ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------

LƢU THỊ MAI LIÊN

TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH ĐẠO

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ

TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------

LƢU THỊ MAI LIÊN

TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH ĐẠO

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ

TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1975

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 03 15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hiển

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo phong

trào đấu tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1975” là công trình nghiên cứu

của riêng tôi. Các tƣ liệu trong luận văn đƣợc sử dụng và chú thích nguồn trung

thực.

Hà Nội, ngày 5 tháng 8 năm 2015

Tác giả

Lƣu Thị Mai Liên

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Vũ Quang Hiển đã tận tâm định hƣớng

cho tôi ngay từ những ngày đầu thực hiện luận văn. Những góp ý, chia sẻ, nhận xét

của thầy là động lực và tiền đề quan trọng giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn những ngƣời thân trong gia đình đã tạo điều kiện

cho tôi cả về vật chất và tinh thần. Trân trọng cảm ơn quý thầy cô trong và ngoài

khoa Lịch sử, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp tôi hoàn thành

khóa học. Chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên tôi trong suốt

thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.

Tác giả

Lƣu Thị Mai Liên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 2

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn ........................................................................... 6

4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................ 7

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 8

6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 9

7. Bố cục luận văn ..................................................................................................... 10

Chƣơng 1 SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM ĐỐI VỚI

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1973 ... 11

1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Trung ƣơng Cục miền Nam .................. 11

1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................... 11

1.1.2. Chủ trương của Đảng và Trung ương Cục miền Nam .................................... 12

1.2. Sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam với phong trào đấu tranh của

phụ nữ ....................................................................................................................... 17

1.2.1. Chỉ đạo đấu tranh chống chương trình “bình định” của Mỹ và chính quyền

Sài Gòn ở nông thôn .................................................................................................. 17

1.2.2. Chỉ đạo phong trào đấu tranh trong các đô thị miền Nam ............................. 20

1.2.3. Chỉ đạo phong trào binh vận, địch vận của phụ nữ miền Nam ...................... 25

1.2.4. Chỉ đạo phong trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ miền Nam ...................... 27

1.2.5. Chỉ đạo phong trào đấu tranh của các nữ tù chính trị tại các nhà tù đế quốc ......... 30

1.2.6. Chỉ đạo phong trào đấu tranh ngoại giao của phụ nữ miền Nam .................... 32

Tiểu kết ..................................................................................................................... 36

Chƣơng 2 TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ MIỀN NAM TỪ NĂM 1973

ĐẾN NĂM 1975 ....................................................................................................... 37

2.1. Đặc điểm tình hình và chủ trƣơng mới của Đảng ......................................... 37

2.1.1. Đặc điểm tình hình .......................................................................................... 37

2.1.2. Chủ trương của Đảng và Trung ương Cục miền Nam .................................... 38

2.2. Sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam đối với phong trào đấu tranh

của phụ nữ................................................................................................................ 44

2.2.1. Chỉ đạo phong trào phụ nữ đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari ............... 44

2.2.2. Chỉ đạo đẩy mạnh công tác binh vận của phụ nữ miền Nam ......................... 51

2.2.3. Chỉ đạo hoạt động ngoại giao của phụ nữ miền Nam .................................... 52

2.2.4. Chỉ đạo phong trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ miền .............................. 56

2.2.5.Chỉ đạo phụ nữ miền Nam tham gia tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân

1975 .......................................................................................................................... 57

Tiểu kết ..................................................................................................................... 62

Chƣơng 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ....................................................... 63

3.1. Nhận xét ............................................................................................................ 63

3.1.1. Ưu điểm ........................................................................................................... 63

3.1.2. Hạn chế ............................................................................................................ 83

3.2. Kinh nghiệm lịch sử ......................................................................................... 88

3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục để giác ngộ phụ nữ về tính chất chính

nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đường lối cách mạng của

Đảng, Trung ương Cục miền Nam ............................................................................ 88

3.2.2. Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, tăng cường chỉ đạo phong trào đấu tranh

của phụ nữ theo phương châm “hai chân, ba mũi giáp công” ....................................... 90

3.2.3. Tăng cường xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh .............. 93

3.2.4. Tăng cường chỉ đạo và phát huy vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng

miền Nam Việt Nam nhằm động viên, tổ chức phụ nữ tham gia đấu tranh .............. 94

Tiểu kết ..................................................................................................................... 97

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 101

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của nhân dân Việt Nam kéo dài 21

năm (1954-1975) đã kết thúc thắng lợi vào mùa xuân 1975. Thắng lợi oanh liệt này

“mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất,

một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và

trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ

XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”, nhận

định trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ IV (1976). Bởi vậy kể từ khi cuộc kháng chiến kết thúc,

chiến thắng vĩ đại này đã, đang và chắc chắn sẽ còn là chủ đề lớn có sức lôi cuốn

mạnh mẽ của giới chính trị, quân sự, cũng nhƣ các nhà sử học trong và ngoài nƣớc.

Từ nhiều góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu lý do tại sao Việt

Nam – một đất nƣớc nhỏ bé, thua kém đối phƣơng về tiềm lực và sức mạnh kinh tế,

quân sự lại có thể đƣơng đầu và đánh bại ý chí xâm lƣợc của Mỹ - một cƣờng quốc

của thế kỷ XX.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của nhân dân Việt Nam

do những nguyên nhân chủ quan và khách quan tạo nên, nhƣng trên hết và trƣớc hết

đó là thắng lợi của trí tuệ con ngƣời Việt Nam, đội tiên phong là Đảng Cộng sản

Việt Nam với hệ tƣ tƣởng và đƣờng lối cách mạng đúng đắn, khoa học. Từ tình hình

cụ thể của cách mạng hai miền, đặc biệt là cách mạng miền Nam, Trung ƣơng Đảng

và đặc biệt là Trung ƣơng Cục miền Nam đã nhận thức rõ vai trò, vị trí của các giới,

các giai cấp, tầng lớp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Trong đó, phụ

nữ - một nửa dân số, là lực lƣợng cách mạng to lớn cần đƣợc tập hợp và tổ chức sâu

rộng. Cùng với hậu phƣơng lớn miền Bắc, trên tiền tuyến lớn anh hùng, phụ nữ

miền Nam là lực lƣợng cơ bản, là hạt nhân của đội quân chính trị hùng hậu, đã vận

dụng linh hoạt và sáng tạo phƣơng châm “hai chân”, “ba mũi”, vừa đấu tranh trực

diện với địch, vừa tranh thủ làm công tác binh vận, tạo thời cơ diệt ác, trừ gian,

tham gia tổng tiến công nổi dậy, góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của dân

1

tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất nƣớc nhà. Quả thật, “Đội quân tóc dài” là

“một nét độc đáo của cách mạng miền Nam, một lực lượng cách mạng mạnh mẽ và

hùng hậu, chứng minh khả năng vô cùng to lớn của phụ nữ nước ta. Đó là kết quả

của đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn do Đảng ta đề ra; đồng thời là

kết tinh truyền thống bất khuất của dân tộc Việt nam, của phụ nữ Việt Nam” [61,

tr.165-166].

Chính vì vậy, tìm hiểu, nghiên cứu để làm rõ sự lãnh đạo của Trung ƣơng

Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ

nữ miền Nam và vai trò, vị trí cũng nhƣ những đóng góp cụ của phụ nữ là một việc

làm cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

Để góp phần nghiên cứu sâu hơn đƣờng lối lãnh đạo của Đảng, Trung ƣơng

Cục miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ trong kháng chiến chống

Mỹ cứu nƣớc, tôi chọn đề tài “Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo phong trào đấu

tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1975” làm luận văn thạc sĩ của mình, nhằm

nghiên cứu kỹ hơn đƣờng lối lãnh đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam đối với

phong trào đấu tranh của phụ nữ trên các mặt trận chính trị, quân sự, binh vận và

ngoại giao từ năm 1969 đến năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bƣớc vào

giai đoạn cuối với tình thế có nhiều chuyển biến, khó khăn và phức tạp hơn trƣớc.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong nhiều năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nƣớc đƣợc xuất bản trong và ngoài nƣớc. Trong các công trình đó,

có tác phẩm nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể về cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nƣớc, có tác phẩm nghiên cứu từng vấn đề, từng thời kỳ của sự kiện lịch sử

trọng đại này. Trong các công trình nghiên cứu chung về cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nƣớc, lực lƣợng phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ miền Nam đƣợc đề cập đến nhƣ

một phần, một bộ phận của lực lƣợng cách mạng đông đảo của cả dân tộc.

Cụ thể, trong các tập Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Viện lịch

sử quân sự - Bộ Quốc Phòng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990 và Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội,1996, 1997; “Việt Nam những sự kiện lịch sử 1954-1975”, Viện Sử học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002… sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục

2

miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ đƣợc đề cập đến trong sự phát

triển chung của phong trào cách mạng Việt Nam với một số sự kiện cụ thể, những

tấm gƣơng tiêu biểu trong thực tiễn đấu tranh.

Bên cạnh đó phải kể đến một số cuốn sách chuyên khảo về phụ nữ Việt Nam

và vai trò của họ trong công cuộc giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc hàng ngàn

năm lịch sử, trong đó, một phần đề cập đến vai trò của phụ nữ trong giai đoạn vẻ

vang này.

Nghiên cứu về phụ nữ nói chung, trƣớc hết phải kể đến cuốn sách “Phụ nữ

Việt Nam qua các thời đại” của tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội, 1973, với những tƣ liệu đƣợc chắt lọc, tác giả đã dựng lại quá trình tham

gia và những đóng góp của phụ nữ Việt Nam từ thời nguyên thủy đến năm 1968

trên tất cả các lĩnh vực. Đây là cuốn sách khảo sát về vai trò, vị trí của phụ nữ Việt

Nam suốt mấy nghìn năm lịch sử, cho nên tác giả không thể trình bày sâu và đầy đủ

về những đóng góp của lực lƣợng phụ nữ trong từng thời kỳ, từng lĩnh vực cụ thể.

Hơn nữa, cuốn sách chỉ dừng lại ở mốc thời gian năm 1968.

Năm 1980 và năm 1981, Nxb Phụ nữ cho ra mắt bạn đọc cuốn “Lịch sử

phong trào phụ nữ Việt Nam”. Đây là công trình nghiên cứu của tập thể cán bộ nữ,

do đồng chí Nguyễn Thị Thập làm chủ biên. Cuốn sách gồm hai tập đã trình bày có

hệ thống các hoạt động của phụ nữ nói chung và những phụ nữ có ảnh hƣởng nhất

định trong lịch sử nƣớc nhà. Mặc dù tập 2 của cuốn sách dành để trình bày về phong

trào phụ nữ Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975, trong cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nƣớc, song đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam, cuốn sách

chƣa có điều kiện đi sâu khảo sát.

Đề cập tới phong trào phụ nữ ở từng địa bàn cụ thể không thể không nhắc tới

cuốn “Truyền thống cách mạng của phụ nữ Nam Bộ thành đồng” do Tổ sử phụ nữ

Nam bộ viết, Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ xuất bản năm 1989. Cuốn sách trình bày khá

đầy đủ và chi tiết về truyền thống kiên cƣờng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của

phụ nữ Nam Bộ từ xƣa đến nay. Cuốn sách dành phần thứ 4 (từ trang 197 đến trang

518) để viết về phụ nữ Nam Bộ đấu tranh chống Mỹ - ngụy (1954-1975), trong đó

có nhiều trang viết về phụ nữ trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đặc

3

biệt trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 và Tổng tiến công và nổi

dậy xuân 1975. Tuy nhiên, vì trình bày về phong trào phụ nữ Nam Bộ trong một

thời gian dài (từ xƣa đến 1976) nên cuốn sách chƣa tập trung nghiên cứu phong trào

đấu tranh của phụ nữ trên khắp miền Nam giai đoạn 1969-1975.

Năm 1999, Nxb Đà Nẵng cho ra mắt bạn đọc cuộc sách Phụ nữ Nam Trung

Bộ trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước (1930-1975) do Hội Liên hiệp phụ nữ

Việt Nam và tập thể các cán bộ lãnh đạo phong trào phụ nữ Khu. Công trình đã nêu

đƣợc những tấm gƣơng, những sự kiện tiêu biểu, phản ánh tƣơng đối đầy đủ về các

lĩnh vực hoạt động của phong trào phụ nữ Nam Trung Bộ từ khi thành lập Đảng

(1930) đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (1975), đặc

biệt về những đóng góp to lớn của phụ nữ Nam Trung Bộ trong cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lƣợc. Trong phần thứ ba của cuốn sách (từ

trang 221 đến trang 463) các tác giả đã đi sâu trình bày một cách tƣơng đối có hệ

thống về những hoạt động của phong trào phụ nữ các tỉnh Nam Trung Bộ trong thời

kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, từ đấu tranh đòi thi hành hiệp định Giơnevơ,

chống “tố cộng, diệt cộng” đến cao trào “Đồng khởi”, góp phần đánh bại các chiến

lƣợc “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”, và

làm nên thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Ngoài ra còn một số công trình viết về phong trào phụ nữ trên từng địa bàn

tỉnh, thành phố nhƣ “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ

vang của Đảng (1954-1985)”, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1987; “Phụ nữ Sông Bé 45

năm đấu tranh giải phóng (1930-1945)” của tác giả Cao Hùng, Nxb Tổng hợp Sông

Bé, 1991, Lịch sử phong trào phụ nữ Quảng Nam-Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, 1995;

Phụ nữ Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Quy Nhơn,

tháng 4-2000; Truyền thống cách mạng của phụ nữ Cà Mau trong thời kỳ chống

Mỹ, cứu nước, Nxb Mũi Cà Mau, tháng 7-2000... do Hội liên hiệp phụ nữ các tỉnh

biên soạn. Trong các cuốn sách trên, có thể tìm thấy một số sự kiện về phong trào

phụ nữ ở từng địa phƣơng trong chiến đấu bên cạnh những hoạt động sản xuất, phục

vụ chiến đấu.

Nghiên cứu về mặt mạnh nổi bật của phụ nữ miền Nam trong kháng chiến

4

chống Mỹ, đấu tranh chính trị, nhiều cuốn sách khác đã tập trung tìm hiểu phong

trào phụ nữ miền Nam trong đấu tranh chống chƣơng trình bình định của Mỹ và

chính quyền Sài Gòn nhƣ, “Lịch sử đấu tranh cách mạng của phụ nữ tỉnh Trà Vinh

(1930-1975)” của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Trà Vinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2010, hay “Phong trào chống phá bình định vùng nông thôn ở Nam Bộ trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: giai đoạn 1969-1972”, Hà Minh Hồng, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000… Các tác phẩm trên đã cung cấp một số tƣ liệu

nhất định về phong trào đấu tranh chính trị, công tác binh vận của phụ nữ phục vụ

cho việc nghiên cứu nhƣng những cuốn sách trên chỉ trình bày một mảng trong

phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam, mặc dù phong trào đấu tranh chính trị

là mũi đấu tranh mạnh mẽ và tiêu biểu nhất. Về phạm vi không gian nghiên cứu, các

tác phẩm mới chỉ mới dừng lại ở 1 tỉnh (Trà Vinh), 1 vùng (Nam Bộ) nhất định.

Ngoài những cuốn sách lịch sử viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc

đã đƣợc xuất bản ở Trung ƣơng và địa phƣơng nhƣ đã nêu trên, còn phải kể đến một

số bài viết đƣợc đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành nhƣ bài viết “Đội quân tóc

dài” cầm súng của tác giả Nguyễn Hữu Vị đƣợc đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự,

tháng 3-2006, “Tìm hiểu đội quân chính trị của quần chúng trong cách mạng miền

Nam 1945-1975” của tác giả Quỳnh Cƣ, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử,

tháng 3-1980 hay “Phụ nữ miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ” của tác giả

Trần Thị Hoạt, đăng trên Tạp chí Toàn cảnh – Sự kiện – Dƣ luận, số 195-2006…

Những công trình, những bài viết trên tuy không trình bày đầy đủ và chi tiết về sự

lãnh đạo của Đảng, Trung ƣơng Cục với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền

Nam trong kháng chiến chống Mỹ nhƣng lại đƣa ra một số những nhận định, đánh

giá có giá trị về một số mặt của phong trào phụ nữ miền Nam nói chung.

Bên cạnh những tác phẩm, những bài viết nêu trên còn có một số những công

trình nghiên cứu về phong trào phụ nữ, nhƣ luận án tiến sĩ lịch sử “Phụ nữ miền

Nam trong đấu tranh chính trị thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975”

của tác giả Vũ Thị Thúy Hiền, Hà Nội, 2004, lƣu tại Thƣ viện quốc gia Việt Nam,

hay luận án tiến sĩ “Phụ nữ quân đội trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu

nước (1954-1975)” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lâm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà

5

Nội, 2001, lƣu tại Thƣ viện quốc gia Việt Nam… Các công trình trên cung cấp một

số tƣ liệu về phong trào đấu tranh trên một hoặc một số mặt trận đấu tranh cụ thể

nhƣ chính trị, binh vận, vũ trang của phụ nữ miền Nam từ năm 1954 đến năm 1975.

Nhƣ vậy, cho đến nay, chƣa có công trình nào nghiên cứu riêng, đầy đủ và có

hệ thống về sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục miền

Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nƣớc giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1975. Do đó, để thực hiện luận văn, ngoài

việc tham khảo những tác phẩm, công trình nghiên cứu đã đƣợc công bố và xuất

bản, tác giả luận văn còn phải sƣu tầm, tập hợp và hệ thống hóa các tài liệu, khai

thác nguồn tài liệu nội bộ hiện đƣợc lƣu trữ tại bộ phận tƣ liệu thuộc Văn phòng

Trung ƣơng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Bảo tàng phụ nữ Việt Nam và Thƣ

viện quốc gia Việt Nam.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Làm sáng tỏ quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng, Trung

ƣơng Cục miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, đặc biệt là chủ

trƣơng trong công tác vận động, phát triển phong trào đấu tranh của phụ nữ miền

Nam Việt Nam từ năm 1969 đến năm 1975. Từ đó, góp phần làm sáng tỏ những

đóng góp to lớn của phụ nữ miền Nam trong đấu tranh từ năm 1969 đến năm 1975.

3.2. Nhiệm vụ

Trình bày những chủ trƣơng, đƣờng lối, biện pháp lãnh đạo phong trào đấu

tranh của phụ nữ miền Nam của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam trên

mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, công tác binh vận và hoạt động

ngoại giao.

Rút ra một số nhận xét về đƣờng lối vận động, lãnh đạo, tổ chức phong trào

đấu tranh của phụ nữ của Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam từ năm

1969 đến năm 1975. Đồng thời, rút ra đƣợc một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa

to lớn trong việc vận động, tổ chức phong trào phụ nữ trong kháng chiến chống Mỹ

6

cứu nƣớc, từ đó vận dụng vào công tác phụ vận trong tình hình hiện nay.

4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tài liệu

Nghiên cứu phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam từ năm 1969 đến năm

1975 là một vấn đề khó, để thực hiện đề tài này, tác giả luận văn đã khai thác và sử

dụng các nguồn tài liệu sau:

- Các văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, của Trung ƣơng Cục miền

Nam Việt Nam, các bài viết, các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà

nƣớc về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, về cách mạng miền Nam và về

phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam thời kỳ 1969 – 1975 trong các tác phẩm

“Văn kiện Đảng toàn tập” từ tập 30 đến tập 36, do nhà xuất bản Chính trị quốc gia

phát hành, “Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-

1975) ” của các tác giả Trịnh Nhu, Trần Tình, Nguyễn Văn Lanh, do Nxb Chính trị

quốc gia phát hành, Hà Nội, 2008 và qua việc khảo sát báo Nhân dân từ năm 1969

đến năm 1975.

- Các tác phẩm, công trình nghiên cứu, tổng kết về cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nƣớc và phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam Việt Nam trong giai

đoạn 1969-1975.

- Các báo cáo tổng kết, tác phẩm, công trình nghiên cứu về phong trào đấu

tranh của phụ nữ miền Nam ở các địa phƣơng cụ thể trong cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nƣớc.

- Các bài báo, tạp chí viết về phong trào phụ nữ miền Nam trong kháng

chiến chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc.

- Báo Nhân dân – cơ quan ngôn luận của Đảng (1969-1975), với nội dung

đăng tải tƣơng đối đầy đủ, độ chính xác cao về tình hình cách mạng Việt Nam. Qua

việc khảo sát báo Nhân dân, cung cấp một số lƣợng lớn tƣ liệu về vấn đề mà luận

văn đang nghiên cứu.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn, tác giả dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin,

7

quan điểm, đƣờng lối của Đảng và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân,

về chiến tranh cách mạng, về vấn đề phụ nữ, giải phóng phụ nữ và công tác vận

động phụ nữ.

Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng phƣơng pháp lịch sử, thống kê, so sánh để

tổng hợp và trình bày có hệ thống phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam từ

năm 1969 đến năm 1975. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phƣơng pháp so sánh, phân

tích, đặc biệt là phƣơng pháp logic nhằm tìm hiểu và đƣa ra những nhận xét, đánh

giá đảm bảo tính khoa học và tính chính xác về sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng,

Trung ƣơng Cục miền Nam với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam từ năm

1969 đến năm 1975.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài “Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ nữ

từ năm 1969 đến năm 1975” tập trung vào những đối tƣợng nghiên cứu sau:

- Đƣờng lối, chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng, đặc biệt là Trung ƣơng Cục

miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, về công tác vận động phụ nữ

tham gia đấu tranh trƣớc những âm mƣu và hành động xâm lƣợc của đế quốc Mỹ và

chính quyền Sài Gòn sau thất bại của chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ”.

- Quá trình phụ nữ miền Nam triển khai thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng,

chính sách của Đảng, của Trung ƣơng Cục miền Nam.

- Các phong trào đấu tranh cụ thể của phụ nữ miền Nam trên mặt trận đấu

tranh chính trị, quân sự, công tác binh vận và hoạt động ngoại giao.

5.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung nghiên cứu, đề tài “Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo phong

trào đấu tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1975” tập trung nghiên cứu:

Thứ nhất, hoàn cảnh lịch sử cách mạng miền Nam Việt Nam sau năm 1968.

Thứ hai, những chủ trƣơng của Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam trƣớc

những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nƣớc đối với phong trào đấu

tranh của phụ nữ miền Nam.

Trung ƣơng Cục miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Trung ƣơng Đảng

8

Lao động Việt Nam tại chiến trƣờng miền Nam Việt Nam, có nhiệm vụ “căn cứ vào

nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ƣơng,

Bộ Chính Trị về cách mạng miền Nam mà đề ra những chủ trƣơng, chính sách,

phƣơng châm, kế hoạch công tác và chỉ đạo cụ thể ở miền Nam Việt Nam”.

Thứ ba, khái quát những phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam dƣới sự

lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải

phóng miền Nam Việt Nam. Đề tài tập trung nghiên cứu những hoạt động đấu tranh

trực tiếp của phụ nữ miền Nam trên mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang,

công tác binh vận và đấu tranh ngoại giao, không bao gồm các hoạt động sản xuất

và phục vụ chiến đấu của phụ nữ miền Nam trong kháng chiến.

Về không gian nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về phong trào đấu tranh của

phụ nữ miền Nam từ nam vĩ tuyến 17 kéo dài tới mũi Cà Mau.

Về thời gian nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về phong trào đấu tranh của phụ

nữ miền Nam từ năm 1969 đến năm 1975 - giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nƣớc, chống chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Năm

1975 là thời điểm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc.

Qua nghiên cứu, tác giả tìm hiểu sự linh hoạt, nhạy bén trong đƣờng lối, chủ

trƣơng lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, đặc biệt là Trung ƣơng Cục miền Nam đối

với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam trƣớc những biến đổi mau lẹ của

tình hình khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” và sau

khi Hiệp định Pari đƣợc ký kết ngày 27/1/1973 cho tới ngày cách mạng toàn thắng.

6. Đóng góp của luận văn

Đề tài “Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ nữ

từ năm 1969 đến năm 1975” góp phần làm rõ đƣờng lối, chủ trƣơng vận động phụ

nữ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và quá trình lãnh đạo, tổ chức

phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam trên mặt chính trị, quân sự, binh vận,

ngoại giao từ năm 1969 đến năm 1975 của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục

miền Nam

Từ việc nghiên cứu về sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng mà trực tiếp là

Trung ƣơng Cục đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam trong thời kỳ

9

này, luận văn bƣớc đầu có những nhận xét chung về những ƣu điểm, hạn chế trong

đƣờng lối vận động, tổ chức, lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam

của Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam từ năm 1969 đến năm 1975,

đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử trong việc vận động và tổ chức

phụ nữ đấu tranh, từ đó, vận dụng sáng tạo và linh hoạt vào công tác phụ vận trong

tình hình mới.

Luận văn cũng góp thêm một nguồn tài liệu tham khảo, tạo điều kiện cho việc

nghiên cứu sâu hơn nữa vấn đề này trong thời gian tới.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn kết

cấu gồm ba chƣơng:

Chƣơng 1: Sự lãnh đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam đối với phong trào

đấu tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1973

Chƣơng 2: Trung ƣơng Cục miền Nam lãnh đạo đẩy mạnh phong trào đấu

tranh của phụ nữ miền Nam từ năm 1973 đến năm 1975

10

Chƣơng 3: Nhận xét và kinh nghiệm

Chƣơng 1

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM ĐỐI VỚI

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1973

1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Trung ƣơng Cục miền Nam

1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử

Thắng lợi của quân dân miền Nam trong năm 1968, đặc biệt là cuộc tổng tiến

công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã đánh một đòn chí mạng vào ý chí xâm lƣợc của

đế quốc Mỹ, thất bại nặng nề về quân sự, cùng những thay đổi lực lƣợng trên thế

giới không có lợi cho Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lƣợc chiến tranh. Ngày

20/1/1969, Nichxon lên làm Tổng thống, đề ra chiến lƣợc toàn cầu mang tên “Học

thuyết Nichxon”, ở Việt Nam là chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Mục tiêu cơ bản của chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” là rút dần quân

Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, củng cố giữ vững ngụy quân, ngụy quyền, đủ sức

thay thế quân Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lƣợc miền Nam Việt Nam với súng

đạn, đôla của Mỹ, do Mỹ chỉ huy và vì lợi ích của nƣớc Mỹ để tránh sự thiệt hại về

sinh mạng cho thanh niên Mỹ, xoa dịu làn sóng chống chiến tranh trong lòng nƣớc

Mỹ đang dâng cao. Vừa từng bƣớc rút quân, chính quyền Nichxon vừa ra sức củng

cố, tăng cƣờng ngụy quân, ngụy quyền, vừa xuống thang chiến tranh, vừa phản

công và tiến công quyết liệt để chống lại cách mạng.

Để đạt đƣợc mục tiêu, đế quốc Mỹ đã tiến hành những biện pháp hết sức quỷ

quyệt, tàn bạo dƣới ba hình thức chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt và

chiến tranh hủy diệt nhằm “bình định” nông thôn miền Nam, đánh bật lực lƣợng

cách mạng ra khỏi nông thôn, vơ vét sức ngƣời, sức của phục vụ chiến tranh.

Mỹ - ngụy sử dụng phƣơng tiện chiến tranh hiện đại, kể cả vũ khí hóa học,

chiến tranh điện tử và không quân chiến lƣợc để tiến hành chiến tranh hủy diệt ở

miền Nam, nhằm khống chế và kìm kẹp phần lớn nhân dân miền Nam, làm cho

chiến tranh cách mạng mất chỗ dựa, tiến tới bao vây, cô lập, bóp nghẹt, làm suy yếu

sức chiến đấu của nhân dân miền Nam, hạn chế hoạt động tiến công của những đơn

11

vị chủ lực còn bám trụ trên chiến trƣờng.

Trƣớc những âm mƣu và hành động của đế quốc Mỹ trong chiến lƣợc

chiến tranh mới, chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

nhận định “Việt Nam hóa chiến tranh” của Tổng thống Mỹ Nichxon thực chất là

chính sách dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt để kéo dài chiến tranh xâm lƣợc,

thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Việc rút hết quân chiến đấu Mỹ chỉ là thủ

đoạn nhằm xoa dịu dƣ luận Mỹ, tranh thủ thời gian để tăng cƣờng ngụy quân,

củng cố ngụy quyền tiếp tục mƣu đồ xâm lƣợc miền Nam. Với chiến lƣợc “Việt

Nam hóa chiến tranh”, cách mạng miền Nam nói riêng và cách mạng Việt Nam

nói chung đang đứng trƣớc những khó khăn, thách thức vô cùng to lớn.

1.1.2. Chủ trương của Đảng và Trung ương Cục miền Nam

Trƣớc sự chuyển biến của tình hình trong và ngoài nƣớc, Trung ƣơng Đảng

nhanh chóng đề ra những chủ trƣơng và biện pháp cụ thể, đƣa cách mạng miền Nam

bƣớc sang giai đoạn đẩy mạnh tiến công tiêu diệt địch.

Tháng 4/1969, Bộ chính trị xác định nhiệm vụ trƣớc mắt của cách mạng miền

Nam “tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh 3 mũi giáp

công, kết hợp với tiến công ngoại giao, ra sức xây dựng lực lƣợng quân sự và chính

trị, phát triển tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, làm thất bại các

mục tiêu và biện pháp chiến lƣợc phòng ngự của địch; đánh bại âm mƣu “kết thúc

chiến tranh trên thế mạnh”, đánh cho Mỹ phải rút quân, ngụy phải suy sụp, giành

thắng lợi quyết định…” [55, tr.188].

Tháng 3/1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng nhấn mạnh

cần “Vận dụng đúng đắn phương châm đẩy mạnh tiến công toàn diện”,“phải

thấy cho hết những khả năng mới của tiến công quân sự, của tiến công chính trị

cũng như tiến công ngoại giao”.

Trong thƣ gửi anh Bảy Cƣờng tháng 7/1970, đồng chí Lê Duẩn chỉ rõ: “phải

nắm vững quy luật kết hợp nổi dậy với tiến công, tiến công với nổi dậy, làm chủ để

tiêu diệt, tiêu diệt để làm chủ, kết hợp lực lượng của quần chúng cách mạng với lực

lượng vũ trang, kết hợp những cuộc đấu tranh chính trị với những đòn tiến công

12

quân sự thành lực lượng tổng hợp để liên tục tiến công địch” [61, tr.256-266].

Riêng về đấu tranh chính trị, Nghị quyết khẳng định “Tiến công chính trị

có khả năng mới rất to lớn. Tiến công chính trị có nhiệm vụ đẩy mạnh đấu tranh từ

thấp lên cao, từ phong trào đòi dân chủ dân sinh ở thành thị, chống khủng bố, dồn

dân ở nông thôn, kết hợp với tiến công quân sự và công tác binh vận, tiến lên phát

động một cao trào cách mạng ở thành thị và nông thôn, đánh bại âm mưu của

địch... Tiến công chính trị lại có nhiệm vụ tạo điều kiện cho tiến công quân sự, mở

rộng thắng lợi quân sự” [1, tr171]. Hình thức đấu tranh chính trị rất phong phú,

đƣợc quần chúng, đặc biệt là phụ nữ vận dụng linh hoạt nhƣ “mít tinh, biểu tình, hội

thảo, làm kiến nghị, xuống đường, ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ

và phản đối Mỹ - ngụy tăng cường và kéo dài chiến tranh…”

Đặc biệt, ở nông thôn, Nghị quyết hội nghị Khu ủy khu V (4/1969) khẳng

định “muốn đánh bại Việt Nam hóa chiến tranh trƣớc hết phải đánh bại chiến lƣợc

chủ yếu của địch là “bình định” ở nông thôn” [82, tr.384-385], cần “đẩy mạnh công

kích và nổi dậy kiên quyết diệt kẹp, giành dân, hƣớng chủ yếu nhằm các vùng xung

quanh thành thị, chống địch bắn phá, rải chất độc hóa học, chống biệt kích và phối

hợp với an ninh, quét sạch bọn tề, điệp ngầm, đập tan các cuộc hành quân càn quét,

các ổ “phƣợng hoàng”, các tổ chức kìm kẹp quần chúng của địch…” [7, tr.1-3].

Tại thành thị, ngày 29/11/1971, trong bức điện chỉ đạo “Nhiệm vụ của công

tác thành thị”, đồng chí Lê Duẩn đặc biệt lƣu ý “Đi đôi với mặt trận quân sự sẽ

đƣợc đẩy mạnh lên, mặt trận chính trị càng trở nên cực kỳ quan trọng, có khả năng

phát triển lớn và có tầm quan trọng quyết định đối với thắng lợi của cách mạng...

Riêng đối với Sài Gòn, phong trào đấu tranh chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng”, “phải tổ chức tập hợp lực lƣợng, xây dựng đội ngũ đấu tranh chính trị, ra

sức phấn đấu để thu hút thật đông đảo quần chúng cơ bản vào mặt trận đấu tranh”,

“đẩy phong trào phụ nữ tiến lên xứng với năng lực cách mạng to lớn của chị em, với

danh hiệu nổi tiếng là đội quân tóc dài” [70, tr.791-792].

Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 20 BCH TƢ Đảng khóa III (27/1-1/2/1972)

cũng nhấn mạnh “phải động viên, tập hợp và tổ chức quần chúng rộng rãi, nhanh

chóng hình thành đội quân chính trị đông đảo, kết hợp đấu tranh cách mạng của

13

quần chúng với việc khoét sâu và lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch, mở rộng mặt trận

liên hiệp hành động chống Mỹ - Thiệu, tập trung mũi nhọn đòi quân Mỹ về nƣớc,

lật chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lƣợc, vãn hồi hòa

bình, hòa hợp dân tộc” [70, tr.792].

Trên mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang ở chiến trƣờng đồng bằng cần“gấp

rút đẩy mạnh chiến tranh du kích thật rộng và mạnh, nhằm căng địch ra và tiêu

diệt, tiêu hao địch một cách rộng rãi”. Ở chiến trƣờng thành thị “ra sức phát triển

phong trào du kích chiến tranh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược, làm cho chiến tranh

du kích trở thành một phương thức khởi nghĩa vũ trang bộ phận của quần chúng

nhằm phá lỏng và làm tan rã từng bước ách kìm kẹp của địch”.

Cùng với đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, công tác binh vận có vai trò

quan trọng đặc biệt trong việc làm suy yếu ngay trong hàng ngũ kẻ thù. Trƣớc

những thay đổi trong hàng ngũ kẻ thù, việc thay thế quân Mỹ và tăng cƣờng vai trò

của ngụy quân ngụy quyền ở chiến trƣờng miền Nam, Đảng và Trung ƣơng Cục

miền Nam xác định đối tƣợng tác chiến hiện nay vẫn là cả quân Mỹ và quân ngụy,

nhƣng do quân ngụy ngày càng trở thành một lực lƣợng nòng cốt, vì vậy, nhiệm vụ

công tác binh vận trong thời gian tới cần “đẩy mạnh tấn công dồn dập liên tục vào

ngụy quân, ngụy quyền. Kết hợp với tấn công quân sự và chính trị khoét sâu chỗ

yếu của địch, làm cho quân ngụy sụp đổ nặng về tinh thần, tan rã liên miên về tổ

chức, làm mất nguồn bổ sung của quân ngụy, làm cho chính quyền Sài Gòn ngày

càng yếu, góp phần đánh bại âm mƣu “phi Mỹ hóa chiến tranh” của Mỹ”.

Để công tác binh vận, địch vận có hiệu quả cần đƣa ra các khẩu hiệu hành

động từ thấp đến cao, nhƣ chống lệnh đi chiến đấu, bỏ ngũ, trung lập, ly khai, làm

nội ứng, đến khởi nghĩa, từ hành động lẻ tẻ đến hành động tập thể; phải phát động

và lãnh đạo phong trào nhân dân, đặc biệt đẩy mạnh phong trào phụ nữ làm binh

vận, chống bắt lính, đòi chồng con, giúp đỡ binh sĩ ngụy bỏ ngũ, làm binh biến,

phản chiến và nội ứng.

Trên mặt trận ngoại giao, Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị lần thứ 8

Ban Chấp hành Trung ƣơng, ngày 27/1/1970, đƣa ra những nhận định đúng đắn và

phù hợp với tình hình cách mạng miền Nam Việt Nam trong tình hình mới. Một mặt

14

cần đẩy mạnh các mặt trận đấu tranh quân sự và chính trị giành thắng lợi quyết định

trên chiến trƣờng, mặt khác phải coi trọng việc lợi dụng những mâu thẫu, khó khăn

của Mỹ và công tác vận động dƣ luận nhân dân Mỹ”, đồng thời ra sức tăng cƣờng

sự lãnh đạo, tổ chức, vận động nhân dân Mỹ ủng cuộc đấu tranh của ta”, “khoét sâu

vào chỗ yếu cơ bản của Mỹ là về chính trị, vạch trần âm mƣu và hành động leo

thang của Mỹ, gây ra sức ép mạnh mẽ ở Mỹ và trên thế giới, chống Mỹ leo thang

chiến tranh, chấm dứt ném bom miền Bắc”.

Tiến công ngoại giao có nhiệm vụ bóc trần âm mƣu ngoan cố của địch, rút

quân nhỏ rọt và kéo dài chiến tranh xâm lƣợc, bóc trần bộ mặt thối nát của ngụy

quân, ngụy quyền, tiếp tục nêu cao giải pháp toàn bộ 10 điểm của Mặt trận dân tộc

giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền

Nam Việt Nam, đòi Mỹ rút hết quân, thành lập chính phủ liên hiệp, tranh thủ sự

đồng tình, ủng hộ rộng rãi và ngày càng mạnh mẽ của nhân dân tiến bộ trên thế giới

và cả nhân dân Mỹ. Khẩu hiệu trung tâm trên mặt trận ngoại giao là đòi hòa bình,

độc lập, dân chủ và cải thiện đời sống, đánh đổ Thiệu - Kỳ - Khiêm, lập nội các hòa

bình. Tùy theo sự phát triển của tình hình sẽ nêu lên những khẩu hiệu cao hơn nhƣ

đòi lập chính phủ liên hiệp, đòi Mỹ rút hết quân đội khỏi miền Nam, miền Nam độc

lập, dân chủ, hòa bình và trung lập”.

Quán triệt chủ trƣơng của Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam bám sát tình

hình các địa phƣơng miền Nam đề ra chủ trƣơng kịp thời, sâu sát.

Đầu năm 1969, Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục ra chỉ thị nhấn mạnh “đẩy cao

trào đấu tranh chính trị rộng lớn, phối hợp với tấn công quân sự và ngoại giao, tùy

tình hình cụ thể của từng địa phƣơng mà có hình thức đấu tranh phù hợp, cơ bản là

phải biểu dƣơng lực lƣợng và khí thế cách mạng của quần chúng, đấu tranh đòi hòa

bình, lật đổ Thiệu - Kỳ - Hƣơng, đòi các quyền dân sinh dân chủ khác. Nhân dịp tết

Kỷ Dậu, đẩy mạnh cuộc tấn công binh vận với các khẩu hiệu đòi hòa bình, nghỉ tết,

vui xuân, chấm dứt chiến tranh” [121, tr.891].

Ngày 20/2/1970, Trung ƣơng Cục miền Nam vạch rõ phải “nắm vững ba mũi

giáp công, ba vùng chiến lược, vừa tấn công vừa xây dựng, kết hợp chặt chẽ linh

hoạt giữa tấn công quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận và đấu tranh ngoại

15

giao” [121, tr.87], “Nắm vững hơn nữa các yêu cầu, khẩu hiệu, nội dung, hình thức

đấu tranh, chỉ đạo thật kiên quyết, liên tục, sâu sát cụ thể, nhất là phong trào ở thành

phố, thị xã và vùng yếu” [121, tr.883].

Trung ƣơng Cục quán triệt phƣơng châm “ba vùng chiến lƣợc” trong đó

xác định nông thôn đồng bằng là hƣớng chiến lƣợc chủ yếu đánh bại kế hoạch bình

định của địch, chiến trƣờng biên giới và rừng núi miền Đông là hƣớng chủ yếu của

chủ lực tiêu diệt lực lƣợng cơ động của quân ngụy và quân Mỹ, chiến trƣờng đô thị

và vùng ven là trung tâm đầu não chính trị và kinh tế của địch, từ đó có những chủ

trƣơng, chính sách phù hợp với phong trào đấu tranh từng vùng miền.

Tháng 10/1970, Trung ƣơng Cục miền Nam tổ chức hội nghị quán triệt Nghị

quyết tháng 8/1970 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ chuyển hƣớng chiến lƣợc, đánh

phá bình định ở nông thôn. Hội nghị xác định “cần tăng cƣờng các đội vũ trang

công tác vào các vùng nông thôn sâu và yếu, đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, diệt

ác, phát động quần chúng, phát triển lực lƣợng tại chỗ, phát triển chiến tranh du

kích, hình thành những căn cứ lõm, kết hợp ba mũi, phá lỏng thế kìm kẹp của địch,

nâng cao thế làm chủ của quần chúng, bung dân về, nơi nào có điều kiện thì giải

phóng từng ấp” [55, tr.199].

“Ở các đô thị cần phát huy hết sức khả năng đấu tranh của du kích, công an,

vũ trang, đặc công… để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị và binh vận” [121,

tr.901], “Sử dụng các tổ chức của Phật giáo, nghiệp đoàn, phong trào học sinh, sinh

viên để đẩy mạnh phong trào chính trị. Vấn đề quan trọng nhất của phong trào ở đô

thị là tập hợp đƣợc đông đảo các lực lƣợng đối lập với Thiệu vào một mặt trận liên

hiệp rộng rãi” [121, tr.914]. Ở các vùng ven đô thị, đẩy mạnh hoạt động của các lực

lƣợng mũi nhọn kết hợp với các lực lƣợng huyện, du kích xã, mở rộng phong trào

và phát triển lực lƣợng tại chỗ. Ở nông thôn, yêu cầu của việc đánh phá bình định,

giành quyền làm chủ là phải sử dụng lực lƣợng du kích, an ninh, kết hợp với lực

lƣợng quần chúng nổi dậy, diệt và làm tan rã lực lƣợng kìm kẹp ở xã, ấp, đẩy mạnh

tiến công chính trị, binh vận liên tục, dùng ba mũi giáp công bao vây, uy hiếp các

đồn bốt để tiêu diệt địch” [121, tr.901-902].

Về công tác binh vận, Dự thảo nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 Trung ƣơng

16

Cục miền Nam nhấn mạnh “lúc này phải đánh đau, đánh mạnh vào quân ngụy hơn

nữa, phải hết sức chú ý tiêu diệt tiêu hao và làm tan rã nặng lực lƣợng địa phƣơng

(bảo an, dân vệ, bình định...) của địch, hạn chế nguồn bổ sung, đôn quân, bắt lính”.

Đầu năm 1971, Trung ƣơng Cục họp Thƣờng vụ để nghiên cứu tình hình

thành phố và đề ra những công tác trƣớc mắt, nhằm đƣa cuộc đấu tranh của nhân

dân lên cao hơn nữa, xây dựng cho đƣợc lực lƣợng xung kích, nòng cốt trong đấu

tranh, xây dựng lực lƣợng chính trị và đấu tranh chính trị là chính, hoạt động vũ

trang (tự vệ, du kích) tiến hành trong phạm vi có thể đƣợc.

Về phƣơng hƣớng và công tác của Đảng bộ trong năm 1972, Nghị quyết Bình

Giã V nêu rõ: Mục tiêu chủ yếu của cách mạng ở Sài Gòn 1972 là thực hiện cho kỳ

đƣợc một cao trào chính trị, tiến tới một cuộc bùng nổ cách mạng, kết hợp chặt chẽ

giữa việc khẩn trƣơng đƣa phong trào lên một cách căn cơ với việc khai thác thật

nhạy bén, triệt để khi thời cơ xuất hiện.

Triển khai thực hiện chủ trƣơng, nghị quyết của Trung ƣơng Đảng và Trung

ƣơng Cục miền Nam, ngày 20/1/1969, Trung ƣơng Hội Liên hiệp phụ nữ Giải

phóng miền Nam xác định: “ra sức khắc phục những khuyết điểm, nhƣợc điểm còn

tồn tại, đẩy mạnh phong trào phụ nữ tấn công địch bằng 3 mũi liên tục, đều khắp

với tinh thần khẩn trƣơng, táo bạo động viên lực lƣợng” [78, tr.3].

Nhƣ vậy, trƣớc những âm mƣu và hành động chiến tranh của đế quốc Mỹ và

chính quyền Sài Gòn, Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam cùng Hội Liên

hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam đã kịp thời nắm bắt tình hình, đề ra những chủ

trƣơng, chính sách cụ thể, linh hoạt, kịp thời nhằm kêu gọi, tập hợp quần chúng

nhân dân, đặc biệt là phụ nữ miền Nam tích cực đấu tranh. Bám sát chủ trƣơng của

Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam, phong trào đấu tranh của phụ nữ diễn ra với

nhiều nội dung và hình thức phong phú, giành nhiều thắng lợi quan trọng.

1.2. Sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam với phong trào đấu

tranh của phụ nữ

1.2.1. Chỉ đạo đấu tranh chống chương trình “bình định” của Mỹ và

chính quyền Sài Gòn ở nông thôn

Thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, đế quốc Mỹ đẩy mạnh

thực hiện chƣơng trình “bình định” ở miền Nam nhằm tiêu diệt du kích, vô hiệu hóa

17

hạ tầng cơ sở của Việt cộng. Đi đôi với khủng bố, tra tấn, địch tìm mọi cách dụ dỗ,

mua chuộc phụ nữ, trẻ em cung cấp tình hình xóm ấp thông qua hoạt động của

những nữ gián điệp “thiên nga”, đồng thời Mỹ-ngụy còn dùng bom đạn thảm sát,

đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng, ép buộc nhân dân vào sống trong

những “vùng an ninh”, ráo riết thực hiện các biện pháp quân sự hóa đối với cả phụ

nữ, để đẩy mạnh đôn quân, bắt lính” [1, tr.77].

Tại hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên trong hai tháng 11,12/1968, Mỹ - ngụy

huy động gần 6 sƣ đoàn quân chính quy, 174 đại đội quân địa phƣơng và hàng vạn

tên “bình định” ác ôn vào việc hành quân, đốt phá xóm làng, giết hại nhân dân. Tại

các xã Bình Đào (quận Thăng Bình), Tý Sé, Phú Phong (quận Quế Sơn), 279 ngƣời,

phần lớn là trẻ em và phụ nữ đã bị tập trung lại, hành hạ, đánh đập rồi bắn chết hàng

loạt. Đặc biệt nghiêm trọng, ngày 12/2/1969, trong cuộc càn quét thôn Phƣơng Tân,

xã Bình Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, Mỹ bắt một lúc 10 cụ già từ 64

đến 77 tuổi, một phụ nữ có thai gần đến ngày sinh, dồn tất cả xuống hầm, ném lựu

đạn, phun hơi độc xuống hầm, giết chết không còn một ngƣời nào [8, tr.3].

Khắp miền Nam Việt Nam, với những cuộc ném bom rải thảm bằng máy bay

B52, việc dùng các chất độc hóa học, đế quốc Mỹ đã trở thành tội phạm chiến tranh

lớn nhất trong thời đại ngày nay.

Nhận định tình hình, Trung ƣơng Cục miền Nam xác định nông thôn hiện nay

là địa bàn chiến lƣợc trọng yếu, do đó cần tăng cƣờng hơn nữa sự chỉ đạo đối với

nông thôn, ra sức xây dựng lực lƣợng chính trị ngày càng lớn mạnh nhằm đánh bại

kế hoạch “bình định” nông thôn của địch, làm chủ đại bộ phận nông thôn.

Thực hiện chỉ đạo của Trung ƣơng Cục, hàng triệu phụ nữ nông thôn miền

Nam đứng dậy đấu tranh, dƣới sự chỉ đạo của cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ Giải

phóng ở địa phƣơng, đẩy mạnh phong trào chống phá “bình định” với quy mô lớn,

diễn ra liên tục và mạnh mẽ.

Thực hiện triệt để và hiệu quả hình thức đấu tranh trực diện tại chỗ, chống

địch cào nhà, tập trung dân, cƣớp ruộng, chống hãm hiếp phụ nữ, bắn giết đồng bào,

chống bắt thanh niên đi lính, bắt phụ nữ và trẻ em vào “phòng vệ dân sự”, phá ách

kìm kẹp, bung về ruộng vƣờn cũ sản xuất, chị em với tinh thần dũng cảm, mƣu trí

và lý lẽ sắc bén cùng khả năng tự vệ đã ngăn chặn, đẩy lùi âm mƣu của địch, giành

18

thắng lợi trong đấu tranh.

Ở Bình Thuận, cuộc đấu tranh chống “bình định” quyết liệt nhất là ở Hàm

Liên, Hàm Chính, địch dùng xe ủi nhà, phá vƣờn, cƣớp lúa gạo, tài sản, biến thành

vành đai trắng bà con vẫn bám đất, bám làng, che chòi, dựng chái, sống tự do trên

nƣơng rẫy, kiên quyết không vào phòng vệ dân sự [82, tr.392].

Tại Bình Định, trong năm 1969, phụ nữ là lực lƣợng đông đảo tham gia 5204

cuộc đấu tranh chính trị, với 970.000 lƣợt ngƣời. Trong đó có 3181 cuộc đấu tranh

trực diện tại chỗ trống “bình định cấp tốc”, 320 cuộc bao vây tiến công đồn bốt, căn

cứ, quận lỵ, chi khu quân sự. Tháng 3/1969, hơn 2 vạn phụ nữ thuộc các huyện

Hoài Nhơn, Phù Mỹ đã tổ chức hàng chục cuộc mít tinh, biểu tình thị uy, biểu

dƣơng lực lƣợng, quyết tâm chống “bình định”, chống dồn dân, phá ấp chiến lƣợc,

khu tập trung, giành quyền làm chủ [82, tr.402].

Trên địa bàn Tây Nguyên, tháng 5/1969, lực lƣợng phụ nữ đã nổi dậy cùng với

nhân dân phá 300 khu dồn dân, ấp chiến lƣợc, đánh bại một bƣớc chƣơng trình “bình

định cấp tốc” của Mỹ - ngụy. Tại Gia Lai, năm 1969 có 129.250 lƣợt quần chúng đấu

tranh tại chỗ chống khủng bố, chống bắt lính nổi bật là chống gom xúc, đòi về làng cũ

[88, tr.128].

Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của các tỉnh Trung Bộ, phong trào đấu

tranh chống “bình định” của phụ nữ và nhân dân các tỉnh đồng bằng Nam Bộ cũng

diễn ra mạnh mẽ. Hàng chục nghìn đồng bào các dân tộc ở Bù Gia Mập, Bù Đăng

của hai huyện Bình Long và Bến Cát (Sông Bé) bất chấp luật lệ và khủng bố, đàn áp

của địch, trực diện đấu tranh đòi đƣợc trở về làng xóm cũ, cất lại nhà cửa, chống bắt

xâu, bắt lính...

Trung ƣơng Cục nhấn mạnh, trên chiến trƣờng nông thôn đồng bằng, nhất là

đồng bằng sông Cửu Long phải đẩy mạnh chiến tranh du kích thật rộng và mạnh

nhằm căng địch ra, tiêu hao tiêu diệt địch, kết hợp với tấn công chính trị và binh vận

mà bức hàng, bức rút phần lớn đồn bốt địch, một số quận lỵ, chi khu, mở rộng từng

mảng, từng vùng.

Bám sát chủ trƣơng của Trung ƣơng Cục, Tại Sóc Trăng- Bạc Liêu, năm 1971,

19

phụ nữ trong tỉnh đánh 1660 trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 8400 tên địch, thu

1000 súng, diệt và phá, gỡ nhiều đồn bốt. Trong phong trào chống phá bình định nổi

lên tấm gƣơng anh hùng bất khuất nhƣ má Nguyễn Thị Mƣời ở Vĩnh Hƣng (Bạc

Liêu) dũng cảm chặn họng súng địch cứu thoát 4 cán bộ. Lực lƣợng phụ nữ cùng

quân dân toàn tỉnh Mỹ Tho buộc địch phải rút 29 đồn bốt, trừng trị 163 tên tề, giải

phóng 11 xã, 66 ấp với 40.000 dân [81, tr.174].

Bên cạnh những phong trào đấu tranh trực tiếp với địch ở nông thôn, “Đội

quân tóc dài” đẩy mạnh hoạt động kéo vào đô thị đấu tranh trực diện với địch ngay

tại sào huyệt. Trong năm 1969 ở miền Nam đã có 33.330 lần lƣợt quần chúng (đa số

là phụ nữ) kéo đến đồn, quận lỵ đấu tranh. Ngày 3-3-1971, trên 10.000 phụ nữ từ

nông thôn kéo vào Đà Nẵng đến bệnh viện Duy Tân (nay là bệnh viện 17) tìm

chồng con, tìm ngƣời nhà trong lính bị thƣơng, đòi chồng con, công khai tố cáo

địch, gây hoang mang tinh thần trong binh lính ngụy [90, tr.87].

Dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng và của Ban chỉ huy chống phá

“bình định”, phong trào đấu tranh chống chƣơng trình bình định nông thôn của Mỹ -

ngụy mà nòng cốt là phụ nữ miền Nam diễn ra dai dẳng và quyết liệt. Trong giai

đoạn này, hình thức đấu tranh trực diện, tại chỗ và từ nông thôn kéo vào các đô thị

đấu tranh vẫn là những hình thức đấu tranh quan trọng. Lực lƣợng phụ nữ bằng thế

hợp pháp có thể tranh thủ từng giờ, từng phút nắm tình hình, động viên, hƣớng dẫn

quần chúng đấu tranh, phá đƣờng, đắp cản, đánh phá giao thông địch. Trên khắp

miền Nam, phong trào đấu tranh của chị em phụ nữ trở thành mũi xung kích, cùng

đồng bào làm suy yếu và thất bại một bƣớc căn bản chƣơng trình “bình định” nông

thôn của đế quốc Mỹ.

1.2.2. Chỉ đạo phong trào đấu tranh trong các đô thị miền Nam

Với nhiều thủ đoạn tăng cƣờng vơ vét, cƣớp bóc nhằm bổ sung viện trợ Mỹ bị

cắt giảm, đẩy thanh niên ra mặt trận chết thay cho quân Mỹ, chiến lƣợc “Việt Nam

hóa chiến tranh” đã đẩy nhân dân đô thị miền Nam vào cảnh bần cùng, điêu đứng.

Trƣớc tình hình trên, Trung ƣơng Cục miền Nam đã xác định những nhiệm vụ

cụ thể đối với phong trào đấu tranh ở các thành thị miền Nam, phải ra sức phát huy

lực lƣợng tại chỗ, vận dụng phƣơng thức tác chiến thích hợp, đẩy mạnh chiến tranh

20

du kích ở nội đô, tạo điều kiện đƣa phong trào đấu tranh chính trị và nổi dậy của

quần chúng đô thị tiến lên, làm cho hậu phƣơng địch ngày càng rối loạn, tạo điều

kiện tiến tới cao trào chính trị rộng lớn, lôi cuốn từ công nhân, lao động, lớp nghèo

thành thị, học sinh, sinh viên, phụ nữ, thanh niên, tiểu thƣơng, tiểu chủ… đến các

tầng lớp trên, đặc biệt phát huy đúng mức vai trò của học sinh, sinh viên, phụ nữ

nhằm làm suy yếu và đánh đổ từng bƣớc ngụy quyền.

Xuất phát từ quyền lợi thiết thân của giai cấp, của giới, Trung ƣơng Cục có

biện pháp lãnh đạo, giáo dục, phát động, xây dựng và phát triển phong trào phụ nữ

ở thành thị. Phong trào đòi các quyền dân sinh dân chủ diễn ra sôi nổi, liên tục với

những hình thức phong phú với yêu sách đấu tranh cụ thể. Không chỉ đơn thuần là

mục đích kinh tế mà còn tùy lúc, tùy điều kiện kết hợp chặt chẽ với các cuộc đấu

tranh khác nhằm mục đích chính trị.

Trong phong trào đấu tranh ở các đô thị ở giai đoạn này, trƣớc hết phải kể đến

phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, với đông đảo nữ công nhân tham gia.

Chị em công nhân là nòng cốt, là đội tiên phong trong các cuộc đấu tranh chống Mỹ

- Thiệu, đòi các quyền dân sinh, dân chủ.

Tại Sài Gòn, từ 4 - 11/1/1969, 400 anh chị em công nhân quyết định lãn công

vào lúc 14 giờ ngày 6/1/1969, rồi chuyển sang đình công dài ngày, đƣa ra 11 yêu

sách, đòi tăng lƣơng 30% cho công nhân, đòi lƣơng tháng thứ 13, và nhiều khoản

yêu sách cho quyền lợi phụ nữ. Cuộc đình công kéo dài 9 ngày, kết quả, lƣơng đƣợc

tăng 20%. Ngày 16/10/1969, chị em công nhân nhà máy chỉ sợi Khánh Hội bãi công

phản đối chủ thợ vô cớ sa thải thợ [91, tr.219].

Năm 1971, nổi bật nhất là cuộc bãi công đồng loạt của 650 nữ công nhân

Hãng pin Con Ó chống chủ sa thải 17 công nhân. Thiệu cho lính đàn áp, bắt đi 30

ngƣời (ngày 7/10/1971), công nhân vẫn kiên quyết đấu tranh, vừa bãi công vừa

tuyệt thực để phản đối những hành động đàn áp khủng bố của bọn chủ hãng và ngụy

quyền Sài Gòn, đòi giải quyết yêu sách. Cuộc đấu tranh quyết liệt kéo dài hơn 2

tháng. Cuối cùng chủ hãng phải nhƣợng bộ, tăng 30% lƣơng cho công nhân và hứa

thu hồi những công nhân bị sa thải [118, tr.406-407]. Không dừng lại ở mục đích

kinh tế, sáng 29/11/1971, khoảng 200 công nhân hãng pin Con Ó họp tại trụ sở

21

thanh niên lao động phổ biến tâm thƣ nhằm tố cáo Thiệu và chủ hãng ngoan cố

không chịu giải quyết các yêu sách chính đáng của công nhân, và khẳng định “bạo

lực và bất công càng nhiều, chúng tôi càng phải kiên trì đi tới... Chúng tôi tiếp tục

cuộc đình công đề đòi chính quyền phải thu hồi tất cả công nhân và thỏa mãn những

yêu sách không có gì là quá đáng của chúng tôi” [20, tr.4].

Không chỉ công nhân, giới buôn bán nhỏ cũng lao đao vì làm ăn khó khăn, chị

em tiểu thƣơng đấu tranh mạnh mẽ đòi cải thiện điều kiện làm ăn của mình.

Liền trong hai ngày 12 và 13/1/1970, 66 chị em buôn bán đã bốn lần đấu

tranh với cảnh sát và ngụy quyền, giành lại 3400 đồng. Ngày 15/1/1970, 140 chị em

kéo đến gặp ban quản trị nghiệp đoàn, yêu cầu mở hội nghị hàng năm giải quyết

quyền lợi cho chị em trong dịp Tết. Ngày 16/1, hơn 200 chị em lại kéo đến ty cảnh

sát ngụy quyền, đƣa 32 đơn đòi mở rộng chỗ ngồi để chị em tiện mua bán và thả

ngay những chị em bị giam giữ vô cớ” [10, tr.4] .

Từ ngày 10 đến 20/5/1971, hơn 200 bà con buôn bán nhỏ ở thị xã Bến Tre

họp đại hội chống đuổi chợ, đƣa yêu sách biểu tình, đóng cửa hiệu và kéo về Sài

Gòn tuyệt thực, đòi trở về buôn bán ở chỗ cũ [15, tr.3].

Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân và giới buôn bán nhỏ ở thành

thị, phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên trong thời gian này cũng phát triển

mạnh mẽ, tỷ lệ sinh viên nữ tham gia phong trào ngày càng tăng. Phong trào bắt đầu

với cuộc bãi khóa kéo dài, sau đó phát triển thành cuộc tổng bãi khóa ngày 5/4/1970

của tất cả các trƣờng đại học ở Sài Gòn và tất cả các trƣờng đại học trong toàn miền

Nam với 60.000 sinh viên tham gia với nhiều hình thức bãi khóa, mít tinh, hội thảo,

biểu tình, lửa trại, đêm không ngủ, biểu tình thị uy bằng xe máy trƣớc sứ quán Mỹ,

nhà quốc hội, Bộ giáo dục, Bộ Tƣ pháp, Tòa án quân sự của chính quyền Sài Gòn.

Đỉnh cao của phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân thành phố là đợt

“chống độc diễn”, chống bầu cử gian lận của Nguyễn Văn Thiệu. Phụ nữ cùng sinh

viên học sinh, nhân sĩ, trí thức, tôn giáo đấu tranh dƣới nhiều hình thức nhƣ hội

thảo, biểu tình tuần hành, đả đảo, đốt thẻ cử tri, không đi bỏ phiếu [91, tr.244-245].

Tháng 10/1971, phụ nữ các tỉnh khu V, khu VI phát động phong trào đấu

tranh chống “bầu cử Tổng thống và Hạ nghị viện” ngụy vào ngày 3/10. Sáng ngày

22

1/10, tại Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Đà

Lạt hàng vạn chị em tiểu thƣơng và đông đảo nam nữ thanh thiếu niên, sinh viên

học sinh xuống đƣờng, dùng loa phóng thanh kêu gọi đồng bào không tham gia bầu

cử, không đi bỏ phiếu. Ở Đà Nẵng, sáng 3/10, hàng ngàn phụ nữ và đông đảo học

sinh các trƣờng Phan Chu Trinh, Bồ Đề, Sao Mai, Phan Thanh Giản, Quảng Đức…

cùng với anh chị em công nhân lao động, phật tử, thƣơng phế binh biểu tình trên các

đƣờng phố mang biểu ngữ “đả đảo đế quốc Mỹ”, “Đả đảo trò hề độc diễn của

Nguyễn Văn Thiệu”. Nam nữ thanh niên, học sinh đốt cháy nhà thông tin, trung tâm

bầu cử, đốt phá 55 điểm bỏ phiếu và thùng phiếu. Cuộc đấu tranh chống trò hề bầu

cử là cuộc đấu tranh sôi nổi và quyết liệt nhất của phong trào đấu tranh chính trị ở

các đô thị miền Nam trong giai đoạn này [82, tr.427].

Nhận định và đánh giá đúng khả năng cách mạng to lớn của chị em phụ nữ

trong các đô thị, nhằm mở rộng lực lƣợng, Trung ƣơng Cục miền Nam nhấn mạnh

cần chú ý đi sâu vào các ngành, nghề, vào giới phụ nữ, tranh thủ tập hợp lực lƣợng

rộng rãi qua việc liên kết phong trào hình thành các mặt trận, tổ chức công khai

nhằm đẩy mạnh phong trào đấu tranh của phụ nữ ở đô thị phát triển. Từ đó, nhiều tổ

chức đấu tranh đòi quyền lợi cho các giới đồng bào ra đời, thu hút và tập hợp đông

đảo quần chúng, phụ nữ tham gia nhƣ “Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình”,

“Phong trào phụ nữ đòi quyền sống”, “Phong trào chống chiến tranh, chống tổng

động viên thanh niên”…

Sau Mậu Thân 1968, nhiều cơ sở cách mạng trong thành phố, thị xã bị lộ, lực

lƣợng cách mạng nhiều vùng nông thôn suy yếu. Do vậy, cách đánh gọn nhẹ, thọc

sâu, đánh hiểm của các nữ đặc công, biệt động là phù hợp và có hiệu quả, gây thiệt

hại về ngƣời và của cho địch, bảo đảm bí mật, bất ngờ, gây hoang mang kẻ thù.

Thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng Cục, kết hợp chặt chẽ mũi tấn công

chính trị với mũi tấn công quân sự, tại các thành thị miền Nam trong những năm

1969-1972 còn nổi lên hoạt động mạnh mẽ của các nữ biệt động, tự vệ mật, gây cho

địch nhiều tổn thất nặng nề. Địch không ngờ làm nên những trận đánh lịch sử đó lại

là những cô gái xinh đẹp, duyên dáng, nhƣng đầy mƣu trí, sáng tạo và dũng cảm.

Nhiều tấm gƣơng, nhiều trận đánh của các chị đã thực trở thành huyền thoại, những

23

cái tên đã trở thành nỗi khiếp sợ, ám ảnh đối với quân thù.

Ngày 8/5/1969, chị Nguyễn Thị Nho (tức Sáu Anh), chiến sĩ quân báo phòng

tham mƣu thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Minh Hải đã chỉ huy 1 tổ 6 ngƣời dùng 3

chiếc thuyền gắn máy mang 3 quả mìn, mỗi quả nặng 50kg qua 4 đồn, 5 trạm gác

của địch, đánh chìm 4 tàu địch tại xã Cà Mau [3, tr.164] .

Tháng 7/1970, nữ biệt động Nguyễn Thị Thu Trang với sự mƣu trí, táo bạo,

bất ngờ hoạt động ở địa bàn Sài Gòn, chỉ huy tổ biệt động đánh 8 trận. Riêng chị

diệt 150 tên địch, hầu hết là Mỹ và bọn sĩ quan ngụy. Ngày 8/4/1971, Thu Trang tổ

chức đánh khách sạn Mỹ Phụng (đƣờng Bạch Đằng – Sài Gòn). Mìn nổ diệt 40 tên

Mỹ, chị kịp rời khỏi khách sạn an toàn. Ngày 19/8/1971, cải trang vào đặt mìn tại

Nha cảnh sát ngụy Sài Gòn, chị đã diệt 11 sĩ quan. Ngày 15/9/1971, lợi dụng địch

đang tổ chức bầu cử tổng thống, Thu Trang táo bạo, mƣu trí lọt vào khách sạn Tự

Do diệt 90 tên Mỹ [118, tr.417-418].

Đặc biệt, tại Cà Mau, nổi lên tấm gƣơng sáng chói của ngƣời chiến sĩ biệt

động Hồ Thị Kỷ. Ngày 3/4/1970, theo kế hoạch, Kỷ đem mìn nghi trang trong giỏ

xách đặt ở trung tâm cảnh sát ngụy. Nhƣng tình hình thay đổi đột ngột, thay vì ở

trong phòng làm việc, lính tập trung ngoài sân chuẩn bị đi càn. Nhanh trí, Kỷ quyết

định thay đổi phƣơng án đánh địch. Uyển chuyển xách giỏ trái cây bên dƣới có quả

mìn 7kg, đi thẳng vào chỗ địch tập trung đông ngƣời, cƣời tƣơi làm quen với đám

lính. Kỷ vừa lấy gói thuốc lá Rubi đƣa cho tên lính, vừa bí mật điều chỉnh quả mìn

về hƣớng đoàn xe, tắc, ấn kíp nổ, trong tích tắc, một tiếng nổ đanh thép khủng khiếp

phát ra. Trong đám khói hỗn độn, 18 tên giặc đền tội, 9 tên khác bị thƣơng, phá hủy

1 xe jeep, 2 xe quân sự GMC, làm sập một lô cốt. Quả mình Hồ Thị Kỷ đã bẻ gãy

hoàn toàn kế hoạch hành quân khủng bố của địch [118, tr.416].

Nhƣ vậy, phong trào phụ nữ thành thị xuất hiện với tƣ cách là mũi nhọn tiến

công độc lập mang màu sắc khá rõ rệt của giới. Đƣợc sự hỗ trợ của đồng bào thành

thị những cuộc đấu tranh của phụ nữ kéo dài và giành đƣợc những thắng lợi quan

trọng, góp phần cùng phụ nữ ở miền Nam làm thất bại nặng nề chƣơng trình bình

24

định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam.

1.2.3. Chỉ đạo phong trào binh vận, địch vận của phụ nữ miền Nam

Việc Mỹ rút quân khỏi vũng lầy chiến tranh miền Nam, chính quyền Sài Gòn

buộc phải ráo riết bắt lính, đôn quân nhằm thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa

chiến tranh” khiến đội ngũ ngụy trở nên ô hợp. Mặt khác, trƣớc những thất bại liên

tiếp của Mỹ trên chiến trƣờng miền Nam Việt Nam và Đông Dƣơng, quân ngụy

ngày càng hoang mang, giao động và phân hóa sâu sắc. Nhận định tình hình mới,

trong thƣ gửi đồng chí Bảy Cƣờng (tức đồng chí Phạm Hùng) và Trung ƣơng Cục

miền Nam ngày 29-11-1971, đồng chí Lê Duẩn chỉ rõ “phải đẩy mạnh hơn nữa

công tác binh vận, thực hiện công, nông, binh liên hiệp nhằm đánh bại âm mưu

“Việt Nam hóa chiến tranh”của Mỹ” [61, tr.302]. Thắng địch bằng công tác binh

vận cũng quan trọng nhƣ thắng địch bằng tác chiến, vì vậy, “việc làm tan rã lực

lượng quân sự của địch, trước hết là làm tan rã lực lượng “nhân dân tự vệ”, dân

vệ, bảo an, là một nhiệm vụ chính trị mấu chốt” [77, tr.785].

Thực hiện chủ trƣơng của Đảng và dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ ở

miền Nam, công tác binh vận ngày càng phát triển, góp phần đánh thắng một bƣớc

quan trọng chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, trong đó phụ nữ miền Nam là

lực lƣợng quan trọng và xung kích nhất. Bằng những lý lẽ sắc bén, chị em phụ nữ

đẩy mạnh tuyên truyền giải pháp mƣời điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng, tính

chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, tính chất phi nghĩa của

việc đi chết thay cho Mỹ trên chiến trƣờng Lào, Campuchia, của việc dùng súng

đạn, chất hóa học giết hại đồng bào, ngƣời thân đến binh lính trong quân đội Sài

Gòn. Bằng những tình cảm thân thiết, gần gũi mà thiêng liêng nhƣ tình cảm vợ

chồng, tình cảm mẹ con, anh chị em, bằng những hình thức đấu tranh phong phú,

linh hoạt nhƣ tuyên truyền, giảng giải, thuyết phục, kêu gọi, rải truyền đơn, biểu

ngữ... các chị, các mẹ đã giải thích, kêu gọi, vận động và làm thức tỉnh anh em binh

sĩ ngụy trở về gia đình, trở về quê quán làm ăn, không đi lính cho Mỹ, tự giao nộp

đồn bốt, súng đạn cho nhân dân, làm nội chiến, phản chiến trong đội hình ngụy

quân của chính quyền Sài Gòn.

6 tháng đầu năm 1969, ở Trung Nam Bộ có 630.176 lƣợt phụ nữ phát động

25

đƣợc 62.073 gia đình binh sĩ ngụy, làm rã ngũ 22.396 tên, trong đó có 13.540 đội

viên phòng vệ dân sự. Ở Nam Trung Bộ trong 11 tháng đã có 26.000 lƣợt quần

chúng và 3.354 gia đình binh sĩ ngụy làm công tác binh vận, phân phát 18.000

truyền đơn, vận động hơn 6.700 binh sĩ bỏ ngũ, mang ra 292 súng các loại, làm tan

rã bốn đại đội bảo an và lính “cộng hòa”, 39 trung đội bảo an dân vệ, 7 đoàn bình

định, 42 trung đội và 3 tiểu đội dân vệ và phòng vệ dân sự” [12, tr.3-4].

Ở Cà Mau, đông đảo các má, các chị ra sức tranh thủ lôi kéo binh sĩ ngụy, vận

động thân nhân binh sĩ giác ngộ chồng con làm nội ứng, chống lệnh đi càn hoặc đào

rã ngũ trở về với gia đình. Trong năm 1971, tại huyện Trần Văn Thời, chị em vận

động đƣợc 1067 gia đình binh sĩ, tranh thủ đƣợc 459 lính bỏ ngũ. Huyện Thới Bình,

hơn 2000 chị em thân nhân binh sĩ ngụy vào tận các chi khu quân sự và đồn bốt của

địch để thuyết phục, vận động chồng con trở về với gia đình, kết quả, huy động

đƣợc binh sĩ trên 10 đồn trong huyện trở về với cách mạng [86, tr.132].

Từ tháng 4 đến giữa tháng 9 năm 1972, gần 500.000 lƣợt đồng bào và gia

đình có ngƣời thân bị địch bắt lính ở Trung Nam Bộ bất chấp mọi sự ngăn cấm của

địch, kéo vào hàng nghìn đồn bốt, các nơi đóng quân của địch tuyên truyền, giải

thích chính sách mƣời điểm của Chính phủ cách mạng lâm thời cho hàng vạn lƣợt

binh lính, sĩ quan quân đội Sài Gòn, kết quả, hơn 22000 binh sĩ quân đội Sài Gòn đã

bỏ ngũ trở về với nhân dân”.

Đi đôi với tuyên truyền, vận động binh lính trở về với nhân dân, phụ nữ miền

Nam tích cực tham gia đấu tranh chống địch bắt lính. Tại Rạch Giá, ngụy quyền lợi

dụng ngày Tết Khơme, bao vây bắt lính, hơn 700 chị em phụ nữ Khơme cùng sƣ sãi

biểu tình, dùng loa phóng thanh tố cáo tội ác của Mỹ - Thiệu, giải thoát cho thanh

niên. Ở Vĩnh Long địch mang xe đến bắt lính, các mẹ, các chị tràn ra đƣờng, giang

tay cản đầu xe địch, giằng co dữ dội với lính, cứu thoát đƣợc chồng con.

Nhìn chung, công tác binh vận trong những năm 1969-1973 tiếp tục đƣợc đẩy

mạnh và giữ vai trò quan trọng. Dƣới tác động của phong trào binh vận, địch vận,

số đông binh sĩ chán ghét chiến tranh, mong muốn hòa bình.

Chính Mỹ cũng phải thú nhận, so với số quân bị diệt trên chiến trƣờng thì số

binh sĩ ngụy bỏ ngũ tăng gấp 4 lần. Năm 1971 “tổng cộng có 98.324 lính Mỹ bỏ

26

ngũ, nhiều hơn năm 1970 đến 32000 ngƣời” [21, tr.4]. Trong tháng 8/1972 số lính

đào ngũ đã vƣợt mức hàng tháng là hai vạn. Đối với một quân đội chính quy

khoảng 50 vạn quân, đào ngũ nhƣ vậy thực sự là một tổn thất nặng nề” [27, tr4].

Đặc biệt dƣới tác động của công tác binh vận, binh lính ngụy trở thành cánh

tay đắc lực của cách mạng, làm nội ứng, nội chiến, phản chiến, góp phần làm tan rã

nhanh chóng đội hình chiến đấu của Mỹ - Thiệu. Phong trào chống lệnh hành quân

trong quân đội ngụy phát triển mạnh. Trung đoàn 11, trong chín tháng đầu năm

1970 có gần 200 cuộc đấu tranh ở cấp trung đội, đại đội và gần 100 cuộc đấu tranh

ở cấp tiểu đoàn. Từ những cuộc đấu tranh chống lệnh hành quân, nằm im tại chỗ,

phát triển thành phong trào phản chiến, binh biến làm cho hàng ngũ địch rối loạn.

Ngày 4/7/1972, ba binh sĩ tiểu đoàn 3, trung đoàn 15 thuộc sƣ đoàn 9 ngụy,

trên đƣờng hành quân giải tỏa khu vực đƣờng 20 (huyện Cái Bè) làm binh biến, diệt

cả ban chỉ huy một đại đội, mang ba súng và bốn máy thông tin trở về với cách

mạng. Cuộc phản chiến chứng tỏ binh sĩ trong các đơn vị chủ lực quân đội Sài Gòn

ngày càng nhận rõ dã tâm của Mỹ-Thiệu và chán ngán chiến tranh, không chịu để

Mỹ-Thiệu lợi dụng xƣơng máu, chống lại gia đình, phản lại nhân dân, thực hiện

chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” đầy tội ác.

Thắng lợi to lớn của lực lƣợng phụ nữ trong mũi tiến công binh vận, chống

bắt lính, đôn quân góp phần đắc lực vào việc làm thất bại âm mƣu “dùng ngƣời Việt

đánh ngƣời Việt” của đế quốc Mỹ. Cùng với mũi tiến công quân sự của lực lƣợng

vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị và công tác binh vận ở miền Nam mà nòng

cốt là phụ nữ góp phần quan trọng làm thất bại từng bƣớc chiến lƣợc “Việt Nam

hóa chiến tranh”, tạo điều kiện cho sự bùng nổ cuộc tiến công chiến lƣợc năm 1972.

1.2.4. Chỉ đạo phong trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ miền Nam

Không chỉ là lực lƣợng xung kích trong mũi đấu tranh chính trị - binh vận,

cùng với nam giới, phụ nữ miền Nam hăng hái cầm súng đánh giặc, đập tan các

chiến lƣợc chiến tranh của Mỹ - ngụy. Phát triển mạnh từ Tổng tiến công và nổi dậy

Tết Mậu Thân 1968 với những tập thể nữ anh hùng tiêu biểu nhƣ tiểu đội du kích 11

cô gái sông Hƣơng, 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc huyền thoại… bƣớc sang năm 1969,

số lƣợng phụ nữ gia nhập lực lƣợng vũ trang tăng nhanh với hoạt động mạnh mẽ

27

trên khắp các chiến trƣờng miền Nam.

Ngày 23/9/1969, hai nữ du kích mật xã Cát Hanh (Bình Định) dùng lựu đạn

diệt 28 địch tại chợ Tân Dân[82, tr.397]. Ở một số vùng thuộc tỉnh Gia Lai, chị Sao

và chị Mek đã diệt bảy xe và 43 tên Mỹ. Ở Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, hàng trăm

phụ nữ bắn máy bay địch bằng súng bộ binh, có chị một mình bắn rơi một máy bay

[25, tr.4].

Năm 1970, tại Bên Lức – Thủ Thừa (Bắc Long An) xuất hiện tấm gƣơng anh

dũng của chiến sĩ du kích Mai Thị Non. Ngƣời nữ học sinh trung học 18 tuổi, ôm

mìn lao vào đánh chi khu cảnh sát Bên Lức giữa ban ngày, giết và làm bị thƣơng 11

tên địch và cuối cùng đã hy sinh.

Với vũ khí thô sơ tự làm lấy, phụ nữ cùng quân du kích miền Nam tiêu diệt

nhiều địch, bảo vệ xóm ấp, bảo vệ đồng bào. Trong ba tháng đầu năm 1971, quân

du kích Nam Bộ và Nam Trung Bộ diệt gần 10.000 tên, trong đó 40% số địch bị

diệt vì vũ khí thô sơ. Trong tháng 5/1971, quân du kích và đồng bào Tây Nam Bộ

dùng vũ khí tự làm lấy kết hợp với hầm chông, cạm bẫy diệt 3500 tên thuộc lực

lƣợng kìm kẹp của địch.

Cùng với phong trào diệt giặc, phong trào săn máy bay địch cũng phát triển

mạnh. Quân du kích Trị Thiên, đồng bằng Trung Trung Bộ và đồng bằng Nam Bộ

trừng trị máy bay địch đi bắn phá, ném bom, rải hóa chất độc… Các chiến sĩ du

kích Trị Thiên trong ba tháng đầu năm 1971 bắn rơi hàng trăm máy bay địch, trong

đó có máy bay chở sĩ quan tham mƣu quân đoàn ngụy số 1 [17, tr3]. Tại vùng đồng

bằng sông Cửu Long, máy bay địch đổ quân bao vây, một ngƣời con gái chỉ đƣờng

cho hai bạn tránh thoát, còn mình ở lại giƣơng cao nòng súng bắn rơi một máy bay

và diệt nhiều địch. Khi bắn xong viên đạn cuối cùng, chị bị thƣơng nặng, biết không

thể sống đƣợc, trƣớc khi tắt thở, chị đập nát khẩu súng không để lọt vào tay giặc.

Đó là Lê Thị Hồng Gấm, ngƣời du kích gái nêu gƣơng sáng ngời về dũng khí tiến

công địch đến hơi thở cuối cùng và chiến thắng vẻ vang [19, tr.2]

Đặc biệt, trong thời kỳ 1969-1973 xuất hiện hàng trăm đơn vị nữ thuộc các

binh chủng, thể hiện sự phát triển vƣợt bậc của phụ nữ trong mũi đấu tranh vũ trang.

Tiêu biểu là đội nữ pháo binh Châu Thành (Tây Ninh), đội súng cối nữ huyện Xuân

Lộc, Long Đất, Long Thành (Đồng Nai), đội nữ pháo binh Châu Đốc, Kiên Giang,

28

Bến Tre, đội nữ pháo binh Bến Cát (Sông Bé)…

Năm 1969, trung đội nữ cối 82 ly thuộc đại đội 4 Trảng Bàng (Tây Ninh) do

chị Phạm Thị Thành làm trung đội trƣởng, tổ chức tiêu diệt gần 100 địch. Trong

trận phối hợp với đơn vị 268, đơn vị nữ pháo binh Trảng Bàng kiềm chế pháo binh

địch ở Chà Rầy phá hủy hai khẩu pháo 155 ly, diệt 25 tên địch [98, tr.95].

Đội nữ pháo binh Bến Cát (Sông Bé) tổ chức đánh trinh sát, đánh đặc công,

đột phá ấp chiến lƣợc, bẻ gãy nhiều trận càn. Tuy là nữ, chị em đánh đặc công

không thua nam giới. Khi đánh đặc công, chị em ngụy trang nhƣ con trai, trang bị

gọn nhẹ, tóc ngắn, quần ngắn, nịt sát, luồn sâu đánh địch ở những chỗ xung yếu

[118, tr.375].

Ở Cà Mau, Trung đội nữ pháo binh huyện Cái Nƣớc do Nguyễn Hồng Nỉ làm

Trung đội trƣởng đã phối hợp với các lực lƣợng bạn đánh 49 trận lớn nhỏ, diệt 2 đại

đội bảo an, 1 trung đội thám báo và 125 tên khác, làm bị thƣơng 151 tên, bắt sống 105

tên, thu đƣợc 191 súng các loại, 10 máy thông tin.

Ngày 8/3/1969, Trung đội nữ pháo binh vành đai Bình Đức (Mỹ Tho) bắn cháy

10 máy bay Mỹ và tiêu hủy một kho xăng địch trong một trận đánh độc lập, đã tiêu diệt

và làm bị thƣơng 100 tên Mỹ, phá hủy 12 trực thăng, 1 kho xăng máy bay hơn 5000 lít,

3 khẩu pháo 105 ly [118, tr.378].

Riêng ở Quảng Nam, Phú Yên có hơn 5000 chị em vào các đội du kích quyết

tử; vùng Tây Nguyên đã xây dựng đƣợc 50 đội nữ du kích gồm số đông là chị em

ngƣời Thƣợng chiến đấu giỏi, diệt nhiều bộ binh, cơ giới và bắn rơi cả máy bay

phản lực Mỹ. Đội nữ pháo binh 8/3 (Lâm Đồng), ngày 15/9 đã phối hợp với tiểu

đoàn đặc công và bộ binh, công binh tỉnh đánh chi khu Di Linh và Chợ Cũ thắng lợi

giòn giã, diệt hơn 400 tên, phá hủy nhiều phƣơng tiện chiến tranh địch, riêng đơn vị

8/3 đã tiêu diệt trên 80 tên địch, phá hủy nhiều lô cốt, kho tàng của địch.

Phong trào phụ nữ trực tiếp tham gia du kích chiến tranh trong những năm

1969 - 1973 phát triển mạnh, ngày càng đi vào chiều sâu, tăng cƣờng lực lƣợng vũ

trang tại chỗ, nhất là lực lƣợng nữ tự vệ mật, bám trụ ở vùng yếu, vừa tiêu hao sinh

lực địch vừa diệt ác phá kìm làm cho phong trào tiến lên những bƣớc vững chắc, tổ

chức nữ tự vệ mật đã lập nhiều chiến công xuất sắc bằng các hình thức gài mìn,

29

đánh trái, đặt chất nổ, gài lựu đạn, đạp lôi, bom bi, cô lập đồn bốt địch. Thật sự “nếu

giặc Mỹ biết những ngƣời bắn chúng là những ngƣời con gái thì có lẽ chúng đã phải

rút lui từ lâu rồi”. Giặc Mỹ không thể ngờ đƣợc rằng những ngƣời bắn vào đầu

chúng là những ngƣời con gái hiền lành, chất phác trong cuộc sống hàng ngày lại

cực kỳ dũng cảm trƣớc quân thù.

1.2.5. Chỉ đạo phong trào đấu tranh của các nữ tù chính trị tại các nhà tù

đế quốc

Tại các nhà giam, kẻ thù lợi dụng những điểm riêng tƣ trong sinh hoạt của

phụ nữ để kìm kẹp, khống chế. Chế độ ăn uống rất khắc nghiệt, thêm vào đó là

những trận đàn áp bằng vôi bột, phạt không cho đổ thùng cầu, những kiểu tra tấn

thời trung cổ cực kỳ dã man, làm nhục, xâm phạm tới thân thể các chị. Sống tại các

nhà giam, thiếu thốn mọi thứ, phụ nữ phải chịu nhiều khó khăn hơn cả anh em tù

chính trị. Tuy nhiên, trái với mong muốn của kẻ thù, tinh thần đấu tranh kiên cƣờng

của tập thể nữ tù chính trị có tác dụng nhƣ một ngòi thuốc súng, làm bùng lên một

cao trào đấu tranh bề bỉ và quyết liệt.

Tại nhà giam Thủ Đức, giữa tháng 8/1969, trƣớc hành động tra tấn dã man và

bỉ ổi của tên quản đốc nhà lao Dƣơng Ngọc Minh đối với em Trần Thị Bình, 18 tuổi,

chị em tuyệt thực phản đối quyết liệt. Bọn cai ngục đánh đập dữ dội, chị Nguyễn Thị

Tần và Đặng Thị Rành bị chúng đánh chết vào ngày 21/8/1969. Sau vụ thảm sát đê

hèn này, một phong trào đấu tranh mạnh mẽ đƣợc dấy lên từ lực lƣợng nữ tù chính trị

ở trại giam Thủ Đức và Gia Định. Địch hoảng sợ trƣớc làn sóng căm phẫm của tập

thể tù chính trị. Quản đốc trại Thủ Đức đến gặp Ban đại diện chị em và buộc phải

chấp nhận các yêu sách về dân sinh. Chị em kiên định đƣa các yêu sách chính trị,

không mang thẻ đính bài, đòi trả tự do cho những ngƣời mãn án, bệnh nặng và buộc

ngụy quyền phải nhƣợng bộ. Lần đầu tiên trong các nhà tù Mỹ - ngụy, nữ tù nhân

Thủ Đức giành đƣợc quyền tự do đi lại trong trại, tự tổ chức cuộc sống, hội họp, học

chính trị, học văn hóa, sinh hoạt văn nghệ.

Tại nhà lao Tân Hiệp, có khoảng 500 chị em bị giam cầm. Địch cho hơi độc,

dùi cui, ma trắc, lựu đạn vào phòng nhằm trấn áp chị em, nhiều chị bị phỏng nặng,

phù hết cả thân mình, da nứt nẻ, ngất xỉu… Chị Võ Thị Chính chết vì nhiễm độc.

30

Cái chết của chị Chính gây ra làn sóng căm phẫn cao độ trong lòng chị em nữ tù.

Chị em tổ chức tuyệt thực, gây ảnh hƣởng lớn. Đến ngày tuyệt thực thứ 11, địch

buộc phải chấp nhận toàn bộ yêu sách của chị em nữ tù.

Cuộc đấu tranh trong nhà tù đế quốc những năm 1969-1973 tiếp tục diễn ra

quyết liệt, nổi bật là đấu tranh chống chế độ khắc nghiệt của nhà tù, nhất là trong

Chuồng Cọp ở nhà tù Côn Đảo, nơi “địa ngục trần gian”. Bị bắt giam vào các nhà tù

từ khi mới 18, 20 chịu sự tra tấn, hành hạ dã man cả về thể xác lẫn tinh thần, các chị

hơn ai hết, căm thù đến cực độ chế độ nhà tù Mỹ - ngụy. Cuộc đấu tranh của chị em

nhằm đòi đƣợc tăng khẩu phần ăn, có rau xanh, có nƣớc uống và nƣớc vệ sinh;

chống đánh đập, ngƣợc đãi, đòi bảo vệ danh dự, trinh tiết, đòi đƣợc đổ thùng cầu,

đòi đƣợc khám bệnh, phát thuốc và xuống bệnh xá sinh nở, đồng thời, không chịu

khuất phục trƣớc đòn roi, họng súng của cai tù, giám thị, các chị đấu tranh kiên

quyết không chào cờ chính quyền Sài Gòn, không chào giám thị, cai tù, chống sự

phân hóa hàng ngũ tù nhân; chống suy tôn Ngô Đình Diệm, chống nghe phát thanh

và chống học tập tố cộng của địch... Các chị đã vận dụng linh hoạt những hình thức

đấu tranh quyết liệt và phong phú nhƣ hò hét, tuyệt thực, viết đơn kiến nghị, quyết

không ly khai, không đầu hàng, không chịu điều kiện, tổ chức vƣợt ngục, tổ chức

học tập văn hóa, văn nghệ cách mạng, tổ chức học tập tuyên truyền, phổ biến Di

chúc Hồ Chí Minh, thành lập Ban cán sự tại mỗi phòng để lãnh đạo phong trào đấu

tranh. Sau mỗi cuộc đấu tranh của tù nhân, địch đàn áp dã man, có cuộc đấu tranh

hàng chục ngƣời đã bị đánh chết, hàng trăm ngƣời bị thƣơng nặng, bị nhốt hầm đá,

Chuồng Cọp... nhƣng trái với mong muốn của chính quyền Sài Gòn, cuộc đấu tranh

của các nữ tù không bị dập tắt, ngƣợc lại còn bùng lên mãnh liệt.

Song song với các thủ đoạn đàn áp, địch còn dùng biện pháp mua chuộc, phân

hóa, tách những ngƣời phụ nữ cầu an ra khỏi đội ngũ. Bị địch mua chuộc nhƣng chị

em kiên quyết không đầu hàng, không ly khai. Hình ảnh má Sáu Mù là tấm gƣơng

tiêu biểu nhất cho khí tiết của ngƣời cách mạng, của phụ nữ Việt Nam. Bà Sáu Mù

mắt lòa vẫn đứng vững trong tập thể chiến đấu, chống chào cờ, chống nội quy, chịu

mọi cực hình ở Chuồng Cọp 1. Tháng 6-1970, trong một lần xáo trộn, bà đƣợc đƣa

về chuồng 24, nơi giam những phụ nữ chịu điều kiện, đến bữa thấy khẩu phần ăn có

31

đĩa rau muống và nửa quả trứng vịt luộc, biết ngay là đang ở chung với số phụ nữ

chịu điều kiện chấp hành nội quy. Bà gắp miếng trứng vịt lên rồi lại bỏ xuống, trào

nƣớc mắt, bỏ cơm, xin về lại chuồng 27 ở chung với tập thể chiến đấu, với tƣơng

chua, mắm ruốc nặng mùi quen thuộc của chế độ kỷ luật.

“Có những sự khủng khiếp quá sức tƣởng tƣợng của con ngƣời, những

hành động mà không một kinh nghiệm làm báo nào hay ngay cả một sự hiểu biết

trung bình về thú tính của con ngƣời, đƣợc lịch sử ghi lại cũng không thể chuẩn bị

tƣ tƣởng cho tôi đƣợc. Ở đây, tại miền Nam này, cái “tinh hoa” của sự khủng khiếp

đó tập trung trong các chính sách đã đƣợc các cơ quan của chính phủ Mỹ đề xƣớng,

tán thành và thực hiện”, “Tôi cảm thấy nhƣ đầu tôi đã bị vỡ tung ra khi tôi nghe

giọng nói nhỏ nhẹ dịu dàng của một phụ nữ kể lại chúng đã giật đứa con chị khỏi

cánh tay chị, quật nó chết trên thềm đá của nhà lao nhƣ thế nào trƣớc khi chúng đƣa

chị vào phòng tra tấn!!!”, nhà báo Úc Burchelt viết lại [119, tr.339].

Những ngƣời phụ nữ đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, có khi cả cuộc đời mình

nơi ngục tù, nhƣng chính các chị mãi mãi là những đóa hoa trong tù ngục, trở thành

tấm gƣơng, trở thành biểu tƣợng cho ý chí sắt đá, cho lý tƣởng, cho lòng thủy chung

son sắt với Tổ quốc, với nhân dân. Cuộc đời và cuộc đấu tranh của các chị nơi nhà

tù đế quốc thực sự đã trở thành huyền thoại, khiến nhân dân Việt Nam, nhân dân thế

giới, đặc biệt là nhân dân Mỹ phải nể phục, nghiêng mình.

1.2.6. Chỉ đạo phong trào đấu tranh ngoại giao của phụ nữ miền Nam

Suốt hơn một thập kỷ đấu tranh chống Mỹ vừa qua, ngoại giao Việt Nam luôn

là một mặt trận quan trọng, hỗ trợ và phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị góp

phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc. Trong cục diện

“vừa đánh vừa đàm” mà Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã mở ra,

bên cạnh những nhà ngoại giao nam giới nhƣ đồng chí Xuân Thủy, Hà Văn Lâu, Lê

Đức Thọ… xuất hiện nhiều nữ ngoại giao có vai trò to lớn nhƣ bà Nguyễn Thị

Bình, Nguyễn Thị Chơn, Đỗ Duy Liên, Nguyễn Ngọc Dung…

Nếu trên mặt trận đấu tranh quân sự, súng đạn, gậy gộc, chông mác là vũ khí

của các chiến sĩ thì trên mặt trận đấu tranh ngoại giao vũ khí của các chị là những lý

lẽ, lập luận sắc bén, đầy thuyết phục trong những bài phát biểu tại các hội nghị, các

32

cuộc gặp gỡ, các buổi mít tinh, các bức điện, thƣ, tuyên bố, lời kêu gọi...

Với phong thái ung dung, bản chất dịu dàng, tình cảm hữu nghị, lý lẽ sắc bén,

các chị đã tuyên truyền có hiệu quả tới chính phủ và nhân dân các nƣớc trên thế giới

về tính chất chính nghĩa của cách mạng miền Nam Việt Nam, nhằm mở rộng mặt

trận ủng hộ cách mạng miền Nam.

Trong giai đoạn này, nổi bật nhất là hoạt động ngoại giao của Bộ trƣởng

Nguyễn Thị Bình, Trƣởng đoàn đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa

miền Nam Việt Nam tại cuộc hòa đàm ở Pari. Trong Hội nghị Pari về Việt Nam,

hình ảnh “madam Bình” đã gây ấn tƣợng lớn đối với báo giới phƣơng Tây, không

chỉ bởi trƣớc mắt họ là hình ảnh một ngƣời phụ nữ nhỏ nhắn đến từ vùng đất đầy

khói lửa chiến tranh có phong cách giao tiếp lịch lãm, sang trọng, nét mặt và nụ

cƣời luôn cởi mở, thân thiện, mà họ còn rất ấn tƣợng bởi những lời phát biểu đầy

thuyết phục, thông minh, lúc rắn rỏi, khi ví von dí dỏm... Bộ trƣởng tham gia các

cuộc họp báo, trả lời phỏng vấn, tham dự các hội nghị quốc tế với tƣ cách Bộ

trƣởng Ngoại giao, đi khắp các châu lục tuyên truyền, vận động, tranh thủ sự ủng

hộ của cộng đồng quốc tế cho sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam.

Trong hoạt động ngoại giao thời kỳ 1969-1/1973, nội dung đấu tranh quan

trọng đầu tiên trong đối sách ngoại giao của Mặt trận dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam

là làm rõ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, thái độ

nghiêm chỉnh tại Hội nghị Pari về Việt Nam, lập trƣờng đúng đắn của Chính phủ

cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Từ những ngày đầu chuẩn bị Hội nghị Pari về Việt Nam, bà Nguyễn Thị

Bình nêu rõ thái độ của Mặt trận đối với Hội nghị Pari về Việt Nam, tỏ rõ thiện chí

chấp nhận dự hội nghị bốn bên về Việt Nam, trình bày giải pháp toàn bộ mƣời điểm

đúng đắn của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để giải

quyết vấn đề miền Nam Việt Nam và khẳng định quyết tâm của nhân dân miền

Nam chiến đấu cho đến khi giành đƣợc độc lập, tự do.

Đập lại luận điệu “hai phía” do Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đƣa ra hòng phủ

nhận và hạ thấp vai trò đại diện chân chính của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền

33

Nam Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bình khẳng định: “Đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc

giải phóng miền Nam Việt Nam đến dự hội nghị này với tƣ cách một đoàn độc lập

và bình đẳng với các đoàn khác, có đủ thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề có liên

quan đến miền Nam Việt Nam” [6, tr.1-4].

Đồng thời với việc làm rõ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến của

nhân dân miền Nam Việt Nam, trên mặt trận ngoại giao, phụ nữ còn cực lực tố cáo,

lên án trƣớc dƣ luận thế giới và dƣ luận Mỹ tính chất phi nghĩa, hiếu chiến, phản

động, thái độ thiếu nghiêm túc gây trở ngại lớn cho Hội nghị Pari của Mỹ và chính

quyền Sài Gòn với âm mƣu “đàm phán trên thế mạnh”. Trong khi Mặt trận dân tộc

giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền

Nam Việt Nam và Chính phủ nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa luôn giữ thái độ

nghiêm chỉnh trên bàn đàm phán thì Chính phủ Mỹ tìm mọi cách trì hoãn việc ký

kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam bằng những

hành động tăng cƣờng chiến tranh ở hai miền Việt Nam, đƣa thêm vũ khí và

phƣơng tiện chiến tranh cùng nhiều cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ vào miền Nam

Việt Nam. [26, tr.4] Những hành động đó của Mỹ đi ngƣợc lại với tinh thần của Hội

nghị, đi ngƣợc lại với mong muốn của nhân dân Việt Nam, nhân dân tiến bộ Mỹ và

nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới về một nền độc lập tự do thật sự, hòa bình, hòa

hợp dân tộc ở Việt Nam.

Ngày 26/2/1970, Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam lên án

về việc Mỹ tăng cƣờng chiến tranh hóa học ở miền Nam Việt Nam. Là những ngƣời

mẹ, dù ở Mỹ hay ở bất cứ đâu trên trái đất, đều xót xa, cảm thông sâu sắc cho

những ngƣời phụ nữ Việt Nam bởi chiến tranh đã chia lìa hạnh phúc gia đình, chiến

tranh đã cƣớp đi hình hài, mạng sống, tiếng cƣời của những đứa con thơ... Còn gì

đau xót cho ngƣời mẹ hơn là phải chứng kiến cái chết thê thảm của đàn con yêu

quý, chỉ cách đó ít phút còn quấn quýt bên mình, còn gì căm hận bằng khi thấy

những đứa con bụ bẫm khỏe mạnh vì bom đạn Mỹ trở thành biến dạng, di tật...

Trƣớc những hành động đáng ghê tởm của chính phủ Mỹ và chính quyền Sài

Gòn tại miền Nam Việt Nam, đại biểu phụ nữ khẩn thiết kêu gọi tất cả bà mẹ, tất cả

Hội bảo vệ bà mẹ, trẻ em trên thế giới, hãy lên tiếng, tham gia những hoạt động có

34

hiệu quả để chặn đứng bàn tay đẫm máu của đế quốc Mỹ, đòi đế quốc Mỹ phải

chấm dứt ngay việc dùng các loại chất độc hóa học và hơi độc ở miền Nam Việt

Nam, tham gia tích cực những đợt đấu tranh đòi chính phủ Mỹ trả con em về nƣớc,

đòi đế quốc Mỹ chấm dứt ngay chiến tranh xâm lƣợc, rút ngay, rút toàn bộ và không

điều kiện quân Mỹ và quân chƣ hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân miền

Nam Việt Nam tự giải quyết lấy công việc nội bộ của mình.

Năm 1970, bà Bùi Thị Thanh Vân (tức Ngô Bá Thành), một tù chính trị bị

giam ở nhà lao Côn Đảo, đã kể lại với phụ nữ các nƣớc về tội ác man rợ của Mỹ và

chính quyền Sài Gòn ở Côn Đảo, tranh thủ sự đồng tình lên án những tội ác của kẻ

thù đối với phụ nữ miền Nam [119, tr.336]. Trở về sau những năm tháng bị giam

giữ, tra tấn dã man ở một loạt các nhà tù, trong cuộc Họp báo tố cáo tội ác của Mỹ -

ngụy, bà Nguyễn Khánh Phƣơng nói: “Tội ác của Mỹ ngụy đối với những ngƣời

yêu nƣớc, yêu hòa bình ở miền Nam Việt Nam không bút mực nào tả xiết. Riêng

chế độ giam cầm, hành hạ tù nhân của Mỹ - ngụy ở Côn Đảo mà mức độ dã man đã

vƣợt xa thời kỳ của chế độ độc tài của Diệm – Nhu và vƣợt qua cả hành động man

rợ của phát xít Hítle”. Bà Nguyễn Khánh Phƣơng còn nhấn mạnh “Trong khi Mặt

trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và chính phủ cách mạng lâm thời Cộng

hòa miền Nam Việt Nam đối xử nhân đạo đối với quân nhân Mỹ, chƣ hầu và quân

ngụy bị bắt, đã hết lòng chữa chạy các vết thƣơng, giành giật chúng từ tay thần chết

nhƣ trƣờng hợp tên lính Mỹ Giêm Brichhem, chăm sóc bệnh tật, và nếu có điều

kiện thì phóng thích về với gia đình, thì trái lại Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn áp dụng

chính sách tàn bạo nhất, phƣơng pháp dã man nhất mà loài ngƣời chƣa từng thấy để

đối xử với những ngƣời yêu nƣớc” [16, tr.4].

Với những hoạt động tích cực trên mặt trận ngoại giao cùng với những thắng

lợi to lớn trên mặt trận quân sự, áp lực mạnh mẽ từ dƣ luận thế giới đối với chiến

tranh xâm lƣợc Việt Nam của Mỹ, Mỹ buộc phải “đàm phán trên thế thua”, và ký

Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam ngày

27/1/1973, tạo bàn đạp pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền

Nam trong giai đoạn tiếp theo với nhiều thuận lợi mới để thực hiện những bƣớc tiến

35

cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn.

Bằng những hoạt động ngoại giao tích cực và hiệu quả, phụ nữ miền Nam nói

riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung đã nhận đƣợc sự ủng hộ tích cực cả về vật chất

và tinh thần của chị em các nƣớc xã hội chủ nghĩa, chị em các nƣớc tiến bộ trên thế

giới, đặc biệt là phụ nữ Mỹ.

Cuộc đấu tranh của phụ nữ Việt Nam trên mặt trận ngoại giao đã góp phần

làm “thức tỉnh nhiều phụ nữ ở các nƣớc, đem đến cho chị em niềm tin và kinh

nghiệm, thôi thúc chị em đi theo những nhịp trống mới, nhịp trống cách mạng”

[118, tr.421].Những hoạt động đối ngoại của phụ nữ miền Nam góp phần tạo ra trận

địa dƣ luận quốc tế lên án tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, cô lập Mỹ

trên trƣờng quốc tế.

Tiểu kết

Dƣới sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục miền

Nam Việt Nam và Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam, từ năm 1969 đến

năm 1973, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam đã phát triển mạnh mẽ, rộng

khắp và liên tục trong điều kiện chiến tranh diễn ra ác liệt, phụ nữ miền Nam hăng

hái đấu tranh toàn diện với kẻ thù trên cả ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh

vũ trang và đấu tranh trên bàn đàm phán. Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục

miền Nam đã bám sát tình hình miền Nam sau năm 1968 để đề ra những chủ trƣơng

chính sách đúng đắn kịp thời nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong kháng chiến.

Đặc biệt với việc đẩy mạnh hơn nữa phƣơng châm “hai chân, ba mũi giáp công”,

Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam đã tập hợp đƣợc đông đảo nhất chị

em phụ nữ trong lực lƣợng chính trị rộng lớn, phát huy sở trƣờng của chị em ở mũi

đấu tranh chính trị và công tác binh vận. Bên cạnh đó, cùng với nam giới, phụ nữ

miền Nam cũng thể hiện đƣợc vai trò to lớn của giới trong đấu tranh vũ trang, tiêu

diệt nhiều sinh lực địch. Những thắng lợi mà các chị đã đạt đƣợc góp phần to lớn

cùng quân và dân cả nƣớc làm thất bại căn bản chiến lƣợc “Việt Nam hoá chiến

tranh” của đế quốc Mỹ; buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến

tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt

Nam, rút quân khỏi miền Nam; làm so sánh lực lƣợng thay đổi có lợi cho cách

mạng, tạo điều kiện tiếp tục tiến lên “đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành sự nghiệp

36

giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Chƣơng 2

TRUNG ƢƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO

ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ MIỀN NAM TỪ NĂM 1973 ĐẾN NĂM 1975

2.1. Đặc điểm tình hình và chủ trƣơng mới của Đảng

2.1.1. Đặc điểm tình hình

Trƣớc những thất bại nặng nề trên cả hai miền Nam – Bắc, đặc biệt là thất

bại thảm hại trong cuộc tập kích chiến lƣợc bằng không quân 12 ngày đêm cuối

năm 1972 ở miền Bắc, ngày 27/1/1973, chính phủ Mỹ đã phải ký Hiệp định về

chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Theo Hiệp định, Mỹ phải chấm

dứt chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam, thực hiện ngừng bắn, rút hết quân Mỹ và chƣ

hầu khỏi miền Nam, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và

quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Tuy vậy, bất chấp những điều

khoản đã ký kết, Mỹ tiếp tục thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” ở

miền Nam. Ngay sau khi tổng thống Mỹ Nichxon tuyên bố “hòa bình ở Việt Nam là

mong manh”, ngày 24/1/1973, Nguyễn Văn Thiệu trắng trợn tuyên bố “Không có

Hiệp định nào bảo đảm hòa bình hữu hiệu một trăm phần trăm”, “Không thi hành

hiệp định, miền Nam không có hòa bình, không ngừng bắn, không có giải pháp

chính trị, không có tổng tuyển cử…”.

Thực hiện âm mƣu trên, đế quốc Mỹ tăng cƣờng viện trợ vũ khí quân sự và

các phƣơng tiện chiến tranh vào miền Nam, chỉ huy chính quyền Sài Gòn triển khai

kế hoạch “giành đất, giành dân, xóa thế da báo”, thực hiện chƣơng trình “bình định”

với chính sách “đốt sạch, phá sạch, cƣớp sạch”, dồn dân vào vùng kiểm soát.

Trong vùng kiểm soát, chính quyền Sài Gòn tiếp tục khủng bố, đàn áp nhân

dân, trả thù những ngƣời yêu nƣớc, yêu hòa bình, không cho nhân dân tự do đi lại,

trở về quê cũ làm ăn sinh sống, chà đạp mọi quyền tự do dân chủ, bóp nghẹt tự do

ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do hoạt động chính trị, tự do tín

ngƣỡng... Những hành động của chính quyền Sài Gòn vi phạm trắng trợn điều 2 của

Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đồng thời với

37

việc khủng bố, bắt bớ, đàn áp nhân dân, chính quyền Sài Gòn ra sức xuyên tạc nội

dung hiệp định Pari, xuyên tạc chính sách hòa hợp dân tộc của Mặt trận, dùng tiền

dụ dỗ nhân dân làm tay sai, mở rộng chiến tranh tâm lý.

Về việc trao trả nhân viên quân sự và nhân viên dân sự, chính quyền Sài Gòn

tuyên bố chỉ có khoảng 2000 nhân viên dân sự bị bắt giam, trong khi thực tế con số

chính xác lên đến hàng chục vạn ngƣời, tiếp tục khủng bố, thủ tiêu nhiều ngƣời yêu

nƣớc, yêu hòa bình bị bắt và bị giam giữ. Với những hành động ngang ngƣợc trên,

chính quyền Sài Gòn đã vi phạm các điều 1,2,6,7,8b của Nghị định thƣ về việc trao

trả nhân viên quân sự bị bắt, thƣờng dân nƣớc ngoài bị bắt và nhân viên dân sự Việt

Nam bị bắt và bị giam giữ [31, tr.1].

Ngay từ những ngày đầu khi có lệnh ngừng bắn, tính gay go, phức tạp, lâu dài

của cuộc đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari đã thể hiện rõ. Mặc dù

phía Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền

Nam Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng toàn thể

đồng bào miền Nam ra sức thực hiện triệt để và nghiêm chỉnh Hiệp định thì cuộc

đấu tranh nhằm bảo đảm cho Hiệp định Pari đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh và triệt

để từ hai phía là hết sức khó khăn.

Nhƣng thực tế cũng có nhiều thay đổi, so sánh lực lƣợng giữa quân và dân

miền Nam với lực lƣợng ngụy quân, ngụy quyền có bƣớc nhảy vọt lớn. Việc chấm

dứt sự dính líu quân sự của Mỹ khiến chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu đang

dần suy yếu và tan rã. Trong khi đó, quân dân miền Nam có hệ thống chính quyền

cách mạng hoàn chỉnh, làm chủ nhiều vùng rộng lớn có ý nghĩa chiến lƣợc, có đội

quân vũ trang và đội quân chính trị vô cùng hùng hậu. Hơn thế, cuộc đấu tranh chính

nghĩa của nhân dân Việt Nam tiếp tục nhận đƣợc sự ủng hộ tích cực về cả vật chất lẫn

tinh thần của nhân dân tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là nhân dân Mỹ. Đó là những

điều kiện chủ quan và khách quan rất thuận lợi để quân dân miền Nam tiếp tục đẩy

mạnh cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nƣớc đến ngày toàn thắng.

2.1.2. Chủ trương của Đảng và Trung ương Cục miền Nam

Trƣớc những biến chuyển mau lẹ của cách mạng miền Nam sau Hiệp định

Pari, đặc biệt là thái độ ngoan cố của Mỹ và chính quyền Sài Gòn nhằm mở rộng và

38

kéo dài chiến tranh, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam,

Trung ƣơng Đảng đã có những nhận định đúng đắn, kịp thời về tình hình, nhiệm vụ

cách mạng miền Nam.

Ngay sau khi Hiệp định Pari đƣợc ký tắt (23-1-1973), ngày 24-1-1973, Ban Bí

thƣ Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam ra Chỉ thị số 200, vạch rõ cuộc cách mạng

ở miền Nam có nhiều thuận lợi mới, nhƣng còn gay go phức tạp, có khả năng tiến

triển trong điều kiện hòa bình đƣợc giữ vững, nhƣng phải sẵn sàng đối phó với khả

năng Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngoan cố phá hoại hòa bình, phá hoại hiệp định.

Ngày 10/2/1973, Bộ ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa

miền Nam Việt Nam và Bộ Ngoại giao nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa khẳng

định lập trƣờng của nhân dân Việt Nam là nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp

định và các Nghị định thƣ, kiên quyết giữ vững hòa bình, không tha thứ cho những

hành động vi phạm Hiệp định của chính quyền Sài Gòn cũng nhƣ Hoa Kỳ, đòi Mỹ

chấm dứt dính líu vào công việc nội bộ của Việt Nam, không viện trợ quân sự cho

chính quyền Sài Gòn.

Căn cứ vào tình hình thực tế sau khi ký hiệp định, Bộ Chính trị dự đoán hai

khả năng: một là, Hiệp định Pari đƣợc thi hành từng bƣớc, xung đột quân sự giảm

dần, hòa bình đƣợc lập lại về cơ bản; đấu tranh chính trị ngày càng phát triển, cách

mạng ở thế tiến lên mạnh mẽ; hai là, địch gây chiến tranh trở lại; ta phải tiến hành

chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi, nhƣng “dù tình hình phát triển theo khả

năng nào, con đƣờng tiến lên giành thắng lợi của cách mạng miền Nam chỉ có thể là

con đƣờng bạo lực. Ta phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó với khả năng xấu nhất là địch

gây lại chiến tranh. Phƣơng hƣớng chủ động tích cực và đúng đắn có lợi nhất cho sự

nghiệp cách mạng là kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao trên cơ sở

hành động cách mạng đông đảo quần chúng trong vùng địch kiểm soát, buộc địch

thi hành Hiệp định, buộc địch đi vào hòa bình để thắng địch” [66, tr.177].

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng số

227-NQ/TW, ngày 13/10/1973 chỉ rõ nhiệm vụ trƣớc mắt của cách mạng miền Nam

là đấu tranh trên 3 mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, thắng địch từng bƣớc và

chủ động trong mọi tình huống, đƣa cách mạng miền Nam tiến lên [2, tr.89]. Nghị

39

quyết nhấn mạnh cần “Vận động và lãnh đạo quần chúng nắm vững pháp lý của

Hiệp định để đấu tranh đòi địch thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, phải ngừng bắn,

phải công nhận thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng

kiểm soát, 3 lực lƣợng chính trị, phải thả hết tù chính trị, thi hành các quyền tự do

dân chủ, chống chế độ kìm kẹp, khủng bố, thanh lọc, bóc lột, vơ vét...”, “Trong

vùng địch kiểm soát cần lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp chống các hình

thức kìm kẹp, đòi chính quyền địch thực hiện các yêu cầu thiết thân của quần

chúng, gắn liền với việc đòi thi hành Hiệp định”, “Phát triển đấu tranh chính trị lên

quy mô lớn, đòi hòa bình, hòa hợp dân tộc”, “Khi có thời cơ và điều kiện nổ ra cao

trào đấu tranh của quần chúng thì đòn tiến công chính trị ở thành thị là một trong

những đòn có tính chất quyết định”. Công tác binh vận “cần đƣợc đẩy mạnh nhanh

chóng làm tan rã quân ngụy, thúc đẩy những cuộc binh biến, ly khai trong một số

đơn vị quân ngụy ở những nơi có điều kiện nhằm phá hủy các cơ sở hậu cần và

phƣơng tiện chiến tranh của địch”. Cùng với đấu tranh chính trị và binh vận, đấu

tranh ngoại giao một cách sắc bén với địch, từng bƣớc “buộc địch thi hành các điều

khoản của hiệp định và tranh thủ dƣ luận trong nƣớc cũng nhƣ ngoài nƣớc ủng hộ

cuộc đấu tranh chính nghĩa của ta” ngày càng trở nên quan trọng bức thiết.

Hội nghị Ban Chấp hành (7/1/1975) bàn về tình hình và nhiệm vụ chống

Mỹ cứu nƣớc, yêu cầu: “Thực hiện tiến công và nổi dậy trên quy mô lớn, tiêu diệt

chi khu, quận lỵ, đánh bại kế hoạch bình định, giành phần lớn nông thôn ở đồng

bằng Nam Bộ, đồng bằng khu V, Trị-Thiên”. “Mở những chiến dịch hợp đồng binh

chủng của bộ đội chủ lực của ta đánh mạnh vào quân chủ lực ngụy, tiêu diệt nhiều

sinh lực địch, bẻ gãy xƣơng sống quân ngụy”.

Trƣớc tình hình địch phá hoại nghiêm trọng Hiệp định Pari, và nhiều địa

phƣơng đang lúng túng trƣớc hoạt động bình định lấn chiếm của địch, Trung ƣơng

Cục đã nhận định tính chất tình hình miền Nam tuy có Hiệp định nhƣng không ổn

định, những cuộc hành quân cảnh sát, kìm kẹp quần chúng, những cuộc càn quét

bình định lấn chiếm mới vẫn xảy ra ở nhiều nơi, có nơi mức độ rất ác liệt… từ đó đề

ra chủ trƣơng, phƣơng châm, biện pháp thích ứng, đảm bảo cho Đảng bộ nhất trí về

nhận định tình hình, vững vàng đối phó với mọi âm mƣu và thủ đoạn của địch.

40

Trong Chỉ thị số 03/CT-73, Trung ƣơng Cục cũng nhấn mạnh: “Tuyệt đối không

ảo tƣởng địch sẽ thi hành Hiệp định nhƣng cũng không đơn giản cho rằng địch

muốn làm gì thì làm, phải kiên trì và hết sức khẩn trƣơng đẩy mạnh đấu tranh và

xây dựng thực lực cách mạng. Mặt khác cần phải dùng các điều khoản mang tính

pháp lý của Hiệp định để đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận”.

Trung ƣơng Cục đẩy mạnh phƣơng châm đấu tranh toàn diện, kết hợp chặt

chẽ đấu tranh chính trị, quân sự, pháp lý trong đó đặt vai trò lực lƣợng vũ trang làm

hậu thuẫn đắc lực, trong khi ra sức phát huy vai trò của đấu tranh chính trị.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ƣơng Cục tháng 12/1973 đã xác

định rõ nhiệm vụ của từng mũi đấu tranh cụ thể ở miền Nam.

Đấu tranh chính trị ở thành thị, dƣới khẩu hiệu trung tâm hòa bình, độc lập,

dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa hợp dân tộc, ra sức tập hợp đông đảo mọi tầng lớp

thành thị, đẩy mạnh các phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ, đấu

tranh đòi thi hành Hiệp định, nhằm hình thành những phong trào đấu tranh rộng

lớn có sức mạnh ngăn chặn, đẩy lùi những âm mƣu, chính sách phản động của

địch, từng bƣớc đƣa phong trào chính trị phát triển.

Với chính sách phát xít trắng trợn của ngụy quyền, trong công tác thành thị

phải xây dựng hệ thống tổ chức bí mật thật chặt, thật sâu, thật tinh gọn, song phải

nhận rõ phong trào công khai hợp pháp càng rộng, càng mạnh, càng có điều kiện

để phát triển và che giấu những tổ chức bí mật. Phải lợi dụng các nghiệp đoàn, báo

chí, các trƣờng học, các hoạt động tôn giáo, Phật giáo, các phe phái đối lập với

Thiệu… khéo sử dụng vai trò của lực lƣợng thứ ba để tổ chức phong trào công

khai hợp pháp, lấy bí mật làm gốc và hết sức phát huy các khả năng nửa công khai

và công khai hợp pháp.

Về phong trào phụ nữ ở đô thị, đồng chí Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh, trong

phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang ở nông thôn cũng nhƣ đô thị, phụ nữ

đóng một vai trò hết sức lớn lao vào thắng lợi chung. Đặc biệt ở đô thị, không phải

chỉ có thanh niên, học sinh – sinh viên là ngòi pháo mà phụ nữ cũng là một mũi

xung kích, là ngòi pháo của nhiều phong trào. Do vây, vị trí của phong trào phụ nữ

41

là rất lớn. Biết vận động phong trào phụ nữ tốt thì lực lƣợng cách mạng sẽ tiến lên.

Nhiệm vụ của phong trào phụ nữ ở đô thị cũng không tách rời nhiệm vụ

chung của phong trào ở đô thị là lật đổ chính quyền tay sai. Thông qua phong trào

tập hợp lực lƣợng, tổ chức lực lƣợng, xây dựng nòng cốt, đấu tranh đòi thi hành

Hiệp định, đòi dân sinh, dân chủ, chống áp bức bóc lột. Cán bộ phụ nữ phải phát

động quần chúng vạch mặt kẻ thù, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh (công khai,

bán công khai), hình thành mặt trận phụ nữ trong mặt trận đại đoàn kết dân tộc.

Trên mặt trận đấu tranh vũ trang, phải đẩy mạnh phát triển phong trào du

kích chiến tranh, tăng cƣờng xây dựng lực lƣợng dân quân du kích rộng mạnh kể

cả trai gái, già trẻ thành một lực lƣợng vũ trang mạnh của quần chúng đồng thời là

một lực lƣợng chính trị mạnh nằm trong quần chúng, gắn chặt với các đoàn thể

cách mạng, nhất là lực lƣợng du kích nữ, “đội quân tóc dài” chẳng những là lực

lƣợng chính trị mà còn là lực lƣợng quân sự của nhân dân. Phải thông qua các

phong trào đấu tranh có bạo lực quần chúng mà đƣa quần chúng tham gia giết giặc

bằng nhiều cách, nhiều hình thức, đặc biệt là giáo dục rèn luyện tinh thần quần

chúng tiến lên tham gia chiến đấu vũ trang.

Cùng với đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, công tác binh vận trở thành

mũi tấn công rất quan trọng làm tê liệt và làm tan rã hàng ngũ địch, buộc địch

từng bƣớc đi vào hòa bình và hòa hợp dân tộc, làm cho chính quyền địch nhất là ở

cơ sở ngày càng suy yếu, thực hiện công nông binh liên hiệp và tạo điều kiện cho

cao trào cách mạng của quần chúng. Phải gắn chặt công tác binh vận với phong

trào đấu tranh chính trị và thông qua phong trào đấu tranh của quần chúng mà

từng bƣớc phát động phong trào đấu tranh của binh sĩ. Làm cho công tác binh vận

trở thành công tác của quần chúng, tổ chức lực lƣợng binh vận và tổ chức việc

chuyên trách mũi tiến công bằng binh vận ở xã ấp đối với từng đồn, từng đơn vị

chủ lực ngụy, nghiên cứu những hình thức tổ chức quần chúng gia đình binh sĩ để

tập hợp, vận động, giáo dục quần chúng, hình thành tổ chức binh vận rộng khắp.

Trong công tác tuyên truyền vận động binh sĩ phải lấy nội dụng dân tộc và nội

dung giai cấp mà giác ngộ, kéo họ về với dân tộc, với giai cấp thì mới thực hiện

42

đƣợc công nông binh liên hiệp, lật đổ chế độ Mỹ - Thiệu.

Trong công tác ngoại giao, hòa bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh,

hòa hợp dân tộc, tiến tới hòa bình thống nhất nƣớc nhà là nguyện vọng tha thiết

của nhân dân cả nƣớc, là thế mạnh để thắng địch, vì vậy, nhiệm vụ của công tác

ngoại giao phải nêu cao lập trƣờng chính nghĩa của cách mạng miền Nam ở trong

và ngoài nƣớc, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nƣớc và tranh thủ sự

đồng tình, ủng hộ của dƣ luận quốc tế, chĩa mũi nhọn tiến công vào đế quốc Mỹ

và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Dựa vào tính pháp lý của Hiệp định Pari về Việt Nam, giƣơng cao ngọn cờ

hòa bình và lập trƣờng chính nghĩa của cách mạng Việt Nam, kiên quyết, kịp thời

vạch trần trƣớc dƣ luận trong nƣớc và thế giới mọi âm mƣu và hành động vi phạm

Hiệp định Pari của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Xác định cuộc đấu tranh đảm bảo

việc thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam là lâu dài, khó khăn, phức tạp, cần phối

hợp chặt chẽ các phong trào đấu tranh của quân và dân trong nƣớc và các hoạt

động ngoại giao nƣớc ngoài, phối hợp đấu tranh chính trị, pháp lý trên bàn đàm

phán và đấu tranh chính trị, quân sự ở chiến trƣờng, mở rộng cả hai mặt công tác

ngoại giao nhà nƣớc và ngoại giao nhân dân.

Ngày 15-10-1973, Bộ Chỉ huy các lực lƣợng vũ trang Giải phóng miền

Nam ra lệnh: Kiên quyết giáng trả các hành động chiến tranh của chính quyền Sài

Gòn, bất cứ ở đâu bằng các hình thức và lực lƣợng thích hợp, phụ nữ cùng quân và

dân miền Nam kiên trì đẩy mạnh cuộc chiến đấu.

Bƣớc sang năm 1975, nhận nhiệm vụ Trung ƣơng giao phó, đồng chí Nguyễn

Văn Linh tiến hành công tác tổ chức và chuẩn bị kịp thời, chu đáo, nhƣ chuẩn bị

cho kế hoạch nổi dậy của từng tầng lớp công nhân, thanh niên, học sinh, sinh viên,

trí thức, nội thành, ngoại thành, lo cờ, khẩu hiệu, loa, kèn, trống… Thành lập các

ban để lãnh đạo từng bộ phận nhƣ Ban Phụ vận, Binh vận, Hoa vận, Trí vận…

Triển khai chủ trƣơng đấu tranh của Trung ƣơng Đảng, Bộ Chính Trị và Trung

ƣơng Cục miền Nam Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt

Nam chủ trƣơng phát động “phong trào phụ nữ miền Nam đấu tranh đòi thi hành hiệp

định, bảo vệ hòa bình”, trong bất cứ hoàn cảnh nào, chị em cũng luôn nêu cao ngọn

43

cờ độc lập dân tộc, kiên quyết đánh bại âm mƣu xâm lƣợc của đế quốc Mỹ. Các địa

phƣơng phát động một tháng thi đua từ ngày 30/2 đến ngày 30/3/1973, lấy tên là

phong trào phụ nữ miền Nam đấu tranh đòi thi hành hiệp định, bảo vệ hòa bình.

Để thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần tiến công, Hội Phụ nữ Giải phóng các

cấp Nam Trung Bộ tiến hành tổ chức, sắp xếp lại lực lƣợng, đội ngũ cán bộ chỉ đạo,

chỉ huy đấu tranh chính trị, binh vận, chống lấn chiếm và tiến công địch [82, tr.429].

Hội phụ nữ các cấp còn tổ chức học tập về nội dung của Hiệp định Pari, sau đó, đƣa

lực lƣợng cán bộ phụ nữ xuống các địa phƣơng tuyên truyền về chính sách hòa hợp

dân tộc của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, vạch rõ âm mƣu và

thủ đoạn “bình định lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari”, tổ chức phát động cắm cờ

giữ đất, vận động binh lính, kết hợp với đấu tranh chính trị.

Dƣới sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng mà trực tiếp là Trung ƣơng Cục và

Hội liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam, phụ nữ miền Nam ngay sau ngày ký

Hiệp định Pari đã hăng hái tiến lên, đứng ở mũi nhọn cuộc đấu tranh của nhân dân cả

nƣớc nhằm giữ gìn hòa bình, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc và dân chủ,

thực hiện hòa hợp dân tộc, tiến tới thống nhất nƣớc nhà.

2.2. Sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam đối với phong trào đấu

tranh của phụ nữ

2.2.1. Chỉ đạo phong trào phụ nữ đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari

2.2.1.1. Chỉ đạo đấu tranh chống bình định lấn chiếm tại vùng nông thôn

Theo Hiệp định, đồng bào miền Nam phải đƣợc tự do đi lại, trở về quê cũ

làm ăn sinh sống nhƣng địch tăng cƣờng lực lƣợng quân sự, chính trị đẩy mạnh

chƣơng trình “bình định” ở nông thôn, huy động trên 60% quân mở các chiến dịch

càn quét lấn chiếm nhiều nơi, gom xúc gần 20 vạn dân, đóng trái phép 450 đồn và

chốt mới. Từ cuối tháng 1 đến tháng 5-1973, ở Nam Trung Bộ, Mỹ-Thiệu đã 30.607

lần vi phạm hiệp định, gây tổn thất nặng nề cho nhân dân [82, tr423].

Trƣớc những hành động khủng bố của địch, phối hợp với lực lƣợng vũ trang,

Hội phụ nữ khu và các tỉnh phát động cắm cờ giữ đất đi đôi với đẩy mạnh đấu tranh

chính trị và vận động binh lính địch, chống lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng…

Địch cắm cờ lấn chiếm, các mẹ, các chị dùng lời lẽ đấu tranh, nhổ cờ địch, cắm cờ

44

ta. Chị em Xuyên Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Đà, vây ép địch ra đƣờng cái

mới, buộc địch nhổ cờ quốc gia, các chị cắm cờ giải phóng và nói: “Đây là ruộng

vƣờn của bà con tôi thì bà con tôi cắm cờ, các anh có cắm cờ thì cắm trong đồn”.

Ở xã Ngũ Lạc, huyện Trà Củ, tỉnh Trà Vinh, quần chúng phụ nữ Khơme cùng

đồng bào nổi dậy đấu tranh, giành đất, đuổi địch, giải phóng vùng. Ở tỉnh Bến Tre

quần chúng cắm trên 280.000 lá cờ giải phóng [79, tr.22].

Tại Cà Mau, đêm 7/1/1973, hơn 400 đồng bào trong ấp chiến lƣợc huyện

Duyên Hải, đƣợc sự hỗ trợ của lực lƣợng vũ trang giải phóng, nổi dậy phá ách kìm

kẹp, phá 100 cột cờ, xé nát hơn 300 cờ ba que và nhiều ảnh Thiệu [28, tr.3].

Song song với phong trào cắm cờ giữ đất, vận dụng cơ sở pháp lý của Hiệp

định, các chị, các mẹ đẩy mạnh phong trào bung về ruộng vƣờn cũ sản xuất. Hiệp

định Pari vừa ký kết, hàng chục vạn quần chúng phụ nữ đã cùng với đồng bào về

đất cũ, đấu tranh quyết liệt với địch phá bỏ luật lệ kìm kẹp, đòi trả lại ruộng vƣờn,

buộc địch phải gỡ dây thép gai, lựu đạn, mìn… cho nhân dân trở về làm ăn. Tại

Ninh Thuận, Bình Thuận, trong tháng 8/1973, mỗi ngày có từ 5000 đến 7000 ngƣời,

đa số là phụ nữ lao động sản xuất ngay tại vùng giáp ranh, tiếp giáp vùng căn cứ

cách mạng, phá bỏ lệnh giới nghiêm của địch, cất chòi tại ruộng và ở lại luôn. Ở

miền Đông và ven Sài Gòn, những vùng căng thẳng nhất nhƣ Củ Chi, Bình Chánh,

Gò Vấp, Hóoc Môn (Gia Định), Đức Hoà, Đức Huệ, (Long An)… quần chúng phụ

nữ dẫn đầu phong trào đấu tranh xé rào, bung ra đồng ruộng sản xuất, lấp dần diện

tích bỏ trắng trƣớc đây. Riêng ở Cà Mau trong 8 tháng đầu năm 1973 có hơn 70.000

dân về vùng giải phóng [79, tr.24-25].

Nắm vững cơ sở pháp lý của Hiệp định Pari, tại Bến Tre, gần 100.000 đồng

bào và gia đình binh sĩ Sài Gòn tổ chức 1882 lần kéo đến các cấp chính quyền và

quân đội Sài Gòn trong tỉnh đấu tranh, tố cáo chính quyền Sài Gòn thúc ép binh sĩ

hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, xâm phạm các quyền tự do dân chủ của nhân

dân ta. Đồng bào cũng tố cáo chính quyền và quân đội Sài Gòn vô cớ bắt giam,

đánh đập những ngƣời yêu nƣớc, đòi nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, chấm dứt

những hành động lấn chiếm, đòi bồi thƣờng thiệt hại [42, tr.1].

Phong trào đấu tranh chống bình định của phụ nữ miền Nam ở nông thôn

45

trong giai đoạn 1973-1975 đã bám sát nội dung của Hiệp định Pari. Mặc dù Mỹ đã

tăng cƣờng khối lƣợng lớn phƣơng tiện chiến tranh, đẩy mạnh hành quân càn quét,

khủng bố, đàn áp nhƣng phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam vẫn tiếp tục

phát triển và giành nhiều thắng lợi to lớn, mở rộng và bảo vệ vùng giải phóng, đảm

bảo cơ sở vững chắc cho cách mạng, góp phần to lớn làm thất bại căn bản chƣơng

trình “bình định” và âm mƣu xóa thế “da báo” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Vũ

khí hiện đại, tối tân của Mỹ với bom rải thảm, chất độc hóa học, xe tăng, tàu chiến,

cùng những sƣ đoàn “tinh nhuệ” và tàn bạo nhất đã thực sự kinh hoàng trƣớc trái

tim, cặp mắt và hành động đấu tranh quyết liệt của phụ nữ miền Nam.

2.2.1.2. Chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari trong đô thị

Với các chính sách độc tài, phát xít, hiếu chiến phản động của chính quyền

Sài Gòn, cuộc sống của đồng bào thành thị miền Nam sau Hiệp định Pari càng bị

cấm đoán nghiệt ngã, những đòi hỏi về hòa bình thật sự, công việc làm ăn; hạ giá

sinh hoạt, giảm thuế, bỏ thuế, các quyền tự do dân chủ, giải ngũ thanh niên, không

bắt lính và thả dân sự bị bắt... càng trở nên bức bách. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp

nhân dân thành thị với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ngày càng trở nên gay gắt.

Dựa trên cơ sở pháp lý của Hiệp định Pari, phong trào đấu tranh của các giới đồng

bào thành thị đã phát triển một bƣớc so với năm 1972 cả về khẩu hiệu, hình thức,

quy mô và mức độ đấu tranh. Ngoài những cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh dân

chủ, cải thiện đời sống, nổi bật lên cuộc đấu tranh chống các loại thuế, đòi thả tự do

cho các tù chính trị, đòi Thiệu từ chức, đòi hòa bình, hòa hợp dân tộc, đòi thi hành

Hiệp định Pari… Các cuộc đấu tranh này đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân

tham gia trong các thành phố, thị xã, thị trấn ở miền Nam, trong đó, phụ nữ vẫn là

lực lƣợng chủ yếu, giữ vai trò xung kích.

Trong phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ, đòi cải thiện đời

sống, chị em công nhân và tiểu thƣơng vẫn là lực lƣợng tiên phong.

Các cuộc đấu tranh không chỉ diễn ra ở các xƣởng nhỏ, ở những ngành bình

thƣờng mà ở cả những cơ sở quan trọng nhƣ bến cảng, hãng dầu, hàng không vận

tải, đƣờng sắt, điện nƣớc và những cơ sở trực tiếp phục vụ kế hoạch quân sự của

Mỹ - Thiệu. Mục tiêu các cuộc đấu tranh đều xuất phát từ các đòi hỏi cấp thiết hàng

46

ngày và nhằm vào chính sách, biện pháp kìm kẹp, áp bức, bóc lột của Thiệu.

Ngoài các hình thức đấu tranh thông thƣờng nhƣ hội họp, làm kiến nghị, đƣa

yêu sách, công nhân lao động còn tổ chức lãn công, bãi công, biểu tình... ý thức

đoàn kết, giúp đỡ nhau trong đấu tranh, ý thức bảo vệ cán bộ nghiệp đoàn, chống lại

sự khống chế, hãm hại của bọn Trần Quốc Bửu cầm đầu đoàn phản động đã đƣợc

nâng lên một bƣớc mới [51, tr.3]. Liên tục trong năm 1973, diễn ra các cuộc đấu

tranh đòi tăng lƣơng cho kịp với giá sinh hoạt, chống sa thải. Tiêu biểu là các cuộc

đấu tranh của anh chị em công nhân hãng dầu Caltex, Esso, Shell… của công nhân

đƣờng sắt, công nhân hãng dệt Sicovina (70% là nữ).

Bƣớc sang năm 1974, hƣởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban chống sa thải, tất cả

các nghiệp đoàn phát động đợt đấu tranh chống sa thải, chống lăng nhục, hành hung

nữ công nhân, đòi bồi thƣờng thỏa đáng khi chủ giảm thợ. Bên cạnh hình thức đấu

tranh bằng đƣa đơn kiến nghị hợp pháp, công nhân nhiều cơ sở sản xuất còn tuyệt

thực, đình công, bao vây uy hiếp chủ, đòi giải quyết yêu sách. Ngày 20/6/1974, toàn

thể nữ công nhân làm việc ở cƣ xá Mỹ đình công, tuyệt thực 24 giờ phản đối Mỹ

hành hung đại biểu nữ công nhân. Cùng thời gian này, 1000 công nhân nam nữ

hãng thuốc lá Mie, 3000 công nhân viên chức Hàng không dân sự Việt Nam, 1500

anh chị em công nhân hãng bột mì Xakibomi và Vipromyco đình công đòi tăng

lƣơng, đòi trả trợ cấp thôi việc, chống sa thải [91, tr.280-281].

Cùng với phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của phụ nữ buôn bán

nhỏ ở thành thị miền Nam cũng diễn ra trên quy mô rộng lớn, bao gồm 36 chợ Sài

Gòn và ngoại ô phụ cận, sau đó lan nhanh đến các chợ thị xã miền Tây.

Sau khi Thiệu ban hành thuế TVA (thuế trị giá gia tăng), vật giá tăng vọt, đời

sống nhân dân thêm điêu đứng, chị em mua bán và các chủ quán đƣa đơn kiến nghị

đòi chính quyền Sài Gòn giảm miễn các thứ thuế cũ và kiên quyết không đóng thuế

“trị giá gia tăng”, hạ giá sinh hoạt, giải quyết công ăn việc làm cho những ngƣời

thất nghiệp [45, tr.1].

Phong trào phụ nữ chống đuổi chợ, đuổi sạp, tăng thuế… diễn ra hết sức

quyết liệt tại hàng ngàn chợ lớn nhỏ từ Sài Gòn đến các tỉnh. Điển hình là các cuộc

đấu tranh của 500 chị em ở chợ Cá Chánh Hƣng (Sài Gòn), 600 bạn hàng chợ Hooc

47

Môn (Gia Định), hàng ngàn chị em ở các chợ Bến tre, Mỹ Tho, Trảng Bàng, Biên

Hoà… chị em đấu tranh bạo lực quyết liệt, xô xát với cảnh sát, thầu chợ và binh

lính đến đàn áp [79, tr.25].

Ở Cần Thơ, hàng ngàn chị em tiểu thƣơng chống lệnh giải tỏa chợ Hàng

Dƣơng. Ngày 10/6/1973, hàng trăm cảnh sát và phòng vệ dân sự gỡ vách, gỡ lều

của chị em, chở một số hàng về Ty cảnh sát. Ngày 14/6/1973, nhà cầm quyền cho

xe ủi sập các lô hàng. Chị em làm kiến nghị đƣa lên tỉnh trƣởng, đòi lại chỗ cũ, đòi

bồi thƣờng tài sản bị đập phá, cƣớp giật. Tiểu thƣơng cả thành phố Cần Thơ biểu

tình rầm rộ. Cuối cùng cuộc đấu tranh thắng lợi, chị em đƣợc mua bán ở chỗ cũ,

chính quyền phải bồi thƣờng 43 sạp bị ủi sập [118, tr.446].

Cùng với phong trào đấu tranh của chị em công nhân, tiểu thƣơng, phong trào

đấu tranh của học sinh, sinh viên trong giai đoạn 1973-1975 cũng có bƣớc phát triển

sau khi đã gây dựng lại cơ sở và tổ chức. Bƣớc sang năm 1974, hàng chục trƣờng

đại học và trung học đã tổ chức sinh hoạt trại truyền thống kỷ niệm Trần Văn Ơn và

kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ. Phong trào sinh viên, học sinh khôi phục không khí

đấu tranh bằng một cuộc kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ đã nói lên một cách gián

tiếp mà hùng hồn vai trò của nữ sinh trong cuộc vận động sôi nổi này.

Ngày 16/3/1974, giới học sinh, sinh viên, trí thức, nhân sĩ, tôn giáo… biểu

tình sôi nổi ở khu vực chợ Bến Thành đòi trả tự do cho Huỳnh Tấn Mẫm và các tù

chính trị còn bị giam giữ. Nam nữ sinh viên, học sinh trong các toán “xung kích”

dùng bom xăng và lựu đạn khói làm náo động trung tâm thành phố. Đây là cuộc

biểu tình sôi nổi nhất của sinh viên, học sinh Sài Gòn từ năm 1972.

Ngày 4/11/1974, “Ủy ban hành động cho công bằng xã hội” ra đời, tập hợp

11.000 sinh viên các tôn giáo. Đêm Noel 1974, sinh viên các tôn giáo mít tinh

chống bắt lính và đòi Thiệu từ chức [118, tr.447]. Lần đầu tiên tại thành phố, nữ

giáo chức của 98 trƣờng trung, tiểu học công và tƣ đồng loạt bãi khóa 3 ngày để

phản đối hành động xâm phạm nhân phẩm của nữ giáo chức [91, tr.280].

Cùng với phong trào công khai sôi nổi, rộng rãi, lôi cuốn hàng chục vạn phụ

nữ các tầng lớp tham gia, phong trào đấu tranh chống vơ vét, bắt lính cũng phát

triển mạnh ở các đô thị. Chị em kết hợp đấu tranh chính trị, vận động binh lính với

48

diệt ác, phá kìm, xây dựng thực lực tại chỗ, hình thành những lõm chính trị. Các

mẹ, các chị kéo đến đồn bốt, tuyên truyền giải thích hiệp định, vận động hàng ngàn

sĩ quan binh lính ngụy bỏ ngũ. Một số đơn vị đào ngũ tập thể. Đêm 3/2/1973, binh

lính ở trung tâm huấn luyện Hòa Cầm (Đà Nẵng) nổi dậy diệt bọn chỉ huy ác ôn.

Trong nội đô, các nữ chiến sĩ tình báo biệt động cũng bí mật đẩy mạnh hoạt

động. Ngày 13/12/1974, nữ biệt động Hồ Thị Hƣơng và Nguyễn Thị Thọ đã cải

trang đặt mìn trong quán ăn Hoàng Diệu (Long Khánh - Đồng Nai), diệt 33 tên

địch. Ngày 18/1/1975, Hồ Thị Hƣơng cùng Nguyễn Thị Thận đánh vào quán ăn

Viễn Đông ở trung tâm thị xã, làm bị thƣơng 30 cảnh sát địch.

Nhìn chung, phong trào đấu tranh của phụ nữ các thành thị miền Nam đã bám

sát nội dung Hiệp định Pari, phát triển mạnh mẽ và ngày càng đi vào những đòi hỏi

bức bách là hòa bình, độc lập, dân chủ, cơm áo và hòa hợp dân tộc, đồng thời đấu

tranh kiên quyết nhằm chống lại những hành động vi phạm và phá hoại nghiêm

trọng Hiệp định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

2.2.1.3. Chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari của phụ nữ

tại nhà tù đế quốc

Hiệp định Pari đã đƣợc ký kết, nhƣng quyền đƣợc sống, quyền đƣợc bảo vệ

nhân phẩm và tính mạng của những nữ tù vẫn bị xâm phạm nghiêm trọng. Ngày

13/6/1973, sau khi tuyệt thực 60 ngày, từ trong nhà tù của chính quyền Sài Gòn, bà

Ngô Bá Thành, Chủ tịch Phong trào phụ nữ đòi quyền sống ra tuyên bố kịch liệt lên

án chính quyền Thiệu bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ ở miền Nam [44, tr.3].

Trƣớc sự tra tấn dã man và cuộc sống khắc nghiệt nơi ngục tù vẫn sáng lên

hình ảnh về nụ cƣời của chị Võ Thị Thắng. Nụ cƣời đó đã trở thành biểu tƣợng cho

ý chí quật cƣờng của những ngƣời phụ nữ miền Nam trƣớc họng súng của kẻ thù,

cùng câu nói nổi tiếng “Tôi sợ chánh quyền các ông không tồn tại đến 20 năm để tôi

ở tù!”. Tại Côn Đảo, hòa với tiếng hô bên trại giam nam “Đả đảo khủng bố, chống

chào cờ ba que!” là tiếng hô dõng dạc của chị Thắng “Đả đảo khủng bố, chống đàn

áp!” Chị Võ Thị Thắng cùng với chị em toàn trại tổ chức tuyệt thực. Hơn 400 chị

em tù chính trị đã phải dồn sức chống chọi với việc đổ nƣớc cháo. Cuộc đấu tranh

diễn ra quyết liệt và dai dẳng, máu tƣơi bật ra hòa với nƣớc cháo lênh láng. Bƣớc

sang ngày thứ chín, cuộc đấu tranh của những ngƣời tay không, chỉ chiến đấu với ý

49

chí sắt đá và niềm tin tất thắng đã kết thúc thắng lợi [50, tr.3].

Đặc biệt, trong tình hình mới, khi Hiệp định Pari đã đƣợc ký kết, để dễ dàng

thi hành chính sách của nhà cầm quyền Sài Gòn, ban quản đốc tại các nhà tù đế

quốc toàn miền Nam đã thực hành biện pháp cấm triệt để, bƣng bít mọi sự phổ biến

tin tức xác thực, loan truyền những tin tức sai sự thực nhằm gây hoang mang, gây

hận thù, chia rẽ giữa những ngƣời Việt Nam. Bản Hiệp định chấm dứt chiến tranh,

vãn hồi hòa bình ở Việt Nam không đƣợc phổ biến cho tù nhân, mặc dù anh chị em

đã nhiều lần yêu cầu đƣợc biết nội dung của bản Hiệp định.

Theo Hiệp định, tất cả tù binh chiến tranh của các bên sẽ đƣợc trao trả không

điều kiện trong vòng 60 ngày. Các tù nhân chính trị sẽ đƣợc trả tự do sau đó theo

thỏa thuận chi tiết của các phía Việt Nam. Tháng 10/1972 chính quyền quyền Sài

Gòn đã chỉ thị cho tất cả các trung tâm cải huấn lập danh sách tù chính trị, nhằm

chuyển tù chính trị thành thƣờng án với các tội danh “phá rối trật tự trị an”; “gian

nhân hiệp đảng”; “giữ vũ khí bất hợp pháp”, với những bản án chuẩn bị sẵn, cƣỡng

bức tù nhân ký và lăn tay, chụp hình dán vào nhằm thực hiện âm mƣu ém giấu tù

chính trị, trốn tránh việc trả tù chính trị. Ngày 24/1/1973, tức trƣớc ngày ký kết

Hiệp định Pari, nhà cầm quyền Sài Gòn âm thầm dựng lên các phiên tòa để áp đặt

những bản án vi luật, với những tội danh ngụy tạo cho chị em.

Trƣớc những hành động vi phạm Hiệp định Pari của chính phủ Mỹ và

chính quyền Sài Gòn, các nữ tù chính trị, nhất là ở nhà tù Côn Đảo đã kiên quyết

đấu tranh đòi công bố Hiệp định Pari và nghị định thƣ, đòi lập Ban đại diện từng

trại tù, trực tiếp làm việc với Ủy ban liên hợp quân sự hai bên, có sự giám sát của

Ủy ban Quốc tế. Tù chính trị Côn Đảo đã phải đổ máu trong cuộc đấu tranh chống

lăn tay chụp hình, đòi trao trả ngay, trao trả hết tù chính trị theo Hiệp định Pari. Bản

thân những nữ tù chính trị đã chuẩn bị tinh thần và kế hoạch đối phó, quyết tâm

không cho địch xé lẻ lực lƣợng và tổ chức chống trả. Chị em nhắm mắt, há miệng

thật to khi địch bấm máy mặc cho sau đó là những trận đánh đập tàn bạo. Trong đợt

đấu tranh chống lăn tay chụp hình tại Trại IV có 3 nữ tù chính trị bị địch đánh chết, là

Lê Thị Cúc (quê ở Quảng Nam chết ngày 24/4/1973), Trần Thị Thanh (quê ở Quảng

Nam chết ngày 30/4/1973), Nguyễn Thị Hƣơng (quê ở Định Tƣờng chết ngày

50

2/5/1973). Chƣa đầy 10 ngày, ở nhà tù Côn Đảo đã có 10 chị hi sinh [112, tr.462].

Bƣớc sang năm 1975, trên chiến trƣờng, quân và dân miền Nam đã giải phóng

nhiều vùng, nhiều tỉnh, tin thắng trận trong chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài

Gòn – Gia Định đã lan tới chị em trong các nhà tù đế quốc, các nữ tù chính trị tổ

chức vƣợt ngục, phá nhà giam. Tại Côn Đảo, Đảo ủy lâm thời tổ chức lực lƣợng,

chia thành nhiều tốp, từ Trại VII đến giải phóng các trại [112, tr.481]. Nhận sự chỉ

đạo của Đảo ủy lâm thời, chị Hai Nhân và Tƣ Cúc tham gia Đảo ủy và chị Phạm

Thị Đào tham gia chính quyền cách mạng tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh giải

phóng gần 500 phụ nữ, giải phóng Côn Đảo, chấm dứt 21 đấu tranh chống chế độ

nhà tù khắc nghiệt của đế quốc Mỹ và chế độ chính trị Sài Gòn.

2.2.2. Chỉ đạo đẩy mạnh công tác binh vận của phụ nữ miền Nam

Từ khi có Hiệp định Pari, binh sĩ ngụy phân hóa sâu sắc, hầu hết đều có

khuynh hƣớng muốn hòa bình, chán ngán chiến tranh. Trƣớc tình hình đó, mũi tiến

công binh vận càng đƣợc đẩy mạnh. Nhận định rõ tình hình, dựa vào tính pháp lý

vững chắc của Hiệp định Pari, cán bộ phụ nữ, cán bộ địch vận đã thâm nhập vùng bị

chiếm tuyên truyền chính sách, xây dựng thêm nhiều cơ sở nội tuyến, vận động binh

lính đào rã ngũ, phản chiến, không đi càn, trả súng, về với gia đình, quê hƣơng. Hầu

hết phụ nữ ở các xã, thôn đều tham gia công tác binh vận. Ở nhiều xã, 100% hội

viên và quần chúng phụ nữ đã tham gia công tác binh vận.

Bằng tình cảm gia đình, mẹ con, chồng vợ, các mẹ, các chị đã lôi kéo

những ngƣời con, ngƣời chồng đang đứng trong hàng ngũ địch trở về với nhân dân.

Chị em trực tiếp rải truyền đơn, trao thƣ cho binh sĩ, dán khẩu hiệu, thả bè, phát loa

vận động binh sĩ. Nhiều nơi chị em có kế hoạch công tác binh vận đối với từng sắc

lính ngụy, từng loại đồn bốt, có bố trí lực lƣợng binh vận thƣờng trực, hình thành

những vành đai binh vận bao quanh lực lƣợng địch ở đồn bót, chỗ đóng quân hoặc

cụm quân của địch khi càn quét. Chị em còn đi vào gia đình từng binh sĩ giáo dục,

tổ chức cho những ngƣời mẹ, ngƣời chị, ngƣời vợ kêu chồng con em về, đấu tranh

không cho chồng con em bị đẩy đi càn quét, đóng đồn lấn chiếm, sôi nổi nhất là ở

Bà Rịa, Long Khánh, Bến Tre, Mỹ Tho…

Ở Bến Tre, binh sĩ trong hàng trăm đồn bốt nghe theo đồng bào, án binh bất

51

động, đông đảo binh sĩ tiểu đoàn bảo an số 451 ở Mỏ Cày bị điều về thị xã Bến Tre

đã xé bỏ cờ chính quyền Sài Gòn ném đầy đƣờng [32, tr.1]. Hơn 22.100 đồng bào

và gia đình có chồng con em bị chính quyền Sài Gòn bắt lính đã kéo đến các điểm đóng

quân, đồn bốt, giải thích, phổ biến văn bản Hiệp định cho binh sĩ. Đƣợc đồng bào giúp

đỡ, 604 binh sĩ, viên chức chính quyền Sài Gòn đã trở về đoàn tụ với gia đình.

Tháng 7/1973, trong khi bộ đội địa phƣơng và du kích các tỉnh Long An,

Bến Tre tiến công địch và bức rút nhiều chốt địch đóng trái phép, các mẹ các chị đã

tranh thủ vận động các gia đình binh sĩ quân đội Sài Gòn, kêu gọi hàng trăm con em

bỏ ngũ về nhà làm ăn. Cùng thời gian trên, ở Điện Phƣơng (Quảng Đà), 3000 chị

em ở Dốc Đó đấu tranh và vận động lực lƣợng dân vệ quay súng diệt cảnh sát, giải

thoát cho 300 thanh niên bị bắt lính. Ở Phú Yên, ngày 12/11/1973, 1000 phụ nữ ở

Hòa Vinh đấu tranh chống bắt lính. Tỉnh hội phụ nữ phát động 2977 gia đình binh

lính ngụy có ngƣời chết trận, đấu tranh với địch, xây dựng 63 cơ sở nội tuyến, làm

rã ngũ 556 lính bảo an, 104 dân vệ và 1163 phòng vệ dân sự.

Cùng với thái độ chán ghét chiến tranh, thực sự muốn hòa bình, lính ngụy còn

liên tục bỏ ngũ, đào ngũ để trở về với cách mạng, với nhân dân, làm suy yếu, rệu rã

hàng ngũ địch. Việc phổ biến nội dung Hiệp định, Thông cáo chung Pari, chính

sách hòa giải và hòa hợp dân tộc đã tác động mạnh mẽ vào hàng ngũ đối phƣơng,

hàng trăm cuộc phản chiến tập thể ở cấp đại đội và tiểu đoàn của binh sĩ Sài Gòn đã

nổ ra, hàng nghìn ngƣời bỏ ngũ về với nhân dân [46, tr.1].

Trong những năm 1973-1975, công tác binh vận thực sự là một mũi tấn công

quan trọng làm tê liệt hàng ngũ kẻ thù. Với những tình cảm thân thuộc, sâu sắc,

bằng lý lẽ sắc bén bám sát nội dung Hiệp định và chính sách khoan hồng nhân đạo

của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, các chị các mẹ

góp phần làm cho lực lƣợng giữa ta và địch có bƣớc thay đổi lớn, nghiêng hẳn về

phía cách mạng, tạo điều kiện để phụ nữ cùng đồng bào miền Nam tiến hành tổng

tiến công và nổi dậy “đánh cho ngụy nhào”, thực hiện hòa bình và thống nhất đất

nƣớc khi thời cơ đến.

2.2.3. Chỉ đạo hoạt động ngoại giao của phụ nữ miền Nam

Mặc dù đã giành đƣợc thắng lợi to lớn trên bàn đàm phán với chính phủ

52

Mỹ và chính quyền Sài Gòn bằng việc ký Hiệp định Pari ngày 27/1/1973, nhƣng

trƣớc những hành động trắng trợn, ngang nhiên vi phạm, phá hoại Hiệp định của

Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đấu tranh ngoại giao trong thời gian này có vai trò

quan trọng. Đấu tranh ngoại giao góp phần làm cho thế giới hiểu đƣợc tính chất

chính nghĩa cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, thái độ nghiêm chỉnh, đúng đắn

và triệt để của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Mặt

trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong việc thi hành Hiệp định Pari.

Đồng thời vạch trần bộ mặt bán nƣớc, những hành động vi phạm của chính quyền

Nguyễn Văn Thiệu đối với bản Hiệp định. Từ đó, kêu gọi nhân dân tiến bộ trên thế

giới, đặc biệt là nhân dân tiến bộ Mỹ tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa

của nhân dân miền Nam Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn.

Tối ngày 22/1/1973, trƣớc đông đảo các nhà báo Pháp và nƣớc ngoài, Bộ

trƣởng Nguyễn Thị Bình khẳng định những mục tiêu đấu tranh của Mặt trận dân tộc

giải phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời vẫn luôn nhằm bảo vệ độc lập, chủ

quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, quyền tự quyết của nhân dân

miền Nam Việt Nam. “Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt

Nam đã có thiện chí và mềm dẻo trong việc tìm ra một giải pháp chính trị, nhƣng

kiên quyết giữ vững nguyên tắc về những quyền dân tộc cơ bản” [29, tr.4].

Bộ trƣởng Nguyễn Thị Bình bày tỏ mong muốn đƣợc thấy chính phủ các

nƣớc không liên kết dùng ảnh hƣởng của mình làm cho Hiệp định Pari về Việt Nam

đƣợc triệt để tôn trọng. Bộ trƣởng Nguyễn Thị Bình khẳng định “Tình hình miền

Nam Việt Nam cho thấy rằng mặc dù có những vi phạm và đàn áp khủng bố của

chính quyền Sài Gòn, ý chí hòa bình, hòa hợp dân tộc là của tuyệt đại đa số nhân

dân. Chúng tôi tin tƣởng rằng không một thế lực phản động nào có thể chống lại

đƣợc ý chí sắt đá đó” [33, tr.4].

Với việc Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, dƣ luận thế giới đang nghi

ngờ về một cuộc “nội chiến” giữa những ngƣời Việt Nam, gây khó khăn cho cách

mạng miền Nam. Bởi vậy, làm rõ trƣớc dƣ luận quốc tế về việc Mỹ tiếp tục chính

sách thực dân mới ở miền Nam là một nhiệm vụ quan trọng của mặt trận ngoại giao.

Để làm tốt công tác tuyên truyền, phòng thông tin của Chính phủ cách mạng lâm thời

53

tại Pháp đã liên tục cho ra những bản tin về tình hình Việt Nam. Kết hợp hài hòa các

bộ phận truyền thông trong nƣớc, kịp thời đƣa những thông tin mới nhất, có lợi cho

cách mạng, để bạn bè quốc tế hiểu rõ về tình hình Việt Nam và kịp thời ủng hộ cuộc

đấu tranh của nhân dân miền Nam.

Trƣớc những hành động vi phạm phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ và chính

quyền Sài Gòn, Chính phủ cách mạng lâm thời cũng cực lực tố cáo và nghiêm khắc

lên án, kiên quyết đòi Hoa Kỳ và Chính quyền Sài Gòn phải chấm dứt mọi cuộc

hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, rút ngay quân đội ra khỏi những vùng do

chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam kiểm soát.

Đầu năm 1975, Bộ trƣởng Nguyễn Thị Bình cùng đồng chí Lê Mai, nhận

nhiệm vụ tranh thủ sự ủng hộ của dƣ luận quốc tế ngăn Mỹ đƣa quân trở lại miền

Nam. Sau khi tới Angieri và Tandania, tại đây đang có Hội nghị thống nhất châu

Phi, đồng chí đã phải chờ hội nghị họp suốt đêm. Khi Hội nghị kết thúc, Bộ trƣởng

nhanh chóng tranh thủ diễn đàn thông báo vắn tắt tình hình Việt Nam, nhấn mạnh

nếu Mỹ đƣa quân trở lại Việt Nam thì tình hình rất phức tạp, vì vậy, kêu gọi các

nƣớc hành động cụ thể ủng hộ Việt Nam và phản đối chiến tranh xâm lƣợc của Mỹ.

Là nạn nhận trực tiếp trong âm mƣu không trao trả hoặc trao trả không đúng

thời hạn tù chính trị của Mỹ - ngụy, trong hai ngày 7 và 8/3/1973, hơn 900 chị em

từ các nhà tù Mỹ - Thiệu chiến thắng trở về đã tổ chức ngày hội 8/3. Chị Phạm Thị

Bích Thủy đã lên án Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đang tráo trở trong việc trao

trả và âm mƣu thủ tiêu tù chính trị, kiên quyết đòi phải trao trả hết, đúng kỳ hạn số

nhân viên quân sự và dân thƣờng còn bị giam giữ [37, tr.3].

Những hoạt động tích cực của phụ nữ miền Nam trong cuộc đấu tranh thi

hành Hiệp định Pari trên bàn đàm phán đã tranh thủ đƣợc sự đồng tình, ủng hộ và

đoàn kết quốc tế. Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam tại Stockhom

năm 1974 yêu cầu Mỹ và chính quyền Sài Gòn nghiêm chỉnh thực hiện các điều

khoản của Hiệp định Pari. Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đấu tranh thi

hành Hiệp định Pari đƣợc hình thành và phát triển mạnh mẽ. Cả thế giới đều thấy rõ

Mỹ và chính quyền Sài Gòn là kẻ phá hoại Hiệp định Pari, là rào cản chủ yếu cho

54

việc thực hiện hòa bình và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam.

Ngày 1/3/1973, đồng chí K.T. Ma-du-rốp, ủy viên Bộ chính trị Trung ƣơng

Đảng Cộng sản Liên Xô, Phó Chủ tịch thứ nhất, Hội đồng Bộ trƣởng Liên Xô lên

án việc chính phủ Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn vi phạm hiệp định Pari về chấm

dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và nhấn mạnh “Vấn đề mấu chốt là các

bên cần phải thực hiện các điều khoản của Hiệp định” [36, tr.4]. Đồng chí nhấn

mạnh, Liên Xô trƣớc sau nhƣ một, ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt

Nam anh em, ủng hộ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ cách

mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Tính chất chính nghĩa của cuộc đấu tranh kiên cƣờng, bất khuất, không

khoan nhƣợng của đồng bào và đặc biệt là phụ nữ miền Nam đã tác động mạnh mẽ

tới nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Vấn đề miền Nam Việt Nam đã trở thành

điểm nóng của thế giới. Nhân dân tiến bộ trên thế giới muốn nhanh chóng kết thúc

chiến tranh, lập lại hòa bình ở miền Nam Việt Nam. Tại Na Uy, hơn 6000 phụ nữ

biểu tình tuần hành qua các đƣờng phố lớn tại thủ đô Ôxlô mang nhiều biểu ngữ nêu

rõ ý chí đoàn kết đấu tranh, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân và phụ nữ thế giới

giành độc lập, tự do, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, đòi

“công nhận ngay chính phủ cách mạng miền Nam Việt Nam” và “Mỹ phải thi hành

nghiêm chỉnh Hiệp định Pari”. Tại Ấn Độ, ngày 4/3, Tổ chức hòa bình đoàn kết ở

bang Ra-gia-xthan đã tổ chức mít tinh ủng hộ Việt Nam. Cuộc mít tinh thông qua

nghị quyết nhiệt liệt chào mừng thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam, cực lực tố

cáo và lên án chính phủ Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định Pari.

Đặc biệt, nhân dân tiến bộ Mỹ hơn ai hết hiểu và cảm thông cho nhân dân

miền Nam, từ đó đấu tranh không mệt mỏi cho nền độc lập, tự do, thống nhất Tổ

quốc của nhân dân Việt Nam. Tại thành phố Niu Ooc, phụ nữ biểu tình họp mít tinh

ngay trƣớc trụ sở Liên hợp quốc, nhấn mạnh hoàn toàn ủng hộ các cuộc đấu tranh

giải phóng dân tộc của thế giới thứ ba.[52, tr.4] Ngày 28/3/1973, khoảng 20 thành

viên của tổ chức phụ nữ đấu tranh cho hòa bình ở Mỹ biểu tình tuần hành trƣớc cửa

hành lang bộ ngoại giao Mỹ, tố cáo Mỹ đã chi ít nhất 77.8 triệu đôla tiền thuế cho

Sài Gòn để giúp Thiệu tăng cƣờng khủng bố những ngƣời chống đối về chính trị và

tôn giáo, những ngƣời biểu tình hòa bình và những cựu binh chống chiến tranh ở

55

Việt Nam” [39, tr.4].

Từ đầu năm 1973, ngay sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực tới ngày chiến

thắng 30/4/1975, ngoại giao Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đoàn kết

quốc tế, vận động dƣ luận thế giới, gây sức ép buộc ngụy quyền Sài Gòn phải

nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pari, ngăn chặn Mỹ có thể dính líu, can thiệp quân

sự trở lại miền Nam Việt Nam, chuẩn bị tốt dƣ luận cho trận tổng công kích cuối

cùng về quân sự, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc.

2.2.4. Chỉ đạo phong trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ miền

Dƣới sự lãnh đạo sáng suốt và nhận định đúng đắn của Trung ƣơng Đảng và

Trung ƣơng Cục miền Nam về khả năng đấu tranh vũ trang của phụ nữ, trong những

năm 1973-1975, số lƣợng phụ nữ tham gia chiến tranh du kích tăng lên đáng kể, vai

trò của các đội nữ du kích, nữ pháo binh ngày càng đƣợc nâng cao. Phụ nữ quân

giải phóng miền Nam không những đã bẻ gãy những cuộc hành quân bình định lấn

chiếm mà còn tham gia đánh địch ngay tại căn cứ xuất phát. Nhiều đơn vị nữ vũ

trang nhƣ đội nữ pháo binh Xuân Lộc (Đồng Nai), Trung đội nữ pháo binh Cái

Nƣớc (Cà Mau), đại đội Lê Thị Hồng Gấm huyện Đức Phổ (tỉnh Quảng Ngãi)… đã

bao vây, bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt địch, tiến công căn cứ quân sự gây cho

địch nhiều thiệt hại.

Đêm 22/10/1973, trung đội nữ pháo binh Cái Nƣớc (Cà Mau), phối hợp với

hai đại đội bộ đội địa phƣơng bao vây đồn Sào Lƣới, mặc dù gặp khó khăn khi thủy

triều lên, nhƣng với tinh thần quyết tâm, đội pháo binh Cái Nƣớc vẫn đƣa đƣợc

pháo vào trận địa, bắn chính xác vào đồn địch. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt 3 ngày

đêm liên tục. Địch trong đồn Sào Lƣới tháo chạy, đơn vị truy kích diệt 7 tên, làm bị

thƣơng 9 tên, thu 8 súng.

Nhiều đơn vị nữ pháo binh đối mặt với vũ khí và phƣơng tiện chiến tranh hiện

đại của địch nhƣng không hề run sợ. Trung đội nữ pháo binh Rạch Giá đã bắn chìm

và bắn hỏng 7 thuyền chiến, diệt 1 xe bọc thép, 7 lô cốt và hơn 100 tên địch. Các

đội nữ du kích Hoà Phú, An Tịnh (Tây Ninh), Bình Đức (Mỹ Tho), Đức Hoà, Mộc

56

Hoá (Long An)… đã sử dụng súng cối 60 ly, 81 ly để diệt xe tăng Mỹ.

Phát huy truyền thống, độc lập và phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực, bộ

đội địa phƣơng, đội nữ du kích tập trung tỉnh Tây Ninh trong 9 tháng đầu năm 1973

đã đánh 21 trận, tiêu diệt và làm bị thƣơng hơn 50 quân địch.

Bƣớc sang năm 1974, lực lƣợng vũ trang chuyển mạnh sang thế chủ động tiến

công, đánh nhiều trận, tiêu diệt quân chủ lực ngụy, đập tan hầu hết các cuộc hành

quân lấn chiếm của địch, mở rộng vùng giải phóng. Bốn tháng đầu năm 1974, cả

miền núi và đồng bằng, phụ nữ cùng nhân dân tiến hành phản công và tiến công

3000 trận, diệt 20.000 địch, 42 đồn bốt, phá tan 14 khu dồn, ấp chiến lƣợc. Tiếp

đến, trong đợt hoạt động hè (21/4-31/5/1974), trên 60 vạn phụ nữ cùng nhân dân

phối hợp với lực lƣợng vũ trang tiến công phá 37 khu dồn, ấp chiến lƣợc, diệt và

bức rút 253 chốt, giải phóng lại 13 xã, ở Sơn Tịnh, Sơn Bình (Quảng Ngãi), Tam

Kỳ (Quảng Nam), Phù Mỹ (Bình Định) với 54000 dân [82, tr.432].

Thắng lợi của tiến công chính trị, binh vận, pháp lý cùng với thắng lợi của tiến

công quân sự trong năm 1974 đã đánh bại một bƣớc âm mƣu phá hoại Hiệp định Pari

của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, làm cho địch suy yếu cả về thế và lực,

chuẩn bị điều kiện cho cách mạng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

2.2.5. Chỉ đạo phụ nữ miền Nam tham gia tổng tiến công và nổi dậy mùa

xuân 1975

Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chƣa bao giờ khí thế đấu tranh của phụ

nữ sôi nổi, lực lƣợng phụ nữ đƣợc huy động đến mức cao nhất nhƣ mùa xuân năm

1975. Trên cơ sở phân tích toàn diện, Bộ Chính trị khẳng định “động viên những nỗ

lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến

công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao

nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân nguỵ, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt

trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ nguỵ quyền ở Trung

ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn

miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới

thống nhất nước nhà” [67, tr.185].

Từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975, Bộ Chính trị họp đợt hai, quyết định

57

“gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nƣớc trong

năm 1975 hoặc năm 1976”. Trong khi xác định kế hoạch hai năm, Bộ Chính trị

quyết định “phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975” [67, tr.192]. Bộ

Chính trị nhận định “Cả năm 1975 là thời cơ… Nếu thời cơ đến vào đầu năm hoặc

cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Đây là dự kiến

cực kỳ sáng suốt trong quyết tâm và chủ trƣơng chiến lƣợc của Đảng. Bộ Chính trị

quyết định mở đầu chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 bằng cuộc

đột phá chiến lƣợc vào Buôn Ma Thuột, gây ảnh hƣởng rộng và nhanh đến toàn cục.

Quán triệt tinh thần, chủ trƣơng của Bộ Chính trị, phụ nữ cùng quân dân cả

nƣớc bƣớc vào mùa Xuân 1975 với khí thế tiến công, quyết chiến quyết thắng.

Công tác chuẩn bị và phát triển thực lực với tinh thần “Tất cả cho chiến thắng” sôi

nổi, khẩn trƣơng, đến cuối năm 1974, Nam Trung Bộ có thêm 9183 nữ du kích xã,

thôn, tự vệ mật. Các đơn vị nhƣ đại đội tập trung Lê Thị Hồng Gấm của Quảng

Ngãi, đội biệt động “Chim én” của Bình Định, đại đội pháo binh của Phú Yên đƣợc

tăng cƣờng thêm [82, tr.440]. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975

đã có hơn 200.000 phụ nữ miền Nam tham gia công tác phục vụ chiến đấu, hơn

7000 phụ nữ tham gia lực lƣợng vũ trang và bán vũ trang [119, tr.495].

Phụ nữ Đắc Lắc đƣợc Tỉnh ủy phân công, giáo dục quần chúng giữ bí mật về

các hoạt động của bộ đội, chuẩn bị sẵn sàng lực lƣợng nổi dậy và làm công tác binh

vận. Trên 70.000 phụ nữ và nhân dân vùng giải phóng Đắc Lắc đã trực tiếp phục vụ

chiến dịch.1 giờ 55 phút ngày 10/3/1975, lực lƣợng đặc công và các cánh quân đƣợc

chị em cơ sở và tự vệ mật dẫn đƣờng đã tiến vào Buôn Ma Thuột, tham gia truy lùng

bọn phản động ác ôn lẩn trốn và đám tàn quân ẩn náu trong dân, tổ chức bảo vệ cơ

quan, nhà máy, điện nƣớc, kho tàng, bệnh viện, kêu gọi những ngƣời làm việc cho

địch ra trình diện, nộp vũ khí… Sau giải phóng Buôn Ma Thuột, từ ngày 12-

24/3/1975, phối hợp với bộ đội tiến công, phụ nữ và nhân dân trong tỉnh nổi dậy giải

phóng các quận lỵ, thị trấn, giải phóng hoàn toàn tỉnh Đắc Lắc.

Trong tình thế nguy ngập, ngày 14/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu quyết định rút

bỏ Cao Nguyên, đƣa toàn bộ lực lƣợng chủ lực về giữ vùng duyên hải miền Trung.

Từ đêm 14/3 toàn bộ quân địch ở hai tỉnh Gia Lai, Kon Tum gồm 6 vạn tên rút chạy

58

theo đƣờng số 7 về hƣớng Tuy Hòa (Phú Yên) bị quân cách mạng chặn đƣờng tiêu

diệt, bắt sống và tan rã gần hết. Phối hợp với chiến thắng Buôn Ma Thuột và toàn

tỉnh Đắc Lắc, nhân dân và phụ nữ 4 tỉnh tây Nguyên nổi dậy cùng các lực lƣợng vũ

trang địa phƣơng phá hàng loạt khu dồn, ấp chiến lƣợc, giải phóng thị xã Kon Tum

(16/3), thị xã Pleiku (17/3), quận lỵ Kiến Đức(20/3), Thị xã Gia Nghĩa và quận lỵ

An Khê (23/3). Đến ngày 24/3, 4 tỉnh Tây Nguyên (Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum,

Quảng Đức) đƣợc hoàn toàn giải phóng [82, tr.448].

Phối hợp với chiến trƣờng Tây Nguyên, từ ngày 10/3/1975, phụ nữ và nhân

dân các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên cùng lực

lƣợng vũ trang địa phƣơng tiến công và nổi dậy giải phóng nông thôn. Phụ nữ và

nhân dân các huyện phía bắc tỉnh nổi dậy cùng với bộ đội địa phƣơng tiến công tiêu

diệt 2 đại đội bảo an, giải tán phòng vệ dân sự, giải phóng 9 xã ở Đồng Xuân, Sông

Cầu. Giữa tháng 3/1975, đội nữ pháo binh huyện Tuy Hòa, tích cực tiến công địch,

hỗ trợ quần chúng nổi dậy, triệt hạ một khẩu 105, bắn cháy một xe M113. Đến ngày

25/3, toàn bộ nông thôn Phú Yên đƣợc giải phóng [82, tr.454-455].

Từ tháng 1 đến tháng 4/1975, phối hợp với mũi tấn công mãnh liệt và thần tốc

của lực lƣợng vũ trang trên các chiến trƣờng, phụ nữ các nơi đều đẩy mạnh phong

trào đấu tranh chính trị và binh vận, làm cho tinh thần binh sĩ, sĩ quan trong quân

đội Sài Gòn hoang mang, lo sợ, luôn luôn chuẩn bị tƣ thế đầu hàng. Nhiều ngƣời

chủ động liên hệ với cách mạng làm binh biến khởi nghĩa. Phụ nữ các xã xung

quanh huyện Điện Bàn nổi dậy tiến công các đồn lính ngụy, làm chủ thị trấn, vận

động đƣợc 2400 binh sĩ mang nộp 234 súng. Phụ nữ huyện Đại Lộc nổi dậy phá ấp

chiến lƣợc, vận động 796 lính ngụy mang 315 súng ra hàng, làm tan rã dân vệ và

các lực lƣợng kìm kẹp của địch [82, tr449].

Dƣới sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, các cấp bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ giải

phóng, phụ nữ còn tổ chức những nhóm binh vận chuyên môn, trực tiếp tuyên

truyền giáo dục các chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, vừa tranh thủ

bằng tình cảm, vừa thuyết phục bằng lý lẽ sắc bén; sẵn sàng giúp đỡ phƣơng tiện,

tiền bạc, đƣa những binh sĩ rã ngũ trở về quê quán. Phụ nữ huyện Hòa Vang trong

hai ngày 28-29/3/1975 đã vận động hàng trăm lính phản chiến lập công, đƣa 112 tối

59

hậu thƣ cho sĩ quan đóng quân, cùng du kích bắt 736 tên, làm tan rã 3681 tên, rã

ngũ tập thể 10 trung đội, một tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến,

thu 1524 súng và 21 máy thông ti… Tại Hội An, từ chiều 28/3, chị em phụ nữ đã

đƣa hơn 200 thuyền chở bộ đội qua sông vào giải phóng thị xã, tràn vào phá nhà

lao, giải phóng 350 chiến sĩ đang bị giam giữ, làm rã ngũ 20.000 tên phòng vệ dân

sự, thu 3493 súng các loại [82, tr453].

Sáng ngày 30/4/1975, các cánh quân giải phóng từ 5 hƣớng đồng loạt tiến vào

nội thành Sài Gòn. Nữ giao liên Nguyễn Trung Kiên dẫn đƣờng cho đoàn xe tăng

quân giải phóng, hùng dũng tiến vào Dinh Độc lập, giải phóng Sài Gòn, đập tan cơ

quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Trên đà thắng lợi, từ ngày 30/4/1975, đồng bào và các chiến sĩ các tỉnh

đồng bằng sông Cửu Long đã đồng loạt tiến công. Nắm vững phƣơng châm “không

trông chờ, không ỷ lại”, đồng bằng sông Cửu Long nhất tề nổi dậy. Bƣớc vào chiến

dịch Hồ Chí Minh, lực lƣợng phụ nữ tiếp tục bao vây đồn bốt, vận động gia đình

binh lính xây dựng nội tuyến, giải phóng thêm hàng loạt đồn bốt, trấn áp tề xã, bao

vây các chi khu, buộc địch đầu hàng. Trên tuyến lộ Cần Thơ – Chƣơng Thiện,

25000 quần chúng tuần hành, lực lƣợng phụ nữ đi đầu, tiến vào chiếm lĩnh chi khu

Kinh Cùng, thị trấn Long Mỹ, hƣớng dẫn cả ngàn gia đình binh sĩ, vận động làm tan

rã sƣ đoàn 21 của địch, thu toàn bộ vũ khí.

Tỉnh Bến Tre, sáng 30/4/1975, lực lƣợng khởi nghĩa kết hợp đấu tranh chính trị,

binh vận với đánh du kích, đã xóa sạch trên 700/754 đồn bốt. Chị Tƣơng ở Ba Tri vận

động phụ nữ nổi dậy, hợp sức với gia đình binh sĩ chiếm hàng loạt đồn bốt, bao vây thị

trấn, buộc quận phó đầu hàng, giao nộp toàn bộ vũ khí. Chị Năm Thanh ở Giồng Trôm

tổ chức quần chúng bao vây tiểu đoàn 418, bắc loa kêu gọi lính đầu hàng, buộc Quận

trƣởng giao toàn bộ vũ khí, giấy tờ, phƣơng tiện, máy móc cho chính quyền cách mạng

và cắm cờ cách mạng ở dinh quận ngày 1/5/1975.

Ở Long An, trƣớc khi Dƣơng Văn Minh tuyên bố đầu hàng, phụ nữ và nhân

dân Đức Hòa đã bao vây địch bắt hàng ngàn tên. Hai phụ nữ ở Xóm Mới, xã Hiệp

Hòa tay không bắt 40 lính ngụy. Xã Bình Nhựt, chị em hƣớng dẫn hàng ngàn lính

của sƣ đoàn 22 đi tìm quân giải phóng để đầu hàng. Xã Phƣớc Đông huyện Cần

60

Đƣớc, một phụ nữ tiếp nhận 100 lính đầu hàng.

Tỉnh Sóc Trăng, các mũi khởi nghĩa đều do cán bộ phụ nữ phụ trách, kể cả

mũi đánh chiếm sân bay Sóc Trăng. 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, phụ nữ cùng nhân

dân toàn tỉnh chiếm hoàn toàn trận địa pháo, kho đạn lớn đầu sân bay và kéo cờ giải

phóng lên nóc nhà viễn vọng trong sân bay [118, tr.464].

Ở Đồng Tháp, phụ nữ và gia đình binh sĩ nổi dậy với lực lƣợng khởi nghĩa

trên 10.000 ngƣời, tràn vào các đồn bốt, vận động chồng con và bắt địch đầu hàng.

Một phụ nữ ở Tân Quy Đông, ven thị xã Sa Đéc điều khiển lực lƣợng quần chúng

và du kích chiếm 3 xã, thu 180 súng.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, vai trò của các đội nữ

du kích, nữ pháo binh ngày càng đƣợc khẳng định trong việc phối hợp đấu tranh với

bộ đội chủ lực và bộ đội địa phƣơng nhằm tiêu diệt nhiều nhất sinh lực địch. Tiêu

biểu là đại đội nữ pháo binh tỉnh Cà Mau phối hơp với Tiểu đoàn 3 bộ đội địa

phƣơng tỉnh và bộ đội địa phƣơng huyện Châu Thành tiến công từ 2 giờ đến 15 giờ

ngày 30/4/1975, phá hủy một số đề kháng đại liên, một cối 60 ly, diệt 8 tên, làm bị

thƣơng 5 tên, thu hai kho đạn. Chị em sôi nổi bao vây các đồn bốt, tiếp nhận trên

16000 binh sĩ ngụy đầu hàng và nộp súng cho cách mạng [118, tr.466].

Ngày 30/4/1975, cuộc chiến tranh xâm lƣợc và ách thống trị thực dân mới của

đế quốc Mỹ ở miền Nam đã thất bại hoàn toàn, giải phóng miền Nam, kết thúc vẻ

vang cuộc chiến tranh cứu nƣớc lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch

sử chống ngoại xâm của dân tộc. Phụ nữ với sức sáng tạo vô biên và trí thông minh

kỳ diệu, cùng với toàn thể nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kỳ tƣởng

chừng không thể làm đƣợc giữa thế kỷ XX. Thật đáng khâm phục, xúc động và tự

hào khi nhìn khẩu các bin của anh hùng Út Tịch, cây súng cũ kĩ của anh hùng Kan

Lịch đã diệt 13 tên địch và chiếc khăn rằn của anh hùng Tạ Thị Kiều đã đội đầu

tham gia hàng trăm trận đấu, tay không cƣớp đồn địch, bắt sống ác ôn... Những

ngƣời anh hùng nhƣ Võ Thị Huynh, Nguyễn Thị Phúc, Lê Thị Hồng Gấm, Hồ Thị

Kỷ... không những đã tự giải phóng cho đời mình mà còn làm rạng danh cho truyền

61

thống đất nƣớc, cho truyền thống bất khuất của Bà Trƣng, Bà Triệu.

Tiểu kết

Từ 27/1/1973 đến 30/4/1975, giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nƣớc, dƣới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng mà trực tiếp là

Trung ƣơng Cục miền Nam, phong trào đấu tranh của phụ nữ đã diễn ra liên tục,

đều khắp, quyết liệt trên cả 3 mũi chính trị, quân sự, binh vận và trên bàn đàm phán.

Trong giai đoạn này, nhận định tình hình sau Hiệp định Pari về Việt Nam, Trung

ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam đã chỉ rõ nội dung đấu tranh là đòi Mỹ và

chính quyền Sài Gòn nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pari, ở cả nông thôn, đô thị

và trong nhà tù đế quốc, đảm bảo quyền dân sinh, dân chủ của phụ nữ nói riêng và

nhân dân miền Nam nói chung. Phụ nữ miền Nam cùng nhân dân miền Nam với sự

hỗ trợ to lớn về cả vật chất lẫn tinh thần của hậu phƣơng miền Bắc đã góp phần

không nhỏ “đánh cho ngụy nhào”, thực hiện đúng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, tiến hành thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, giành

62

độc lập dân tộc, thống nhất đất nƣớc, Nam – Bắc sum họp một nhà.

Chƣơng 3

NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

Suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc đầy gian khổ, trên chiến

trƣờng miền Nam, nơi tuyến đầu của Tổ quốc, dƣới sự lãnh đạo của Trung ƣơng

Cục miền Nam, phụ nữ đã vƣợt qua bao thử thách, kiên trì chiến đấu, lập nên những

chiến công lừng lẫy trên các mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, công

tác binh vận và hiên ngang, vững vàng trên bàn đàm phán. Chị em góp phần to lớn

cùng nhân dân miền Nam làm thất bại chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của

đế quốc Mỹ, buộc Mỹ ký Hiệp định Pari, làm nên chiến thắng lịch sử mùa xuân

1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trải qua các thời kỳ cách mạng, vị trí, vai

trò của phụ nữ Việt Nam xứng đáng với lời khen tặng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

Minh “Giang sơn gấm vóc Việt Nam là do phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già dệt

thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ…”[93, tr.186].

Từ quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đƣờng lối lãnh đạo phong trào đấu tranh

của phụ nữ miền Nam từ năm 1969 đến năm 1975 của Trung ƣơng Đảng mà trực tiếp

là Trung ƣơng Cục miền Nam Việt Nam có thể phân tích, làm rõ những ƣu điểm và

hạn chế trong đƣờng lối lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, đặc biệt là Trung ƣơng Cục

miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ, từ đó rút ra những kinh nghiệm

quý báu, vận dụng vào công tác vận động, tổ chức phụ nữ trong thời kỳ hiện nay.

3.1. Nhận xét

3.1.1. Ưu điểm

3.1.1.1. Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ

nữ kết hợp linh hoạt phương châm “hai chân, ba mũi giáp công”

Ngay từ những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, phƣơng châm

đấu tranh “hai chân, ba mũi giáp công” đã đƣợc Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục

miền Nam nhấn mạnh và thực hiện triệt để. Tháng 10/1961, Hội nghị lần thứ nhất

Trung ƣơng Cục, bàn về việc thực hiện nhiệm vụ trƣớc mắt của cách mạng miền

Nam, quyết phục hồi các tổ chức quần chúng ở miền Nam nhƣ Nông hội giải

phóng, Công hội giải phóng, phụ nữ giải phóng, Thanh niên, Trí thức yêu nƣớc…

63

thực hiện phƣơng châm “hai chân, ba mũi”, củng cố các chi bộ. Trung ƣơng Cục

xác định việc thực hiện phƣơng châm “hai chân, ba mũi” phải tùy theo vùng chiến

lƣợc (ở rừng núi, căn cứ kháng chiến thì đấu tranh vũ trang là chính, ở vùng tranh

chấp giữa ta và địch thì đấu tranh vũ trang và chính trị song song, ở vùng đô thị tạm

chiếm thì đấu tranh chính trị là chính, có vũ trang hỗ trợ).

Bƣớc vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung ƣơng Đảng

và Trung ƣơng Cục miền Nam phát huy cao độ vai trò của phƣơng châm “hai chân,

ba mũi giáp công”, sáng suốt khi khẳng định con đƣờng cách mạng miền Nam là

con đƣờng cách mạng bạo lực đƣợc thực hiện bằng hai lực lƣợng cơ bản: lực lƣợng

chính trị của quần chúng và lực lƣợng vũ trang nhân dân, bằng hai hình thức đấu

tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự kết hợp chặt chẽ với nhau tạo

nên cách đánh “hai chân”, đồng thời tổ chức vận động binh sĩ địch, đánh địch từ bên

trong, phối hợp đấu tranh tiến công của các lực lƣợng vũ trang từ bên ngoài tạo

phƣơng châm “ba mũi chiến lƣợc” sáng tạo nhằm phá kế hoạch bình định, lập ấp

chiến lƣợc của Mỹ - ngụy, làm địch bất ngờ và bối rối.

Nhận thức đúng đắn và triệt để phƣơng châm “hai chân, ba mũi giáp công”,

phối hợp chặt giữa ba mặt quân sự, chính trị, binh vận, Trung ƣơng Cục miền Nam

xác định cần xây dựng phát triển mạnh lực lƣợng nữ du kích, đội ngũ đấu tranh

chính trị và binh vận của quần chúng, trong đó phụ nữ là lực lƣợng quan trọng

nhằm chống kìm kẹp, chống khủng bố, chống thanh lọc, giải quyết đời sống hàng

ngày, đòi tự do đi lại, sản xuất, làm ăn, đòi về làng cũ, chống bắt lính, chống vào

các tổ chức dân vệ, phòng vệ dân sự, triệt nguồn bổ sung quân số của địch…

Với đặc điểm riêng của giới, chị em phụ nữ vận dụng một cách linh hoạt và

nhuần nhuyễn phƣơng châm “hai chân, ba mũi giáp công” trong từng cuộc đấu

tranh, trong từng chiến dịch và suốt cả thời kỳ cách mạng, coi đó nhƣ là một thứ

bửu bối lợi hại, một vũ khí đấu tranh có hiệu quả cao nhất. Phụ nữ miền Nam bằng

sức mạnh của hai lực lƣợng với 3 mũi giáp công đã làm nên một cuộc Đồng Khởi

lịch sử, đánh đòn phủ đầu vào chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu cho cuộc chiến tranh

cách mạng ở miền Nam và tiếp đó, cũng bằng hai lực lƣợng và ba mũi giáp công lần

lƣợt đánh bại các chiến lƣợc chiến tranh của Mỹ, từ chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt,

64

chiến lƣợc chiến tranh cục bộ, chiến lƣợc Việt Nam hóa chiến tranh. Và cuối cùng,

cũng bằng hai lực lƣợng với ba mũi đấu tranh tiến hành tổng tiến công và nổi dậy

mùa xuân 1975 kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc vĩ đại.

Trong đấu tranh “hai chân, ba mũi giáp công”, đặc biệt trong điều kiện địch

bình định, đóng đồn bốt kiên cố, phƣơng pháp đánh đồn bằng hình thức cƣờng tập

gặp khó khăn, vì vậy vận dụng “ba mũi giáp công”, nhất là đấu tranh chính trị và

binh vận có vai trò đặc biệt quan trọng. Lực lƣợng chính trị là đội xung kích, mũi

tiến công lợi hại ngay trong vùng địch kiểm soát, trực diện chống lại chƣơng trình

bình định, giành dân, lập ấp chiến lƣợc, làm rối loạn hậu phƣơng địch ở nông thôn

cũng nhƣ thành thị.

Dƣới sự chỉ đạo của Trung ƣơng Cục, phong trào đấu tranh chính trị của phụ

nữ đƣợc tổ chức chặt chẽ từ thấp đến cao, từ lẻ tẻ đến tập trung ở cả cơ sở xã ấp,

đƣờng phố. “Binh chủng đặc biệt” này có lực lƣợng tiến công ở phía trƣớc, lực

lƣợng dự bị để tăng viện, lực lƣợng hậu cần ở phía sau.

Với tƣ cách là một tổ chức chiến đấu, bao gồm những phần tử trung kiên nhất,

đội quân chính trị không chỉ trực tiếp đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống

khủng bố, chống bắt lính, chống dồn dân, lập ấp, tiến công binh vận, địch vận, làm

nòng cốt cho nổi dậy khởi nghĩa giành quyền làm chủ của nhân dân mà còn cùng

với lực lƣợng vũ trang tham gia trực tiếp đánh địch trên các chiến trƣờng, tiêu hao

tiêu diệt một số lƣợng lớn quân địch. Với sự kết hợp linh hoạt, tài tình hình thức

đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, sau Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân

1968, tính chung toàn miền Nam có hơn 2 triệu phụ nữ vũ trang nổi dậy bao vây,

tiêu diệt, bức rút, bức hàng hơn 500 đồn bốt địch, làm rã ngũ hàng vạn binh lính

ngụy, góp phần làm thất bại một bƣớc căn bản chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến

tranh” của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom

phá hoại miền Bắc và ký Hiệp định Pari ngày 27/1/1973.

Cùng với đấu tranh chính trị, và hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh vũ trang, công

tác binh vận của phụ nữ tạo nên thế mạnh để giành thắng lợi, cô lập, phân hóa và

làm tan rã ngay trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện triệt để phƣơng châm “ba mũi” mà

Trung ƣơng Cục đã quán triệt. Lực lƣợng đàn áp phong trào cách mạng là binh lính

65

ngƣời Việt cầm súng Mỹ, trong đó đại đa số là chồng, là cha, là con em của đồng

bào, hầu hết đều muốn chấm dứt chiến tranh, trở về quê hƣơng để sinh sống làm ăn.

Với đƣờng lối binh vận, địch vận đúng đắn, phù hợp với thực tế của Trung ƣơng

Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam,

phụ nữ đã trở thành lực lƣợng đông đảo và tích cực nhất trong phong trào vận động

binh sĩ ngụy trở về với cách mạng, phân hóa hàng ngũ binh sĩ ngụy, tranh thủ và lôi

kéo đƣợc sự đồng tình của đa số binh lính, vận động binh lính ngụy không bắn vào

nhân dân, tổ chức binh biến chiếm đồn, trở về với chính nghĩa dân tộc. Công tác

binh vận thực sự trở thành mũi tiến công sắc bén trong “ba mũi giáp công” lợi hại,

trong đó, vai trò, khả năng của phụ nữ đƣợc thể hiện rõ nét nhất.

Bên cạnh đấu tranh “hai chân, ba mũi giáp công” phụ nữ miền Nam còn góp

phần không nhỏ làm nên những thắng lợi quan trọng trên bàn đàm phán, đẩy địch

vào thế “bị kẹt bên trong, bị tiến công bên ngoài”. Năm 1968, sau sự kiện Mậu

Thân, Mỹ buộc phải đồng ý mở các cuộc đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Sự

xuất hiện của một ngƣời phụ nữ thuộc lực lƣợng kháng chiến tại Pháp - bà Nguyễn

Thị Bình với vai trò Trƣởng đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam

đã tạo hiệu ứng rất lớn với phong trào phản chiến và phong trào phụ nữ trên thế

giới. Với phong thái tự tin, ung dung, cùng những bài phát biểu, với những lý lẽ sắc

bén, hùng hồn, trong mắt bạn bè thế giới, đặc biệt là giới báo chí phƣơng Tây, bà

trở thành “nữ hoàng Việt cộng”, với sức lôi cuốn và ám ảnh lớn hơn nhiều so với

những nhà ngoại giao nam giới, góp phần không nhỏ trong việc buộc Mỹ ký Hiệp

định Pari ngày 27/1/1973 với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ

cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Nhƣ vậy, với việc đánh giá đúng đặc điểm giới phụ nữ và khả năng cách

mạng của phụ nữ, Trung ƣơng Cục đã đƣa ra phƣơng châm đấu tranh phù hợp “hai

chân, ba mũi giáp công” nhằm phát huy tối đa sức chiến đấu của chị em trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Dƣới sự lãnh đạo của Trung ƣơng Cục, phụ nữ

miền Nam đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt phƣơng châm đấu tranh trên, giành nhiều

thắng lợi quan trọng, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ

66

cứu nƣớc trƣờng kỳ.

3.1.1.2. Sự lãnh đạo của Trung ương Cục thúc đẩy phong trào đấu tranh của

phụ nữ miền Nam phát triển trên quy mô lớn

Ngay khi bƣớc vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, phụ nữ Việt Nam

đã trở thành lực lƣợng đông đảo và xung kích nhất trong các mũi nhọn đấu tranh.

Từ Đồng Khởi - Bến Tre năm 1960, phong trào đấu tranh cách mạng nhanh chóng

phát triển và lan nhanh ra cả miền Nam. Từ vĩ tuyến 17 tới mũi Cà Mau, nơi nào

cũng xuất hiện và ghi dấu của phong trào phụ nữ, những nơi khó khăn nhất, gay go,

ác liệt nhất, chị em đều có mặt, hoạt động tích cực và hoàn thành tốt nhiệm vụ mà

Đảng, Trung ƣơng Cục và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam giao phó.

Theo tính toán của Mỹ chỉ cần vài chục vạn quân, mở mấy cuộc phản công

chiến lƣợc trong ba mùa khô, “tìm diệt”, đánh gãy xƣơng sống quân chủ lực Việt

Cộng, bắt sống hoặc tiêu diệt Trung ƣơng Cục và Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền

Nam, giáng cho miền Bắc chiến dịch ném bom quy mô lớn, cắt đứt đƣờng Hồ Chí

Minh là Việt Nam phải chịu thua, Mỹ toàn thắng, rút quân về nƣớc, áp đặt thành

công chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Nhƣng những tính toán ấy đã

gặp những bất ngờ của lẽ sống độc lập của nhân dân Việt Nam anh hùng. Để rồi,

các chiến lƣợc chiến tranh của Mỹ lần lƣợt thất bại bởi cái bất ngờ của tiếng hát

Nguyễn Thị Phúc, bởi cái bất ngờ “còn cái lai quần cũng đánh” của chị Út Tịch, cái

bất ngờ “ăn lá bóp đánh giặc” của Bi Nằng Tắc, cái bất ngờ “bầy ong đánh giặc”

của Nguyễn Văn Tƣ, và cả cái bất ngờ trong tiếng mìn Nguyễn Văn Bé. Cái bất ngờ

ấy ở trong những con ngƣời hết sức bình dị, nhƣng đến khi đất nƣớc có ngoại xâm

thì đã bùng dậy trong từng trái tim sức mạnh của những hòn núi lửa.

Diễn ra trên khắp dải đất miền Nam, phong trào đấu tranh của phụ nữ đã thực

sự là ngọn cờ đầu trong đấu tranh chống Mỹ cứu nƣớc, giành độc lập dân tộc, thống

nhất Tổ quốc. Phong trào là nơi hiệu triệu, thu hút đông đảo chị em phụ nữ, đủ mọi

lứa tuổi, đủ mọi tầng lớp, giai cấp xã hội, mọi ngành nghề, mọi tôn giáo tham gia.

Phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam đã tập hợp hàng trăm, hàng vạn, có khi

lên tới hàng triệu phụ nữ thuộc mọi tầng lớp, giai cấp, ngành nghề, tôn giáo ở các

xã, huyện, tỉnh trên toàn miền tham gia đấu tranh tạo nên sức mạnh tổng hợp, đấu

67

tranh với kẻ thù mọi lúc, mọi nơi, bằng nhiều hình thức, với những khẩu hiệu, nội

dung đấu tranh phong phú, làm địch bối rối, nhiều lúc đã phải đầu hàng. Phong trào

đấu tranh của phụ nữ miền Nam mà lực lƣợng nòng cốt là “Đội quân tóc dài” đã tập

hợp đƣợc những chị em kiên trung, mƣu trí, sáng tạo nhất trong cuộc đƣơng đầu với

Mỹ - ngụy. Từ Đồng Khởi năm 1960, với chủ trƣơng, chính sách vận động phụ nữ

của Trung ƣơng Đảng, Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam, chị em ngày

càng đƣợc rèn luyện, giác ngộ cách mạng sâu sắc, đủ sức đứng vững trƣớc những

âm mƣu và hành động đàn áp, khủng bố cùng những chiêu trò mua chuộc, dụ dỗ

của kẻ thù.

Với số lƣợng đông đảo, phong trào đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam

phát triển sâu rộng trên cả ba vùng chiến lƣợc, thành thị - nơi tập trung cơ quan đầu

não chính trị, quân sự của địch, nông thôn đồng bằng - địa bàn chính của chƣơng

trình “bình định” và rừng núi – với địa hình hiểm trở gây nhiều khó khăn cho hoạt

động chiến tranh của địch.

Ở nông thôn, các má, các chị, các em thiếu nhi… tất cả đều trở thành lực

lƣợng tiêu diệt địch; ở thành thị, chị em nữ công nhân phối hợp với chị em tiểu

thƣơng tiểu chủ đấu tranh kiên quyết đòi các quyền dân sinh dân chủ, đảm bảo công

việc, chống đánh đập, thải thợ… đồng thời ủng hộ tích cực phong trào biểu tình, bãi

khóa, đốt xe Mỹ của các nữ sinh, giáo viên, công chức, viên chức trong các trƣờng

học. Chị em Phật tử cũng tích cực tham gia đấu tranh, hỗ trợ sinh viên, học sinh

trong phong trào đấu tranh chống Mỹ, lật Thiệu, đòi Mỹ rút quân về nƣớc, chống

đàn áp khủng bố, bắt bớ, chống quân sự hóa trƣờng học.

Đặc biệt, ở thành thị, nhiều tổ chức đấu tranh, bảo vệ phụ nữ đã ra đời và phát

triển nhƣ Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, Ủy ban phụ nữ đòi quyền

sống, sau đổi là Phong trào phụ nữ đòi quyền sống… Các tổ chức trên đã tích cực hỗ

trợ các cuộc đấu tranh của nữ công nhân, luôn sát cánh và ủng hộ phong trào học sinh

sinh viên, giáo chức, ký giả và các tôn giáo… Nhƣ vậy, so với giai đoạn trƣớc, phong

trào phụ nữ miền Nam có bƣớc phát triển với quy mô lớn hơn. Phong trào đã có

những tổ chức riêng, tập trung đòi quyền lợi cho giới phụ nữ, là ngọn cờ hiệu triệu và

động viên đông đảo nhất lực lƣợng phụ nữ tham gia cách mạng, thúc đẩy phong trào

đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam, nhất là phụ nữ thành thị phát triển mạnh

68

mẽ, rộng khắp.

Ở rừng núi, vận dụng địa hình hiểm trở, sự bao bọc của tự nhiên, với những vũ

khí đặc biệt, cuộc đấu tranh của chị em phụ nữ cùng đồng bào các dân tộc đã trở

thành nỗi khiếp sợ của quân thù.

Không chỉ ở đất liền, tại các nhà tù đế quốc, trong hàng ngũ đấu tranh, bên

cạnh những nữ sinh, những phụ nữ còn rất trẻ, tuổi đời mới 18-20, là những má,

những mẹ cũng bị giam vào Chuồng Cọp, chịu đựng mọi hình thức tra tấn cực kỳ dã

man. Tất cả chị em nữ tù đã tập hợp nhau lại, đoàn kết đấu tranh và trở thành ngọn

cờ hiệu triệu to lớn, gây tiếng vang, tác động mạnh mẽ tới phong trào đấu tranh

chung của các tù chính trị bị giam tại toàn bộ hệ thống nhà tù đế quốc. Đƣợc tôi

luyện trong lò lửa cách mạng, trong khắp các nhà tù đế quốc, từ Tân Hiệp, Chí Hòa,

Phú Lợi, đế Phú Quốc, đặc biệt là nhà tù Côn Đảo, trƣớc những đòn roi, những hình

thức tra tấn của kẻ thù, các chị, các mẹ vẫn kiên trinh giữ trọn lời thề, giữ trọn khí

tiết cách mạng. Những tra tấn, những nhục hình chỉ có thể hủy hoại thân thể các chị

nhƣng không thể làm nhụt chí khí, làm lung lay ý chí cách mạng, không làm dịch

chuyển đƣợc niềm tin vào Đảng, vào cách mạng, vào nhân dân của các nữ tù. Biến

nhà tù thành trƣờng học cách mạng, tại “địa ngục trần gian”, các chị vẫn ngoan

cƣờng chiến đấu, vẫn là “những đóa hoa trong tù ngục”. Đó là hình ảnh má Sáu mù,

mắt mờ, sức yếu vẫn kiên quyết không chịu điều kiện, kiên quyết đứng trong hàng

ngũ đấu tranh của chị em dù biết bị tra tấn, đánh đập dã man, hay đó là nụ cƣời chị

Võ Thị Thắng với câu nói nổi tiếng trƣớc bản án khổ sai của nhà tù Mỹ - ngụy “Tôi

chỉ sợ chính quyền các ông không tồn tại đến ngày tôi mãn hạn tù”. Nụ cƣời chiến

thắng và câu nói của Võ Thị Thắng trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiến hành cuộc chiến tranh xâm lƣợc miền Nam

Việt Nam, nhƣng lại không hiểu truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam,

không hiểu con ngƣời Việt Nam, nên suy nghĩ thật đơn giản khi cho rằng chỉ cần

súng ống hiện đại với những chiến lƣợc – chiến thuật chiến tranh với quy mô lớn có

thể tiêu diệt đƣợc dân tộc Việt Nam. Mỹ không biết rằng ở đất nƣớc này, trên khắp

miền Nam còn có một đội quân “kỳ lạ” “không súng ống, có mặt ở khắp nơi, thành

thị cũng như thôn quê, một đội quân mà các bản tin của các hãng thông tấn hầu

69

như không bao giờ nói đến, song lại đóng vai trò to lớn trong cuộc chiến đấu của

nhân dân miền Nam Việt Nam chống xâm lược, ngay cả trước khi những người du

kích đầu tiên cầm lấy vũ khí. Đó chính là”đội quân búi tóc” tập hợp hàng triệu nữ

chiến sĩ” [103, tr.62-63].

3.1.1.3. Trung ương Cục miền Nam đã giáo dục, tổ chức phụ nữ đấu tranh,

làm cho phong trào phát triển mạnh với tính tự giác cao, với những hình thức đấu

tranh phong phú

Cuộc chiến tranh xâm lƣợc miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ đã gây cho

phụ nữ miền Nam biết bao nỗi đau, mất mát. Cuộc chiến tranh ấy đã buộc ngƣời

phụ nữ phải tự đứng lên, đấu tranh nhằm bảo vệ cuộc sống của mình, của gia đình

mình, quê hƣơng và dân tộc mình. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc là một

cuộc chiến tranh nhân dân, vì thế, phụ nữ - một nửa dân số không thể đứng ngoài

cuộc chiến đấu vĩ đại này. Các chị, các mẹ không những đóng góp sức ngƣời, sức

của cho cuộc chiến mà còn trực tiếp tham gia chiến đấu.

Chị em tham gia với tƣ cách là phong trào của một giới, không phải chỉ là

những cuộc nổi dậy riêng lẻ mang tính tự phát của một nhóm ngƣời chỉ đồng tình

với cách mạng, hoặc chỉ hƣởng ứng một cách thụ động mà đó là phong trào có tính

tự giác cao. Phong trào phụ nữ thể hiện sự kết hợp cả ba mặt đấu tranh giải phóng

dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng giới phụ nữ.

Trong đấu tranh chính trị, trƣớc những hành động phá hoại, giết chóc, đàn áp,

khủng bố điên cuồng của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, nhà cửa, vƣờn tƣợc

bị phá hủy, mồ mả bị cày xới, thuế má tăng vọt, tệ nạn xã hội tràn lan,… cuộc sống

của đồng bào miền Nam, nhất là phụ nữ miền Nam trở nên ngột ngạt hơn bao giờ

hết. Chính trong hoàn cảnh ấy, chị em đã tự đứng lên, đoàn kết, tập hợp nhau lại

nhằm chống kẻ thù chung, với mục tiêu chung là đập tan chƣơng trình “bình định”

của Mỹ - ngụy, chống dồn dân lập ấp chiến lƣợc, chống đàn áp, khủng bố, chống vơ

vét, chống bắt lính, đòi quyền dân sinh dân chủ, đảm bảo cuộc sống, đảm bảo việc

làm, đòi Thiệu từ chức, chống trò hề bầu cử… Nhận thức đúng đắn quyền lợi bức

thiết của giới phụ nữ, Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam Việt Nam,

Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam, đã có chủ trƣơng vận động, tổ chức,

70

lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ nữ phát triển ngày càng mạnh mẽ. Lực lƣợng

phụ nữ tham gia đấu tranh ngày càng đông đảo, có tổ chức và những bƣớc đi phù

hợp. Phong trào đấu tranh của chị em không chỉ dừng lại ở những cuộc đấu tranh lẻ

tẻ mà còn liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau cùng chiến đấu, có lực lƣợng bổ

sung ngay khi cần thiết hay khi bị địch khủng bố, đàn áp, kết hợp chặt giữa phong

trào đấu tranh ở nông thôn và thành thị của phụ nữ nhằm đánh mạnh và toàn diện

vào chƣơng trình “bình định” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Là những ngƣời phải trực tiếp chịu đựng nỗi đau mất chồng, mất cha, mất

con, mất anh em ruột thịt trong cuộc đôn quân bắt lính của chính quyền Sài Gòn, chị

em phụ nữ miền Nam đã tích cực, tự giác tham gia vào các đội binh vận, địch vận,

kêu gọi chồng, con, em trở về, kéo lên thành thị, tới các bệnh viện tìm chồng con, la

khóc làm địch hoảng hốt và lúng túng, tích cực tuyên truyền khoét sâu mâu thuẫn

nội bộ địch, khơi dậy ý thức dân tộc, tinh thần yêu nƣớc, chống Mỹ trong binh sĩ,

ngụy quân, nhân viên ngụy quyền, thúc đẩy hành động binh biến, ly khai, góp phần

làm suy yếu và tan rã một bộ phận quân ngụy, thức tỉnh lƣơng tri binh sĩ Mỹ, chƣ

hầu và nhân dân tiến bộ Mỹ, thúc đẩy hành động chống lại cuộc chiến tranh xâm

lƣợc phi nghĩa của đế quốc Mỹ. Công tác binh vận thực sự trở thành mũi xung kích

trực tiếp làm tan rã địch, là một mũi tiến công chiến lƣợc nhằm phá tan chính sách

“dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt” thâm độc của đế quốc Mỹ.

Trên mặt trận đấu tranh vũ trang, bên cạnh những phong trào đấu tranh với

quy mô nhỏ, còn mang tính lẻ tẻ, trong giai đoạn 1969-1975, Trung ƣơng Đảng và

Trung ƣơng Cục miền Nam chủ trƣơng xây dựng và phát triển những đội nữ du

kích, đội nữ pháo binh… với quy mô vừa và nhỏ phù hợp với đặc điểm giới, có khả

năng độc lập tác chiến và phối hợp tác chiến hữu hiệu với bộ đội chủ lực và bộ đội

địa phƣơng trong việc tiêu diệt sinh lực địch. Mặc dù thiếu thốn về cơ sở vật chất,

việc trang bị vũ khí cho chị em trong đấu tranh còn gặp nhiều hạn chế, nhƣng phong

trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ vẫn phát triển mạnh. Đối đầu với đội quân nhà

nghề của Mỹ và đội quân ngụy đƣợc “trang bị đến tận răng”, sức cơ động chiến đấu

cao, âm mƣu, thủ đoạn thâm độc, tàn bạo, cuộc đấu tranh của quân dân miền Nam

thực sự yếu hơn nhiều lần về tiềm lực quân sự cũng nhƣ kinh tế, nhƣng với tinh

71

thần quả cảm, sự mƣu trí và trí thông minh tuyệt vời, chị em đã sáng tạo những cách

đánh, những vũ khí sáng tạo, độc đáo và cực kỳ hiệu quả làm cho địch bất ngờ và

tổn thất nghiêm trọng. Những vũ khí tự chế ấy là những cây chông làm bằng tre

đƣợc vót nhọn; những tổ ong vò vẽ treo lủng lẳng ở ngoài vƣờn…Với ý chí và quyết

tâm đánh thắng giặc Mỹ không gì lay chuyển nổi, bằng những trận đánh mang đậm

màu sắc giới, phụ nữ đã thực sự làm cho kẻ thù khiếp vía kinh hồn. Tờ New York

Times số ra tháng 5-1965 đã viết: “Du kích Việt cộng, những ngƣời đánh nhau trong

bóng tối đã trở thành những chuyên viên trong nghệ thuật dùng cạm bẫy, đã có tới

20% số lính Mỹ bị thƣơng vong vì hầm chông. Tính riêng trong khu vực lính thủy

đánh bộ, số vụ sập hầm chông tăng từ 3 vụ lên 8 vụ một ngày. Bất luận ở đâu, trong

mỗi cuộc đi tuần tra, ngƣời lính nào cũng nghĩ rằng bƣớc thêm một bƣớc nữa có thể

là bƣớc đi cuối cùng của đời mình”.

Là nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh Việt Nam của đế quốc Mỹ, phụ nữ

miền Nam đã nêu cao tinh thần tự giác trong cuộc chiến đấu. Dƣới sự lãnh đạo của

Đảng, Trung ƣơng Cục và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam, tinh thần tự

giác ấy càng đƣợc phát huy mạnh mẽ, làm cho cuộc đấu tranh của phụ nữ miền

Nam trong những năm 1969-1975 có bƣớc phát triển cao hơn so với những giai

đoạn trƣớc đó về cả số lƣợng và chất lƣợng. Với mục đích giải phóng dân tộc, giải

phóng giai cấp và giải phóng chính cuộc đời mình, phụ nữ miền Nam đã phát huy

mọi khả năng để đánh Mỹ, diệt ngụy, tùy từng lúc, từng nơi, vận dụng linh hoạt

những hình thức đấu tranh phong phú trên mặt trận chính trị, binh vận và vũ trang.

Ở vùng nông thôn, đấu tranh chống lập ấp chiến lƣợc, chống phá chƣơng trình

bình định phát triển sôi động, với nhiều hình thức, vừa đấu tranh trực diện với địch,

vừa kéo lên các thị xã, thành phố đấu lý, biểu tình đòi quyền lợi tại các cơ quan đầu

não của chính quyền ngụy. Các chị, các mẹ đã nằm cản xe địch vào làng ủi phá nhà

cửa, bám đất bám làng, nhất quyết không vào “ấp chiến lƣợc”, xây dựng các căn cứ

lõm, đẩy mạnh phong trào phá rào bung về vƣờn cũ làm ăn, phát động hình thức

“tản cƣ ngƣợc”, một hình thức đấu tranh chính trị hợp pháp, sắc sảo, ngăn chặn

hành động đánh phá vào dân, vào địa bàn căn cứ cách mạng ở nông thôn. Cùng với

đấu tranh trực diện với lực lƣợng bảo an, dân vệ, cảnh sát… chị em phụ nữ tổ chức

72

thành đoàn đông đảo, kéo vào thành thị đấu tranh tận cơ quan đầu não của Mỹ -

ngụy, đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi bồi thƣờng tính mạng, tài sản, chống trò

hề bầu cử của Thiệu, chống đàn áp, khủng bố, bắt bớ…

Ở thành thị, nhờ ƣu điểm hơn nam giới, khai thác triệt để thế hợp pháp của

mình phụ nữ đã tiêu diệt địch bằng những biện pháp đấu tranh bất ngờ nhất. Đấu

tranh hợp pháp thƣờng diễn ra ôn hòa, đƣợc tiến hành công khai bằng các hình thức

nhƣ mít tinh, biểu tình, bãi công, đình công, bãi trú, bãi khóa, đấu tranh nghị

trƣờng, tranh luận trên các thông tin đại chúng... Cụ thể là các cuộc biểu tình, đình

công đòi tăng lƣơng, giảm giờ làm, đòi chủ không đánh đập của công nhân hay hình

thức biểu tình, bãi khóa, phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”, đốt lửa trại phản

đối chiến tranh, phản đối quân dịch của học sinh, sinh viên, đấu tranh bằng cầu siêu,

thuyết pháp, dùng hình thức mit tinh, biểu tình ngồi của giới tăng ni phật tử, hay

đình công, bãi thị, bãi chợ, đòi giảm thuế, bảo vệ hàng nội của chị em tiểu thƣơng

tiểu chủ… Đấu tranh nửa hợp pháp thƣờng sử dụng các phƣơng tiện thông tin đại

chúng, nghị trƣờng, các hoạt động hội thảo, kiến nghị với nội dung chủ yếu đòi dân

sinh, dân chủ nhằm vận động, giáo dục, tập hợp và tập dƣợt lực lƣợng. Ở miền

Nam, đội quân đấu tranh nửa hợp pháp đƣợc tổ chức rất chặt chẽ, lợi dụng mục tiêu

hợp pháp để đấu tranh cho mục tiêu chính trị cao hơn, cụ thể, đấu tranh đòi đƣợc đi

lại làm ăn, sinh sống, con cái đƣợc học hành nhƣng mục tiêu chính là tự do hoạt

động cách mạng. Với nhiều lớp vỏ bọc hợp pháp nhƣ ni cô, tiểu thƣơng, kí giả, nhà

doanh nghiệp, các nữ chiến sĩ biệt động trong các đô thị cũng đã phát huy khả năng

sáng tạo, thông minh trong nhiều trận đánh vào các cơ quan đầu não của địch, làm

tốt nhiệm vụ trinh sát, vận chuyển vũ khí, thuốc nổ, trực tiếp tiếp cận, tiêu diệt mục

tiêu, nhiều trận đấu diễn ra bất ngờ, nhanh gọn nhƣng lại vô cùng hiệu quả, gây

hoang mang, không ổn định cho địch ngay cả ở những nơi bảo vệ nghiêm ngặt nhất.

Trên mặt trận đấu tranh vũ trang, phụ nữ miền Nam tích cực tham gia chiến

đấu với nhiều hình thức và cách đánh rất sáng tạo. Chị em vừa có khả năng độc lập

tác chiến lại vừa có khả năng phối kết hợp với lực lƣợng vũ trang. Với hoạt động

quân sự của phụ nữ miền Nam, chiến tranh cách mạng miền Nam đã kết hợp đƣợc

hình thức chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích, kết hợp giữa tiến công quân

73

sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp lực lƣợng tại chỗ mạnh với lực lƣợng chủ

lực cơ động, đánh gãy từng cánh quân địch, làm đảo lộn ý định tiến công của địch,

buộc địch chuyển từ chủ động tiến công sang bị động đối phó. Trong cuộc chiến

tranh ở Việt Nam, các nhà quân sự Mỹ đã thừa nhận rằng, một số lƣợng lớn binh sĩ

Mỹ bị chết là do vũ khí tự chế của Việt Nam. Những vũ khí tự chế ấy đơn giản chỉ

là những cây chông làm bằng tre đƣợc vót nhọn; những tổ ong vò vẽ treo lủng lẳng

ở ngoài vƣờn; súng ngựa trời dùng để phóng mảnh kim loại, thủy tinh gây sát

thƣơng cao; giàn thun bắn lựu đạn hay chất độc đƣợc đồng bào dân tộc dùng để săn

thú rừng… Tất cả những vũ khí ấy, với ngƣời dân là những vật gần gũi, thân thuộc,

nhƣng với giặc ngoại xâm lại trở thành vũ khí mang tính sát thƣơng cực lớn, trở

thành nỗi ám ảnh đối với những kẻ xâm lƣợc.

Trong mũi binh vận – một trong ba mũi giáp công chiến lƣợc, các mẹ, các chị

đã đẩy mạnh hoạt động nhằm làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, áp dụng nhiều hình

thức phong phú nhƣ vận động đào rã ngũ, hƣớng dẫn làm binh biến, tuyên truyền

giác ngộ binh sĩ, móc nối xây dựng cơ sở... tranh thủ vận động, lôi kéo chồng, con,

em, giải thích chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, khơi dậy tinh thần dân

tộc, khơi sâu mâu thuẫn trong nội bộ địch gây hoang mang, bỏ ngũ hoặc làm nội

tuyến cho cách mạng. Đối với quân xâm lƣợc Mỹ và chƣ hầu, thực tế tình hình cho

thấy, lính Mỹ chán ghét chiến tranh, bất mãn khi bị đẩy sang chiến trƣờng Việt Nam,

đối diện với cái chết vô nghĩa, là nạn nhân của cuộc chiến tranh phi nghĩa của chính

phủ cầm quyền. Nắm bắt đƣợc những đặc điểm trên, công tác binh vận đã sử dụng

nhiều hình thức đấu tranh thích hợp, sáng tạo để thức tỉnh lính viễn chinh, giúp họ

hiểu và đồng tình với cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam, hạn chế hành động

khủng bố, bắn giết, tiến tới đẩy mạnh phản chiến và đòi về nƣớc. Ở Khu V, cán bộ

phụ nữ đã tổ chức lớp học tiếng Anh, tiếng Hàn, chuẩn bị truyền đơn, biểu ngữ, tranh

ảnh... do nhân dân tự viết, tự vẽ nhằm tuyên truyền, vận động binh lính Mỹ và quân

chƣ hầu hiện còn đang cầm súng ở miền Nam Việt Nam.

Để tăng cƣờng hoạt động của công tác binh vận, địch vận, Hội Phụ nữ Giải

phóng và ngành binh vận ra sức xây dựng các tổ "binh vận thƣờng trực", "tổ binh

vận cơ động" bám theo những đơn vị chủ lực hay địa phƣơng của địch để hoạt động

74

nhằm làm tan rã và suy yếu một mảng lớn ngụy quân ngụy quyền.

Trên mặt trận đấu tranh chính trị, vũ trang hay binh vận, chị em phụ nữ miền

Nam xuất phát từ ý thức tự giác, tự lực, tự cƣờng, đã sáng tạo và vận dụng cực kỳ

linh hoạt những hình thức đấu tranh phong phú, từ đó đánh địch bằng nhiều cách, từ

nhiều hƣớng, vừa bất ngờ, vừa hiệu quả khiến địch lúng túng, hoang mang cao độ.

3.1.1.4. Sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam làm cho phong trào đấu

tranh của phụ nữ thực sự trở thành bộ phận quan trọng của chiến tranh nhân dân

Chiến tranh nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh do toàn thể dân tộc Việt

Nam tiến hành một cách toàn diện, nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng

giai cấp, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội với nòng cốt là lực lƣợng vũ

trang nhân dân gồm ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng, dân quân du

kích), đƣợc xây dựng trên cơ sở lực lƣợng chính trị của quần chúng. Trong xây

dựng lực lƣợng vũ trang ba thứ quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng và

khéo léo giải quyết việc xây dựng từng thứ quân, kết hợp và phát huy vai trò to lớn

của ba thứ quân phù hợp với yêu cầu của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Đối với

dân quân tự vệ và du kích, Hồ Chí Minh xác định “đó là lực lƣợng trong suốt quá

trình đấu tranh cách mạng ở nƣớc ta”. Dân quân tự vệ và du kích là lực lƣợng của

toàn dân tộc, là một lực lƣợng vô địch, là bức tƣờng sắt của Tổ quốc.

Phụ nữ miền Nam không chỉ là đội quân chính trị hùng hậu mà còn là lực

lƣợng xung kích trong dân quân tự vệ và du kích. Chiến tranh nhân dân với phƣơng

châm toàn dân đánh giặc, phụ nữ chiếm một nửa dân số, là những nạn nhân chịu

nhiều đau thƣơng, mất mát nhất, càng không thể đứng ngoài cuộc kháng chiến. Do

đặc điểm sinh lý, sức khỏe, hoàn cảnh sống, hoàn cảnh gia đình, các chị bám lại

mảnh đất quê hƣơng, tham gia vào những đội dân quân tự vệ, những đội nữ du kích,

những đội nữ pháo binh ở địa phƣơng, tích cực đấu tranh chống lại mọi âm mƣu và

hành động chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bảo vệ quê hƣơng, đất

nƣớc. Ở miền Nam, từ sau phong trào Đồng Khởi, phụ nữ tham gia quân giải phóng

miền Nam ngày càng đông. Phụ nữ tham gia cả trong bộ đội chủ lực, bộ đội địa

phƣơng và đặc biệt là lực lƣợng dân quân tự vệ, du kích, không chỉ phục vụ chiến

đấu mà còn trực tiếp chiến đấu. Từ một vài đội nữ vũ trang tập trung (năm 1964) đã

75

lên đến hàng trăm đơn vị nữ vũ trang (năm 1968), trong các binh chủng, bộ binh,

pháo binh, công binh, đặc công, biệt động [119, tr.388]. Tiêu biểu là đội nữ du kích

Lê Thị Hồng Gấm, các đội nữ du kích, đội nữ pháo binh Củ Chi, Rạch Giá, Cà

Mau,…

Lực lƣợng dân quân du kích ở miền Nam, mà trong đó, phụ nữ là lực lƣợng

đông đảo đã anh dũng đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, vận dụng các hình thức tác

chiến phong phú, sáng tạo trên khắp ba vùng chiến lƣợc, kết hợp chặt chẽ đấu tranh

chính trị với đấu tranh vũ trang, thực hiện bám trụ kiên cƣờng, tạo thế đan cài với

địch. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, lực lƣợng dân quân tự

vệ đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội và nhân dân tiến công và nổi dậy đồng loạt giải

phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc.

Chiến tranh nhân dân, đặc biệt, chiến tranh du kích với sự tham gia đông đảo

và tích cực của phụ nữ, chính là chỗ hiểm, chỗ khó hiểu nhất đối với một đội quân

nhà nghề của Mỹ khi đến xâm lƣợc miền Nam Việt Nam. Các chiến lƣợc gia của

giai cấp tƣ sản cho đến nay không thể lý giải đƣợc tại sao những đội quân hết sức

thiện chiến lại thất bại thảm hại trƣớc một đội quân du kích với trang thiết bị còn

thô sơ và thua kém nhiều lần so với đối phƣơng.

Phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam cũng là minh chứng rõ nét nhất

cho nội dung đấu tranh toàn diện của đƣờng lối chiến tranh nhân dân, chiến tranh

toàn diện mà Trung ƣơng Đảng đã quán triệt. Bên cạnh những hoạt động sản xuất,

phục vụ chiến đấu, phong trào đấu tranh của phụ nữ đã diễn ra hết sức sôi động trên

cả 3 mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và ngoại giao. Trên mặt trận nào

chị em cũng là lực lƣợng xung kích, tích cực, giành đƣợc những thắng lợi to lớn.

Trên mặt trận đấu tranh chính trị, phụ nữ miền Nam đánh bại chƣơng trình

“bình định”, làm thất bại chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, và âm mƣu phi

Mỹ hóa chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Với thắng lợi trong đấu tranh

chống chƣơng trình “bình định” phong trào phụ nữ đã mở ra cho cách mạng miền

Nam một thế và lực mới với địa bàn nông thôn rộng lớn, làm bàn đạp, chỗ đứng

chân vững chắc cho cách mạng.

Trên mặt trận quân sự, chị em tham gia các đội tự vệ, các đội nữ du kích, vừa

76

có khả năng độc lập tác chiến, vừa có thể phối hợp với toàn quân, toàn dân nổi dậy

tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy và thu phƣơng tiện chiến tranh, làm thất bại âm mƣu

giành thắng lợi quân sự, đàm phán trên thế mạnh của Mỹ. Cùng với chị em miền

Bắc, sau 12 ngày đêm phá tan trận tập kích chiến lƣợc bằng không quân của Mỹ vào

Hà Nội, Hải Phòng và một số địa điểm khác trên miền Bắc, phụ nữ miền Nam đã

buộc Mỹ ngồi lại bàn đàm phán trong thế thua.

Thắng lợi trên mặt trận quân sự và chính trị, phụ nữ miền Nam càng tự tin,

vững vàng trên bàn đàm phán. Đó là điều kiện thuận lợi để Bộ trƣởng Bộ Ngoại

giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đồng chí

Nguyễn Thị Bình cùng Bộ trƣởng Bộ ngoại giao Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng

hòa ra đòn quyết định, buộc Mỹ ký Hiệp định Pari về Việt Nam ngày 27/1/1973,

cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân Mỹ

và quân các nƣớc chƣ hầu thuộc Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tiếp đó, Bộ

trƣởng Nguyễn Thị Bình cùng đại diện Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội Liên

hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam tích cực tiến hành những hoạt động đối ngoại

nhằm vận động nhân dân thế giới, ủng hộ tích cực cuộc chiến tranh chính nghĩa của

Việt Nam, yêu cầu Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi hành triệt để và nghiêm chỉnh

Hiệp định Pari, thực hiện thành công nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút”, tạo thời cơ chín

muồi để bƣớc vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, tiến hành “đánh cho ngụy

nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc.

Nhƣ vậy, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam là một bộ phận của

chiến tranh nhân dân Việt Nam, là một trong 3 bộ phận quan trọng của lực lƣợng vũ

trang gồm 3 thứ quân theo đúng chủ trƣơng của Đảng, là một đội quân du kích

mang đúng đặc trƣng của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Cùng với bộ đội chủ lực,

bộ đội địa phƣơng, và đông đảo quần chúng nhân dân, phụ nữ hăng hái đứng ở mũi

nhọn cuộc đấu tranh, chống mọi âm mƣu và hành động gây chiến của Mỹ-ngụy, đập

tan chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiêu diệt một bộ phận không nhỏ sinh

lực địch, tạo điều kiện cùng nhân dân cả nƣớc bƣớc vào chiến dịch lịch sử cuối

cùng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc trong 55 ngày đêm,

77

với tinh thần “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”.

3.1.1.5. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Trung ương Cục

miền Nam, phụ nữ miền Nam đã phát huy được vai trò quan trọng trong cuộc đấu

tranh chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ

Dƣới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng

Cục, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam với việc vận dụng linh hoạt

phƣơng châm “ba mũi giáp công” đã phát huy hiệu quả, đập tan chiến lƣợc “Việt

Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, đánh bại chƣơng trình “bình định” ở cả

thành thị và nông thôn, làm rã phần lớn hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, tạo điều

kiện thuận lợi, mở ra thời cơ chín muồi, tiến lên cùng lực lƣợng vũ trang tiêu diệt

quân chủ lực của địch trên khắp các chiến trƣờng miền Nam.

Phát huy khả năng trong công tác binh vận, khi tình hình thực tế cho thấy

hàng ngũ địch vào thời điểm kết thúc chiến tranh đã quá rệu rã, xuống dốc, chị em

phụ nữ tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục, vận động binh lính ngụy, góp phần hỗ

trợ cho bộ đội chủ lực tiến đánh và tiêu diệt nhanh chóng. Từ ngày 30/3 đến

27/6/1972, trong chiến dịch tiến công Trị - Thiên, phối hợp với bộ đội chủ lực, phụ

nữ và quần chúng nổi dậy phá kế hoạch “bình định” của địch, loại khỏi vòng chiến

đấu hơn 27000 tên địch, thu và phá hủy 636 xe tăng, xe bọc thép, 1870 xe quân sự,

419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng

Trị. Thắng lợi của chiến dịch cùng với các hƣớng tiến công khác trong cuộc tiến

công chiến lƣợc 1972 đã tạo ra cục diện mới trên chiến trƣờng, giáng đòn chí tử vào

âm mƣu xâm lƣợc cũng nhƣ chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ.

Mặc dù bối cảnh quốc tế có nhiều khó khăn, thử thách, mâu thuẫn giữa Liên

Xô và Trung Quốc; âm mƣu thực hiện chính sách ngoại giao tay ba của Mỹ muốn

thông qua Trung Quốc và Liên Xô ép Việt Nam phải giảm bớt những nỗ lực quân

sự trên chiến trƣờng, chấp nhận những điều kiện do phía Mỹ đƣa ra nhƣng với

chính sách ngoại giao khôn khéo, Mặt trận nhân dân thế giới chống Mỹ, ủng hộ Việt

Nam vẫn đƣợc hình thành và phát triển rộng khắp, đặc biệt là trong lòng nƣớc Mỹ,

tạo sức ép buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh ở Việt Nam, buộc Mỹ ký Hiệp

định Pari về Việt Nam ngày 27/1/1973, cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và

toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và

78

quân chƣ hầu khỏi miền Nam Việt Nam.

Phụ nữ miền Nam không chỉ dám đánh mà còn biết cách đánh Mỹ. Trên cả ba

mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp phƣơng châm “hai chân, ba mũi”,

chị em phụ nữ có mặt khắp nơi, hoạt động tích cực, làm nên thắng lợi của cuộc

Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.

Trong tổng tiến công và nổi dậy, Đảng chủ trƣơng kết hợp tiến công với nổi

dậy của quần chúng, tiêu diệt địch với giành quyền làm chủ, tạo sức mạnh áp đảo,

trong đó đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực đi trƣớc một bƣớc, trực tiếp tiêu

diệt lực lƣợng quân sự của địch, đồng thời hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần

chúng. Sự nổi dậy của quần chúng, đặc biệt là phụ nữ có tác dụng căng kéo, phân

tán địch, giành dân, giành đất, mở ra thế trận tiến công mới, tạo ra thuận lợi mới,

làm cho lực lƣợng vũ trang tăng thêm sức mạnh, có điều kiện và thời cơ tiến lên

đánh tiêu diệt, giành thắng lợi lớn với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Từ ngày 26-30/4/1975, phụ nữ miền Nam cùng quân dân miền Nam đã tiêu diệt và

làm tan rã toàn bộ quân chủ lực, diệt và làm tan rã khoảng 269.000 địch, thu

276.000 súng các loại (trong đó có 518 khẩu pháo), 409 xe tăng, thiết giáp, 858 máy

bay các loại, 6.457 tàu, xuồng chiến đấu, 3.296 xe ô tô và nhiều phƣơng tiện chiến

tranh khác. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan, chế độ

thực dân mới đƣợc Mỹ dốc sức xây dựng qua năm đời tổng thống hoàn toàn sụp đổ.

Cùng với nam giới, chị em phụ nữ miền Nam đã có những đóng góp quan

trọng trong việc làm thất bại chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc

Mỹ, tạo thời cơ, chuẩn bị và trực tiếp tham gia chiến đấu trong Tổng tiến công và

nổi dậy mùa xuân 1975, làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc, giải phóng hoàn toàn

miền Nam, thống nhất đất nƣớc.

Sở dĩ, phụ nữ miền Nam luôn giữ vai trò nòng cốt, xung kích trong phong trào

đấu tranh ở miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc những năm 1969 –

1975 là do nhiều nhân tố mà nổi bật lên những nhân tố sau đây:

Thứ nhất, nhận thức và chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Trung ương Cục miền

Nam về vai trò của phụ nữ miền Nam trong chiến tranh cách mạng

Ngay trong Nghị quyết tháng 10-1930 của Đảng về công tác vận động phụ

79

nữ, Đảng nhận định: “Lực lƣợng cách mạng của phụ nữ không tham gia vào những

cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thắng lợi đƣợc”. Trung ƣơng Đảng,

Trung ƣơng Cục miền Nam luôn luôn coi công tác phụ vận là một trong những công

tác vận động quần chúng quan trọng nhất của Đảng. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan

trọng của phụ nữ, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, Đảng đã khơi dậy

lòng yêu nƣớc, truyền thống đấu tranh anh dũng của phụ nữ, phát huy cao độ tinh

thần, khả năng to lớn của phụ nữ vào cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, dân chủ và

hòa bình.

Đảng chủ trƣơng phát triển thế trận toàn dân đánh giặc, kết hợp phƣơng châm

“hai chân, ba mũi, ba vùng”, với phƣơng châm, đƣờng lối đấu tranh đúng đắn, sáng

tạo trên, Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam đã kịp thời vận động đông

đảo nhất chị em tham gia tích cực mọi mặt của cuộc chiến đấu, từ đấu tranh chính

trị, đấu tranh vũ trang, công tác binh vận và đấu tranh trên bàn đàm phán.

Trong đấu tranh chính trị, Đảng đã tổ chức và lãnh đạo phụ nữ vào các hoạt

động đấu tranh phù hợp, đƣợc tổ chức chặt chẽ từ thấp đến cao, từ lẻ tẻ đến tập

trung. Kết hợp nhiều hình thức đấu tranh phong phú, ở nông thôn, vừa đấu tranh

trực diện, vừa tổ chức kéo vào thành thị đấu tranh với địch chống lại chƣơng trình

“bình định”. Trong các thành thị miền Nam, đông đảo phụ nữ thuộc mọi tầng lớp,

ngành nghề, với ƣu thế hợp pháp, kết hợp khéo léo hình thức đấu tranh hợp pháp và

nửa hợp pháp nhằm đòi các quyền lợi thiết thân, vấn đề dân chủ, dân sinh và cao

hơn là độc lập dân tộc, thống nhất đất nƣớc.

Trên mặt trận đấu tranh vũ trang, dƣới sự chỉ đạo của Đảng bộ các địa

phƣơng, tổ chức Hội phụ nữ ở các cơ sở, chị em không chỉ đấu tranh lẻ tẻ, riêng

biệt, mà nhiều đội nữ du kích đã hình thành, nhƣ đại đội nữ Lê Thị Hồng Gấm – đại

đội nữ đầu tiên ở miền Nam, trở thành nỗi khiếp sợ của kẻ thù, đại đội nữ huyện

Bến Cát tỉnh Sông Bé anh hùng, hay đội nữ du kích Củ Chi – huyền thoại trong

lòng đất đã lập nên những chiến công hiển hách. Những tên gọi ấy, những hình ảnh

ấy đã trở thành nỗi ám ảnh đối với nhân dân thế giới, đặc biệt là đối với nhân dân

Mỹ, và với chính những ngƣời lính Mỹ từng cầm súng chiến đấu tại Việt Nam.

Trong thế trận chiến tranh nhân dân, công tác binh vận đƣợc Đảng quan tâm

80

chỉ đạo kịp thời. Nhận thức đƣợc đặc điểm, khả năng cũng nhƣ sở trƣờng của chị

em phụ nữ trong việc vận dụng những lý lẽ sắc bén, những tình cảm thân thuộc,

Trung ƣơng Đảng, và đặc biệt là Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam đã đẩy

mạnh hoạt động của chị em phụ nữ trong mũi tiến công này. Bằng việc đem đạo lý

dân tộc, nghĩa tình đồng bào tác động vào trái tim, khối óc của binh sĩ đối phƣơng,

công tác binh vận là một mũi tiến công chiến lƣợc; không chỉ phục vụ và kết hợp

với đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, mà còn độc lập chiến đấu diệt ác ôn,

phá hoại phƣơng tiện chiến tranh của địch, tổ chức giúp đỡ binh lính ngụy khởi

nghĩa làm binh biến, phản chiến. Bám sát đƣờng lối binh vận mà Trung ƣơng Đảng

và Trung ƣơng Cục miền Nam đã đề ra, với những hình thức vận động phong phú,

chị em đã vận động một lực lƣợng lớn ngụy quân rã ngũ, làm nội chiến, binh biến,

phản chiến về với cách mạng, về với nhân dân, làm cho hàng ngũ kẻ thù nhanh

chóng tan rã.

Thứ hai, truyền thống đấu tranh bất khuất của phụ nữ miền Nam

Kế thừa truyền thống yêu nƣớc, chống ngoại xâm của dân tộc từ thời Hai Bà

Trƣng, Bà Triệu, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, chủ nghĩa yêu nƣớc của

phụ nữ miền Nam Việt Nam đã đƣợc Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy và

phát huy cao độ. Phụ nữ miền Nam cùng với nam giới đứng lên, bất chấp gian khổ,

hy sinh, quyết chiến đấu cho độc lập và tự do của dân tộc, một lòng thủy chung, son

sắt với lý tƣởng cách mạng, với Đảng, với nhân dân. “Khi ngƣời phụ nữ Việt Nam

hiền hậu nhất đã gia nhập vào thế giới chiến đấu của đàn ông vì quê hƣơng mình,

khi ngƣời đó biết làm tốt công việc của mình thì chiến tranh đã thực sự trở thành

cuộc chiến tranh toàn dân” [97, tr.87].

Nữ tác giả ngƣời Mỹ Karen Gottschang Turner, sau khi nghiên cứu sự tham

gia của quân đội phụ nữ một số nƣớc trên thế giới trong thời kỳ hiện đại đã nhận

định “Trƣờng hợp của Việt Nam là trƣờng hợp độc nhất vô nhị trong thời kỳ hiện

đại, không phải chỉ vì có nhiều phụ nữ ra đi chiến đấu mà còn bởi truyền thống về

phụ nữ chiến đấu đã có vị trí lớn trong lịch sử của cả dân tộc Viêt Nam, đến mức

không thể nhìn nhận truyền thống này một cách chung chung” [97, tr.44].

Bƣớc ra từ các cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc, trên các mặt trận đấu

81

tranh chính trị, quân sự, binh vận và ngoại giao, phụ nữ miền thực sự trở thành

những nữ anh hùng, những bà mẹ Việt Nam anh hùng xứng đáng với 8 chữ vàng

"Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng.

Thứ ba, sự ủng hộ, đoàn kết của phụ nữ, nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với

cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam, đặc biệt là phụ nữ miền Nam

Việt Nam

Bƣớc vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, hoàn

cảnh quốc tế có nhiều biến chuyển, sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân thế giới đối

với cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nƣớc của nhân dân miền Nam Việt Nam có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam, coi

Việt Nam là biểu tƣợng của chính nghĩa, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, Việt

Nam trở thành lƣơng tri của thời đại. Năm 1969, Mặt trận quốc tế ủng hộ, đoàn kết

với Việt Nam đƣợc mở rộng và phát triển mạnh mẽ bao gồm mọi tầng lớp nhân dân

ở các nƣớc có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Tham gia các hoạt động đoàn kết

với Việt Nam còn có các tổ chức quốc tế nhƣ Hội đồng hòa bình thế giới, Ủy ban

đoàn kết nhân dân Á-Phi, các tổ chức phụ nữ, thanh niên, sinh viên, công đoàn quốc

tế… đặc biệt, phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam đã

hình thành và phát triển ngay trong lòng nƣớc Mỹ, thu hút hàng triệu ngƣời Mỹ

thuộc đủ mọi thành phần tham gia phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lƣợc

Việt Nam của đế quốc Mỹ.

Việt Nam đã trở thành “lƣơng tâm của thời đại”. Nhân dân thế giới dấy lên

nhiều phong trào viện trợ cho phụ nữ và trẻ em Việt Nam nhƣ phong trào “Một

chuyến tàu hàng cho Việt Nam” và “100 triêu phơrăng ủng hộ Việt Nam” của Pháp;

“100 triệu Yên” của các bà mẹ Nhật; “Quà từ trái tim” của phụ nữ Ba Lan, phong trào

“Chăn ấm cho trẻ em Việt Nam” của phụ nữ Hunggari… Ngoài ra còn có hàng nghìn

cuộc mít tinh, biểu tình, hội thảo... của nhân dân thế giới và ngay cả trong lòng nƣớc

Mỹ đƣợc tổ chức nhằm ủng hộ Việt Nam.

Có thể nói mặt trận đoàn kết, ủng hộ Việt Nam đã trở thành một phong trào

rộng lớn mang tính toàn cầu, với tiếng nói ngày càng có sức nặng, góp phần buộc

Mỹ xuống thang chiến tranh, ký Hiệp định Pari, chấm dứt sự dính líu quân sự ở

82

miền Nam Việt Nam.

3.1.2. Hạn chế

Bên cạnh những ƣu điểm, sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục

miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ những năm 1969 – 1975 còn tồn

tại một số hạn chế.

Thứ nhất, chậm chuyển hướng chỉ đạo chiến lược khi tình thế cách mạng đã

có nhiều thay đổi

Do những chi phối của hoàn cảnh khách quan nên sau Tổng tiến công và nổi

dậy Tết Mậu Thân 1968, khi Mỹ đã chuyển hƣớng sang chiến lƣợc “Việt Nam hóa

chiến tranh”, khâu then chốt là kế hoạch “bình định” nông thôn, Trung ƣơng Cục

chƣa đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc, âm mƣu thâm độc của địch trong chính

sách mới, do đó, chƣa kịp thời xác định một sự chuyển hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc

toàn diện, dứt khoát, tập trung, nhằm vào mục tiêu làm thất bại âm mƣu Việt Nam

hóa chiến tranh, đặc biệt là kế hoạch bình định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1968, hƣớng tiến công chủ yếu là đánh mạnh

vào thành thị, cơ quan đầu não của địch, sau đó, dù tình hình đã có nhiều thay đổi,

hƣớng tiến công trên vẫn giữ nguyên, bỏ lỏng nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Lợi

dụng sai lầm này, Mỹ - ngụy đã tiến hành liên tiếp các kế hoạch “bình định” từ

“bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt”, “bình định bổ sung”, kế hoạch “phƣợng

hoàng”… quyết liệt suốt hai năm (từ giữa năm 1968 đến đầu năm 1970), chiếm lại

nhiều vùng nông thôn, kìm kẹp thêm nhiều dân, kiểm soát thêm nhiều vùng. Đây là

cuộc phản công quyết liệt, hủy diệt tàn khốc của địch, bằng sức mạnh tổng hợp, chủ

yếu bằng sức mạnh quân sự đánh vào trận địa nông thôn, gây cho cách mạng những

khó khăn, tổn thất nặng nề, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam từ năm

1968 đến đầu năm 1970 có nhiều thiệt hại, diễn ra chậm, suy giảm, lực lƣợng cách

mạng bị địch đẩy ra vùng nông thôn ven và đồng bằng, thậm chí ở Nam Bộ có nơi

còn bị đẩy ra ngoài biên giới.

Sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực, (28/1/1973) chỉ đạo của Đảng cũng có

thiếu sót khi không quán triệt chủ trƣơng chủ động đối phó với hành động phá hoại

Hiệp định, lấn chiếm bình định của Mỹ - ngụy để địch gây cho ta nhiều thiệt hại,

83

mất đất, mất dân ở một số vùng. Song, thiếu sót trên không kéo dài và chƣa ảnh

hƣởng tới cục diện chiến lƣợc, Đảng kịp thời và ra sức khắc phục nên phong trào

đấu tranh của nhân dân miền Nam nói chung và phong trào phụ nữ nói riêng trên

các chiến trƣờng nhanh chóng phát triển từ giữa năm 1973.

Quá trình triển khai, thực hiện chủ trƣơng, đƣờng lối của Trung ƣơng Đảng,

Trung ƣơng Cục xuống các địa phƣơng còn chƣa kịp thời và đầy đủ. Bên cạnh

những nơi quán triệt, triển khai nghị quyết, chỉ thị của Trung ƣơng Cục tƣơng đối

tốt, còn nhiều nơi việc quán triệt và thực hiện chƣa đầy đủ, nhất là việc triển khai

nghị quyết và chỉ thị của Trung ƣơng Cục xuống cấp huyện, xã nên việc chỉ đạo

đánh phá bình định chƣa có chuyển biến mạnh, chƣa tận dụng đƣợc những sơ hở

của địch và sự chuyển biến cách mạng sâu sắc trong quần chúng, kể cả binh lính,

nhân viên ngụy quyền để phát triển hơn nữa lực lƣợng và thế tấn công toàn diện của

cách mạng ở nông thôn, làm cho lực lƣợng kìm kẹp và hệ thống phòng thủ của địch

bị suy yếu nặng. Đặc biệt là vùng ven, vùng yếu thƣờng hay giản đơn, cứng nhắc,

đơn điệu, ngƣợc lại cũng có một số nơi khi nhấn mạnh vấn đề phƣơng châm,

phƣơng thức lại hạ thấp yêu cầu, tách rời phƣơng châm, phƣơng thức với nhiệm vụ

và mục tiêu chiến lƣợc. Vì vậy, phong trào đấu tranh của quần chúng phụ nữ nhiều

nơi còn bị hạn chế, chƣa phát huy sức mạnh.

Các cấp ủy chƣa đi sâu chỉ đạo và phát huy vai trò của các đoàn thể cách

mạng, chƣa chỉ đạo chặt chẽ và cụ thể đấu tranh chính trị và binh vận. Công tác dân

vận còn yếu, nhất là chi bộ và đoàn thể quần chúng chƣa quán triệt sâu sắc lập

trƣờng giai cấp và quan điểm quần chúng trong công tác dân vận và xây dựng lực

lƣợng cách mạng.

Thứ hai, việc chỉ đạo thực hiện phương châm đấu tranh “hai chân, ba mũi

giáp công, ba vùng chiến lược” ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa triệt để và hiệu quả

Do tình hình chiến tranh phức tạp, Mỹ - ngụy còn mạnh, việc đấu tranh theo

phƣơng châm “hai chân, ba mũi giáp công” tuy đã phát huy tác dụng, nhƣng nhiều

lúc, ở nhiều địa phƣơng, việc thực hiện phƣơng châm đấu tranh trên còn chƣa thực

sự hiệu quả, việc kết hợp “hai chân, ba mũi” nhiều lúc còn lỏng và chƣa linh hoạt.

Chỉ đạo công tác trọng tâm của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục còn nhiều

84

khuyết điểm, chƣa gắn chặt ba mũi giáp công phục vụ cho giành dân, chƣa tập trung

sức tiêu diệt và làm tan rã địa phƣơng quân và phụ quân, phát động quần chúng

chƣa sâu sắc, xây dựng lực lƣợng nòng cốt cho quần chúng nổi dậy còn yếu, chƣa

tập trung cán bộ đúng mức cho công tác giành dân, phong trào du kích chiến tranh

và công tác binh vận còn yếu, chƣa hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy, chỉ đạo

tấn công và nổi dậy chƣa chặt, chƣa sát, tƣ tƣởng hữu khuynh còn nặng, biện pháp

chƣa táo bạo mới mẻ phù hợp với tình hình.

Ở thời kỳ đầu sau Tổng công kích năm 1968, phong trào chính trị chƣa phát

động đƣợc một phong trào rộng, mạnh phá rã từng mảng kìm kẹp ở nông thôn, chƣa

đạt tới cao trào ở đô thị, chƣa làm rã lớn ngụy quân đang hoang mang cao độ.

Phong trào đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam nổ ra chƣa đều giữa

thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi. Các cuộc đấu tranh chính trị

của phụ nữ ở vùng nông thôn nổ ra mạnh mẽ, rộng lớn, liên tục và có tổ chức hơn

phong trào ở thành thị. Các cuộc đấu tranh ở vùng nông thôn ngoài mục tiêu đòi

quyền dân sinh dân chủ còn đấu tranh trực diện với kẻ thù, kể cả với đế quốc Mỹ,

cùng lực lƣợng vũ trang tiêu diệt địch, lật đổ chính quyền địch ở cơ sở, giải phóng

và làm chủ nhiều vùng đất. Trong khi đó, phong trào đấu tranh ở đô thị tuy có bƣớc

phát triển mới, nhƣng vẫn chƣa kịp với sự chuyển biến quần chúng và tình hình

chính trị ngày càng suy yếu của địch ở đô thị, vai trò lãnh đạo của Trung ƣơng Cục

đối với phong trào sinh viên, học sinh có tiến bộ và đƣợc củng cố hơn, nhƣng phong

trào công nhân lao động còn bị hạn chế, thực lực phát triển còn chậm, phong trào thị

xã, thị trấn nói chung còn yếu. Nhiều cấp ủy còn chƣa thấy đúng mức tầm quan

trọng của phong trào ở đô thị, do đó sự quan tâm, bố trí cán bộ, tổ chức chỉ đạo ở đô

thị chƣa thực sự hiệu quả. Đô thị là nơi tập trung bộ máy chính quyền và quân sự

các cấp của địch, theo đó là sự kiểm soát chặt chẽ, gắt gao nên phong trào đấu tranh

chính trị ở các thành thị chƣa mạnh mẽ và phong phú bằng cuộc đấu tranh chính trị

ở nông thôn. Các cuộc đấu tranh của phụ nữ đô thị mới chỉ dừng lại là những cuộc

đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, đòi hòa bình, đòi Mỹ rút về nƣớc.

Ở một số địa phƣơng, cấp ủy chƣa nhận thức đúng âm mƣu bình định của

địch, chƣa thấy hết thủ đoạn tàn bạo, tinh vi của chúng, nên sinh ra tƣ tƣởng chủ

85

quan, thiếu kế hoạch chủ động để đối phó từ đầu, khi địch đánh phá quyết liệt thì

dao động, hữu khuynh, nhiều đảng viên, cốt cán bị bật ra khỏi địa bàn. Sự kết hợp

xây dựng thực lực xã, thôn vững mạnh với chống "bình định", sự phối hợp giữa đấu

tranh chính trị, binh vận với đấu tranh quân sự có lúc, có nơi chƣa nhịp nhàng, đồng

bộ, nên chƣa phát huy đƣợc sức mạnh tổng hợp trong tấn công.

Vì khuynh hƣớng ỷ lại lực lƣợng tập trung, không nhận rõ tính chất quần

chúng và tính chất toàn diện của chiến tranh du kích theo phƣơng châm đấu tranh

kết hợp “ba mũi giáp công” nên trong công tác chi bộ và công tác dân vận chƣa chú

trọng đúng mức việc giáo dục tổ chức, động viên đông đảo quần chúng tham gia

chiến đấu vũ trang với nhiều kiểu cách kết hợp với đấu tranh chính trị binh vận để

trên cơ sở đó xây dựng những đội du kích xã ấp, và lực lƣợng dân quân tự vệ. Ba

thứ quân có tiến bộ nhƣng chƣa đều, bộ đội địa phƣơng có đƣợc bổ sung nhƣng nói

chung còn yếu, phong trào du kích có phát triển nhƣng chƣa thành một thế tấn công

rộng mạnh trên tất cả các vùng.

Trong công tác binh vận nhiều lúc còn chậm trong các khâu tuyên truyền, vận

động, tổ chức các hình thức đấu tranh cho từng giới đồng bào. Nhiều cuộc đấu tranh

đòi thực hiện hòa bình không kết hợp nêu những khẩu hiệu về quyền lợi bức thiết

của nhân dân nên không tập hợp đƣợc rộng rãi các giới, các tầng lớp tham gia, chƣa

làm cho nhân dân thấy rõ ý nghĩa bức thiết của cuộc đấu tranh chính trị, binh vận

trong giai đoạn mới.

Thứ ba, công tác vận động phụ nữ của Trung ương Cục và Hội Liên hiệp phụ

nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam chưa thật sự sâu rộng, đều khắp và liên tục

Tổ chức Hội phụ nữ chƣa thật rộng, mạnh và đều khắp, đội ngũ cán bộ nữ

trong Đảng và chính quyền, đoàn thể phát triển còn chậm. Trong đƣờng lối vận

động phụ nữ, chƣa phát huy đƣợc hết khả năng tham gia của chị em, chủ yếu khai

thác khả năng đấu tranh chính trị và công tác binh vận mà chƣa nêu cao đƣợc khẩu

hiệu và hình thức vận động để chị em tham gia đông đảo hơn trong đấu tranh vũ

trang. Chị em chủ yếu tham gia chiến tranh du kích, đánh địch với quy mô nhỏ, phối

hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng nhằm tiêu diệt sinh lực địch. Về vấn đề

này, nguyên nhân cơ bản có ảnh hƣởng trực tiếp tới sức chiến đấu của chị em, đó

86

chính là đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh, vai trò của phụ nữ trong gia đình, nên đấu

tranh vũ trang, đặc biệt việc tham gia vào đội quân chính quy đánh quy mô lớn vẫn

là một mảng mỏng của chị em phụ nữ, chƣa thể khai thác triệt để đƣợc.

Tồn tại những hạn chế trong đƣờng lối lãnh đạo của Trung ƣơng Cục miền

Nam đối với phong trào cách mạng nói chung, phong trào đấu tranh của phụ nữ nói

riêng do một số nguyên nhân sau:

Về khách quan, trong ba năm thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, địch tiến

hành đánh phá ác liệt ở nông thôn, nhân dân bị lùa xúc nhiều vào khu dồn ấp chiến

lƣợc, đời sống bị đảo lộn, cán bộ cơ sở cách mạng ở xã, thôn mất chỗ đứng chân,

tổn thất nặng nề, đặc biệt là thời kỳ đầu sau Tổng công kích và nổi dậy năm 1968.

Về chủ quan, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, Đảng và Trung ƣơng Cục

chƣa có điều kiện tập trung vào công tác phụ vận, đƣa ra những chủ trƣơng cụ thể

cho phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam. Sự lãnh đạo phong trào đấu tranh

của phụ nữ vẫn mang tính chất chung chung và vận dụng từ đƣờng lối cách mạng

cơ bản trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục. Với

tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh, mặt trận quân sự, vai trò của bộ đội chủ lực và

bộ đội địa phƣơng vẫn đƣợc đánh giá cao và tập trung chỉ đạo tổ chức hơn cả nhằm

tiêu diệt phần lớn sinh lực địch. So với phong trào “ba đảm đang” của phụ nữ miền

Bắc, phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam chƣa đƣợc quan tâm sát sao.

Phong trào vẫn đi lên và phát huy vai trò to lớn trong cục diện chung của cuộc

kháng chiến phụ thuộc nhiều vào sự tự giác chấp hành, tự giác đấu tranh của lực

lƣợng phụ nữ. Là nạn nhân chịu nhiều đau khổ nhất trong cuộc chiến tranh này, chị

em phụ nữ đã dốc toàn tâm toàn lực cho cuộc chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn,

nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng cuộc đời mình.Về quần

chúng, cơ bản tin tƣởng cách mạng, nhƣng qua nhiều năm bị khủng bố ác liệt lại bị

chiến tranh tâm lý nên ngại ác liệt, lo lắng, sợ khó khăn, một bộ phận quần chúng có

ngƣời nhà đi lính, làm việc cho địch, tâm tƣ tình cảm hết sức phức tạp, nhƣng việc

tuyên truyền, giáo dục, thâm nhập đƣờng lối chính sách của Đảng còn chƣa sâu sắc.

Tuy vậy, với đƣờng lối lãnh đạo của Trung ƣơng Cục miền Nam, phong trào

đấu tranh của phụ nữ từ năm 1969 đến năm 1975 đã phát huy sức mạnh to lớn, góp

phần quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc,

87

giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc.

3.2. Kinh nghiệm lịch sử

Từ những ƣu điểm và hạn chế nhƣ đã trình bày về đƣờng lối lãnh đạo của

Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam đối phong trào đấu tranh của phụ nữ

từ năm 1969 đến năm 1975, có thể rút ra một số kinh nghiệm cụ thể sau:

3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục để giác ngộ phụ nữ về tính chất

chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đường lối cách mạng

của Đảng, Trung ương Cục miền Nam

Ngay từ khi mới ra đời năm 1930, Đảng quán triệt “phụ nữ là một lực lƣợng

rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào cuộc đấu tranh

cách mạng thì cách mạng không thắng lợi đƣợc”. Gắn cuộc đấu tranh giải phóng

dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ, gắn lợi ích chung của dân tộc,

giai cấp với những quyền lợi thiết thân của chị em, phụ nữ miền Nam nói riêng và

phụ nữ Việt Nam nói chung đã tự nguyện đứng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân

tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng chính bản thân giới mình.

Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam xác định công tác dân vận là

cái gốc để đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và binh vận là một yêu cầu cơ

bản và bức thiết để phát huy tới mức cao khả năng cách mạng to lớn của quần

chúng trong mọi mặt chiến đấu, phải xuất phát từ quyền lợi giai cấp kết hợp với

quyền lợi của giới và đặc điểm, trình độ của quần chúng từng lúc, từng nơi để vận

động cho phù hợp. Phải gắn liền quyền lợi trƣớc mắt của quần chúng với lợi ích lâu

dài của cách mạng mới phát động đƣợc quần chúng hăng hái công tác và đấu tranh,

mới nâng cao giác ngộ chính trị của quần chúng. Phải kiên quyết khắc phục tình

trạng chụp công việc từ trên xuống cho quần chúng, hạn chế tính tự giác và tính tích

cực cách mạng của quần chúng, tách rời việc động viên làm nhiệm vụ với quan tâm

đến các quyền lợi thiết thân của quần chúng. Tùy điều kiện từng nơi, từng lúc để ra

những khẩu hiệu và biện pháp, hình thức đấu tranh phù hợp.

Nhận thức rõ đặc điểm, khả năng và sở trƣờng của phụ nữ trong từng mũi tiến

công chính trị, binh vận, vũ trang Trung ƣơng Đảng chủ trƣơng kết hợp giải pháp

88

“hai chân, ba mũi, ba vùng” tạo nên sức mạnh tổng hợp của chị em trong đấu tranh.

Chị em có nhiều thuận lợi trong đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận, khai

thác khả năng hợp pháp để tiến công địch ở cả thành thị và nông thôn. Tuy nhiên,

do đặc điểm sinh lý, hoàn cảnh gia đình, khả năng của chị em trong đấu tranh vũ

trang còn hạn chế, đặc biệt là trong những chiến dịch lớn, vì thế, quan điểm xây

dựng lực lƣợng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam của Đảng chỉ rõ “Phong

trào võ trang của phụ nữ lấy việc xây dựng các độ du kích, tự vệ mật trong xã ấp,

xóm lao động, khu phố làm hƣớng chính, chủ yếu, coi những đơn vị bộ binh, pháo

binh nữ là những đơn vị tiêu biểu để phát động phong trào phụ nữ tham gia võ trang

chớ không lấy đó làm hƣớng chính” [105].

Ngày 2/12/1968, Quân ủy Miền ra chỉ thị số 52/CTNT nêu rõ “Những nơi đã

có xây dựng đơn vị bộ binh và pháo binh nữ phải hết sức coi trọng giáo dục chính

trị và quân sự cho các đơn vị ấy, về tác chiến đánh địch cũng phải đƣợc cân nhắc để

vừa sức và hợp với khả năng của chị em. Phải chiếu cố đến đặc điểm về sinh lý và

cơ thể của phụ nữ trong các mặt công tác, lao động và chiến đấu” [69].

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, hiểu và vận dụng đúng chủ trƣơng, đƣờng lối

cách mạng “hai chân, ba mũi giáp công”, đƣờng lối “chiến tranh nhân dân”, “chiến

tranh du kích” phụ nữ miền Nam phát huy sức mạnh đấu tranh trên mọi mặt trận,

đánh đúng, đánh trúng và đánh mạnh vào hàng ngũ kẻ thù từ nhiều hƣớng, nhiều

hình thức linh hoạt và phong phú, khiến địch hoang mang, suy sụp nghiêm trọng.

Đồng thời, Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục còn đẩy mạnh tuyên truyền,

giáo dục quần chúng phụ nữ về tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lƣợc

của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam và tính chất chính nghĩa của cuộc kháng

chiến chống đế quốc Mỹ mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Phụ nữ miền Nam

hơn ai hết hiểu rõ bản chất, bộ mặt tàn bạo của quân xâm lƣợc cùng chính quyền tay

sai Nguyễn Văn Thiệu, nhƣng việc giáo dục cho phụ nữ về tính chất phi nghĩa, vô

nhân đạo của cuộc chiến tranh mà đế quốc Mỹ đang tiến hành ở miền Nam là thực

sự cần thiết giúp phụ nữ vững vàng, kiên định và kiên quyết hơn trong cuộc đấu

tranh chống lại những âm mƣu, hành động gây chiến, khủng bố, đàn áp hay mua

89

chuộc dụ dỗ của kẻ thù.

Hiểu đƣợc tính chất chính nghĩa của cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân

tộc, vì hòa bình, vì sự giải phóng phụ nữ, phụ nữ khắp miền Nam tự nguyện đứng

trong hàng ngũ đấu tranh chung để góp sức cùng nhân dân cả nƣớc đánh đổ ách

thống trị đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đang tìm mọi cách áp đặt ở miền

Nam Việt Nam. Khi những ngƣời phụ nữ hiền hậu nhất đã đứng dậy, cầm súng và

chiến đấu thì cuộc chiến tranh đó thực sự trở thành một cuộc chiến tranh cách mạng

nhằm chống lại các thế lực phản động và tàn bạo, đảm bảo quyền sống và quyền

hạnh phúc của mỗi con ngƣời.

3.2.2. Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, tăng cường chỉ đạo phong

trào đấu tranh của phụ nữ theo phương châm “hai chân, ba mũi giáp công”

Khi quân địch đã dùng bạo lực phản cách mạng đề đàn áp, thống trị nhân dân

thì các tầng lớp nhân dân bị áp bức chỉ có con đƣờng duy nhất là dùng bạo lực cách

mạng để chống lại. Sức mạnh quyết định bạo lực cách mạng gồm hai lực lƣợng cơ

bản: lực lƣợng chính trị và lực lƣợng vũ trang đƣợc thể hiện bằng hai hình thức đấu

tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, kết hợp với nhau tạo nên

phƣơng châm tác chiến “hai chân”, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh binh vận, địch

vận kết hợp với đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, hình thành phƣơng châm

đấu tranh “ba mũi giáp công” nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân đánh giặc. Kết

hợp chặt chẽ “hai chân, ba mũi giáp công” là nội dung rất quan trọng của đƣờng lối

chiến tranh nhân dân, nét độc đáo, sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt đƣờng

lối “hai chân, ba mũi giáp công chiến lƣợc” mà Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng

Cục miền Nam đã quán triệt.

Trong kháng chiến chống Mỹ, đấu tranh chính trị là mặt mạnh cơ bản tuyệt

đối của cách mạng, đồng thời cũng là mặt yếu cơ bản nhất của địch. Lực lƣợng

chính trị của quần chúng là chỗ dựa vững chắc của cách mạng, của kháng chiến, của

lực lƣợng vũ trang. Đấu tranh chính trị đƣợc tiến hành bằng nhiều hình thức phong

phú: hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp pháp. Lực lƣợng quần chúng tham gia đánh

địch đƣợc tổ chức thành một đội quân chính trị lớn, có lãnh đạo chỉ huy chặt chẽ, có

kế hoạch, phƣơng pháp đấu tranh linh hoạt sáng tạo, tạo thành một mũi tiến công lợi

90

hại với khả năng huy động đến hàng triệu quần chúng tham gia.

Để mũi đấu tranh chính trị có hiệu quả và đạt đƣợc những mục tiêu đề ra, phải

xây dựng lực lƣợng chính trị quần chúng vững mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng,

tăng cƣờng trên cơ sở mở rộng khối đoàn kết toàn dân, không phân biệt dân tộc, tôn

giáo, trình độ các giai cấp, tầng lớp nhân dân để động viên, tổ chức huy động mọi

lực lƣợng ở nông thôn, thành thị, phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ nhau trong đấu tranh,

đập tan chƣơng trình bình định của địch, giữ đƣợc thế làm chủ để tiến công ở các

địa bàn, làm cho hậu phƣơng địch thƣờng xuyên mất ổn định. Mũi đấu tranh chính

trị của phụ nữ miền Nam còn hỗ trợ đắc lực để tạo cơ sở, điều kiện cho lực lƣợng

vũ trang hoạt động có hiệu quả, nhƣ chuẩn bị chiến trƣờng, bàn đạp, căng kéo địch,

làm rối loạn hậu phƣơng địch, gây áp lực, làm giảm sút ý chí tinh thần chiến đấu

của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đòn tiến công quân sự, đánh tiêu diệt địch, từ

đó phát huy kết quả thắng lợi của mũi quân sự, mở rộng diện giải phóng xã ấp,

giành dân.

Đấu tranh vũ trang là một trong hai hình thức đấu tranh cơ bản của bạo lực

cách mạng, nhằm tiêu diệt lực lƣợng quân sự địch. Đòn tiến công quân sự vừa có

tác dụng tiêu diệt sinh lực địch, vừa kết hợp với đấu tranh chính trị phá vỡ từng

mảng hệ thống tổ chức đồn bốt, kìm kẹp của địch, vừa bảo vệ dân, giữ dân, giành

dân, làm chỗ dựa cho quần chúng đấu tranh chính trị nổi dậy, giành quyền làm chủ.

Lúc đầu, lực lƣợng vũ trang có thể là lực lƣợng tự vệ làm nhiệm vụ diệt ác trừ gian,

hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh nổi dậy. Khi lực lƣợng vũ trang phát triển mạnh sẽ

thúc đẩy mạnh mũi đấu tranh chính trị và binh vận phát triển.

Đấu tranh binh vận là mũi tiến công có ý nghĩa chiến lƣợc rất lợi hại

trong kết hợp “hai chân, ba mũi giáp công”. Đấu tranh binh vận thực chất cũng

là đấu tranh chính trị, nhƣng mang tính đặc thù riêng, gắn liền với đấu tranh vũ

trang và đấu tranh chính trị trên chiến trƣờng, nhằm tuyên truyền, giáo dục,

giác ngộ tinh thần dân tộc, quyền lợi giai cấp đi đôi với tuyên truyền chính sách

của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam trong hàng

ngũ địch, phân hóa, gây mâu thuẫn trong nội bộ địch, làm suy yếu và tan rã tinh

91

thần binh sĩ địch, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân

dân, phá tan chính sách “dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt” của Mỹ. Công tác

binh vận còn nhằm giác ngộ binh lính, nhân viên trong chính quyền địch, lôi

kéo họ về phía cách mạng, xây dựng cơ sở, tiến tới làm nội ứng cho cách mạng

để tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền. Mũi binh vận tạo

thuận lợi cho mũi quân sự và kết hợp với mũi vũ trang đánh tiêu diệt địch, giảm

thƣơng vong cho mũi quân sự, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh trực diện với địch,

cung cấp những tin tức có lợi cho cách mạng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác binh vận và khả năng to lớn với

đặc điểm riêng có của chị em phụ nữ, Trung ƣơng Đảng và Trung ƣơng Cục miền

Nam xác định phụ nữ là lực lƣợng chính, nòng cốt và xung kích nhất trong công tác

binh vận, địch vận, từ đó tổ chức và lãnh đạo chị em thực hiện có hiệu mũi tiến

công quan trọng này.

Để thực hiện công tác binh vận có hiệu quả, cần xây dựng một lực lƣợng

chuyên làm công tác binh vận nhƣ là một binh chủng đặc biệt của công tác chính trị

từ khu tới tỉnh, huyện, xã có các tổ chức vũ trang tuyên truyền binh vận và hàng

ngàn cơ sở trong lòng địch. Đội ngũ làm công tác binh vận phải mạnh, có lãnh đạo

chặt chẽ, thống nhất, nghiên cứu đánh giá đúng tình hình âm mƣu địch, đặc điểm

đối tƣợng chủ yếu của binh vận, cụ thể là tình hình chính trị, tinh thần, tâm lý của

địch, chống chủ quan, cả tin, đánh giá thấp bản chất chính trị phản động của địch,

hoặc quá tin dùng hình thức tiếp xúc, tuyên truyền, muốn hòa hợp để buộc địch phải

thi hành Hiệp định Pari ở một số địa phƣơng. Trong công tác binh vận, ngoài công

tác giáo dục tuyên truyền giải thích vận động, việc thi hành chính sách khoan hồng

đối với tù hàng binh cũng có sức thuyết phục lớn trong việc lôi kéo họ về với cách

mạng. Tác động từ việc tuyên truyền của anh em binh sĩ đƣợc phóng thích nên càng

có nhiều hơn binh sĩ bõ ngũ trở về với cách mạng.

Để đối phó với âm mƣu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ, dƣới sự chỉ đạo kịp thời

của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ƣơng, Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục miền Nam

xác định phụ nữ là lực lƣợng tích cực và xung kích nhất trong hàng ngũ đấu tranh,

92

có khả năng phát huy đƣợc vai trò của phƣơng châm “ba mũi giáp công chiến lƣợc”

trong quá trình cách mạng nhằm tiến công địch, làm thất bại chƣơng trình “xƣơng

sống” của “Việt Nam hóa chiến tranh”, làm lung lay ý chí xâm lƣợc của Mỹ - ngụy,

buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, đàm phán trong thế thua. Phong trào ba mũi

giáp công của phụ nữ đã đạt hiệu quả rất cao trong công tác chống địch bắt lính, diệt

ác phá kềm, vận động binh lính, mở rộng căn cứ ngay trong lòng địch, kết hợp tiến

công của lực lƣợng vũ trang với nổi dậy giành chính quyền của quần chúng.

Với đƣờng lối cách mạng bạo lực, phƣơng châm đấu tranh “hai chân, ba mũi

giáp công” Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam và Hội Liên hiệp phụ nữ

giải phóng miền Nam đã tập hợp đƣợc đông đảo nhất lực lƣợng phụ nữ tham gia

đấu tranh, phát huy vai trò và khả năng của chị em trên các mặt trận đấu tranh, đấu

tranh chính trị, đấu tranh binh vận và chiến tranh du kích. Phụ nữ miền Nam, trong

cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nƣớc, đặc biệt là những năm 1969-1975 đã nắm rõ và

vận dụng triệt để quan điểm về bạo lực cách mạng, phƣơng châm “hai chân, ba mũi

giáp công” mà Trung ƣơng Đảng đã quán triệt, tạo ra sức mạnh tổng hợp trên cả ba

mặt trận chính trị, quân sự, binh vận, cùng toàn quân toàn dân miền Nam đấu tranh

đến thắng lợi cuối cùng.

3.2.3. Tăng cường xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh

Vấn đề xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng cũng là một nhiệm vụ quan

trọng, để quán triệt, thực hiện sát, kịp thời và đúng đắn những chủ trƣơng của Trung

ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục tại các địa phƣơng. Dựa trên đặc điểm tình hình, hoàn

cảnh từng vùng, từng miền, Đảng bộ cơ sở cần có những biện pháp chỉ đạo cụ thể

và phù hợp. Để làm đƣợc điều đó, cán bộ, Đảng viên đặc biệt ở các cấp cơ sở phải

tăng cƣờng học tập, giáo dục, nâng cao năng lực chuyên môn và đi sâu vào quần

chúng, hiểu đặc điểm, khả năng cách mạng của quần chúng, đặc biệt là quần chúng

phụ nữ từ đó có những biện pháp vận động thích hợp.

Việc củng cố xây dựng Đảng phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên về cả chính

trị, tƣ tƣởng và tổ chức. Để đảm bảo thực hiện đƣợc cuộc đấu tranh hai chân, ba mũi

ở cơ sở xã ấp, tổ chức Đảng phải có ngƣời nắm lực lƣợng chính trị, lực lƣợng vũ

trang, lực lƣợng binh vận, đặc biệt là chi bộ phải lãnh đạo chặt chẽ các đội du kích.

93

Để kịp thời bổ sung đội ngũ Đảng bộ cơ sở phải chú ý công tác phát triển Đảng, qua

phong trào đấu tranh của quần chúng mà phát hiện những quần chúng có lòng trung

kiên, dũng cảm, có khả năng đoàn kết, huy động quần chúng để phát triển Đảng

xong cần phải hết sức thận trọng đề phòng địch lợi dụng sơ hở, cho ngƣời chui vào

tổ chức Đảng, phá từ bên trong.

Cán bộ đảng viên ở cơ sở hàng ngày phải đối mặt với những âm mƣu thủ

đoạn nham hiểm, xảo quyệt của địch, những tình huống thử thách quyết liệt, vì vậy

tƣ tƣởng của cán bộ đảng viên và cả trong quần chúng có những diễn biến phức tạp,

có nhiều lo lắng, có ngƣời vững vàng trung kiên, có ngƣời sợ sệt, dao động, hiện

tƣợng chủ quan, bi quan thƣờng xuất hiện khi tình hình không ổn định, gặp khó

khăn tổn thất… Trƣớc tình hình đó, yêu cầu công tác giáo dục lãnh đạo tƣ tƣởng

trong Đảng bộ phải làm thƣờng xuyên và liên tục, công tác tổ chức cán bộ cũng

phải đƣợc củng cố kịp thời ở những khâu yếu.

Tại các cấp huyện, tỉnh phải sâu sát ở cơ sở, kịp thời phát hiện những vƣớng

mắc khó khăn ở cơ sở và giúp đỡ, uốn nắn, giải quyết những khó khăn, bế tắc trong

quá trình chỉ đạo đấu tranh ở cơ sở, chọn tổ chức cơ sở điển hình toàn diện hoặc

từng mặt để nhân các đơn vị phụ nữ tiên tiến, thúc đẩy phong trào trong huyện, tỉnh.

Công cuộc đấu tranh của phụ nữ miền Nam, để phát huy thế mạnh công khai,

hợp pháp tuyệt đối của nữ giới, Đảng còn chú trọng giáo dục, quan tâm xây dựng

từng cán bộ, hội viên, đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ, có tinh thần

cách mạng, trung thành, vững vàng ở các cấp để đƣa phong trào phụ nữ đi lên, quan

tâm dìu dắt, đào tạo cán bộ nữ có trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh

nghiệm đấu tranh để trở thành cán bộ chủ chốt trong Đảng, trong từng cấp ủy, tổ

chức Hội ở cơ sở.

3.2.4. Tăng cường chỉ đạo và phát huy vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ

giải phóng miền Nam Việt Nam nhằm động viên, tổ chức phụ nữ tham gia đấu

tranh

“Công tác vận động phụ nữ, việc giải quyết các vấn đề về quyền lợi, đời sống

phụ nữ và nói chung là sự nghiệp giải phóng phụ nữ là nhiệm vụ chung của toàn

Đảng, toàn dân. Nhƣng thực tế khách quan chỉ ra rằng không ai tha thiết quyền lợi

của phụ nữ hơn chính những ngƣời phụ nữ, mà cũng không ai hiểu các vấn đề của

94

phụ nữ hơn chính những ngƣời phụ nữ. Bởi vậy, vai trò, vị trí các cấp hội liên hiệp

phụ nữ, của các cán bộ nữ đối với các nhiệm vụ nói trên có tầm quan trọng quyết

định, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Các cấp hội phải là cánh tay đắc lực và là

tham mƣu cho Đảng, Nhà nƣớc về các vấn đề quan hệ đến phụ nữ” [107, tr.17].

Trong cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đặc

biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, các tổ chức đoàn thể phụ nữ có vai trò hết sức

quan trọng. Ngày 8/3/1961, Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam ra đời, là

thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hội đã nắm vững

đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Trung ƣơng Cục miền Nam, đề ra nhiệm vụ,

bƣớc đi và biện pháp thích hợp với tình hình từng địa phƣơng, phát động quần

chúng phụ nữ tham gia, từ đó phát huy vai trò tích cực trong việc tập hợp, tổ chức

và lãnh đạo phụ nữ miền Nam đấu tranh.

Ra đời giữa lúc cuộc chiến đấu chống Mỹ bƣớc vào giai đoạn gay go ác liệt

nhất, Hội đã giáo dục, động viên hàng triệu phụ nữ miền Nam vƣợt qua muôn trùng

khó khăn, gian khổ, làm nên những chiến công vẻ vang, hào hùng. Trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, Hội ngày càng trƣởng thành về mọi mặt, đóng

góp to lớn trên cả 3 mặt trận: chính trị, vũ trang, binh vận. Đặc biệt, Hội đã tổ chức

đƣợc nhiều cuộc đấu tranh chính trị với nội dung sâu sắc, hình thức phong phú.

Với cƣơng vị Phó tƣ lệnh các lực lƣợng vũ trang giải phóng miền Nam Việt

Nam, và là một ngƣời phụ nữ trực tiếp tham gia chiến đấu, bà Nguyễn Thị Định

hiểu rõ đặc điểm của chị em phụ nữ và chỉ đạo: “Phụ nữ không nên đánh công đồn,

đánh công đồn không hợp với sức khỏe chị em phụ nữ do mỗi lần vào đồn phải vác

mìn Đ10 nặng 15kg, vác khẩu AK cùng 6 băng đạn và một số lựu đạn. Những cuộc

hành quân chiến đấu nặng nề không hợp với chị em, chị em chỉ nên đánh gọn, đánh

nhỏ, nắm tình hình, làm trinh sát, báo tin cho lực lƣợng ta tiến công địch. Ở các

vùng giải phóng, địch bỏ bom, bắn pháo dữ dội, những cuộc hành quân tập trung

không hợp với sức khỏe phụ nữ. Vì vậy, chỉ nên xây dựng lực lƣợng nữ ở xã,

huyện, không nên tổ chức ở tỉnh. Và cần tổ chức các đơn vị nữ xen kẽ với các đơn

vị nam để hỗ trợ chiến đấu” [117, tr.216].

Trong các cuộc đấu tranh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt

Nam có thể tự hào là đã giữ vai trò xung kích, đóng góp nhiều lực lƣợng cho cách

95

mạng. Trong 5 năm, từ 1961-1966, Hội đã phát động 220.000 cuộc đấu tranh chính

trị lớn, nhỏ; huy động 25.800.000 lƣợt phụ nữ tham gia mít tinh, biểu tình phản đối

tội ác của Mỹ- ngụy rãi chất độc hóa học, càn quét, đốt phá ruộng vƣờn, hãm hiếp,

gom dân vào ấp chiến lƣợc… số cuộc đấu tranh chính trị ngày càng tăng ở những

năm 1969 -1972, mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao uy tín cách mạng và làm

giảm uy tín của địch. Trên lĩnh vực đấu tranh vũ trang, số phụ nữ tham gia du kích,

dân vệ, quân sự chính quy ngày càng đông, xuất hiện nhiều anh hùng, dũng sĩ. Song

song với những thành tựu trên, sự đóng góp của Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng

miền Nam Việt Nam trên lĩnh vực ngoại giao quốc tế cũng không nhỏ. Những tà áo

dài xuất hiện trong hội nghị Paris 1973 đã mang lại hình ảnh khó quên đối với bạn bè

yêu hòa bình trên thế giới.

Thực tế khách quan đang đòi hỏi công tác xây dựng và phát triển đội ngũ lãnh

đạo phải đúng tầm và phù hợp với phong trào đấu tranh của phụ nữ. Bản thân Hội

phụ nữ phải chủ động liên kết, phát hiện và bồi dƣỡng nhân tố nữ, tích cực giới

thiệu cho chi ủy, chi bộ bồi dƣỡng phát triển đảng viên. Từ đó, bồi dƣỡng, đào tạo

đội ngũ cán bộ nữ đông về số, mạnh về chất, đáp ứng yêu cầu thực hiện các nhiệm

vụ chính trị đƣợc giao. Cần xây dựng cơ sở Hội có hệ thống và hoạt động có hiệu

quả từ Trung ƣơng đến địa phƣơng, xuống tận các xã để nắm đƣợc tình hình phụ nữ

ở từng địa phƣơng, có biện pháp vận động và tổ chức phù hợp. Qua cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nƣớc, đội ngũ cán bộ phụ nữ miền Nam càng trƣởng thành, uy

tín của Hội ngày càng đƣợc nâng cao, trở thành nòng cốt, ngọn cờ đầu hiệu triệu,

đoàn kết chặt chẽ chị em, phối hợp tốt với các đoàn thể và mặt trận, vận động, thúc

đẩy phong trào đấu tranh của phụ nữ hoàn thành nhiệm vụ chính trị do Trung ƣơng

Đảng đề ra.

Chiến tranh kết thúc, cả nƣớc bƣớc vào giai đoạn hội nhập, trên con đƣờng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phụ nữ Việt Nam không ngừng phát huy vai trò của

mình, trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Trƣớc tình hình

mới, yêu cầu đặt ra cho Hội phụ nữ là cần nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, kỹ

thuật, có bản lĩnh ứng xử mọi tình huống kịp thời trong hội nhập, góp phần cùng

toàn Đảng, toàn dân, thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội

96

công bằng dân chủ, văn minh.

Tiểu kết

Nhƣ vậy, Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục miền Nam đã nhận

định đúng sự biến chuyển mau lẹ của tình thế cách mạng để có đƣờng lối, chủ

trƣơng lãnh đạo phù hợp đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ nói riêng và cách

mạng miền Nam nói chung. Từ thực tế cách mạng, rút ra đƣợc những ƣu điểm,

thành tựu to lớn trong công tác dân vận, phụ vận, công tác lãnh đạo, tổ chức phong

trào đấu tranh của phụ nữ, thể hiện vai trò quan trọng hàng đầu của Đảng, của

Trung ƣơng Cục miền Nam. Với đƣờng lối cách mạng đúng đắn của Trung ƣơng

Đảng và Trung ƣơng Cục, mới có đƣợc lực lƣợng cách mạng (chính trị, quân sự)

đông đảo, hùng hậu, mới làm nên đƣợc thắng lợi Tổng tiến công và nổi dậy mùa

xuân 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Bên cạnh những ƣu điểm đó, với

những nguyên nhân khách quan và chủ quan của cuộc chiến đấu đang bƣớc vào giai

đoạn cam go, khốc liệt nhất, Trung ƣơng Cục miền Nam còn mắc phải một số hạn

chế trong đƣờng lối lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng cần triệt để khắc

phục. Tuy nhiên, có thể khẳng định, đƣờng lối cách mạng đúng đắn, sự chỉ đạo kịp

thời, sáng suốt, nhạy bén của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục miền Nam nhƣ

kim chỉ nam để cách mạng miền Nam tiến lên và giành thắng lợi hoàn toàn, thực

hiện “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất

97

nƣớc, Nam – Bắc sum họp một nhà, sau 21 năm kháng chiến gian khổ.

KẾT LUẬN

Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc, ngƣời phụ

nữ Việt Nam không chỉ hiện lên với hình tƣợng “tề gia nội trợ” mà còn hiện lên với

hình ảnh những chiến sĩ dũng cảm, với truyền thống “Giặc đến nhà đàn bà cũng

đánh”. Từ những vị anh hùng lừng lẫy nhƣ Bà Trƣng, Bà Triệu, nữ tƣớng Bùi Thị

Xuân đến nữ tƣớng Nguyễn Thị Định, nữ chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thị Út (Út

Tịch) với câu nói nổi tiếng “Còn cái lai quần cũng đánh”… tất cả đều là những

minh chứng hùng hồn cho biểu tƣợng ngƣời phụ nữ cầm quân đánh giặc.

Tiếp nối truyền thống tự hào đó, trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ

cứu nƣớc vô cùng gian khổ, từ vĩ tuyến 17 cho tới mũi Cà Mau, trên dải đất miền

Nam anh hùng, đâu đâu cũng xuất hiện những ngƣời mẹ, ngƣời chị, không chỉ

“chắc tay cày” mà còn luôn “chắc tay súng”, trực tiếp đấu tranh trên khắp các chiến

trƣờng miền Nam, góp sức cùng cả dân tộc thực hiện cho đƣợc lời dặn của Hồ Chủ

tịch “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam,

thống nhất Tổ quốc.

Trong thực tiễn lãnh đạo, tổ chức của Trung ƣơng Đảng, Trung ƣơng Cục

miền Nam đối với phong trào đấu tranh của phụ nữ, bên cạnh những hạn chế,

khuyết điểm, đôi khi còn chƣa đi sâu vào phong trào quần chúng, chƣa kịp thời

chuyển hƣớng chỉ đạo cách mạng khi tình hình đã có nhiều thay đổi làm hạn chế

phong trào đấu tranh của phụ nữ, Trung ƣơng Đảng, trực tiếp là Trung ƣơng Cục

miền Nam đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ sát hợp, xác định đúng động lực, gắn

liền lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích của riêng giới phụ nữ, lực lƣợng cách

mạng, vạch ra đƣợc phƣơng pháp, hình thức đấu tranh phù hợp, đề ra khẩu hiệu

hành động kịp thời, chính xác, kết hợp chặt chẽ khẩu hiệu hành động với khẩu hiệu

tuyên truyền, kết hợp công tác tƣ tƣởng với công tác tổ chức nhằm động viên đông

đảo nhất lực lƣợng phụ nữ tham gia đấu tranh cách mạng.

Bám sát và vận dụng triệt để đƣờng lối cách mạng của Trung ƣơng Đảng,

Trung ƣơng Cục miền Nam và Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam, đặc

biệt là đƣờng lối chiến tranh nhân dân với phƣơng châm đấu tranh “hai chân, ba mũi

98

giáp công, ba vùng chiến lƣợc”, chị em phụ nữ trở thành đội quân hùng hậu, xung

kích với những hình thức đấu tranh phong phú, linh hoạt trên mọi mặt trận, đấu

tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, công tác binh vận, trên khắp các chiến trƣờng từ

thành thị tới nông nông đồng bằng, miền núi, đập tan những âm mƣu hành động và

những chiến lƣợc chiến tranh hung bạo nhất của Mỹ - ngụy. Phụ nữ miền Nam đã

góp vai trò to lớn, chủ lực và xung kích nhất trong mũi đấu tranh chính trị, tận dụng

ƣu thế của mình trong công tác binh vận và chiến tranh du kích, vận dụng đầy trí tuệ

phƣơng châm ba mũi giáp công, góp phần làm nên thắng lợi trong khởi nghĩa từng

phần, góp phần cùng lực lƣợng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phƣơng làm nên thắng lợi

của Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, Tổng tiến công chiến lƣợc

năm 1972 và đỉnh cao là Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 với chiến dịch

Hồ Chí Minh lịch sử…Từ những cá nhân đánh địch tự phát đến những phụ nữ đƣợc

tổ chức, rồi hình thành cả những trung đoàn, binh đoàn, sƣ đoàn,… “đội quân tóc

dài” là một sáng tạo độc đáo của cách mạng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nƣớc.

Không những đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang trực diện, làm tan rã hàng ngũ

kẻ thù, trên mặt trận đấu tranh ngoại giao, những tà áo dài Việt Nam tại các hội nghị

quốc tế cũng để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lòng bạn bè thế giới, hình ảnh những nữ

ngoại giao vừa mềm dẻo, duyên dàng lại vô cùng thông minh, sắc sảo khiến nhân

dân thế giới thực sự khâm phục. “Đội quân tóc dài” miền Nam thực sự trở thành

niềm kiêu hãnh của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Những hoạt động, những đóng góp to lớn của phụ nữ miền Nam trên các mặt

trận đấu tranh đã góp phần cổ vũ, động viên tinh thần đoàn kết, kiên cƣờng, bất

khuất và phong trào đấu tranh của chị em phụ nữ trên toàn thế giới. “Trƣớc đây,

không bao giờ tự hào rằng mình là phụ nữ, thì nay nhờ phụ nữ Việt Nam mà thấy tự

hào”.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc thần thánh với những gian khổ, hy

sinh, mất mát to lớn, là thời kỳ đầy đau thƣơng với máu và nƣớc mắt của biết bao

ngƣời phụ nữ Việt Nam, nhƣng cũng chính trong thời kỳ khó khăn ấy, chủ nghĩa

anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam đƣợc thể hiện rõ nét và mãnh liệt hơn

bao giờ hết, đó là thời kỳ phụ nữ miền Nam Việt Nam vùng dậy, cùng toàn dân tộc

99

viết nên bản hùng ca toàn thắng của dân tộc.

Đánh giá vai trò của phụ nữ Việt Nam, trong đó có phụ nữ miền Nam thành

đồng Tổ quốc, đồng chí Lê Duẩn, Bí thƣ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng

Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Trong bức tranh hùng vĩ của chiến tranh nhân

dân, đâu đâu cũng có phụ nữ, những người gan vàng dạ sắt không hề khiếp sợ,

không chịu cúi đầu, hiên ngang chiến đấu đến cùng để cứu nước, cứu nhà. Có thể

nói người phụ nữ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang là một trong

100

những hình ảnh đẹp nhất của con người Việt Nam trong thế hệ chúng ta” [29, tr.6].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (1985), Một số văn kiện

Đảng về chống Mỹ cứu nước, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội.

2. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:Thắng lợi và bài học, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Phụ nữ quân đội (1994), Nữ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, NXB

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

4. Ban Phụ vận, Dự thảo báo cáo chuyên đề về tình hình phong trào phụ nữ tham

gia chống phá bình định nông thôn của địch từ 1954 - 1974, Lƣu tại Bảo tàng

Phụ nữ Việt Nam.

5. Báo Nhân dân (1969), Đồng bào thành thị miền Nam đấu tranh đòi lật đổ

Thiệu – Kỳ - Hương, đòi lập lại hòa bình, số 5382, ra ngày 7/1.

6. Báo Nhân dân (1969), Hội nghị Pari về Việt Nam họp phiên đầu tiên, số 5394,

ra ngày 19/1.

7. Báo Nhân dân (1969), Nhật lệnh của bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân

dân giải phóng miền Nam, số 5420, ra ngày 14/2.

8. Báo Nhân dân (1969), Tội ác của Mỹ dùng vũ khí hóa học ở miền Nam từ

tháng 11/1968 đến tháng 5/1969, số 5518, ra ngày 24/5.

9. Báo Nhân dân (1969), Miền Nam sáu tháng đầu năm 1969, phong trào đấu

tranh chính trị phát triển mạnh, số 5597, ra ngày 11/8.

10. Báo Nhân dân (1970), Mỹ Tho, Cần Thơ, Bến Tre – Đồng bào thành thị tiếp

tục đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, số5777, ra ngày 9/2.

11. Báo Nhân dân (1970), Hội nghị cán bộ phụ nữ toàn miền Nam lần thứ ba biểu

dương thành tích to lớn của phong trào phụ nữ năm 1969, số5793, ra ngày

25/2.

12. Báo Nhân dân (1970), Bước phát triển mới của phong trào phụ nữ Việt Nam,

101

số 5805, ra ngày 9/3.

13. Báo Nhân dân (1971), Vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh chống

Mỹ, cứu nước, số 6193, ra ngày 6/4.

14. Báo Nhân dân (1971), Lính Mỹ đã tham gia chiến tranh ở Việt Nam biểu tình

phẫn nộ ném trả huân chương, huy chương trước thềm nhà quốc hội, kịch liệt

lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, số 6212, ra ngày 25/4.

15. Báo Nhân dân (1971), Thành thị miền Nam đấu tranh – những cuộc bãi công

tháng năm, số 6262, ra ngày 15/6.

16. Báo Nhân dân (1970), Họp báo tố cáo tội ác của Mỹ - ngụy ở Côn Đảo,

(1970), Báo Nhân dân, số 5932, ra ngày 15/7.

17. Báo Nhân dân (1971), Tiền tuyến lớn anh hùng: 6 tháng đầu năm 1971, chiến

tranh du kích giáng đòn mạnh mẽ vào kế hoạch “bình định” của Mỹ - ngụy, số

6299, ra ngày 23/7.

18. Báo Nhân dân (1971), Sài Gòn, phụ nữ biểu tình chống Mỹ - Thiệu, số 6352, ra

ngày 13/9.

19. Báo Nhân dân (1971), Tấm gương tuyệt vời anh dũng, bất khuất Lê Thị Hồng

Gấm, số 6368, ra ngày 29/9.

20. Báo Nhân dân (1971), Công nhân hãng phin Con Ó tố cáo bọn Thiệu và tiếp

tục bãi công, số 6437, ra ngày 7/12.

21. Báo Nhân dân (1972), 35 vạn lính Mỹ bỏ ngũ để phản đối chiến tranh xâm

lược Việt Nam, số 6503, ra ngày 11/2.

22. Báo Nhân dân (1972), Chiến công của “Đội quân tóc dài” trên mặt trận

chống “bình định”, số 6528, ra ngày 8/3.

23. Báo Nhân dân (1972), Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình gửi thư cho Bộ trưởng Bộ

Ngoại giao nhiều nước không liên kết, tố cáo bước leo thang chiến tranh mới

của Mỹ ở Việt Nam, số 6583, ra ngày 2/5.

24. Báo Nhân dân (1972), Nữ nghệ sĩ Giên Phôn-đa: Chiến tranh xâm lược Việt

Nam là một tấn thảm kịch của nước Mỹ, số 6669, ra ngày 27/7.

25. Báo Nhân dân (1972), Bến Tre, hàng trăm binh sĩ bảo an ngụy đấu tranh bỏ

102

ngũ, số 6683, ra ngày 10/8.

26. Báo Nhân dân (1972), Hội nghị Pari về Việt Nam họp phiên toàn thể thứ 166,

số 6774, ra ngày 10/11.

27. Báo Nhân dân (1972), Sài Gòn khổ sở về vấn đề đào ngũ, số 6808, ra ngày

14/12.

28. Báo Nhân dân (1973), Nam Bộ xông lên quyết liệt trong đấu tranh chính trị, số

6847, ra ngày 22/1.

29. Báo Nhân dân (1973), Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình trở lại Pari, số 6849, ra

ngày 24/1.

30. Báo Nhân dân (1973), Thắng lợi lịch sử và cục diện mới của miền Nam, số

6854, ra ngày 29/1.

31. Báo Nhân dân (1973), Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm

thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về việc cính quyền Sài Gòn vi phạm

nghiêm trọng hiệp định Pari, số 6866, ra ngày 11/2.

32. Báo Nhân dân (1973), Trung Nam Bộ, hàng triệu đồng bào và binh sĩ quân đội

Sài Gòn sôi nổi đấu tranh và trở về vùng giải phóng, số 6871, ra ngày 16/2.

33. Báo Nhân dân (1973), Hoạt động của Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình tại Pari, số

6883, ra ngày 28/2.

34. Báo Nhân dân (1973), Mỹ Tho, bất chấp lựu đạn cay, đồng bào xã Tân Hợi

cản xe M.113 đi càn quét, số 6888, ra ngày 5/3.

35. Báo Nhân dân (1973), Theo tiếng gọi của hòa bình, độc lập, dân chủ và hòa

hợp dân tộc: từ 28/1 đến 8/2, hơn 4000 binh sĩ Sài Gòn ở Tây Nam Bộ bỏ ngũ,

25 đơn vị tiểu đoàn và đại đội phản chiến tập thể, số 6888, ra ngày 5/3.

36. Báo Nhân dân (1973), Lên án Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định

Pari, số 6891, ra ngày 8/3.

37. Báo Nhân dân (1973), Chị em từ các nhà tù Mỹ - Thiệu chiến thắng trở về

tưng bừng tổ chức kỷ niệm ngày 8/3, số 6895, ra ngày 12/3.

38. Báo Nhân dân (1973), Đấu tranh đòi chính quyền Sài Gòn thi hành hiệp định

Pari, đồng bào Bến Tre đòi trả tự do cho những người yêu nước, chống hành

103

quân khủng bố, số 6913, ra ngày 30/3.

39. Báo Nhân dân (1973), Nhân dân thế giới lên án Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi

phạm nghiêm trọng hiệp định Pari, số 6913, ra ngày 30/3.

40. Báo Nhân dân (1973), Một phụ nữ Mỹ: Nhân dân Việt Nam tượng trưng cho

tinh thần nhân đạo mới, số 6920, ra ngày 6/4.

41. Báo Nhân dân (1973), Sức mạnh đấu tranh chính trị, số 6932, ra ngày 18/4.

42. Báo Nhân dân (1973), Bến Tre: Gần 375.000 đồng bào tham gia hàng nghìn

cuộc đấu tranh, (1973), số 6966, ra ngày 23/5.

43. Báo Nhân dân (1973), Tại Bến Tre, gần 375.000 đồng bào tham gia hàng

nghìn cuộc đấu tranh, số 6966, ra ngày 23/5.

44. Báo Nhân dân (1973), Đòi Thiệu thi hành ngay điều 11 Hiệp định Pari, số

7010, ra ngày 6/7.

45. Báo Nhân dân (1973), Hơn 300 công nhân Sài Gòn – Gia Định bãi công, số

7022, ra ngày 18/7.

46. Báo Nhân dân (1973), Miền Nam nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, số

7059, ra ngày 25/8.

47. Báo Nhân dân (1973), Trung Nam Bộ, 20 ngày đầu tháng 9, hàng vạn đồng

bào sôi sục đấu tranh chống địch, (1972), Báo Nhân dân, số 6742, ra ngày

9/10.

48. Báo Nhân dân (1973), Nam Bộ kiên cường, số 7148, ra ngày 23/11.

49. Báo Nhân dân (1974), Bà Ngô Bá Thành tố cáo Mỹ - Thiệu vi phạm Hiệp định

Pari, âm mưu bóp chết thành phần thứ ba, số 7215, ra ngày 30/1.

50. Báo Nhân dân (1974), Nụ cười Võ Thị Thắng, số 7288, ra ngày 13/4.

51. Báo Nhân dân (1974), Miền Nam, đồng bào thành thị đẩy mạnh đấu tranh vì

dân sinh, dân chủ, số 7378, ra ngày 13/7.

52. Báo Nhân dân (1975), Hàng vạn phụ nữ các nước đòi quyền bình đẳng và ủng

hộ Việt Nam nhân ngày 8/3 trên thế giới, số 7616, ra ngày 11/3.

53. Lê Quang Bình (9/2009), Tiểu đội 11 cô gái sông Hương, Tạp chí Lịch sử

quân sự, số 213, tr39-40.

54. Bộ Quốc phòng (1996), Chiến tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến

104

chống Mỹ cứu nước 1954-1975, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

55. Bộ tổng tham mƣu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương trong

kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chuyên đề kết hợp đấu tranh hai chân, ba

mũi giáp công trên ba vùng chiến lược trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ

tại địa bàn quân khu 9 1954-1975, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

56. Câu lạc bộ truyền thống thành Đoàn (2012), Đội thanh niên cận vệ Sài Gòn,

NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

57. Kim Văn Chiến (2013), Nữ thanh niên xung phong Việt Nam trong đấu tranh

chiến tranh chống Mỹ, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 1, tr41-50.

58. Quỳnh Cƣ (1980), Tìm hiểu đội quân chính trị của quần chúng trong cách

mạng miền Nam 1945-1975, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3/1980.

59. Lê Duẩn (1960), Phải đứng trên quan điểm giai cấp mà nhận xét vấn đề phụ

nữ, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

60. Lê Duẩn (1974), Vai trò và nhiệm vụ của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn

mới của cách mạng, NXB Sự thật, Hà Nội.

61. Lê Duẩn (1986), Thư vào Nam, NXB Sự Thật, Hà Nội.

62. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 30, NXB

Chínhtrị Quốc gia, Hà Nội.

63. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 31, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 32, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 33, NXB

Chínhtrị Quốc gia, Hà Nội.

66. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 34, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004) Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, NXB. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, NXB Chính

105

trị quốc gia, Hà Nội,

69. Đẩy mạnh công tác phụ vận nhằm phát huy hơn nữa vai trò và khả năng cách

mạng của quần chúng phụ nữ trong tình hình mới,(1968), Chỉ thị số 52/CTNT,

ngày 2/12/1968, MI.2102.

70. Ga brien Côn cô, Nguyễn Tấn Cƣu dịch (1991), Giải phẫu một cuộc chiến

tranh Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại, tập 1, NXB Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

71. Ga brien Côn cô, Nguyễn Tấn Cƣu dịch (1991), Giải phẫu một cuộc chiến

tranh Việt Nam, Mỹ và inh nghiệm lịch sử hiện đại, tập 2, NXB Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

72. Trần Văn Giàu (1978), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 5, NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội.

73. Trần Hậu, Vũ Đức Hoạt, Nguyễn Huy Hoan (2005), Biên niên sự kiện lịch sử

Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Vũ Thị Thuý Hiền (2004), Phụ nữ miền Nam trong đấu tranh chính trị thời kỳ

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Luận án Tiến sĩ Lịch sử:

5.03.15, Hà Nội, Lƣu tại Thƣ viện quốc gia Việt Nam.

75. Trần Thị Hoạt (2006), Phụ nữ miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí

Toàn cảnh – Sự kiện – Dƣ luận, số 195, tr24-25.

76. Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng

(2010), Lịch sử đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng nhà tù Côn

Đảo 1862-1975, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Lịch sử Nam Bộ

kháng chiến, tập 2, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

78. Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam: Nghị quyết công tác

năm 1969 của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt

Nam, Lƣu tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam.

79. Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam: Báo cáo tình hình

phong trào phụ nữ miền Nam năm 1973 (Từ khi có Hiệp định Paris về Việt

106

Nam), Tài liệu lƣu tại Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ.

80. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ra lời kêu gọi phụ nữ thế giới Nhân ngày quốc

tế phụ nữ 8/3/1970, (1970), Báo Nhân dân, số5800, ra ngày 4/3.

81. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1981), Lịch sử phong trào phụ nữ, tập 2,

NXB Phụ nữ, Hà Nội.

82. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1999), Phụ nữ Nam Trung Bộ trong sự

nghiệp kháng chiến cứu nước (1930-1975), NXB Đà Nẵng.

83. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2007), Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải

phóng dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước, NXB Văn hóa – thông tin, Hà

Nội.

84. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Bến Tre (2000), Phụ nữ Bến Tre, NXB Thành phố

Hồ Chí Minh.

85. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Bình Định (Tháng 4/2000), Phụ nữ Bình Định trong

kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Quy Nhơn.

86. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Cà Mau (tháng 7/2000), Truyền thống cách mạng

của phụ nữ Cà Mau trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, NXB Cà Mau, Cà Mau.

87. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Gia Lai (2002), Lịch sử phong trào phụ nữ Gia Lai

(1930-2000), Gia Lai.

88. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Lâm Đồng (tháng 10/2000), Lịch sử phong trào phụ

nữ Lâm Đồng (1930-2000), Lâm Đồng.

89. Hội liên hiệp phụ nữ Long An (2003), Phụ nữ Long An - Lịch sử và truyền

thống, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

90. Hội Liên hiệp phụ nữ Quảng Nam – Đà Nẵng (1995), Lịch sử phong trào phụ

nữ Quảng Nam – Đà Nẵng, Đà Nẵng.

91. Hội liên hiệp phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, Ban sử truyền thống (1987),

Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới lá cờ vẻ vang của Đảng

1954-1985, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

92. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Trà Vinh (2010), Lịch sử đấu tranh cách mạng của

phụ nữ tỉnh Trà Vinh 1930-1975, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền (1996), NXB Sự thật, Hà Nội.

107

94. Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ, (1986), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

95. Hà Minh Hồng (2000), Phong trào chống phá bình định vùng nông thôn ở

Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1969-1972, NXB Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

96. Đỗ Quốc Hùng, Trần Quang Huy, Nguyễn Đình Thống (1996), Nhà tù Côn

Đảo (1955-1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

97. Karen Gottschang Turner và Phan Thanh Hảo (2000), Giặc đến nhà đàn bà

cũng đánh, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

98. Nguyễn Thị Ngọc Lâm (2001), Phụ nữ quân đội trong sự nghiệp kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện sử học, Hà

Nội.

99. Lịch sử đặc công miền Đông Nam Bộ 1945-1975, (1997), NXB Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

100. Dƣơng Linh, Lâm Phƣợng, Bích Lâm (2015), Những người con thành đồng tổ

quốc của miền Nam anh hùng, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

101. Cao Văn Lƣợng (1985), Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,

thành quả tổng hợp sức mạnh cả nước, của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tháng 2/1985.

102. Mác-Ăngghen-Lênin với vấn đề giải phóng phụ nữ, (1970), NXB Sự thật, Hà

Nội.

103. Mađơlen Rípphô (1965), Hai tháng với các chiến sĩ Nam Việt Nam, NXB Văn

hóa, Hà Nội.

104. Maicơn Maelia (1996), Việt Nam - cuộc chiến tranh 10 ngàn ngày, NXB Sự

thật, Hà Nội.

105. Mấy kinh nghiệm về tổ chức xây dựng các trung đội nữ, CT.1357

106. Mônica Valenxca (1984), Trên đất miền Nam, Bút ký, NXB Văn nghệ Giải

phóng.

107. Nghị quyết của Hội nghị tổng kết công tác phụ vận họp từ 8-11/12/1971 (đƣợc

Ban Bí thƣ thông qua).

108

108. Nhiều tác giả (2009), Ký ức như huyền thoại, tập 2, NXB Trẻ, Hà Nội.

109. Nhiều tác giả (2011), Những bông hoa nơi ngục tù Côn Đảo, NXB Phụ nữ, Hà

Nội.

110. Những nữ anh hùng miền Nam, (1969), NXB Phụ nữ, Hà Nội.

111. Những văn kiện Đảng về công tác phụ nữ, (1979), NXB Phụ nữ, Hà Nội.

112. Nguyễn Trọng Phúc, Võ Ngọc Minh, Nguyễn Đình Thống (2013), Lịch sử đấu

tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng nhà tù Côn Đảo (1862-1975),

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

113. Phụ nữ miền Nam Việt Nam bất khuất, (1967), NXB Phụ nữ, Hà Nội.

114. Phan Quang, Nguyễn Thị Định, Thanh Giang, Trầm Hƣơng (2010), Bến Tre

đồng khởi và đội quân tóc dài, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

115. Văn Tạo (1966), Tìm hiểu mối quan hệ giữa “2 mặt đấu tranh chính trị và

quân sự” và “3 mũi giáp công” trong phong trào cách mạng Việt Nam, Tạp

chí Nghiên cứu lịch sử, số 89/1966.

116. Bùi Đình Thanh (1994), Cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam với sự kết hợp

chặt chẽ đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, Tạp chí Nghiên cứu lịch

sử, tháng 7/1994.

117. Bích Thuận (1992), Nữ chiến sĩ rừng dừa, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, Hà Nội.

118. Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam

Bộ kháng chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

119. Tổ Sử Phụ nữ Nam Bộ, Giáo sƣ Trần Văn Giàu hiệu đính (1989), Truyền

thống cách mạng của phụ nữ Nam Bộ thành đồng, NXB Thành phố Hồ Chí

Minh.

120. Lê Thị Nhâm Tuyết (1975), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

121. Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Lịch sử

biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

122. Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ

109

cứu nước (1954 - 1975), tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

123. Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ

cứu nước (1954 - 1975), tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

124. Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ

cứu nước (1954 - 1975), tập 8, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

125. Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ

110

cứu nước (1954 - 1975), tập 9, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

Bản đồ địa lý hành chính miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)

Nguồn: website http://www.vnmilitaryhistory.info/quansuvnch/lichsuquansuvn.htm

Phụ lục 2:

Những hình ảnh tiêu biểu cho phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam Việt Nam trong

những năm 1969 -1975

Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ

Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng

Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng

phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ

chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.

Nam Bộ kháng chiến, NXB Chính trị quốc

gia – Sự thật.

Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng

Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ

phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ

Nam Bộ kháng chiến, NXB Chính trị quốc

Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng

chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.

gia – Sự thật.

Đấu tranh của học sinh, sinh viên

Nguồn:

Nguồn: Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam

http://www.baotangphunu.com/index.php?option=c

(1999), Phụ nữ Nam Trung Bộ trong sự

om_qtvm&view=detail&layout=detail&id=88&Ite

nghiệp kháng chiến cứu nước 1930-1975,

mid=80

NXB Đà Nẵng.

Nguồn: Hội liên hiệp phụ nữ thành phố Hồ Chí

Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ

Minh (1987), Phong trào phụ nữ thành phố Hồ

Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng

Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng

chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.

(1954-1985), NXB Thành phố Hồ Chí Minh,

tr245

Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ

Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ

nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ

Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng

kháng chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự

chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.

thật.

Nguồn: Báo Nhân dân, số 5890, ra ngày

Tại cuộc mít tinh chống Mỹ - Thiệu tại chùa Ấn

3/6/1970, tr4

Quang (Sài Gòn), một đại biểu phụ nữ đốt thẻ cử

tri tỏ thái độ phản đối trò hề bầu cử.

Nguồn: Báo Nhân dân, số 6358, ra ngày

19/9/1971, tr4

Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ

Nữ tự vệ thành phố Sài Gòn tham gia đánh

Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng

địch trên từng góc phố

chiến, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.

Nguồn: http://www.baomoi.com/Phu-nu-Sai-

Gon--Gia-Dinh-trong-chien-dich-Tet-Mau-

Than-1968/121/10308551.epi

Nguồn: Báo Nhân dân, số 6362, ra ngày

Nguồn: Báo Nhân dân, số 6364, ra ngày

23/9/1971, tr4

25/9/1971, tr4

Công tác binh vận ở Phú Yên

Nụ cƣời chị Võ Thị Thắng

Nguồn: http://news.zing.vn/Nhung-buc-anh-

Nguồn:

gan-voi-cuoc-doi-nu-cuoi-Vo-Thi-Thang-

http://www.baotangphunu.com/index.php?opti

on=com_qtvm&view=detail&layout=detail&i

post450049.html

d=88&Itemid=80

Đơn vị nữ pháo binh Long An đƣợc lệnh hành

quân vào nội đô tham gia bắn pháo vào các

Nguồn: http://www.baomoi.com/Phu-nu-Sai-

mục tiêu của địch

Gon--Gia-Dinh-trong-chien-dich-Tet-Mau-Than-

Nguồn: http://www.baomoi.com/Phu-nu-Sai-

1968/121/10308551.epi

Gon--Gia-Dinh-trong-chien-dich-Tet-Mau-

Than-1968/121/10308551.epi

Đội nữ du kích Củ Chi

Bà Nguyễn Thị Út - Anh hùng lực lƣợng vũ

Nguồn:

trang nhân dân cùng gia đình

http://www.baotangphunu.com/index.php?opti

Nguồn: http://antt.vn/phu-nu-viet-nam-anh-

on=com_qtvm&view=detail&layout=detail&i

hung-bat-khuat-trung-hau-dam-dang-

d=88&Itemid=80

017138.html

Nguồn: Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng phụ nữ Nam

Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, NXB

Nguồn: Báo Nhân dân, số 5489, ra ngày

Chính trị quốc gia – Sự thật.

24/4/1969.

Tổ săn máy bay quân du kích Quảng Trị

Nguồn: Báo Nhân dân, số 5804, ra ngày

Nguồn: Báo Nhân dân, số 5784, số ra ngày

8/3/1970, tr3

16/2/1970, tr3

Nguồn: Báo Nhân dân, số 6283, ra ngày

Nguồn: Báo Nhân dân, số 5806, ra ngày

6/7/1971, tr3

10/3/1970, tr1

Nguồn: Hội liên hiệp phụ nữ thành phố Hồ Chí

Minh (1987), Phong trào phụ nữ thành phố Hồ

Nguồn: Báo Nhân dân, số 6556, ra ngày

Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng

5/4/1972, tr3

(1954-1985), NXB Thành phố Hồ Chí Minh,

tr305

Quang cảnh lễ ký Hiệp định Paris

Nguồn:

Nguồn: http://www.baomoi.com/Phu-nu-Sai-

http://www.baotangphunu.com/index.php?optio

Gon--Gia-Dinh-trong-chien-dich-Tet-Mau-

n=com_qtvm&view=detail&layout=detail&id=

Than-1968/121/10308551.epi

88&Itemid=80