ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
LƢU THỊ MAI LIÊN
TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH ĐẠO
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ
TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1975
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
LƢU THỊ MAI LIÊN
TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH ĐẠO
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ
TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1975
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hiển
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo phong
trào đấu tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1975” là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các tƣ liệu trong luận văn đƣợc sử dụng và chú thích nguồn trung
thực.
Hà Nội, ngày 5 tháng 8 năm 2015
Tác giả
Lƣu Thị Mai Liên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Vũ Quang Hiển đã tận tâm định hƣớng
cho tôi ngay từ những ngày đầu thực hiện luận văn. Những góp ý, chia sẻ, nhận xét
của thầy là động lực và tiền đề quan trọng giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn những ngƣời thân trong gia đình đã tạo điều kiện
cho tôi cả về vật chất và tinh thần. Trân trọng cảm ơn quý thầy cô trong và ngoài
khoa Lịch sử, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp tôi hoàn thành
khóa học. Chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên tôi trong suốt
thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Tác giả
Lƣu Thị Mai Liên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn ........................................................................... 6
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................ 7
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 9
7. Bố cục luận văn ..................................................................................................... 10
Chƣơng 1 SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM ĐỐI VỚI
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1973 ... 11
1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Trung ƣơng Cục miền Nam .................. 11
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................... 11
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Trung ương Cục miền Nam .................................... 12
1.2. Sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam với phong trào đấu tranh của
phụ nữ ....................................................................................................................... 17
1.2.1. Chỉ đạo đấu tranh chống chương trình “bình định” của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn ở nông thôn .................................................................................................. 17
1.2.2. Chỉ đạo phong trào đấu tranh trong các đô thị miền Nam ............................. 20
1.2.3. Chỉ đạo phong trào binh vận, địch vận của phụ nữ miền Nam ...................... 25
1.2.4. Chỉ đạo phong trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ miền Nam ...................... 27
1.2.5. Chỉ đạo phong trào đấu tranh của các nữ tù chính trị tại các nhà tù đế quốc ......... 30
1.2.6. Chỉ đạo phong trào đấu tranh ngoại giao của phụ nữ miền Nam .................... 32
Tiểu kết ..................................................................................................................... 36
Chƣơng 2 TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ MIỀN NAM TỪ NĂM 1973
ĐẾN NĂM 1975 ....................................................................................................... 37
2.1. Đặc điểm tình hình và chủ trƣơng mới của Đảng ......................................... 37
2.1.1. Đặc điểm tình hình .......................................................................................... 37
2.1.2. Chủ trương của Đảng và Trung ương Cục miền Nam .................................... 38
2.2. Sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam đối với phong trào đấu tranh
của phụ nữ................................................................................................................ 44
2.2.1. Chỉ đạo phong trào phụ nữ đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari ............... 44
2.2.2. Chỉ đạo đẩy mạnh công tác binh vận của phụ nữ miền Nam ......................... 51
2.2.3. Chỉ đạo hoạt động ngoại giao của phụ nữ miền Nam .................................... 52
2.2.4. Chỉ đạo phong trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ miền .............................. 56
2.2.5.Chỉ đạo phụ nữ miền Nam tham gia tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
1975 .......................................................................................................................... 57
Tiểu kết ..................................................................................................................... 62
Chƣơng 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ....................................................... 63
3.1. Nhận xét ............................................................................................................ 63
3.1.1. Ưu điểm ........................................................................................................... 63
3.1.2. Hạn chế ............................................................................................................ 83
3.2. Kinh nghiệm lịch sử ......................................................................................... 88
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục để giác ngộ phụ nữ về tính chất chính
nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đường lối cách mạng của
Đảng, Trung ương Cục miền Nam ............................................................................ 88
3.2.2. Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, tăng cường chỉ đạo phong trào đấu tranh
của phụ nữ theo phương châm “hai chân, ba mũi giáp công” ....................................... 90
3.2.3. Tăng cường xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh .............. 93
3.2.4. Tăng cường chỉ đạo và phát huy vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng
miền Nam Việt Nam nhằm động viên, tổ chức phụ nữ tham gia đấu tranh .............. 94
Tiểu kết ..................................................................................................................... 97
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 101
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của nhân dân Việt Nam kéo dài 21
năm (1954-1975) đã kết thúc thắng lợi vào mùa xuân 1975. Thắng lợi oanh liệt này
“mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất,
một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và
trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”, nhận
định trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV (1976). Bởi vậy kể từ khi cuộc kháng chiến kết thúc,
chiến thắng vĩ đại này đã, đang và chắc chắn sẽ còn là chủ đề lớn có sức lôi cuốn
mạnh mẽ của giới chính trị, quân sự, cũng nhƣ các nhà sử học trong và ngoài nƣớc.
Từ nhiều góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu lý do tại sao Việt
Nam – một đất nƣớc nhỏ bé, thua kém đối phƣơng về tiềm lực và sức mạnh kinh tế,
quân sự lại có thể đƣơng đầu và đánh bại ý chí xâm lƣợc của Mỹ - một cƣờng quốc
của thế kỷ XX.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của nhân dân Việt Nam
do những nguyên nhân chủ quan và khách quan tạo nên, nhƣng trên hết và trƣớc hết
đó là thắng lợi của trí tuệ con ngƣời Việt Nam, đội tiên phong là Đảng Cộng sản
Việt Nam với hệ tƣ tƣởng và đƣờng lối cách mạng đúng đắn, khoa học. Từ tình hình
cụ thể của cách mạng hai miền, đặc biệt là cách mạng miền Nam, Trung ƣơng Đảng
và đặc biệt là Trung ƣơng Cục miền Nam đã nhận thức rõ vai trò, vị trí của các giới,
các giai cấp, tầng lớp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Trong đó, phụ
nữ - một nửa dân số, là lực lƣợng cách mạng to lớn cần đƣợc tập hợp và tổ chức sâu
rộng. Cùng với hậu phƣơng lớn miền Bắc, trên tiền tuyến lớn anh hùng, phụ nữ
miền Nam là lực lƣợng cơ bản, là hạt nhân của đội quân chính trị hùng hậu, đã vận
dụng linh hoạt và sáng tạo phƣơng châm “hai chân”, “ba mũi”, vừa đấu tranh trực
diện với địch, vừa tranh thủ làm công tác binh vận, tạo thời cơ diệt ác, trừ gian,
tham gia tổng tiến công nổi dậy, góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của dân
1
tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất nƣớc nhà. Quả thật, “Đội quân tóc dài” là
“một nét độc đáo của cách mạng miền Nam, một lực lượng cách mạng mạnh mẽ và
hùng hậu, chứng minh khả năng vô cùng to lớn của phụ nữ nước ta. Đó là kết quả
của đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn do Đảng ta đề ra; đồng thời là
kết tinh truyền thống bất khuất của dân tộc Việt nam, của phụ nữ Việt Nam” [61,
tr.165-166].
Chính vì vậy, tìm hiểu, nghiên cứu để làm rõ sự lãnh đạo của Trung ƣơng
Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ
nữ miền Nam và vai trò, vị trí cũng nhƣ những đóng góp cụ của phụ nữ là một việc
làm cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Để góp phần nghiên cứu sâu hơn đƣờng lối lãnh đạo của Đảng, Trung ƣơng
Cục miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nƣớc, tôi chọn đề tài “Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo phong trào đấu
tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1975” làm luận văn thạc sĩ của mình, nhằm
nghiên cứu kỹ hơn đƣờng lối lãnh đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam đối với
phong trào đấu tranh của phụ nữ trên các mặt trận chính trị, quân sự, binh vận và
ngoại giao từ năm 1969 đến năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bƣớc vào
giai đoạn cuối với tình thế có nhiều chuyển biến, khó khăn và phức tạp hơn trƣớc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong nhiều năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nƣớc đƣợc xuất bản trong và ngoài nƣớc. Trong các công trình đó,
có tác phẩm nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể về cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nƣớc, có tác phẩm nghiên cứu từng vấn đề, từng thời kỳ của sự kiện lịch sử
trọng đại này. Trong các công trình nghiên cứu chung về cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nƣớc, lực lƣợng phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ miền Nam đƣợc đề cập đến nhƣ
một phần, một bộ phận của lực lƣợng cách mạng đông đảo của cả dân tộc.
Cụ thể, trong các tập Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Viện lịch
sử quân sự - Bộ Quốc Phòng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990 và Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội,1996, 1997; “Việt Nam những sự kiện lịch sử 1954-1975”, Viện Sử học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002… sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục
2
miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ đƣợc đề cập đến trong sự phát
triển chung của phong trào cách mạng Việt Nam với một số sự kiện cụ thể, những
tấm gƣơng tiêu biểu trong thực tiễn đấu tranh.
Bên cạnh đó phải kể đến một số cuốn sách chuyên khảo về phụ nữ Việt Nam
và vai trò của họ trong công cuộc giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc hàng ngàn
năm lịch sử, trong đó, một phần đề cập đến vai trò của phụ nữ trong giai đoạn vẻ
vang này.
Nghiên cứu về phụ nữ nói chung, trƣớc hết phải kể đến cuốn sách “Phụ nữ
Việt Nam qua các thời đại” của tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1973, với những tƣ liệu đƣợc chắt lọc, tác giả đã dựng lại quá trình tham
gia và những đóng góp của phụ nữ Việt Nam từ thời nguyên thủy đến năm 1968
trên tất cả các lĩnh vực. Đây là cuốn sách khảo sát về vai trò, vị trí của phụ nữ Việt
Nam suốt mấy nghìn năm lịch sử, cho nên tác giả không thể trình bày sâu và đầy đủ
về những đóng góp của lực lƣợng phụ nữ trong từng thời kỳ, từng lĩnh vực cụ thể.
Hơn nữa, cuốn sách chỉ dừng lại ở mốc thời gian năm 1968.
Năm 1980 và năm 1981, Nxb Phụ nữ cho ra mắt bạn đọc cuốn “Lịch sử
phong trào phụ nữ Việt Nam”. Đây là công trình nghiên cứu của tập thể cán bộ nữ,
do đồng chí Nguyễn Thị Thập làm chủ biên. Cuốn sách gồm hai tập đã trình bày có
hệ thống các hoạt động của phụ nữ nói chung và những phụ nữ có ảnh hƣởng nhất
định trong lịch sử nƣớc nhà. Mặc dù tập 2 của cuốn sách dành để trình bày về phong
trào phụ nữ Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975, trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nƣớc, song đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam, cuốn sách
chƣa có điều kiện đi sâu khảo sát.
Đề cập tới phong trào phụ nữ ở từng địa bàn cụ thể không thể không nhắc tới
cuốn “Truyền thống cách mạng của phụ nữ Nam Bộ thành đồng” do Tổ sử phụ nữ
Nam bộ viết, Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ xuất bản năm 1989. Cuốn sách trình bày khá
đầy đủ và chi tiết về truyền thống kiên cƣờng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của
phụ nữ Nam Bộ từ xƣa đến nay. Cuốn sách dành phần thứ 4 (từ trang 197 đến trang
518) để viết về phụ nữ Nam Bộ đấu tranh chống Mỹ - ngụy (1954-1975), trong đó
có nhiều trang viết về phụ nữ trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đặc
3
biệt trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 và Tổng tiến công và nổi
dậy xuân 1975. Tuy nhiên, vì trình bày về phong trào phụ nữ Nam Bộ trong một
thời gian dài (từ xƣa đến 1976) nên cuốn sách chƣa tập trung nghiên cứu phong trào
đấu tranh của phụ nữ trên khắp miền Nam giai đoạn 1969-1975.
Năm 1999, Nxb Đà Nẵng cho ra mắt bạn đọc cuộc sách Phụ nữ Nam Trung
Bộ trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước (1930-1975) do Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam và tập thể các cán bộ lãnh đạo phong trào phụ nữ Khu. Công trình đã nêu
đƣợc những tấm gƣơng, những sự kiện tiêu biểu, phản ánh tƣơng đối đầy đủ về các
lĩnh vực hoạt động của phong trào phụ nữ Nam Trung Bộ từ khi thành lập Đảng
(1930) đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (1975), đặc
biệt về những đóng góp to lớn của phụ nữ Nam Trung Bộ trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lƣợc. Trong phần thứ ba của cuốn sách (từ
trang 221 đến trang 463) các tác giả đã đi sâu trình bày một cách tƣơng đối có hệ
thống về những hoạt động của phong trào phụ nữ các tỉnh Nam Trung Bộ trong thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, từ đấu tranh đòi thi hành hiệp định Giơnevơ,
chống “tố cộng, diệt cộng” đến cao trào “Đồng khởi”, góp phần đánh bại các chiến
lƣợc “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”, và
làm nên thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Ngoài ra còn một số công trình viết về phong trào phụ nữ trên từng địa bàn
tỉnh, thành phố nhƣ “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ
vang của Đảng (1954-1985)”, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1987; “Phụ nữ Sông Bé 45
năm đấu tranh giải phóng (1930-1945)” của tác giả Cao Hùng, Nxb Tổng hợp Sông
Bé, 1991, Lịch sử phong trào phụ nữ Quảng Nam-Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, 1995;
Phụ nữ Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Quy Nhơn,
tháng 4-2000; Truyền thống cách mạng của phụ nữ Cà Mau trong thời kỳ chống
Mỹ, cứu nước, Nxb Mũi Cà Mau, tháng 7-2000... do Hội liên hiệp phụ nữ các tỉnh
biên soạn. Trong các cuốn sách trên, có thể tìm thấy một số sự kiện về phong trào
phụ nữ ở từng địa phƣơng trong chiến đấu bên cạnh những hoạt động sản xuất, phục
vụ chiến đấu.
Nghiên cứu về mặt mạnh nổi bật của phụ nữ miền Nam trong kháng chiến
4
chống Mỹ, đấu tranh chính trị, nhiều cuốn sách khác đã tập trung tìm hiểu phong
trào phụ nữ miền Nam trong đấu tranh chống chƣơng trình bình định của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn nhƣ, “Lịch sử đấu tranh cách mạng của phụ nữ tỉnh Trà Vinh
(1930-1975)” của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Trà Vinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2010, hay “Phong trào chống phá bình định vùng nông thôn ở Nam Bộ trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: giai đoạn 1969-1972”, Hà Minh Hồng, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000… Các tác phẩm trên đã cung cấp một số tƣ liệu
nhất định về phong trào đấu tranh chính trị, công tác binh vận của phụ nữ phục vụ
cho việc nghiên cứu nhƣng những cuốn sách trên chỉ trình bày một mảng trong
phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam, mặc dù phong trào đấu tranh chính trị
là mũi đấu tranh mạnh mẽ và tiêu biểu nhất. Về phạm vi không gian nghiên cứu, các
tác phẩm mới chỉ mới dừng lại ở 1 tỉnh (Trà Vinh), 1 vùng (Nam Bộ) nhất định.
Ngoài những cuốn sách lịch sử viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc
đã đƣợc xuất bản ở Trung ƣơng và địa phƣơng nhƣ đã nêu trên, còn phải kể đến một
số bài viết đƣợc đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành nhƣ bài viết “Đội quân tóc
dài” cầm súng của tác giả Nguyễn Hữu Vị đƣợc đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự,
tháng 3-2006, “Tìm hiểu đội quân chính trị của quần chúng trong cách mạng miền
Nam 1945-1975” của tác giả Quỳnh Cƣ, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử,
tháng 3-1980 hay “Phụ nữ miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ” của tác giả
Trần Thị Hoạt, đăng trên Tạp chí Toàn cảnh – Sự kiện – Dƣ luận, số 195-2006…
Những công trình, những bài viết trên tuy không trình bày đầy đủ và chi tiết về sự
lãnh đạo của Đảng, Trung ƣơng Cục với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền
Nam trong kháng chiến chống Mỹ nhƣng lại đƣa ra một số những nhận định, đánh
giá có giá trị về một số mặt của phong trào phụ nữ miền Nam nói chung.
Bên cạnh những tác phẩm, những bài viết nêu trên còn có một số những công
trình nghiên cứu về phong trào phụ nữ, nhƣ luận án tiến sĩ lịch sử “Phụ nữ miền
Nam trong đấu tranh chính trị thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975”
của tác giả Vũ Thị Thúy Hiền, Hà Nội, 2004, lƣu tại Thƣ viện quốc gia Việt Nam,
hay luận án tiến sĩ “Phụ nữ quân đội trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu
nước (1954-1975)” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lâm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
5
Nội, 2001, lƣu tại Thƣ viện quốc gia Việt Nam… Các công trình trên cung cấp một
số tƣ liệu về phong trào đấu tranh trên một hoặc một số mặt trận đấu tranh cụ thể
nhƣ chính trị, binh vận, vũ trang của phụ nữ miền Nam từ năm 1954 đến năm 1975.
Nhƣ vậy, cho đến nay, chƣa có công trình nào nghiên cứu riêng, đầy đủ và có
hệ thống về sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục miền
Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nƣớc giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1975. Do đó, để thực hiện luận văn, ngoài
việc tham khảo những tác phẩm, công trình nghiên cứu đã đƣợc công bố và xuất
bản, tác giả luận văn còn phải sƣu tầm, tập hợp và hệ thống hóa các tài liệu, khai
thác nguồn tài liệu nội bộ hiện đƣợc lƣu trữ tại bộ phận tƣ liệu thuộc Văn phòng
Trung ƣơng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Bảo tàng phụ nữ Việt Nam và Thƣ
viện quốc gia Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm sáng tỏ quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng, Trung
ƣơng Cục miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, đặc biệt là chủ
trƣơng trong công tác vận động, phát triển phong trào đấu tranh của phụ nữ miền
Nam Việt Nam từ năm 1969 đến năm 1975. Từ đó, góp phần làm sáng tỏ những
đóng góp to lớn của phụ nữ miền Nam trong đấu tranh từ năm 1969 đến năm 1975.
3.2. Nhiệm vụ
Trình bày những chủ trƣơng, đƣờng lối, biện pháp lãnh đạo phong trào đấu
tranh của phụ nữ miền Nam của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam trên
mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, công tác binh vận và hoạt động
ngoại giao.
Rút ra một số nhận xét về đƣờng lối vận động, lãnh đạo, tổ chức phong trào
đấu tranh của phụ nữ của Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam từ năm
1969 đến năm 1975. Đồng thời, rút ra đƣợc một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa
to lớn trong việc vận động, tổ chức phong trào phụ nữ trong kháng chiến chống Mỹ
6
cứu nƣớc, từ đó vận dụng vào công tác phụ vận trong tình hình hiện nay.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Nghiên cứu phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam từ năm 1969 đến năm
1975 là một vấn đề khó, để thực hiện đề tài này, tác giả luận văn đã khai thác và sử
dụng các nguồn tài liệu sau:
- Các văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, của Trung ƣơng Cục miền
Nam Việt Nam, các bài viết, các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà
nƣớc về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, về cách mạng miền Nam và về
phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam thời kỳ 1969 – 1975 trong các tác phẩm
“Văn kiện Đảng toàn tập” từ tập 30 đến tập 36, do nhà xuất bản Chính trị quốc gia
phát hành, “Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-
1975) ” của các tác giả Trịnh Nhu, Trần Tình, Nguyễn Văn Lanh, do Nxb Chính trị
quốc gia phát hành, Hà Nội, 2008 và qua việc khảo sát báo Nhân dân từ năm 1969
đến năm 1975.
- Các tác phẩm, công trình nghiên cứu, tổng kết về cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nƣớc và phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam Việt Nam trong giai
đoạn 1969-1975.
- Các báo cáo tổng kết, tác phẩm, công trình nghiên cứu về phong trào đấu
tranh của phụ nữ miền Nam ở các địa phƣơng cụ thể trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nƣớc.
- Các bài báo, tạp chí viết về phong trào phụ nữ miền Nam trong kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc.
- Báo Nhân dân – cơ quan ngôn luận của Đảng (1969-1975), với nội dung
đăng tải tƣơng đối đầy đủ, độ chính xác cao về tình hình cách mạng Việt Nam. Qua
việc khảo sát báo Nhân dân, cung cấp một số lƣợng lớn tƣ liệu về vấn đề mà luận
văn đang nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tác giả dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin,
7
quan điểm, đƣờng lối của Đảng và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân,
về chiến tranh cách mạng, về vấn đề phụ nữ, giải phóng phụ nữ và công tác vận
động phụ nữ.
Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng phƣơng pháp lịch sử, thống kê, so sánh để
tổng hợp và trình bày có hệ thống phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam từ
năm 1969 đến năm 1975. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phƣơng pháp so sánh, phân
tích, đặc biệt là phƣơng pháp logic nhằm tìm hiểu và đƣa ra những nhận xét, đánh
giá đảm bảo tính khoa học và tính chính xác về sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng,
Trung ƣơng Cục miền Nam với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam từ năm
1969 đến năm 1975.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài “Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ nữ
từ năm 1969 đến năm 1975” tập trung vào những đối tƣợng nghiên cứu sau:
- Đƣờng lối, chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng, đặc biệt là Trung ƣơng Cục
miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, về công tác vận động phụ nữ
tham gia đấu tranh trƣớc những âm mƣu và hành động xâm lƣợc của đế quốc Mỹ và
chính quyền Sài Gòn sau thất bại của chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ”.
- Quá trình phụ nữ miền Nam triển khai thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng,
chính sách của Đảng, của Trung ƣơng Cục miền Nam.
- Các phong trào đấu tranh cụ thể của phụ nữ miền Nam trên mặt trận đấu
tranh chính trị, quân sự, công tác binh vận và hoạt động ngoại giao.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu, đề tài “Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo phong
trào đấu tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1975” tập trung nghiên cứu:
Thứ nhất, hoàn cảnh lịch sử cách mạng miền Nam Việt Nam sau năm 1968.
Thứ hai, những chủ trƣơng của Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam trƣớc
những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nƣớc đối với phong trào đấu
tranh của phụ nữ miền Nam.
Trung ƣơng Cục miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Trung ƣơng Đảng
8
Lao động Việt Nam tại chiến trƣờng miền Nam Việt Nam, có nhiệm vụ “căn cứ vào
nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ƣơng,
Bộ Chính Trị về cách mạng miền Nam mà đề ra những chủ trƣơng, chính sách,
phƣơng châm, kế hoạch công tác và chỉ đạo cụ thể ở miền Nam Việt Nam”.
Thứ ba, khái quát những phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam dƣới sự
lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải
phóng miền Nam Việt Nam. Đề tài tập trung nghiên cứu những hoạt động đấu tranh
trực tiếp của phụ nữ miền Nam trên mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang,
công tác binh vận và đấu tranh ngoại giao, không bao gồm các hoạt động sản xuất
và phục vụ chiến đấu của phụ nữ miền Nam trong kháng chiến.
Về không gian nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về phong trào đấu tranh của
phụ nữ miền Nam từ nam vĩ tuyến 17 kéo dài tới mũi Cà Mau.
Về thời gian nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về phong trào đấu tranh của phụ
nữ miền Nam từ năm 1969 đến năm 1975 - giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nƣớc, chống chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Năm
1975 là thời điểm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc.
Qua nghiên cứu, tác giả tìm hiểu sự linh hoạt, nhạy bén trong đƣờng lối, chủ
trƣơng lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, đặc biệt là Trung ƣơng Cục miền Nam đối
với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam trƣớc những biến đổi mau lẹ của
tình hình khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” và sau
khi Hiệp định Pari đƣợc ký kết ngày 27/1/1973 cho tới ngày cách mạng toàn thắng.
6. Đóng góp của luận văn
Đề tài “Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ nữ
từ năm 1969 đến năm 1975” góp phần làm rõ đƣờng lối, chủ trƣơng vận động phụ
nữ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và quá trình lãnh đạo, tổ chức
phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam trên mặt chính trị, quân sự, binh vận,
ngoại giao từ năm 1969 đến năm 1975 của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục
miền Nam
Từ việc nghiên cứu về sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng mà trực tiếp là
Trung ƣơng Cục đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam trong thời kỳ
9
này, luận văn bƣớc đầu có những nhận xét chung về những ƣu điểm, hạn chế trong
đƣờng lối vận động, tổ chức, lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam
của Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam từ năm 1969 đến năm 1975,
đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử trong việc vận động và tổ chức
phụ nữ đấu tranh, từ đó, vận dụng sáng tạo và linh hoạt vào công tác phụ vận trong
tình hình mới.
Luận văn cũng góp thêm một nguồn tài liệu tham khảo, tạo điều kiện cho việc
nghiên cứu sâu hơn nữa vấn đề này trong thời gian tới.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn kết
cấu gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Sự lãnh đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam đối với phong trào
đấu tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1973
Chƣơng 2: Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo đẩy mạnh phong trào đấu
tranh của phụ nữ miền Nam từ năm 1973 đến năm 1975
10
Chƣơng 3: Nhận xét và kinh nghiệm
Chƣơng 1
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM ĐỐI VỚI
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1973
1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Trung ƣơng Cục miền Nam
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Thắng lợi của quân dân miền Nam trong năm 1968, đặc biệt là cuộc tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã đánh một đòn chí mạng vào ý chí xâm lƣợc của
đế quốc Mỹ, thất bại nặng nề về quân sự, cùng những thay đổi lực lƣợng trên thế
giới không có lợi cho Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lƣợc chiến tranh. Ngày
20/1/1969, Nichxon lên làm Tổng thống, đề ra chiến lƣợc toàn cầu mang tên “Học
thuyết Nichxon”, ở Việt Nam là chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Mục tiêu cơ bản của chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” là rút dần quân
Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, củng cố giữ vững ngụy quân, ngụy quyền, đủ sức
thay thế quân Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lƣợc miền Nam Việt Nam với súng
đạn, đôla của Mỹ, do Mỹ chỉ huy và vì lợi ích của nƣớc Mỹ để tránh sự thiệt hại về
sinh mạng cho thanh niên Mỹ, xoa dịu làn sóng chống chiến tranh trong lòng nƣớc
Mỹ đang dâng cao. Vừa từng bƣớc rút quân, chính quyền Nichxon vừa ra sức củng
cố, tăng cƣờng ngụy quân, ngụy quyền, vừa xuống thang chiến tranh, vừa phản
công và tiến công quyết liệt để chống lại cách mạng.
Để đạt đƣợc mục tiêu, đế quốc Mỹ đã tiến hành những biện pháp hết sức quỷ
quyệt, tàn bạo dƣới ba hình thức chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt và
chiến tranh hủy diệt nhằm “bình định” nông thôn miền Nam, đánh bật lực lƣợng
cách mạng ra khỏi nông thôn, vơ vét sức ngƣời, sức của phục vụ chiến tranh.
Mỹ - ngụy sử dụng phƣơng tiện chiến tranh hiện đại, kể cả vũ khí hóa học,
chiến tranh điện tử và không quân chiến lƣợc để tiến hành chiến tranh hủy diệt ở
miền Nam, nhằm khống chế và kìm kẹp phần lớn nhân dân miền Nam, làm cho
chiến tranh cách mạng mất chỗ dựa, tiến tới bao vây, cô lập, bóp nghẹt, làm suy yếu
sức chiến đấu của nhân dân miền Nam, hạn chế hoạt động tiến công của những đơn
11
vị chủ lực còn bám trụ trên chiến trƣờng.
Trƣớc những âm mƣu và hành động của đế quốc Mỹ trong chiến lƣợc
chiến tranh mới, chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
nhận định “Việt Nam hóa chiến tranh” của Tổng thống Mỹ Nichxon thực chất là
chính sách dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt để kéo dài chiến tranh xâm lƣợc,
thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Việc rút hết quân chiến đấu Mỹ chỉ là thủ
đoạn nhằm xoa dịu dƣ luận Mỹ, tranh thủ thời gian để tăng cƣờng ngụy quân,
củng cố ngụy quyền tiếp tục mƣu đồ xâm lƣợc miền Nam. Với chiến lƣợc “Việt
Nam hóa chiến tranh”, cách mạng miền Nam nói riêng và cách mạng Việt Nam
nói chung đang đứng trƣớc những khó khăn, thách thức vô cùng to lớn.
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Trung ương Cục miền Nam
Trƣớc sự chuyển biến của tình hình trong và ngoài nƣớc, Trung ƣơng Đảng
nhanh chóng đề ra những chủ trƣơng và biện pháp cụ thể, đƣa cách mạng miền Nam
bƣớc sang giai đoạn đẩy mạnh tiến công tiêu diệt địch.
Tháng 4/1969, Bộ chính trị xác định nhiệm vụ trƣớc mắt của cách mạng miền
Nam “tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh 3 mũi giáp
công, kết hợp với tiến công ngoại giao, ra sức xây dựng lực lƣợng quân sự và chính
trị, phát triển tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, làm thất bại các
mục tiêu và biện pháp chiến lƣợc phòng ngự của địch; đánh bại âm mƣu “kết thúc
chiến tranh trên thế mạnh”, đánh cho Mỹ phải rút quân, ngụy phải suy sụp, giành
thắng lợi quyết định…” [55, tr.188].
Tháng 3/1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng nhấn mạnh
cần “Vận dụng đúng đắn phương châm đẩy mạnh tiến công toàn diện”,“phải
thấy cho hết những khả năng mới của tiến công quân sự, của tiến công chính trị
cũng như tiến công ngoại giao”.
Trong thƣ gửi anh Bảy Cƣờng tháng 7/1970, đồng chí Lê Duẩn chỉ rõ: “phải
nắm vững quy luật kết hợp nổi dậy với tiến công, tiến công với nổi dậy, làm chủ để
tiêu diệt, tiêu diệt để làm chủ, kết hợp lực lượng của quần chúng cách mạng với lực
lượng vũ trang, kết hợp những cuộc đấu tranh chính trị với những đòn tiến công
12
quân sự thành lực lượng tổng hợp để liên tục tiến công địch” [61, tr.256-266].
Riêng về đấu tranh chính trị, Nghị quyết khẳng định “Tiến công chính trị
có khả năng mới rất to lớn. Tiến công chính trị có nhiệm vụ đẩy mạnh đấu tranh từ
thấp lên cao, từ phong trào đòi dân chủ dân sinh ở thành thị, chống khủng bố, dồn
dân ở nông thôn, kết hợp với tiến công quân sự và công tác binh vận, tiến lên phát
động một cao trào cách mạng ở thành thị và nông thôn, đánh bại âm mưu của
địch... Tiến công chính trị lại có nhiệm vụ tạo điều kiện cho tiến công quân sự, mở
rộng thắng lợi quân sự” [1, tr171]. Hình thức đấu tranh chính trị rất phong phú,
đƣợc quần chúng, đặc biệt là phụ nữ vận dụng linh hoạt nhƣ “mít tinh, biểu tình, hội
thảo, làm kiến nghị, xuống đường, ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ
và phản đối Mỹ - ngụy tăng cường và kéo dài chiến tranh…”
Đặc biệt, ở nông thôn, Nghị quyết hội nghị Khu ủy khu V (4/1969) khẳng
định “muốn đánh bại Việt Nam hóa chiến tranh trƣớc hết phải đánh bại chiến lƣợc
chủ yếu của địch là “bình định” ở nông thôn” [82, tr.384-385], cần “đẩy mạnh công
kích và nổi dậy kiên quyết diệt kẹp, giành dân, hƣớng chủ yếu nhằm các vùng xung
quanh thành thị, chống địch bắn phá, rải chất độc hóa học, chống biệt kích và phối
hợp với an ninh, quét sạch bọn tề, điệp ngầm, đập tan các cuộc hành quân càn quét,
các ổ “phƣợng hoàng”, các tổ chức kìm kẹp quần chúng của địch…” [7, tr.1-3].
Tại thành thị, ngày 29/11/1971, trong bức điện chỉ đạo “Nhiệm vụ của công
tác thành thị”, đồng chí Lê Duẩn đặc biệt lƣu ý “Đi đôi với mặt trận quân sự sẽ
đƣợc đẩy mạnh lên, mặt trận chính trị càng trở nên cực kỳ quan trọng, có khả năng
phát triển lớn và có tầm quan trọng quyết định đối với thắng lợi của cách mạng...
Riêng đối với Sài Gòn, phong trào đấu tranh chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng”, “phải tổ chức tập hợp lực lƣợng, xây dựng đội ngũ đấu tranh chính trị, ra
sức phấn đấu để thu hút thật đông đảo quần chúng cơ bản vào mặt trận đấu tranh”,
“đẩy phong trào phụ nữ tiến lên xứng với năng lực cách mạng to lớn của chị em, với
danh hiệu nổi tiếng là đội quân tóc dài” [70, tr.791-792].
Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 20 BCH TƢ Đảng khóa III (27/1-1/2/1972)
cũng nhấn mạnh “phải động viên, tập hợp và tổ chức quần chúng rộng rãi, nhanh
chóng hình thành đội quân chính trị đông đảo, kết hợp đấu tranh cách mạng của
13
quần chúng với việc khoét sâu và lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch, mở rộng mặt trận
liên hiệp hành động chống Mỹ - Thiệu, tập trung mũi nhọn đòi quân Mỹ về nƣớc,
lật chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lƣợc, vãn hồi hòa
bình, hòa hợp dân tộc” [70, tr.792].
Trên mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang ở chiến trƣờng đồng bằng cần“gấp
rút đẩy mạnh chiến tranh du kích thật rộng và mạnh, nhằm căng địch ra và tiêu
diệt, tiêu hao địch một cách rộng rãi”. Ở chiến trƣờng thành thị “ra sức phát triển
phong trào du kích chiến tranh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược, làm cho chiến tranh
du kích trở thành một phương thức khởi nghĩa vũ trang bộ phận của quần chúng
nhằm phá lỏng và làm tan rã từng bước ách kìm kẹp của địch”.
Cùng với đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, công tác binh vận có vai trò
quan trọng đặc biệt trong việc làm suy yếu ngay trong hàng ngũ kẻ thù. Trƣớc
những thay đổi trong hàng ngũ kẻ thù, việc thay thế quân Mỹ và tăng cƣờng vai trò
của ngụy quân ngụy quyền ở chiến trƣờng miền Nam, Đảng và Trung ƣơng Cục
miền Nam xác định đối tƣợng tác chiến hiện nay vẫn là cả quân Mỹ và quân ngụy,
nhƣng do quân ngụy ngày càng trở thành một lực lƣợng nòng cốt, vì vậy, nhiệm vụ
công tác binh vận trong thời gian tới cần “đẩy mạnh tấn công dồn dập liên tục vào
ngụy quân, ngụy quyền. Kết hợp với tấn công quân sự và chính trị khoét sâu chỗ
yếu của địch, làm cho quân ngụy sụp đổ nặng về tinh thần, tan rã liên miên về tổ
chức, làm mất nguồn bổ sung của quân ngụy, làm cho chính quyền Sài Gòn ngày
càng yếu, góp phần đánh bại âm mƣu “phi Mỹ hóa chiến tranh” của Mỹ”.
Để công tác binh vận, địch vận có hiệu quả cần đƣa ra các khẩu hiệu hành
động từ thấp đến cao, nhƣ chống lệnh đi chiến đấu, bỏ ngũ, trung lập, ly khai, làm
nội ứng, đến khởi nghĩa, từ hành động lẻ tẻ đến hành động tập thể; phải phát động
và lãnh đạo phong trào nhân dân, đặc biệt đẩy mạnh phong trào phụ nữ làm binh
vận, chống bắt lính, đòi chồng con, giúp đỡ binh sĩ ngụy bỏ ngũ, làm binh biến,
phản chiến và nội ứng.
Trên mặt trận ngoại giao, Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị lần thứ 8
Ban Chấp hành Trung ƣơng, ngày 27/1/1970, đƣa ra những nhận định đúng đắn và
phù hợp với tình hình cách mạng miền Nam Việt Nam trong tình hình mới. Một mặt
14
cần đẩy mạnh các mặt trận đấu tranh quân sự và chính trị giành thắng lợi quyết định
trên chiến trƣờng, mặt khác phải coi trọng việc lợi dụng những mâu thẫu, khó khăn
của Mỹ và công tác vận động dƣ luận nhân dân Mỹ”, đồng thời ra sức tăng cƣờng
sự lãnh đạo, tổ chức, vận động nhân dân Mỹ ủng cuộc đấu tranh của ta”, “khoét sâu
vào chỗ yếu cơ bản của Mỹ là về chính trị, vạch trần âm mƣu và hành động leo
thang của Mỹ, gây ra sức ép mạnh mẽ ở Mỹ và trên thế giới, chống Mỹ leo thang
chiến tranh, chấm dứt ném bom miền Bắc”.
Tiến công ngoại giao có nhiệm vụ bóc trần âm mƣu ngoan cố của địch, rút
quân nhỏ rọt và kéo dài chiến tranh xâm lƣợc, bóc trần bộ mặt thối nát của ngụy
quân, ngụy quyền, tiếp tục nêu cao giải pháp toàn bộ 10 điểm của Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam, đòi Mỹ rút hết quân, thành lập chính phủ liên hiệp, tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ rộng rãi và ngày càng mạnh mẽ của nhân dân tiến bộ trên thế giới
và cả nhân dân Mỹ. Khẩu hiệu trung tâm trên mặt trận ngoại giao là đòi hòa bình,
độc lập, dân chủ và cải thiện đời sống, đánh đổ Thiệu - Kỳ - Khiêm, lập nội các hòa
bình. Tùy theo sự phát triển của tình hình sẽ nêu lên những khẩu hiệu cao hơn nhƣ
đòi lập chính phủ liên hiệp, đòi Mỹ rút hết quân đội khỏi miền Nam, miền Nam độc
lập, dân chủ, hòa bình và trung lập”.
Quán triệt chủ trƣơng của Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam bám sát tình
hình các địa phƣơng miền Nam đề ra chủ trƣơng kịp thời, sâu sát.
Đầu năm 1969, Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục ra chỉ thị nhấn mạnh “đẩy cao
trào đấu tranh chính trị rộng lớn, phối hợp với tấn công quân sự và ngoại giao, tùy
tình hình cụ thể của từng địa phƣơng mà có hình thức đấu tranh phù hợp, cơ bản là
phải biểu dƣơng lực lƣợng và khí thế cách mạng của quần chúng, đấu tranh đòi hòa
bình, lật đổ Thiệu - Kỳ - Hƣơng, đòi các quyền dân sinh dân chủ khác. Nhân dịp tết
Kỷ Dậu, đẩy mạnh cuộc tấn công binh vận với các khẩu hiệu đòi hòa bình, nghỉ tết,
vui xuân, chấm dứt chiến tranh” [121, tr.891].
Ngày 20/2/1970, Trung ƣơng Cục miền Nam vạch rõ phải “nắm vững ba mũi
giáp công, ba vùng chiến lược, vừa tấn công vừa xây dựng, kết hợp chặt chẽ linh
hoạt giữa tấn công quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận và đấu tranh ngoại
15
giao” [121, tr.87], “Nắm vững hơn nữa các yêu cầu, khẩu hiệu, nội dung, hình thức
đấu tranh, chỉ đạo thật kiên quyết, liên tục, sâu sát cụ thể, nhất là phong trào ở thành
phố, thị xã và vùng yếu” [121, tr.883].
Trung ƣơng Cục quán triệt phƣơng châm “ba vùng chiến lƣợc” trong đó
xác định nông thôn đồng bằng là hƣớng chiến lƣợc chủ yếu đánh bại kế hoạch bình
định của địch, chiến trƣờng biên giới và rừng núi miền Đông là hƣớng chủ yếu của
chủ lực tiêu diệt lực lƣợng cơ động của quân ngụy và quân Mỹ, chiến trƣờng đô thị
và vùng ven là trung tâm đầu não chính trị và kinh tế của địch, từ đó có những chủ
trƣơng, chính sách phù hợp với phong trào đấu tranh từng vùng miền.
Tháng 10/1970, Trung ƣơng Cục miền Nam tổ chức hội nghị quán triệt Nghị
quyết tháng 8/1970 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ chuyển hƣớng chiến lƣợc, đánh
phá bình định ở nông thôn. Hội nghị xác định “cần tăng cƣờng các đội vũ trang
công tác vào các vùng nông thôn sâu và yếu, đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, diệt
ác, phát động quần chúng, phát triển lực lƣợng tại chỗ, phát triển chiến tranh du
kích, hình thành những căn cứ lõm, kết hợp ba mũi, phá lỏng thế kìm kẹp của địch,
nâng cao thế làm chủ của quần chúng, bung dân về, nơi nào có điều kiện thì giải
phóng từng ấp” [55, tr.199].
“Ở các đô thị cần phát huy hết sức khả năng đấu tranh của du kích, công an,
vũ trang, đặc công… để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị và binh vận” [121,
tr.901], “Sử dụng các tổ chức của Phật giáo, nghiệp đoàn, phong trào học sinh, sinh
viên để đẩy mạnh phong trào chính trị. Vấn đề quan trọng nhất của phong trào ở đô
thị là tập hợp đƣợc đông đảo các lực lƣợng đối lập với Thiệu vào một mặt trận liên
hiệp rộng rãi” [121, tr.914]. Ở các vùng ven đô thị, đẩy mạnh hoạt động của các lực
lƣợng mũi nhọn kết hợp với các lực lƣợng huyện, du kích xã, mở rộng phong trào
và phát triển lực lƣợng tại chỗ. Ở nông thôn, yêu cầu của việc đánh phá bình định,
giành quyền làm chủ là phải sử dụng lực lƣợng du kích, an ninh, kết hợp với lực
lƣợng quần chúng nổi dậy, diệt và làm tan rã lực lƣợng kìm kẹp ở xã, ấp, đẩy mạnh
tiến công chính trị, binh vận liên tục, dùng ba mũi giáp công bao vây, uy hiếp các
đồn bốt để tiêu diệt địch” [121, tr.901-902].
Về công tác binh vận, Dự thảo nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 Trung ƣơng
16
Cục miền Nam nhấn mạnh “lúc này phải đánh đau, đánh mạnh vào quân ngụy hơn
nữa, phải hết sức chú ý tiêu diệt tiêu hao và làm tan rã nặng lực lƣợng địa phƣơng
(bảo an, dân vệ, bình định...) của địch, hạn chế nguồn bổ sung, đôn quân, bắt lính”.
Đầu năm 1971, Trung ƣơng Cục họp Thƣờng vụ để nghiên cứu tình hình
thành phố và đề ra những công tác trƣớc mắt, nhằm đƣa cuộc đấu tranh của nhân
dân lên cao hơn nữa, xây dựng cho đƣợc lực lƣợng xung kích, nòng cốt trong đấu
tranh, xây dựng lực lƣợng chính trị và đấu tranh chính trị là chính, hoạt động vũ
trang (tự vệ, du kích) tiến hành trong phạm vi có thể đƣợc.
Về phƣơng hƣớng và công tác của Đảng bộ trong năm 1972, Nghị quyết Bình
Giã V nêu rõ: Mục tiêu chủ yếu của cách mạng ở Sài Gòn 1972 là thực hiện cho kỳ
đƣợc một cao trào chính trị, tiến tới một cuộc bùng nổ cách mạng, kết hợp chặt chẽ
giữa việc khẩn trƣơng đƣa phong trào lên một cách căn cơ với việc khai thác thật
nhạy bén, triệt để khi thời cơ xuất hiện.
Triển khai thực hiện chủ trƣơng, nghị quyết của Trung ƣơng Đảng và Trung
ƣơng Cục miền Nam, ngày 20/1/1969, Trung ƣơng Hội Liên hiệp phụ nữ Giải
phóng miền Nam xác định: “ra sức khắc phục những khuyết điểm, nhƣợc điểm còn
tồn tại, đẩy mạnh phong trào phụ nữ tấn công địch bằng 3 mũi liên tục, đều khắp
với tinh thần khẩn trƣơng, táo bạo động viên lực lƣợng” [78, tr.3].
Nhƣ vậy, trƣớc những âm mƣu và hành động chiến tranh của đế quốc Mỹ và
chính quyền Sài Gòn, Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam cùng Hội Liên
hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam đã kịp thời nắm bắt tình hình, đề ra những chủ
trƣơng, chính sách cụ thể, linh hoạt, kịp thời nhằm kêu gọi, tập hợp quần chúng
nhân dân, đặc biệt là phụ nữ miền Nam tích cực đấu tranh. Bám sát chủ trƣơng của
Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam, phong trào đấu tranh của phụ nữ diễn ra với
nhiều nội dung và hình thức phong phú, giành nhiều thắng lợi quan trọng.
1.2. Sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam với phong trào đấu
tranh của phụ nữ
1.2.1. Chỉ đạo đấu tranh chống chương trình “bình định” của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn ở nông thôn
Thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, đế quốc Mỹ đẩy mạnh
thực hiện chƣơng trình “bình định” ở miền Nam nhằm tiêu diệt du kích, vô hiệu hóa
17
hạ tầng cơ sở của Việt cộng. Đi đôi với khủng bố, tra tấn, địch tìm mọi cách dụ dỗ,
mua chuộc phụ nữ, trẻ em cung cấp tình hình xóm ấp thông qua hoạt động của
những nữ gián điệp “thiên nga”, đồng thời Mỹ-ngụy còn dùng bom đạn thảm sát,
đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng, ép buộc nhân dân vào sống trong
những “vùng an ninh”, ráo riết thực hiện các biện pháp quân sự hóa đối với cả phụ
nữ, để đẩy mạnh đôn quân, bắt lính” [1, tr.77].
Tại hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên trong hai tháng 11,12/1968, Mỹ - ngụy
huy động gần 6 sƣ đoàn quân chính quy, 174 đại đội quân địa phƣơng và hàng vạn
tên “bình định” ác ôn vào việc hành quân, đốt phá xóm làng, giết hại nhân dân. Tại
các xã Bình Đào (quận Thăng Bình), Tý Sé, Phú Phong (quận Quế Sơn), 279 ngƣời,
phần lớn là trẻ em và phụ nữ đã bị tập trung lại, hành hạ, đánh đập rồi bắn chết hàng
loạt. Đặc biệt nghiêm trọng, ngày 12/2/1969, trong cuộc càn quét thôn Phƣơng Tân,
xã Bình Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, Mỹ bắt một lúc 10 cụ già từ 64
đến 77 tuổi, một phụ nữ có thai gần đến ngày sinh, dồn tất cả xuống hầm, ném lựu
đạn, phun hơi độc xuống hầm, giết chết không còn một ngƣời nào [8, tr.3].
Khắp miền Nam Việt Nam, với những cuộc ném bom rải thảm bằng máy bay
B52, việc dùng các chất độc hóa học, đế quốc Mỹ đã trở thành tội phạm chiến tranh
lớn nhất trong thời đại ngày nay.
Nhận định tình hình, Trung ƣơng Cục miền Nam xác định nông thôn hiện nay
là địa bàn chiến lƣợc trọng yếu, do đó cần tăng cƣờng hơn nữa sự chỉ đạo đối với
nông thôn, ra sức xây dựng lực lƣợng chính trị ngày càng lớn mạnh nhằm đánh bại
kế hoạch “bình định” nông thôn của địch, làm chủ đại bộ phận nông thôn.
Thực hiện chỉ đạo của Trung ƣơng Cục, hàng triệu phụ nữ nông thôn miền
Nam đứng dậy đấu tranh, dƣới sự chỉ đạo của cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ Giải
phóng ở địa phƣơng, đẩy mạnh phong trào chống phá “bình định” với quy mô lớn,
diễn ra liên tục và mạnh mẽ.
Thực hiện triệt để và hiệu quả hình thức đấu tranh trực diện tại chỗ, chống
địch cào nhà, tập trung dân, cƣớp ruộng, chống hãm hiếp phụ nữ, bắn giết đồng bào,
chống bắt thanh niên đi lính, bắt phụ nữ và trẻ em vào “phòng vệ dân sự”, phá ách
kìm kẹp, bung về ruộng vƣờn cũ sản xuất, chị em với tinh thần dũng cảm, mƣu trí
và lý lẽ sắc bén cùng khả năng tự vệ đã ngăn chặn, đẩy lùi âm mƣu của địch, giành
18
thắng lợi trong đấu tranh.
Ở Bình Thuận, cuộc đấu tranh chống “bình định” quyết liệt nhất là ở Hàm
Liên, Hàm Chính, địch dùng xe ủi nhà, phá vƣờn, cƣớp lúa gạo, tài sản, biến thành
vành đai trắng bà con vẫn bám đất, bám làng, che chòi, dựng chái, sống tự do trên
nƣơng rẫy, kiên quyết không vào phòng vệ dân sự [82, tr.392].
Tại Bình Định, trong năm 1969, phụ nữ là lực lƣợng đông đảo tham gia 5204
cuộc đấu tranh chính trị, với 970.000 lƣợt ngƣời. Trong đó có 3181 cuộc đấu tranh
trực diện tại chỗ trống “bình định cấp tốc”, 320 cuộc bao vây tiến công đồn bốt, căn
cứ, quận lỵ, chi khu quân sự. Tháng 3/1969, hơn 2 vạn phụ nữ thuộc các huyện
Hoài Nhơn, Phù Mỹ đã tổ chức hàng chục cuộc mít tinh, biểu tình thị uy, biểu
dƣơng lực lƣợng, quyết tâm chống “bình định”, chống dồn dân, phá ấp chiến lƣợc,
khu tập trung, giành quyền làm chủ [82, tr.402].
Trên địa bàn Tây Nguyên, tháng 5/1969, lực lƣợng phụ nữ đã nổi dậy cùng với
nhân dân phá 300 khu dồn dân, ấp chiến lƣợc, đánh bại một bƣớc chƣơng trình “bình
định cấp tốc” của Mỹ - ngụy. Tại Gia Lai, năm 1969 có 129.250 lƣợt quần chúng đấu
tranh tại chỗ chống khủng bố, chống bắt lính nổi bật là chống gom xúc, đòi về làng cũ
[88, tr.128].
Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của các tỉnh Trung Bộ, phong trào đấu
tranh chống “bình định” của phụ nữ và nhân dân các tỉnh đồng bằng Nam Bộ cũng
diễn ra mạnh mẽ. Hàng chục nghìn đồng bào các dân tộc ở Bù Gia Mập, Bù Đăng
của hai huyện Bình Long và Bến Cát (Sông Bé) bất chấp luật lệ và khủng bố, đàn áp
của địch, trực diện đấu tranh đòi đƣợc trở về làng xóm cũ, cất lại nhà cửa, chống bắt
xâu, bắt lính...
Trung ƣơng Cục nhấn mạnh, trên chiến trƣờng nông thôn đồng bằng, nhất là
đồng bằng sông Cửu Long phải đẩy mạnh chiến tranh du kích thật rộng và mạnh
nhằm căng địch ra, tiêu hao tiêu diệt địch, kết hợp với tấn công chính trị và binh vận
mà bức hàng, bức rút phần lớn đồn bốt địch, một số quận lỵ, chi khu, mở rộng từng
mảng, từng vùng.
Bám sát chủ trƣơng của Trung ƣơng Cục, Tại Sóc Trăng- Bạc Liêu, năm 1971,
19
phụ nữ trong tỉnh đánh 1660 trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 8400 tên địch, thu
1000 súng, diệt và phá, gỡ nhiều đồn bốt. Trong phong trào chống phá bình định nổi
lên tấm gƣơng anh hùng bất khuất nhƣ má Nguyễn Thị Mƣời ở Vĩnh Hƣng (Bạc
Liêu) dũng cảm chặn họng súng địch cứu thoát 4 cán bộ. Lực lƣợng phụ nữ cùng
quân dân toàn tỉnh Mỹ Tho buộc địch phải rút 29 đồn bốt, trừng trị 163 tên tề, giải
phóng 11 xã, 66 ấp với 40.000 dân [81, tr.174].
Bên cạnh những phong trào đấu tranh trực tiếp với địch ở nông thôn, “Đội
quân tóc dài” đẩy mạnh hoạt động kéo vào đô thị đấu tranh trực diện với địch ngay
tại sào huyệt. Trong năm 1969 ở miền Nam đã có 33.330 lần lƣợt quần chúng (đa số
là phụ nữ) kéo đến đồn, quận lỵ đấu tranh. Ngày 3-3-1971, trên 10.000 phụ nữ từ
nông thôn kéo vào Đà Nẵng đến bệnh viện Duy Tân (nay là bệnh viện 17) tìm
chồng con, tìm ngƣời nhà trong lính bị thƣơng, đòi chồng con, công khai tố cáo
địch, gây hoang mang tinh thần trong binh lính ngụy [90, tr.87].
Dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng và của Ban chỉ huy chống phá
“bình định”, phong trào đấu tranh chống chƣơng trình bình định nông thôn của Mỹ -
ngụy mà nòng cốt là phụ nữ miền Nam diễn ra dai dẳng và quyết liệt. Trong giai
đoạn này, hình thức đấu tranh trực diện, tại chỗ và từ nông thôn kéo vào các đô thị
đấu tranh vẫn là những hình thức đấu tranh quan trọng. Lực lƣợng phụ nữ bằng thế
hợp pháp có thể tranh thủ từng giờ, từng phút nắm tình hình, động viên, hƣớng dẫn
quần chúng đấu tranh, phá đƣờng, đắp cản, đánh phá giao thông địch. Trên khắp
miền Nam, phong trào đấu tranh của chị em phụ nữ trở thành mũi xung kích, cùng
đồng bào làm suy yếu và thất bại một bƣớc căn bản chƣơng trình “bình định” nông
thôn của đế quốc Mỹ.
1.2.2. Chỉ đạo phong trào đấu tranh trong các đô thị miền Nam
Với nhiều thủ đoạn tăng cƣờng vơ vét, cƣớp bóc nhằm bổ sung viện trợ Mỹ bị
cắt giảm, đẩy thanh niên ra mặt trận chết thay cho quân Mỹ, chiến lƣợc “Việt Nam
hóa chiến tranh” đã đẩy nhân dân đô thị miền Nam vào cảnh bần cùng, điêu đứng.
Trƣớc tình hình trên, Trung ƣơng Cục miền Nam đã xác định những nhiệm vụ
cụ thể đối với phong trào đấu tranh ở các thành thị miền Nam, phải ra sức phát huy
lực lƣợng tại chỗ, vận dụng phƣơng thức tác chiến thích hợp, đẩy mạnh chiến tranh
20
du kích ở nội đô, tạo điều kiện đƣa phong trào đấu tranh chính trị và nổi dậy của
quần chúng đô thị tiến lên, làm cho hậu phƣơng địch ngày càng rối loạn, tạo điều
kiện tiến tới cao trào chính trị rộng lớn, lôi cuốn từ công nhân, lao động, lớp nghèo
thành thị, học sinh, sinh viên, phụ nữ, thanh niên, tiểu thƣơng, tiểu chủ… đến các
tầng lớp trên, đặc biệt phát huy đúng mức vai trò của học sinh, sinh viên, phụ nữ
nhằm làm suy yếu và đánh đổ từng bƣớc ngụy quyền.
Xuất phát từ quyền lợi thiết thân của giai cấp, của giới, Trung ƣơng Cục có
biện pháp lãnh đạo, giáo dục, phát động, xây dựng và phát triển phong trào phụ nữ
ở thành thị. Phong trào đòi các quyền dân sinh dân chủ diễn ra sôi nổi, liên tục với
những hình thức phong phú với yêu sách đấu tranh cụ thể. Không chỉ đơn thuần là
mục đích kinh tế mà còn tùy lúc, tùy điều kiện kết hợp chặt chẽ với các cuộc đấu
tranh khác nhằm mục đích chính trị.
Trong phong trào đấu tranh ở các đô thị ở giai đoạn này, trƣớc hết phải kể đến
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, với đông đảo nữ công nhân tham gia.
Chị em công nhân là nòng cốt, là đội tiên phong trong các cuộc đấu tranh chống Mỹ
- Thiệu, đòi các quyền dân sinh, dân chủ.
Tại Sài Gòn, từ 4 - 11/1/1969, 400 anh chị em công nhân quyết định lãn công
vào lúc 14 giờ ngày 6/1/1969, rồi chuyển sang đình công dài ngày, đƣa ra 11 yêu
sách, đòi tăng lƣơng 30% cho công nhân, đòi lƣơng tháng thứ 13, và nhiều khoản
yêu sách cho quyền lợi phụ nữ. Cuộc đình công kéo dài 9 ngày, kết quả, lƣơng đƣợc
tăng 20%. Ngày 16/10/1969, chị em công nhân nhà máy chỉ sợi Khánh Hội bãi công
phản đối chủ thợ vô cớ sa thải thợ [91, tr.219].
Năm 1971, nổi bật nhất là cuộc bãi công đồng loạt của 650 nữ công nhân
Hãng pin Con Ó chống chủ sa thải 17 công nhân. Thiệu cho lính đàn áp, bắt đi 30
ngƣời (ngày 7/10/1971), công nhân vẫn kiên quyết đấu tranh, vừa bãi công vừa
tuyệt thực để phản đối những hành động đàn áp khủng bố của bọn chủ hãng và ngụy
quyền Sài Gòn, đòi giải quyết yêu sách. Cuộc đấu tranh quyết liệt kéo dài hơn 2
tháng. Cuối cùng chủ hãng phải nhƣợng bộ, tăng 30% lƣơng cho công nhân và hứa
thu hồi những công nhân bị sa thải [118, tr.406-407]. Không dừng lại ở mục đích
kinh tế, sáng 29/11/1971, khoảng 200 công nhân hãng pin Con Ó họp tại trụ sở
21
thanh niên lao động phổ biến tâm thƣ nhằm tố cáo Thiệu và chủ hãng ngoan cố
không chịu giải quyết các yêu sách chính đáng của công nhân, và khẳng định “bạo
lực và bất công càng nhiều, chúng tôi càng phải kiên trì đi tới... Chúng tôi tiếp tục
cuộc đình công đề đòi chính quyền phải thu hồi tất cả công nhân và thỏa mãn những
yêu sách không có gì là quá đáng của chúng tôi” [20, tr.4].
Không chỉ công nhân, giới buôn bán nhỏ cũng lao đao vì làm ăn khó khăn, chị
em tiểu thƣơng đấu tranh mạnh mẽ đòi cải thiện điều kiện làm ăn của mình.
Liền trong hai ngày 12 và 13/1/1970, 66 chị em buôn bán đã bốn lần đấu
tranh với cảnh sát và ngụy quyền, giành lại 3400 đồng. Ngày 15/1/1970, 140 chị em
kéo đến gặp ban quản trị nghiệp đoàn, yêu cầu mở hội nghị hàng năm giải quyết
quyền lợi cho chị em trong dịp Tết. Ngày 16/1, hơn 200 chị em lại kéo đến ty cảnh
sát ngụy quyền, đƣa 32 đơn đòi mở rộng chỗ ngồi để chị em tiện mua bán và thả
ngay những chị em bị giam giữ vô cớ” [10, tr.4] .
Từ ngày 10 đến 20/5/1971, hơn 200 bà con buôn bán nhỏ ở thị xã Bến Tre
họp đại hội chống đuổi chợ, đƣa yêu sách biểu tình, đóng cửa hiệu và kéo về Sài
Gòn tuyệt thực, đòi trở về buôn bán ở chỗ cũ [15, tr.3].
Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân và giới buôn bán nhỏ ở thành
thị, phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên trong thời gian này cũng phát triển
mạnh mẽ, tỷ lệ sinh viên nữ tham gia phong trào ngày càng tăng. Phong trào bắt đầu
với cuộc bãi khóa kéo dài, sau đó phát triển thành cuộc tổng bãi khóa ngày 5/4/1970
của tất cả các trƣờng đại học ở Sài Gòn và tất cả các trƣờng đại học trong toàn miền
Nam với 60.000 sinh viên tham gia với nhiều hình thức bãi khóa, mít tinh, hội thảo,
biểu tình, lửa trại, đêm không ngủ, biểu tình thị uy bằng xe máy trƣớc sứ quán Mỹ,
nhà quốc hội, Bộ giáo dục, Bộ Tƣ pháp, Tòa án quân sự của chính quyền Sài Gòn.
Đỉnh cao của phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân thành phố là đợt
“chống độc diễn”, chống bầu cử gian lận của Nguyễn Văn Thiệu. Phụ nữ cùng sinh
viên học sinh, nhân sĩ, trí thức, tôn giáo đấu tranh dƣới nhiều hình thức nhƣ hội
thảo, biểu tình tuần hành, đả đảo, đốt thẻ cử tri, không đi bỏ phiếu [91, tr.244-245].
Tháng 10/1971, phụ nữ các tỉnh khu V, khu VI phát động phong trào đấu
tranh chống “bầu cử Tổng thống và Hạ nghị viện” ngụy vào ngày 3/10. Sáng ngày
22
1/10, tại Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Đà
Lạt hàng vạn chị em tiểu thƣơng và đông đảo nam nữ thanh thiếu niên, sinh viên
học sinh xuống đƣờng, dùng loa phóng thanh kêu gọi đồng bào không tham gia bầu
cử, không đi bỏ phiếu. Ở Đà Nẵng, sáng 3/10, hàng ngàn phụ nữ và đông đảo học
sinh các trƣờng Phan Chu Trinh, Bồ Đề, Sao Mai, Phan Thanh Giản, Quảng Đức…
cùng với anh chị em công nhân lao động, phật tử, thƣơng phế binh biểu tình trên các
đƣờng phố mang biểu ngữ “đả đảo đế quốc Mỹ”, “Đả đảo trò hề độc diễn của
Nguyễn Văn Thiệu”. Nam nữ thanh niên, học sinh đốt cháy nhà thông tin, trung tâm
bầu cử, đốt phá 55 điểm bỏ phiếu và thùng phiếu. Cuộc đấu tranh chống trò hề bầu
cử là cuộc đấu tranh sôi nổi và quyết liệt nhất của phong trào đấu tranh chính trị ở
các đô thị miền Nam trong giai đoạn này [82, tr.427].
Nhận định và đánh giá đúng khả năng cách mạng to lớn của chị em phụ nữ
trong các đô thị, nhằm mở rộng lực lƣợng, Trung ƣơng Cục miền Nam nhấn mạnh
cần chú ý đi sâu vào các ngành, nghề, vào giới phụ nữ, tranh thủ tập hợp lực lƣợng
rộng rãi qua việc liên kết phong trào hình thành các mặt trận, tổ chức công khai
nhằm đẩy mạnh phong trào đấu tranh của phụ nữ ở đô thị phát triển. Từ đó, nhiều tổ
chức đấu tranh đòi quyền lợi cho các giới đồng bào ra đời, thu hút và tập hợp đông
đảo quần chúng, phụ nữ tham gia nhƣ “Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình”,
“Phong trào phụ nữ đòi quyền sống”, “Phong trào chống chiến tranh, chống tổng
động viên thanh niên”…
Sau Mậu Thân 1968, nhiều cơ sở cách mạng trong thành phố, thị xã bị lộ, lực
lƣợng cách mạng nhiều vùng nông thôn suy yếu. Do vậy, cách đánh gọn nhẹ, thọc
sâu, đánh hiểm của các nữ đặc công, biệt động là phù hợp và có hiệu quả, gây thiệt
hại về ngƣời và của cho địch, bảo đảm bí mật, bất ngờ, gây hoang mang kẻ thù.
Thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng Cục, kết hợp chặt chẽ mũi tấn công
chính trị với mũi tấn công quân sự, tại các thành thị miền Nam trong những năm
1969-1972 còn nổi lên hoạt động mạnh mẽ của các nữ biệt động, tự vệ mật, gây cho
địch nhiều tổn thất nặng nề. Địch không ngờ làm nên những trận đánh lịch sử đó lại
là những cô gái xinh đẹp, duyên dáng, nhƣng đầy mƣu trí, sáng tạo và dũng cảm.
Nhiều tấm gƣơng, nhiều trận đánh của các chị đã thực trở thành huyền thoại, những
23
cái tên đã trở thành nỗi khiếp sợ, ám ảnh đối với quân thù.
Ngày 8/5/1969, chị Nguyễn Thị Nho (tức Sáu Anh), chiến sĩ quân báo phòng
tham mƣu thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Minh Hải đã chỉ huy 1 tổ 6 ngƣời dùng 3
chiếc thuyền gắn máy mang 3 quả mìn, mỗi quả nặng 50kg qua 4 đồn, 5 trạm gác
của địch, đánh chìm 4 tàu địch tại xã Cà Mau [3, tr.164] .
Tháng 7/1970, nữ biệt động Nguyễn Thị Thu Trang với sự mƣu trí, táo bạo,
bất ngờ hoạt động ở địa bàn Sài Gòn, chỉ huy tổ biệt động đánh 8 trận. Riêng chị
diệt 150 tên địch, hầu hết là Mỹ và bọn sĩ quan ngụy. Ngày 8/4/1971, Thu Trang tổ
chức đánh khách sạn Mỹ Phụng (đƣờng Bạch Đằng – Sài Gòn). Mìn nổ diệt 40 tên
Mỹ, chị kịp rời khỏi khách sạn an toàn. Ngày 19/8/1971, cải trang vào đặt mìn tại
Nha cảnh sát ngụy Sài Gòn, chị đã diệt 11 sĩ quan. Ngày 15/9/1971, lợi dụng địch
đang tổ chức bầu cử tổng thống, Thu Trang táo bạo, mƣu trí lọt vào khách sạn Tự
Do diệt 90 tên Mỹ [118, tr.417-418].
Đặc biệt, tại Cà Mau, nổi lên tấm gƣơng sáng chói của ngƣời chiến sĩ biệt
động Hồ Thị Kỷ. Ngày 3/4/1970, theo kế hoạch, Kỷ đem mìn nghi trang trong giỏ
xách đặt ở trung tâm cảnh sát ngụy. Nhƣng tình hình thay đổi đột ngột, thay vì ở
trong phòng làm việc, lính tập trung ngoài sân chuẩn bị đi càn. Nhanh trí, Kỷ quyết
định thay đổi phƣơng án đánh địch. Uyển chuyển xách giỏ trái cây bên dƣới có quả
mìn 7kg, đi thẳng vào chỗ địch tập trung đông ngƣời, cƣời tƣơi làm quen với đám
lính. Kỷ vừa lấy gói thuốc lá Rubi đƣa cho tên lính, vừa bí mật điều chỉnh quả mìn
về hƣớng đoàn xe, tắc, ấn kíp nổ, trong tích tắc, một tiếng nổ đanh thép khủng khiếp
phát ra. Trong đám khói hỗn độn, 18 tên giặc đền tội, 9 tên khác bị thƣơng, phá hủy
1 xe jeep, 2 xe quân sự GMC, làm sập một lô cốt. Quả mình Hồ Thị Kỷ đã bẻ gãy
hoàn toàn kế hoạch hành quân khủng bố của địch [118, tr.416].
Nhƣ vậy, phong trào phụ nữ thành thị xuất hiện với tƣ cách là mũi nhọn tiến
công độc lập mang màu sắc khá rõ rệt của giới. Đƣợc sự hỗ trợ của đồng bào thành
thị những cuộc đấu tranh của phụ nữ kéo dài và giành đƣợc những thắng lợi quan
trọng, góp phần cùng phụ nữ ở miền Nam làm thất bại nặng nề chƣơng trình bình
24
định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam.
1.2.3. Chỉ đạo phong trào binh vận, địch vận của phụ nữ miền Nam
Việc Mỹ rút quân khỏi vũng lầy chiến tranh miền Nam, chính quyền Sài Gòn
buộc phải ráo riết bắt lính, đôn quân nhằm thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa
chiến tranh” khiến đội ngũ ngụy trở nên ô hợp. Mặt khác, trƣớc những thất bại liên
tiếp của Mỹ trên chiến trƣờng miền Nam Việt Nam và Đông Dƣơng, quân ngụy
ngày càng hoang mang, giao động và phân hóa sâu sắc. Nhận định tình hình mới,
trong thƣ gửi đồng chí Bảy Cƣờng (tức đồng chí Phạm Hùng) và Trung ƣơng Cục
miền Nam ngày 29-11-1971, đồng chí Lê Duẩn chỉ rõ “phải đẩy mạnh hơn nữa
công tác binh vận, thực hiện công, nông, binh liên hiệp nhằm đánh bại âm mưu
“Việt Nam hóa chiến tranh”của Mỹ” [61, tr.302]. Thắng địch bằng công tác binh
vận cũng quan trọng nhƣ thắng địch bằng tác chiến, vì vậy, “việc làm tan rã lực
lượng quân sự của địch, trước hết là làm tan rã lực lượng “nhân dân tự vệ”, dân
vệ, bảo an, là một nhiệm vụ chính trị mấu chốt” [77, tr.785].
Thực hiện chủ trƣơng của Đảng và dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ ở
miền Nam, công tác binh vận ngày càng phát triển, góp phần đánh thắng một bƣớc
quan trọng chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, trong đó phụ nữ miền Nam là
lực lƣợng quan trọng và xung kích nhất. Bằng những lý lẽ sắc bén, chị em phụ nữ
đẩy mạnh tuyên truyền giải pháp mƣời điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng, tính
chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, tính chất phi nghĩa của
việc đi chết thay cho Mỹ trên chiến trƣờng Lào, Campuchia, của việc dùng súng
đạn, chất hóa học giết hại đồng bào, ngƣời thân đến binh lính trong quân đội Sài
Gòn. Bằng những tình cảm thân thiết, gần gũi mà thiêng liêng nhƣ tình cảm vợ
chồng, tình cảm mẹ con, anh chị em, bằng những hình thức đấu tranh phong phú,
linh hoạt nhƣ tuyên truyền, giảng giải, thuyết phục, kêu gọi, rải truyền đơn, biểu
ngữ... các chị, các mẹ đã giải thích, kêu gọi, vận động và làm thức tỉnh anh em binh
sĩ ngụy trở về gia đình, trở về quê quán làm ăn, không đi lính cho Mỹ, tự giao nộp
đồn bốt, súng đạn cho nhân dân, làm nội chiến, phản chiến trong đội hình ngụy
quân của chính quyền Sài Gòn.
6 tháng đầu năm 1969, ở Trung Nam Bộ có 630.176 lƣợt phụ nữ phát động
25
đƣợc 62.073 gia đình binh sĩ ngụy, làm rã ngũ 22.396 tên, trong đó có 13.540 đội
viên phòng vệ dân sự. Ở Nam Trung Bộ trong 11 tháng đã có 26.000 lƣợt quần
chúng và 3.354 gia đình binh sĩ ngụy làm công tác binh vận, phân phát 18.000
truyền đơn, vận động hơn 6.700 binh sĩ bỏ ngũ, mang ra 292 súng các loại, làm tan
rã bốn đại đội bảo an và lính “cộng hòa”, 39 trung đội bảo an dân vệ, 7 đoàn bình
định, 42 trung đội và 3 tiểu đội dân vệ và phòng vệ dân sự” [12, tr.3-4].
Ở Cà Mau, đông đảo các má, các chị ra sức tranh thủ lôi kéo binh sĩ ngụy, vận
động thân nhân binh sĩ giác ngộ chồng con làm nội ứng, chống lệnh đi càn hoặc đào
rã ngũ trở về với gia đình. Trong năm 1971, tại huyện Trần Văn Thời, chị em vận
động đƣợc 1067 gia đình binh sĩ, tranh thủ đƣợc 459 lính bỏ ngũ. Huyện Thới Bình,
hơn 2000 chị em thân nhân binh sĩ ngụy vào tận các chi khu quân sự và đồn bốt của
địch để thuyết phục, vận động chồng con trở về với gia đình, kết quả, huy động
đƣợc binh sĩ trên 10 đồn trong huyện trở về với cách mạng [86, tr.132].
Từ tháng 4 đến giữa tháng 9 năm 1972, gần 500.000 lƣợt đồng bào và gia
đình có ngƣời thân bị địch bắt lính ở Trung Nam Bộ bất chấp mọi sự ngăn cấm của
địch, kéo vào hàng nghìn đồn bốt, các nơi đóng quân của địch tuyên truyền, giải
thích chính sách mƣời điểm của Chính phủ cách mạng lâm thời cho hàng vạn lƣợt
binh lính, sĩ quan quân đội Sài Gòn, kết quả, hơn 22000 binh sĩ quân đội Sài Gòn đã
bỏ ngũ trở về với nhân dân”.
Đi đôi với tuyên truyền, vận động binh lính trở về với nhân dân, phụ nữ miền
Nam tích cực tham gia đấu tranh chống địch bắt lính. Tại Rạch Giá, ngụy quyền lợi
dụng ngày Tết Khơme, bao vây bắt lính, hơn 700 chị em phụ nữ Khơme cùng sƣ sãi
biểu tình, dùng loa phóng thanh tố cáo tội ác của Mỹ - Thiệu, giải thoát cho thanh
niên. Ở Vĩnh Long địch mang xe đến bắt lính, các mẹ, các chị tràn ra đƣờng, giang
tay cản đầu xe địch, giằng co dữ dội với lính, cứu thoát đƣợc chồng con.
Nhìn chung, công tác binh vận trong những năm 1969-1973 tiếp tục đƣợc đẩy
mạnh và giữ vai trò quan trọng. Dƣới tác động của phong trào binh vận, địch vận,
số đông binh sĩ chán ghét chiến tranh, mong muốn hòa bình.
Chính Mỹ cũng phải thú nhận, so với số quân bị diệt trên chiến trƣờng thì số
binh sĩ ngụy bỏ ngũ tăng gấp 4 lần. Năm 1971 “tổng cộng có 98.324 lính Mỹ bỏ
26
ngũ, nhiều hơn năm 1970 đến 32000 ngƣời” [21, tr.4]. Trong tháng 8/1972 số lính
đào ngũ đã vƣợt mức hàng tháng là hai vạn. Đối với một quân đội chính quy
khoảng 50 vạn quân, đào ngũ nhƣ vậy thực sự là một tổn thất nặng nề” [27, tr4].
Đặc biệt dƣới tác động của công tác binh vận, binh lính ngụy trở thành cánh
tay đắc lực của cách mạng, làm nội ứng, nội chiến, phản chiến, góp phần làm tan rã
nhanh chóng đội hình chiến đấu của Mỹ - Thiệu. Phong trào chống lệnh hành quân
trong quân đội ngụy phát triển mạnh. Trung đoàn 11, trong chín tháng đầu năm
1970 có gần 200 cuộc đấu tranh ở cấp trung đội, đại đội và gần 100 cuộc đấu tranh
ở cấp tiểu đoàn. Từ những cuộc đấu tranh chống lệnh hành quân, nằm im tại chỗ,
phát triển thành phong trào phản chiến, binh biến làm cho hàng ngũ địch rối loạn.
Ngày 4/7/1972, ba binh sĩ tiểu đoàn 3, trung đoàn 15 thuộc sƣ đoàn 9 ngụy,
trên đƣờng hành quân giải tỏa khu vực đƣờng 20 (huyện Cái Bè) làm binh biến, diệt
cả ban chỉ huy một đại đội, mang ba súng và bốn máy thông tin trở về với cách
mạng. Cuộc phản chiến chứng tỏ binh sĩ trong các đơn vị chủ lực quân đội Sài Gòn
ngày càng nhận rõ dã tâm của Mỹ-Thiệu và chán ngán chiến tranh, không chịu để
Mỹ-Thiệu lợi dụng xƣơng máu, chống lại gia đình, phản lại nhân dân, thực hiện
chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” đầy tội ác.
Thắng lợi to lớn của lực lƣợng phụ nữ trong mũi tiến công binh vận, chống
bắt lính, đôn quân góp phần đắc lực vào việc làm thất bại âm mƣu “dùng ngƣời Việt
đánh ngƣời Việt” của đế quốc Mỹ. Cùng với mũi tiến công quân sự của lực lƣợng
vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị và công tác binh vận ở miền Nam mà nòng
cốt là phụ nữ góp phần quan trọng làm thất bại từng bƣớc chiến lƣợc “Việt Nam
hóa chiến tranh”, tạo điều kiện cho sự bùng nổ cuộc tiến công chiến lƣợc năm 1972.
1.2.4. Chỉ đạo phong trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ miền Nam
Không chỉ là lực lƣợng xung kích trong mũi đấu tranh chính trị - binh vận,
cùng với nam giới, phụ nữ miền Nam hăng hái cầm súng đánh giặc, đập tan các
chiến lƣợc chiến tranh của Mỹ - ngụy. Phát triển mạnh từ Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân 1968 với những tập thể nữ anh hùng tiêu biểu nhƣ tiểu đội du kích 11
cô gái sông Hƣơng, 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc huyền thoại… bƣớc sang năm 1969,
số lƣợng phụ nữ gia nhập lực lƣợng vũ trang tăng nhanh với hoạt động mạnh mẽ
27
trên khắp các chiến trƣờng miền Nam.
Ngày 23/9/1969, hai nữ du kích mật xã Cát Hanh (Bình Định) dùng lựu đạn
diệt 28 địch tại chợ Tân Dân[82, tr.397]. Ở một số vùng thuộc tỉnh Gia Lai, chị Sao
và chị Mek đã diệt bảy xe và 43 tên Mỹ. Ở Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, hàng trăm
phụ nữ bắn máy bay địch bằng súng bộ binh, có chị một mình bắn rơi một máy bay
[25, tr.4].
Năm 1970, tại Bên Lức – Thủ Thừa (Bắc Long An) xuất hiện tấm gƣơng anh
dũng của chiến sĩ du kích Mai Thị Non. Ngƣời nữ học sinh trung học 18 tuổi, ôm
mìn lao vào đánh chi khu cảnh sát Bên Lức giữa ban ngày, giết và làm bị thƣơng 11
tên địch và cuối cùng đã hy sinh.
Với vũ khí thô sơ tự làm lấy, phụ nữ cùng quân du kích miền Nam tiêu diệt
nhiều địch, bảo vệ xóm ấp, bảo vệ đồng bào. Trong ba tháng đầu năm 1971, quân
du kích Nam Bộ và Nam Trung Bộ diệt gần 10.000 tên, trong đó 40% số địch bị
diệt vì vũ khí thô sơ. Trong tháng 5/1971, quân du kích và đồng bào Tây Nam Bộ
dùng vũ khí tự làm lấy kết hợp với hầm chông, cạm bẫy diệt 3500 tên thuộc lực
lƣợng kìm kẹp của địch.
Cùng với phong trào diệt giặc, phong trào săn máy bay địch cũng phát triển
mạnh. Quân du kích Trị Thiên, đồng bằng Trung Trung Bộ và đồng bằng Nam Bộ
trừng trị máy bay địch đi bắn phá, ném bom, rải hóa chất độc… Các chiến sĩ du
kích Trị Thiên trong ba tháng đầu năm 1971 bắn rơi hàng trăm máy bay địch, trong
đó có máy bay chở sĩ quan tham mƣu quân đoàn ngụy số 1 [17, tr3]. Tại vùng đồng
bằng sông Cửu Long, máy bay địch đổ quân bao vây, một ngƣời con gái chỉ đƣờng
cho hai bạn tránh thoát, còn mình ở lại giƣơng cao nòng súng bắn rơi một máy bay
và diệt nhiều địch. Khi bắn xong viên đạn cuối cùng, chị bị thƣơng nặng, biết không
thể sống đƣợc, trƣớc khi tắt thở, chị đập nát khẩu súng không để lọt vào tay giặc.
Đó là Lê Thị Hồng Gấm, ngƣời du kích gái nêu gƣơng sáng ngời về dũng khí tiến
công địch đến hơi thở cuối cùng và chiến thắng vẻ vang [19, tr.2]
Đặc biệt, trong thời kỳ 1969-1973 xuất hiện hàng trăm đơn vị nữ thuộc các
binh chủng, thể hiện sự phát triển vƣợt bậc của phụ nữ trong mũi đấu tranh vũ trang.
Tiêu biểu là đội nữ pháo binh Châu Thành (Tây Ninh), đội súng cối nữ huyện Xuân
Lộc, Long Đất, Long Thành (Đồng Nai), đội nữ pháo binh Châu Đốc, Kiên Giang,
28
Bến Tre, đội nữ pháo binh Bến Cát (Sông Bé)…
Năm 1969, trung đội nữ cối 82 ly thuộc đại đội 4 Trảng Bàng (Tây Ninh) do
chị Phạm Thị Thành làm trung đội trƣởng, tổ chức tiêu diệt gần 100 địch. Trong
trận phối hợp với đơn vị 268, đơn vị nữ pháo binh Trảng Bàng kiềm chế pháo binh
địch ở Chà Rầy phá hủy hai khẩu pháo 155 ly, diệt 25 tên địch [98, tr.95].
Đội nữ pháo binh Bến Cát (Sông Bé) tổ chức đánh trinh sát, đánh đặc công,
đột phá ấp chiến lƣợc, bẻ gãy nhiều trận càn. Tuy là nữ, chị em đánh đặc công
không thua nam giới. Khi đánh đặc công, chị em ngụy trang nhƣ con trai, trang bị
gọn nhẹ, tóc ngắn, quần ngắn, nịt sát, luồn sâu đánh địch ở những chỗ xung yếu
[118, tr.375].
Ở Cà Mau, Trung đội nữ pháo binh huyện Cái Nƣớc do Nguyễn Hồng Nỉ làm
Trung đội trƣởng đã phối hợp với các lực lƣợng bạn đánh 49 trận lớn nhỏ, diệt 2 đại
đội bảo an, 1 trung đội thám báo và 125 tên khác, làm bị thƣơng 151 tên, bắt sống 105
tên, thu đƣợc 191 súng các loại, 10 máy thông tin.
Ngày 8/3/1969, Trung đội nữ pháo binh vành đai Bình Đức (Mỹ Tho) bắn cháy
10 máy bay Mỹ và tiêu hủy một kho xăng địch trong một trận đánh độc lập, đã tiêu diệt
và làm bị thƣơng 100 tên Mỹ, phá hủy 12 trực thăng, 1 kho xăng máy bay hơn 5000 lít,
3 khẩu pháo 105 ly [118, tr.378].
Riêng ở Quảng Nam, Phú Yên có hơn 5000 chị em vào các đội du kích quyết
tử; vùng Tây Nguyên đã xây dựng đƣợc 50 đội nữ du kích gồm số đông là chị em
ngƣời Thƣợng chiến đấu giỏi, diệt nhiều bộ binh, cơ giới và bắn rơi cả máy bay
phản lực Mỹ. Đội nữ pháo binh 8/3 (Lâm Đồng), ngày 15/9 đã phối hợp với tiểu
đoàn đặc công và bộ binh, công binh tỉnh đánh chi khu Di Linh và Chợ Cũ thắng lợi
giòn giã, diệt hơn 400 tên, phá hủy nhiều phƣơng tiện chiến tranh địch, riêng đơn vị
8/3 đã tiêu diệt trên 80 tên địch, phá hủy nhiều lô cốt, kho tàng của địch.
Phong trào phụ nữ trực tiếp tham gia du kích chiến tranh trong những năm
1969 - 1973 phát triển mạnh, ngày càng đi vào chiều sâu, tăng cƣờng lực lƣợng vũ
trang tại chỗ, nhất là lực lƣợng nữ tự vệ mật, bám trụ ở vùng yếu, vừa tiêu hao sinh
lực địch vừa diệt ác phá kìm làm cho phong trào tiến lên những bƣớc vững chắc, tổ
chức nữ tự vệ mật đã lập nhiều chiến công xuất sắc bằng các hình thức gài mìn,
29
đánh trái, đặt chất nổ, gài lựu đạn, đạp lôi, bom bi, cô lập đồn bốt địch. Thật sự “nếu
giặc Mỹ biết những ngƣời bắn chúng là những ngƣời con gái thì có lẽ chúng đã phải
rút lui từ lâu rồi”. Giặc Mỹ không thể ngờ đƣợc rằng những ngƣời bắn vào đầu
chúng là những ngƣời con gái hiền lành, chất phác trong cuộc sống hàng ngày lại
cực kỳ dũng cảm trƣớc quân thù.
1.2.5. Chỉ đạo phong trào đấu tranh của các nữ tù chính trị tại các nhà tù
đế quốc
Tại các nhà giam, kẻ thù lợi dụng những điểm riêng tƣ trong sinh hoạt của
phụ nữ để kìm kẹp, khống chế. Chế độ ăn uống rất khắc nghiệt, thêm vào đó là
những trận đàn áp bằng vôi bột, phạt không cho đổ thùng cầu, những kiểu tra tấn
thời trung cổ cực kỳ dã man, làm nhục, xâm phạm tới thân thể các chị. Sống tại các
nhà giam, thiếu thốn mọi thứ, phụ nữ phải chịu nhiều khó khăn hơn cả anh em tù
chính trị. Tuy nhiên, trái với mong muốn của kẻ thù, tinh thần đấu tranh kiên cƣờng
của tập thể nữ tù chính trị có tác dụng nhƣ một ngòi thuốc súng, làm bùng lên một
cao trào đấu tranh bề bỉ và quyết liệt.
Tại nhà giam Thủ Đức, giữa tháng 8/1969, trƣớc hành động tra tấn dã man và
bỉ ổi của tên quản đốc nhà lao Dƣơng Ngọc Minh đối với em Trần Thị Bình, 18 tuổi,
chị em tuyệt thực phản đối quyết liệt. Bọn cai ngục đánh đập dữ dội, chị Nguyễn Thị
Tần và Đặng Thị Rành bị chúng đánh chết vào ngày 21/8/1969. Sau vụ thảm sát đê
hèn này, một phong trào đấu tranh mạnh mẽ đƣợc dấy lên từ lực lƣợng nữ tù chính trị
ở trại giam Thủ Đức và Gia Định. Địch hoảng sợ trƣớc làn sóng căm phẫm của tập
thể tù chính trị. Quản đốc trại Thủ Đức đến gặp Ban đại diện chị em và buộc phải
chấp nhận các yêu sách về dân sinh. Chị em kiên định đƣa các yêu sách chính trị,
không mang thẻ đính bài, đòi trả tự do cho những ngƣời mãn án, bệnh nặng và buộc
ngụy quyền phải nhƣợng bộ. Lần đầu tiên trong các nhà tù Mỹ - ngụy, nữ tù nhân
Thủ Đức giành đƣợc quyền tự do đi lại trong trại, tự tổ chức cuộc sống, hội họp, học
chính trị, học văn hóa, sinh hoạt văn nghệ.
Tại nhà lao Tân Hiệp, có khoảng 500 chị em bị giam cầm. Địch cho hơi độc,
dùi cui, ma trắc, lựu đạn vào phòng nhằm trấn áp chị em, nhiều chị bị phỏng nặng,
phù hết cả thân mình, da nứt nẻ, ngất xỉu… Chị Võ Thị Chính chết vì nhiễm độc.
30
Cái chết của chị Chính gây ra làn sóng căm phẫn cao độ trong lòng chị em nữ tù.
Chị em tổ chức tuyệt thực, gây ảnh hƣởng lớn. Đến ngày tuyệt thực thứ 11, địch
buộc phải chấp nhận toàn bộ yêu sách của chị em nữ tù.
Cuộc đấu tranh trong nhà tù đế quốc những năm 1969-1973 tiếp tục diễn ra
quyết liệt, nổi bật là đấu tranh chống chế độ khắc nghiệt của nhà tù, nhất là trong
Chuồng Cọp ở nhà tù Côn Đảo, nơi “địa ngục trần gian”. Bị bắt giam vào các nhà tù
từ khi mới 18, 20 chịu sự tra tấn, hành hạ dã man cả về thể xác lẫn tinh thần, các chị
hơn ai hết, căm thù đến cực độ chế độ nhà tù Mỹ - ngụy. Cuộc đấu tranh của chị em
nhằm đòi đƣợc tăng khẩu phần ăn, có rau xanh, có nƣớc uống và nƣớc vệ sinh;
chống đánh đập, ngƣợc đãi, đòi bảo vệ danh dự, trinh tiết, đòi đƣợc đổ thùng cầu,
đòi đƣợc khám bệnh, phát thuốc và xuống bệnh xá sinh nở, đồng thời, không chịu
khuất phục trƣớc đòn roi, họng súng của cai tù, giám thị, các chị đấu tranh kiên
quyết không chào cờ chính quyền Sài Gòn, không chào giám thị, cai tù, chống sự
phân hóa hàng ngũ tù nhân; chống suy tôn Ngô Đình Diệm, chống nghe phát thanh
và chống học tập tố cộng của địch... Các chị đã vận dụng linh hoạt những hình thức
đấu tranh quyết liệt và phong phú nhƣ hò hét, tuyệt thực, viết đơn kiến nghị, quyết
không ly khai, không đầu hàng, không chịu điều kiện, tổ chức vƣợt ngục, tổ chức
học tập văn hóa, văn nghệ cách mạng, tổ chức học tập tuyên truyền, phổ biến Di
chúc Hồ Chí Minh, thành lập Ban cán sự tại mỗi phòng để lãnh đạo phong trào đấu
tranh. Sau mỗi cuộc đấu tranh của tù nhân, địch đàn áp dã man, có cuộc đấu tranh
hàng chục ngƣời đã bị đánh chết, hàng trăm ngƣời bị thƣơng nặng, bị nhốt hầm đá,
Chuồng Cọp... nhƣng trái với mong muốn của chính quyền Sài Gòn, cuộc đấu tranh
của các nữ tù không bị dập tắt, ngƣợc lại còn bùng lên mãnh liệt.
Song song với các thủ đoạn đàn áp, địch còn dùng biện pháp mua chuộc, phân
hóa, tách những ngƣời phụ nữ cầu an ra khỏi đội ngũ. Bị địch mua chuộc nhƣng chị
em kiên quyết không đầu hàng, không ly khai. Hình ảnh má Sáu Mù là tấm gƣơng
tiêu biểu nhất cho khí tiết của ngƣời cách mạng, của phụ nữ Việt Nam. Bà Sáu Mù
mắt lòa vẫn đứng vững trong tập thể chiến đấu, chống chào cờ, chống nội quy, chịu
mọi cực hình ở Chuồng Cọp 1. Tháng 6-1970, trong một lần xáo trộn, bà đƣợc đƣa
về chuồng 24, nơi giam những phụ nữ chịu điều kiện, đến bữa thấy khẩu phần ăn có
31
đĩa rau muống và nửa quả trứng vịt luộc, biết ngay là đang ở chung với số phụ nữ
chịu điều kiện chấp hành nội quy. Bà gắp miếng trứng vịt lên rồi lại bỏ xuống, trào
nƣớc mắt, bỏ cơm, xin về lại chuồng 27 ở chung với tập thể chiến đấu, với tƣơng
chua, mắm ruốc nặng mùi quen thuộc của chế độ kỷ luật.
“Có những sự khủng khiếp quá sức tƣởng tƣợng của con ngƣời, những
hành động mà không một kinh nghiệm làm báo nào hay ngay cả một sự hiểu biết
trung bình về thú tính của con ngƣời, đƣợc lịch sử ghi lại cũng không thể chuẩn bị
tƣ tƣởng cho tôi đƣợc. Ở đây, tại miền Nam này, cái “tinh hoa” của sự khủng khiếp
đó tập trung trong các chính sách đã đƣợc các cơ quan của chính phủ Mỹ đề xƣớng,
tán thành và thực hiện”, “Tôi cảm thấy nhƣ đầu tôi đã bị vỡ tung ra khi tôi nghe
giọng nói nhỏ nhẹ dịu dàng của một phụ nữ kể lại chúng đã giật đứa con chị khỏi
cánh tay chị, quật nó chết trên thềm đá của nhà lao nhƣ thế nào trƣớc khi chúng đƣa
chị vào phòng tra tấn!!!”, nhà báo Úc Burchelt viết lại [119, tr.339].
Những ngƣời phụ nữ đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, có khi cả cuộc đời mình
nơi ngục tù, nhƣng chính các chị mãi mãi là những đóa hoa trong tù ngục, trở thành
tấm gƣơng, trở thành biểu tƣợng cho ý chí sắt đá, cho lý tƣởng, cho lòng thủy chung
son sắt với Tổ quốc, với nhân dân. Cuộc đời và cuộc đấu tranh của các chị nơi nhà
tù đế quốc thực sự đã trở thành huyền thoại, khiến nhân dân Việt Nam, nhân dân thế
giới, đặc biệt là nhân dân Mỹ phải nể phục, nghiêng mình.
1.2.6. Chỉ đạo phong trào đấu tranh ngoại giao của phụ nữ miền Nam
Suốt hơn một thập kỷ đấu tranh chống Mỹ vừa qua, ngoại giao Việt Nam luôn
là một mặt trận quan trọng, hỗ trợ và phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị góp
phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc. Trong cục diện
“vừa đánh vừa đàm” mà Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã mở ra,
bên cạnh những nhà ngoại giao nam giới nhƣ đồng chí Xuân Thủy, Hà Văn Lâu, Lê
Đức Thọ… xuất hiện nhiều nữ ngoại giao có vai trò to lớn nhƣ bà Nguyễn Thị
Bình, Nguyễn Thị Chơn, Đỗ Duy Liên, Nguyễn Ngọc Dung…
Nếu trên mặt trận đấu tranh quân sự, súng đạn, gậy gộc, chông mác là vũ khí
của các chiến sĩ thì trên mặt trận đấu tranh ngoại giao vũ khí của các chị là những lý
lẽ, lập luận sắc bén, đầy thuyết phục trong những bài phát biểu tại các hội nghị, các
32
cuộc gặp gỡ, các buổi mít tinh, các bức điện, thƣ, tuyên bố, lời kêu gọi...
Với phong thái ung dung, bản chất dịu dàng, tình cảm hữu nghị, lý lẽ sắc bén,
các chị đã tuyên truyền có hiệu quả tới chính phủ và nhân dân các nƣớc trên thế giới
về tính chất chính nghĩa của cách mạng miền Nam Việt Nam, nhằm mở rộng mặt
trận ủng hộ cách mạng miền Nam.
Trong giai đoạn này, nổi bật nhất là hoạt động ngoại giao của Bộ trƣởng
Nguyễn Thị Bình, Trƣởng đoàn đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam tại cuộc hòa đàm ở Pari. Trong Hội nghị Pari về Việt Nam,
hình ảnh “madam Bình” đã gây ấn tƣợng lớn đối với báo giới phƣơng Tây, không
chỉ bởi trƣớc mắt họ là hình ảnh một ngƣời phụ nữ nhỏ nhắn đến từ vùng đất đầy
khói lửa chiến tranh có phong cách giao tiếp lịch lãm, sang trọng, nét mặt và nụ
cƣời luôn cởi mở, thân thiện, mà họ còn rất ấn tƣợng bởi những lời phát biểu đầy
thuyết phục, thông minh, lúc rắn rỏi, khi ví von dí dỏm... Bộ trƣởng tham gia các
cuộc họp báo, trả lời phỏng vấn, tham dự các hội nghị quốc tế với tƣ cách Bộ
trƣởng Ngoại giao, đi khắp các châu lục tuyên truyền, vận động, tranh thủ sự ủng
hộ của cộng đồng quốc tế cho sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Trong hoạt động ngoại giao thời kỳ 1969-1/1973, nội dung đấu tranh quan
trọng đầu tiên trong đối sách ngoại giao của Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam
là làm rõ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, thái độ
nghiêm chỉnh tại Hội nghị Pari về Việt Nam, lập trƣờng đúng đắn của Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Từ những ngày đầu chuẩn bị Hội nghị Pari về Việt Nam, bà Nguyễn Thị
Bình nêu rõ thái độ của Mặt trận đối với Hội nghị Pari về Việt Nam, tỏ rõ thiện chí
chấp nhận dự hội nghị bốn bên về Việt Nam, trình bày giải pháp toàn bộ mƣời điểm
đúng đắn của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để giải
quyết vấn đề miền Nam Việt Nam và khẳng định quyết tâm của nhân dân miền
Nam chiến đấu cho đến khi giành đƣợc độc lập, tự do.
Đập lại luận điệu “hai phía” do Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đƣa ra hòng phủ
nhận và hạ thấp vai trò đại diện chân chính của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền
33
Nam Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bình khẳng định: “Đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam đến dự hội nghị này với tƣ cách một đoàn độc lập
và bình đẳng với các đoàn khác, có đủ thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề có liên
quan đến miền Nam Việt Nam” [6, tr.1-4].
Đồng thời với việc làm rõ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến của
nhân dân miền Nam Việt Nam, trên mặt trận ngoại giao, phụ nữ còn cực lực tố cáo,
lên án trƣớc dƣ luận thế giới và dƣ luận Mỹ tính chất phi nghĩa, hiếu chiến, phản
động, thái độ thiếu nghiêm túc gây trở ngại lớn cho Hội nghị Pari của Mỹ và chính
quyền Sài Gòn với âm mƣu “đàm phán trên thế mạnh”. Trong khi Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam và Chính phủ nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa luôn giữ thái độ
nghiêm chỉnh trên bàn đàm phán thì Chính phủ Mỹ tìm mọi cách trì hoãn việc ký
kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam bằng những
hành động tăng cƣờng chiến tranh ở hai miền Việt Nam, đƣa thêm vũ khí và
phƣơng tiện chiến tranh cùng nhiều cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ vào miền Nam
Việt Nam. [26, tr.4] Những hành động đó của Mỹ đi ngƣợc lại với tinh thần của Hội
nghị, đi ngƣợc lại với mong muốn của nhân dân Việt Nam, nhân dân tiến bộ Mỹ và
nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới về một nền độc lập tự do thật sự, hòa bình, hòa
hợp dân tộc ở Việt Nam.
Ngày 26/2/1970, Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam lên án
về việc Mỹ tăng cƣờng chiến tranh hóa học ở miền Nam Việt Nam. Là những ngƣời
mẹ, dù ở Mỹ hay ở bất cứ đâu trên trái đất, đều xót xa, cảm thông sâu sắc cho
những ngƣời phụ nữ Việt Nam bởi chiến tranh đã chia lìa hạnh phúc gia đình, chiến
tranh đã cƣớp đi hình hài, mạng sống, tiếng cƣời của những đứa con thơ... Còn gì
đau xót cho ngƣời mẹ hơn là phải chứng kiến cái chết thê thảm của đàn con yêu
quý, chỉ cách đó ít phút còn quấn quýt bên mình, còn gì căm hận bằng khi thấy
những đứa con bụ bẫm khỏe mạnh vì bom đạn Mỹ trở thành biến dạng, di tật...
Trƣớc những hành động đáng ghê tởm của chính phủ Mỹ và chính quyền Sài
Gòn tại miền Nam Việt Nam, đại biểu phụ nữ khẩn thiết kêu gọi tất cả bà mẹ, tất cả
Hội bảo vệ bà mẹ, trẻ em trên thế giới, hãy lên tiếng, tham gia những hoạt động có
34
hiệu quả để chặn đứng bàn tay đẫm máu của đế quốc Mỹ, đòi đế quốc Mỹ phải
chấm dứt ngay việc dùng các loại chất độc hóa học và hơi độc ở miền Nam Việt
Nam, tham gia tích cực những đợt đấu tranh đòi chính phủ Mỹ trả con em về nƣớc,
đòi đế quốc Mỹ chấm dứt ngay chiến tranh xâm lƣợc, rút ngay, rút toàn bộ và không
điều kiện quân Mỹ và quân chƣ hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân miền
Nam Việt Nam tự giải quyết lấy công việc nội bộ của mình.
Năm 1970, bà Bùi Thị Thanh Vân (tức Ngô Bá Thành), một tù chính trị bị
giam ở nhà lao Côn Đảo, đã kể lại với phụ nữ các nƣớc về tội ác man rợ của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn ở Côn Đảo, tranh thủ sự đồng tình lên án những tội ác của kẻ
thù đối với phụ nữ miền Nam [119, tr.336]. Trở về sau những năm tháng bị giam
giữ, tra tấn dã man ở một loạt các nhà tù, trong cuộc Họp báo tố cáo tội ác của Mỹ -
ngụy, bà Nguyễn Khánh Phƣơng nói: “Tội ác của Mỹ ngụy đối với những ngƣời
yêu nƣớc, yêu hòa bình ở miền Nam Việt Nam không bút mực nào tả xiết. Riêng
chế độ giam cầm, hành hạ tù nhân của Mỹ - ngụy ở Côn Đảo mà mức độ dã man đã
vƣợt xa thời kỳ của chế độ độc tài của Diệm – Nhu và vƣợt qua cả hành động man
rợ của phát xít Hítle”. Bà Nguyễn Khánh Phƣơng còn nhấn mạnh “Trong khi Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam đối xử nhân đạo đối với quân nhân Mỹ, chƣ hầu và quân
ngụy bị bắt, đã hết lòng chữa chạy các vết thƣơng, giành giật chúng từ tay thần chết
nhƣ trƣờng hợp tên lính Mỹ Giêm Brichhem, chăm sóc bệnh tật, và nếu có điều
kiện thì phóng thích về với gia đình, thì trái lại Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn áp dụng
chính sách tàn bạo nhất, phƣơng pháp dã man nhất mà loài ngƣời chƣa từng thấy để
đối xử với những ngƣời yêu nƣớc” [16, tr.4].
Với những hoạt động tích cực trên mặt trận ngoại giao cùng với những thắng
lợi to lớn trên mặt trận quân sự, áp lực mạnh mẽ từ dƣ luận thế giới đối với chiến
tranh xâm lƣợc Việt Nam của Mỹ, Mỹ buộc phải “đàm phán trên thế thua”, và ký
Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam ngày
27/1/1973, tạo bàn đạp pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền
Nam trong giai đoạn tiếp theo với nhiều thuận lợi mới để thực hiện những bƣớc tiến
35
cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn.
Bằng những hoạt động ngoại giao tích cực và hiệu quả, phụ nữ miền Nam nói
riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung đã nhận đƣợc sự ủng hộ tích cực cả về vật chất
và tinh thần của chị em các nƣớc xã hội chủ nghĩa, chị em các nƣớc tiến bộ trên thế
giới, đặc biệt là phụ nữ Mỹ.
Cuộc đấu tranh của phụ nữ Việt Nam trên mặt trận ngoại giao đã góp phần
làm “thức tỉnh nhiều phụ nữ ở các nƣớc, đem đến cho chị em niềm tin và kinh
nghiệm, thôi thúc chị em đi theo những nhịp trống mới, nhịp trống cách mạng”
[118, tr.421].Những hoạt động đối ngoại của phụ nữ miền Nam góp phần tạo ra trận
địa dƣ luận quốc tế lên án tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, cô lập Mỹ
trên trƣờng quốc tế.
Tiểu kết
Dƣới sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục miền
Nam Việt Nam và Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam, từ năm 1969 đến
năm 1973, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam đã phát triển mạnh mẽ, rộng
khắp và liên tục trong điều kiện chiến tranh diễn ra ác liệt, phụ nữ miền Nam hăng
hái đấu tranh toàn diện với kẻ thù trên cả ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh
vũ trang và đấu tranh trên bàn đàm phán. Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục
miền Nam đã bám sát tình hình miền Nam sau năm 1968 để đề ra những chủ trƣơng
chính sách đúng đắn kịp thời nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong kháng chiến.
Đặc biệt với việc đẩy mạnh hơn nữa phƣơng châm “hai chân, ba mũi giáp công”,
Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam đã tập hợp đƣợc đông đảo nhất chị
em phụ nữ trong lực lƣợng chính trị rộng lớn, phát huy sở trƣờng của chị em ở mũi
đấu tranh chính trị và công tác binh vận. Bên cạnh đó, cùng với nam giới, phụ nữ
miền Nam cũng thể hiện đƣợc vai trò to lớn của giới trong đấu tranh vũ trang, tiêu
diệt nhiều sinh lực địch. Những thắng lợi mà các chị đã đạt đƣợc góp phần to lớn
cùng quân và dân cả nƣớc làm thất bại căn bản chiến lƣợc “Việt Nam hoá chiến
tranh” của đế quốc Mỹ; buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt
Nam, rút quân khỏi miền Nam; làm so sánh lực lƣợng thay đổi có lợi cho cách
mạng, tạo điều kiện tiếp tục tiến lên “đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành sự nghiệp
36
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Chƣơng 2
TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO
ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ MIỀN NAM TỪ NĂM 1973 ĐẾN NĂM 1975
2.1. Đặc điểm tình hình và chủ trƣơng mới của Đảng
2.1.1. Đặc điểm tình hình
Trƣớc những thất bại nặng nề trên cả hai miền Nam – Bắc, đặc biệt là thất
bại thảm hại trong cuộc tập kích chiến lƣợc bằng không quân 12 ngày đêm cuối
năm 1972 ở miền Bắc, ngày 27/1/1973, chính phủ Mỹ đã phải ký Hiệp định về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Theo Hiệp định, Mỹ phải chấm
dứt chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam, thực hiện ngừng bắn, rút hết quân Mỹ và chƣ
hầu khỏi miền Nam, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và
quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Tuy vậy, bất chấp những điều
khoản đã ký kết, Mỹ tiếp tục thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” ở
miền Nam. Ngay sau khi tổng thống Mỹ Nichxon tuyên bố “hòa bình ở Việt Nam là
mong manh”, ngày 24/1/1973, Nguyễn Văn Thiệu trắng trợn tuyên bố “Không có
Hiệp định nào bảo đảm hòa bình hữu hiệu một trăm phần trăm”, “Không thi hành
hiệp định, miền Nam không có hòa bình, không ngừng bắn, không có giải pháp
chính trị, không có tổng tuyển cử…”.
Thực hiện âm mƣu trên, đế quốc Mỹ tăng cƣờng viện trợ vũ khí quân sự và
các phƣơng tiện chiến tranh vào miền Nam, chỉ huy chính quyền Sài Gòn triển khai
kế hoạch “giành đất, giành dân, xóa thế da báo”, thực hiện chƣơng trình “bình định”
với chính sách “đốt sạch, phá sạch, cƣớp sạch”, dồn dân vào vùng kiểm soát.
Trong vùng kiểm soát, chính quyền Sài Gòn tiếp tục khủng bố, đàn áp nhân
dân, trả thù những ngƣời yêu nƣớc, yêu hòa bình, không cho nhân dân tự do đi lại,
trở về quê cũ làm ăn sinh sống, chà đạp mọi quyền tự do dân chủ, bóp nghẹt tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do hoạt động chính trị, tự do tín
ngƣỡng... Những hành động của chính quyền Sài Gòn vi phạm trắng trợn điều 2 của
Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đồng thời với
37
việc khủng bố, bắt bớ, đàn áp nhân dân, chính quyền Sài Gòn ra sức xuyên tạc nội
dung hiệp định Pari, xuyên tạc chính sách hòa hợp dân tộc của Mặt trận, dùng tiền
dụ dỗ nhân dân làm tay sai, mở rộng chiến tranh tâm lý.
Về việc trao trả nhân viên quân sự và nhân viên dân sự, chính quyền Sài Gòn
tuyên bố chỉ có khoảng 2000 nhân viên dân sự bị bắt giam, trong khi thực tế con số
chính xác lên đến hàng chục vạn ngƣời, tiếp tục khủng bố, thủ tiêu nhiều ngƣời yêu
nƣớc, yêu hòa bình bị bắt và bị giam giữ. Với những hành động ngang ngƣợc trên,
chính quyền Sài Gòn đã vi phạm các điều 1,2,6,7,8b của Nghị định thƣ về việc trao
trả nhân viên quân sự bị bắt, thƣờng dân nƣớc ngoài bị bắt và nhân viên dân sự Việt
Nam bị bắt và bị giam giữ [31, tr.1].
Ngay từ những ngày đầu khi có lệnh ngừng bắn, tính gay go, phức tạp, lâu dài
của cuộc đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari đã thể hiện rõ. Mặc dù
phía Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng toàn thể
đồng bào miền Nam ra sức thực hiện triệt để và nghiêm chỉnh Hiệp định thì cuộc
đấu tranh nhằm bảo đảm cho Hiệp định Pari đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh và triệt
để từ hai phía là hết sức khó khăn.
Nhƣng thực tế cũng có nhiều thay đổi, so sánh lực lƣợng giữa quân và dân
miền Nam với lực lƣợng ngụy quân, ngụy quyền có bƣớc nhảy vọt lớn. Việc chấm
dứt sự dính líu quân sự của Mỹ khiến chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu đang
dần suy yếu và tan rã. Trong khi đó, quân dân miền Nam có hệ thống chính quyền
cách mạng hoàn chỉnh, làm chủ nhiều vùng rộng lớn có ý nghĩa chiến lƣợc, có đội
quân vũ trang và đội quân chính trị vô cùng hùng hậu. Hơn thế, cuộc đấu tranh chính
nghĩa của nhân dân Việt Nam tiếp tục nhận đƣợc sự ủng hộ tích cực về cả vật chất lẫn
tinh thần của nhân dân tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là nhân dân Mỹ. Đó là những
điều kiện chủ quan và khách quan rất thuận lợi để quân dân miền Nam tiếp tục đẩy
mạnh cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nƣớc đến ngày toàn thắng.
2.1.2. Chủ trương của Đảng và Trung ương Cục miền Nam
Trƣớc những biến chuyển mau lẹ của cách mạng miền Nam sau Hiệp định
Pari, đặc biệt là thái độ ngoan cố của Mỹ và chính quyền Sài Gòn nhằm mở rộng và
38
kéo dài chiến tranh, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam,
Trung ƣơng Đảng đã có những nhận định đúng đắn, kịp thời về tình hình, nhiệm vụ
cách mạng miền Nam.
Ngay sau khi Hiệp định Pari đƣợc ký tắt (23-1-1973), ngày 24-1-1973, Ban Bí
thƣ Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam ra Chỉ thị số 200, vạch rõ cuộc cách mạng
ở miền Nam có nhiều thuận lợi mới, nhƣng còn gay go phức tạp, có khả năng tiến
triển trong điều kiện hòa bình đƣợc giữ vững, nhƣng phải sẵn sàng đối phó với khả
năng Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngoan cố phá hoại hòa bình, phá hoại hiệp định.
Ngày 10/2/1973, Bộ ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam và Bộ Ngoại giao nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa khẳng
định lập trƣờng của nhân dân Việt Nam là nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp
định và các Nghị định thƣ, kiên quyết giữ vững hòa bình, không tha thứ cho những
hành động vi phạm Hiệp định của chính quyền Sài Gòn cũng nhƣ Hoa Kỳ, đòi Mỹ
chấm dứt dính líu vào công việc nội bộ của Việt Nam, không viện trợ quân sự cho
chính quyền Sài Gòn.
Căn cứ vào tình hình thực tế sau khi ký hiệp định, Bộ Chính trị dự đoán hai
khả năng: một là, Hiệp định Pari đƣợc thi hành từng bƣớc, xung đột quân sự giảm
dần, hòa bình đƣợc lập lại về cơ bản; đấu tranh chính trị ngày càng phát triển, cách
mạng ở thế tiến lên mạnh mẽ; hai là, địch gây chiến tranh trở lại; ta phải tiến hành
chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi, nhƣng “dù tình hình phát triển theo khả
năng nào, con đƣờng tiến lên giành thắng lợi của cách mạng miền Nam chỉ có thể là
con đƣờng bạo lực. Ta phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó với khả năng xấu nhất là địch
gây lại chiến tranh. Phƣơng hƣớng chủ động tích cực và đúng đắn có lợi nhất cho sự
nghiệp cách mạng là kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao trên cơ sở
hành động cách mạng đông đảo quần chúng trong vùng địch kiểm soát, buộc địch
thi hành Hiệp định, buộc địch đi vào hòa bình để thắng địch” [66, tr.177].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng số
227-NQ/TW, ngày 13/10/1973 chỉ rõ nhiệm vụ trƣớc mắt của cách mạng miền Nam
là đấu tranh trên 3 mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, thắng địch từng bƣớc và
chủ động trong mọi tình huống, đƣa cách mạng miền Nam tiến lên [2, tr.89]. Nghị
39
quyết nhấn mạnh cần “Vận động và lãnh đạo quần chúng nắm vững pháp lý của
Hiệp định để đấu tranh đòi địch thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, phải ngừng bắn,
phải công nhận thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng
kiểm soát, 3 lực lƣợng chính trị, phải thả hết tù chính trị, thi hành các quyền tự do
dân chủ, chống chế độ kìm kẹp, khủng bố, thanh lọc, bóc lột, vơ vét...”, “Trong
vùng địch kiểm soát cần lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp chống các hình
thức kìm kẹp, đòi chính quyền địch thực hiện các yêu cầu thiết thân của quần
chúng, gắn liền với việc đòi thi hành Hiệp định”, “Phát triển đấu tranh chính trị lên
quy mô lớn, đòi hòa bình, hòa hợp dân tộc”, “Khi có thời cơ và điều kiện nổ ra cao
trào đấu tranh của quần chúng thì đòn tiến công chính trị ở thành thị là một trong
những đòn có tính chất quyết định”. Công tác binh vận “cần đƣợc đẩy mạnh nhanh
chóng làm tan rã quân ngụy, thúc đẩy những cuộc binh biến, ly khai trong một số
đơn vị quân ngụy ở những nơi có điều kiện nhằm phá hủy các cơ sở hậu cần và
phƣơng tiện chiến tranh của địch”. Cùng với đấu tranh chính trị và binh vận, đấu
tranh ngoại giao một cách sắc bén với địch, từng bƣớc “buộc địch thi hành các điều
khoản của hiệp định và tranh thủ dƣ luận trong nƣớc cũng nhƣ ngoài nƣớc ủng hộ
cuộc đấu tranh chính nghĩa của ta” ngày càng trở nên quan trọng bức thiết.
Hội nghị Ban Chấp hành (7/1/1975) bàn về tình hình và nhiệm vụ chống
Mỹ cứu nƣớc, yêu cầu: “Thực hiện tiến công và nổi dậy trên quy mô lớn, tiêu diệt
chi khu, quận lỵ, đánh bại kế hoạch bình định, giành phần lớn nông thôn ở đồng
bằng Nam Bộ, đồng bằng khu V, Trị-Thiên”. “Mở những chiến dịch hợp đồng binh
chủng của bộ đội chủ lực của ta đánh mạnh vào quân chủ lực ngụy, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch, bẻ gãy xƣơng sống quân ngụy”.
Trƣớc tình hình địch phá hoại nghiêm trọng Hiệp định Pari, và nhiều địa
phƣơng đang lúng túng trƣớc hoạt động bình định lấn chiếm của địch, Trung ƣơng
Cục đã nhận định tính chất tình hình miền Nam tuy có Hiệp định nhƣng không ổn
định, những cuộc hành quân cảnh sát, kìm kẹp quần chúng, những cuộc càn quét
bình định lấn chiếm mới vẫn xảy ra ở nhiều nơi, có nơi mức độ rất ác liệt… từ đó đề
ra chủ trƣơng, phƣơng châm, biện pháp thích ứng, đảm bảo cho Đảng bộ nhất trí về
nhận định tình hình, vững vàng đối phó với mọi âm mƣu và thủ đoạn của địch.
40
Trong Chỉ thị số 03/CT-73, Trung ƣơng Cục cũng nhấn mạnh: “Tuyệt đối không
ảo tƣởng địch sẽ thi hành Hiệp định nhƣng cũng không đơn giản cho rằng địch
muốn làm gì thì làm, phải kiên trì và hết sức khẩn trƣơng đẩy mạnh đấu tranh và
xây dựng thực lực cách mạng. Mặt khác cần phải dùng các điều khoản mang tính
pháp lý của Hiệp định để đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận”.
Trung ƣơng Cục đẩy mạnh phƣơng châm đấu tranh toàn diện, kết hợp chặt
chẽ đấu tranh chính trị, quân sự, pháp lý trong đó đặt vai trò lực lƣợng vũ trang làm
hậu thuẫn đắc lực, trong khi ra sức phát huy vai trò của đấu tranh chính trị.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ƣơng Cục tháng 12/1973 đã xác
định rõ nhiệm vụ của từng mũi đấu tranh cụ thể ở miền Nam.
Đấu tranh chính trị ở thành thị, dƣới khẩu hiệu trung tâm hòa bình, độc lập,
dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa hợp dân tộc, ra sức tập hợp đông đảo mọi tầng lớp
thành thị, đẩy mạnh các phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ, đấu
tranh đòi thi hành Hiệp định, nhằm hình thành những phong trào đấu tranh rộng
lớn có sức mạnh ngăn chặn, đẩy lùi những âm mƣu, chính sách phản động của
địch, từng bƣớc đƣa phong trào chính trị phát triển.
Với chính sách phát xít trắng trợn của ngụy quyền, trong công tác thành thị
phải xây dựng hệ thống tổ chức bí mật thật chặt, thật sâu, thật tinh gọn, song phải
nhận rõ phong trào công khai hợp pháp càng rộng, càng mạnh, càng có điều kiện
để phát triển và che giấu những tổ chức bí mật. Phải lợi dụng các nghiệp đoàn, báo
chí, các trƣờng học, các hoạt động tôn giáo, Phật giáo, các phe phái đối lập với
Thiệu… khéo sử dụng vai trò của lực lƣợng thứ ba để tổ chức phong trào công
khai hợp pháp, lấy bí mật làm gốc và hết sức phát huy các khả năng nửa công khai
và công khai hợp pháp.
Về phong trào phụ nữ ở đô thị, đồng chí Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh, trong
phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang ở nông thôn cũng nhƣ đô thị, phụ nữ
đóng một vai trò hết sức lớn lao vào thắng lợi chung. Đặc biệt ở đô thị, không phải
chỉ có thanh niên, học sinh – sinh viên là ngòi pháo mà phụ nữ cũng là một mũi
xung kích, là ngòi pháo của nhiều phong trào. Do vây, vị trí của phong trào phụ nữ
41
là rất lớn. Biết vận động phong trào phụ nữ tốt thì lực lƣợng cách mạng sẽ tiến lên.
Nhiệm vụ của phong trào phụ nữ ở đô thị cũng không tách rời nhiệm vụ
chung của phong trào ở đô thị là lật đổ chính quyền tay sai. Thông qua phong trào
tập hợp lực lƣợng, tổ chức lực lƣợng, xây dựng nòng cốt, đấu tranh đòi thi hành
Hiệp định, đòi dân sinh, dân chủ, chống áp bức bóc lột. Cán bộ phụ nữ phải phát
động quần chúng vạch mặt kẻ thù, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh (công khai,
bán công khai), hình thành mặt trận phụ nữ trong mặt trận đại đoàn kết dân tộc.
Trên mặt trận đấu tranh vũ trang, phải đẩy mạnh phát triển phong trào du
kích chiến tranh, tăng cƣờng xây dựng lực lƣợng dân quân du kích rộng mạnh kể
cả trai gái, già trẻ thành một lực lƣợng vũ trang mạnh của quần chúng đồng thời là
một lực lƣợng chính trị mạnh nằm trong quần chúng, gắn chặt với các đoàn thể
cách mạng, nhất là lực lƣợng du kích nữ, “đội quân tóc dài” chẳng những là lực
lƣợng chính trị mà còn là lực lƣợng quân sự của nhân dân. Phải thông qua các
phong trào đấu tranh có bạo lực quần chúng mà đƣa quần chúng tham gia giết giặc
bằng nhiều cách, nhiều hình thức, đặc biệt là giáo dục rèn luyện tinh thần quần
chúng tiến lên tham gia chiến đấu vũ trang.
Cùng với đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, công tác binh vận trở thành
mũi tấn công rất quan trọng làm tê liệt và làm tan rã hàng ngũ địch, buộc địch
từng bƣớc đi vào hòa bình và hòa hợp dân tộc, làm cho chính quyền địch nhất là ở
cơ sở ngày càng suy yếu, thực hiện công nông binh liên hiệp và tạo điều kiện cho
cao trào cách mạng của quần chúng. Phải gắn chặt công tác binh vận với phong
trào đấu tranh chính trị và thông qua phong trào đấu tranh của quần chúng mà
từng bƣớc phát động phong trào đấu tranh của binh sĩ. Làm cho công tác binh vận
trở thành công tác của quần chúng, tổ chức lực lƣợng binh vận và tổ chức việc
chuyên trách mũi tiến công bằng binh vận ở xã ấp đối với từng đồn, từng đơn vị
chủ lực ngụy, nghiên cứu những hình thức tổ chức quần chúng gia đình binh sĩ để
tập hợp, vận động, giáo dục quần chúng, hình thành tổ chức binh vận rộng khắp.
Trong công tác tuyên truyền vận động binh sĩ phải lấy nội dụng dân tộc và nội
dung giai cấp mà giác ngộ, kéo họ về với dân tộc, với giai cấp thì mới thực hiện
42
đƣợc công nông binh liên hiệp, lật đổ chế độ Mỹ - Thiệu.
Trong công tác ngoại giao, hòa bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh,
hòa hợp dân tộc, tiến tới hòa bình thống nhất nƣớc nhà là nguyện vọng tha thiết
của nhân dân cả nƣớc, là thế mạnh để thắng địch, vì vậy, nhiệm vụ của công tác
ngoại giao phải nêu cao lập trƣờng chính nghĩa của cách mạng miền Nam ở trong
và ngoài nƣớc, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nƣớc và tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ của dƣ luận quốc tế, chĩa mũi nhọn tiến công vào đế quốc Mỹ
và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Dựa vào tính pháp lý của Hiệp định Pari về Việt Nam, giƣơng cao ngọn cờ
hòa bình và lập trƣờng chính nghĩa của cách mạng Việt Nam, kiên quyết, kịp thời
vạch trần trƣớc dƣ luận trong nƣớc và thế giới mọi âm mƣu và hành động vi phạm
Hiệp định Pari của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Xác định cuộc đấu tranh đảm bảo
việc thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam là lâu dài, khó khăn, phức tạp, cần phối
hợp chặt chẽ các phong trào đấu tranh của quân và dân trong nƣớc và các hoạt
động ngoại giao nƣớc ngoài, phối hợp đấu tranh chính trị, pháp lý trên bàn đàm
phán và đấu tranh chính trị, quân sự ở chiến trƣờng, mở rộng cả hai mặt công tác
ngoại giao nhà nƣớc và ngoại giao nhân dân.
Ngày 15-10-1973, Bộ Chỉ huy các lực lƣợng vũ trang Giải phóng miền
Nam ra lệnh: Kiên quyết giáng trả các hành động chiến tranh của chính quyền Sài
Gòn, bất cứ ở đâu bằng các hình thức và lực lƣợng thích hợp, phụ nữ cùng quân và
dân miền Nam kiên trì đẩy mạnh cuộc chiến đấu.
Bƣớc sang năm 1975, nhận nhiệm vụ Trung ƣơng giao phó, đồng chí Nguyễn
Văn Linh tiến hành công tác tổ chức và chuẩn bị kịp thời, chu đáo, nhƣ chuẩn bị
cho kế hoạch nổi dậy của từng tầng lớp công nhân, thanh niên, học sinh, sinh viên,
trí thức, nội thành, ngoại thành, lo cờ, khẩu hiệu, loa, kèn, trống… Thành lập các
ban để lãnh đạo từng bộ phận nhƣ Ban Phụ vận, Binh vận, Hoa vận, Trí vận…
Triển khai chủ trƣơng đấu tranh của Trung ƣơng Đảng, Bộ Chính Trị và Trung
ƣơng Cục miền Nam Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt
Nam chủ trƣơng phát động “phong trào phụ nữ miền Nam đấu tranh đòi thi hành hiệp
định, bảo vệ hòa bình”, trong bất cứ hoàn cảnh nào, chị em cũng luôn nêu cao ngọn
43
cờ độc lập dân tộc, kiên quyết đánh bại âm mƣu xâm lƣợc của đế quốc Mỹ. Các địa
phƣơng phát động một tháng thi đua từ ngày 30/2 đến ngày 30/3/1973, lấy tên là
phong trào phụ nữ miền Nam đấu tranh đòi thi hành hiệp định, bảo vệ hòa bình.
Để thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần tiến công, Hội Phụ nữ Giải phóng các
cấp Nam Trung Bộ tiến hành tổ chức, sắp xếp lại lực lƣợng, đội ngũ cán bộ chỉ đạo,
chỉ huy đấu tranh chính trị, binh vận, chống lấn chiếm và tiến công địch [82, tr.429].
Hội phụ nữ các cấp còn tổ chức học tập về nội dung của Hiệp định Pari, sau đó, đƣa
lực lƣợng cán bộ phụ nữ xuống các địa phƣơng tuyên truyền về chính sách hòa hợp
dân tộc của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, vạch rõ âm mƣu và
thủ đoạn “bình định lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari”, tổ chức phát động cắm cờ
giữ đất, vận động binh lính, kết hợp với đấu tranh chính trị.
Dƣới sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng mà trực tiếp là Trung ƣơng Cục và
Hội liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam, phụ nữ miền Nam ngay sau ngày ký
Hiệp định Pari đã hăng hái tiến lên, đứng ở mũi nhọn cuộc đấu tranh của nhân dân cả
nƣớc nhằm giữ gìn hòa bình, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc và dân chủ,
thực hiện hòa hợp dân tộc, tiến tới thống nhất nƣớc nhà.
2.2. Sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam đối với phong trào đấu
tranh của phụ nữ
2.2.1. Chỉ đạo phong trào phụ nữ đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari
2.2.1.1. Chỉ đạo đấu tranh chống bình định lấn chiếm tại vùng nông thôn
Theo Hiệp định, đồng bào miền Nam phải đƣợc tự do đi lại, trở về quê cũ
làm ăn sinh sống nhƣng địch tăng cƣờng lực lƣợng quân sự, chính trị đẩy mạnh
chƣơng trình “bình định” ở nông thôn, huy động trên 60% quân mở các chiến dịch
càn quét lấn chiếm nhiều nơi, gom xúc gần 20 vạn dân, đóng trái phép 450 đồn và
chốt mới. Từ cuối tháng 1 đến tháng 5-1973, ở Nam Trung Bộ, Mỹ-Thiệu đã 30.607
lần vi phạm hiệp định, gây tổn thất nặng nề cho nhân dân [82, tr423].
Trƣớc những hành động khủng bố của địch, phối hợp với lực lƣợng vũ trang,
Hội phụ nữ khu và các tỉnh phát động cắm cờ giữ đất đi đôi với đẩy mạnh đấu tranh
chính trị và vận động binh lính địch, chống lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng…
Địch cắm cờ lấn chiếm, các mẹ, các chị dùng lời lẽ đấu tranh, nhổ cờ địch, cắm cờ
44
ta. Chị em Xuyên Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Đà, vây ép địch ra đƣờng cái
mới, buộc địch nhổ cờ quốc gia, các chị cắm cờ giải phóng và nói: “Đây là ruộng
vƣờn của bà con tôi thì bà con tôi cắm cờ, các anh có cắm cờ thì cắm trong đồn”.
Ở xã Ngũ Lạc, huyện Trà Củ, tỉnh Trà Vinh, quần chúng phụ nữ Khơme cùng
đồng bào nổi dậy đấu tranh, giành đất, đuổi địch, giải phóng vùng. Ở tỉnh Bến Tre
quần chúng cắm trên 280.000 lá cờ giải phóng [79, tr.22].
Tại Cà Mau, đêm 7/1/1973, hơn 400 đồng bào trong ấp chiến lƣợc huyện
Duyên Hải, đƣợc sự hỗ trợ của lực lƣợng vũ trang giải phóng, nổi dậy phá ách kìm
kẹp, phá 100 cột cờ, xé nát hơn 300 cờ ba que và nhiều ảnh Thiệu [28, tr.3].
Song song với phong trào cắm cờ giữ đất, vận dụng cơ sở pháp lý của Hiệp
định, các chị, các mẹ đẩy mạnh phong trào bung về ruộng vƣờn cũ sản xuất. Hiệp
định Pari vừa ký kết, hàng chục vạn quần chúng phụ nữ đã cùng với đồng bào về
đất cũ, đấu tranh quyết liệt với địch phá bỏ luật lệ kìm kẹp, đòi trả lại ruộng vƣờn,
buộc địch phải gỡ dây thép gai, lựu đạn, mìn… cho nhân dân trở về làm ăn. Tại
Ninh Thuận, Bình Thuận, trong tháng 8/1973, mỗi ngày có từ 5000 đến 7000 ngƣời,
đa số là phụ nữ lao động sản xuất ngay tại vùng giáp ranh, tiếp giáp vùng căn cứ
cách mạng, phá bỏ lệnh giới nghiêm của địch, cất chòi tại ruộng và ở lại luôn. Ở
miền Đông và ven Sài Gòn, những vùng căng thẳng nhất nhƣ Củ Chi, Bình Chánh,
Gò Vấp, Hóoc Môn (Gia Định), Đức Hoà, Đức Huệ, (Long An)… quần chúng phụ
nữ dẫn đầu phong trào đấu tranh xé rào, bung ra đồng ruộng sản xuất, lấp dần diện
tích bỏ trắng trƣớc đây. Riêng ở Cà Mau trong 8 tháng đầu năm 1973 có hơn 70.000
dân về vùng giải phóng [79, tr.24-25].
Nắm vững cơ sở pháp lý của Hiệp định Pari, tại Bến Tre, gần 100.000 đồng
bào và gia đình binh sĩ Sài Gòn tổ chức 1882 lần kéo đến các cấp chính quyền và
quân đội Sài Gòn trong tỉnh đấu tranh, tố cáo chính quyền Sài Gòn thúc ép binh sĩ
hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, xâm phạm các quyền tự do dân chủ của nhân
dân ta. Đồng bào cũng tố cáo chính quyền và quân đội Sài Gòn vô cớ bắt giam,
đánh đập những ngƣời yêu nƣớc, đòi nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, chấm dứt
những hành động lấn chiếm, đòi bồi thƣờng thiệt hại [42, tr.1].
Phong trào đấu tranh chống bình định của phụ nữ miền Nam ở nông thôn
45
trong giai đoạn 1973-1975 đã bám sát nội dung của Hiệp định Pari. Mặc dù Mỹ đã
tăng cƣờng khối lƣợng lớn phƣơng tiện chiến tranh, đẩy mạnh hành quân càn quét,
khủng bố, đàn áp nhƣng phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam vẫn tiếp tục
phát triển và giành nhiều thắng lợi to lớn, mở rộng và bảo vệ vùng giải phóng, đảm
bảo cơ sở vững chắc cho cách mạng, góp phần to lớn làm thất bại căn bản chƣơng
trình “bình định” và âm mƣu xóa thế “da báo” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Vũ
khí hiện đại, tối tân của Mỹ với bom rải thảm, chất độc hóa học, xe tăng, tàu chiến,
cùng những sƣ đoàn “tinh nhuệ” và tàn bạo nhất đã thực sự kinh hoàng trƣớc trái
tim, cặp mắt và hành động đấu tranh quyết liệt của phụ nữ miền Nam.
2.2.1.2. Chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari trong đô thị
Với các chính sách độc tài, phát xít, hiếu chiến phản động của chính quyền
Sài Gòn, cuộc sống của đồng bào thành thị miền Nam sau Hiệp định Pari càng bị
cấm đoán nghiệt ngã, những đòi hỏi về hòa bình thật sự, công việc làm ăn; hạ giá
sinh hoạt, giảm thuế, bỏ thuế, các quyền tự do dân chủ, giải ngũ thanh niên, không
bắt lính và thả dân sự bị bắt... càng trở nên bức bách. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp
nhân dân thành thị với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ngày càng trở nên gay gắt.
Dựa trên cơ sở pháp lý của Hiệp định Pari, phong trào đấu tranh của các giới đồng
bào thành thị đã phát triển một bƣớc so với năm 1972 cả về khẩu hiệu, hình thức,
quy mô và mức độ đấu tranh. Ngoài những cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh dân
chủ, cải thiện đời sống, nổi bật lên cuộc đấu tranh chống các loại thuế, đòi thả tự do
cho các tù chính trị, đòi Thiệu từ chức, đòi hòa bình, hòa hợp dân tộc, đòi thi hành
Hiệp định Pari… Các cuộc đấu tranh này đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân
tham gia trong các thành phố, thị xã, thị trấn ở miền Nam, trong đó, phụ nữ vẫn là
lực lƣợng chủ yếu, giữ vai trò xung kích.
Trong phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ, đòi cải thiện đời
sống, chị em công nhân và tiểu thƣơng vẫn là lực lƣợng tiên phong.
Các cuộc đấu tranh không chỉ diễn ra ở các xƣởng nhỏ, ở những ngành bình
thƣờng mà ở cả những cơ sở quan trọng nhƣ bến cảng, hãng dầu, hàng không vận
tải, đƣờng sắt, điện nƣớc và những cơ sở trực tiếp phục vụ kế hoạch quân sự của
Mỹ - Thiệu. Mục tiêu các cuộc đấu tranh đều xuất phát từ các đòi hỏi cấp thiết hàng
46
ngày và nhằm vào chính sách, biện pháp kìm kẹp, áp bức, bóc lột của Thiệu.
Ngoài các hình thức đấu tranh thông thƣờng nhƣ hội họp, làm kiến nghị, đƣa
yêu sách, công nhân lao động còn tổ chức lãn công, bãi công, biểu tình... ý thức
đoàn kết, giúp đỡ nhau trong đấu tranh, ý thức bảo vệ cán bộ nghiệp đoàn, chống lại
sự khống chế, hãm hại của bọn Trần Quốc Bửu cầm đầu đoàn phản động đã đƣợc
nâng lên một bƣớc mới [51, tr.3]. Liên tục trong năm 1973, diễn ra các cuộc đấu
tranh đòi tăng lƣơng cho kịp với giá sinh hoạt, chống sa thải. Tiêu biểu là các cuộc
đấu tranh của anh chị em công nhân hãng dầu Caltex, Esso, Shell… của công nhân
đƣờng sắt, công nhân hãng dệt Sicovina (70% là nữ).
Bƣớc sang năm 1974, hƣởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban chống sa thải, tất cả
các nghiệp đoàn phát động đợt đấu tranh chống sa thải, chống lăng nhục, hành hung
nữ công nhân, đòi bồi thƣờng thỏa đáng khi chủ giảm thợ. Bên cạnh hình thức đấu
tranh bằng đƣa đơn kiến nghị hợp pháp, công nhân nhiều cơ sở sản xuất còn tuyệt
thực, đình công, bao vây uy hiếp chủ, đòi giải quyết yêu sách. Ngày 20/6/1974, toàn
thể nữ công nhân làm việc ở cƣ xá Mỹ đình công, tuyệt thực 24 giờ phản đối Mỹ
hành hung đại biểu nữ công nhân. Cùng thời gian này, 1000 công nhân nam nữ
hãng thuốc lá Mie, 3000 công nhân viên chức Hàng không dân sự Việt Nam, 1500
anh chị em công nhân hãng bột mì Xakibomi và Vipromyco đình công đòi tăng
lƣơng, đòi trả trợ cấp thôi việc, chống sa thải [91, tr.280-281].
Cùng với phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của phụ nữ buôn bán
nhỏ ở thành thị miền Nam cũng diễn ra trên quy mô rộng lớn, bao gồm 36 chợ Sài
Gòn và ngoại ô phụ cận, sau đó lan nhanh đến các chợ thị xã miền Tây.
Sau khi Thiệu ban hành thuế TVA (thuế trị giá gia tăng), vật giá tăng vọt, đời
sống nhân dân thêm điêu đứng, chị em mua bán và các chủ quán đƣa đơn kiến nghị
đòi chính quyền Sài Gòn giảm miễn các thứ thuế cũ và kiên quyết không đóng thuế
“trị giá gia tăng”, hạ giá sinh hoạt, giải quyết công ăn việc làm cho những ngƣời
thất nghiệp [45, tr.1].
Phong trào phụ nữ chống đuổi chợ, đuổi sạp, tăng thuế… diễn ra hết sức
quyết liệt tại hàng ngàn chợ lớn nhỏ từ Sài Gòn đến các tỉnh. Điển hình là các cuộc
đấu tranh của 500 chị em ở chợ Cá Chánh Hƣng (Sài Gòn), 600 bạn hàng chợ Hooc
47
Môn (Gia Định), hàng ngàn chị em ở các chợ Bến tre, Mỹ Tho, Trảng Bàng, Biên
Hoà… chị em đấu tranh bạo lực quyết liệt, xô xát với cảnh sát, thầu chợ và binh
lính đến đàn áp [79, tr.25].
Ở Cần Thơ, hàng ngàn chị em tiểu thƣơng chống lệnh giải tỏa chợ Hàng
Dƣơng. Ngày 10/6/1973, hàng trăm cảnh sát và phòng vệ dân sự gỡ vách, gỡ lều
của chị em, chở một số hàng về Ty cảnh sát. Ngày 14/6/1973, nhà cầm quyền cho
xe ủi sập các lô hàng. Chị em làm kiến nghị đƣa lên tỉnh trƣởng, đòi lại chỗ cũ, đòi
bồi thƣờng tài sản bị đập phá, cƣớp giật. Tiểu thƣơng cả thành phố Cần Thơ biểu
tình rầm rộ. Cuối cùng cuộc đấu tranh thắng lợi, chị em đƣợc mua bán ở chỗ cũ,
chính quyền phải bồi thƣờng 43 sạp bị ủi sập [118, tr.446].
Cùng với phong trào đấu tranh của chị em công nhân, tiểu thƣơng, phong trào
đấu tranh của học sinh, sinh viên trong giai đoạn 1973-1975 cũng có bƣớc phát triển
sau khi đã gây dựng lại cơ sở và tổ chức. Bƣớc sang năm 1974, hàng chục trƣờng
đại học và trung học đã tổ chức sinh hoạt trại truyền thống kỷ niệm Trần Văn Ơn và
kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ. Phong trào sinh viên, học sinh khôi phục không khí
đấu tranh bằng một cuộc kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ đã nói lên một cách gián
tiếp mà hùng hồn vai trò của nữ sinh trong cuộc vận động sôi nổi này.
Ngày 16/3/1974, giới học sinh, sinh viên, trí thức, nhân sĩ, tôn giáo… biểu
tình sôi nổi ở khu vực chợ Bến Thành đòi trả tự do cho Huỳnh Tấn Mẫm và các tù
chính trị còn bị giam giữ. Nam nữ sinh viên, học sinh trong các toán “xung kích”
dùng bom xăng và lựu đạn khói làm náo động trung tâm thành phố. Đây là cuộc
biểu tình sôi nổi nhất của sinh viên, học sinh Sài Gòn từ năm 1972.
Ngày 4/11/1974, “Ủy ban hành động cho công bằng xã hội” ra đời, tập hợp
11.000 sinh viên các tôn giáo. Đêm Noel 1974, sinh viên các tôn giáo mít tinh
chống bắt lính và đòi Thiệu từ chức [118, tr.447]. Lần đầu tiên tại thành phố, nữ
giáo chức của 98 trƣờng trung, tiểu học công và tƣ đồng loạt bãi khóa 3 ngày để
phản đối hành động xâm phạm nhân phẩm của nữ giáo chức [91, tr.280].
Cùng với phong trào công khai sôi nổi, rộng rãi, lôi cuốn hàng chục vạn phụ
nữ các tầng lớp tham gia, phong trào đấu tranh chống vơ vét, bắt lính cũng phát
triển mạnh ở các đô thị. Chị em kết hợp đấu tranh chính trị, vận động binh lính với
48
diệt ác, phá kìm, xây dựng thực lực tại chỗ, hình thành những lõm chính trị. Các
mẹ, các chị kéo đến đồn bốt, tuyên truyền giải thích hiệp định, vận động hàng ngàn
sĩ quan binh lính ngụy bỏ ngũ. Một số đơn vị đào ngũ tập thể. Đêm 3/2/1973, binh
lính ở trung tâm huấn luyện Hòa Cầm (Đà Nẵng) nổi dậy diệt bọn chỉ huy ác ôn.
Trong nội đô, các nữ chiến sĩ tình báo biệt động cũng bí mật đẩy mạnh hoạt
động. Ngày 13/12/1974, nữ biệt động Hồ Thị Hƣơng và Nguyễn Thị Thọ đã cải
trang đặt mìn trong quán ăn Hoàng Diệu (Long Khánh - Đồng Nai), diệt 33 tên
địch. Ngày 18/1/1975, Hồ Thị Hƣơng cùng Nguyễn Thị Thận đánh vào quán ăn
Viễn Đông ở trung tâm thị xã, làm bị thƣơng 30 cảnh sát địch.
Nhìn chung, phong trào đấu tranh của phụ nữ các thành thị miền Nam đã bám
sát nội dung Hiệp định Pari, phát triển mạnh mẽ và ngày càng đi vào những đòi hỏi
bức bách là hòa bình, độc lập, dân chủ, cơm áo và hòa hợp dân tộc, đồng thời đấu
tranh kiên quyết nhằm chống lại những hành động vi phạm và phá hoại nghiêm
trọng Hiệp định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
2.2.1.3. Chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari của phụ nữ
tại nhà tù đế quốc
Hiệp định Pari đã đƣợc ký kết, nhƣng quyền đƣợc sống, quyền đƣợc bảo vệ
nhân phẩm và tính mạng của những nữ tù vẫn bị xâm phạm nghiêm trọng. Ngày
13/6/1973, sau khi tuyệt thực 60 ngày, từ trong nhà tù của chính quyền Sài Gòn, bà
Ngô Bá Thành, Chủ tịch Phong trào phụ nữ đòi quyền sống ra tuyên bố kịch liệt lên
án chính quyền Thiệu bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ ở miền Nam [44, tr.3].
Trƣớc sự tra tấn dã man và cuộc sống khắc nghiệt nơi ngục tù vẫn sáng lên
hình ảnh về nụ cƣời của chị Võ Thị Thắng. Nụ cƣời đó đã trở thành biểu tƣợng cho
ý chí quật cƣờng của những ngƣời phụ nữ miền Nam trƣớc họng súng của kẻ thù,
cùng câu nói nổi tiếng “Tôi sợ chánh quyền các ông không tồn tại đến 20 năm để tôi
ở tù!”. Tại Côn Đảo, hòa với tiếng hô bên trại giam nam “Đả đảo khủng bố, chống
chào cờ ba que!” là tiếng hô dõng dạc của chị Thắng “Đả đảo khủng bố, chống đàn
áp!” Chị Võ Thị Thắng cùng với chị em toàn trại tổ chức tuyệt thực. Hơn 400 chị
em tù chính trị đã phải dồn sức chống chọi với việc đổ nƣớc cháo. Cuộc đấu tranh
diễn ra quyết liệt và dai dẳng, máu tƣơi bật ra hòa với nƣớc cháo lênh láng. Bƣớc
sang ngày thứ chín, cuộc đấu tranh của những ngƣời tay không, chỉ chiến đấu với ý
49
chí sắt đá và niềm tin tất thắng đã kết thúc thắng lợi [50, tr.3].
Đặc biệt, trong tình hình mới, khi Hiệp định Pari đã đƣợc ký kết, để dễ dàng
thi hành chính sách của nhà cầm quyền Sài Gòn, ban quản đốc tại các nhà tù đế
quốc toàn miền Nam đã thực hành biện pháp cấm triệt để, bƣng bít mọi sự phổ biến
tin tức xác thực, loan truyền những tin tức sai sự thực nhằm gây hoang mang, gây
hận thù, chia rẽ giữa những ngƣời Việt Nam. Bản Hiệp định chấm dứt chiến tranh,
vãn hồi hòa bình ở Việt Nam không đƣợc phổ biến cho tù nhân, mặc dù anh chị em
đã nhiều lần yêu cầu đƣợc biết nội dung của bản Hiệp định.
Theo Hiệp định, tất cả tù binh chiến tranh của các bên sẽ đƣợc trao trả không
điều kiện trong vòng 60 ngày. Các tù nhân chính trị sẽ đƣợc trả tự do sau đó theo
thỏa thuận chi tiết của các phía Việt Nam. Tháng 10/1972 chính quyền quyền Sài
Gòn đã chỉ thị cho tất cả các trung tâm cải huấn lập danh sách tù chính trị, nhằm
chuyển tù chính trị thành thƣờng án với các tội danh “phá rối trật tự trị an”; “gian
nhân hiệp đảng”; “giữ vũ khí bất hợp pháp”, với những bản án chuẩn bị sẵn, cƣỡng
bức tù nhân ký và lăn tay, chụp hình dán vào nhằm thực hiện âm mƣu ém giấu tù
chính trị, trốn tránh việc trả tù chính trị. Ngày 24/1/1973, tức trƣớc ngày ký kết
Hiệp định Pari, nhà cầm quyền Sài Gòn âm thầm dựng lên các phiên tòa để áp đặt
những bản án vi luật, với những tội danh ngụy tạo cho chị em.
Trƣớc những hành động vi phạm Hiệp định Pari của chính phủ Mỹ và
chính quyền Sài Gòn, các nữ tù chính trị, nhất là ở nhà tù Côn Đảo đã kiên quyết
đấu tranh đòi công bố Hiệp định Pari và nghị định thƣ, đòi lập Ban đại diện từng
trại tù, trực tiếp làm việc với Ủy ban liên hợp quân sự hai bên, có sự giám sát của
Ủy ban Quốc tế. Tù chính trị Côn Đảo đã phải đổ máu trong cuộc đấu tranh chống
lăn tay chụp hình, đòi trao trả ngay, trao trả hết tù chính trị theo Hiệp định Pari. Bản
thân những nữ tù chính trị đã chuẩn bị tinh thần và kế hoạch đối phó, quyết tâm
không cho địch xé lẻ lực lƣợng và tổ chức chống trả. Chị em nhắm mắt, há miệng
thật to khi địch bấm máy mặc cho sau đó là những trận đánh đập tàn bạo. Trong đợt
đấu tranh chống lăn tay chụp hình tại Trại IV có 3 nữ tù chính trị bị địch đánh chết, là
Lê Thị Cúc (quê ở Quảng Nam chết ngày 24/4/1973), Trần Thị Thanh (quê ở Quảng
Nam chết ngày 30/4/1973), Nguyễn Thị Hƣơng (quê ở Định Tƣờng chết ngày
50
2/5/1973). Chƣa đầy 10 ngày, ở nhà tù Côn Đảo đã có 10 chị hi sinh [112, tr.462].
Bƣớc sang năm 1975, trên chiến trƣờng, quân và dân miền Nam đã giải phóng
nhiều vùng, nhiều tỉnh, tin thắng trận trong chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài
Gòn – Gia Định đã lan tới chị em trong các nhà tù đế quốc, các nữ tù chính trị tổ
chức vƣợt ngục, phá nhà giam. Tại Côn Đảo, Đảo ủy lâm thời tổ chức lực lƣợng,
chia thành nhiều tốp, từ Trại VII đến giải phóng các trại [112, tr.481]. Nhận sự chỉ
đạo của Đảo ủy lâm thời, chị Hai Nhân và Tƣ Cúc tham gia Đảo ủy và chị Phạm
Thị Đào tham gia chính quyền cách mạng tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh giải
phóng gần 500 phụ nữ, giải phóng Côn Đảo, chấm dứt 21 đấu tranh chống chế độ
nhà tù khắc nghiệt của đế quốc Mỹ và chế độ chính trị Sài Gòn.
2.2.2. Chỉ đạo đẩy mạnh công tác binh vận của phụ nữ miền Nam
Từ khi có Hiệp định Pari, binh sĩ ngụy phân hóa sâu sắc, hầu hết đều có
khuynh hƣớng muốn hòa bình, chán ngán chiến tranh. Trƣớc tình hình đó, mũi tiến
công binh vận càng đƣợc đẩy mạnh. Nhận định rõ tình hình, dựa vào tính pháp lý
vững chắc của Hiệp định Pari, cán bộ phụ nữ, cán bộ địch vận đã thâm nhập vùng bị
chiếm tuyên truyền chính sách, xây dựng thêm nhiều cơ sở nội tuyến, vận động binh
lính đào rã ngũ, phản chiến, không đi càn, trả súng, về với gia đình, quê hƣơng. Hầu
hết phụ nữ ở các xã, thôn đều tham gia công tác binh vận. Ở nhiều xã, 100% hội
viên và quần chúng phụ nữ đã tham gia công tác binh vận.
Bằng tình cảm gia đình, mẹ con, chồng vợ, các mẹ, các chị đã lôi kéo
những ngƣời con, ngƣời chồng đang đứng trong hàng ngũ địch trở về với nhân dân.
Chị em trực tiếp rải truyền đơn, trao thƣ cho binh sĩ, dán khẩu hiệu, thả bè, phát loa
vận động binh sĩ. Nhiều nơi chị em có kế hoạch công tác binh vận đối với từng sắc
lính ngụy, từng loại đồn bốt, có bố trí lực lƣợng binh vận thƣờng trực, hình thành
những vành đai binh vận bao quanh lực lƣợng địch ở đồn bót, chỗ đóng quân hoặc
cụm quân của địch khi càn quét. Chị em còn đi vào gia đình từng binh sĩ giáo dục,
tổ chức cho những ngƣời mẹ, ngƣời chị, ngƣời vợ kêu chồng con em về, đấu tranh
không cho chồng con em bị đẩy đi càn quét, đóng đồn lấn chiếm, sôi nổi nhất là ở
Bà Rịa, Long Khánh, Bến Tre, Mỹ Tho…
Ở Bến Tre, binh sĩ trong hàng trăm đồn bốt nghe theo đồng bào, án binh bất
51
động, đông đảo binh sĩ tiểu đoàn bảo an số 451 ở Mỏ Cày bị điều về thị xã Bến Tre
đã xé bỏ cờ chính quyền Sài Gòn ném đầy đƣờng [32, tr.1]. Hơn 22.100 đồng bào
và gia đình có chồng con em bị chính quyền Sài Gòn bắt lính đã kéo đến các điểm đóng
quân, đồn bốt, giải thích, phổ biến văn bản Hiệp định cho binh sĩ. Đƣợc đồng bào giúp
đỡ, 604 binh sĩ, viên chức chính quyền Sài Gòn đã trở về đoàn tụ với gia đình.
Tháng 7/1973, trong khi bộ đội địa phƣơng và du kích các tỉnh Long An,
Bến Tre tiến công địch và bức rút nhiều chốt địch đóng trái phép, các mẹ các chị đã
tranh thủ vận động các gia đình binh sĩ quân đội Sài Gòn, kêu gọi hàng trăm con em
bỏ ngũ về nhà làm ăn. Cùng thời gian trên, ở Điện Phƣơng (Quảng Đà), 3000 chị
em ở Dốc Đó đấu tranh và vận động lực lƣợng dân vệ quay súng diệt cảnh sát, giải
thoát cho 300 thanh niên bị bắt lính. Ở Phú Yên, ngày 12/11/1973, 1000 phụ nữ ở
Hòa Vinh đấu tranh chống bắt lính. Tỉnh hội phụ nữ phát động 2977 gia đình binh
lính ngụy có ngƣời chết trận, đấu tranh với địch, xây dựng 63 cơ sở nội tuyến, làm
rã ngũ 556 lính bảo an, 104 dân vệ và 1163 phòng vệ dân sự.
Cùng với thái độ chán ghét chiến tranh, thực sự muốn hòa bình, lính ngụy còn
liên tục bỏ ngũ, đào ngũ để trở về với cách mạng, với nhân dân, làm suy yếu, rệu rã
hàng ngũ địch. Việc phổ biến nội dung Hiệp định, Thông cáo chung Pari, chính
sách hòa giải và hòa hợp dân tộc đã tác động mạnh mẽ vào hàng ngũ đối phƣơng,
hàng trăm cuộc phản chiến tập thể ở cấp đại đội và tiểu đoàn của binh sĩ Sài Gòn đã
nổ ra, hàng nghìn ngƣời bỏ ngũ về với nhân dân [46, tr.1].
Trong những năm 1973-1975, công tác binh vận thực sự là một mũi tấn công
quan trọng làm tê liệt hàng ngũ kẻ thù. Với những tình cảm thân thuộc, sâu sắc,
bằng lý lẽ sắc bén bám sát nội dung Hiệp định và chính sách khoan hồng nhân đạo
của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, các chị các mẹ
góp phần làm cho lực lƣợng giữa ta và địch có bƣớc thay đổi lớn, nghiêng hẳn về
phía cách mạng, tạo điều kiện để phụ nữ cùng đồng bào miền Nam tiến hành tổng
tiến công và nổi dậy “đánh cho ngụy nhào”, thực hiện hòa bình và thống nhất đất
nƣớc khi thời cơ đến.
2.2.3. Chỉ đạo hoạt động ngoại giao của phụ nữ miền Nam
Mặc dù đã giành đƣợc thắng lợi to lớn trên bàn đàm phán với chính phủ
52
Mỹ và chính quyền Sài Gòn bằng việc ký Hiệp định Pari ngày 27/1/1973, nhƣng
trƣớc những hành động trắng trợn, ngang nhiên vi phạm, phá hoại Hiệp định của
Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đấu tranh ngoại giao trong thời gian này có vai trò
quan trọng. Đấu tranh ngoại giao góp phần làm cho thế giới hiểu đƣợc tính chất
chính nghĩa cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, thái độ nghiêm chỉnh, đúng đắn
và triệt để của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong việc thi hành Hiệp định Pari.
Đồng thời vạch trần bộ mặt bán nƣớc, những hành động vi phạm của chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu đối với bản Hiệp định. Từ đó, kêu gọi nhân dân tiến bộ trên thế
giới, đặc biệt là nhân dân tiến bộ Mỹ tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa
của nhân dân miền Nam Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn.
Tối ngày 22/1/1973, trƣớc đông đảo các nhà báo Pháp và nƣớc ngoài, Bộ
trƣởng Nguyễn Thị Bình khẳng định những mục tiêu đấu tranh của Mặt trận dân tộc
giải phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời vẫn luôn nhằm bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, quyền tự quyết của nhân dân
miền Nam Việt Nam. “Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam đã có thiện chí và mềm dẻo trong việc tìm ra một giải pháp chính trị, nhƣng
kiên quyết giữ vững nguyên tắc về những quyền dân tộc cơ bản” [29, tr.4].
Bộ trƣởng Nguyễn Thị Bình bày tỏ mong muốn đƣợc thấy chính phủ các
nƣớc không liên kết dùng ảnh hƣởng của mình làm cho Hiệp định Pari về Việt Nam
đƣợc triệt để tôn trọng. Bộ trƣởng Nguyễn Thị Bình khẳng định “Tình hình miền
Nam Việt Nam cho thấy rằng mặc dù có những vi phạm và đàn áp khủng bố của
chính quyền Sài Gòn, ý chí hòa bình, hòa hợp dân tộc là của tuyệt đại đa số nhân
dân. Chúng tôi tin tƣởng rằng không một thế lực phản động nào có thể chống lại
đƣợc ý chí sắt đá đó” [33, tr.4].
Với việc Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, dƣ luận thế giới đang nghi
ngờ về một cuộc “nội chiến” giữa những ngƣời Việt Nam, gây khó khăn cho cách
mạng miền Nam. Bởi vậy, làm rõ trƣớc dƣ luận quốc tế về việc Mỹ tiếp tục chính
sách thực dân mới ở miền Nam là một nhiệm vụ quan trọng của mặt trận ngoại giao.
Để làm tốt công tác tuyên truyền, phòng thông tin của Chính phủ cách mạng lâm thời
53
tại Pháp đã liên tục cho ra những bản tin về tình hình Việt Nam. Kết hợp hài hòa các
bộ phận truyền thông trong nƣớc, kịp thời đƣa những thông tin mới nhất, có lợi cho
cách mạng, để bạn bè quốc tế hiểu rõ về tình hình Việt Nam và kịp thời ủng hộ cuộc
đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Trƣớc những hành động vi phạm phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ và chính
quyền Sài Gòn, Chính phủ cách mạng lâm thời cũng cực lực tố cáo và nghiêm khắc
lên án, kiên quyết đòi Hoa Kỳ và Chính quyền Sài Gòn phải chấm dứt mọi cuộc
hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, rút ngay quân đội ra khỏi những vùng do
chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam kiểm soát.
Đầu năm 1975, Bộ trƣởng Nguyễn Thị Bình cùng đồng chí Lê Mai, nhận
nhiệm vụ tranh thủ sự ủng hộ của dƣ luận quốc tế ngăn Mỹ đƣa quân trở lại miền
Nam. Sau khi tới Angieri và Tandania, tại đây đang có Hội nghị thống nhất châu
Phi, đồng chí đã phải chờ hội nghị họp suốt đêm. Khi Hội nghị kết thúc, Bộ trƣởng
nhanh chóng tranh thủ diễn đàn thông báo vắn tắt tình hình Việt Nam, nhấn mạnh
nếu Mỹ đƣa quân trở lại Việt Nam thì tình hình rất phức tạp, vì vậy, kêu gọi các
nƣớc hành động cụ thể ủng hộ Việt Nam và phản đối chiến tranh xâm lƣợc của Mỹ.
Là nạn nhận trực tiếp trong âm mƣu không trao trả hoặc trao trả không đúng
thời hạn tù chính trị của Mỹ - ngụy, trong hai ngày 7 và 8/3/1973, hơn 900 chị em
từ các nhà tù Mỹ - Thiệu chiến thắng trở về đã tổ chức ngày hội 8/3. Chị Phạm Thị
Bích Thủy đã lên án Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đang tráo trở trong việc trao
trả và âm mƣu thủ tiêu tù chính trị, kiên quyết đòi phải trao trả hết, đúng kỳ hạn số
nhân viên quân sự và dân thƣờng còn bị giam giữ [37, tr.3].
Những hoạt động tích cực của phụ nữ miền Nam trong cuộc đấu tranh thi
hành Hiệp định Pari trên bàn đàm phán đã tranh thủ đƣợc sự đồng tình, ủng hộ và
đoàn kết quốc tế. Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam tại Stockhom
năm 1974 yêu cầu Mỹ và chính quyền Sài Gòn nghiêm chỉnh thực hiện các điều
khoản của Hiệp định Pari. Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đấu tranh thi
hành Hiệp định Pari đƣợc hình thành và phát triển mạnh mẽ. Cả thế giới đều thấy rõ
Mỹ và chính quyền Sài Gòn là kẻ phá hoại Hiệp định Pari, là rào cản chủ yếu cho
54
việc thực hiện hòa bình và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam.
Ngày 1/3/1973, đồng chí K.T. Ma-du-rốp, ủy viên Bộ chính trị Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Liên Xô, Phó Chủ tịch thứ nhất, Hội đồng Bộ trƣởng Liên Xô lên
án việc chính phủ Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn vi phạm hiệp định Pari về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và nhấn mạnh “Vấn đề mấu chốt là các
bên cần phải thực hiện các điều khoản của Hiệp định” [36, tr.4]. Đồng chí nhấn
mạnh, Liên Xô trƣớc sau nhƣ một, ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt
Nam anh em, ủng hộ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ cách
mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Tính chất chính nghĩa của cuộc đấu tranh kiên cƣờng, bất khuất, không
khoan nhƣợng của đồng bào và đặc biệt là phụ nữ miền Nam đã tác động mạnh mẽ
tới nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Vấn đề miền Nam Việt Nam đã trở thành
điểm nóng của thế giới. Nhân dân tiến bộ trên thế giới muốn nhanh chóng kết thúc
chiến tranh, lập lại hòa bình ở miền Nam Việt Nam. Tại Na Uy, hơn 6000 phụ nữ
biểu tình tuần hành qua các đƣờng phố lớn tại thủ đô Ôxlô mang nhiều biểu ngữ nêu
rõ ý chí đoàn kết đấu tranh, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân và phụ nữ thế giới
giành độc lập, tự do, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, đòi
“công nhận ngay chính phủ cách mạng miền Nam Việt Nam” và “Mỹ phải thi hành
nghiêm chỉnh Hiệp định Pari”. Tại Ấn Độ, ngày 4/3, Tổ chức hòa bình đoàn kết ở
bang Ra-gia-xthan đã tổ chức mít tinh ủng hộ Việt Nam. Cuộc mít tinh thông qua
nghị quyết nhiệt liệt chào mừng thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam, cực lực tố
cáo và lên án chính phủ Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định Pari.
Đặc biệt, nhân dân tiến bộ Mỹ hơn ai hết hiểu và cảm thông cho nhân dân
miền Nam, từ đó đấu tranh không mệt mỏi cho nền độc lập, tự do, thống nhất Tổ
quốc của nhân dân Việt Nam. Tại thành phố Niu Ooc, phụ nữ biểu tình họp mít tinh
ngay trƣớc trụ sở Liên hợp quốc, nhấn mạnh hoàn toàn ủng hộ các cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của thế giới thứ ba.[52, tr.4] Ngày 28/3/1973, khoảng 20 thành
viên của tổ chức phụ nữ đấu tranh cho hòa bình ở Mỹ biểu tình tuần hành trƣớc cửa
hành lang bộ ngoại giao Mỹ, tố cáo Mỹ đã chi ít nhất 77.8 triệu đôla tiền thuế cho
Sài Gòn để giúp Thiệu tăng cƣờng khủng bố những ngƣời chống đối về chính trị và
tôn giáo, những ngƣời biểu tình hòa bình và những cựu binh chống chiến tranh ở
55
Việt Nam” [39, tr.4].
Từ đầu năm 1973, ngay sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực tới ngày chiến
thắng 30/4/1975, ngoại giao Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đoàn kết
quốc tế, vận động dƣ luận thế giới, gây sức ép buộc ngụy quyền Sài Gòn phải
nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pari, ngăn chặn Mỹ có thể dính líu, can thiệp quân
sự trở lại miền Nam Việt Nam, chuẩn bị tốt dƣ luận cho trận tổng công kích cuối
cùng về quân sự, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc.
2.2.4. Chỉ đạo phong trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ miền
Dƣới sự lãnh đạo sáng suốt và nhận định đúng đắn của Trung ƣơng Đảng và
Trung ƣơng Cục miền Nam về khả năng đấu tranh vũ trang của phụ nữ, trong những
năm 1973-1975, số lƣợng phụ nữ tham gia chiến tranh du kích tăng lên đáng kể, vai
trò của các đội nữ du kích, nữ pháo binh ngày càng đƣợc nâng cao. Phụ nữ quân
giải phóng miền Nam không những đã bẻ gãy những cuộc hành quân bình định lấn
chiếm mà còn tham gia đánh địch ngay tại căn cứ xuất phát. Nhiều đơn vị nữ vũ
trang nhƣ đội nữ pháo binh Xuân Lộc (Đồng Nai), Trung đội nữ pháo binh Cái
Nƣớc (Cà Mau), đại đội Lê Thị Hồng Gấm huyện Đức Phổ (tỉnh Quảng Ngãi)… đã
bao vây, bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt địch, tiến công căn cứ quân sự gây cho
địch nhiều thiệt hại.
Đêm 22/10/1973, trung đội nữ pháo binh Cái Nƣớc (Cà Mau), phối hợp với
hai đại đội bộ đội địa phƣơng bao vây đồn Sào Lƣới, mặc dù gặp khó khăn khi thủy
triều lên, nhƣng với tinh thần quyết tâm, đội pháo binh Cái Nƣớc vẫn đƣa đƣợc
pháo vào trận địa, bắn chính xác vào đồn địch. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt 3 ngày
đêm liên tục. Địch trong đồn Sào Lƣới tháo chạy, đơn vị truy kích diệt 7 tên, làm bị
thƣơng 9 tên, thu 8 súng.
Nhiều đơn vị nữ pháo binh đối mặt với vũ khí và phƣơng tiện chiến tranh hiện
đại của địch nhƣng không hề run sợ. Trung đội nữ pháo binh Rạch Giá đã bắn chìm
và bắn hỏng 7 thuyền chiến, diệt 1 xe bọc thép, 7 lô cốt và hơn 100 tên địch. Các
đội nữ du kích Hoà Phú, An Tịnh (Tây Ninh), Bình Đức (Mỹ Tho), Đức Hoà, Mộc
56
Hoá (Long An)… đã sử dụng súng cối 60 ly, 81 ly để diệt xe tăng Mỹ.
Phát huy truyền thống, độc lập và phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phƣơng, đội nữ du kích tập trung tỉnh Tây Ninh trong 9 tháng đầu năm 1973
đã đánh 21 trận, tiêu diệt và làm bị thƣơng hơn 50 quân địch.
Bƣớc sang năm 1974, lực lƣợng vũ trang chuyển mạnh sang thế chủ động tiến
công, đánh nhiều trận, tiêu diệt quân chủ lực ngụy, đập tan hầu hết các cuộc hành
quân lấn chiếm của địch, mở rộng vùng giải phóng. Bốn tháng đầu năm 1974, cả
miền núi và đồng bằng, phụ nữ cùng nhân dân tiến hành phản công và tiến công
3000 trận, diệt 20.000 địch, 42 đồn bốt, phá tan 14 khu dồn, ấp chiến lƣợc. Tiếp
đến, trong đợt hoạt động hè (21/4-31/5/1974), trên 60 vạn phụ nữ cùng nhân dân
phối hợp với lực lƣợng vũ trang tiến công phá 37 khu dồn, ấp chiến lƣợc, diệt và
bức rút 253 chốt, giải phóng lại 13 xã, ở Sơn Tịnh, Sơn Bình (Quảng Ngãi), Tam
Kỳ (Quảng Nam), Phù Mỹ (Bình Định) với 54000 dân [82, tr.432].
Thắng lợi của tiến công chính trị, binh vận, pháp lý cùng với thắng lợi của tiến
công quân sự trong năm 1974 đã đánh bại một bƣớc âm mƣu phá hoại Hiệp định Pari
của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, làm cho địch suy yếu cả về thế và lực,
chuẩn bị điều kiện cho cách mạng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
2.2.5. Chỉ đạo phụ nữ miền Nam tham gia tổng tiến công và nổi dậy mùa
xuân 1975
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chƣa bao giờ khí thế đấu tranh của phụ
nữ sôi nổi, lực lƣợng phụ nữ đƣợc huy động đến mức cao nhất nhƣ mùa xuân năm
1975. Trên cơ sở phân tích toàn diện, Bộ Chính trị khẳng định “động viên những nỗ
lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến
công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao
nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân nguỵ, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt
trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ nguỵ quyền ở Trung
ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới
thống nhất nước nhà” [67, tr.185].
Từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975, Bộ Chính trị họp đợt hai, quyết định
57
“gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nƣớc trong
năm 1975 hoặc năm 1976”. Trong khi xác định kế hoạch hai năm, Bộ Chính trị
quyết định “phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975” [67, tr.192]. Bộ
Chính trị nhận định “Cả năm 1975 là thời cơ… Nếu thời cơ đến vào đầu năm hoặc
cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Đây là dự kiến
cực kỳ sáng suốt trong quyết tâm và chủ trƣơng chiến lƣợc của Đảng. Bộ Chính trị
quyết định mở đầu chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 bằng cuộc
đột phá chiến lƣợc vào Buôn Ma Thuột, gây ảnh hƣởng rộng và nhanh đến toàn cục.
Quán triệt tinh thần, chủ trƣơng của Bộ Chính trị, phụ nữ cùng quân dân cả
nƣớc bƣớc vào mùa Xuân 1975 với khí thế tiến công, quyết chiến quyết thắng.
Công tác chuẩn bị và phát triển thực lực với tinh thần “Tất cả cho chiến thắng” sôi
nổi, khẩn trƣơng, đến cuối năm 1974, Nam Trung Bộ có thêm 9183 nữ du kích xã,
thôn, tự vệ mật. Các đơn vị nhƣ đại đội tập trung Lê Thị Hồng Gấm của Quảng
Ngãi, đội biệt động “Chim én” của Bình Định, đại đội pháo binh của Phú Yên đƣợc
tăng cƣờng thêm [82, tr.440]. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975
đã có hơn 200.000 phụ nữ miền Nam tham gia công tác phục vụ chiến đấu, hơn
7000 phụ nữ tham gia lực lƣợng vũ trang và bán vũ trang [119, tr.495].
Phụ nữ Đắc Lắc đƣợc Tỉnh ủy phân công, giáo dục quần chúng giữ bí mật về
các hoạt động của bộ đội, chuẩn bị sẵn sàng lực lƣợng nổi dậy và làm công tác binh
vận. Trên 70.000 phụ nữ và nhân dân vùng giải phóng Đắc Lắc đã trực tiếp phục vụ
chiến dịch.1 giờ 55 phút ngày 10/3/1975, lực lƣợng đặc công và các cánh quân đƣợc
chị em cơ sở và tự vệ mật dẫn đƣờng đã tiến vào Buôn Ma Thuột, tham gia truy lùng
bọn phản động ác ôn lẩn trốn và đám tàn quân ẩn náu trong dân, tổ chức bảo vệ cơ
quan, nhà máy, điện nƣớc, kho tàng, bệnh viện, kêu gọi những ngƣời làm việc cho
địch ra trình diện, nộp vũ khí… Sau giải phóng Buôn Ma Thuột, từ ngày 12-
24/3/1975, phối hợp với bộ đội tiến công, phụ nữ và nhân dân trong tỉnh nổi dậy giải
phóng các quận lỵ, thị trấn, giải phóng hoàn toàn tỉnh Đắc Lắc.
Trong tình thế nguy ngập, ngày 14/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu quyết định rút
bỏ Cao Nguyên, đƣa toàn bộ lực lƣợng chủ lực về giữ vùng duyên hải miền Trung.
Từ đêm 14/3 toàn bộ quân địch ở hai tỉnh Gia Lai, Kon Tum gồm 6 vạn tên rút chạy
58
theo đƣờng số 7 về hƣớng Tuy Hòa (Phú Yên) bị quân cách mạng chặn đƣờng tiêu
diệt, bắt sống và tan rã gần hết. Phối hợp với chiến thắng Buôn Ma Thuột và toàn
tỉnh Đắc Lắc, nhân dân và phụ nữ 4 tỉnh tây Nguyên nổi dậy cùng các lực lƣợng vũ
trang địa phƣơng phá hàng loạt khu dồn, ấp chiến lƣợc, giải phóng thị xã Kon Tum
(16/3), thị xã Pleiku (17/3), quận lỵ Kiến Đức(20/3), Thị xã Gia Nghĩa và quận lỵ
An Khê (23/3). Đến ngày 24/3, 4 tỉnh Tây Nguyên (Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum,
Quảng Đức) đƣợc hoàn toàn giải phóng [82, tr.448].
Phối hợp với chiến trƣờng Tây Nguyên, từ ngày 10/3/1975, phụ nữ và nhân
dân các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên cùng lực
lƣợng vũ trang địa phƣơng tiến công và nổi dậy giải phóng nông thôn. Phụ nữ và
nhân dân các huyện phía bắc tỉnh nổi dậy cùng với bộ đội địa phƣơng tiến công tiêu
diệt 2 đại đội bảo an, giải tán phòng vệ dân sự, giải phóng 9 xã ở Đồng Xuân, Sông
Cầu. Giữa tháng 3/1975, đội nữ pháo binh huyện Tuy Hòa, tích cực tiến công địch,
hỗ trợ quần chúng nổi dậy, triệt hạ một khẩu 105, bắn cháy một xe M113. Đến ngày
25/3, toàn bộ nông thôn Phú Yên đƣợc giải phóng [82, tr.454-455].
Từ tháng 1 đến tháng 4/1975, phối hợp với mũi tấn công mãnh liệt và thần tốc
của lực lƣợng vũ trang trên các chiến trƣờng, phụ nữ các nơi đều đẩy mạnh phong
trào đấu tranh chính trị và binh vận, làm cho tinh thần binh sĩ, sĩ quan trong quân
đội Sài Gòn hoang mang, lo sợ, luôn luôn chuẩn bị tƣ thế đầu hàng. Nhiều ngƣời
chủ động liên hệ với cách mạng làm binh biến khởi nghĩa. Phụ nữ các xã xung
quanh huyện Điện Bàn nổi dậy tiến công các đồn lính ngụy, làm chủ thị trấn, vận
động đƣợc 2400 binh sĩ mang nộp 234 súng. Phụ nữ huyện Đại Lộc nổi dậy phá ấp
chiến lƣợc, vận động 796 lính ngụy mang 315 súng ra hàng, làm tan rã dân vệ và
các lực lƣợng kìm kẹp của địch [82, tr449].
Dƣới sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, các cấp bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ giải
phóng, phụ nữ còn tổ chức những nhóm binh vận chuyên môn, trực tiếp tuyên
truyền giáo dục các chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, vừa tranh thủ
bằng tình cảm, vừa thuyết phục bằng lý lẽ sắc bén; sẵn sàng giúp đỡ phƣơng tiện,
tiền bạc, đƣa những binh sĩ rã ngũ trở về quê quán. Phụ nữ huyện Hòa Vang trong
hai ngày 28-29/3/1975 đã vận động hàng trăm lính phản chiến lập công, đƣa 112 tối
59
hậu thƣ cho sĩ quan đóng quân, cùng du kích bắt 736 tên, làm tan rã 3681 tên, rã
ngũ tập thể 10 trung đội, một tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến,
thu 1524 súng và 21 máy thông ti… Tại Hội An, từ chiều 28/3, chị em phụ nữ đã
đƣa hơn 200 thuyền chở bộ đội qua sông vào giải phóng thị xã, tràn vào phá nhà
lao, giải phóng 350 chiến sĩ đang bị giam giữ, làm rã ngũ 20.000 tên phòng vệ dân
sự, thu 3493 súng các loại [82, tr453].
Sáng ngày 30/4/1975, các cánh quân giải phóng từ 5 hƣớng đồng loạt tiến vào
nội thành Sài Gòn. Nữ giao liên Nguyễn Trung Kiên dẫn đƣờng cho đoàn xe tăng
quân giải phóng, hùng dũng tiến vào Dinh Độc lập, giải phóng Sài Gòn, đập tan cơ
quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Trên đà thắng lợi, từ ngày 30/4/1975, đồng bào và các chiến sĩ các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long đã đồng loạt tiến công. Nắm vững phƣơng châm “không
trông chờ, không ỷ lại”, đồng bằng sông Cửu Long nhất tề nổi dậy. Bƣớc vào chiến
dịch Hồ Chí Minh, lực lƣợng phụ nữ tiếp tục bao vây đồn bốt, vận động gia đình
binh lính xây dựng nội tuyến, giải phóng thêm hàng loạt đồn bốt, trấn áp tề xã, bao
vây các chi khu, buộc địch đầu hàng. Trên tuyến lộ Cần Thơ – Chƣơng Thiện,
25000 quần chúng tuần hành, lực lƣợng phụ nữ đi đầu, tiến vào chiếm lĩnh chi khu
Kinh Cùng, thị trấn Long Mỹ, hƣớng dẫn cả ngàn gia đình binh sĩ, vận động làm tan
rã sƣ đoàn 21 của địch, thu toàn bộ vũ khí.
Tỉnh Bến Tre, sáng 30/4/1975, lực lƣợng khởi nghĩa kết hợp đấu tranh chính trị,
binh vận với đánh du kích, đã xóa sạch trên 700/754 đồn bốt. Chị Tƣơng ở Ba Tri vận
động phụ nữ nổi dậy, hợp sức với gia đình binh sĩ chiếm hàng loạt đồn bốt, bao vây thị
trấn, buộc quận phó đầu hàng, giao nộp toàn bộ vũ khí. Chị Năm Thanh ở Giồng Trôm
tổ chức quần chúng bao vây tiểu đoàn 418, bắc loa kêu gọi lính đầu hàng, buộc Quận
trƣởng giao toàn bộ vũ khí, giấy tờ, phƣơng tiện, máy móc cho chính quyền cách mạng
và cắm cờ cách mạng ở dinh quận ngày 1/5/1975.
Ở Long An, trƣớc khi Dƣơng Văn Minh tuyên bố đầu hàng, phụ nữ và nhân
dân Đức Hòa đã bao vây địch bắt hàng ngàn tên. Hai phụ nữ ở Xóm Mới, xã Hiệp
Hòa tay không bắt 40 lính ngụy. Xã Bình Nhựt, chị em hƣớng dẫn hàng ngàn lính
của sƣ đoàn 22 đi tìm quân giải phóng để đầu hàng. Xã Phƣớc Đông huyện Cần
60
Đƣớc, một phụ nữ tiếp nhận 100 lính đầu hàng.
Tỉnh Sóc Trăng, các mũi khởi nghĩa đều do cán bộ phụ nữ phụ trách, kể cả
mũi đánh chiếm sân bay Sóc Trăng. 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, phụ nữ cùng nhân
dân toàn tỉnh chiếm hoàn toàn trận địa pháo, kho đạn lớn đầu sân bay và kéo cờ giải
phóng lên nóc nhà viễn vọng trong sân bay [118, tr.464].
Ở Đồng Tháp, phụ nữ và gia đình binh sĩ nổi dậy với lực lƣợng khởi nghĩa
trên 10.000 ngƣời, tràn vào các đồn bốt, vận động chồng con và bắt địch đầu hàng.
Một phụ nữ ở Tân Quy Đông, ven thị xã Sa Đéc điều khiển lực lƣợng quần chúng
và du kích chiếm 3 xã, thu 180 súng.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, vai trò của các đội nữ
du kích, nữ pháo binh ngày càng đƣợc khẳng định trong việc phối hợp đấu tranh với
bộ đội chủ lực và bộ đội địa phƣơng nhằm tiêu diệt nhiều nhất sinh lực địch. Tiêu
biểu là đại đội nữ pháo binh tỉnh Cà Mau phối hơp với Tiểu đoàn 3 bộ đội địa
phƣơng tỉnh và bộ đội địa phƣơng huyện Châu Thành tiến công từ 2 giờ đến 15 giờ
ngày 30/4/1975, phá hủy một số đề kháng đại liên, một cối 60 ly, diệt 8 tên, làm bị
thƣơng 5 tên, thu hai kho đạn. Chị em sôi nổi bao vây các đồn bốt, tiếp nhận trên
16000 binh sĩ ngụy đầu hàng và nộp súng cho cách mạng [118, tr.466].
Ngày 30/4/1975, cuộc chiến tranh xâm lƣợc và ách thống trị thực dân mới của
đế quốc Mỹ ở miền Nam đã thất bại hoàn toàn, giải phóng miền Nam, kết thúc vẻ
vang cuộc chiến tranh cứu nƣớc lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch
sử chống ngoại xâm của dân tộc. Phụ nữ với sức sáng tạo vô biên và trí thông minh
kỳ diệu, cùng với toàn thể nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kỳ tƣởng
chừng không thể làm đƣợc giữa thế kỷ XX. Thật đáng khâm phục, xúc động và tự
hào khi nhìn khẩu các bin của anh hùng Út Tịch, cây súng cũ kĩ của anh hùng Kan
Lịch đã diệt 13 tên địch và chiếc khăn rằn của anh hùng Tạ Thị Kiều đã đội đầu
tham gia hàng trăm trận đấu, tay không cƣớp đồn địch, bắt sống ác ôn... Những
ngƣời anh hùng nhƣ Võ Thị Huynh, Nguyễn Thị Phúc, Lê Thị Hồng Gấm, Hồ Thị
Kỷ... không những đã tự giải phóng cho đời mình mà còn làm rạng danh cho truyền
61
thống đất nƣớc, cho truyền thống bất khuất của Bà Trƣng, Bà Triệu.
Tiểu kết
Từ 27/1/1973 đến 30/4/1975, giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nƣớc, dƣới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng mà trực tiếp là
Trung ƣơng Cục miền Nam, phong trào đấu tranh của phụ nữ đã diễn ra liên tục,
đều khắp, quyết liệt trên cả 3 mũi chính trị, quân sự, binh vận và trên bàn đàm phán.
Trong giai đoạn này, nhận định tình hình sau Hiệp định Pari về Việt Nam, Trung
ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam đã chỉ rõ nội dung đấu tranh là đòi Mỹ và
chính quyền Sài Gòn nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pari, ở cả nông thôn, đô thị
và trong nhà tù đế quốc, đảm bảo quyền dân sinh, dân chủ của phụ nữ nói riêng và
nhân dân miền Nam nói chung. Phụ nữ miền Nam cùng nhân dân miền Nam với sự
hỗ trợ to lớn về cả vật chất lẫn tinh thần của hậu phƣơng miền Bắc đã góp phần
không nhỏ “đánh cho ngụy nhào”, thực hiện đúng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tiến hành thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, giành
62
độc lập dân tộc, thống nhất đất nƣớc, Nam – Bắc sum họp một nhà.
Chƣơng 3
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
Suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc đầy gian khổ, trên chiến
trƣờng miền Nam, nơi tuyến đầu của Tổ quốc, dƣới sự lãnh đạo của Trung ƣơng
Cục miền Nam, phụ nữ đã vƣợt qua bao thử thách, kiên trì chiến đấu, lập nên những
chiến công lừng lẫy trên các mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, công
tác binh vận và hiên ngang, vững vàng trên bàn đàm phán. Chị em góp phần to lớn
cùng nhân dân miền Nam làm thất bại chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của
đế quốc Mỹ, buộc Mỹ ký Hiệp định Pari, làm nên chiến thắng lịch sử mùa xuân
1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trải qua các thời kỳ cách mạng, vị trí, vai
trò của phụ nữ Việt Nam xứng đáng với lời khen tặng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh “Giang sơn gấm vóc Việt Nam là do phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già dệt
thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ…”[93, tr.186].
Từ quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đƣờng lối lãnh đạo phong trào đấu tranh
của phụ nữ miền Nam từ năm 1969 đến năm 1975 của Trung ƣơng Đảng mà trực tiếp
là Trung ƣơng Cục miền Nam Việt Nam có thể phân tích, làm rõ những ƣu điểm và
hạn chế trong đƣờng lối lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, đặc biệt là Trung ƣơng Cục
miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ, từ đó rút ra những kinh nghiệm
quý báu, vận dụng vào công tác vận động, tổ chức phụ nữ trong thời kỳ hiện nay.
3.1. Nhận xét
3.1.1. Ưu điểm
3.1.1.1. Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ
nữ kết hợp linh hoạt phương châm “hai chân, ba mũi giáp công”
Ngay từ những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, phƣơng châm
đấu tranh “hai chân, ba mũi giáp công” đã đƣợc Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục
miền Nam nhấn mạnh và thực hiện triệt để. Tháng 10/1961, Hội nghị lần thứ nhất
Trung ƣơng Cục, bàn về việc thực hiện nhiệm vụ trƣớc mắt của cách mạng miền
Nam, quyết phục hồi các tổ chức quần chúng ở miền Nam nhƣ Nông hội giải
phóng, Công hội giải phóng, phụ nữ giải phóng, Thanh niên, Trí thức yêu nƣớc…
63
thực hiện phƣơng châm “hai chân, ba mũi”, củng cố các chi bộ. Trung ƣơng Cục
xác định việc thực hiện phƣơng châm “hai chân, ba mũi” phải tùy theo vùng chiến
lƣợc (ở rừng núi, căn cứ kháng chiến thì đấu tranh vũ trang là chính, ở vùng tranh
chấp giữa ta và địch thì đấu tranh vũ trang và chính trị song song, ở vùng đô thị tạm
chiếm thì đấu tranh chính trị là chính, có vũ trang hỗ trợ).
Bƣớc vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung ƣơng Đảng
và Trung ƣơng Cục miền Nam phát huy cao độ vai trò của phƣơng châm “hai chân,
ba mũi giáp công”, sáng suốt khi khẳng định con đƣờng cách mạng miền Nam là
con đƣờng cách mạng bạo lực đƣợc thực hiện bằng hai lực lƣợng cơ bản: lực lƣợng
chính trị của quần chúng và lực lƣợng vũ trang nhân dân, bằng hai hình thức đấu
tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự kết hợp chặt chẽ với nhau tạo
nên cách đánh “hai chân”, đồng thời tổ chức vận động binh sĩ địch, đánh địch từ bên
trong, phối hợp đấu tranh tiến công của các lực lƣợng vũ trang từ bên ngoài tạo
phƣơng châm “ba mũi chiến lƣợc” sáng tạo nhằm phá kế hoạch bình định, lập ấp
chiến lƣợc của Mỹ - ngụy, làm địch bất ngờ và bối rối.
Nhận thức đúng đắn và triệt để phƣơng châm “hai chân, ba mũi giáp công”,
phối hợp chặt giữa ba mặt quân sự, chính trị, binh vận, Trung ƣơng Cục miền Nam
xác định cần xây dựng phát triển mạnh lực lƣợng nữ du kích, đội ngũ đấu tranh
chính trị và binh vận của quần chúng, trong đó phụ nữ là lực lƣợng quan trọng
nhằm chống kìm kẹp, chống khủng bố, chống thanh lọc, giải quyết đời sống hàng
ngày, đòi tự do đi lại, sản xuất, làm ăn, đòi về làng cũ, chống bắt lính, chống vào
các tổ chức dân vệ, phòng vệ dân sự, triệt nguồn bổ sung quân số của địch…
Với đặc điểm riêng của giới, chị em phụ nữ vận dụng một cách linh hoạt và
nhuần nhuyễn phƣơng châm “hai chân, ba mũi giáp công” trong từng cuộc đấu
tranh, trong từng chiến dịch và suốt cả thời kỳ cách mạng, coi đó nhƣ là một thứ
bửu bối lợi hại, một vũ khí đấu tranh có hiệu quả cao nhất. Phụ nữ miền Nam bằng
sức mạnh của hai lực lƣợng với 3 mũi giáp công đã làm nên một cuộc Đồng Khởi
lịch sử, đánh đòn phủ đầu vào chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu cho cuộc chiến tranh
cách mạng ở miền Nam và tiếp đó, cũng bằng hai lực lƣợng và ba mũi giáp công lần
lƣợt đánh bại các chiến lƣợc chiến tranh của Mỹ, từ chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt,
64
chiến lƣợc chiến tranh cục bộ, chiến lƣợc Việt Nam hóa chiến tranh. Và cuối cùng,
cũng bằng hai lực lƣợng với ba mũi đấu tranh tiến hành tổng tiến công và nổi dậy
mùa xuân 1975 kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc vĩ đại.
Trong đấu tranh “hai chân, ba mũi giáp công”, đặc biệt trong điều kiện địch
bình định, đóng đồn bốt kiên cố, phƣơng pháp đánh đồn bằng hình thức cƣờng tập
gặp khó khăn, vì vậy vận dụng “ba mũi giáp công”, nhất là đấu tranh chính trị và
binh vận có vai trò đặc biệt quan trọng. Lực lƣợng chính trị là đội xung kích, mũi
tiến công lợi hại ngay trong vùng địch kiểm soát, trực diện chống lại chƣơng trình
bình định, giành dân, lập ấp chiến lƣợc, làm rối loạn hậu phƣơng địch ở nông thôn
cũng nhƣ thành thị.
Dƣới sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục, phong trào đấu tranh chính trị của phụ
nữ đƣợc tổ chức chặt chẽ từ thấp đến cao, từ lẻ tẻ đến tập trung ở cả cơ sở xã ấp,
đƣờng phố. “Binh chủng đặc biệt” này có lực lƣợng tiến công ở phía trƣớc, lực
lƣợng dự bị để tăng viện, lực lƣợng hậu cần ở phía sau.
Với tƣ cách là một tổ chức chiến đấu, bao gồm những phần tử trung kiên nhất,
đội quân chính trị không chỉ trực tiếp đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống
khủng bố, chống bắt lính, chống dồn dân, lập ấp, tiến công binh vận, địch vận, làm
nòng cốt cho nổi dậy khởi nghĩa giành quyền làm chủ của nhân dân mà còn cùng
với lực lƣợng vũ trang tham gia trực tiếp đánh địch trên các chiến trƣờng, tiêu hao
tiêu diệt một số lƣợng lớn quân địch. Với sự kết hợp linh hoạt, tài tình hình thức
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, sau Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
1968, tính chung toàn miền Nam có hơn 2 triệu phụ nữ vũ trang nổi dậy bao vây,
tiêu diệt, bức rút, bức hàng hơn 500 đồn bốt địch, làm rã ngũ hàng vạn binh lính
ngụy, góp phần làm thất bại một bƣớc căn bản chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến
tranh” của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom
phá hoại miền Bắc và ký Hiệp định Pari ngày 27/1/1973.
Cùng với đấu tranh chính trị, và hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh vũ trang, công
tác binh vận của phụ nữ tạo nên thế mạnh để giành thắng lợi, cô lập, phân hóa và
làm tan rã ngay trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện triệt để phƣơng châm “ba mũi” mà
Trung ƣơng Cục đã quán triệt. Lực lƣợng đàn áp phong trào cách mạng là binh lính
65
ngƣời Việt cầm súng Mỹ, trong đó đại đa số là chồng, là cha, là con em của đồng
bào, hầu hết đều muốn chấm dứt chiến tranh, trở về quê hƣơng để sinh sống làm ăn.
Với đƣờng lối binh vận, địch vận đúng đắn, phù hợp với thực tế của Trung ƣơng
Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam,
phụ nữ đã trở thành lực lƣợng đông đảo và tích cực nhất trong phong trào vận động
binh sĩ ngụy trở về với cách mạng, phân hóa hàng ngũ binh sĩ ngụy, tranh thủ và lôi
kéo đƣợc sự đồng tình của đa số binh lính, vận động binh lính ngụy không bắn vào
nhân dân, tổ chức binh biến chiếm đồn, trở về với chính nghĩa dân tộc. Công tác
binh vận thực sự trở thành mũi tiến công sắc bén trong “ba mũi giáp công” lợi hại,
trong đó, vai trò, khả năng của phụ nữ đƣợc thể hiện rõ nét nhất.
Bên cạnh đấu tranh “hai chân, ba mũi giáp công” phụ nữ miền Nam còn góp
phần không nhỏ làm nên những thắng lợi quan trọng trên bàn đàm phán, đẩy địch
vào thế “bị kẹt bên trong, bị tiến công bên ngoài”. Năm 1968, sau sự kiện Mậu
Thân, Mỹ buộc phải đồng ý mở các cuộc đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Sự
xuất hiện của một ngƣời phụ nữ thuộc lực lƣợng kháng chiến tại Pháp - bà Nguyễn
Thị Bình với vai trò Trƣởng đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
đã tạo hiệu ứng rất lớn với phong trào phản chiến và phong trào phụ nữ trên thế
giới. Với phong thái tự tin, ung dung, cùng những bài phát biểu, với những lý lẽ sắc
bén, hùng hồn, trong mắt bạn bè thế giới, đặc biệt là giới báo chí phƣơng Tây, bà
trở thành “nữ hoàng Việt cộng”, với sức lôi cuốn và ám ảnh lớn hơn nhiều so với
những nhà ngoại giao nam giới, góp phần không nhỏ trong việc buộc Mỹ ký Hiệp
định Pari ngày 27/1/1973 với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ
cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Nhƣ vậy, với việc đánh giá đúng đặc điểm giới phụ nữ và khả năng cách
mạng của phụ nữ, Trung ƣơng Cục đã đƣa ra phƣơng châm đấu tranh phù hợp “hai
chân, ba mũi giáp công” nhằm phát huy tối đa sức chiến đấu của chị em trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Dƣới sự lãnh đạo của Trung ƣơng Cục, phụ nữ
miền Nam đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt phƣơng châm đấu tranh trên, giành nhiều
thắng lợi quan trọng, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ
66
cứu nƣớc trƣờng kỳ.
3.1.1.2. Sự lãnh đạo của Trung ương Cục thúc đẩy phong trào đấu tranh của
phụ nữ miền Nam phát triển trên quy mô lớn
Ngay khi bƣớc vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, phụ nữ Việt Nam
đã trở thành lực lƣợng đông đảo và xung kích nhất trong các mũi nhọn đấu tranh.
Từ Đồng Khởi - Bến Tre năm 1960, phong trào đấu tranh cách mạng nhanh chóng
phát triển và lan nhanh ra cả miền Nam. Từ vĩ tuyến 17 tới mũi Cà Mau, nơi nào
cũng xuất hiện và ghi dấu của phong trào phụ nữ, những nơi khó khăn nhất, gay go,
ác liệt nhất, chị em đều có mặt, hoạt động tích cực và hoàn thành tốt nhiệm vụ mà
Đảng, Trung ƣơng Cục và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam giao phó.
Theo tính toán của Mỹ chỉ cần vài chục vạn quân, mở mấy cuộc phản công
chiến lƣợc trong ba mùa khô, “tìm diệt”, đánh gãy xƣơng sống quân chủ lực Việt
Cộng, bắt sống hoặc tiêu diệt Trung ƣơng Cục và Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền
Nam, giáng cho miền Bắc chiến dịch ném bom quy mô lớn, cắt đứt đƣờng Hồ Chí
Minh là Việt Nam phải chịu thua, Mỹ toàn thắng, rút quân về nƣớc, áp đặt thành
công chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Nhƣng những tính toán ấy đã
gặp những bất ngờ của lẽ sống độc lập của nhân dân Việt Nam anh hùng. Để rồi,
các chiến lƣợc chiến tranh của Mỹ lần lƣợt thất bại bởi cái bất ngờ của tiếng hát
Nguyễn Thị Phúc, bởi cái bất ngờ “còn cái lai quần cũng đánh” của chị Út Tịch, cái
bất ngờ “ăn lá bóp đánh giặc” của Bi Nằng Tắc, cái bất ngờ “bầy ong đánh giặc”
của Nguyễn Văn Tƣ, và cả cái bất ngờ trong tiếng mìn Nguyễn Văn Bé. Cái bất ngờ
ấy ở trong những con ngƣời hết sức bình dị, nhƣng đến khi đất nƣớc có ngoại xâm
thì đã bùng dậy trong từng trái tim sức mạnh của những hòn núi lửa.
Diễn ra trên khắp dải đất miền Nam, phong trào đấu tranh của phụ nữ đã thực
sự là ngọn cờ đầu trong đấu tranh chống Mỹ cứu nƣớc, giành độc lập dân tộc, thống
nhất Tổ quốc. Phong trào là nơi hiệu triệu, thu hút đông đảo chị em phụ nữ, đủ mọi
lứa tuổi, đủ mọi tầng lớp, giai cấp xã hội, mọi ngành nghề, mọi tôn giáo tham gia.
Phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam đã tập hợp hàng trăm, hàng vạn, có khi
lên tới hàng triệu phụ nữ thuộc mọi tầng lớp, giai cấp, ngành nghề, tôn giáo ở các
xã, huyện, tỉnh trên toàn miền tham gia đấu tranh tạo nên sức mạnh tổng hợp, đấu
67
tranh với kẻ thù mọi lúc, mọi nơi, bằng nhiều hình thức, với những khẩu hiệu, nội
dung đấu tranh phong phú, làm địch bối rối, nhiều lúc đã phải đầu hàng. Phong trào
đấu tranh của phụ nữ miền Nam mà lực lƣợng nòng cốt là “Đội quân tóc dài” đã tập
hợp đƣợc những chị em kiên trung, mƣu trí, sáng tạo nhất trong cuộc đƣơng đầu với
Mỹ - ngụy. Từ Đồng Khởi năm 1960, với chủ trƣơng, chính sách vận động phụ nữ
của Trung ƣơng Đảng, Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam, chị em ngày
càng đƣợc rèn luyện, giác ngộ cách mạng sâu sắc, đủ sức đứng vững trƣớc những
âm mƣu và hành động đàn áp, khủng bố cùng những chiêu trò mua chuộc, dụ dỗ
của kẻ thù.
Với số lƣợng đông đảo, phong trào đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam
phát triển sâu rộng trên cả ba vùng chiến lƣợc, thành thị - nơi tập trung cơ quan đầu
não chính trị, quân sự của địch, nông thôn đồng bằng - địa bàn chính của chƣơng
trình “bình định” và rừng núi – với địa hình hiểm trở gây nhiều khó khăn cho hoạt
động chiến tranh của địch.
Ở nông thôn, các má, các chị, các em thiếu nhi… tất cả đều trở thành lực
lƣợng tiêu diệt địch; ở thành thị, chị em nữ công nhân phối hợp với chị em tiểu
thƣơng tiểu chủ đấu tranh kiên quyết đòi các quyền dân sinh dân chủ, đảm bảo công
việc, chống đánh đập, thải thợ… đồng thời ủng hộ tích cực phong trào biểu tình, bãi
khóa, đốt xe Mỹ của các nữ sinh, giáo viên, công chức, viên chức trong các trƣờng
học. Chị em Phật tử cũng tích cực tham gia đấu tranh, hỗ trợ sinh viên, học sinh
trong phong trào đấu tranh chống Mỹ, lật Thiệu, đòi Mỹ rút quân về nƣớc, chống
đàn áp khủng bố, bắt bớ, chống quân sự hóa trƣờng học.
Đặc biệt, ở thành thị, nhiều tổ chức đấu tranh, bảo vệ phụ nữ đã ra đời và phát
triển nhƣ Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, Ủy ban phụ nữ đòi quyền
sống, sau đổi là Phong trào phụ nữ đòi quyền sống… Các tổ chức trên đã tích cực hỗ
trợ các cuộc đấu tranh của nữ công nhân, luôn sát cánh và ủng hộ phong trào học sinh
sinh viên, giáo chức, ký giả và các tôn giáo… Nhƣ vậy, so với giai đoạn trƣớc, phong
trào phụ nữ miền Nam có bƣớc phát triển với quy mô lớn hơn. Phong trào đã có
những tổ chức riêng, tập trung đòi quyền lợi cho giới phụ nữ, là ngọn cờ hiệu triệu và
động viên đông đảo nhất lực lƣợng phụ nữ tham gia cách mạng, thúc đẩy phong trào
đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam, nhất là phụ nữ thành thị phát triển mạnh
68
mẽ, rộng khắp.
Ở rừng núi, vận dụng địa hình hiểm trở, sự bao bọc của tự nhiên, với những vũ
khí đặc biệt, cuộc đấu tranh của chị em phụ nữ cùng đồng bào các dân tộc đã trở
thành nỗi khiếp sợ của quân thù.
Không chỉ ở đất liền, tại các nhà tù đế quốc, trong hàng ngũ đấu tranh, bên
cạnh những nữ sinh, những phụ nữ còn rất trẻ, tuổi đời mới 18-20, là những má,
những mẹ cũng bị giam vào Chuồng Cọp, chịu đựng mọi hình thức tra tấn cực kỳ dã
man. Tất cả chị em nữ tù đã tập hợp nhau lại, đoàn kết đấu tranh và trở thành ngọn
cờ hiệu triệu to lớn, gây tiếng vang, tác động mạnh mẽ tới phong trào đấu tranh
chung của các tù chính trị bị giam tại toàn bộ hệ thống nhà tù đế quốc. Đƣợc tôi
luyện trong lò lửa cách mạng, trong khắp các nhà tù đế quốc, từ Tân Hiệp, Chí Hòa,
Phú Lợi, đế Phú Quốc, đặc biệt là nhà tù Côn Đảo, trƣớc những đòn roi, những hình
thức tra tấn của kẻ thù, các chị, các mẹ vẫn kiên trinh giữ trọn lời thề, giữ trọn khí
tiết cách mạng. Những tra tấn, những nhục hình chỉ có thể hủy hoại thân thể các chị
nhƣng không thể làm nhụt chí khí, làm lung lay ý chí cách mạng, không làm dịch
chuyển đƣợc niềm tin vào Đảng, vào cách mạng, vào nhân dân của các nữ tù. Biến
nhà tù thành trƣờng học cách mạng, tại “địa ngục trần gian”, các chị vẫn ngoan
cƣờng chiến đấu, vẫn là “những đóa hoa trong tù ngục”. Đó là hình ảnh má Sáu mù,
mắt mờ, sức yếu vẫn kiên quyết không chịu điều kiện, kiên quyết đứng trong hàng
ngũ đấu tranh của chị em dù biết bị tra tấn, đánh đập dã man, hay đó là nụ cƣời chị
Võ Thị Thắng với câu nói nổi tiếng trƣớc bản án khổ sai của nhà tù Mỹ - ngụy “Tôi
chỉ sợ chính quyền các ông không tồn tại đến ngày tôi mãn hạn tù”. Nụ cƣời chiến
thắng và câu nói của Võ Thị Thắng trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiến hành cuộc chiến tranh xâm lƣợc miền Nam
Việt Nam, nhƣng lại không hiểu truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam,
không hiểu con ngƣời Việt Nam, nên suy nghĩ thật đơn giản khi cho rằng chỉ cần
súng ống hiện đại với những chiến lƣợc – chiến thuật chiến tranh với quy mô lớn có
thể tiêu diệt đƣợc dân tộc Việt Nam. Mỹ không biết rằng ở đất nƣớc này, trên khắp
miền Nam còn có một đội quân “kỳ lạ” “không súng ống, có mặt ở khắp nơi, thành
thị cũng như thôn quê, một đội quân mà các bản tin của các hãng thông tấn hầu
69
như không bao giờ nói đến, song lại đóng vai trò to lớn trong cuộc chiến đấu của
nhân dân miền Nam Việt Nam chống xâm lược, ngay cả trước khi những người du
kích đầu tiên cầm lấy vũ khí. Đó chính là”đội quân búi tóc” tập hợp hàng triệu nữ
chiến sĩ” [103, tr.62-63].
3.1.1.3. Trung ương Cục miền Nam đã giáo dục, tổ chức phụ nữ đấu tranh,
làm cho phong trào phát triển mạnh với tính tự giác cao, với những hình thức đấu
tranh phong phú
Cuộc chiến tranh xâm lƣợc miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ đã gây cho
phụ nữ miền Nam biết bao nỗi đau, mất mát. Cuộc chiến tranh ấy đã buộc ngƣời
phụ nữ phải tự đứng lên, đấu tranh nhằm bảo vệ cuộc sống của mình, của gia đình
mình, quê hƣơng và dân tộc mình. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc là một
cuộc chiến tranh nhân dân, vì thế, phụ nữ - một nửa dân số không thể đứng ngoài
cuộc chiến đấu vĩ đại này. Các chị, các mẹ không những đóng góp sức ngƣời, sức
của cho cuộc chiến mà còn trực tiếp tham gia chiến đấu.
Chị em tham gia với tƣ cách là phong trào của một giới, không phải chỉ là
những cuộc nổi dậy riêng lẻ mang tính tự phát của một nhóm ngƣời chỉ đồng tình
với cách mạng, hoặc chỉ hƣởng ứng một cách thụ động mà đó là phong trào có tính
tự giác cao. Phong trào phụ nữ thể hiện sự kết hợp cả ba mặt đấu tranh giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng giới phụ nữ.
Trong đấu tranh chính trị, trƣớc những hành động phá hoại, giết chóc, đàn áp,
khủng bố điên cuồng của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, nhà cửa, vƣờn tƣợc
bị phá hủy, mồ mả bị cày xới, thuế má tăng vọt, tệ nạn xã hội tràn lan,… cuộc sống
của đồng bào miền Nam, nhất là phụ nữ miền Nam trở nên ngột ngạt hơn bao giờ
hết. Chính trong hoàn cảnh ấy, chị em đã tự đứng lên, đoàn kết, tập hợp nhau lại
nhằm chống kẻ thù chung, với mục tiêu chung là đập tan chƣơng trình “bình định”
của Mỹ - ngụy, chống dồn dân lập ấp chiến lƣợc, chống đàn áp, khủng bố, chống vơ
vét, chống bắt lính, đòi quyền dân sinh dân chủ, đảm bảo cuộc sống, đảm bảo việc
làm, đòi Thiệu từ chức, chống trò hề bầu cử… Nhận thức đúng đắn quyền lợi bức
thiết của giới phụ nữ, Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam Việt Nam,
Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam, đã có chủ trƣơng vận động, tổ chức,
70
lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ nữ phát triển ngày càng mạnh mẽ. Lực lƣợng
phụ nữ tham gia đấu tranh ngày càng đông đảo, có tổ chức và những bƣớc đi phù
hợp. Phong trào đấu tranh của chị em không chỉ dừng lại ở những cuộc đấu tranh lẻ
tẻ mà còn liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau cùng chiến đấu, có lực lƣợng bổ
sung ngay khi cần thiết hay khi bị địch khủng bố, đàn áp, kết hợp chặt giữa phong
trào đấu tranh ở nông thôn và thành thị của phụ nữ nhằm đánh mạnh và toàn diện
vào chƣơng trình “bình định” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Là những ngƣời phải trực tiếp chịu đựng nỗi đau mất chồng, mất cha, mất
con, mất anh em ruột thịt trong cuộc đôn quân bắt lính của chính quyền Sài Gòn, chị
em phụ nữ miền Nam đã tích cực, tự giác tham gia vào các đội binh vận, địch vận,
kêu gọi chồng, con, em trở về, kéo lên thành thị, tới các bệnh viện tìm chồng con, la
khóc làm địch hoảng hốt và lúng túng, tích cực tuyên truyền khoét sâu mâu thuẫn
nội bộ địch, khơi dậy ý thức dân tộc, tinh thần yêu nƣớc, chống Mỹ trong binh sĩ,
ngụy quân, nhân viên ngụy quyền, thúc đẩy hành động binh biến, ly khai, góp phần
làm suy yếu và tan rã một bộ phận quân ngụy, thức tỉnh lƣơng tri binh sĩ Mỹ, chƣ
hầu và nhân dân tiến bộ Mỹ, thúc đẩy hành động chống lại cuộc chiến tranh xâm
lƣợc phi nghĩa của đế quốc Mỹ. Công tác binh vận thực sự trở thành mũi xung kích
trực tiếp làm tan rã địch, là một mũi tiến công chiến lƣợc nhằm phá tan chính sách
“dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt” thâm độc của đế quốc Mỹ.
Trên mặt trận đấu tranh vũ trang, bên cạnh những phong trào đấu tranh với
quy mô nhỏ, còn mang tính lẻ tẻ, trong giai đoạn 1969-1975, Trung ƣơng Đảng và
Trung ƣơng Cục miền Nam chủ trƣơng xây dựng và phát triển những đội nữ du
kích, đội nữ pháo binh… với quy mô vừa và nhỏ phù hợp với đặc điểm giới, có khả
năng độc lập tác chiến và phối hợp tác chiến hữu hiệu với bộ đội chủ lực và bộ đội
địa phƣơng trong việc tiêu diệt sinh lực địch. Mặc dù thiếu thốn về cơ sở vật chất,
việc trang bị vũ khí cho chị em trong đấu tranh còn gặp nhiều hạn chế, nhƣng phong
trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ vẫn phát triển mạnh. Đối đầu với đội quân nhà
nghề của Mỹ và đội quân ngụy đƣợc “trang bị đến tận răng”, sức cơ động chiến đấu
cao, âm mƣu, thủ đoạn thâm độc, tàn bạo, cuộc đấu tranh của quân dân miền Nam
thực sự yếu hơn nhiều lần về tiềm lực quân sự cũng nhƣ kinh tế, nhƣng với tinh
71
thần quả cảm, sự mƣu trí và trí thông minh tuyệt vời, chị em đã sáng tạo những cách
đánh, những vũ khí sáng tạo, độc đáo và cực kỳ hiệu quả làm cho địch bất ngờ và
tổn thất nghiêm trọng. Những vũ khí tự chế ấy là những cây chông làm bằng tre
đƣợc vót nhọn; những tổ ong vò vẽ treo lủng lẳng ở ngoài vƣờn…Với ý chí và quyết
tâm đánh thắng giặc Mỹ không gì lay chuyển nổi, bằng những trận đánh mang đậm
màu sắc giới, phụ nữ đã thực sự làm cho kẻ thù khiếp vía kinh hồn. Tờ New York
Times số ra tháng 5-1965 đã viết: “Du kích Việt cộng, những ngƣời đánh nhau trong
bóng tối đã trở thành những chuyên viên trong nghệ thuật dùng cạm bẫy, đã có tới
20% số lính Mỹ bị thƣơng vong vì hầm chông. Tính riêng trong khu vực lính thủy
đánh bộ, số vụ sập hầm chông tăng từ 3 vụ lên 8 vụ một ngày. Bất luận ở đâu, trong
mỗi cuộc đi tuần tra, ngƣời lính nào cũng nghĩ rằng bƣớc thêm một bƣớc nữa có thể
là bƣớc đi cuối cùng của đời mình”.
Là nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh Việt Nam của đế quốc Mỹ, phụ nữ
miền Nam đã nêu cao tinh thần tự giác trong cuộc chiến đấu. Dƣới sự lãnh đạo của
Đảng, Trung ƣơng Cục và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam, tinh thần tự
giác ấy càng đƣợc phát huy mạnh mẽ, làm cho cuộc đấu tranh của phụ nữ miền
Nam trong những năm 1969-1975 có bƣớc phát triển cao hơn so với những giai
đoạn trƣớc đó về cả số lƣợng và chất lƣợng. Với mục đích giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng chính cuộc đời mình, phụ nữ miền Nam đã phát huy
mọi khả năng để đánh Mỹ, diệt ngụy, tùy từng lúc, từng nơi, vận dụng linh hoạt
những hình thức đấu tranh phong phú trên mặt trận chính trị, binh vận và vũ trang.
Ở vùng nông thôn, đấu tranh chống lập ấp chiến lƣợc, chống phá chƣơng trình
bình định phát triển sôi động, với nhiều hình thức, vừa đấu tranh trực diện với địch,
vừa kéo lên các thị xã, thành phố đấu lý, biểu tình đòi quyền lợi tại các cơ quan đầu
não của chính quyền ngụy. Các chị, các mẹ đã nằm cản xe địch vào làng ủi phá nhà
cửa, bám đất bám làng, nhất quyết không vào “ấp chiến lƣợc”, xây dựng các căn cứ
lõm, đẩy mạnh phong trào phá rào bung về vƣờn cũ làm ăn, phát động hình thức
“tản cƣ ngƣợc”, một hình thức đấu tranh chính trị hợp pháp, sắc sảo, ngăn chặn
hành động đánh phá vào dân, vào địa bàn căn cứ cách mạng ở nông thôn. Cùng với
đấu tranh trực diện với lực lƣợng bảo an, dân vệ, cảnh sát… chị em phụ nữ tổ chức
72
thành đoàn đông đảo, kéo vào thành thị đấu tranh tận cơ quan đầu não của Mỹ -
ngụy, đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi bồi thƣờng tính mạng, tài sản, chống trò
hề bầu cử của Thiệu, chống đàn áp, khủng bố, bắt bớ…
Ở thành thị, nhờ ƣu điểm hơn nam giới, khai thác triệt để thế hợp pháp của
mình phụ nữ đã tiêu diệt địch bằng những biện pháp đấu tranh bất ngờ nhất. Đấu
tranh hợp pháp thƣờng diễn ra ôn hòa, đƣợc tiến hành công khai bằng các hình thức
nhƣ mít tinh, biểu tình, bãi công, đình công, bãi trú, bãi khóa, đấu tranh nghị
trƣờng, tranh luận trên các thông tin đại chúng... Cụ thể là các cuộc biểu tình, đình
công đòi tăng lƣơng, giảm giờ làm, đòi chủ không đánh đập của công nhân hay hình
thức biểu tình, bãi khóa, phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”, đốt lửa trại phản
đối chiến tranh, phản đối quân dịch của học sinh, sinh viên, đấu tranh bằng cầu siêu,
thuyết pháp, dùng hình thức mit tinh, biểu tình ngồi của giới tăng ni phật tử, hay
đình công, bãi thị, bãi chợ, đòi giảm thuế, bảo vệ hàng nội của chị em tiểu thƣơng
tiểu chủ… Đấu tranh nửa hợp pháp thƣờng sử dụng các phƣơng tiện thông tin đại
chúng, nghị trƣờng, các hoạt động hội thảo, kiến nghị với nội dung chủ yếu đòi dân
sinh, dân chủ nhằm vận động, giáo dục, tập hợp và tập dƣợt lực lƣợng. Ở miền
Nam, đội quân đấu tranh nửa hợp pháp đƣợc tổ chức rất chặt chẽ, lợi dụng mục tiêu
hợp pháp để đấu tranh cho mục tiêu chính trị cao hơn, cụ thể, đấu tranh đòi đƣợc đi
lại làm ăn, sinh sống, con cái đƣợc học hành nhƣng mục tiêu chính là tự do hoạt
động cách mạng. Với nhiều lớp vỏ bọc hợp pháp nhƣ ni cô, tiểu thƣơng, kí giả, nhà
doanh nghiệp, các nữ chiến sĩ biệt động trong các đô thị cũng đã phát huy khả năng
sáng tạo, thông minh trong nhiều trận đánh vào các cơ quan đầu não của địch, làm
tốt nhiệm vụ trinh sát, vận chuyển vũ khí, thuốc nổ, trực tiếp tiếp cận, tiêu diệt mục
tiêu, nhiều trận đấu diễn ra bất ngờ, nhanh gọn nhƣng lại vô cùng hiệu quả, gây
hoang mang, không ổn định cho địch ngay cả ở những nơi bảo vệ nghiêm ngặt nhất.
Trên mặt trận đấu tranh vũ trang, phụ nữ miền Nam tích cực tham gia chiến
đấu với nhiều hình thức và cách đánh rất sáng tạo. Chị em vừa có khả năng độc lập
tác chiến lại vừa có khả năng phối kết hợp với lực lƣợng vũ trang. Với hoạt động
quân sự của phụ nữ miền Nam, chiến tranh cách mạng miền Nam đã kết hợp đƣợc
hình thức chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích, kết hợp giữa tiến công quân
73
sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp lực lƣợng tại chỗ mạnh với lực lƣợng chủ
lực cơ động, đánh gãy từng cánh quân địch, làm đảo lộn ý định tiến công của địch,
buộc địch chuyển từ chủ động tiến công sang bị động đối phó. Trong cuộc chiến
tranh ở Việt Nam, các nhà quân sự Mỹ đã thừa nhận rằng, một số lƣợng lớn binh sĩ
Mỹ bị chết là do vũ khí tự chế của Việt Nam. Những vũ khí tự chế ấy đơn giản chỉ
là những cây chông làm bằng tre đƣợc vót nhọn; những tổ ong vò vẽ treo lủng lẳng
ở ngoài vƣờn; súng ngựa trời dùng để phóng mảnh kim loại, thủy tinh gây sát
thƣơng cao; giàn thun bắn lựu đạn hay chất độc đƣợc đồng bào dân tộc dùng để săn
thú rừng… Tất cả những vũ khí ấy, với ngƣời dân là những vật gần gũi, thân thuộc,
nhƣng với giặc ngoại xâm lại trở thành vũ khí mang tính sát thƣơng cực lớn, trở
thành nỗi ám ảnh đối với những kẻ xâm lƣợc.
Trong mũi binh vận – một trong ba mũi giáp công chiến lƣợc, các mẹ, các chị
đã đẩy mạnh hoạt động nhằm làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, áp dụng nhiều hình
thức phong phú nhƣ vận động đào rã ngũ, hƣớng dẫn làm binh biến, tuyên truyền
giác ngộ binh sĩ, móc nối xây dựng cơ sở... tranh thủ vận động, lôi kéo chồng, con,
em, giải thích chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, khơi dậy tinh thần dân
tộc, khơi sâu mâu thuẫn trong nội bộ địch gây hoang mang, bỏ ngũ hoặc làm nội
tuyến cho cách mạng. Đối với quân xâm lƣợc Mỹ và chƣ hầu, thực tế tình hình cho
thấy, lính Mỹ chán ghét chiến tranh, bất mãn khi bị đẩy sang chiến trƣờng Việt Nam,
đối diện với cái chết vô nghĩa, là nạn nhân của cuộc chiến tranh phi nghĩa của chính
phủ cầm quyền. Nắm bắt đƣợc những đặc điểm trên, công tác binh vận đã sử dụng
nhiều hình thức đấu tranh thích hợp, sáng tạo để thức tỉnh lính viễn chinh, giúp họ
hiểu và đồng tình với cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam, hạn chế hành động
khủng bố, bắn giết, tiến tới đẩy mạnh phản chiến và đòi về nƣớc. Ở Khu V, cán bộ
phụ nữ đã tổ chức lớp học tiếng Anh, tiếng Hàn, chuẩn bị truyền đơn, biểu ngữ, tranh
ảnh... do nhân dân tự viết, tự vẽ nhằm tuyên truyền, vận động binh lính Mỹ và quân
chƣ hầu hiện còn đang cầm súng ở miền Nam Việt Nam.
Để tăng cƣờng hoạt động của công tác binh vận, địch vận, Hội Phụ nữ Giải
phóng và ngành binh vận ra sức xây dựng các tổ "binh vận thƣờng trực", "tổ binh
vận cơ động" bám theo những đơn vị chủ lực hay địa phƣơng của địch để hoạt động
74
nhằm làm tan rã và suy yếu một mảng lớn ngụy quân ngụy quyền.
Trên mặt trận đấu tranh chính trị, vũ trang hay binh vận, chị em phụ nữ miền
Nam xuất phát từ ý thức tự giác, tự lực, tự cƣờng, đã sáng tạo và vận dụng cực kỳ
linh hoạt những hình thức đấu tranh phong phú, từ đó đánh địch bằng nhiều cách, từ
nhiều hƣớng, vừa bất ngờ, vừa hiệu quả khiến địch lúng túng, hoang mang cao độ.
3.1.1.4. Sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam làm cho phong trào đấu
tranh của phụ nữ thực sự trở thành bộ phận quan trọng của chiến tranh nhân dân
Chiến tranh nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh do toàn thể dân tộc Việt
Nam tiến hành một cách toàn diện, nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội với nòng cốt là lực lƣợng vũ
trang nhân dân gồm ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng, dân quân du
kích), đƣợc xây dựng trên cơ sở lực lƣợng chính trị của quần chúng. Trong xây
dựng lực lƣợng vũ trang ba thứ quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng và
khéo léo giải quyết việc xây dựng từng thứ quân, kết hợp và phát huy vai trò to lớn
của ba thứ quân phù hợp với yêu cầu của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Đối với
dân quân tự vệ và du kích, Hồ Chí Minh xác định “đó là lực lƣợng trong suốt quá
trình đấu tranh cách mạng ở nƣớc ta”. Dân quân tự vệ và du kích là lực lƣợng của
toàn dân tộc, là một lực lƣợng vô địch, là bức tƣờng sắt của Tổ quốc.
Phụ nữ miền Nam không chỉ là đội quân chính trị hùng hậu mà còn là lực
lƣợng xung kích trong dân quân tự vệ và du kích. Chiến tranh nhân dân với phƣơng
châm toàn dân đánh giặc, phụ nữ chiếm một nửa dân số, là những nạn nhân chịu
nhiều đau thƣơng, mất mát nhất, càng không thể đứng ngoài cuộc kháng chiến. Do
đặc điểm sinh lý, sức khỏe, hoàn cảnh sống, hoàn cảnh gia đình, các chị bám lại
mảnh đất quê hƣơng, tham gia vào những đội dân quân tự vệ, những đội nữ du kích,
những đội nữ pháo binh ở địa phƣơng, tích cực đấu tranh chống lại mọi âm mƣu và
hành động chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bảo vệ quê hƣơng, đất
nƣớc. Ở miền Nam, từ sau phong trào Đồng Khởi, phụ nữ tham gia quân giải phóng
miền Nam ngày càng đông. Phụ nữ tham gia cả trong bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phƣơng và đặc biệt là lực lƣợng dân quân tự vệ, du kích, không chỉ phục vụ chiến
đấu mà còn trực tiếp chiến đấu. Từ một vài đội nữ vũ trang tập trung (năm 1964) đã
75
lên đến hàng trăm đơn vị nữ vũ trang (năm 1968), trong các binh chủng, bộ binh,
pháo binh, công binh, đặc công, biệt động [119, tr.388]. Tiêu biểu là đội nữ du kích
Lê Thị Hồng Gấm, các đội nữ du kích, đội nữ pháo binh Củ Chi, Rạch Giá, Cà
Mau,…
Lực lƣợng dân quân du kích ở miền Nam, mà trong đó, phụ nữ là lực lƣợng
đông đảo đã anh dũng đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, vận dụng các hình thức tác
chiến phong phú, sáng tạo trên khắp ba vùng chiến lƣợc, kết hợp chặt chẽ đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, thực hiện bám trụ kiên cƣờng, tạo thế đan cài với
địch. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, lực lƣợng dân quân tự
vệ đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội và nhân dân tiến công và nổi dậy đồng loạt giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc.
Chiến tranh nhân dân, đặc biệt, chiến tranh du kích với sự tham gia đông đảo
và tích cực của phụ nữ, chính là chỗ hiểm, chỗ khó hiểu nhất đối với một đội quân
nhà nghề của Mỹ khi đến xâm lƣợc miền Nam Việt Nam. Các chiến lƣợc gia của
giai cấp tƣ sản cho đến nay không thể lý giải đƣợc tại sao những đội quân hết sức
thiện chiến lại thất bại thảm hại trƣớc một đội quân du kích với trang thiết bị còn
thô sơ và thua kém nhiều lần so với đối phƣơng.
Phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam cũng là minh chứng rõ nét nhất
cho nội dung đấu tranh toàn diện của đƣờng lối chiến tranh nhân dân, chiến tranh
toàn diện mà Trung ƣơng Đảng đã quán triệt. Bên cạnh những hoạt động sản xuất,
phục vụ chiến đấu, phong trào đấu tranh của phụ nữ đã diễn ra hết sức sôi động trên
cả 3 mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và ngoại giao. Trên mặt trận nào
chị em cũng là lực lƣợng xung kích, tích cực, giành đƣợc những thắng lợi to lớn.
Trên mặt trận đấu tranh chính trị, phụ nữ miền Nam đánh bại chƣơng trình
“bình định”, làm thất bại chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, và âm mƣu phi
Mỹ hóa chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Với thắng lợi trong đấu tranh
chống chƣơng trình “bình định” phong trào phụ nữ đã mở ra cho cách mạng miền
Nam một thế và lực mới với địa bàn nông thôn rộng lớn, làm bàn đạp, chỗ đứng
chân vững chắc cho cách mạng.
Trên mặt trận quân sự, chị em tham gia các đội tự vệ, các đội nữ du kích, vừa
76
có khả năng độc lập tác chiến, vừa có thể phối hợp với toàn quân, toàn dân nổi dậy
tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy và thu phƣơng tiện chiến tranh, làm thất bại âm mƣu
giành thắng lợi quân sự, đàm phán trên thế mạnh của Mỹ. Cùng với chị em miền
Bắc, sau 12 ngày đêm phá tan trận tập kích chiến lƣợc bằng không quân của Mỹ vào
Hà Nội, Hải Phòng và một số địa điểm khác trên miền Bắc, phụ nữ miền Nam đã
buộc Mỹ ngồi lại bàn đàm phán trong thế thua.
Thắng lợi trên mặt trận quân sự và chính trị, phụ nữ miền Nam càng tự tin,
vững vàng trên bàn đàm phán. Đó là điều kiện thuận lợi để Bộ trƣởng Bộ Ngoại
giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đồng chí
Nguyễn Thị Bình cùng Bộ trƣởng Bộ ngoại giao Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đòn quyết định, buộc Mỹ ký Hiệp định Pari về Việt Nam ngày 27/1/1973,
cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân Mỹ
và quân các nƣớc chƣ hầu thuộc Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tiếp đó, Bộ
trƣởng Nguyễn Thị Bình cùng đại diện Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội Liên
hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam tích cực tiến hành những hoạt động đối ngoại
nhằm vận động nhân dân thế giới, ủng hộ tích cực cuộc chiến tranh chính nghĩa của
Việt Nam, yêu cầu Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi hành triệt để và nghiêm chỉnh
Hiệp định Pari, thực hiện thành công nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút”, tạo thời cơ chín
muồi để bƣớc vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, tiến hành “đánh cho ngụy
nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc.
Nhƣ vậy, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam là một bộ phận của
chiến tranh nhân dân Việt Nam, là một trong 3 bộ phận quan trọng của lực lƣợng vũ
trang gồm 3 thứ quân theo đúng chủ trƣơng của Đảng, là một đội quân du kích
mang đúng đặc trƣng của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Cùng với bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phƣơng, và đông đảo quần chúng nhân dân, phụ nữ hăng hái đứng ở mũi
nhọn cuộc đấu tranh, chống mọi âm mƣu và hành động gây chiến của Mỹ-ngụy, đập
tan chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiêu diệt một bộ phận không nhỏ sinh
lực địch, tạo điều kiện cùng nhân dân cả nƣớc bƣớc vào chiến dịch lịch sử cuối
cùng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc trong 55 ngày đêm,
77
với tinh thần “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”.
3.1.1.5. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Trung ương Cục
miền Nam, phụ nữ miền Nam đã phát huy được vai trò quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ
Dƣới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng
Cục, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam với việc vận dụng linh hoạt
phƣơng châm “ba mũi giáp công” đã phát huy hiệu quả, đập tan chiến lƣợc “Việt
Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, đánh bại chƣơng trình “bình định” ở cả
thành thị và nông thôn, làm rã phần lớn hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, tạo điều
kiện thuận lợi, mở ra thời cơ chín muồi, tiến lên cùng lực lƣợng vũ trang tiêu diệt
quân chủ lực của địch trên khắp các chiến trƣờng miền Nam.
Phát huy khả năng trong công tác binh vận, khi tình hình thực tế cho thấy
hàng ngũ địch vào thời điểm kết thúc chiến tranh đã quá rệu rã, xuống dốc, chị em
phụ nữ tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục, vận động binh lính ngụy, góp phần hỗ
trợ cho bộ đội chủ lực tiến đánh và tiêu diệt nhanh chóng. Từ ngày 30/3 đến
27/6/1972, trong chiến dịch tiến công Trị - Thiên, phối hợp với bộ đội chủ lực, phụ
nữ và quần chúng nổi dậy phá kế hoạch “bình định” của địch, loại khỏi vòng chiến
đấu hơn 27000 tên địch, thu và phá hủy 636 xe tăng, xe bọc thép, 1870 xe quân sự,
419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng
Trị. Thắng lợi của chiến dịch cùng với các hƣớng tiến công khác trong cuộc tiến
công chiến lƣợc 1972 đã tạo ra cục diện mới trên chiến trƣờng, giáng đòn chí tử vào
âm mƣu xâm lƣợc cũng nhƣ chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ.
Mặc dù bối cảnh quốc tế có nhiều khó khăn, thử thách, mâu thuẫn giữa Liên
Xô và Trung Quốc; âm mƣu thực hiện chính sách ngoại giao tay ba của Mỹ muốn
thông qua Trung Quốc và Liên Xô ép Việt Nam phải giảm bớt những nỗ lực quân
sự trên chiến trƣờng, chấp nhận những điều kiện do phía Mỹ đƣa ra nhƣng với
chính sách ngoại giao khôn khéo, Mặt trận nhân dân thế giới chống Mỹ, ủng hộ Việt
Nam vẫn đƣợc hình thành và phát triển rộng khắp, đặc biệt là trong lòng nƣớc Mỹ,
tạo sức ép buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh ở Việt Nam, buộc Mỹ ký Hiệp
định Pari về Việt Nam ngày 27/1/1973, cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và
78
quân chƣ hầu khỏi miền Nam Việt Nam.
Phụ nữ miền Nam không chỉ dám đánh mà còn biết cách đánh Mỹ. Trên cả ba
mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp phƣơng châm “hai chân, ba mũi”,
chị em phụ nữ có mặt khắp nơi, hoạt động tích cực, làm nên thắng lợi của cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.
Trong tổng tiến công và nổi dậy, Đảng chủ trƣơng kết hợp tiến công với nổi
dậy của quần chúng, tiêu diệt địch với giành quyền làm chủ, tạo sức mạnh áp đảo,
trong đó đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực đi trƣớc một bƣớc, trực tiếp tiêu
diệt lực lƣợng quân sự của địch, đồng thời hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần
chúng. Sự nổi dậy của quần chúng, đặc biệt là phụ nữ có tác dụng căng kéo, phân
tán địch, giành dân, giành đất, mở ra thế trận tiến công mới, tạo ra thuận lợi mới,
làm cho lực lƣợng vũ trang tăng thêm sức mạnh, có điều kiện và thời cơ tiến lên
đánh tiêu diệt, giành thắng lợi lớn với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Từ ngày 26-30/4/1975, phụ nữ miền Nam cùng quân dân miền Nam đã tiêu diệt và
làm tan rã toàn bộ quân chủ lực, diệt và làm tan rã khoảng 269.000 địch, thu
276.000 súng các loại (trong đó có 518 khẩu pháo), 409 xe tăng, thiết giáp, 858 máy
bay các loại, 6.457 tàu, xuồng chiến đấu, 3.296 xe ô tô và nhiều phƣơng tiện chiến
tranh khác. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan, chế độ
thực dân mới đƣợc Mỹ dốc sức xây dựng qua năm đời tổng thống hoàn toàn sụp đổ.
Cùng với nam giới, chị em phụ nữ miền Nam đã có những đóng góp quan
trọng trong việc làm thất bại chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc
Mỹ, tạo thời cơ, chuẩn bị và trực tiếp tham gia chiến đấu trong Tổng tiến công và
nổi dậy mùa xuân 1975, làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nƣớc.
Sở dĩ, phụ nữ miền Nam luôn giữ vai trò nòng cốt, xung kích trong phong trào
đấu tranh ở miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc những năm 1969 –
1975 là do nhiều nhân tố mà nổi bật lên những nhân tố sau đây:
Thứ nhất, nhận thức và chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Trung ương Cục miền
Nam về vai trò của phụ nữ miền Nam trong chiến tranh cách mạng
Ngay trong Nghị quyết tháng 10-1930 của Đảng về công tác vận động phụ
79
nữ, Đảng nhận định: “Lực lƣợng cách mạng của phụ nữ không tham gia vào những
cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thắng lợi đƣợc”. Trung ƣơng Đảng,
Trung ƣơng Cục miền Nam luôn luôn coi công tác phụ vận là một trong những công
tác vận động quần chúng quan trọng nhất của Đảng. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan
trọng của phụ nữ, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, Đảng đã khơi dậy
lòng yêu nƣớc, truyền thống đấu tranh anh dũng của phụ nữ, phát huy cao độ tinh
thần, khả năng to lớn của phụ nữ vào cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, dân chủ và
hòa bình.
Đảng chủ trƣơng phát triển thế trận toàn dân đánh giặc, kết hợp phƣơng châm
“hai chân, ba mũi, ba vùng”, với phƣơng châm, đƣờng lối đấu tranh đúng đắn, sáng
tạo trên, Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam đã kịp thời vận động đông
đảo nhất chị em tham gia tích cực mọi mặt của cuộc chiến đấu, từ đấu tranh chính
trị, đấu tranh vũ trang, công tác binh vận và đấu tranh trên bàn đàm phán.
Trong đấu tranh chính trị, Đảng đã tổ chức và lãnh đạo phụ nữ vào các hoạt
động đấu tranh phù hợp, đƣợc tổ chức chặt chẽ từ thấp đến cao, từ lẻ tẻ đến tập
trung. Kết hợp nhiều hình thức đấu tranh phong phú, ở nông thôn, vừa đấu tranh
trực diện, vừa tổ chức kéo vào thành thị đấu tranh với địch chống lại chƣơng trình
“bình định”. Trong các thành thị miền Nam, đông đảo phụ nữ thuộc mọi tầng lớp,
ngành nghề, với ƣu thế hợp pháp, kết hợp khéo léo hình thức đấu tranh hợp pháp và
nửa hợp pháp nhằm đòi các quyền lợi thiết thân, vấn đề dân chủ, dân sinh và cao
hơn là độc lập dân tộc, thống nhất đất nƣớc.
Trên mặt trận đấu tranh vũ trang, dƣới sự chỉ đạo của Đảng bộ các địa
phƣơng, tổ chức Hội phụ nữ ở các cơ sở, chị em không chỉ đấu tranh lẻ tẻ, riêng
biệt, mà nhiều đội nữ du kích đã hình thành, nhƣ đại đội nữ Lê Thị Hồng Gấm – đại
đội nữ đầu tiên ở miền Nam, trở thành nỗi khiếp sợ của kẻ thù, đại đội nữ huyện
Bến Cát tỉnh Sông Bé anh hùng, hay đội nữ du kích Củ Chi – huyền thoại trong
lòng đất đã lập nên những chiến công hiển hách. Những tên gọi ấy, những hình ảnh
ấy đã trở thành nỗi ám ảnh đối với nhân dân thế giới, đặc biệt là đối với nhân dân
Mỹ, và với chính những ngƣời lính Mỹ từng cầm súng chiến đấu tại Việt Nam.
Trong thế trận chiến tranh nhân dân, công tác binh vận đƣợc Đảng quan tâm
80
chỉ đạo kịp thời. Nhận thức đƣợc đặc điểm, khả năng cũng nhƣ sở trƣờng của chị
em phụ nữ trong việc vận dụng những lý lẽ sắc bén, những tình cảm thân thuộc,
Trung ƣơng Đảng, và đặc biệt là Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam đã đẩy
mạnh hoạt động của chị em phụ nữ trong mũi tiến công này. Bằng việc đem đạo lý
dân tộc, nghĩa tình đồng bào tác động vào trái tim, khối óc của binh sĩ đối phƣơng,
công tác binh vận là một mũi tiến công chiến lƣợc; không chỉ phục vụ và kết hợp
với đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, mà còn độc lập chiến đấu diệt ác ôn,
phá hoại phƣơng tiện chiến tranh của địch, tổ chức giúp đỡ binh lính ngụy khởi
nghĩa làm binh biến, phản chiến. Bám sát đƣờng lối binh vận mà Trung ƣơng Đảng
và Trung ƣơng Cục miền Nam đã đề ra, với những hình thức vận động phong phú,
chị em đã vận động một lực lƣợng lớn ngụy quân rã ngũ, làm nội chiến, binh biến,
phản chiến về với cách mạng, về với nhân dân, làm cho hàng ngũ kẻ thù nhanh
chóng tan rã.
Thứ hai, truyền thống đấu tranh bất khuất của phụ nữ miền Nam
Kế thừa truyền thống yêu nƣớc, chống ngoại xâm của dân tộc từ thời Hai Bà
Trƣng, Bà Triệu, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, chủ nghĩa yêu nƣớc của
phụ nữ miền Nam Việt Nam đã đƣợc Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy và
phát huy cao độ. Phụ nữ miền Nam cùng với nam giới đứng lên, bất chấp gian khổ,
hy sinh, quyết chiến đấu cho độc lập và tự do của dân tộc, một lòng thủy chung, son
sắt với lý tƣởng cách mạng, với Đảng, với nhân dân. “Khi ngƣời phụ nữ Việt Nam
hiền hậu nhất đã gia nhập vào thế giới chiến đấu của đàn ông vì quê hƣơng mình,
khi ngƣời đó biết làm tốt công việc của mình thì chiến tranh đã thực sự trở thành
cuộc chiến tranh toàn dân” [97, tr.87].
Nữ tác giả ngƣời Mỹ Karen Gottschang Turner, sau khi nghiên cứu sự tham
gia của quân đội phụ nữ một số nƣớc trên thế giới trong thời kỳ hiện đại đã nhận
định “Trƣờng hợp của Việt Nam là trƣờng hợp độc nhất vô nhị trong thời kỳ hiện
đại, không phải chỉ vì có nhiều phụ nữ ra đi chiến đấu mà còn bởi truyền thống về
phụ nữ chiến đấu đã có vị trí lớn trong lịch sử của cả dân tộc Viêt Nam, đến mức
không thể nhìn nhận truyền thống này một cách chung chung” [97, tr.44].
Bƣớc ra từ các cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc, trên các mặt trận đấu
81
tranh chính trị, quân sự, binh vận và ngoại giao, phụ nữ miền thực sự trở thành
những nữ anh hùng, những bà mẹ Việt Nam anh hùng xứng đáng với 8 chữ vàng
"Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng.
Thứ ba, sự ủng hộ, đoàn kết của phụ nữ, nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với
cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam, đặc biệt là phụ nữ miền Nam
Việt Nam
Bƣớc vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, hoàn
cảnh quốc tế có nhiều biến chuyển, sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân thế giới đối
với cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nƣớc của nhân dân miền Nam Việt Nam có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam, coi
Việt Nam là biểu tƣợng của chính nghĩa, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, Việt
Nam trở thành lƣơng tri của thời đại. Năm 1969, Mặt trận quốc tế ủng hộ, đoàn kết
với Việt Nam đƣợc mở rộng và phát triển mạnh mẽ bao gồm mọi tầng lớp nhân dân
ở các nƣớc có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Tham gia các hoạt động đoàn kết
với Việt Nam còn có các tổ chức quốc tế nhƣ Hội đồng hòa bình thế giới, Ủy ban
đoàn kết nhân dân Á-Phi, các tổ chức phụ nữ, thanh niên, sinh viên, công đoàn quốc
tế… đặc biệt, phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam đã
hình thành và phát triển ngay trong lòng nƣớc Mỹ, thu hút hàng triệu ngƣời Mỹ
thuộc đủ mọi thành phần tham gia phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lƣợc
Việt Nam của đế quốc Mỹ.
Việt Nam đã trở thành “lƣơng tâm của thời đại”. Nhân dân thế giới dấy lên
nhiều phong trào viện trợ cho phụ nữ và trẻ em Việt Nam nhƣ phong trào “Một
chuyến tàu hàng cho Việt Nam” và “100 triêu phơrăng ủng hộ Việt Nam” của Pháp;
“100 triệu Yên” của các bà mẹ Nhật; “Quà từ trái tim” của phụ nữ Ba Lan, phong trào
“Chăn ấm cho trẻ em Việt Nam” của phụ nữ Hunggari… Ngoài ra còn có hàng nghìn
cuộc mít tinh, biểu tình, hội thảo... của nhân dân thế giới và ngay cả trong lòng nƣớc
Mỹ đƣợc tổ chức nhằm ủng hộ Việt Nam.
Có thể nói mặt trận đoàn kết, ủng hộ Việt Nam đã trở thành một phong trào
rộng lớn mang tính toàn cầu, với tiếng nói ngày càng có sức nặng, góp phần buộc
Mỹ xuống thang chiến tranh, ký Hiệp định Pari, chấm dứt sự dính líu quân sự ở
82
miền Nam Việt Nam.
3.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những ƣu điểm, sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục
miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ những năm 1969 – 1975 còn tồn
tại một số hạn chế.
Thứ nhất, chậm chuyển hướng chỉ đạo chiến lược khi tình thế cách mạng đã
có nhiều thay đổi
Do những chi phối của hoàn cảnh khách quan nên sau Tổng tiến công và nổi
dậy Tết Mậu Thân 1968, khi Mỹ đã chuyển hƣớng sang chiến lƣợc “Việt Nam hóa
chiến tranh”, khâu then chốt là kế hoạch “bình định” nông thôn, Trung ƣơng Cục
chƣa đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc, âm mƣu thâm độc của địch trong chính
sách mới, do đó, chƣa kịp thời xác định một sự chuyển hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc
toàn diện, dứt khoát, tập trung, nhằm vào mục tiêu làm thất bại âm mƣu Việt Nam
hóa chiến tranh, đặc biệt là kế hoạch bình định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1968, hƣớng tiến công chủ yếu là đánh mạnh
vào thành thị, cơ quan đầu não của địch, sau đó, dù tình hình đã có nhiều thay đổi,
hƣớng tiến công trên vẫn giữ nguyên, bỏ lỏng nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Lợi
dụng sai lầm này, Mỹ - ngụy đã tiến hành liên tiếp các kế hoạch “bình định” từ
“bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt”, “bình định bổ sung”, kế hoạch “phƣợng
hoàng”… quyết liệt suốt hai năm (từ giữa năm 1968 đến đầu năm 1970), chiếm lại
nhiều vùng nông thôn, kìm kẹp thêm nhiều dân, kiểm soát thêm nhiều vùng. Đây là
cuộc phản công quyết liệt, hủy diệt tàn khốc của địch, bằng sức mạnh tổng hợp, chủ
yếu bằng sức mạnh quân sự đánh vào trận địa nông thôn, gây cho cách mạng những
khó khăn, tổn thất nặng nề, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam từ năm
1968 đến đầu năm 1970 có nhiều thiệt hại, diễn ra chậm, suy giảm, lực lƣợng cách
mạng bị địch đẩy ra vùng nông thôn ven và đồng bằng, thậm chí ở Nam Bộ có nơi
còn bị đẩy ra ngoài biên giới.
Sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực, (28/1/1973) chỉ đạo của Đảng cũng có
thiếu sót khi không quán triệt chủ trƣơng chủ động đối phó với hành động phá hoại
Hiệp định, lấn chiếm bình định của Mỹ - ngụy để địch gây cho ta nhiều thiệt hại,
83
mất đất, mất dân ở một số vùng. Song, thiếu sót trên không kéo dài và chƣa ảnh
hƣởng tới cục diện chiến lƣợc, Đảng kịp thời và ra sức khắc phục nên phong trào
đấu tranh của nhân dân miền Nam nói chung và phong trào phụ nữ nói riêng trên
các chiến trƣờng nhanh chóng phát triển từ giữa năm 1973.
Quá trình triển khai, thực hiện chủ trƣơng, đƣờng lối của Trung ƣơng Đảng,
Trung ƣơng Cục xuống các địa phƣơng còn chƣa kịp thời và đầy đủ. Bên cạnh
những nơi quán triệt, triển khai nghị quyết, chỉ thị của Trung ƣơng Cục tƣơng đối
tốt, còn nhiều nơi việc quán triệt và thực hiện chƣa đầy đủ, nhất là việc triển khai
nghị quyết và chỉ thị của Trung ƣơng Cục xuống cấp huyện, xã nên việc chỉ đạo
đánh phá bình định chƣa có chuyển biến mạnh, chƣa tận dụng đƣợc những sơ hở
của địch và sự chuyển biến cách mạng sâu sắc trong quần chúng, kể cả binh lính,
nhân viên ngụy quyền để phát triển hơn nữa lực lƣợng và thế tấn công toàn diện của
cách mạng ở nông thôn, làm cho lực lƣợng kìm kẹp và hệ thống phòng thủ của địch
bị suy yếu nặng. Đặc biệt là vùng ven, vùng yếu thƣờng hay giản đơn, cứng nhắc,
đơn điệu, ngƣợc lại cũng có một số nơi khi nhấn mạnh vấn đề phƣơng châm,
phƣơng thức lại hạ thấp yêu cầu, tách rời phƣơng châm, phƣơng thức với nhiệm vụ
và mục tiêu chiến lƣợc. Vì vậy, phong trào đấu tranh của quần chúng phụ nữ nhiều
nơi còn bị hạn chế, chƣa phát huy sức mạnh.
Các cấp ủy chƣa đi sâu chỉ đạo và phát huy vai trò của các đoàn thể cách
mạng, chƣa chỉ đạo chặt chẽ và cụ thể đấu tranh chính trị và binh vận. Công tác dân
vận còn yếu, nhất là chi bộ và đoàn thể quần chúng chƣa quán triệt sâu sắc lập
trƣờng giai cấp và quan điểm quần chúng trong công tác dân vận và xây dựng lực
lƣợng cách mạng.
Thứ hai, việc chỉ đạo thực hiện phương châm đấu tranh “hai chân, ba mũi
giáp công, ba vùng chiến lược” ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa triệt để và hiệu quả
Do tình hình chiến tranh phức tạp, Mỹ - ngụy còn mạnh, việc đấu tranh theo
phƣơng châm “hai chân, ba mũi giáp công” tuy đã phát huy tác dụng, nhƣng nhiều
lúc, ở nhiều địa phƣơng, việc thực hiện phƣơng châm đấu tranh trên còn chƣa thực
sự hiệu quả, việc kết hợp “hai chân, ba mũi” nhiều lúc còn lỏng và chƣa linh hoạt.
Chỉ đạo công tác trọng tâm của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục còn nhiều
84
khuyết điểm, chƣa gắn chặt ba mũi giáp công phục vụ cho giành dân, chƣa tập trung
sức tiêu diệt và làm tan rã địa phƣơng quân và phụ quân, phát động quần chúng
chƣa sâu sắc, xây dựng lực lƣợng nòng cốt cho quần chúng nổi dậy còn yếu, chƣa
tập trung cán bộ đúng mức cho công tác giành dân, phong trào du kích chiến tranh
và công tác binh vận còn yếu, chƣa hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy, chỉ đạo
tấn công và nổi dậy chƣa chặt, chƣa sát, tƣ tƣởng hữu khuynh còn nặng, biện pháp
chƣa táo bạo mới mẻ phù hợp với tình hình.
Ở thời kỳ đầu sau Tổng công kích năm 1968, phong trào chính trị chƣa phát
động đƣợc một phong trào rộng, mạnh phá rã từng mảng kìm kẹp ở nông thôn, chƣa
đạt tới cao trào ở đô thị, chƣa làm rã lớn ngụy quân đang hoang mang cao độ.
Phong trào đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam nổ ra chƣa đều giữa
thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi. Các cuộc đấu tranh chính trị
của phụ nữ ở vùng nông thôn nổ ra mạnh mẽ, rộng lớn, liên tục và có tổ chức hơn
phong trào ở thành thị. Các cuộc đấu tranh ở vùng nông thôn ngoài mục tiêu đòi
quyền dân sinh dân chủ còn đấu tranh trực diện với kẻ thù, kể cả với đế quốc Mỹ,
cùng lực lƣợng vũ trang tiêu diệt địch, lật đổ chính quyền địch ở cơ sở, giải phóng
và làm chủ nhiều vùng đất. Trong khi đó, phong trào đấu tranh ở đô thị tuy có bƣớc
phát triển mới, nhƣng vẫn chƣa kịp với sự chuyển biến quần chúng và tình hình
chính trị ngày càng suy yếu của địch ở đô thị, vai trò lãnh đạo của Trung ƣơng Cục
đối với phong trào sinh viên, học sinh có tiến bộ và đƣợc củng cố hơn, nhƣng phong
trào công nhân lao động còn bị hạn chế, thực lực phát triển còn chậm, phong trào thị
xã, thị trấn nói chung còn yếu. Nhiều cấp ủy còn chƣa thấy đúng mức tầm quan
trọng của phong trào ở đô thị, do đó sự quan tâm, bố trí cán bộ, tổ chức chỉ đạo ở đô
thị chƣa thực sự hiệu quả. Đô thị là nơi tập trung bộ máy chính quyền và quân sự
các cấp của địch, theo đó là sự kiểm soát chặt chẽ, gắt gao nên phong trào đấu tranh
chính trị ở các thành thị chƣa mạnh mẽ và phong phú bằng cuộc đấu tranh chính trị
ở nông thôn. Các cuộc đấu tranh của phụ nữ đô thị mới chỉ dừng lại là những cuộc
đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, đòi hòa bình, đòi Mỹ rút về nƣớc.
Ở một số địa phƣơng, cấp ủy chƣa nhận thức đúng âm mƣu bình định của
địch, chƣa thấy hết thủ đoạn tàn bạo, tinh vi của chúng, nên sinh ra tƣ tƣởng chủ
85
quan, thiếu kế hoạch chủ động để đối phó từ đầu, khi địch đánh phá quyết liệt thì
dao động, hữu khuynh, nhiều đảng viên, cốt cán bị bật ra khỏi địa bàn. Sự kết hợp
xây dựng thực lực xã, thôn vững mạnh với chống "bình định", sự phối hợp giữa đấu
tranh chính trị, binh vận với đấu tranh quân sự có lúc, có nơi chƣa nhịp nhàng, đồng
bộ, nên chƣa phát huy đƣợc sức mạnh tổng hợp trong tấn công.
Vì khuynh hƣớng ỷ lại lực lƣợng tập trung, không nhận rõ tính chất quần
chúng và tính chất toàn diện của chiến tranh du kích theo phƣơng châm đấu tranh
kết hợp “ba mũi giáp công” nên trong công tác chi bộ và công tác dân vận chƣa chú
trọng đúng mức việc giáo dục tổ chức, động viên đông đảo quần chúng tham gia
chiến đấu vũ trang với nhiều kiểu cách kết hợp với đấu tranh chính trị binh vận để
trên cơ sở đó xây dựng những đội du kích xã ấp, và lực lƣợng dân quân tự vệ. Ba
thứ quân có tiến bộ nhƣng chƣa đều, bộ đội địa phƣơng có đƣợc bổ sung nhƣng nói
chung còn yếu, phong trào du kích có phát triển nhƣng chƣa thành một thế tấn công
rộng mạnh trên tất cả các vùng.
Trong công tác binh vận nhiều lúc còn chậm trong các khâu tuyên truyền, vận
động, tổ chức các hình thức đấu tranh cho từng giới đồng bào. Nhiều cuộc đấu tranh
đòi thực hiện hòa bình không kết hợp nêu những khẩu hiệu về quyền lợi bức thiết
của nhân dân nên không tập hợp đƣợc rộng rãi các giới, các tầng lớp tham gia, chƣa
làm cho nhân dân thấy rõ ý nghĩa bức thiết của cuộc đấu tranh chính trị, binh vận
trong giai đoạn mới.
Thứ ba, công tác vận động phụ nữ của Trung ương Cục và Hội Liên hiệp phụ
nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam chưa thật sự sâu rộng, đều khắp và liên tục
Tổ chức Hội phụ nữ chƣa thật rộng, mạnh và đều khắp, đội ngũ cán bộ nữ
trong Đảng và chính quyền, đoàn thể phát triển còn chậm. Trong đƣờng lối vận
động phụ nữ, chƣa phát huy đƣợc hết khả năng tham gia của chị em, chủ yếu khai
thác khả năng đấu tranh chính trị và công tác binh vận mà chƣa nêu cao đƣợc khẩu
hiệu và hình thức vận động để chị em tham gia đông đảo hơn trong đấu tranh vũ
trang. Chị em chủ yếu tham gia chiến tranh du kích, đánh địch với quy mô nhỏ, phối
hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng nhằm tiêu diệt sinh lực địch. Về vấn đề
này, nguyên nhân cơ bản có ảnh hƣởng trực tiếp tới sức chiến đấu của chị em, đó
86
chính là đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh, vai trò của phụ nữ trong gia đình, nên đấu
tranh vũ trang, đặc biệt việc tham gia vào đội quân chính quy đánh quy mô lớn vẫn
là một mảng mỏng của chị em phụ nữ, chƣa thể khai thác triệt để đƣợc.
Tồn tại những hạn chế trong đƣờng lối lãnh đạo của Trung ƣơng Cục miền
Nam đối với phong trào cách mạng nói chung, phong trào đấu tranh của phụ nữ nói
riêng do một số nguyên nhân sau:
Về khách quan, trong ba năm thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, địch tiến
hành đánh phá ác liệt ở nông thôn, nhân dân bị lùa xúc nhiều vào khu dồn ấp chiến
lƣợc, đời sống bị đảo lộn, cán bộ cơ sở cách mạng ở xã, thôn mất chỗ đứng chân,
tổn thất nặng nề, đặc biệt là thời kỳ đầu sau Tổng công kích và nổi dậy năm 1968.
Về chủ quan, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, Đảng và Trung ƣơng Cục
chƣa có điều kiện tập trung vào công tác phụ vận, đƣa ra những chủ trƣơng cụ thể
cho phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam. Sự lãnh đạo phong trào đấu tranh
của phụ nữ vẫn mang tính chất chung chung và vận dụng từ đƣờng lối cách mạng
cơ bản trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục. Với
tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh, mặt trận quân sự, vai trò của bộ đội chủ lực và
bộ đội địa phƣơng vẫn đƣợc đánh giá cao và tập trung chỉ đạo tổ chức hơn cả nhằm
tiêu diệt phần lớn sinh lực địch. So với phong trào “ba đảm đang” của phụ nữ miền
Bắc, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam chƣa đƣợc quan tâm sát sao.
Phong trào vẫn đi lên và phát huy vai trò to lớn trong cục diện chung của cuộc
kháng chiến phụ thuộc nhiều vào sự tự giác chấp hành, tự giác đấu tranh của lực
lƣợng phụ nữ. Là nạn nhân chịu nhiều đau khổ nhất trong cuộc chiến tranh này, chị
em phụ nữ đã dốc toàn tâm toàn lực cho cuộc chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn,
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng cuộc đời mình.Về quần
chúng, cơ bản tin tƣởng cách mạng, nhƣng qua nhiều năm bị khủng bố ác liệt lại bị
chiến tranh tâm lý nên ngại ác liệt, lo lắng, sợ khó khăn, một bộ phận quần chúng có
ngƣời nhà đi lính, làm việc cho địch, tâm tƣ tình cảm hết sức phức tạp, nhƣng việc
tuyên truyền, giáo dục, thâm nhập đƣờng lối chính sách của Đảng còn chƣa sâu sắc.
Tuy vậy, với đƣờng lối lãnh đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam, phong trào
đấu tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1975 đã phát huy sức mạnh to lớn, góp
phần quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc,
87
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc.
3.2. Kinh nghiệm lịch sử
Từ những ƣu điểm và hạn chế nhƣ đã trình bày về đƣờng lối lãnh đạo của
Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam đối phong trào đấu tranh của phụ nữ
từ năm 1969 đến năm 1975, có thể rút ra một số kinh nghiệm cụ thể sau:
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục để giác ngộ phụ nữ về tính chất
chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đường lối cách mạng
của Đảng, Trung ương Cục miền Nam
Ngay từ khi mới ra đời năm 1930, Đảng quán triệt “phụ nữ là một lực lƣợng
rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào cuộc đấu tranh
cách mạng thì cách mạng không thắng lợi đƣợc”. Gắn cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ, gắn lợi ích chung của dân tộc,
giai cấp với những quyền lợi thiết thân của chị em, phụ nữ miền Nam nói riêng và
phụ nữ Việt Nam nói chung đã tự nguyện đứng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng chính bản thân giới mình.
Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam xác định công tác dân vận là
cái gốc để đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và binh vận là một yêu cầu cơ
bản và bức thiết để phát huy tới mức cao khả năng cách mạng to lớn của quần
chúng trong mọi mặt chiến đấu, phải xuất phát từ quyền lợi giai cấp kết hợp với
quyền lợi của giới và đặc điểm, trình độ của quần chúng từng lúc, từng nơi để vận
động cho phù hợp. Phải gắn liền quyền lợi trƣớc mắt của quần chúng với lợi ích lâu
dài của cách mạng mới phát động đƣợc quần chúng hăng hái công tác và đấu tranh,
mới nâng cao giác ngộ chính trị của quần chúng. Phải kiên quyết khắc phục tình
trạng chụp công việc từ trên xuống cho quần chúng, hạn chế tính tự giác và tính tích
cực cách mạng của quần chúng, tách rời việc động viên làm nhiệm vụ với quan tâm
đến các quyền lợi thiết thân của quần chúng. Tùy điều kiện từng nơi, từng lúc để ra
những khẩu hiệu và biện pháp, hình thức đấu tranh phù hợp.
Nhận thức rõ đặc điểm, khả năng và sở trƣờng của phụ nữ trong từng mũi tiến
công chính trị, binh vận, vũ trang Trung ƣơng Đảng chủ trƣơng kết hợp giải pháp
88
“hai chân, ba mũi, ba vùng” tạo nên sức mạnh tổng hợp của chị em trong đấu tranh.
Chị em có nhiều thuận lợi trong đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận, khai
thác khả năng hợp pháp để tiến công địch ở cả thành thị và nông thôn. Tuy nhiên,
do đặc điểm sinh lý, hoàn cảnh gia đình, khả năng của chị em trong đấu tranh vũ
trang còn hạn chế, đặc biệt là trong những chiến dịch lớn, vì thế, quan điểm xây
dựng lực lƣợng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam của Đảng chỉ rõ “Phong
trào võ trang của phụ nữ lấy việc xây dựng các độ du kích, tự vệ mật trong xã ấp,
xóm lao động, khu phố làm hƣớng chính, chủ yếu, coi những đơn vị bộ binh, pháo
binh nữ là những đơn vị tiêu biểu để phát động phong trào phụ nữ tham gia võ trang
chớ không lấy đó làm hƣớng chính” [105].
Ngày 2/12/1968, Quân ủy Miền ra chỉ thị số 52/CTNT nêu rõ “Những nơi đã
có xây dựng đơn vị bộ binh và pháo binh nữ phải hết sức coi trọng giáo dục chính
trị và quân sự cho các đơn vị ấy, về tác chiến đánh địch cũng phải đƣợc cân nhắc để
vừa sức và hợp với khả năng của chị em. Phải chiếu cố đến đặc điểm về sinh lý và
cơ thể của phụ nữ trong các mặt công tác, lao động và chiến đấu” [69].
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, hiểu và vận dụng đúng chủ trƣơng, đƣờng lối
cách mạng “hai chân, ba mũi giáp công”, đƣờng lối “chiến tranh nhân dân”, “chiến
tranh du kích” phụ nữ miền Nam phát huy sức mạnh đấu tranh trên mọi mặt trận,
đánh đúng, đánh trúng và đánh mạnh vào hàng ngũ kẻ thù từ nhiều hƣớng, nhiều
hình thức linh hoạt và phong phú, khiến địch hoang mang, suy sụp nghiêm trọng.
Đồng thời, Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục còn đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục quần chúng phụ nữ về tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lƣợc
của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam và tính chất chính nghĩa của cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Phụ nữ miền Nam
hơn ai hết hiểu rõ bản chất, bộ mặt tàn bạo của quân xâm lƣợc cùng chính quyền tay
sai Nguyễn Văn Thiệu, nhƣng việc giáo dục cho phụ nữ về tính chất phi nghĩa, vô
nhân đạo của cuộc chiến tranh mà đế quốc Mỹ đang tiến hành ở miền Nam là thực
sự cần thiết giúp phụ nữ vững vàng, kiên định và kiên quyết hơn trong cuộc đấu
tranh chống lại những âm mƣu, hành động gây chiến, khủng bố, đàn áp hay mua
89
chuộc dụ dỗ của kẻ thù.
Hiểu đƣợc tính chất chính nghĩa của cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân
tộc, vì hòa bình, vì sự giải phóng phụ nữ, phụ nữ khắp miền Nam tự nguyện đứng
trong hàng ngũ đấu tranh chung để góp sức cùng nhân dân cả nƣớc đánh đổ ách
thống trị đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đang tìm mọi cách áp đặt ở miền
Nam Việt Nam. Khi những ngƣời phụ nữ hiền hậu nhất đã đứng dậy, cầm súng và
chiến đấu thì cuộc chiến tranh đó thực sự trở thành một cuộc chiến tranh cách mạng
nhằm chống lại các thế lực phản động và tàn bạo, đảm bảo quyền sống và quyền
hạnh phúc của mỗi con ngƣời.
3.2.2. Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, tăng cường chỉ đạo phong
trào đấu tranh của phụ nữ theo phương châm “hai chân, ba mũi giáp công”
Khi quân địch đã dùng bạo lực phản cách mạng đề đàn áp, thống trị nhân dân
thì các tầng lớp nhân dân bị áp bức chỉ có con đƣờng duy nhất là dùng bạo lực cách
mạng để chống lại. Sức mạnh quyết định bạo lực cách mạng gồm hai lực lƣợng cơ
bản: lực lƣợng chính trị và lực lƣợng vũ trang đƣợc thể hiện bằng hai hình thức đấu
tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, kết hợp với nhau tạo nên
phƣơng châm tác chiến “hai chân”, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh binh vận, địch
vận kết hợp với đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, hình thành phƣơng châm
đấu tranh “ba mũi giáp công” nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân đánh giặc. Kết
hợp chặt chẽ “hai chân, ba mũi giáp công” là nội dung rất quan trọng của đƣờng lối
chiến tranh nhân dân, nét độc đáo, sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt đƣờng
lối “hai chân, ba mũi giáp công chiến lƣợc” mà Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng
Cục miền Nam đã quán triệt.
Trong kháng chiến chống Mỹ, đấu tranh chính trị là mặt mạnh cơ bản tuyệt
đối của cách mạng, đồng thời cũng là mặt yếu cơ bản nhất của địch. Lực lƣợng
chính trị của quần chúng là chỗ dựa vững chắc của cách mạng, của kháng chiến, của
lực lƣợng vũ trang. Đấu tranh chính trị đƣợc tiến hành bằng nhiều hình thức phong
phú: hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp pháp. Lực lƣợng quần chúng tham gia đánh
địch đƣợc tổ chức thành một đội quân chính trị lớn, có lãnh đạo chỉ huy chặt chẽ, có
kế hoạch, phƣơng pháp đấu tranh linh hoạt sáng tạo, tạo thành một mũi tiến công lợi
90
hại với khả năng huy động đến hàng triệu quần chúng tham gia.
Để mũi đấu tranh chính trị có hiệu quả và đạt đƣợc những mục tiêu đề ra, phải
xây dựng lực lƣợng chính trị quần chúng vững mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng,
tăng cƣờng trên cơ sở mở rộng khối đoàn kết toàn dân, không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, trình độ các giai cấp, tầng lớp nhân dân để động viên, tổ chức huy động mọi
lực lƣợng ở nông thôn, thành thị, phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ nhau trong đấu tranh,
đập tan chƣơng trình bình định của địch, giữ đƣợc thế làm chủ để tiến công ở các
địa bàn, làm cho hậu phƣơng địch thƣờng xuyên mất ổn định. Mũi đấu tranh chính
trị của phụ nữ miền Nam còn hỗ trợ đắc lực để tạo cơ sở, điều kiện cho lực lƣợng
vũ trang hoạt động có hiệu quả, nhƣ chuẩn bị chiến trƣờng, bàn đạp, căng kéo địch,
làm rối loạn hậu phƣơng địch, gây áp lực, làm giảm sút ý chí tinh thần chiến đấu
của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đòn tiến công quân sự, đánh tiêu diệt địch, từ
đó phát huy kết quả thắng lợi của mũi quân sự, mở rộng diện giải phóng xã ấp,
giành dân.
Đấu tranh vũ trang là một trong hai hình thức đấu tranh cơ bản của bạo lực
cách mạng, nhằm tiêu diệt lực lƣợng quân sự địch. Đòn tiến công quân sự vừa có
tác dụng tiêu diệt sinh lực địch, vừa kết hợp với đấu tranh chính trị phá vỡ từng
mảng hệ thống tổ chức đồn bốt, kìm kẹp của địch, vừa bảo vệ dân, giữ dân, giành
dân, làm chỗ dựa cho quần chúng đấu tranh chính trị nổi dậy, giành quyền làm chủ.
Lúc đầu, lực lƣợng vũ trang có thể là lực lƣợng tự vệ làm nhiệm vụ diệt ác trừ gian,
hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh nổi dậy. Khi lực lƣợng vũ trang phát triển mạnh sẽ
thúc đẩy mạnh mũi đấu tranh chính trị và binh vận phát triển.
Đấu tranh binh vận là mũi tiến công có ý nghĩa chiến lƣợc rất lợi hại
trong kết hợp “hai chân, ba mũi giáp công”. Đấu tranh binh vận thực chất cũng
là đấu tranh chính trị, nhƣng mang tính đặc thù riêng, gắn liền với đấu tranh vũ
trang và đấu tranh chính trị trên chiến trƣờng, nhằm tuyên truyền, giáo dục,
giác ngộ tinh thần dân tộc, quyền lợi giai cấp đi đôi với tuyên truyền chính sách
của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam trong hàng
ngũ địch, phân hóa, gây mâu thuẫn trong nội bộ địch, làm suy yếu và tan rã tinh
91
thần binh sĩ địch, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân
dân, phá tan chính sách “dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt” của Mỹ. Công tác
binh vận còn nhằm giác ngộ binh lính, nhân viên trong chính quyền địch, lôi
kéo họ về phía cách mạng, xây dựng cơ sở, tiến tới làm nội ứng cho cách mạng
để tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền. Mũi binh vận tạo
thuận lợi cho mũi quân sự và kết hợp với mũi vũ trang đánh tiêu diệt địch, giảm
thƣơng vong cho mũi quân sự, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh trực diện với địch,
cung cấp những tin tức có lợi cho cách mạng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác binh vận và khả năng to lớn với
đặc điểm riêng có của chị em phụ nữ, Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục miền
Nam xác định phụ nữ là lực lƣợng chính, nòng cốt và xung kích nhất trong công tác
binh vận, địch vận, từ đó tổ chức và lãnh đạo chị em thực hiện có hiệu mũi tiến
công quan trọng này.
Để thực hiện công tác binh vận có hiệu quả, cần xây dựng một lực lƣợng
chuyên làm công tác binh vận nhƣ là một binh chủng đặc biệt của công tác chính trị
từ khu tới tỉnh, huyện, xã có các tổ chức vũ trang tuyên truyền binh vận và hàng
ngàn cơ sở trong lòng địch. Đội ngũ làm công tác binh vận phải mạnh, có lãnh đạo
chặt chẽ, thống nhất, nghiên cứu đánh giá đúng tình hình âm mƣu địch, đặc điểm
đối tƣợng chủ yếu của binh vận, cụ thể là tình hình chính trị, tinh thần, tâm lý của
địch, chống chủ quan, cả tin, đánh giá thấp bản chất chính trị phản động của địch,
hoặc quá tin dùng hình thức tiếp xúc, tuyên truyền, muốn hòa hợp để buộc địch phải
thi hành Hiệp định Pari ở một số địa phƣơng. Trong công tác binh vận, ngoài công
tác giáo dục tuyên truyền giải thích vận động, việc thi hành chính sách khoan hồng
đối với tù hàng binh cũng có sức thuyết phục lớn trong việc lôi kéo họ về với cách
mạng. Tác động từ việc tuyên truyền của anh em binh sĩ đƣợc phóng thích nên càng
có nhiều hơn binh sĩ bõ ngũ trở về với cách mạng.
Để đối phó với âm mƣu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ, dƣới sự chỉ đạo kịp thời
của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ƣơng, Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục miền Nam
xác định phụ nữ là lực lƣợng tích cực và xung kích nhất trong hàng ngũ đấu tranh,
92
có khả năng phát huy đƣợc vai trò của phƣơng châm “ba mũi giáp công chiến lƣợc”
trong quá trình cách mạng nhằm tiến công địch, làm thất bại chƣơng trình “xƣơng
sống” của “Việt Nam hóa chiến tranh”, làm lung lay ý chí xâm lƣợc của Mỹ - ngụy,
buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, đàm phán trong thế thua. Phong trào ba mũi
giáp công của phụ nữ đã đạt hiệu quả rất cao trong công tác chống địch bắt lính, diệt
ác phá kềm, vận động binh lính, mở rộng căn cứ ngay trong lòng địch, kết hợp tiến
công của lực lƣợng vũ trang với nổi dậy giành chính quyền của quần chúng.
Với đƣờng lối cách mạng bạo lực, phƣơng châm đấu tranh “hai chân, ba mũi
giáp công” Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam và Hội Liên hiệp phụ nữ
giải phóng miền Nam đã tập hợp đƣợc đông đảo nhất lực lƣợng phụ nữ tham gia
đấu tranh, phát huy vai trò và khả năng của chị em trên các mặt trận đấu tranh, đấu
tranh chính trị, đấu tranh binh vận và chiến tranh du kích. Phụ nữ miền Nam, trong
cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nƣớc, đặc biệt là những năm 1969-1975 đã nắm rõ và
vận dụng triệt để quan điểm về bạo lực cách mạng, phƣơng châm “hai chân, ba mũi
giáp công” mà Trung ƣơng Đảng đã quán triệt, tạo ra sức mạnh tổng hợp trên cả ba
mặt trận chính trị, quân sự, binh vận, cùng toàn quân toàn dân miền Nam đấu tranh
đến thắng lợi cuối cùng.
3.2.3. Tăng cường xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh
Vấn đề xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng cũng là một nhiệm vụ quan
trọng, để quán triệt, thực hiện sát, kịp thời và đúng đắn những chủ trƣơng của Trung
ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục tại các địa phƣơng. Dựa trên đặc điểm tình hình, hoàn
cảnh từng vùng, từng miền, Đảng bộ cơ sở cần có những biện pháp chỉ đạo cụ thể
và phù hợp. Để làm đƣợc điều đó, cán bộ, Đảng viên đặc biệt ở các cấp cơ sở phải
tăng cƣờng học tập, giáo dục, nâng cao năng lực chuyên môn và đi sâu vào quần
chúng, hiểu đặc điểm, khả năng cách mạng của quần chúng, đặc biệt là quần chúng
phụ nữ từ đó có những biện pháp vận động thích hợp.
Việc củng cố xây dựng Đảng phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên về cả chính
trị, tƣ tƣởng và tổ chức. Để đảm bảo thực hiện đƣợc cuộc đấu tranh hai chân, ba mũi
ở cơ sở xã ấp, tổ chức Đảng phải có ngƣời nắm lực lƣợng chính trị, lực lƣợng vũ
trang, lực lƣợng binh vận, đặc biệt là chi bộ phải lãnh đạo chặt chẽ các đội du kích.
93
Để kịp thời bổ sung đội ngũ Đảng bộ cơ sở phải chú ý công tác phát triển Đảng, qua
phong trào đấu tranh của quần chúng mà phát hiện những quần chúng có lòng trung
kiên, dũng cảm, có khả năng đoàn kết, huy động quần chúng để phát triển Đảng
xong cần phải hết sức thận trọng đề phòng địch lợi dụng sơ hở, cho ngƣời chui vào
tổ chức Đảng, phá từ bên trong.
Cán bộ đảng viên ở cơ sở hàng ngày phải đối mặt với những âm mƣu thủ
đoạn nham hiểm, xảo quyệt của địch, những tình huống thử thách quyết liệt, vì vậy
tƣ tƣởng của cán bộ đảng viên và cả trong quần chúng có những diễn biến phức tạp,
có nhiều lo lắng, có ngƣời vững vàng trung kiên, có ngƣời sợ sệt, dao động, hiện
tƣợng chủ quan, bi quan thƣờng xuất hiện khi tình hình không ổn định, gặp khó
khăn tổn thất… Trƣớc tình hình đó, yêu cầu công tác giáo dục lãnh đạo tƣ tƣởng
trong Đảng bộ phải làm thƣờng xuyên và liên tục, công tác tổ chức cán bộ cũng
phải đƣợc củng cố kịp thời ở những khâu yếu.
Tại các cấp huyện, tỉnh phải sâu sát ở cơ sở, kịp thời phát hiện những vƣớng
mắc khó khăn ở cơ sở và giúp đỡ, uốn nắn, giải quyết những khó khăn, bế tắc trong
quá trình chỉ đạo đấu tranh ở cơ sở, chọn tổ chức cơ sở điển hình toàn diện hoặc
từng mặt để nhân các đơn vị phụ nữ tiên tiến, thúc đẩy phong trào trong huyện, tỉnh.
Công cuộc đấu tranh của phụ nữ miền Nam, để phát huy thế mạnh công khai,
hợp pháp tuyệt đối của nữ giới, Đảng còn chú trọng giáo dục, quan tâm xây dựng
từng cán bộ, hội viên, đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ, có tinh thần
cách mạng, trung thành, vững vàng ở các cấp để đƣa phong trào phụ nữ đi lên, quan
tâm dìu dắt, đào tạo cán bộ nữ có trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh
nghiệm đấu tranh để trở thành cán bộ chủ chốt trong Đảng, trong từng cấp ủy, tổ
chức Hội ở cơ sở.
3.2.4. Tăng cường chỉ đạo và phát huy vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ
giải phóng miền Nam Việt Nam nhằm động viên, tổ chức phụ nữ tham gia đấu
tranh
“Công tác vận động phụ nữ, việc giải quyết các vấn đề về quyền lợi, đời sống
phụ nữ và nói chung là sự nghiệp giải phóng phụ nữ là nhiệm vụ chung của toàn
Đảng, toàn dân. Nhƣng thực tế khách quan chỉ ra rằng không ai tha thiết quyền lợi
của phụ nữ hơn chính những ngƣời phụ nữ, mà cũng không ai hiểu các vấn đề của
94
phụ nữ hơn chính những ngƣời phụ nữ. Bởi vậy, vai trò, vị trí các cấp hội liên hiệp
phụ nữ, của các cán bộ nữ đối với các nhiệm vụ nói trên có tầm quan trọng quyết
định, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Các cấp hội phải là cánh tay đắc lực và là
tham mƣu cho Đảng, Nhà nƣớc về các vấn đề quan hệ đến phụ nữ” [107, tr.17].
Trong cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đặc
biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, các tổ chức đoàn thể phụ nữ có vai trò hết sức
quan trọng. Ngày 8/3/1961, Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam ra đời, là
thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hội đã nắm vững
đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam, đề ra nhiệm vụ,
bƣớc đi và biện pháp thích hợp với tình hình từng địa phƣơng, phát động quần
chúng phụ nữ tham gia, từ đó phát huy vai trò tích cực trong việc tập hợp, tổ chức
và lãnh đạo phụ nữ miền Nam đấu tranh.
Ra đời giữa lúc cuộc chiến đấu chống Mỹ bƣớc vào giai đoạn gay go ác liệt
nhất, Hội đã giáo dục, động viên hàng triệu phụ nữ miền Nam vƣợt qua muôn trùng
khó khăn, gian khổ, làm nên những chiến công vẻ vang, hào hùng. Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, Hội ngày càng trƣởng thành về mọi mặt, đóng
góp to lớn trên cả 3 mặt trận: chính trị, vũ trang, binh vận. Đặc biệt, Hội đã tổ chức
đƣợc nhiều cuộc đấu tranh chính trị với nội dung sâu sắc, hình thức phong phú.
Với cƣơng vị Phó tƣ lệnh các lực lƣợng vũ trang giải phóng miền Nam Việt
Nam, và là một ngƣời phụ nữ trực tiếp tham gia chiến đấu, bà Nguyễn Thị Định
hiểu rõ đặc điểm của chị em phụ nữ và chỉ đạo: “Phụ nữ không nên đánh công đồn,
đánh công đồn không hợp với sức khỏe chị em phụ nữ do mỗi lần vào đồn phải vác
mìn Đ10 nặng 15kg, vác khẩu AK cùng 6 băng đạn và một số lựu đạn. Những cuộc
hành quân chiến đấu nặng nề không hợp với chị em, chị em chỉ nên đánh gọn, đánh
nhỏ, nắm tình hình, làm trinh sát, báo tin cho lực lƣợng ta tiến công địch. Ở các
vùng giải phóng, địch bỏ bom, bắn pháo dữ dội, những cuộc hành quân tập trung
không hợp với sức khỏe phụ nữ. Vì vậy, chỉ nên xây dựng lực lƣợng nữ ở xã,
huyện, không nên tổ chức ở tỉnh. Và cần tổ chức các đơn vị nữ xen kẽ với các đơn
vị nam để hỗ trợ chiến đấu” [117, tr.216].
Trong các cuộc đấu tranh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt
Nam có thể tự hào là đã giữ vai trò xung kích, đóng góp nhiều lực lƣợng cho cách
95
mạng. Trong 5 năm, từ 1961-1966, Hội đã phát động 220.000 cuộc đấu tranh chính
trị lớn, nhỏ; huy động 25.800.000 lƣợt phụ nữ tham gia mít tinh, biểu tình phản đối
tội ác của Mỹ- ngụy rãi chất độc hóa học, càn quét, đốt phá ruộng vƣờn, hãm hiếp,
gom dân vào ấp chiến lƣợc… số cuộc đấu tranh chính trị ngày càng tăng ở những
năm 1969 -1972, mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao uy tín cách mạng và làm
giảm uy tín của địch. Trên lĩnh vực đấu tranh vũ trang, số phụ nữ tham gia du kích,
dân vệ, quân sự chính quy ngày càng đông, xuất hiện nhiều anh hùng, dũng sĩ. Song
song với những thành tựu trên, sự đóng góp của Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng
miền Nam Việt Nam trên lĩnh vực ngoại giao quốc tế cũng không nhỏ. Những tà áo
dài xuất hiện trong hội nghị Paris 1973 đã mang lại hình ảnh khó quên đối với bạn bè
yêu hòa bình trên thế giới.
Thực tế khách quan đang đòi hỏi công tác xây dựng và phát triển đội ngũ lãnh
đạo phải đúng tầm và phù hợp với phong trào đấu tranh của phụ nữ. Bản thân Hội
phụ nữ phải chủ động liên kết, phát hiện và bồi dƣỡng nhân tố nữ, tích cực giới
thiệu cho chi ủy, chi bộ bồi dƣỡng phát triển đảng viên. Từ đó, bồi dƣỡng, đào tạo
đội ngũ cán bộ nữ đông về số, mạnh về chất, đáp ứng yêu cầu thực hiện các nhiệm
vụ chính trị đƣợc giao. Cần xây dựng cơ sở Hội có hệ thống và hoạt động có hiệu
quả từ Trung ƣơng đến địa phƣơng, xuống tận các xã để nắm đƣợc tình hình phụ nữ
ở từng địa phƣơng, có biện pháp vận động và tổ chức phù hợp. Qua cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nƣớc, đội ngũ cán bộ phụ nữ miền Nam càng trƣởng thành, uy
tín của Hội ngày càng đƣợc nâng cao, trở thành nòng cốt, ngọn cờ đầu hiệu triệu,
đoàn kết chặt chẽ chị em, phối hợp tốt với các đoàn thể và mặt trận, vận động, thúc
đẩy phong trào đấu tranh của phụ nữ hoàn thành nhiệm vụ chính trị do Trung ƣơng
Đảng đề ra.
Chiến tranh kết thúc, cả nƣớc bƣớc vào giai đoạn hội nhập, trên con đƣờng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phụ nữ Việt Nam không ngừng phát huy vai trò của
mình, trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Trƣớc tình hình
mới, yêu cầu đặt ra cho Hội phụ nữ là cần nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, kỹ
thuật, có bản lĩnh ứng xử mọi tình huống kịp thời trong hội nhập, góp phần cùng
toàn Đảng, toàn dân, thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội
96
công bằng dân chủ, văn minh.
Tiểu kết
Nhƣ vậy, Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục miền Nam đã nhận
định đúng sự biến chuyển mau lẹ của tình thế cách mạng để có đƣờng lối, chủ
trƣơng lãnh đạo phù hợp đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ nói riêng và cách
mạng miền Nam nói chung. Từ thực tế cách mạng, rút ra đƣợc những ƣu điểm,
thành tựu to lớn trong công tác dân vận, phụ vận, công tác lãnh đạo, tổ chức phong
trào đấu tranh của phụ nữ, thể hiện vai trò quan trọng hàng đầu của Đảng, của
Trung ƣơng Cục miền Nam. Với đƣờng lối cách mạng đúng đắn của Trung ƣơng
Đảng và Trung ƣơng Cục, mới có đƣợc lực lƣợng cách mạng (chính trị, quân sự)
đông đảo, hùng hậu, mới làm nên đƣợc thắng lợi Tổng tiến công và nổi dậy mùa
xuân 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Bên cạnh những ƣu điểm đó, với
những nguyên nhân khách quan và chủ quan của cuộc chiến đấu đang bƣớc vào giai
đoạn cam go, khốc liệt nhất, Trung ƣơng Cục miền Nam còn mắc phải một số hạn
chế trong đƣờng lối lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng cần triệt để khắc
phục. Tuy nhiên, có thể khẳng định, đƣờng lối cách mạng đúng đắn, sự chỉ đạo kịp
thời, sáng suốt, nhạy bén của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam nhƣ
kim chỉ nam để cách mạng miền Nam tiến lên và giành thắng lợi hoàn toàn, thực
hiện “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
97
nƣớc, Nam – Bắc sum họp một nhà, sau 21 năm kháng chiến gian khổ.
KẾT LUẬN
Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc, ngƣời phụ
nữ Việt Nam không chỉ hiện lên với hình tƣợng “tề gia nội trợ” mà còn hiện lên với
hình ảnh những chiến sĩ dũng cảm, với truyền thống “Giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh”. Từ những vị anh hùng lừng lẫy nhƣ Bà Trƣng, Bà Triệu, nữ tƣớng Bùi Thị
Xuân đến nữ tƣớng Nguyễn Thị Định, nữ chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thị Út (Út
Tịch) với câu nói nổi tiếng “Còn cái lai quần cũng đánh”… tất cả đều là những
minh chứng hùng hồn cho biểu tƣợng ngƣời phụ nữ cầm quân đánh giặc.
Tiếp nối truyền thống tự hào đó, trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ
cứu nƣớc vô cùng gian khổ, từ vĩ tuyến 17 cho tới mũi Cà Mau, trên dải đất miền
Nam anh hùng, đâu đâu cũng xuất hiện những ngƣời mẹ, ngƣời chị, không chỉ
“chắc tay cày” mà còn luôn “chắc tay súng”, trực tiếp đấu tranh trên khắp các chiến
trƣờng miền Nam, góp sức cùng cả dân tộc thực hiện cho đƣợc lời dặn của Hồ Chủ
tịch “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất Tổ quốc.
Trong thực tiễn lãnh đạo, tổ chức của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục
miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ, bên cạnh những hạn chế,
khuyết điểm, đôi khi còn chƣa đi sâu vào phong trào quần chúng, chƣa kịp thời
chuyển hƣớng chỉ đạo cách mạng khi tình hình đã có nhiều thay đổi làm hạn chế
phong trào đấu tranh của phụ nữ, Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục
miền Nam đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ sát hợp, xác định đúng động lực, gắn
liền lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích của riêng giới phụ nữ, lực lƣợng cách
mạng, vạch ra đƣợc phƣơng pháp, hình thức đấu tranh phù hợp, đề ra khẩu hiệu
hành động kịp thời, chính xác, kết hợp chặt chẽ khẩu hiệu hành động với khẩu hiệu
tuyên truyền, kết hợp công tác tƣ tƣởng với công tác tổ chức nhằm động viên đông
đảo nhất lực lƣợng phụ nữ tham gia đấu tranh cách mạng.
Bám sát và vận dụng triệt để đƣờng lối cách mạng của Trung ƣơng Đảng,
Trung ƣơng Cục miền Nam và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam, đặc
biệt là đƣờng lối chiến tranh nhân dân với phƣơng châm đấu tranh “hai chân, ba mũi
98
giáp công, ba vùng chiến lƣợc”, chị em phụ nữ trở thành đội quân hùng hậu, xung
kích với những hình thức đấu tranh phong phú, linh hoạt trên mọi mặt trận, đấu
tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, công tác binh vận, trên khắp các chiến trƣờng từ
thành thị tới nông nông đồng bằng, miền núi, đập tan những âm mƣu hành động và
những chiến lƣợc chiến tranh hung bạo nhất của Mỹ - ngụy. Phụ nữ miền Nam đã
góp vai trò to lớn, chủ lực và xung kích nhất trong mũi đấu tranh chính trị, tận dụng
ƣu thế của mình trong công tác binh vận và chiến tranh du kích, vận dụng đầy trí tuệ
phƣơng châm ba mũi giáp công, góp phần làm nên thắng lợi trong khởi nghĩa từng
phần, góp phần cùng lực lƣợng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng làm nên thắng lợi
của Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, Tổng tiến công chiến lƣợc
năm 1972 và đỉnh cao là Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 với chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử…Từ những cá nhân đánh địch tự phát đến những phụ nữ đƣợc
tổ chức, rồi hình thành cả những trung đoàn, binh đoàn, sƣ đoàn,… “đội quân tóc
dài” là một sáng tạo độc đáo của cách mạng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nƣớc.
Không những đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang trực diện, làm tan rã hàng ngũ
kẻ thù, trên mặt trận đấu tranh ngoại giao, những tà áo dài Việt Nam tại các hội nghị
quốc tế cũng để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lòng bạn bè thế giới, hình ảnh những nữ
ngoại giao vừa mềm dẻo, duyên dàng lại vô cùng thông minh, sắc sảo khiến nhân
dân thế giới thực sự khâm phục. “Đội quân tóc dài” miền Nam thực sự trở thành
niềm kiêu hãnh của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Những hoạt động, những đóng góp to lớn của phụ nữ miền Nam trên các mặt
trận đấu tranh đã góp phần cổ vũ, động viên tinh thần đoàn kết, kiên cƣờng, bất
khuất và phong trào đấu tranh của chị em phụ nữ trên toàn thế giới. “Trƣớc đây,
không bao giờ tự hào rằng mình là phụ nữ, thì nay nhờ phụ nữ Việt Nam mà thấy tự
hào”.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc thần thánh với những gian khổ, hy
sinh, mất mát to lớn, là thời kỳ đầy đau thƣơng với máu và nƣớc mắt của biết bao
ngƣời phụ nữ Việt Nam, nhƣng cũng chính trong thời kỳ khó khăn ấy, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam đƣợc thể hiện rõ nét và mãnh liệt hơn
bao giờ hết, đó là thời kỳ phụ nữ miền Nam Việt Nam vùng dậy, cùng toàn dân tộc
99
viết nên bản hùng ca toàn thắng của dân tộc.
Đánh giá vai trò của phụ nữ Việt Nam, trong đó có phụ nữ miền Nam thành
đồng Tổ quốc, đồng chí Lê Duẩn, Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Trong bức tranh hùng vĩ của chiến tranh nhân
dân, đâu đâu cũng có phụ nữ, những người gan vàng dạ sắt không hề khiếp sợ,
không chịu cúi đầu, hiên ngang chiến đấu đến cùng để cứu nước, cứu nhà. Có thể
nói người phụ nữ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang là một trong
100
những hình ảnh đẹp nhất của con người Việt Nam trong thế hệ chúng ta” [29, tr.6].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (1985), Một số văn kiện
Đảng về chống Mỹ cứu nước, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:Thắng lợi và bài học, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Phụ nữ quân đội (1994), Nữ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, NXB
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
4. Ban Phụ vận, Dự thảo báo cáo chuyên đề về tình hình phong trào phụ nữ tham
gia chống phá bình định nông thôn của địch từ 1954 - 1974, Lƣu tại Bảo tàng
Phụ nữ Việt Nam.
5. Báo Nhân dân (1969), Đồng bào thành thị miền Nam đấu tranh đòi lật đổ
Thiệu – Kỳ - Hương, đòi lập lại hòa bình, số 5382, ra ngày 7/1.
6. Báo Nhân dân (1969), Hội nghị Pari về Việt Nam họp phiên đầu tiên, số 5394,
ra ngày 19/1.
7. Báo Nhân dân (1969), Nhật lệnh của bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân
dân giải phóng miền Nam, số 5420, ra ngày 14/2.
8. Báo Nhân dân (1969), Tội ác của Mỹ dùng vũ khí hóa học ở miền Nam từ
tháng 11/1968 đến tháng 5/1969, số 5518, ra ngày 24/5.
9. Báo Nhân dân (1969), Miền Nam sáu tháng đầu năm 1969, phong trào đấu
tranh chính trị phát triển mạnh, số 5597, ra ngày 11/8.
10. Báo Nhân dân (1970), Mỹ Tho, Cần Thơ, Bến Tre – Đồng bào thành thị tiếp
tục đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, số5777, ra ngày 9/2.
11. Báo Nhân dân (1970), Hội nghị cán bộ phụ nữ toàn miền Nam lần thứ ba biểu
dương thành tích to lớn của phong trào phụ nữ năm 1969, số5793, ra ngày
25/2.
12. Báo Nhân dân (1970), Bước phát triển mới của phong trào phụ nữ Việt Nam,
101
số 5805, ra ngày 9/3.
13. Báo Nhân dân (1971), Vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh chống
Mỹ, cứu nước, số 6193, ra ngày 6/4.
14. Báo Nhân dân (1971), Lính Mỹ đã tham gia chiến tranh ở Việt Nam biểu tình
phẫn nộ ném trả huân chương, huy chương trước thềm nhà quốc hội, kịch liệt
lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, số 6212, ra ngày 25/4.
15. Báo Nhân dân (1971), Thành thị miền Nam đấu tranh – những cuộc bãi công
tháng năm, số 6262, ra ngày 15/6.
16. Báo Nhân dân (1970), Họp báo tố cáo tội ác của Mỹ - ngụy ở Côn Đảo,
(1970), Báo Nhân dân, số 5932, ra ngày 15/7.
17. Báo Nhân dân (1971), Tiền tuyến lớn anh hùng: 6 tháng đầu năm 1971, chiến
tranh du kích giáng đòn mạnh mẽ vào kế hoạch “bình định” của Mỹ - ngụy, số
6299, ra ngày 23/7.
18. Báo Nhân dân (1971), Sài Gòn, phụ nữ biểu tình chống Mỹ - Thiệu, số 6352, ra
ngày 13/9.
19. Báo Nhân dân (1971), Tấm gương tuyệt vời anh dũng, bất khuất Lê Thị Hồng
Gấm, số 6368, ra ngày 29/9.
20. Báo Nhân dân (1971), Công nhân hãng phin Con Ó tố cáo bọn Thiệu và tiếp
tục bãi công, số 6437, ra ngày 7/12.
21. Báo Nhân dân (1972), 35 vạn lính Mỹ bỏ ngũ để phản đối chiến tranh xâm
lược Việt Nam, số 6503, ra ngày 11/2.
22. Báo Nhân dân (1972), Chiến công của “Đội quân tóc dài” trên mặt trận
chống “bình định”, số 6528, ra ngày 8/3.
23. Báo Nhân dân (1972), Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình gửi thư cho Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao nhiều nước không liên kết, tố cáo bước leo thang chiến tranh mới
của Mỹ ở Việt Nam, số 6583, ra ngày 2/5.
24. Báo Nhân dân (1972), Nữ nghệ sĩ Giên Phôn-đa: Chiến tranh xâm lược Việt
Nam là một tấn thảm kịch của nước Mỹ, số 6669, ra ngày 27/7.
25. Báo Nhân dân (1972), Bến Tre, hàng trăm binh sĩ bảo an ngụy đấu tranh bỏ
102
ngũ, số 6683, ra ngày 10/8.
26. Báo Nhân dân (1972), Hội nghị Pari về Việt Nam họp phiên toàn thể thứ 166,
số 6774, ra ngày 10/11.
27. Báo Nhân dân (1972), Sài Gòn khổ sở về vấn đề đào ngũ, số 6808, ra ngày
14/12.
28. Báo Nhân dân (1973), Nam Bộ xông lên quyết liệt trong đấu tranh chính trị, số
6847, ra ngày 22/1.
29. Báo Nhân dân (1973), Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình trở lại Pari, số 6849, ra
ngày 24/1.
30. Báo Nhân dân (1973), Thắng lợi lịch sử và cục diện mới của miền Nam, số
6854, ra ngày 29/1.
31. Báo Nhân dân (1973), Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về việc cính quyền Sài Gòn vi phạm
nghiêm trọng hiệp định Pari, số 6866, ra ngày 11/2.
32. Báo Nhân dân (1973), Trung Nam Bộ, hàng triệu đồng bào và binh sĩ quân đội
Sài Gòn sôi nổi đấu tranh và trở về vùng giải phóng, số 6871, ra ngày 16/2.
33. Báo Nhân dân (1973), Hoạt động của Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình tại Pari, số
6883, ra ngày 28/2.
34. Báo Nhân dân (1973), Mỹ Tho, bất chấp lựu đạn cay, đồng bào xã Tân Hợi
cản xe M.113 đi càn quét, số 6888, ra ngày 5/3.
35. Báo Nhân dân (1973), Theo tiếng gọi của hòa bình, độc lập, dân chủ và hòa
hợp dân tộc: từ 28/1 đến 8/2, hơn 4000 binh sĩ Sài Gòn ở Tây Nam Bộ bỏ ngũ,
25 đơn vị tiểu đoàn và đại đội phản chiến tập thể, số 6888, ra ngày 5/3.
36. Báo Nhân dân (1973), Lên án Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định
Pari, số 6891, ra ngày 8/3.
37. Báo Nhân dân (1973), Chị em từ các nhà tù Mỹ - Thiệu chiến thắng trở về
tưng bừng tổ chức kỷ niệm ngày 8/3, số 6895, ra ngày 12/3.
38. Báo Nhân dân (1973), Đấu tranh đòi chính quyền Sài Gòn thi hành hiệp định
Pari, đồng bào Bến Tre đòi trả tự do cho những người yêu nước, chống hành
103
quân khủng bố, số 6913, ra ngày 30/3.
39. Báo Nhân dân (1973), Nhân dân thế giới lên án Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi
phạm nghiêm trọng hiệp định Pari, số 6913, ra ngày 30/3.
40. Báo Nhân dân (1973), Một phụ nữ Mỹ: Nhân dân Việt Nam tượng trưng cho
tinh thần nhân đạo mới, số 6920, ra ngày 6/4.
41. Báo Nhân dân (1973), Sức mạnh đấu tranh chính trị, số 6932, ra ngày 18/4.
42. Báo Nhân dân (1973), Bến Tre: Gần 375.000 đồng bào tham gia hàng nghìn
cuộc đấu tranh, (1973), số 6966, ra ngày 23/5.
43. Báo Nhân dân (1973), Tại Bến Tre, gần 375.000 đồng bào tham gia hàng
nghìn cuộc đấu tranh, số 6966, ra ngày 23/5.
44. Báo Nhân dân (1973), Đòi Thiệu thi hành ngay điều 11 Hiệp định Pari, số
7010, ra ngày 6/7.
45. Báo Nhân dân (1973), Hơn 300 công nhân Sài Gòn – Gia Định bãi công, số
7022, ra ngày 18/7.
46. Báo Nhân dân (1973), Miền Nam nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, số
7059, ra ngày 25/8.
47. Báo Nhân dân (1973), Trung Nam Bộ, 20 ngày đầu tháng 9, hàng vạn đồng
bào sôi sục đấu tranh chống địch, (1972), Báo Nhân dân, số 6742, ra ngày
9/10.
48. Báo Nhân dân (1973), Nam Bộ kiên cường, số 7148, ra ngày 23/11.
49. Báo Nhân dân (1974), Bà Ngô Bá Thành tố cáo Mỹ - Thiệu vi phạm Hiệp định
Pari, âm mưu bóp chết thành phần thứ ba, số 7215, ra ngày 30/1.
50. Báo Nhân dân (1974), Nụ cười Võ Thị Thắng, số 7288, ra ngày 13/4.
51. Báo Nhân dân (1974), Miền Nam, đồng bào thành thị đẩy mạnh đấu tranh vì
dân sinh, dân chủ, số 7378, ra ngày 13/7.
52. Báo Nhân dân (1975), Hàng vạn phụ nữ các nước đòi quyền bình đẳng và ủng
hộ Việt Nam nhân ngày 8/3 trên thế giới, số 7616, ra ngày 11/3.
53. Lê Quang Bình (9/2009), Tiểu đội 11 cô gái sông Hương, Tạp chí Lịch sử
quân sự, số 213, tr39-40.
54. Bộ Quốc phòng (1996), Chiến tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến
104
chống Mỹ cứu nước 1954-1975, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
55. Bộ tổng tham mƣu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chuyên đề kết hợp đấu tranh hai chân, ba
mũi giáp công trên ba vùng chiến lược trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ
tại địa bàn quân khu 9 1954-1975, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
56. Câu lạc bộ truyền thống thành Đoàn (2012), Đội thanh niên cận vệ Sài Gòn,
NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
57. Kim Văn Chiến (2013), Nữ thanh niên xung phong Việt Nam trong đấu tranh
chiến tranh chống Mỹ, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 1, tr41-50.
58. Quỳnh Cƣ (1980), Tìm hiểu đội quân chính trị của quần chúng trong cách
mạng miền Nam 1945-1975, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3/1980.
59. Lê Duẩn (1960), Phải đứng trên quan điểm giai cấp mà nhận xét vấn đề phụ
nữ, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
60. Lê Duẩn (1974), Vai trò và nhiệm vụ của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn
mới của cách mạng, NXB Sự thật, Hà Nội.
61. Lê Duẩn (1986), Thư vào Nam, NXB Sự Thật, Hà Nội.
62. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 30, NXB
Chínhtrị Quốc gia, Hà Nội.
63. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 31, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 32, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 33, NXB
Chínhtrị Quốc gia, Hà Nội.
66. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 34, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004) Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, NXB. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, NXB Chính
105
trị quốc gia, Hà Nội,
69. Đẩy mạnh công tác phụ vận nhằm phát huy hơn nữa vai trò và khả năng cách
mạng của quần chúng phụ nữ trong tình hình mới,(1968), Chỉ thị số 52/CTNT,
ngày 2/12/1968, MI.2102.
70. Ga brien Côn cô, Nguyễn Tấn Cƣu dịch (1991), Giải phẫu một cuộc chiến
tranh Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại, tập 1, NXB Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
71. Ga brien Côn cô, Nguyễn Tấn Cƣu dịch (1991), Giải phẫu một cuộc chiến
tranh Việt Nam, Mỹ và inh nghiệm lịch sử hiện đại, tập 2, NXB Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
72. Trần Văn Giàu (1978), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 5, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
73. Trần Hậu, Vũ Đức Hoạt, Nguyễn Huy Hoan (2005), Biên niên sự kiện lịch sử
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Vũ Thị Thuý Hiền (2004), Phụ nữ miền Nam trong đấu tranh chính trị thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Luận án Tiến sĩ Lịch sử:
5.03.15, Hà Nội, Lƣu tại Thƣ viện quốc gia Việt Nam.
75. Trần Thị Hoạt (2006), Phụ nữ miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí
Toàn cảnh – Sự kiện – Dƣ luận, số 195, tr24-25.
76. Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng
(2010), Lịch sử đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng nhà tù Côn
Đảo 1862-1975, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Lịch sử Nam Bộ
kháng chiến, tập 2, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
78. Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam: Nghị quyết công tác
năm 1969 của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt
Nam, Lƣu tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam.
79. Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam: Báo cáo tình hình
phong trào phụ nữ miền Nam năm 1973 (Từ khi có Hiệp định Paris về Việt
106
Nam), Tài liệu lƣu tại Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ.
80. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ra lời kêu gọi phụ nữ thế giới Nhân ngày quốc
tế phụ nữ 8/3/1970, (1970), Báo Nhân dân, số5800, ra ngày 4/3.
81. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1981), Lịch sử phong trào phụ nữ, tập 2,
NXB Phụ nữ, Hà Nội.
82. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1999), Phụ nữ Nam Trung Bộ trong sự
nghiệp kháng chiến cứu nước (1930-1975), NXB Đà Nẵng.
83. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2007), Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước, NXB Văn hóa – thông tin, Hà
Nội.
84. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Bến Tre (2000), Phụ nữ Bến Tre, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh.
85. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Bình Định (Tháng 4/2000), Phụ nữ Bình Định trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Quy Nhơn.
86. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Cà Mau (tháng 7/2000), Truyền thống cách mạng
của phụ nữ Cà Mau trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, NXB Cà Mau, Cà Mau.
87. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Gia Lai (2002), Lịch sử phong trào phụ nữ Gia Lai
(1930-2000), Gia Lai.
88. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Lâm Đồng (tháng 10/2000), Lịch sử phong trào phụ
nữ Lâm Đồng (1930-2000), Lâm Đồng.
89. Hội liên hiệp phụ nữ Long An (2003), Phụ nữ Long An - Lịch sử và truyền
thống, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
90. Hội Liên hiệp phụ nữ Quảng Nam – Đà Nẵng (1995), Lịch sử phong trào phụ
nữ Quảng Nam – Đà Nẵng, Đà Nẵng.
91. Hội liên hiệp phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, Ban sử truyền thống (1987),
Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới lá cờ vẻ vang của Đảng
1954-1985, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
92. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Trà Vinh (2010), Lịch sử đấu tranh cách mạng của
phụ nữ tỉnh Trà Vinh 1930-1975, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền (1996), NXB Sự thật, Hà Nội.
107
94. Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ, (1986), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
95. Hà Minh Hồng (2000), Phong trào chống phá bình định vùng nông thôn ở
Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1969-1972, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
96. Đỗ Quốc Hùng, Trần Quang Huy, Nguyễn Đình Thống (1996), Nhà tù Côn
Đảo (1955-1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
97. Karen Gottschang Turner và Phan Thanh Hảo (2000), Giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
98. Nguyễn Thị Ngọc Lâm (2001), Phụ nữ quân đội trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện sử học, Hà
Nội.
99. Lịch sử đặc công miền Đông Nam Bộ 1945-1975, (1997), NXB Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
100. Dƣơng Linh, Lâm Phƣợng, Bích Lâm (2015), Những người con thành đồng tổ
quốc của miền Nam anh hùng, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
101. Cao Văn Lƣợng (1985), Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
thành quả tổng hợp sức mạnh cả nước, của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tháng 2/1985.
102. Mác-Ăngghen-Lênin với vấn đề giải phóng phụ nữ, (1970), NXB Sự thật, Hà
Nội.
103. Mađơlen Rípphô (1965), Hai tháng với các chiến sĩ Nam Việt Nam, NXB Văn
hóa, Hà Nội.
104. Maicơn Maelia (1996), Việt Nam - cuộc chiến tranh 10 ngàn ngày, NXB Sự
thật, Hà Nội.
105. Mấy kinh nghiệm về tổ chức xây dựng các trung đội nữ, CT.1357
106. Mônica Valenxca (1984), Trên đất miền Nam, Bút ký, NXB Văn nghệ Giải
phóng.
107. Nghị quyết của Hội nghị tổng kết công tác phụ vận họp từ 8-11/12/1971 (đƣợc
Ban Bí thƣ thông qua).
108
108. Nhiều tác giả (2009), Ký ức như huyền thoại, tập 2, NXB Trẻ, Hà Nội.
109. Nhiều tác giả (2011), Những bông hoa nơi ngục tù Côn Đảo, NXB Phụ nữ, Hà
Nội.
110. Những nữ anh hùng miền Nam, (1969), NXB Phụ nữ, Hà Nội.
111. Những văn kiện Đảng về công tác phụ nữ, (1979), NXB Phụ nữ, Hà Nội.
112. Nguyễn Trọng Phúc, Võ Ngọc Minh, Nguyễn Đình Thống (2013), Lịch sử đấu
tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng nhà tù Côn Đảo (1862-1975),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
113. Phụ nữ miền Nam Việt Nam bất khuất, (1967), NXB Phụ nữ, Hà Nội.
114. Phan Quang, Nguyễn Thị Định, Thanh Giang, Trầm Hƣơng (2010), Bến Tre
đồng khởi và đội quân tóc dài, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Văn Tạo (1966), Tìm hiểu mối quan hệ giữa “2 mặt đấu tranh chính trị và
quân sự” và “3 mũi giáp công” trong phong trào cách mạng Việt Nam, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 89/1966.
116. Bùi Đình Thanh (1994), Cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam với sự kết hợp
chặt chẽ đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, tháng 7/1994.
117. Bích Thuận (1992), Nữ chiến sĩ rừng dừa, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, Hà Nội.
118. Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam
Bộ kháng chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
119. Tổ Sử Phụ nữ Nam Bộ, Giáo sƣ Trần Văn Giàu hiệu đính (1989), Truyền
thống cách mạng của phụ nữ Nam Bộ thành đồng, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh.
120. Lê Thị Nhâm Tuyết (1975), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
121. Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Lịch sử
biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ
109
cứu nước (1954 - 1975), tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
123. Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954 - 1975), tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
124. Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954 - 1975), tập 8, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
125. Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ
110
cứu nước (1954 - 1975), tập 9, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
Bản đồ địa lý hành chính miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)
Nguồn: website http://www.vnmilitaryhistory.info/quansuvnch/lichsuquansuvn.htm
Phụ lục 2:
Những hình ảnh tiêu biểu cho phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam Việt Nam trong
những năm 1969 -1975
Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ
Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng
Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng
phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ
chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
Nam Bộ kháng chiến, NXB Chính trị quốc
gia – Sự thật.
Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng
Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ
phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ
Nam Bộ kháng chiến, NXB Chính trị quốc
Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng
chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
gia – Sự thật.
Đấu tranh của học sinh, sinh viên
Nguồn:
Nguồn: Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
http://www.baotangphunu.com/index.php?option=c
(1999), Phụ nữ Nam Trung Bộ trong sự
om_qtvm&view=detail&layout=detail&id=88&Ite
nghiệp kháng chiến cứu nước 1930-1975,
mid=80
NXB Đà Nẵng.
Nguồn: Hội liên hiệp phụ nữ thành phố Hồ Chí
Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ
Minh (1987), Phong trào phụ nữ thành phố Hồ
Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng
Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng
chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
(1954-1985), NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
tr245
Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ
Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ
nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ
Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng
kháng chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự
chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
thật.
Nguồn: Báo Nhân dân, số 5890, ra ngày
Tại cuộc mít tinh chống Mỹ - Thiệu tại chùa Ấn
3/6/1970, tr4
Quang (Sài Gòn), một đại biểu phụ nữ đốt thẻ cử
tri tỏ thái độ phản đối trò hề bầu cử.
Nguồn: Báo Nhân dân, số 6358, ra ngày
19/9/1971, tr4
Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ
Nữ tự vệ thành phố Sài Gòn tham gia đánh
Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng
địch trên từng góc phố
chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
Nguồn: http://www.baomoi.com/Phu-nu-Sai-
Gon--Gia-Dinh-trong-chien-dich-Tet-Mau-
Than-1968/121/10308551.epi
Nguồn: Báo Nhân dân, số 6362, ra ngày
Nguồn: Báo Nhân dân, số 6364, ra ngày
23/9/1971, tr4
25/9/1971, tr4
Công tác binh vận ở Phú Yên
Nụ cƣời chị Võ Thị Thắng
Nguồn: http://news.zing.vn/Nhung-buc-anh-
Nguồn:
gan-voi-cuoc-doi-nu-cuoi-Vo-Thi-Thang-
http://www.baotangphunu.com/index.php?opti
on=com_qtvm&view=detail&layout=detail&i
post450049.html
d=88&Itemid=80
Đơn vị nữ pháo binh Long An đƣợc lệnh hành
quân vào nội đô tham gia bắn pháo vào các
Nguồn: http://www.baomoi.com/Phu-nu-Sai-
mục tiêu của địch
Gon--Gia-Dinh-trong-chien-dich-Tet-Mau-Than-
Nguồn: http://www.baomoi.com/Phu-nu-Sai-
1968/121/10308551.epi
Gon--Gia-Dinh-trong-chien-dich-Tet-Mau-
Than-1968/121/10308551.epi
Đội nữ du kích Củ Chi
Bà Nguyễn Thị Út - Anh hùng lực lƣợng vũ
Nguồn:
trang nhân dân cùng gia đình
http://www.baotangphunu.com/index.php?opti
Nguồn: http://antt.vn/phu-nu-viet-nam-anh-
on=com_qtvm&view=detail&layout=detail&i
hung-bat-khuat-trung-hau-dam-dang-
d=88&Itemid=80
017138.html
Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ Nam
Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, NXB
Nguồn: Báo Nhân dân, số 5489, ra ngày
Chính trị quốc gia – Sự thật.
24/4/1969.
Tổ săn máy bay quân du kích Quảng Trị
Nguồn: Báo Nhân dân, số 5804, ra ngày
Nguồn: Báo Nhân dân, số 5784, số ra ngày
8/3/1970, tr3
16/2/1970, tr3
Nguồn: Báo Nhân dân, số 6283, ra ngày
Nguồn: Báo Nhân dân, số 5806, ra ngày
6/7/1971, tr3
10/3/1970, tr1
Nguồn: Hội liên hiệp phụ nữ thành phố Hồ Chí
Minh (1987), Phong trào phụ nữ thành phố Hồ
Nguồn: Báo Nhân dân, số 6556, ra ngày
Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng
5/4/1972, tr3
(1954-1985), NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
tr305
Quang cảnh lễ ký Hiệp định Paris
Nguồn:
Nguồn: http://www.baomoi.com/Phu-nu-Sai-
http://www.baotangphunu.com/index.php?optio
Gon--Gia-Dinh-trong-chien-dich-Tet-Mau-
n=com_qtvm&view=detail&layout=detail&id=
Than-1968/121/10308551.epi
88&Itemid=80