tám (2013), Vị trí, vai trò của TAND trong thể chế Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
29. Nguyễn Anh Thư (2014), “Nâng cao trình độ nghiệp vụ của Thư ký Tòa
án, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử, đáp ứng yêu cầu của chiến lược cải
cách tư pháp”, Tạp chí TAND, Hà Nội.
30. TAND tối cao (2016), Quyết định số 345/2016/QĐ-CA ngày 07/4/2016
của Chánh án TAND tối cao về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các
đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà
Nội.
31. TAND tối cao (2008), Quyết định số 1138/2008/QĐ – TCCB ngày
22/8/2008 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về phân cấp quản lý cán bộ
Toà án nhân dân địa phương, Hà Nội.
32. TAND tối cao (2017), Quyết định số 663/QĐ-TANDTC ngày 12/4/2017
của Chánh án TAND tối cao quy định về số lượng lãnh đạo, quản lý cấp phó
đối với TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và TAND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Hà Nội.
33. TAND tối cao (2017), Hướng dẫn số 163/HD-TANDTC ngày
30/3/2017 về hướng dẫn công tác tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo yêu
cầu cải cách tư pháp, Hà Nội.
34. TAND tối cao (2017), Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017
3
của TAND tối cao về việc ban hành quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức
danh tư pháp trong tòa án nhân dân, Hà Nội.
35. TAND tối cao (2018), Quyết định số 2228/QĐ-TCCB ngày 27/12/2018
của TAND tối cao về tổng biên chế và số lượng Thẩm phán TAND tỉnh Đắk
Lắk, Đắk Lắk.
36. TAND tỉnh Đắk Lắk (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2018 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2019 của các Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Đắk Lắk.
37. TAND tỉnh Đắk Lắk (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2019 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2020 của các Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Đắk Lắk.
38. TAND tỉnh Đắk Lắk (2020), Báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2021 của các Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Đắk Lắk.
39. TAND tỉnh Đắk Lắk (2021), Báo cáo tổng kết công tác năm 2021 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2022 của các Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Đắk Lắk.
40. TAND tỉnh Đắk Lắk (2022), Báo cáo tổng kết công tác năm 2022 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023 của các Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Đắk Lắk.
41. TAND tỉnh Đắk Lắk (2018), Quyết định số 379/QĐ-TA ngày
17/12/2018 của Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc phân công Chánh án và
các Phó Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
42. TAND tỉnh Đắk Lắk (2019), Quyết định số 18/QĐ-TA ngày 05/4/2019
về việc ban hành Quy chế làm việc của TAND tỉnh, Đắk Lắk;
4
5