intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

16
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất những giải pháp nhằm phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo Luận văn này!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông hiện nay

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ĐỖ MINH SƠN PHÁT TRIỂN Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2013
  2. 3 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ĐỖ MINH SƠN PHÁT TRIỂN Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC MÃ SỐ: 60 22 03 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS TRẦN PHÚC THĂNG HÀ NỘI - 2013
  3. 4 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ QUY ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH -VIỄN THÔNG 10 1.1. Thực chất sự phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông 10 1.2. Những nhân tố quy định sự phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông 23 Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH-VIỄN THÔNG 37 2.1. Thực trạng phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông hiện nay 37 2.2. Những quan điểm và giải pháp phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông. 58 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 PHỤ LỤC 83
  4. 5 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước nguồn nhân lực trở thành nhân tố quyết định chủ yếu đến sự phát triển kinh tế-xã hội, trong xây dựng và bảo về Tổ quốc. Hồ Chủ tịch đã từng khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện cả tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cho cái tương lai đó” [22,tr. 185]. Nhiệm vụ giáo dục đào tạo thế hệ trẻ là công việc của toàn xã hội, do đó các Học viện, các trường đại học và cao đẳng bên cạnh mục tiêu đào tạo chuyên môn, còn có nhiệm vụ nặng nề phát triển ý thức chính trị cho các đối tượng sinh viên. Ý thức chính trị là một loại hình ý thức xã hội có vai trò quan trọng trong việc định hướng về chính trị trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội. Trong thời đại ngày nay, ý thức chính trị của giai cấp công nhân là loại hình ý thức chính trị tiên tiến định hướng cho quá trình tồn tại và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đối với sinh viên các học viện, các trường đại học và cao đẳng trong và ngoài quân đội ở Việt Nam, ý thức chính trị là cơ sở hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học; ý thức chính trị là nền tảng quy định quá trình hình thành, phát triển phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn của mỗi sinh viên. Chính vì vậy, đồng thời với quá trình đào tạo chuyên môn các học viện, các trường đai học phải phát triển ý thức chính trị cho các đối tượng sinh viên nhằm đào tạo ra những con người vừa hồng vừa chuyên. Trong điều kiện hiện nay, chủ nghĩa đế quốc tiếp tục đẩy mạnh chiến lược diễn biến hòa bình với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại nhằm biến quá trình diễn biến hòa bình thành quá trình tự diễn biến ở các nước này. Trọng
  5. 6 tâm của chiến lược diễn biến hòa bình là tập trung vào công tác tuyên truyền, tấn công vào lĩnh vực tư tưởng, lĩnh vực lý luận. Đối tượng và địa bàn chống phá của chủ nghĩa đế quốc hiện nay tập trung vào đội ngũ trí thức, đội ngũ sinh viên của các nhà trường, đối tượng có trình độ nhận thức, tiếp nhận nhanh cái mới, nhạy cảm với các vấn đề của đời sống xã hội, có khả năng lan tỏa tư tưởng nhanh… Mặt khác, khi Việt Nam bước vào cơ chế thị trường, cả mặt tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trường tác động đến tư tưởng tình cảm và hành động của con người. Trong sự tác động đó, có tác động tiêu cực đến việc phát triển ý thức chính trị của sinh viên nên việc phát triển ý thức chính trị của sinh viên các Học viện, trường đại học là một nhiệm vụ cấp bách trong điều kiện hiện nay. Bởi vậy, yêu cầu và nhiệm vụ cấp bách hiện nay đối với Học viện công nghệ Bưu chính - Viễn thông là phát triển ý thức chính trị cho sinh viên đảm bảo cho họ có đủ phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn đáp ứng với mục tiêu đào tạo của nhà trường. Xuất phát từ thực trạng của việc phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông.Từ khi thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, sự điều hành của ban Giám đốc, cùng với sự nỗ lực của các lực lượng giáo dục, cũng như quá trình tự đào tạo của sinh viên trong Học viện, việc xây dựng và phát triển ý thức chính trị của sinh viên đã có những kết quả nhất định. Đa số sinh viên khi tốt nghiệp ra trường với các trình độ khác nhau đã có những hiểu biết tương đối tốt về chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, tin vào sự thắng lợi của công cuộc đổi mới của đất nước. Hầu hết sinh viên sẵn sàng chấp nhận yêu cầu của thị trường sau khi tốt nghiệp, hòa nhập với công việc nhanh chóng. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan cùng những nhân tố chủ quan, do đặc thù của ngành nghề đào tạo tác động, dẫn đến sự phát triển ý thức chính trị của bộ phận sinh viên vẫn còn
  6. 7 những hạn chế. Đặc biệt, sự hiểu biết về chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, xác định động cơ, mục tiêu phấn đấu, rèn luyện chưa rõ ràng, ý chí khắc phục khó khăn của một số sinh viên chưa cao... Bên cạnh đó, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển ý thức chính trị cho sinh viên chưa được các lực lượng giáo dục trong Học viện quan tâm, nghiên cứu và thực hiện đồng bộ, đúng mức. Xuất phát từ thực tiễn tham gia giảng dạy trong và ngoài quân đội từ 1987 đến nay của bản thân, tác giả thấy rõ tính cấp thiết của việc phát triển ý thức chính trị của sinh viên trong điều kiện hiện nay. Với các lý do trên tác giả lựa chọn đề tài “Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông hiện nay” nhằm luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong quá trình phát triển ý thức chính trị cho sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài quân đội thời gian gần đây đang được nhiều người quan tâm, nên đã xuất hiện nhiều bài báo viết về vấn đề này trên các góc độ nghiên cứu khác nhau. Về các bài viết có liên quan đến giáo dục ý thức chính trị, các môn Mác-Lê nin, triết học có: Tham luận của GS.TSKH Bành Tiến Long (2008) “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng cho học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” trong kỷ yếu Hội thảo khoa học Ban tuyên giáo Trung ương; Tác giả Nguyễn Lương Bằng: “Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận Mác-Lê nin ở các trường đại học hiện nay” Tạp chí lý luận chính trị, số 7-2000; Tác giả Lương Minh Cừ:
  7. 8 “Một số ý kiến về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên hiện nay”Tạp chí Giáo dục số 60 tháng 6- 2003; Tác giả Nguyễn Văn Hiền “ Về phương pháp so sánh trong dạy học các môn khoa học Mác-Lê nin”, tạp chí Giáo dục, số 110 tháng 3-2005. Đề tài: “Phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã hội và ngoài quân đội trong thời kỳ đổi” của PGS. TS Lê Văn Quang, Nxb QĐND, H 2001; Ngoài ra, vấn đề giáo dục chính trị, tư tưởng còn có các công trình tập thể khác cũng đề cập tới. Đề tài:“Công tác tư tưởng và giảng dạy lý luận trong trường đại học và cao đẳng” do Phạm Văn Năng chủ biên, Nxb thành phố Hồ Chí Minh; đề tài:“Một số ý kiến trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học lý luận Mác-Lê nin ở đại học và cao đẳng” của tập thể tác giả Lê Xuân Nam, Lê Thanh Sinh, Nguyễn Thanh, Lương Minh Cừ, Hoàng Trung (đồng chủ biên), Nxb thành phố Hồ Chí Minh, năm 2002; đề tài:“ Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về dạy và học môn học Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học”do Nguyễn Duy Bắc chủ biên, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2004… nhìn chung các bài báo, các tham luận đã đưa ra những cơ sở lý luận về đổi mới nội dung giảng dạy lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần giáo dục chính trị, phát triển ý thức chính trị của học sinh, sinh viên trong điều kiện hiện nay. Nghiên cứu vấn đề ở trình độ luận văn thạc sĩ, tiến sĩ có các công trình tiêu biểu như: đề tài “ Bản chất quá trình phát triển ý thức xã hội chủ nghĩa của sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam”, luận văn thạc sĩ của Trần Xuân Bình, Học viện Chính trị- quân sự; đề tài “Quá trình phát triển ý thức chính trị ở học viên sĩ quan pháo binh hiện nay” của Phùng Văn Ngọc, Học viện Chính trị- quân sự. Đề tài: “Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên nước ta trong giai đoạn hiện nay” luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Hữu Vị, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, đại học
  8. 9 Quốc gia, Hà Nội, năm 2006; đề tài: “Công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạọ đức, lối sống cho sinh viên ở trường đại học Tây nguyên”, luận văn tiến sĩ triết học của Hoàng Anh, năm 2006; đề tài: “Giảng dạy triết học Mác-Lê nin với việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường đại học”, luận văn thạc sĩ triết học của Hoàng Thúc Lân, năm 2003; đề tài: “ Thông tin với hoạt động giảng dạy lý luận Mác-Lê nin ở các trường đại học (Qua thực tế các trường đại học ở Hà Nội)”, luận văn thác sĩ triết học của Phan Thị Thanh Hải, năm 2003. Các luận văn trên đã đưa ra một cách có hệ thống cơ sở lý luận và đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên thông qua giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các công trình nói trên, tiếp cận phát triển ý thức chính trị từ nhiều góc độ nhưng đã chỉ rõ bản chất của quá trình phát triển ý thức chính trị, phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã hội và trong quân đội; đồng thời luận giả khá sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển ý thức chính trị cho học viên sĩ quan trong quân đội cũng như sinh viên tại các trường đại học và cao đẳng trong cả nước. Bộ giáo dục và đào tạo đã ra chỉ thị số 2516/ BGD & ĐT ngày 18/5/2007 về việc thực hiện cuộc vận động“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong ngành giáo dục. Vấn đề phát triển ý thức chính trị cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng đã được quan tâm từ lâu nay càng phải quan tâm nhiều hơn. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào tìm hiểu về phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông. Những công trình khoa học đó là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để tác giả phát triển đề tài“ Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông hiện nay” 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Mục đích: Đề tài nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính -
  9. 10 Viễn thông, đề xuất những giải pháp nhằm phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông hiện nay. Nhiệm vụ: Một là, làm rõ thực chất phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông. Hai là, đánh giá thực trạng phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông. Ba là, một số quan điểm và giải pháp cơ bản phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: ý thức chính trị của Sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông. Phạm vi nghiên cứu: phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông hiện nay mà không nghiên cứu sang các hoạt động khác của sinh viên, trong lịch sử phát triển của Học viện. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài Một là, Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị, ý thức chính trị, phát triển ý thức chính trị; các văn kiện nghị quyết của Đảng bộ khối kinh tế trung ương, đảng bộ tập đoàn về xây dựng Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông; các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài. Hai là, Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn chủ yếu là tình hình thực tế của các hệ đào tạo sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông, các văn bản của Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn Thông cũng như kết quả khảo sát điều tra trực tiếp của tác giả về thực trạng phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện.
  10. 11 Ba là, Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là kết hợp phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử với các phương pháp: điều tra xã hội học; phỏng vấn, so sánh và thực tiễn quá trình giáo dục đào tạo của Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông, trên cơ sở giảng dạy, quản lý của tác giả. 6. Ý nghĩa của đề tài Kết quả của luận văn sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo toàn diện của Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông, đặc biệt là phát triển ý thức chính trị của sinh viên của Học viện Công nghệ Bưu chính- Viễn thông trong giai đoạn hiện nay. Luận văn sau khi đã hoàn thành có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và vận dụng vào hoạt động giáo dục, đào tạo tại các cơ sở đào tạo của Học viện công nghệ Bưu chính - Viễn thông cũng như các trường đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Bưu chính - Viễn thông. 7. Kết cấu của đề tài Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương ( 4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  11. 12 Chương 1 THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ QUY ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH- VIỄN THÔNG 1.1.Thực chất sự phát triển ý thức chính trị của sinh viên học viện Công nghệ Bưu chính- Viễn thông 1.1.1.Ý thức chính trị. Khái niệm ý thức chính trị Chính trị là một trong bốn lĩnh vực cơ bản cấu thành xã hội: lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tinh thần, lĩnh vực xã hội. Chính trị phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia. Về bản chất các mối quan hệ đó là các vấn đề về nhà nước. Chính trị, theo Lê nin, đó là mối quan hệ giữa các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc về mặt nhà nước: “ Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” [15,tr. 349]. Chính trị của một giai cấp được quy định bởi địa vị kinh tế- xã hội của giai cấp đó trong nền sản xuất xã hội. Quan hệ giữa các giai cấp, các đảng phái trong việc đấu tranh để giành và giữ chính quyền phụ thuộc vào quyền sở hữu của giai cấp đó đối với tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Giai cấp chiếm địa vị thống trị về kinh tế sẽ trở thành giai cấp thống trị về chính trị trong xã hội. Chính quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước của giai cấp đảm bảo cho sự thống trị về kinh tế của giai cấp đó. Nhà nước là công cụ chủ yếu để giai cấp thống trị duy trì sự thống trị của mình đối với xã hội, do đó trong quan hệ giữa các giai cấp, các chính đảng vấn đề chính quyền nhà nước luôn được quan tâm hàng đầu. Bàn về vấn đề này, Lê nin đã chỉ rõ: “ Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế” [15,tr. 349]. Một giai cấp thống trị về kinh tế muốn trở thành giai cấp thống trị trong xã hội phải tổ chức một cuộc cách mạng xã hội để giành chính quyền nhà nước,
  12. 13 qua nhà nước, qua các công cụ bạo lực của nhà nước để thống trị toàn bộ xã hội theo lợi ích của giai cấp mình. Hồ Chí Minh khi bàn về chính trị đã chỉ rõ những nội dung cơ bản của chính trị. Theo Người, trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, biểu hiện đầu tiên của chính trị là yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc. Đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh dân tộc để giữ nước và dựng nước. Yêu nước phải thương dân, không thương dân thì không có gì để nói về yêu nước cả. Dân là số đông, làm cho số đông ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do hạnh phúc. Hồ Chí Minh chủ trương xây nền chính trị của dân, do dân, vì dân. Điều quan trọng là Hồ Chí Minh đưa truyền thống yêu nước, thương dân và hệ thống hoạt động của dân, do dân, vì dân thành một nội dung cơ bản để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ chính trị xã hội ở Việt Nam. Sự thống nhất giữa tính giai cấp công nhân với tính dân tộc là đặc trưng tiêu biểu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị. Độc lập dân tộc phải đem lại quyền lợi cho nhân dân: “ Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [21, tr. 56]. Chế độ chính trị, hệ thống chính trị phải thực hiện nội dung cơ bản: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân” [ 23, tr.698]. Chính vì nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị nên phải xây dựng một nhà nước trong sạch, sáng suốt. Từ các quan điểm trên có thể khẳng định Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm chính trị của chủ nghĩa Mác-Lê nin về chính trị vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Như vậy, chính trị hiểu một cách đầy đủ là toàn bộ những hoạt động của các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã hội trong việc giành, sử dụng và giữ chính quyền nhà nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước.
  13. 14 Chính trị có cấu trúc phức tạp gồm: ý thức chính trị, tổ chức thể chế chính trị, quan hệ chính trị và hoạt động chính trị. Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội chủ yếu, phản ánh tồn tại xã hội. Ý thức chính trị phản ánh các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia đồng thời cũng phản ánh thái độ của các giai cấp đối với quyền lực chính trị. Đặc trưng của ý thức chính trị thể hiện tập trung và trực tiếp nhất quan hệ lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế giữa các giai cấp. Ý thức chính trị là một loại hình ý thức xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng lý luận, tâm lý và tình cảm của một giai cấp về địa vị, vai trò lịch sử, về mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, về đường lối chiến lược và sách lược của giai cấp đó trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Ý thức chính trị cũng phản ánh tồn tại xã hội như các hình thái ý thức xã hội khác nhưng ý thức chính trị và ý thức pháp quyền gần với cơ sở kinh tế hơn cả và giữ vai trò chi phối mạnh mẽ nhất đối với tồn tại xã hội. Kết cấu của ý thức chính trị Ý thức chính trị được tạo thành trong sự thống nhất, tác động biện chứng của nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố cơ bản là: tri thức chính trị, tình cảm, ý chí chính trị và niềm tin chính trị. Tri thức chính trị là yếu tố cơ bản, cốt lõi nhất của ý thức chính trị. Tri thức chính trị là những hiểu biết của con người về lý luận và thực tiễn của tổ chức thể chế chính trị, quan hệ chính trị và hoạt động chính trị. Tri thức chính trị phản ánh, củng cố và thực hiện trên thực tế lợi ích của các giai cấp và của toàn xã hội. Tình cảm ý thức chính trị là một hình thái đặc biệt nói lên thái độ của con người với những hiện tượng chính trị khác nhau trong đời sống xã hội. Niềm tin chính trị đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, nó có thể quy định mục đích hành vi cá nhân và tập thể, tập đoàn xã hội trong hoạt động chính trị, định hướng sự tìm kiếm những phương tiện để đạt mục đích lợi ích chính trị.
  14. 15 Ý chí chính trị là sự hội tụ của tri thức chính trị và tình cảm chính trị hướng vào hoạt động của con người. Ý chí là hiện tượng tâm lý, điều chỉn hành vi của con người. Ý chí biến đổi dưới sự tác động của điều kiện lịch sử, xã hội. Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện qua năng lực thực hiện những hành động có mục đích. Lý tưởng chính trị là mục tiêu chung cao nhất và hoàn thiện nhất mà một cá nhân, một giai cấp cụ thể phấn đấu để đạt tới với quyết tâm cao nhất trong quá trình hoạt động chính trị. Lý tưởng chính trị được hình thành thông qua quá trình nhận thức, giáo dục và hoạt động chính trị, nó hướng toàn bộ hoạt động của một cá nhân hay một tập đoàn vào một mục tiêu chính trị xác định. Như vậy, ý thức chính trị ngoài nhân tố tri thức cần phải có sự chuyển hóa từ tri thức để xuất hiện tình cảm, ý chí, niềm tin, lý tưởng chính trị để cho nó trở thành hiện thực. Ý thức chính trị cũng có hai cấp độ phản ánh tồn tại xã hội gồm ý thức chính trị thông thường và ý thức chính trị lý luận. Ý thức chính trị thông thường nảy sinh tự phát từ hoạt động thực tiễn và kinh nghiệm xã hội trong môi trưởng kinh tế - xã hội trực tiếp hàng ngày. Ý thức chính trị thông thường chứa đựng các yếu tố tâm lý, kinh nghiệm cảm tính, nhận thức theo thói quen những biểu hiện bên ngoài của hoạt động chính trị mà chủ thể tham gia nên thường thiếu hệ thống, thiếu sâu sắc do vậy thường thiếu sự ổn định. Ý thức chính trị lý luận là trình độ cao của ý thức chính trị, nó được hình thành tự giác, được các nhà tư tưởng của một giai cấp xây dựng và truyền bá trong xã hội. Ý thức chính trị lý luận được diễn tả trong các học thuyết chính trị - xã hội, được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh của các chính đảng và các giai cấp khác nhau trong xã hội có giai cấp khác nhau cũng như được cụ thể hóa trong luật pháp, chính sách của nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị. Trong xã hội có giai cấp, ý thức chính trị có tính giai cấp. Tính giai cấp biểu hiện ở cả ý thức chính trị thông thường và ý thức chính trị lý luận. Ở
  15. 16 trình độ lý luận chính trị thì tính giai cấp biểu hiện sâu sắc hơn. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, những tư tưởng thống trị xã hội bao gời cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của xã hội đó. Các Mác và Ăng ghen đã từng khẳng định: “ Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị” [16, tr. 66]. Trong quá trình thống trị xã hội, các giai cấp thống trị, bóc lột thường tìm cách phủ nhận, xuyên tạc tính giai cấp của ý thức chính trị và tìm mọi cách chứng minh tư tưởng của họ là tư tưởng phản ánh lợi ích chung của xã hội. Ý thức chính trị về bản chất là sự cô đọng lợi ích kinh tế của giai cấp này trong mối quan hệ với giai cấp khác. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị về kinh tế, nắm cơ sở kinh tế cũng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, trong đó có bộ phận cực kỳ quan trọng là nhà nước. Thông qua việc sử dụng công cụ nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế thống trị xã hội cả về vật chất và tinh thần. Do đó, ý thức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế cũng là ý thức chính trị trong toàn xã hội. Các Mác và Ăng ghen đã khẳng định: “ Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời là bị giai cấp thống trị đó chi phối” [16, tr. 66]. Trong xã hội có giai cấp, mỗi cá nhân đều thuộc về một giai cấp, một tầng lớp xã hội nhất định, có cùng kiểu sinh hoạt vật chất và bị ý thức chính trị của cộng đồng (xã hội, giai cấp, tầng lớp) chi phối. Mặt khác, trong xã hội có giai cấp, mỗi cá nhân ngoài những điều kiện sinh hoạt vật chất chung của xã hội, giai cấp, tầng lớp còn có điều kiện, hoàn cảnh sống cụ thể, khác biệt; do đó trong ý thức chính trị cá nhân có dấu ấn của ý thức cộng đồng. Ý thức chính trị cộng đồng là ý thức chính trị phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của cộng đồng, nảy sinh từ nhu cầu, lợi ích chính trị đồng thời giúp cho ý thức của cộng đồng. Ý thức chính trị cá nhân là những nhận thức,
  16. 17 thái độ, niềm tin, ý chí của từng cá nhân về những vấn đề chính trị cụ thể, vì thế nó rất phong phú và đa dạng. Rõ ràng, nếu ý thức chính trị cộng đồng là những tư tưởng, quan điểm, lý luận, tâm lý chính trị của số đông thì ý thức chính trị của cá nhân lại bao gồm những hiểu biết, quan niệm, quan điểm cũng như tình cảm, thái độ, niềm tin chính trị của từng cá nhân cụ thể trong cộng đồng. Ý thức chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân có quan hệ chặt chẽ với nhau. Ý thức chính trị cộng đồng cũng là ý thức chính trị của con người, tồn tại, phát triển thông qua ý thức của mỗi cá nhân. Tóm lại, ý thức chính trị cá nhân và ý thức chính trị cộng đồng tồn tại trong xã hội có giai cấp, trong mối liên hệ biện chứng, tác động và chuyển hóa lẫn nhau. Chính vì vậy, để nghiên cứu ý thức chính trị của một cộng đồng hoặc một cá nhân nào đó trong một xã hội cụ thể trong một giai đoạn cụ thể cần phải xem xét ở nhiều góc độ, các khía cạnh, phải tập trung vào những quan hệ lớn phản ánh đời sống kinh tế, đời sống chính trị. Tính độc lập tương đối của ý thức chính trị Ý thức chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng và thực tiễn chính trị của xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội nên luôn bị chi phối bởi các quy luật ý thức xã hội nói chung, đặc biệt khi đặt nó trong mối quan hệ với tồn tại xã hội.Tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội ấy, tồn tại xã hội quyết định thực tiễn chính trị, thực tiễn chính trị nào thì ý thức chính trị đó. Chính tồn tại xã hội, tổ chức thể chế chính trị, quan hệ chính trị và hoạt động chính trị gồm các sự kiện, tình huống chính trị là cái quyết định ý thức chính trị. Tuy nhiên, cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức chính trị có tính độc lập tương đối. Ý thức chính trị cũng có tính lạc hậu, tính kế thừa và tính vượt trước, có mối quan hệ với các hình thái ý thức xã hội khác như ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức thầm mỹ, ý thức tôn giáo…và trong
  17. 18 thời đại ngày nay nó vẫn giữ vai trò chi phối đối với sự hình thành, phát triển ý thức xã hội nói chung. Ý thức chính trị có tính lạc hậu so với tồn tại xã hội. Sự lạc hậu đó bị quy định bởi quan hệ lợi ích. Trong xã hội có giai cấp, ý thức chính trị thường gắn với lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội nhất định. Chính vì vậy, những tư tưởng chính trị cũ, lạc hậu thường được các lực lượng phản tiến bộ lưu giữ, tuyên truyền. Tính vượt trước của ý thức chính trị thể hiện trong các học thuyết, các tư tưởng chính trị khoa học phản ánh đúng những mối liên hệ bản chất, tất yếu của đời sống chính trị, dự báo tương lai và có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Trong quá trình tồn tại và phát triển, ý thức chính trị không chỉ phản ánh đời sống chính trị đương đại mà còn lưu giữ, kết hợp, phát triển các yếu tố hợp lý từ ý thức chính trị trong quá khứ và cả các yếu tố tiên tiến của ý thức chính trị bên ngoài mảnh đất hiện thực mà nó xuất hiện. Ý thức chính trị cũng mang tính kế thừa. Trong quá trình phản ánh tồn tại xã hội cũng như trong quá trình phát triển ý thức chính trị luôn kế thừa các tư tưởng chính trị của nhân loại. Ý thức chính trị cũng kế thừa các tư tưởng chính trị truyền thống. Sự kế thừa đó tùy thuộc vào vị trị, lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Chính sự kế thừa đó làm điều kiện để giai cấp thống trị xã hội nắm quyền thống trị xã hội cả về vật chất và tinh thần, củng cố vững chắc địa vị thống trị của mình trong xã hội. Trong các hình thái của ý thức xã hội, thì ý thức chính trị có tầm quan trọng đặc biệt, nó quyết định xu hướng và bản chất của các hình thái ý thức xã hội khác vì sự gắn bó chặt chẽ của nó đối với tồn tại xã hội. Trong xã hội có giai cấp, ý thức chính trị bằng cách này hay cách khác tác động mạnh mẽ trở lại đối với thực tiễn chính trị. Hình thành từ thực tiễn chính trị đến lượt mình, ý thức chính trị lại thâu tóm, chi phối các tình huống
  18. 19 và các quá trình xã hội. Ý thức chính trị tác động trở lại tồn tại xã hội, trong đó tác động đến cơ sở kinh tế, tác động đến các giai cấp, cá nhân trong xã hội. Hệ tư tưởng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước, nó tác động trở lại cơ sở kinh tế, và “ Có thể trong những giới hạn nhất làm thay đổi cả cơ sở kinh tế” [9, tr.101]. Học thuyết chính trị phản ánh đúng hoặc sai lệch hiện thực khách quan sẽ có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lịch sử. Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Hệ tư tưởng quy định phương hướng chính trị của các hoạt động tinh thần. Hệ tư tưởng là cơ sở lý luận để đề ra đường lối chính trị, hình thành các thiết chế chính trị và các nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước. Tác động tích cực hay tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị cũng như ý thức chính trị nói chung phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng của hệ tư tưởng đó. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất sản xuất tiên tiến sẽ đề ra hệ tư tưởng chính trị tiến bộ, cách mạng phù hợp với nhu cầu giải phóng lực lượng sản xuất, đưa xã hội tiến lên. Khi giai cấp đó trở nên lạc hậu, phản động thì hệ tư tưởng chính trị của giai cấp đó cũng mang tính lạc hậu phản động và có tác động tiêu cực kìm hãm sự phát triển của xã hội. Trong thế giới hiện đại, giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng. Hệ tư tưởng đó là lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. Nội dung cốt lõi nhất trong hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân là mục tiêu, con đường, biện pháp để thực hiện cuộc đấu tranh xóa bỏ tình trạng áp bức
  19. 20 giai cấp, áp bức dân tộc, áp bức con người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản tiến tới xây dựng một xã hội không có giai cấp. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản hàng trăm năm nay diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực hệ tư tưởng. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản vẫn đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Thực tiễn cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải nâng cao vai trò hệ tư tưởng của giai cấp công nhân- hệ tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa. Từ phân tích trên có thể kết luận ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính – Viễn thông là những tư tưởng tình cảm, tâm lý chính trị phản ánh trình độ nhận thức, thái độ trách nhiệm chính trị của họ trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành, phát triển chủ yếu trong quá trình học tập, rèn luyện tại Học viện Công nghệ Bưu chính – Viễn thông. 1.1.2.Vai trò của việc phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện công nghệ Bưu chính – Viễn thông hiện nay Sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính- Viễn thông là những người có đủ tiêu chuẩn qua thi tuyển, cử tuyển, được đào tạo tích hợp khối kiến thức viễn thông - công nghệ - kế toán tài chính - quản trị kinh doanh để trở thành những người có trình độ cử nhân, kỹ sư đáp ứng cho yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoàn thành khóa học sinh viên có trình độ cử nhân với quản trị kinh doanh, kế toán tài chính, kỹ sư với các ngành Công nghệ thông tin, Điện tử viễn thông, Kỹ thuật điện tử, đáp ứng với yêu cầu ngày càng phát triển của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng tới xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế tri thức. Phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp. Phát triển theo quan điểm duy vật biện chứng là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
  20. 21 hoàn thiện hơn. Lê nin đã chỉ rõ: “Phát triển là một cuộc “ đấu tranh” giữa các mặt đối lập” [9, tr. 379]. Rõ ràng, Phát triển của sự vật là quá trình tự thân, tồn tại khách quan độc lập bên ngoài ý thức con người. Phát triển làm cho sự vật hoàn thiện hơn, đa dạng hơn về cấu trúc, về mối liên hệ. Phát triển của sự vật là quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong bản thân nó. Phát triển ý thức chính trị là quá trình làm biến đổi về chất trong nhận thức, tình cảm chính trị, hình thành nên các quan điểm chính trị, đời sống tâm lý, tình cảm tốt đẹp về chính trị của giai cấp cầm quyền nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp trong xã hội. Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và đối tượng giáo dục nhằm biến đổi về chất trong nhận thức chính trị, tình cảm, ý chí, niềm tin chính trị hình thành nên các quan điểm chính trị, đời sống tâm lý, tình cảm tốt đẹp về chính trị của giai cấp công nhân thông qua quá trình học tập, rèn luyện tại trường của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính- Viễn thông nhằm hoàn thành mục tiêu của chương trình đào tạo. Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông là quá trình tác động biện chứng giữa các chủ thể giáo dục của Học viện bao gồm nhiều bộ phận với những chức năng riêng, tác động theo những phương thức khác nhau, tác động đến sinh viên, cùng với quá trình tự giáo dục, rèn luyện của sinh viên nhằm nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, tâm lý, tình cảm chính trị của sinh viên. Trong cam kết đầu ra của sinh viên Học viện có mục tiêu về hành vi, mục tiêu này chỉ rõ: Sinh viên được trang bị những kiến thức cơ bản, hệ thống về chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có phẩm chất đạo đức tốt, tính kỷ luật cao, biết làm việc tập thể theo nhóm, theo dự án, say mê khoa học, tự rèn luyện phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn. Sinh viên hiểu biết về các giá
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2