ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
BÙI VŨ NGỌC TRÂM
TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn1
THÁI NGUYÊN - 2012
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
BÙI VŨ NGỌC TRÂM
TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÍCH THU
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn2
THÁI NGUYÊN - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn3
Bùi Vũ Ngọc Trâm
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
PGS.TS Nguyễn Bích Thu, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong
suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại
học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái
Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu tại trường.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới BGH, bạn bè, đồng
nghiệp trường THPT Thác Bà, Sở GD & ĐT tỉnh Yên Bái cùng gia đình và
những người thân yêu đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện
giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn4
Bùi Vũ Ngọc Trâm
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục ........................................................................................................... i
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG ..................................................................................................10
Chương 1. TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ TRONG DÒNG CHẢY
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM SAU 1975 ............................................10
1.1. Khái lược truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ...................................... 10
1.1.1. Một số vấn đề lý thuyết thể loại. ...................................................10
1.1.2. Bối cảnh lịch sử - thẩm mĩ của văn học Việt Nam sau 1975 .........13
1.1.3. Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ..................................................16
1.2. Khái lược về thế hệ nhà văn nữ Việt Nam sau 1975 ........................ 18
1.2.1. Sự nối tiếp của nhiều thế hệ cầm bút ............................................18
1.2.2. Một số biểu hiện của “đặc điểm giới” trong tác phẩm của các
nhà văn nữ 1975 .....................................................................................20
1.3 Đoàn Lê - một cây bút nữ độc đáo của văn học Việt Nam sau 1975 22
1.3.1. Người phụ nữ đa tài, đa đoan........................................................22
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác phong phú ......................................................27
1.3.3. Vị trí truyện ngắn trong sáng tác của Đoàn Lê ..............................30
Chương 2. BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG TRONG
TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ.......................................................................34
2.1. Ý thức của nhà văn với hiện thực đời sống..................................... 34
2.1.1. Đi sâu khai thác mảng đề tài thế sự..............................................34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn5
2.1.2. Ý thức đối thoại ngầm với những quan niệm sáng tạo đương đại......41
ii
2.2. Hình tượng xóm Chùa và các vấn đề đạo đức – xã hội đương đại . 46
2.2.1. Tác động của nền kinh tế thị trường và sự băng hoại các giá trị
đạo đức...................................................................................................46
2.2.2. Chân dung nhân cách méo mó, bi hài ..........................................52
2.2.3. Thân phận người phụ nữ trong xã hội hiện đại.............................58
2.3. Thế giới tưởng tượng trong truyện ngắn Đoàn Lê........................... 63
2.3.1. Thế giới cõi âm, giấc mơ, sự biến hình .........................................63
2.3.2. Tưởng tượng – một cách nhận thức về thực tại .............................73
2.4. Yếu tố tự truyện trong truyện ngắn Đoàn Lê ................................... 74
2.4.1. Nét riêng của yếu tố tự truyện trong sáng tác Đoàn Lê .................74
2.4.2. Những trải nghiệm và tâm tư của Đoàn Lê ...................................76
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ .......................................................78
3.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện .......................................... 78
3.1.1. Tình huống hiện thực....................................................................78
3.1.2. Tình huống giả tưởng – hài hước ..................................................79
3.1.3. Tình huống giả tưởng – kinh dị.....................................................81
3.1.4. Sự đan xen các tình huống ............................................................82
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ................................................. 83
3.2.1. Nắm bắt nhanh các trạng thái tâm lý nhân vật...............................83
3.2.2. Sắc sảo và hài hước trong cách sử dụng các chi tiết mô tả ............86
3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê ......... 87
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê...........................87
3.3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê .........................89
KẾT LUẬN..................................................................................................94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn6
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn7
CHÂN DUNG NHÀ VĂN ĐOÀN LÊ
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay phát triển mạnh mẽ cả về
số lượng và chất lượng. Đặc biệt sau 1986, trong không khí dân chủ hóa của
đời sống văn học, truyện ngắn Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể.
Hòa vào dòng chảy ấy không thể không kể đến những đóng góp của các nhà
văn nữ thời kỳ đổi mới. Trên văn đàn, sự hiện diện truyện ngắn của những
cây bút nữ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc như Phan Thị Vàng
Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư,…Trong
số đó, sáng tác của Đoàn Lê dù không ồn ào gây “sốc” như một số tác giả nữ
trẻ khác nhưng đọc tác phẩm của chị, độc giả dễ ấn tượng với con người, cuộc
sống, với cảm hứng và cách viết của nữ sĩ. Sáng tác của Đoàn Lê thực sự đã
làm sinh động, phong phú thêm cho đời sống văn xuôi nói riêng và văn học
nước nhà nói chung.
Đoàn Lê tên thật là Đoàn Thị Lê, sinh ngày 15.04.1943 ở thành phố
Bengich (nay là phố Lê Lợi – Hải Phòng). Không riêng gì ở Hải Phòng mà
đối với giới văn nghệ sĩ cả nước tên tuổi nữ sĩ Đoàn Lê đã trở nên quen thuộc.
Gọi chị là nhà văn, họa sĩ, nhà biên kịch, diễn viên hay đạo diễn đều đúng cả.
Những “cầm kỳ thi họa” đem lại cho Đoàn Lê một danh tiếng tài hoa. Học vẽ
từ bậc thầy như Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên. Học điện ảnh từ các bậc
thầy của Nga và Việt Nam. Khởi nghiệp biên kịch điện ảnh với những tác
phẩm được đồng nghiệp đánh giá tốt. Nhưng cuối cùng, văn xuôi mới là sở
trường của người đàn bà thành phố cảng, vẻ thùy mị duyên dáng song hành
với tính cách một người đàn bà quyết đoán, sắc sảo. Những điều dường như
xung khắc ấy cùng lúc tồn tại trong một con người, dệt nên những trang văn
xuôi tài hoa, vừa dịu dàng, vừa quyết liệt, lôi cuốn sự chú ý của người đọc
cũng như giới nghiên cứu, giảng dạy văn học Việt Nam đương đại. Nói như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn8
Đoàn Lê: “tôi đặc biệt thích viết truyện ngắn, chỉ những gì không thể viết
2
ngắn được thì tôi đành chịu”. Hơn thế nữa, ở nữ nhà văn này, người đọc nhận
ra sự hội tụ các yếu tố của nhiều loại hình nghệ thuật: điện ảnh, hội họa, thi ca
qua các trang văn của chị.
Những tiểu thuyết đầy trăn trở tâm huyết của chị như Cuốn gia phả để
lại, Lão già tâm thần, Người đẹp và đức vua, Tiền định gây được nhiều thiện
cảm với bạn đọc. Cuốn gia phả để lại ngay khi mới ra mắt công chúng đã
được nhận giải thưởng văn học của Hội nhà văn Việt Nam (1990). Song phải
kể đến thành quả chị nhận được ở truyện ngắn. Truyện của chị được dịch tại
Mỹ, Thụy Điển, Đức và ở đâu cũng được hoan nghênh. Có thể kể tên những
tập truyện ngắn của Đoàn Lê như Thành hoàng làng xổ số, Trinh tiết xóm
Chùa, Người khách đêm giao thừa, Nghĩa địa xóm Chùa, …Và Sex. Đọc văn
chị, ta bị cuốn hút bởi cách viết dung dị, những nhận xét hóm hỉnh và sâu sắc
về nhân tình thế thái, về những buồn vui ấm lạnh của cuộc đời. Truyện ngắn
của Đoàn Lê là một tiếng nói quen thuộc mà mới lạ, mang đậm dấu ấn sáng
tạo của nhà văn.
Đến nay, tuy đã có một số bài giới thiệu, bình luận, đánh giá về tác
phẩm Đoàn Lê của một số nhà văn, nhà nghiên cứu nhưng vẫn chưa phải là
những công trình mang tính hệ thống, khẳng định vị trí của Đoàn Lê trong dòng
văn học nữ đương đại và rộng ra trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
Trên đây là những lý do để chúng tôi chọn đề tài cho luận văn của mình
là TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ. Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi muốn tiếp cận
và nhận diện những thành tựu về nội dung cũng như về nghệ thuật của truyện
ngắn Đoàn Lê, đồng thời đặt sáng tác của chị trong sự vận động và đổi mới
của văn xuôi Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Đam mê và miệt mài, viết văn, làm thơ, biên kịch, đạo diễn phim và vẽ
tranh, một Đoàn Lê vẫn tiếp diễn trên con đường văn học nghệ thuật với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn9
nhiều chữ “sĩ”. Cuộc đời chị là vậy, đa mang, truân chuyên nhưng những đứa
3
con tinh thần của người đàn bà mảnh mai và cương nghị này lại có sức hấp
dẫn, cuốn hút độc giả và giành được những giải thưởng danh giá.
Trong quá trình tìm hiểu về Đoàn Lê và tác phẩm của chị, chúng tôi thu
thập được một số bài viết để tạo cơ sở cho một cái nhìn bao quát về truyện
ngắn Đoàn Lê.
2.1. Những ý kiến, những bài viết có tính chất khái quát về truyện ngắn
Đoàn Lê.
Trong các bài viết về sáng tác của Đoàn Lê, chúng tôi để ý nhiều đến
những bài viết của nhà văn Hồ Anh Thái – một nhà văn đã có cả một quá
trình theo dõi những sáng tác của chị. Với số lượng bài viết về Đoàn Lê nhiều
hơn cả, ông đã nắm được cái “thần” rất riêng, độc đáo trong giọng văn của
chị: “ Một giọng văn được nhớ, nền nã, dung dị bao giờ cũng kèm theo chất
hài hước ngấm ngầm” [60]. Hồ Anh Thái đã rất chú ý đến nghệ thuật sử dụng
những yếu tố kì ảo của nữ văn sĩ này. Ông cho rằng yếu tố kì ảo của Đoàn Lê
trong những truyện tiêu biểu nhất ấy là “cái thực lẫn với cái ảo chỉ làm lạ
hóa, chỉ thay đổi một góc nhìn hiện thực chứ không phải yếu tố xoay chuyển
và quyết định hiện thực nghệ thuật ” [59].
Chú ý đến bút pháp và giọng điệu, tạp chí Kirkus Peviews nhận xét:
“Thảng hoặc Đoàn Lê có xu hướng ngụ ngôn kiểu Kafka như Lên ruồi…ở chỗ
khác, những truyện ngắn đạt tới giọng điệu riêng tư thấm thía như trong
Giường đôi xóm Chùa…” [60].
Nghệ sĩ ưu tú Ngọc Hiền – một người bạn của nhà văn, cũng có tới hai
bài viết về chị. Ở Đoàn Lê – những cung bậc cuộc đời (http://vietbao.com.vn)
đã đưa những nhận định không thể phủ nhận: “…Có lẽ nếm trải cuộc đời với
đầy đủ những cung bậc buồn vui, những hạnh phúc và bất hạnh đã qua của
người đàn bà đa đoan này đã làm nên những trang viết mang màu sắc Đoàn
Lê”. Và thực sự là như thế, “không phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm gan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn10
ruột của chị, chị đã có chỗ đứng thật đẹp trong trái tim người đọc” [27].
4
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, Việt Hà với bài viết Người khách
đêm giao thừa – phút trải lòng của Đoàn Lê nêu đặc điểm: “nhân vật trong
truyện ngắn Đoàn Lê thường có những thiệt thòi về ngoại hình…Chính từ nhân
vật kia nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp bất tử của tình yêu nguyên vẹn…” [35].
Trong bài Thấp thoáng Đoàn Lê (Báo Văn nghệ số 31 ra ngày
4/8//2012), tác giả Vũ Quốc Văn đã nhận xét về truyện ngắn Đoàn Lê: “Nó
(Truyện ngắn Đoàn Lê – Bùi Vũ Ngọc Trâm) như gió, như nước, hư thực hữu
hình, vô ảnh cuốn người ta, mê hoặc người ta khôn cưỡng lại để cười, buồn
thương, xót xa rồi mở mắt mà thức ngộ, mà nhận chân cuộc sống” [71].
2.2. Những ý kiến, những bài viết về một tập truyện, một tác phẩm cụ thể.
Ý kiến của tác giả Bonnier Crown (NewYork) trên tờ WorldLiterature
Today về tập truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa (The cemetery of Chua
village) – tập truyện được nhà xuất bản Curbtone Press ấn hành và có mặt
trong hệ thống hiệu sách toàn nước Mỹ, được giới thiệu và bán trên mạng
amazon.com. Trong bài viết, tác giả nói lên cảm nhận chung của mình khi đọc
tập truyện này: “ Đoàn Lê đã viết những truyện ngắn như những viên đá quý,
những truyện ngắn có thể đọc như truyện phúng dụ, châm biếm, huyễn tưởng.
Dù thuộc loại gì đi nữa, “Nghĩa địa xóm Chùa” cũng khiến người đọc bật
khóc bật cười… tập truyện ngắn phản ánh sự suy sụp các giá trị truyền thống
trước sự tham lam, hám lợi, quan liêu, đua đòi, sự áp bức giai cấp và tình
dục, sự tham nhũng và vi phạm nhân quyền…tác phẩm này của Đoàn Lê rất
đáng được giới thiệu vì văn phong tinh tế, linh hoạt, nó không chỉ là một sự
lựa chọn tốt cho văn học châu Á, mà còn cho các lớp học viết văn” [73].
Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú khi biên tập để in truyện ngắn Nghĩa địa
xóm Chùa trên tạp chí Tác phẩm mới đã nói về cảm xúc của mình khi đọc:
“hay Đoàn Lê nghi có mầm bệnh trong người? Chỉ có người ốm mới dám viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn11
về những truyện khủng khiếp như vậy” [40]. Cùng chia sẻ với cảm nhận ấy,
5
tác giả Mai Ngọc bàn thêm: “Truyện ngắn này có phong cách rất mới. Nhân
vật trong truyện là những người đã chết. Chết nhưng vẫn sống trong thế giới
riêng, song song với thế giới của những người sống. Ở đây, những người chết
nhìn, nghe ngóng và phê phán chuyện của người sống, y hệt như khi họ còn
sinh thời”. Qua tình huống nhầm lẫn “ khiến người đọc ám ảnh cho xã hội mà
họ đang sống, nơi chỉ cần chút tiền “lót tay tiêu cực phí” là có thể thay đổi
được cục diện” [35]. Để có được lời đánh giá cao như vậy của đồng nghiệp là
điều mà không phải ai cũng có được.
Tạp chí Nghiệp đoàn phát hành (Consotium Distributorn) khi giới thiệu
tập truyện ngắn Trinh tiết xóm Chùa có viết: “Đoàn Lê được ghi nhận ở
phong cách đa dạng và sức sáng tạo tươi mới. Với học giả, những truyện
ngắn này cho một cái nhìn vào bên trong văn hóa Việt Nam sau đổi mới. Với
người đọc nói chung, đây là những tác phẩm bao quát và đầy nhân văn về
những đề tài như lòng tham, hôn nhân, ly dị, tuổi già; đó là những tác phẩm
về quyền con người, khảo sát tất cả những gì bí ẩn tinh tế của trái tim con
người” [41]. Cũng bàn về tập Trinh tiết xóm Chùa, giáo sư Nguyễn Lân
Dũng, một người “ngoại đạo” với văn chương cũng phải thốt lên: “Đọc xong
16 truyện trong tập sách này lòng tôi đau xót quá. Đành rằng không phải chỗ
nào cũng như xóm Chùa này, nhưng rõ ràng ở nhiều nơi nông thôn hiện đã
không còn bình yên nữa…Những xóm Chùa vẫn hiện diện nơi này nơi nọ với
những biến tướng khác nhau, nhưng đều giống nhau ở sự tha hóa” [18].
Trong bài viết Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975, tác giả
Nguyễn Thị Bình đã đề cập đến cảm hứng trào lộng biểu hiện thông qua việc
xây dựng các tình huống trào phúng trong văn xuôi sau 1975, tác giả nêu ví
dụ: “Các tác phẩm Thành hoàng làng xổ số, Đất xóm Chùa của Đoàn Lê…
đầy rẫy những tình huống trào phúng” [14] và trong chuyên luận Văn xuôi
Việt Nam 1975 – 1995. Những đổi mới cơ bản, tác giả nhận xét: “…Thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn12
hoàng làng xổ số, Đất xóm Chùa… là sự phóng đại hiện thực theo con mắt
6
trào lộng”, còn Người đẹp xóm Chùa “là số phận của nghệ thuật chân chính
trong môi trường phàm tục” [13].
Theo http://Vietbao.com, Hồ Anh Thái nhận thấy rằng ở Giường đôi
xóm Chùa có sự “xót xa thấm thía, sự hợp tan của một tổ ấm thường ở bên
ngoài ý chí của con người, có khi nó là bất khả tri”. Ở Người đẹp xóm Chùa,
ông phát hiện ra rằng “hiện tại chỉ trong thoáng chốc được đẩy về thành quá
khứ, khoảnh khắc hiện tồn bất chợt nhuốm màu trải nghiệm của cái đẹp đi
qua thời gian trong mối tương tác với thời gian”, còn ở Mẹ và con và thánh
thần, ta thấy “chị tự mổ xẻ theo kiểu không gây mê” [60].
Trên trang web của Tập đoàn tân tạo (Ita expess) có đăng bài viết bình
luận về tập truyện ngắn Người khách đêm giao thừa, trong đó có đoạn “Tập
truyện ngắn “Người khách đêm giao thừa” vẻn vẹn 12 truyện ngắn – 12 lần
tâm linh tác giả run lên dưới cái rét cuộc đời. Những khoảnh khắc tận cùng
của một giây cuối, một lần cuối và một con người đứng bơ vơ rồi đổ bóng
xuống lòng nhân thế. Từng trang văn xuôi xông lên mùi cát bụi, mùi nước
mắt, mùi mồ hôi nghe thật gần gũi thân quen” [35].
Ý kiến của Vũ Thị Huyền về tập truyện …và Sex cho rằng đây là
“mảnh ghép cuộc sống luôn được bà phụng dựng – theo phong cách nào –
vẫn cảm nhận được xã hội hiện đại với những mặt trái của thị trường. Những
gió độc làm tàn úa một vùng văn hóa (A Tourism xóm Chùa). Nền tảng xã
hội, tế bào xã hội – gia đình (Trinh tiết xóm Chùa) lung lay tận gốc. Và đặc
biệt trong chuyện “Mẹ và con và thánh thần” (với lời đề “Tặng con trai tội
nghiệp”), người đọc là tôi phải chùng lòng trước nỗi đau rứt ruột về tình mẫu
tử của người mẹ mất con vì tệ nạn xã hội thay cho một khát vọng vào một kiếp
sau mẹ lại là mẹ, con lại là con” [70].
Trên đây mới chỉ dừng lại ở phạm vi một bài báo hoặc những đánh giá
khái quát nằm trong các tiểu luận mang tính khái quát về văn học. Về cơ bản,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn13
các bài viết, các ý kiến nêu trên đều đánh giá cao Đoàn Lê. Cho đến thời điểm
7
này vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và hoàn
chỉnh về truyện ngắn Đoàn Lê. Các bài viết còn lẻ tẻ nhưng là những gợi dẫn
quý báu cho việc tiếp cận và triển khai luận văn của chúng tôi.
3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc khảo sát, tìm hiểu truyện ngắn Đoàn Lê, luận văn nhằm
mục đích:
3.1. Nhận diện và miêu tả những đặc điểm truyện ngắn Đoàn Lê về nội dung
và nghệ thuật. Đồng thời chỉ ra những nét đặc sắc, riêng biệt của Đoàn Lê
trong cách thể hiện cuộc sống và con người.
3.2. Khẳng định vị trí của Đoàn Lê trong đời sống văn học đương đại và ghi
nhận đóng góp của cây bút nữ này với thể loại truyện ngắn.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đoàn Lê sáng tác nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,... Tuy
nhiên, luận văn của chúng tôi chỉ tập trung vào thể loại truyện ngắn.
Trong thể loại truyện ngắn, chúng tôi tập trung khai thác các khía cạnh
về bức tranh hiện thực đời sống và một số phương thức thể hiện nghệ thuật
như: xây dựng tình huống truyện, ngôn ngữ, giọng điệu…
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn chúng tôi tập trung vào việc khảo sát 5
tập truyện ngắn sau của Đoàn Lê:
Thành hoàng làng xổ số (Nhà xuất bản Phụ nữ, 1990)
Nghĩa địa xóm Chùa (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999)
Trinh tiết xóm Chùa (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2005)
Người khách đêm giao thừa (Nhà xuất bản Phụ nữ, 2007)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn14
…và Sex (Nhà xuất bản Thanh niên, 2010)
8
Ngoài ra, chúng tôi cũng sẽ chú ý tới một số truyện ngắn mới nhất,
chưa được tập hợp in thành tập truyện của tác giả như:
Cụ ngoại và tôi (04 – 2010)
Con mốc (09 – 2010)
Vua gái (10 – 2010)
Mỹ nhân mèo (02 – 2011)
Tình muộn (05 – 2011)
Người xiếc chữ (07 – 2011)
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có sự đối sánh truyện ngắn Đoàn
Lê với một số tác phẩm của nhà văn nữ khác cùng thời.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho mục đích nêu trên, luận văn này có kết hợp các phương
pháp nghiên cứu như:
5.1. Phương pháp hệ thống
5.2. Phương pháp thống kê, phân loại
5.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
5.4. Phương pháp so sánh
6. Nhiệm vụ và đóng góp của luận văn
6.1. Nhiệm vụ
Luận văn triển khai nhằm khẳng định thành tựu của truyện ngắn Đoàn
Lê trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật như: Bức tranh hiện thực đời
sống, phương thức xây dựng tình huống truyện, mô tả tâm lý nhân vật, giọng
điệu và ngôn ngữ trần thuật.
6.2. Đóng góp của luận văn
- Nhận diện những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật thể hiện trong
truyện ngắn Đoàn Lê. Từ đó đưa ra một cái nhìn hệ thống về truyện ngắn
Đoàn Lê.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn15
- Ghi nhận vị thế của Đoàn Lê ở thể loại truyện ngắn.
9
- Bước đầu minh chứng được sự phong phú, đa dạng của bức tranh
truyện ngắn nữ đương đại từ cái nhìn của một “mắt xích” truyện ngắn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tham khảo, Nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Truyện ngắn Đoàn Lê trong dòng chảy truyện ngắn nữ Việt
Nam sau 1975.
Chương 2: Bức tranh hiện thực đời sống trong truyện ngắn Đoàn Lê
Chương 3: Một số phương thức thể hiện nghệ thuật trong truyện ngắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn16
Đoàn Lê.
10
NỘI DUNG
Chương 1
TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ TRONG DÒNG CHẢY
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Khái lược truyện ngắn Việt Nam sau 1975
1.1.1. Một số vấn đề lý thuyết thể loại.
Văn học Việt Nam kể từ sau 1975 đã bước sang một thời kì mới, với sự
bừng nở của văn xuôi. Đặc biệt là từ giữa thập kỉ 80, khi ý thức văn hoá mới
hình thành, hệ hình giá trị biến đổi thì văn học đã thực sự chuyển sang một
hình thái khác trước, đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử văn học
dân tộc. Văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong bước ngoặt của dòng chảy hiện
đại ấy. Trong đó, truyện ngắn, một thể loại văn học được coi là “xung kích”
của đời sống văn học, một thể loại có tính chất “thuốc thử” đối với hầu hết
nhà văn trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình.
Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung thể loại của Truyện
ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử
thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn gọn. Bởi truyện ngắn được viết ra để
đọc liền một mạch. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ
yếu phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự khác (các loại truyện kể dân
gian cũng có độ dài tương đương với truyện ngắn). Hình hài của truyện ngắn
hiện đại như ta thấy hiện nay là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời,
một cách nắm bắt cuộc sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Khác với tiểu
thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn
của nó, truyện ngắn thường chỉ hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát
hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn17
người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp.
11
Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện
ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Về cách nắm bắt cuộc sống của thể
loại, truyện ngắn không có tham vọng ôm vào mình một hiện thực rộng lớn,
hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và hay” [63].
Nguyên tắc chưng cất của truyện ngắn không cho phép “dồn ép” hoặc “nhồi
nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương
như thế, thành truyện ngắn. Truyện ngắn hiện nay được hình thành từ mối
quan hệ con người với hoàn cảnh, mối quan hệ giữa thực chất sâu xa của hiện
tượng với biểu hiện bên ngoài, những mặt này đôi khi lẫn lộn với nhau khiến
người ta khó nhận ra một cách rành mạch.
Từ những sự kiện riêng lẻ trong cuộc sống, những trường hợp cá biệt,
người viết truyện ngắn phải tìm ra một cái gì chung, có ý nghĩa. Việc này
giống như cách làm của người thợ ngọc. Đá thì rất nhiều, nhưng không phải
đá nào cũng có ngọc. Người nghệ sĩ phải biết lựa chọn, rồi lại gia công thế
nào, để cuối cùng làm bật ra vẻ đẹp bấy lâu vẫn ẩn tàng trong đá chết. Các tác
giả truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện
một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con
người. Ám ảnh và đầy ấn tượng cũng là một trong những cách thức chiếm
lĩnh hiện thực và hấp dẫn người đọc của truyện ngắn. Về tác động của truyện
ngắn, do tính chất cô đúc, truyện ngắn có sức nén và sức công phá cao. Chỉ
cần một ít trang văn xuôi, người viết có thể làm “nổ tung trong tình cảm và ý
nghĩ của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người
đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại mãi không chán” [38, tr. 148].
Trong truyện ngắn hiện đại, nhiều khi cốt truyện gồm nhiều đường dây
cùng tồn tại, liên quan tới các hiện tượng mà bề ngoài dường như không có gì
liên quan tới nhau. Trong thời đại hiện nay, khi kỹ thuật đã phát triển tới một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn18
trình độ rất cao, nhân loại vẫn luôn luôn phải đối mặt với những vấn đề không
12
thể giải quyết, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Nhưng chính
trong một thế giới như vậy, văn học lại có điều kiện tìm ra mối quan hệ phức
tạp của các hiện tượng khác nhau. Với đặc trưng hết sức năng động, phản ứng
rất nhanh, dễ điều chỉnh và mau thu được kết quả, thể loại truyện ngắn có thể
dễ dàng theo dõi các qui luật sáng tạo của nhà văn, cùng là theo dõi việc giải
quyết những vấn đề được đề cập tới trong văn học. Bên cạnh đó truyện ngắn
cũng cho phép và khuyến dụ người viết thử nghiệm các phương pháp, hình
thức mới. So với việc phiêu lưu trong một thời gian gian dài với một cuốn
tiểu thuyết, việc “chơi” với một câu chuyện ngắn có lẽ có sức quyến rũ
hơn. Chính trong sự phát triển thể loại truyện ngắn người ta dễ cảm nhận
được sự uyển chuyển và khả năng thích nghi nhanh chóng của nó với thời đại,
với các trào lưu. Truyện ngắn hiện đại ngày nay đã cho thấy khá nhiều cách
tân và thể nghiệm táo bạo, vượt ra ngoài những giới hạn, phá vỡ cấu trúc năm
màn truyền thống, thậm chí truyện mà không có chuyện. Ở truyện ngắn, chi
tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí, không khí,
tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nhân vật. Nhận xét về
điều này, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt
truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể
chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo
chi tiết. Nó sẽ như nước lã” [58].
Sức hấp dẫn của truyện ngắn là ở chỗ nó không tự gói mình trong cái
áo chật hẹp của hình thức và của thể loại, mà luôn chứa đựng sức khai phóng
tiềm tàng. Ngay cả những truyện ngắn được cho là “không có gì để kể”, nó
vẫn có một độ căng hiện thực nhất định và khả năng bùng nổ.
Có thể gọi truyện ngắn là thể loại của thời hiện tại. Bởi cái chính, tác
động của truyện ngắn là tức thời và liền mạch. Nó tạo một lát cắt, bất ngờ đặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn19
người đọc vào đâu đó giữa lòng cuộc sống rồi cứ thế đẩy anh ta đi tiếp.
13
Truyện ngắn không đòi hỏi người đọc phải bao quát được nhiều tầng của hiện
thực, nó chỉ là một khoảnh khắc được ngưng đọng, một tia sáng được soi
chiếu, thành ra người đọc dễ dàng đến với truyện ngắn trong bất cứ thời gian
nào, bối cảnh nào. Ký ức nó để lại bao giờ cũng tươi rói và đầy ấn tượng,
trong khoảnh khắc ấy, phút giây ấy. Cho nên, không đầy sự hoài vọng như
thơ hay tùy bút, không vươn mình kể những gì dài rộng như tiểu thuyết,
truyện ngắn thản nhiên bày biện một cách gọn ghẽ một hiện tại hiện tồn.
Dường như, truyện ngắn là thể loại thích hợp hơn cả để thể hiện những đoạn
cắt cuộc đời. Bởi quá khứ đã trôi qua, tương lai thì chưa tới, những mảnh vụn
tâm tình chỉ có thể dành cho hiện tại.
Hơn thế, trong nhịp sống hối hả ngày nay, con người có chút ít thời
gian để lật vội những trang báo, tạp chí hay kích chuột trên màn hình vi tính
để tìm đọc những sáng tác văn chương, truyện ngắn trở thành thể loại “hợp
thời” và cần thiết cho công cuộc duy trì văn hóa đọc của quần chúng.
1.1.2. Bối cảnh lịch sử - thẩm mĩ của văn học Việt Nam sau 1975
Mùa xuân năm 1975, chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh kết thúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chấm dứt sự chia cắt đất nước. Sự kiện này
mở ra một thời kỳ mới của xã hội và lịch sử dân tộc Việt Nam cùng những cơ
hội và thách thức mới ở phía trước.
Khi khúc khải hoàn vừa tấu xong, khi xúc cảm mãnh liệt về chiến công
tạm lắng xuống, thực trạng của đất nước sau chiến tranh với tất cả những đổ
nát, ngổn ngang, nhức nhối của nó đòi hỏi một sự nhận thức mới, sự đối mặt
với những vấn đề phức tạp đang diễn ra. Từ thời chiến bước sang thời bình,
hiện thực cuộc sống mở ra bao điều phức tạp, con người cũng có những thay
đổi trong tâm tư, tình cảm: trong kháng chiến, tất cả hướng về cái chung,
đồng lòng, đồng sức hướng về chiến thắng. Giờ đây, cuộc sống đầy lo toan,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn20
tính toán buộc con người phải căng mình lên đối mặt với những khó khăn,
14
những vun vén cá nhân. Các giá trị cao cả về xã hội, đạo đức, lối sống trong
chiến tranh bền vững thì đến giờ ít nhiều đã bắt đầu lung lay, rạn nứt. Các
chuẩn mực giá trị mới đang phôi thai từng bước hình thành. Đời sống văn hóa
– tư tưởng vào những năm tám mươi, chín mươi của thế kỷ đứng trước diễn
biến không ổn định. Những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường và việc
mở cửa, hội nhập làm nảy sinh tâm lý thực dụng, sùng ngoại, chạy theo lối
sống hưởng thụ vật chất, coi nhẹ các giá trị tinh thần của cộng đồng. Hiện
thực xã hội khiến con người chán nản, mất niềm tin, không có động lực để
phấn đấu.
Đứng trước những bất cập, những vấn đề nhức nhối, bức xúc của xã hội
hiện thực cuộc sống như muốn phá vỡ khuôn khổ vốn chật hẹp, bức bối của
nó. Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội, như
PGS.TS Phan Trọng Thưởng nhận định: “Mười năm sau chiến tranh, cơ chế
quan liêu bao cấp đã đến lúc bộc lộ hết những hậu quả nặng nề của nó trên
mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội. Hàng loạt chủ trương, chính sách đã
tỏ ra lỗi thời. Những quy luật đặc thù của đời sống chiến tranh đã hết hiệu
lực, không còn phù hợp với trạng thái phát triển của đất nước trong điều kiện
lịch sử mới”. Vậy nhu cầu đổi mới được đặt ra khẩn thiết và cấp bách.
Để khắc phục những sai lầm, khiếm khuyết, đưa đất nước vượt qua
cuộc khủng hoảng và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đại
hội Đảng toàn quốc lần VI đã đề ra đường lối đổi mới đất nước trong thời kỳ
quá độ. Có thể xem đây là bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc. “Đối với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi
hỏi của thời đại, đối phó thắng lợi với mọi thử thách, đáp ứng những nhu cầu
ngày càng cao của nhân dân. Đối với đất nước ta, đổi mới có ý nghĩa sống
còn". (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VI 1987), với phương châm đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn21
mới đồng bộ và toàn diện, và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
15
sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã nghiêm khắc tự phê bình những chủ trương,
chính sách sai lầm, chủ quan, duy ý chí, đề ra đường lối phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ cơ chế
quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường, kế hoạch
hoá theo phương châm hạch toán kinh doanh... nhằm đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng, đi vào ổn định, phát triển. Giống như một cuộc lột xác đau đớn
để trưởng thành mạnh mẽ, đất nước ta đã chuyển mình để bắt kịp với quy luật
của sự phát triển. Những chuyển biến ấy đã tác động sâu sắc đến sự phát triển
của văn học nghệ thuật.
Văn học - hoạt động tư duy tinh tế, sâu sắc và mẫn cảm với hiện thực
đã được đặt lên hàng đầu trong công cuộc đổi mới. Tâm điểm của công cuộc
đổi mới là con người. Đáp ứng nhu cầu lịch sử, văn học đã tự nhận thức được
sứ mệnh của mình: công cụ quan trọng để hoàn thiện nhân cách con người.
Đổi mới văn học đã góp phần hình thành bộ mặt văn hóa xã hội trong thời kỳ mới.
Tư duy nghệ thuật cũ ngày càng tỏ ra không thích hợp với thời kỳ mới.
Sự chuyển đổi của tư duy nghệ thuật đã làm cho mối quan hệ giữa văn học và
hiện thực có sự thay đổi về chất. Suốt 30 năm chiến tranh, dường như nhà văn
chưa có điều kiện, thời gian để nghiền ngẫm, suy tư, để quan sát hiện thực từ
nhiều phía. Khi chiến tranh đã lùi lại phía sau, nhà văn mới có điều kiện để
quan sát, nhìn nhận nó trong tính toàn diện và nhiều mặt của sự kiện. Vấn đề
chiến tranh, số phận, đạo đức, nhân cách, những kiểu tư duy, làm ăn cũ đều
được nhìn nhận lại với ý nghĩa nhân văn mới. Và cùng với sự mở rộng giao
lưu, hội nhập văn hóa nhân loại, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, văn học cũng đã thực sự bước vào chặng đường đổi mới chính mình
theo xu hướng phát triển của thời đại.
Như vậy nhu cầu tự thân của văn học và nhu cầu xã hội đã dẫn đến đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn22
mới văn học. Đổi mới văn học là một tất yếu lịch sử.
16
1.1.3. Truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Truyện ngắn với ưu thế đặc biệt của thể loại luôn tỏ ra nhạy bén với cái
mới do tác động của điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội. Trong điều kiện hoàn
cảnh mới của đất nước sau 1975, thể loại nhạy cảm này chắc chắn có những
thay đổi quan trọng. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong công trình Truyện
ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại cũng khẳng định sự thành
công của truyện ngắn sau 1975: “... truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng và chất lượng”, “truyện ngắn có bước đột khởi nhờ vào ngọn gió lành
của công cuộc đổi mới” [64].
Khác với trước 1975, do tác động của điều kiện hoàn cảnh chiến tranh
và yêu cầu của Đảng về một nền văn nghệ cổ vũ, động viên cho hai cuộc
kháng chiến giải phóng dân tộc, văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng
mang đặc trưng “ký hoá” và “sử thi hoá” rõ nét. Truyện ngắn Việt Nam sau
1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh – đó là
hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính
chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu chiến
tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng
từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự
thật, không né tránh và viết về sự thật. Chuyện “đời thường” vì thế nổi trội
trong đa số truyện ngắn giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm
“văn học thế sự”. Nhà văn có thể viết tất cả mọi chuyện: Nỗi cô đơn, sự đau
khổ về thể xác và tinh thần của con người, niềm vui và sự đắng cay của cuộc
đời, sự trung thành và sự phản bội…
Truyện ngắn thời kỳ đổi mới đã xuất hiện một khuynh hướng khá nổi
bật là khuynh hướng nhận thức lại quá khứ. Sau chiến tranh, nhu cầu được nói
thẳng, nói thật đã trở nên cần thiết hơn bao giờ hết và điều này được cổ vũ bởi
tinh thần dân chủ của đời sống. Trong cảm quan sáng tác của các nhà văn lúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn23
này đã có ý thức lật xới lại vấn đề của lịch sử, hay nhìn thực tại với góc độ mới.
17
Hiện thực chiến tranh và người lính thời kỳ này giống như một cỗ xe
khổng lồ đang chạy theo quán tính vượt qua ranh giới lịch sử vẫn được trở lại
tiếp tục khai thác nhưng với cách tiếp cận mới. Chất giọng sử thi nhạt dần và
có thêm những giọng điệu mới từ giọng điệu thâm trầm trong Cỏ lau (Nguyễn
Minh Châu), Bản lý lịch tự thuật (Y Ban), Thời gian (Cao Duy Thảo),… đến
chất giọng xót xa với Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Người ở bến
sông Châu (Sương Nguyệt Minh),… Từ nhiều góc nhìn và sự thể hiện khác
nhau về sự đa đoan của con người, sự đa sự của cuộc sống, các truyện ngắn
viết về chiến tranh đã có sự phối âm của nhiều chất giọng. Điều đó tạo nên
tính đa sắc cho bức tranh cuộc sống con người thời hậu chiến, với những
gương mặt như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu,
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Phan Thị Vàng Anh,…
Không khí đổi mới - dân chủ tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học
nghệ thuật, đến các chủ thể sáng tạo. Con người trở thành đối tượng hàng đầu
trong cảm hứng sáng tác của các văn nghệ sĩ. Con người được mô tả như một
thực thể của những cái đã biết và những cái chưa biết – những “cái con
người” trong con người. Con người nếm trải với những vấn đề đời tư, bản thể,
tự do luyến ái, đời sống tình dục... được các nhà văn khai thác không né tránh,
ngại ngùng ở cả các mặt trái, góc khuất, phần chìm của hiện thực. “Chưa bao
giờ, con người với tất cả quan hệ xã hội của nó, thân phận và cuộc đời của nó
được phản ánh một cách sinh động và phong phú như trong giai đoạn hiện
nay” (Bích Thu). Con người được phản ánh trong văn học với cái nhìn đa
diện, đa chiều và được đặt trong mối quan hệ với các yếu tố xã hội phức tạp,
phong phú (Nhân vật của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải….). Trong văn
xuôi xuất hiện nhân vật tự thú (con người tự phê phán, khác giai đoạn trước:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn24
con người bị phê phán), nhân vật trí thức (tự khám phá, mổ xẻ nội tâm của
18
mình)… Bên cạnh đó, nhà văn đã đặt con người trong đời sống tinh thần, tình
cảm, đời sống tự nhiên, bản năng, giúp con người hiện ra toàn vẹn hơn, chân
thực hơn không chỉ với những khát vọng cao cả mà cả những dục vọng tầm
thường… Cái nhìn nhiều chiều kích và nhân bản ấy giúp nhà văn có những
nhận thức mới mẻ về con người. Đó là quan niệm về thiện - ác (“Đôi lúc,
con người ta trở nên tàn ác một cách rất hồn nhiên” - Đứa ăn cắp - Nguyễn
Minh Châu); là sự phát hiện về con người bí ẩn (Thiếu phụ chưa chồng -
Nguyễn Thị Thu Huệ, Một khái niệm tình yêu - Chu Lai, Chuỗi hạt của con
cáo - Phạm Thị Ngọc Liên …), con người tự nhiên (Người sót lại của rừng
cười - Võ Thị Hảo, Tân cảng - Nguyễn Thị Thu Huệ…); con người cô đơn
(Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp, Lạc thời - Nguyễn Khải, Cam ngọt - Phạm
Sông Hồng,…); con người tâm linh (Dị hương – Sương Nguyệt Minh,…);…
Tóm lại truyện ngắn sau 1975 tuy có khác nhiều so với truyện ngắn giai
đoạn 1945 - 1975 nhưng nó vẫn phát triển trên cái nền của những thành tựu
truyện ngắn 1945 - 1975 đã đạt được. Ngay những nhược điểm, những hạn
chế không thể tránh khỏi của giai đoạn trước cũng giúp cho kinh nghiệm nghệ
thuật của giai đoạn sau. Nhìn tổng thể, sự vận động của truyện ngắn sau 1975
đã diễn ra giống như một cuộc “nhận đường” toàn diện và sâu sắc: từ ý thức
nghệ thuật đến hành vi sáng tạo, từ tư tưởng đến thi pháp. Sự vận động ấy
hướng mạnh mẽ đến những nỗ lực cách tân nhằm đổi mới thể loại. Về mặt
hình thức, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đổi mới rõ rệt ở các phương diện:
dạng thức cấu trúc cốt truyện, trần thuật và ngôn ngữ truyện. Những cách tân
ấy đã góp phần tạo nên diện mạo mới cho truyện ngắn Việt Nam.
1.2. Khái lược về thế hệ nhà văn nữ Việt Nam sau 1975
1.2.1. Sự nối tiếp của nhiều thế hệ cầm bút
Văn học Việt Nam những năm gần đây xuất hiện một đội ngũ đông đảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn25
các nhà văn nữ như: Lê Minh Khuê, Đoàn Lê , Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ,
19
Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư, …Với cái nhìn mẫn cảm
bản năng, các nhà văn nữ thường quan tâm nhiều đến nỗi bất hạnh, sự cô đơn
và khát vọng tình yêu hạnh phúc, đến người phụ nữ, đến những đứa trẻ mồ
côi bất hạnh… những khía cạnh nhỏ nhoi, bí ẩn của cuộc sống đời thường. Sự
tiếp nối trong đội ngũ và cảm hứng sáng tác của các thế hệ nhà văn nữ thể
hiện ở nhiều khía cạnh trong tác phẩm văn học.
Trước hết các nhà văn nữ có sự tiếp nối về đề tài trong văn học nói
chung và truyện ngắn nói riêng. Nhưng đây là sự tiếp nối mang tính cách tân,
đổi mới trên nền truyền thống đề tài truyện ngắn mà nhiều nhà văn nữ khai
thác đó là việc tìm kiếm và theo đuổi hạnh phúc riêng tư của người phụ nữ.
Trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê hình ảnh những cô
gái Hà Nội trẻ trung tinh nghịch nhưng rất can đảm sẵn sàng hy sinh để hoàn
thành nhiệm vụ như: Nho, Thao, Phương Định. Các cô gái trẻ ấy ngoài những
lúc làm nhiệm vụ gian khổ thì trong lòng luôn lạc quan hy vọng tìm kiếm
hạnh phúc của bản thân. Ngoài ra là các đề tài về số phận những người nghèo
khổ, bất hạnh, hạnh phúc gia đình, những người phụ nữ đẹp người đẹp nết
nhưng trắc trở về tình duyên, gia đình gặp nhiều sóng gió.
Sự tiếp nối về thể loại: hầu hết các nhà văn nữ đều lựa chọn văn xuôi,
đặc biệt là truyện ngắn để thể hiện tâm tư, suy nghĩ của bản thân. Truyện
ngắn có cấu trúc như một truyện dài, mang đậm tư duy tiểu thuyết, là sự
chồng xếp, đan chéo của vô vàn trạng huống và những mảnh thân phận khác
nhau. Đó là những câu chuyện xoay quanh số phận những con người xóm
Chùa của Đoàn Lê, hay của con người nơi đất mũi trong Cánh đồng bất tận
của Nguyễn Ngọc Tư …
Sự tiếp nối những cách thức thể hiện trong tác phẩm: nghệ thuật miêu
tả tâm lý nhân vật trực tiếp hoặc gián tiếp. Những tình huống truyện độc đáo,
bất ngờ đầy táo bạo… là những nét nghệ thuật được các thế hệ nhà văn nữ kế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn26
thừa và phát huy.
20
1.2.2. Một số biểu hiện của “đặc điểm giới” trong tác phẩm của các nhà
văn nữ 1975
Nếu như ở các giai đoạn trước 1930 - 1945 hay 1945 - 1975 ưu thế
thuộc về các nhà văn nam như: Nam Cao, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn
Khải, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu… thì văn học đương đại phần đông
gắn với các tên tuổi nữ như: Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Đoàn Lê, Phạm Thị
Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị
Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu…Như lời phát biểu của nhà văn
Võ Phiến: Chúng ta đang có một nền văn chương đổi phái tính. Những trang
viết của các nhà văn nữ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc
và quyền sống của người giới mình. Trong cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ
và cảm nhận của họ, người phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi khổ cần được sẻ
chia và họ đã tìm thấy trong văn học nói chung và văn xuôi nói riêng một sức
mạnh để qua thế giới nhân vật nữ họ tìm được nơi để bày tỏ những tâm tư,
suy nghĩ uẩn khúc của lòng mình. Và có lẽ theo quy luật đồng thanh tương
ứng lúc đầu là một vài cây bút nữ viết, rồi những cây bút khác qua tác phẩm
của những người đi trước tìm thấy ở đó một sự đồng cảm và họ cũng viết để
giãi bày làm thành cả một dòng chảy. Ở dòng chảy đó họ như được tự do phơi
mở cái tôi cá nhân của chính mình với một giọng điệu riêng, một cách thức
riêng. Họ thẳng thắn đối thoại lại những quan niệm cũ về những mẫu hình nữ
giới trước đây luôn bị đóng khung trong những đặc điểm dịu dàng, thùy mị,
giàu đức hy sinh, nhẫn nhục và chịu đựng hoặc chỉ viết về những chuyện nhỏ
nhặt, không có tầm tư tưởng lớn. Họ mạnh dạn thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá
nhân, khát vọng bản thể, khẳng định giá trị sống… của chính mình trên diễn
đàn văn học nghệ thuật. Khi viết về tình yêu, họ khám phá toàn diện về mọi
mặt, mọi cung bậc, từ những dư vị ngọt ngào đến những dư vị đắng chát, từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn27
nhẹ dạ cả tin đến mạnh mẽ, chủ động, già dặn và từng trải…tất cả đều là
21
những bộc bạch chân thực nhất của các cây bút nữ viết về giới mình. Hơn nữa
khi nữ văn sĩ viết về phái yếu, cũng có nghĩa là họ đã hướng ngòi bút vào
chính mình, dù tác giả viết về người phụ nữ khác thì cái nhìn của họ cũng sẽ
có phần sâu sắc, triệt để và thấu đáo hơn. Nhà văn nữ viết nhiều về phụ nữ vì
theo đặc trưng tâm lý họ tồn tại với tình cảm hướng nội, luôn muốn tìm sự
đồng cảm, khác tâm lý đàn ông với lý trí hướng ngoại luôn luôn phân tích
chiếm lĩnh. Bên cạnh đó nhà văn nữ muốn thông qua nhân vật nữ để thể hiện
tâm hồn mình, bản thân mình, vì vậy mà những sáng tác của các tác giả nữ
thường mang màu sắc tự truyện. Diện sống của phụ nữ nói chung không rộng
bằng nam giới, các tác giả nữ lại thường viết tập trung vào những đề tài nhất
định, do đó đôi khi không tránh khỏi việc gây nên cảm giác đơn điệu cho
người đọc, như nhà văn Lê Minh Khuê nhận xét: “Nghĩ về những người viết
cùng giới mình, tôi thường bị chi phối bởi cảm giác nước đôi. Một mặt nhiều
chị em bộc lộ một tài năng rõ rệt, không lèm nhèm, không mờ nhạt. Mặt khác
sao vẫn cứ cảm thấy, đặt trong hoàn cảnh chung rồi mỗi người cũng thế thôi,
không bao giờ có sự gọi là đồ sộ, vĩ đại ở những cây bút nữ này cả” [27]. Và
nhà phê bình Đặng Anh Đào cũng khẳng định: “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ
đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trong sách…tuy nhiên phải nói thật là
ở mỗi người nguy cơ lặp lại chính mình, nguy cơ ấy khá rõ” [27]. Riêng thế
giới nhân vật nữ của các nhà văn nữ được xây dựng trên những trang văn
thấm đẫm tình cảm, cảm xúc như đang tuôn trào từ trái tim, tâm hồn của họ
với giọng điệu khi thì dịu dàng, ấm áp, khi thì xúc động nghẹn ngào… và tình
yêu luôn là đề tài trung tâm trong nhiều sáng tác của các cây bút nữ. Đặc biệt
người phụ nữ trong văn học thời kì đổi mới hiện lên với khát vọng yêu đương
mãnh liệt, luôn đòi hỏi được yêu thương che chở, bộc lộ những phẩm chất tốt
trong tình yêu và thường xuyên gặp ngang trái trong ái tình. Nhân vật nữ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn28
các nhà văn nữ thời kì đổi mới không phải là không có những người hạnh
22
phúc, những khoảnh khắc vui, song hầu hết trong số họ là những người bất
hạnh, cô đơn. Với tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động nữ văn sĩ là người dễ nhận
ra và dễ khắc sâu những nỗi buồn của người cùng giới hoặc của chính mình.
Qua những trang viết đó, các nhà văn nữ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số
phận, hạnh phúc và quyền sống của người giới mình trong cuộc sống hiện
nay, theo suy nghĩ và cảm nhận của họ người phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi
khổ cần được sẻ chia. Chính vì thế mấy mươi năm trở lại đây, người đọc đã
được thưởng thức nhiều giọng điệu mới với những phong cách khác nhau của
các cây bút nữ, trải nghiệm như Lê Minh Khuê, sắc sảo như Phạm Thị Hoài,
tinh tế như Phan Thị Vàng Anh, đằm thắm như Nguyễn Thị Thu Huệ, hồn hậu
và đậm sắc màu văn hoá như Nguyễn Ngọc Tư, ... Chưa bao giờ phái nữ lại
dành được sự quan tâm nhiều của người cầm bút như hôm nay. Khuynh
hướng duy nữ được thể hiện không chỉ là sự xuất hiện nhiều nhà văn nữ,
nhiều nhân vật nữ trong các tác phẩm mà nó còn chi phối ngay cả cách đặt tên
tác phẩm như: Người đàn bà đứng trước gương, Người đàn bà có ma lực, I
am đàn bà của Y Ban, Hồn trinh nữ, Goá phụ đen của Võ Thị Hảo, Thiếu phụ
chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ,… Mỗi tác giả đều cố gắng xác lập một
tiếng nói riêng, một giọng điệu của riêng mình. Dường như với xu hướng duy
nữ ngôn ngữ văn chương của nền văn học đã đổi thay, tinh tế hơn, chất nội
cảm nhiều hơn, màu sắc biểu tượng đa dạng hơn.
1.3. Đoàn Lê - một cây bút nữ độc đáo của văn học Việt Nam sau 1975
1.3.1. Người phụ nữ đa tài, đa đoan
Đoàn Lê là con gái một cụ đồ nho đất Cảng. Gia đình có nghề thuốc gia
truyền. Cụ đồ có ý hướng cho cô con gái yêu, thông minh khá mẫn cảm của
mình nối nghiệp nhà. Nhưng khi ấy, cô hoa khôi phố biển Đoàn Lê đang thì
mộng mơ bay nhảy đã không vâng theo ý phụ thân, mà thi vào học khoa điện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn29
ảnh, Trường Sân khấu điện ảnh Hà Nội.
23
17 tuổi, Đoàn Lê đã táo bạo rời làng quê, bỏ tuổi thơ đầy ắp những kỷ
niệm để lên chốn thị thành phồn hoa tìm sự nghiệp. Cũng nhanh chóng chị
bước vào cuộc hôn nhân thứ nhất với rất nhiều những mộng tưởng. 18 tuổi
Đoàn Lê đã làm mẹ, khi còn đang học lớp Sân khấu - điện ảnh khóa đầu tiên.
Cái gánh nặng này thật không hề dễ dàng với một cô gái “khuê các” đầy
mộng mơ. Sinh con gái đầu lòng được 15 ngày, Đoàn Lê gửi con cho em gái
là Đoàn Thị Tảo nuôi hộ để đi theo đoàn làm phim. Rồi cuộc hôn nhân đầu
của chị tan vỡ, chị bồng hai đứa con thơ ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng.
Cuộc đời cơm áo đè nặng lên đôi vai Đoàn Lê với biết bao khó khăn trước
mắt. Sau này, cuộc sống cô quạnh, vất vả khiến chị đi bước nữa, nhưng lấy
chồng cũng chẳng dư dật gì. Theo lời chị Tảo: “Tôi thường phải về nhà xin
vàng của mẹ đem bán để “cứu trợ” cho chị ấy”.
Có lẽ những nếm trải của cuộc đời với đầy đủ những cung bậc buồn
vui, hạnh phúc và bất hạnh đã qua của người đàn bà đa đoan này đã làm nên
những trang viết mang màu sắc Đoàn Lê! Không phải ngẫu nhiên mà Đoàn
Thị Tảo đã có bài thơ nổi tiếng tặng Chị tôi! Và cũng không phải ngẫu nhiên,
với những tác phẩm gan ruột của mình, chị đã có “chỗ đứng thật đẹp trong
trái tim người đọc”.
Đoàn Lê nổi lên như một nhan sắc dịu dàng, thánh thiện, với cặp mắt
nâu, da trắng, nụ cười lấp lóa thật hiền và một bím tóc dài chấm gót được vắt
về trước ngực.
Nhà văn, nhà biên kịch Đoàn Lê đến với nghiệp văn chương có lẽ bắt
đầu từ bài thơ Bói hoa năm chị mới mười sáu tuổi. Bài thơ nói lên sự e ấp
ngại ngùng của một cô thiếu nữ trước ngưỡng cửa cuộc đời, ngưỡng cửa tình
yêu. Ngay lập tức, bài thơ đã được giới trẻ lúc bấy giờ chuyền tay nhau chép
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn30
vào sổ thơ của mình:
24
Ngày xưa em thơ ngây
Ngồi bói bông hồng nở
Đoán tình yêu sau này
Vẹn tròn hay dang dở
Nhưng nụ hồng e ấp
Giấu kín điều em mong...
Với Đoàn Lê, người ta có thể gọi chị là nhà văn, nhà biên kịch điện
ảnh, hay nhà thơ, họa sĩ đều được. Với văn chương, chị khẳng định tài năng
bằng tiểu thuyết Cuốn gia phả để lại, đã được nhận giải thưởng của Hội nhà
văn Việt Nam năm 1990. Những cuốn tiểu thuyết khác như Lão già tâm thần,
Thành hoàng làng xổ số, Người đẹp và đức vua,... những tuyển tập truyện
ngắn như Nghĩa địa xóm Chùa, Người khách đêm giao thừa,... lần lượt ra đời
đã khẳng định rõ văn phong và ghi nhận tài năng của chị. Cuốn tiểu thuyết
Tiền định ra mắt bạn đọc gần đây nhất đã sớm được lọt vào vòng chung kết
giải thưởng Bách Việt. Với văn phong giản dị, hóm hỉnh mà sâu sắc, mỗi câu
chuyện về những số phận con người dưới ngòi bút tài hoa của Đoàn Lê đã
hiện lên chân thực, sống động và thấm đẫm tính nhân văn. Những câu chuyện
xoay quanh cái làng Chùa bé nhỏ nhưng trong ấy có hình dáng của nhiều làng
quê thân thuộc khác. Có những câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng mà khiến
người đọc sửng sốt, rồi rưng rưng nước mắt như Chuyện tình Guột. Lại có câu
chuyện mang tính triết lý ngụ ngôn cao như chuyện Nghĩa địa xóm Chùa,
hóm hỉnh đấy mà đầy chua cay về thói đời ngay cả khi chết đi rồi, con người
ta vẫn không dễ gì thay đổi. Đoàn Lê có biệt tài phát hiện và miêu tả những
chi tiết đắt giá ngay trong những cái tưởng chừng như vụn vặt của đời thường.
Văn phong của Đoàn Lê có những nét rất riêng, cuốn hút người đọc bằng
những câu chữ vừa tinh tế, mượt mà, vừa ý nhị, dí dỏm.
Đến với điện ảnh từ nghề diễn viên, nhưng Đoàn Lê lại chỉ mới có mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn31
trong bộ phim Quyển vở sang trang của đạo diễn Nguyễn Ngọc Trung, với
25
vai cô giáo Hồng Vân. Đóng góp cho ngành điện ảnh nhiều nhất đó là những
kịch bản phim như Làng Vũ Đại ngày ấy, Cha và con, Thành hoàng làng xổ
số, Bình minh xôn xao, Ngày về, Truy lùng băng quỷ gió,... và một loạt kịch
bản phim truyền hình khác mà chị vừa viết kịch bản vừa đạo diễn. Dường như
khả năng sáng tạo của chị là không giới hạn. Trong cùng một thời gian, người ta
thấy chị vừa viết, vừa làm phim, vừa vẽ và làm thơ.
Sau khi về hưu, Đoàn Lê lui về ẩn dật ở ngôi nhà nhỏ dưới chân núi
thuộc thị xã Đồ Sơn. Đó là một khu đất chừng 400m2, thuộc thị xã Đồ Sơn,
cách biển vài trăm mét, dựa lưng vào quả núi Mẫu, xóm núi đó lại gần đường
ô tô. Ra khỏi ngõ chừng vài chục mét là đến phố. Có thể nói ngôi nhà Đoàn
Lê vừa quê, vừa tỉnh, lại vừa biển. Chị xa lánh mọi thứ phù du để chuyên tâm
vào hội họa. Đoàn Lê giờ sống bình yên cùng những toan, những mầu, những
cây bút vẽ. Mọi vui buồn, chị dồn hết vào những bức tranh. Những gì không
viết nên thành câu chữ, chị dùng hội họa thay lời. Thi thoảng, chị lại cùng bạn
bè mở những triển lãm tranh nho nhỏ với những bức tranh sơn dầu. Thế mạnh
của Đoàn Lê là tranh sơn dầu, và đề tài chủ đạo là nét đẹp xuân thì của những
cô thiếu nữ. Hồi danh họa Bùi Xuân Phái còn sống, cụ đã là người chỉ bảo
cho Đoàn Lê những nét bút đầu tiên, những bài học cơ bản về hội họa. Những
năm bảy mươi của thế kỷ trước, Đoàn Lê đã thi đỗ vào trường mỹ thuật, song
cơ chế lúc đó đã kìm chân chị, khiến chị không được theo hội họa là bộ môn
nghệ thuật mà chị đam mê. Cũng là do thói thường của tệ quan liêu, trù úm,
cửa quyền. Nhưng cũng không biết thế là hay hay dở, vì nếu theo học trường
mỹ thuật hồi đó, thì chúng ta lại chưa chắc đã có một nhà văn Đoàn Lê như
ngày nay. Mọi sự âu cũng là do số phận cả, đều là do Tiền định – như tên
cuốn tiểu thuyết mới đây của chị.
Đọc Tiền định, người ta có thể nghĩ đây là một cuốn tự truyện, vì nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn32
vật cô Chín trong tiểu thuyết cũng lận đận, long đong như số phận nhà văn,
26
nhà biên kịch Đoàn Lê. Nhưng khác với cô Chín trong tiểu thuyết có số phận
nghiệt ngã, ở cái kết "không có hậu", với Đoàn Lê lại tìm thấy một lẽ sống
trong tình yêu nghệ thuật. Và chị tìm thấy sự bình yên sau bao ngày sóng gió
bão bùng. Những tác phẩm hội họa của chị thể hiện sự tĩnh tại, an nhiên, xa
lánh mọi vòng tục lụy của đời thường.
Khi được hỏi hội họa và nghề viết bổ sung cho nhau như thế nào? Đoàn
Lê cho biết nghề viết, viết văn, kịch bản, thơ viết ra đã có sự kiểm duyệt của
chính mình và nhiều khi không đủ diễn tả mọi xúc cảm. Niềm đam mê hội
họa giải phóng những thôi thúc khi không viết được. Những cảm xúc, những
vẻ đẹp không thể diễn tả thành lời thì tôi tìm đến hội họa. Nhờ tranh mà
những truyện ngắn hay kịch bản phim của tôi cũng có bố cục chặt chẽ hơn và
nhiều người nhận ra sự cân đối, hài hòa.
Sắp bước sang tuổi 70, nhà văn Đoàn Lê vẫn có những truyện ngắn và
tiểu thuyết với giọng văn hóm hỉnh, trẻ trung và với tài năng của chị, các nhà văn
trẻ vẫn thường yêu quý gọi chị là Chị tôi và thường ngâm nga những câu thơ: Thế
là chị ơi/ rụng bông hoa gạo/ ô hay, trời không nín gió/ cho ngày chị sinh?...
Cái nết na, nét dịu dàng, tần tảo của Đoàn Lê khiến người đời ngưỡng
mộ, nhưng nó dường như cũng chính là nạn nhân của sự giả dối, toan tính của
người đời. Ở chị luôn hiển hiện sự giằng xé giữa tình duyên và nặng gánh
trách nhiệm. Chính sự vương vấn, lỡ dở ấy tạo nên sự long đong, lân đận
trong đời của người đàn bà – là chị.
Phải nói rằng ít có người phụ nữ nào mà số phận long đong như nhà
văn Đoàn Lê với hai lần chia tay chồng. Người con trai yêu quý, chiếc lá xanh
đã rụng trước lá vàng. Số phận đổ xuống đầu dồn dập như muốn đánh gục
người đàn bà đa tài và đa tình này. Những chấn thương tình cảm để lại khá
nhiều dấu vết trong những sáng tác của chị. Truyện ngắn Giường đôi xóm
Chùa kể lại về cuộc chia tay giữa vợ chồng, cái tổ ấm mà nhà văn cố níu giữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn33
nhưng không được... Mẹ và con và thánh thần kể về sự ra đi của người con.
27
Nhà văn đã dùng ngòi bút để tự mổ xẻ mình trước căn bệnh cuộc đời. Truyện
ngắn này khá hay nhưng thật buồn. Giao cảm cuối cùng nói về cái chết của
mình và sự giao cảm với người tình tưởng tượng. Rồi có lúc làm thơ, chị viết:
Người đừng năm tiết, bảy tao
Mai ta ra biển, tan vào sóng xanh...
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác phong phú
Khi nghĩ tới một nhà văn Đoàn Lê là người đọc thường nhắc đến giải
thưởng Hội nhà văn năm 1990 với tiểu thuyết Cuốn gia phả để lại, hoặc gần
đây nhất là giải thưởng tập truyện ngắn Trinh tiết xóm Chùa, năm 2005. Và
khi nhắc đến một Đoàn Lê điện ảnh, người xem không thể quên bộ phim
Làng Vũ Đại ngày ấy. Còn ở lĩnh vực hội hoạ, đó dường như là một sự quay
về với một Đoàn Lê trẻ trung dịu dàng của một thời con gái. Bước vào thế
giới hội họa, sự run rẩy của cảm xúc luôn luôn như mới bắt đầu mỗi khi
Đoàn Lê cầm cây cọ để giải toả những ẩn ức trong tâm hồn mình. Mỗi bức
tranh của chị như một ẩn dụ, thông qua hình tượng để bày tỏ những xúc động
sâu thẳm trong con tim. Có lẽ, trái tim thi sĩ đa cảm hiện lên qua mầu sắc,
đường nét và được chắt lọc bởi bố cục khá tiết chế. Trong cõi sắc màu này,
cái thuở dậy thì thơ ca cách đây nửa thế kỷ với bài thơ Bói hoa của nữ sĩ
Đoàn Lê đã trở lại. Cái kiếp hoa ấy sau này nhập hồn vào giá vẽ của Đoàn Lê
với các tên khác nhau như Hoa bèo, Hoa lan tiêu, Hoa hồng,... Nhưng có thể
nói, ngoài những đề tài tập trung về phụ nữ và phong cảnh, thì mảng tranh
“nuy" của chị có một sức thu hút đặc biệt. Đây thật sự là một nét phá cách của
một thân phận đầy gian truân, trần ai với cuộc sống mà Đoàn Lê đã trải
nghiệm. Nhiều đau khổ đến mức chị đã định tìm đến thiền với một nguyên tắc
sống: "Không nói , không nhìn, không nghe, không tình dục!?". Nhưng cuộc
đời lại không cho chị được toại nguyện, nên giờ đây, với văn chương lại có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn34
một Đoàn lê nghiệt ngã hơn với tập truyện Trinh tiết xóm Chùa, còn với giá
28
vẽ xuất hiện một Đoàn Lê thi sĩ hơn khi gắn bó tinh tế trong hội hoạ "nuy".
Cái nhìn, cái nghe, cái tình dục qua toan với mầu sắc, đường nét mang thương
hiệu Đoàn Lê luôn luôn nhân ái và thật sự nồng ấm. Tác phẩm Hoa bèo của
chị là một ẩn dụ sâu sắc, giàu tính biểu đạt, thể hiện lòng thương với thân
phận của các cô gái trôi dạt về bãi biển Đồ Sơn như những cánh bèo lênh
đênh, bị sóng đánh tả tơi trên mặt cát. Hình tượng ấy qua bức tranh ‘nuy" đã
làm xúc động lòng người, nó không còn gây ấn tượng ở sự trần trụi gợi dục
mà là sự đày ải đến đáy thân phận con người nơi trần gian đã đánh thức lương
tâm người xem. Hay như bức Giếng lan tiêu, đâu chỉ có riêng cảnh một cô gái
tắm bên giếng, mà ở đó còn toát lên hương vị thanh tân của tuổi trẻ với một
sắc đẹp thiên nhiên dịu dàng trong gam xanh trong vắt của miền quê biển.
Bên cạnh đó những bức tranh khác của Đoàn Lê cũng gây ấn tượng như
những bài thơ đồng quê: Mèo ngủ, Phút yên lặng, Trong phòng tắm, Xóm núi,
Nông nhàn...
Đến và sống cùng điện ảnh suốt cuộc đời, Đoàn Lê đã tham gia trong
nhiều lĩnh vực hoạt động: diễn viên, thiết kế mỹ thuật, biên kịch rồi đạo diễn.
Người ta chưa quên hình ảnh cô giáo Hồng Vân của chị, vai chính trong phim
Quyển vở sang trang cùng những phim nhựa, phim truyền hình mà chị là biên
kịch hay đạo diễn hoặc biên kịch kiêm đạo diễn. Có thể kể đến Làng Vũ Đại
ngày ấy, Bình minh xôn xao, Niết bàn rực cháy, Song nữ, Nước mắt của biển,
Cái chết của Hồ Xuân Hương, Giọt nước mắt thiêng,... Chị đã được nhận
những giải thưởng xứng đáng cho các phim Con Vá, Chim bìm bịp trong Liên
hoan phim truyền hình toàn quốc.
Với văn học, Đoàn Lê lâu nay đã là một gương mặt nhà văn nữ có tiếng
với nhiều tác phẩm được độc giả đón nhận. Những tiểu thuyết tâm huyết đầy
trăn trở của chị như: Cuốn gia phả để lại, Lão già tâm thần, Người đẹp và đức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn35
vua, Tiền định đã gây được nhiều thiện cảm với người đọc. Cuốn gia phả để
29
lại ngay khi mới ra mắt công chúng đã được nhận giải thưởng của Hội Nhà
văn Việt Nam. Còn phải kể đến nhiều giải thưởng chị đã nhận được cho
những truyện ngắn và tập truyện ngắn trong nhiều năm qua. Những truyện
ngắn Giường đôi xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa... chính là khả năng quan sát
và thể hiện thực tế đời sống rất nhạy cảm của Đoàn Lê. Tác phẩm của chị
được dịch, xuất bản và được độc giả đón nhận tại Đức, Mỹ, Thụy Điển...
Cách viết dung dị, những nhận xét hóm hỉnh và sâu sắc về nhân tình thế thái,
về ấm lạnh cuộc đời của chị tựa như một nụ cười khoan dung và độ lượng đã
tìm được sự đồng cảm của nhiều tầng lớp độc giả trong và ngoài nước.
Sự trải nghiệm cuộc đời cùng một tâm hồn đầy cá tính đã tạo nên
nguồn năng lượng dồi dào và một nội lực “thâm hậu” trong lao động nghệ
thuật của Đoàn Lê. Những đứa con tinh thần của người đàn bà mảnh mai và
có vẻ yếu đuối này lại có một sức sống mãnh liệt, hấp dẫn, cuốn hút độc giả
và giành được những thành tựu đáng kể.
Là người con của đất cảng Hải Phòng, đi học và lập nghiệp tại Thủ đô
nhưng từ năm 1988, khi trở về “xóm núi Đồ Sơn” sống và tiếp tục trăn trở
sáng tạo với tinh thần “làm chủ quỹ thời gian”, Đoàn Lê thực sự đã có những
thành công trong nhiều lĩnh vực. Ở tuổi “tri thiên mệnh”, chị lại bất ngờ cho
ta một cách lắng nghe mới về sự lắng đọng của tâm hồn qua bài thơ Mưa núi:
Mưa núi gần kề bên hiên
Tí tách nguồn cơn ngõ bé
Xóm núi bâng khuâng rất khẽ
Khói chiều
Câu thơ hàng xóm đang yêu
Tạc một cánh diều vách núi
Chợt nghe bước chân lủi thủi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn36
Lá rừng.
30
Đoàn Lê nhìn cuộc đời rất giản dị nên chị quan niệm không việc gì phải
đao to búa lớn cả. Trong sáng tạo, chị làm việc cật lực, thậm chí lao lực,
nhưng xét cho đến cùng với chị đó cũng chỉ là những cuộc "rong chơi" trong
thế giới này mà thôi. Và sáng tạo nghệ thuật - đấy là một cách "chơi" của chị.
Chị lựa chọn một thái độ với cuộc sống bằng những câu thơ tình dí dỏm:
Anh cứ nói cả trăm điều dối trá
Để em tin như thể rất dại khờ
Em giấu trong lòng sớm nắng chiều mưa
Điều dối trá hồn nhiên thành vô tội
Thế gian này nặng đâu lời nói dối.
Những kiếp người èo uột sẽ đi qua
Rồi tất cả sẽ trở thành vô nghĩa
Tội tình gì em khe khắt với hai ta...
1.3.3. Vị trí truyện ngắn trong sáng tác của Đoàn Lê
Đoàn Lê thử nghiệp của mình trên nhiều loại hình nghệ thuật và ở lĩnh
vực nào chị cũng có những tác phẩm tiêu biểu. Nhưng có lẽ nói đến sự nghiệp
sáng tác của Đoàn Lê , là người ta nghĩ đến các sáng tác văn chương của nhà
văn. Đoàn Lê đã có những thành tựu thật sự với văn chương. Một giọng văn
được nhớ, nền nã dung dị nhưng bao giờ cũng kèm theo chất hài hước ngầm.
Những tập truyện: Thành hoàng làng xổ số, Nghĩa địa xóm Chùa, Trinh tiết
xóm Chùa; những tiểu thuyết: Lão già tâm thần, Cuốn gia phả để lại,... đã
đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam, báo Văn Nghệ,...
Đoàn Lê viết văn từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước. Nhưng
khoảng 20 năm gần đây chị mới nổi lên sau bao nhiêu thăng trầm nổi nênh
của cuộc đời và thân phận. Người viết văn xuôi thường vẫn vậy. Cuộc đời
làm nhà văn điên đảo đau đớn, nhưng bù lại qua đó ta mới thấy yêu quý đời
hơn, và văn của ta mới đằm thắm hơn, bao dung hơn. Vốn liếng văn chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn37
của Đoàn Lê nay đã khá dày dặn.
31
Văn học vốn là thứ bùa mê đối với nhiều người. Đoàn Lê cũng bị thứ
bùa mê ấy hút hồn từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong các loại hình
văn học như đã nói trên, dường như truyện ngắn còn có “mối nhân duyên”
đặc biệt với Đoàn Lê. Chị thấy mình thoải mái hơn cả khi viết truyện ngắn.
Nó vừa đủ độ thời gian người viết dành cho nó, không kéo dài quá.
Nhà văn Đoàn Lê thực sự là một cây bút viết truyện ngắn đặc sắc.
Truyện ngắn của chị xuất hiện liên tục, đều đều trên nhiều tờ báo. Truyện của
Đoàn Lê lúc thì đằm thắm, trữ tình, lúc thì hiện thực sắc sảo. Có lúc lại táo bạo,
hiện đại bất ngờ, rồi có lúc lại trẻ trung thổn thức như một cô gái mới lớn.
Vậy những tiền đề mang đến thành công cho Đoàn Lê ở thể loại truyện
ngắn là gì? Và cũng thật chân tình, Đoàn Lê thú nhận: “Tôi rất mê truyện
ngắn của Nam Cao. Có thể nói, tôi chịu nhiều ảnh hưởng của nhà văn tiền
bối ấy trong nghề viết văn xuôi”.
Ở ngay hai truyện ngắn đầu tiên của tập truyện Thành hoàng làng xổ
số, người đọc dễ dàng nhận ra hai khuynh hướng, hướng nội và hướng ngoại
mà Đoàn Lê đã tìm thấy trong bậc tiền bối được ưa thích của mình. Đêm ngâu
vào báo hiệu một khuynh hướng sáng tác của Đoàn Lê. Khuynh hướng hướng
nội, phân tích tâm lý, đào sâu vào cái ẩn khuất của tâm hồn con người, cảm
thông với những thân phận bất hạnh. Truyện viết khá tinh tế về một mối tình
tay ba. Thành hoàng làng xổ số là một truyện ngắn viết theo xu hướng ngược
lại. Nó hướng ngoại. Trong truyện có chuyện, đầy sự kiện và chi tiết, nói về
những con người nghèo khổ, chỉ muốn đổi đời bằng xổ số, số đề. Xu hướng
hướng ngoại ấy của Đoàn Lê nổi lên rõ ràng và đặc sắc nhất là seri truyện
ngắn viết về xóm Chùa. Chúng ta bắt gặp Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm
Chùa, Người đẹp xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, Xóm Chùa thời ung thư.
Trước đây Nam Cao viết về một làng quê thời Pháp thuộc – làng Vũ Đại với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn38
sự khốn cùng thê thảm của nó. Còn Đoàn Lê thì vẽ ra cho chúng ta xem một
32
làng quê trong quá trình đô thị hóa. Thời gian đô thị hóa là thời gian bản lề,
nó là thời gian quá độ chuyển sang đời sống công nghiệp cho nên hiện thực
xảy ra vô cùng khắc nghiệt. Các giá trị truyền thống của một xã hội nông
nghiệp đang mất đi, và các giá trị mới chưa được hình thành. Chúng ta chứng
kiến văn hóa làng cổ truyền đang bị biến đổi hay là đang tan rã. Ở chùm
truyện ngắn này, những bi kịch về tranh chấp đất đai trong làng xóm xảy ra.
Đạo đức xuống cấp (Đất xóm Chùa). Rồi những cô gái đi lấy chồng Đài Loan,
Hàn Quốc (Trinh tiết xóm Chùa), thậm chí người ta bán cả mồ mả ông cha đi
mà không biết (Xóm Chùa thời ung thư).
Đoàn Lê chả phải đi thực tế đâu xa. Khi ở làng Lủ quê chồng, chị sống
chan hòa với người dân chung quanh, quan sát những con người và sự việc
hàng ngày quanh mình mà viết nên những truyện ngắn này. Nam Cao có một
làng quê mà ông cắm rễ rất sâu để làm chất liệu cho nghề văn của mình. Đoàn
Lê cũng làm như vậy. Có khác chăng giữa hai người, thì chỉ là hiện thực diễn
ra mỗi thời mỗi khác, và tâm hồn mỗi nhà văn mỗi khác. Hiện nay, nhà văn
nữ đang sống ở một xóm núi Đồ Sơn. Một cái xóm gần núi, gần biển. Đã
thấy những truyện ngắn Chốn sơn khê, Rồi Bụt hiện lên, mang hơi thở của cái
thị xã du lịch biển này, cái xóm ven biển cũng đang thay đổi từng ngày. Một
loạt truyện xóm Chùa của Đoàn Lê đem lại cho người đọc cảm giác chúng có
dáng dấp của một cuốn tiểu thuyết thời hậu hiện đại. Cuốn tiểu thuyết gồm
những truyện ngắn, tức là kết cấu của nó lỏng. Cái gắn kết các truyện đó lại là
chủ đề văn hóa làng thời hiện đại. Một cái gì đó quý giá đang mất đi và ta
đang cố níu giữ nó lại.
Phong cách truyện ngắn của Đoàn Lê ngày càng đa dạng. Ngoài những
truyện thiên về tả thực và phân tích tâm lý ta còn thấy nhiều truyện mang yếu
tố ảo hơn như : Lên ruồi, Nhân bản hoặc mang yếu tố hiện đại như Sex hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn39
sử dụng nhiều đến trí tưởng tượng tổng hợp hơn (immagination synthétique),
33
nghĩa là tác giả dùng hư cấu bịa đặt tổng hợp những trải nghiệm của cả đời
mình ra để viết như Chờ nhật thực, Cổ tích Manơcanh, Tình Guột.
Tóm lại truyện ngắn đã mang đến cho Đoàn Lê nhiều thành công và
được độc giả ghi nhận. Theo tạp chí nghiệp đoàn xuất bản về Tuyển tập Đoàn
Lê ở Mỹ đã khẳng định: “… Đoàn Lê được ghi nhận ở phong cách đa dạng và
sức sáng tạo tươi mới” [73]. Còn nhà văn Hồ Anh Thái thì nhận xét “… Đoàn
Lê U70 lại viết như U30” [60].
Nhà văn Đoàn Lê chứng tỏ một phong cách mới trong đời sống văn học
đương đại Việt Nam. Một phong cách dịu dàng, táo bạo, tỉnh táo nhưng rất
nền nã, nhẹ nhàng, và đặc biệt hài hước. Chị là nhà văn kế thừa và tiếp nối
dòng văn học nữ Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Đoàn Lê phát huy ưu
thế của ngòi bút trong thể loại truyện ngắn, và thực sự nó đã chiếm một vị trí
đáng kể trong sự nghiệp viết văn của chị. Khi nói tới Đoàn Lê là người đọc
nghĩ tới một “thương hiệu” Đoàn Lê trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn40
của chị nói riêng.
34
Chương 2
BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG
TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ
2.1. Ý thức của nhà văn với hiện thực đời sống
2.1.1. Đi sâu khai thác mảng đề tài thế sự
Tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ và mỗi nhà
văn, nhà thơ khi sáng tạo ra tác phẩm đều xuất phát từ một nguồn cảm xúc
nhất định. Đó là những trăn trở, dằn vặt, những rung động mãnh liệt của tác
giả trước cuộc sống. Những trạng thái, cảm xúc đó được gọi là cảm hứng, là
nhân tố quyết định sự thành bại của tác phẩm. Có lẽ ở Đoàn Lê, tình yêu đối
với xóm Chùa, những trăn trở về số phận và đời sống tình cảm của con người
là nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của chị. Như chúng ta đã biết, mỗi
tác giả tài năng đều có một vùng sáng tác chuyên biệt và để lại dấu ấn sâu sắc
trong lòng người đọc về sự tài hoa, uyên bác, cũng như tấm lòng, tình cảm
của mình đối với vùng đất ấy. Chẳng hạn, nhắc đến mảng sáng tác về đề tài
Tây Nguyên thì không thể không nhắc đến Nguyên Ngọc, hay nhắc đến thành
phố cảng Hải Phòng là chúng ta lại nhớ đến Nguyên Hồng, nhắc đến Hà Nội
thì không thể quên Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng…. Xuôi về phương
Nam, vùng đất trẻ trung của tổ quốc, chúng ta biết đến Sơn Nam - nhà Nam
Bộ học, Trang Thế Hy - người được Nguyên Ngọc mệnh danh là “người hiền
của văn học Nam Bộ”, rồi Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân…và bây giờ chúng
ta có Nguyễn Ngọc Tư. Nói như thế để thấy chúng ta lại có thêm một nhà văn
nữ đã lựa chọn mảnh đất xóm Chùa thân quen của mình làm đối tượng thẩm
mỹ trong sáng tác, đó là Đoàn Lê. Nếu Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện với tác
phẩm Cánh đồng bất tận khiến người đọc ngạc nhiên và thổn thức về một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn41
vùng quê Cà Mau xa xôi nhưng gần gũi. Đó là một miền quê nghèo khó đắng
35
cay chồng chất đắng cay. Nguyễn Thị Thu Huệ khai thác về đề tài người đàn
bà phố thị,… thì Đoàn Lê đến và góp một tiếng nói nghệ thuật về đời sống
một xóm Chùa với biết bao vui buồn, ấm lạnh của cuộc đời. Đoàn Lê với
những câu chuyện rất đời thường, những câu chuyện như đang diễn ra từng
ngày, từng giờ đâu đó quanh ta. Những câu chuyện ấy mang hơi thở cuộc
sống hôm nay, ở thì hiện tại chị đã đưa người đọc khám phá những mảng màu
tối - sáng của cuộc sống. Thông qua một số truyện ngắn nằm rải rác trong các
tập truyện, đặc biệt đậm đặc hơn trong seri truyện ngắn viết về xóm Chùa, ta
thấy mảng đề tài thế sự được chị đặc biệt chú ý. Chị phơi bày ở những mức
độ và bằng những cách thức khác nhau về thực trạng nhức nhối của đời sống
xã hội.
Chuyện quan chức mua quan bán tước, lạm dụng chức quyền tham ô.
Cuộc sống của người dân xóm Chùa bị náo động bởi thông tin có đường cao
tốc đi ngang qua ( Đất xóm Chùa) [ 40, tr 20], người dân nơi đây xôn xao kẻ
bán người mua đất tấp nập. Có người nhanh chóng muốn bán đi kẻo để lâu
mất giá như lão Hớn nói: “Mình nhanh chân làm trước thiên hạ mới giỏi. Chờ
lúc ai cũng đua nhau bán, rồi rẻ hơn bèo”. Mọi người quên đi việc quan chức
trong làng ăn bớt ngân quỹ, việc chạy giấy tờ để bán đất, để giành nhau đất
mặt tiền gần đường… mà lao vào một vụ đầu tư về nhà đất rầm rộ khắp xóm
đó là bán đất vì đất sẽ có đường cao tốc đi ngang qua. Thói hám lợi, lòng
tham đã len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống người dân “xóm Chùa”, ở từ
những kẻ thấp cổ bé họng đến những lãnh đạo cấp xã, huyện như Quảng,
Toản,…Chúng lợi dụng chức quyền, câu kết với nhau bán đất địa phương để
trục lợi cá nhân, bỏ túi bạc tỷ.
Chuyện gái làng dần dần lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc cũng được Đoàn
Lê phản ánh một cách khéo léo qua tác phẩm Trinh tiết xóm Chùa [41, tr 67].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn42
Các cô gái làng đang vào một cuộc lựa chọn gắt gao để đủ tiêu chuẩn lấy
36
chồng ngoại theo sự mai mối của cô Lầy Lầy. Chỉ có Hoa con gái của ông bà
Sĩ Duệ là không nôn nao vì cô nghĩ bản thân mình không đủ tiêu chuẩn cô
Lầy Lầy tuyển chọn. Tiêu chuẩn “xinh xắn, dễ coi, trẻ, khỏe” [41, tr.141] thì
cô Hoa không bận tâm nhưng còn điều kiện “phải còn xịn” [41, tr.141] thì cô
rất khó nghĩ vì cô trót phải lòng anh phó nháy đầu làng, ở với anh ta có con
nhưng anh ta “bỏ của chạy lấy người” nên cô và bà Duệ phải âm thầm đi bỏ
thai. Con gái xóm Chùa dần dần đều tỏ ý hoặc đồng ý ra mặt lấy chồng ngoại
để có thể đổi đời, có thể giúp đỡ gia đình thoát nghèo… Nhưng đằng sau ấy
cuộc đời các cô nơi xứ người sẽ ra sao? Câu hỏi ấy cứ dấy lên trong lòng độc
giả khi đọc đến trang cuối của tác phẩm.
Đề tài mà nhiều tác phẩm văn học quan tâm là hạnh phúc gia đình trong
xã hội hiện đại. Hạnh phúc gia đình luôn có những bóng đen đe dọa và trong
đó người phụ nữ cảm thấy đau khổ, bất hạnh vì không thể giữ trọn hạnh phúc
ấy, như trong truyện ngắn Giường đôi xóm Chùa. Người vợ sau hai mươi tám
năm chung sống đời vợ chồng đã quyết định chia tay chồng mình trước khi bị
chồng bỏ để chạy theo người tình cũ, già hơn chị, xấu hơn chị. Người vợ thấy
đau đớn, bất lực nhưng cũng không hề tiếc nuối chuyện đã qua, người phụ nữ
ấy chỉ thương con mình, cháu mình, bà chỉ muốn che chở cho gia đình nhỏ bé
của mình trước phong ba của cuộc đời. Bà chấp nhận chia tay khi đã thu xếp
cho con cháu ổn thỏa, chỉ có nỗi đau về hạnh phúc tan vỡ là đau đáu trong
lòng. Sự dễ hợp dễ tan của nhiều gia đình trong xã hội hiện nay là một điều
cần xem xét suy ngẫm, bởi vì hệ lụy từ việc tan vỡ gia đình gây nên rất nhiều
tổn thương cho những người thân bên cạnh mình. Cuộc sống biến động từng
ngày với biết bao sự kiện chính vì thế có khi hạnh phúc chúng ta nắm giữ
trong tay ngày hôm nay ngay mai lại thực sự tan biến. Nhiều tác phẩm của
Đoàn Lê cảnh báo về cuộc sống của con người thời hiện đại và nhất là cảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn43
báo về việc giữ gìn mái ấm gia đình của mỗi người qua các tác phẩm: Viên
37
sỏi, Ngôi nhà gỗ, Giường đôi xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa. Quả thật mái
ấm gia đình hết sức mong manh cần mọi người trong gia đình cùng nhau nâng
niu giữ gìn. Trong truyện ngắn Viên sỏi, người đọc ngỡ ngàng khi bắt gặp một
hình ảnh người đàn bà già nua đến tiệm trang sức để làm một chiếc nhẫn có
mặt là một viên sỏi. Bà đi nhiều tiệm năn nỉ hết lời: “ Tôi muốn có một chiếc
nhẫn mà mặt nhẫn bằng chính viên sỏi này… Tôi cũng biết mài được nhẫn nó
công phu lắm, rất tốn kém. Bởi vậy số tiền dành dụm được có thể đủ đánh
nhẫn vàng, tôi chỉ yêu cầu anh giúp hộ bằng bạc, còn bao nhiêu tính vào công
mài.” [ 5, tr 215] thế nhưng đáp lại bà chỉ là lời từ chối bởi công việc ấy tốn
quá nhiều thời gian và công sức của con người. Nhưng đối với bà lão ấy và cô
bé Mỹ Linh thì đó là món quà vô giá mà người cha cô bé tặng cho cô với lời
hứa một ngày nào đó sẽ trở về. So với mọi món quà trên đời này thì tình thân
là điều quý giá nhất đối với cô bé. Cô đã mất gia đình mình vào chính ngày
sinh nhật năm lên bốn tuổi vì chính lúc ấy mọi người phát hiện cha cô là một
con nghiện. Mẹ cô ly dị bỏ đi, tài sản tiêu tán hết. Người cha cũng bỏ đi biệt
vô âm tín chỉ còn lại hai bà cháu, hai cái bóng cô đơn nương nhau mà sống.
“Đứa cháu chính là cái phao cứu hộ của bà, giúp bà thoát khỏi chết chìm
trong cơn tuyệt vọng” [5. Tr 222]. Đó là một hồi chuông cảnh tỉnh cho những
gia đình quá nuông chiều con cái, sự nuông chiều thái quá không phải là
thương con mà là đang đào một nấm mồ chôn sống con dần dần đến thân tàn
ma dại. Đoàn Lê cũng là một người mẹ phải chịu cảnh đau đớn tiễn con ra đi
như thế. Chị đã bộc bạch qua truyện ngắn Mẹ và con và thánh thần. Câu
chuyện là một cuộc đối thoại nhưng mang tính chất độc thoại thì đúng hơn vì
người mẹ và cậu con trai trong câu chuyện dù nói chuyện với nhau nhưng mỗi
người một thế giới riêng miên man tràn ngập trong nỗi đau kỉ niệm. Họ nhớ
lại những kỉ niệm về gia đình, người mẹ nhớ lại những ngày tháng cuối cùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn44
bên con. Đó là một thảm cảnh của nhiều gia đình hiện nay. Cha mẹ không
38
quan tâm con đầy đủ, không hiểu con và giúp đỡ con trong những lúc con bế
tắc nhất để con rơi vào vòng tay đen tối của cuộc đời. Phải trả giá bằng mạng
sống của chính bản thân mình. Đề tài về những bế tắc trong gia đình này đã
được nhà văn phản ánh thông qua các tác phẩm: Ngày cuối, Giường đôi xóm
Chùa, Mẹ và con và thánh thần,… Đó là những máu và nước mắt nhà văn
dùng để trả giá cho những sai lầm trong cuộc đời của mình và chị hy vọng đó
là lời cảnh tỉnh, là tiếng chuông cảnh báo về bổn phận và trách nhiệm của
những người làm cha làm mẹ trước cuộc đời của con. Gia đình không có đủ
trách nhiệm với con cái để con lầm đường lạc lối, nghiện chất trắng, thuốc
lắc, ma túy là những hiện tượng rất thực trong cuộc sống hiện nay. Sinh con
ra chưa đủ mà còn phải chăm sóc, dạy dỗ con nhất là khi con bắt đầu vào tuổi
trưởng thành, phải uốn nắn con, phải là tấm gương tốt cho con noi theo. Đọc
những truyện ngắn ấy thiết nghĩ những bậc làm cha làm mẹ sẽ giật mình thức
tỉnh để nghiệm ra những bài học quý báu cho bản thân mình về hạnh phúc gia
đình, về tình yêu và trách nhiệm với con cái.
Hiện thực về gia đình chị còn khai thác trên khía cạnh ngoại tình của
những người đàn ông trong gia đình. Họ có những tình cảm ngoài luồng, san
sẻ tình cảm cho những người tình của họ trong những chuyến đi công tác
chóng vánh. Họ khéo thu vén, sắp xếp để đến với những người tình ấy thông
qua việc nói dối vợ con, nói dối gia đình. Đoàn Lê phản ánh hiện tượng ấy
trong nhiều truyện ngắn của chị: Cổ tích manơcanh, Giấc mơ thứ, Trăng
đường, Giường đôi xóm Chùa…Việc ngoại tình ấy diễn ra một cách âm thầm
lén lút nhưng đôi khi dẫn đến hệ lụy của nó là tan vỡ gia đình. Nhà văn khai
thác chuyện ngoại tình dưới một góc cạnh mới đó là góc cạnh nhìn về người
phụ nữ bị xem là người thứ ba trong hôn nhân của người khác. Thật ra họ
cũng là nạn nhân, tình cảm mà họ nhận được là tình cảm bị san sẻ khiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn45
những cô gái làm tình nhân của những cuộc tình ấy cũng rất đau khổ cho hoàn
39
cảnh của mình, họ hiểu thân phận của mình luôn cảm thấy hoài nghi khắc
khoải, luôn mong chờ, hy vọng có thể sống trọn vẹn với tình yêu, có thể sống
như những đôi vợ chồng bình thường, có thể làm mẹ… nhưng đó mãi là
những hy vọng của họ mà thôi.
Đoàn Lê phơi bày lòng tham của con người khi con người tự biến mình
thành nô lệ cho chính những dục vọng của mình. Những ảo tưởng cứ giăng
giăng trước mắt những kẻ ngu muội cho rằng sẽ có thể giàu có nhờ may rủi đỏ
đen. Từ một công chức nhà nước đàng hoàng, đã đề huề gia đình vợ con, lão
Khiển trong Thành hoàng làng xổ số đã có mọi thứ trong tay mà không biết
trân trọng để rồi rơi vào cảnh không nhà, sống cầu bơ cầu bất, không áo cơm,
không kẻ qua người lại rủ lòng thương “con người lão từ quần áo đến tư thế
đều đã rách nát”, và cái kết cục bi đát nhất cũng đến với lão, ấy là cái chết
của một con vật: bị hất ra ngoài đường, chết đói, chết rét, không một manh
chiếu, không một tấm ván chôn cất. Đây là bài học cảnh tỉnh đối với những kẻ
ảo tưởng vào của phù vân, và vẫn còn nguyên tính thời sự.
Ngoài ra nhà văn còn khai thác thêm nhiều chủ đề mang đậm hơi thở
cuộc sống như: việc tiếp nhận tranh khỏa thân (Người đẹp xóm Chùa), các tác
phẩm văn chương khi đưa đi in ấn, xuất bản (Người khách đêm giao thừa),
kinh doanh du lịch trá hình, vì lợi ích cá nhân (A Tourism xóm
Chùa)…Những chủ đề ấy thực sự phản ánh những vấn đề “nóng” gây tranh
cãi trong xã hội cũng như chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn trong cuộc sống.
Là một nghệ sĩ đa tài, sống hết mình cho nghệ thuật nhưng Đoàn Lê
cũng rất thẳng thắn và không ngần ngại vén tấm màn nội bộ để phê phán một
bộ phận giới nghệ sĩ đã mượn danh chính nghĩa, mượn diễn đàn để tìm cách
hạ nhau, để “khiêu khích bôi nhọ nhau” trên mặt báo, nhưng cũng có kẻ mượn
đó để tự tô son cho mình (Chọi chữ, Người xiếc chữ). Đồng thời, nhà văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn46
cũng phê phán lối sống ảo tưởng, xa rời thực tế của những con người này. Dù
40
được ưu ái sống hai lần trong cuộc đời nhưng họ vẫn không tỉnh ngộ (Nhân
bản). Thậm chí vì danh tiếng lợi ích người cầm bút đã không viết đúng sự
thật. Đoàn Lê phản ánh hiện thực ấy thông qua truyện ngắn Người xiếc chữ.
Nếu như trước kia, văn học thiên về ca ngợi, khẳng định, biểu dương
thì bây giờ văn học đến gần hơn với cuộc sống con người, là nhu cầu bổ sung,
khám phá thêm những mặt trái, mặt tiêu cực khuất lấp của xã hội. Phải chăng
đó là lý do mà mảng đề tài thế sự được Đoàn Lê đặc biệt quan tâm và đã
chiếm được thiện cảm của bạn đọc. Với lối viết không đao to búa lớn, triết lý
không nhiều, quy mô phản ánh không rộng, nhưng Đoàn Lê đã đánh đúng vào
phần nhức nhối không nhỏ của xã hội, được quy tụ tất cả ở không gian nghệ
thuật “xóm Chùa”. Đó không đơn thuần chỉ là chuyện thay đổi một lối sống,
một con người, cũng không chỉ là chuyện đất làng bị giải tỏa, hay cơn sốt lấy
chồng ngoại quốc để đổi đời, hay việc lập làng du lịch để kiếm tiền,… mà ở
đây chị đưa ra vấn đề về sự biến đổi tầng sâu văn hóa của người Việt. Đoàn
Lê phản ánh một hiện thực nhức nhối của những nước đang phát triển đó là
những biến tướng trong du lịch, kinh doanh dịch vụ nhà hàng khách sạn. Như
việc kinh doanh du lịch trá hình trong truyện ngắn A Tourism xóm Chùa, Rồi
bụt hiện lên… Hiện thực ấy được phản ánh sinh động qua những trang văn
bởi những hình ảnh như Cường, ông Hưởng, cô Ty, anh Nang…những nhân
vật ấy bị cuốn vào dòng xoáy của cuộc đời vì danh lợi mà Cường đã biến xóm
Chùa thành một nơi du lịch với “Động người xưa” chuyên thu thập những cô
gái trẻ về phục vụ khách du lịch có những nhu cầu về vui chơi ăn uống, tình
dục… Du lịch biển cũng biến tướng bởi những khách sạn kinh doanh trá hình
như nhà hàng khách sạn Thiên Phượng chuyên môi giới gái mại dâm một
cách chuyên nghiệp… Đó là một hiện thực tồn tại âm ỉ trong lòng xã hội.
Những việc làm đen tối mờ ám kín đáo ấy được phơi bày khiến chúng ta cảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn47
giác thêm những mặt chìm của xã hội hiện nay.
41
Nhà văn còn quan tâm đến rất nhiều thân phận người bất hạnh trong xã
hội như những nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam sau chiến tranh. Hậu quả
của những di chứng ấy không thể hiện rõ trên người của họ nhưng con cái của
họ phải gánh chịu những biến chứng trên hình hài, bệnh tật đau đớn, không
thể làm những con người khỏe mạnh bình thường được. Đọc truyện ngắn Xóm
đom đóm của Đoàn Lê, chúng ta khắc khoải nhớ mãi hình ảnh: “Sáng sáng
anh thợ mộc Cán lần lượt bế ba đứa trẻ lớn bé đặt vào cái cũi gỗ buộc sau xe
đạp cà tàng của mình, rồi khóa cửa căn phòng tập thể cấp bốn xập xệ lại, đi
đến xưởng gỗ làm việc. Anh ta lầm lũi dắt xe ra cổng trong con mắt ái ngại
của những bà hàng xóm đứng trước cửa nhà.” [43, tr 57]. Đó là những đứa
con bất hạnh bị nhiễm chất độc màu da cam của anh khi anh đi bộ đội ở chiến
trường Tây Ninh về. Gia đình tan nát, vợ bỏ đi, đứa con trai lớn chết, anh vừa
sống, vừa đi làm, vừa chăm sóc ba đứa trẻ còn lại. Gấp trang sách lại người
đọc còn ám ảnh bởi tiếng kêu thê thảm, thương tâm của anh: “Mẹ cha cái tập
đoàn bí mật mày ơi… Bụng mày nham hiểm giết người không dao… Bớ cái
tập đoàn bí mật chúng mày… Trời cao chứng giám thù này không tan… Mẹ
cha cái tập đoàn bí mật mày ơi… ơi…” [43, tr 60].
Hướng ngòi bút vào khai thác những yếu tố sinh hoạt thế sự, đây
không phải là những thử nghiệm mới mẻ của Đoàn Lê mà nó là xu hướng
chung của nhiều nhà văn đương đại. Mảng đề tài này đã chiếm một số lượng
không nhỏ trong sáng tác truyện ngắn của Đoàn Lê, đó là các truyện khai thác
chi tiết sinh hoạt thế sự, đậm chất đời thường, đã thực sự gây được sự tiếc
thương, chua xót cho những giá trị truyền thống đang bị xói mòn, có nguy cơ
trở nên “vang bóng một thời” và ẩn sau đó là khát khao không thành lời của
nhà văn về cái đẹp, cái thiện.
2.1.2. Ý thức đối thoại ngầm với những quan niệm sáng tạo đương đại
Những quan niệm sáng tạo nghệ thuật và sự tiếp nhận về các hình thức,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn48
loại hình nghệ thuật hiện nay đang gây tranh cãi rất nhiều như về việc tiếp
42
nhận ảnh khỏa thân, sex,… trong văn học. Những quan niệm ấy đã có những
ý kiến trái ngược nhau, phản bác nhau, và chưa thực sự thống nhất. Mỗi người
đứng trên lập trường của mình, dựa vào những hiểu biết, kinh nghiệm sống
của bản thân để tiếp nhận những hiện tượng trái chiều trong xã hội. Thế
nhưng Đoàn Lê lại có thể dung hòa những quan niệm ấy vào tác phẩm của
mình, cùng đối thoại, cùng đấu tranh để thấy được mọi mặt của đề tài, của vấn
đề đặt ra cho tác phẩm. Đoàn Lê sử dụng ý thức đối thoại ngầm với những
quan niệm sáng tạo trong các tác phẩm của chị. Chẳng hạn như trong truyện
ngắn “Người đẹp xóm Chùa” [ 41, tr 83], tác phẩm nói về ảnh khỏa thân hiện
nay và vấn đề vẽ ảnh khỏa thân. Nhân vật tự đối thoại với chính mình để nhận
thức sự việc, cả câu chuyện như lời tự sự của người họa sĩ vẽ tranh là nhân vật
xưng “tôi”: “Tôi vẫn ngỡ mình là một thiên tài chưa có đầu ra. Thị trường
còn đang manh nha, giá gặp mấy anh có máu buôn, chắc họ phải vồ lấy tôi.”
[ 41, tr 83]. Tranh của anh là tranh nude, tranh khỏa thân, anh vẽ và tôn vinh
nét đẹp của người phụ nữ nhưng không bán được bức tranh nào trong số “hai
mươi mùa xuân” [41, tr 84] của anh trong ngày trưng bày triển lãm. Ý thức về
cái đẹp trong anh đã rõ ràng, anh luôn bảo vệ quan điểm lập trường của mình
về tranh khỏa thân. Đó không phải là những tấm ảnh dung tục mà là những
tấm ảnh rất giàu nghệ thuật. Nhưng rồi một sự kiện xảy đến khiến anh phải
suy nghĩ về quan niệm của mình, anh cảm thấy quan niệm trong sáng về ảnh
nude của mình bị lung lay khi gặp Hương, em gái của Hiền. Cô bé là người
mẫu anh phải mướn bất đắc dĩ vì Hiền thiếu nợ không trả tiền được sẽ bị đánh
nên đã đến xin làm người mẫu để lấy tiền công hai trăm năm mươi ngàn trả
nợ. Anh họa sĩ đã bị Hương chinh phục thực sự, anh có những suy nghĩ khác
ngoài nghệ thuật khi vẽ Hương: “Tôi xiết bao bàng hoàng. Cả góc phòng
ngổn ngang luộm thuộm bỗng sáng bừng trước vẻ đẹp lộng lẫy tinh khiết của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn49
một thân thể thiếu nữ. Tôi không thể cầm lòng để không thể hình dung một
43
bức tranh khỏa thân đúng nghĩa trước mặt tôi…” [41, tr 91]. Người họa sĩ ấy
đã “động lòng” đã có những suy nghĩ phi nghệ thuật như khi anh coi thường
những con người dùng con mắt háu đói, phàm trần để chiêm ngưỡng tác phẩm
nghệ thuật của anh: “Trong đám người kia tôi nhận ra không ít những đôi mắt
phàm phu tục tử. Các vị khách háo ngọt lục lọi những phần thân thể đàn bà
tôi cố tình giấu đi. Hệt những anh hàng thịt soi mói những con lợn sắp pha”
[41, tr 85]. Nhưng rồi trong anh đấu tranh để bảo vệ quan niệm về cái đẹp của
mình, anh quyết định giữ lại bức tranh vẽ Hương để như một niềm tôn kính
cái đẹp của mình dù ai trả bất cứ giá nào anh cũng không bán. Như một minh
chứng cho tấm lòng của anh dành cho nghệ thuật, một sự cống hiến hết mình
và tận tâm.
Quan niệm sáng tạo nghệ thuật còn thể hiện trong tác phẩm Người
khách đêm giao thừa [42, tr 42]. Ông chủ nhà in chuẩn bị ra về thì có một vị
khách đến nói chuyện với ông về những bản thảo ông vừa biên soạn chuẩn bị
cho in. Và quan trọng là ba trang cuối cùng đầy tâm huyết của ông nhà văn
ấy, ông đủ biết mỗi dòng là “mỗi giọt máu” nhà văn tặng lại nhân gian, nhưng
ông đã không thể cho in mà cắt bỏ đi bởi giọng điệu, lời lẽ trong tác phẩm quá
gay gắt, “chúng như những quả bom”, đã “phạm thượng” vì dám nói “huỵnh
toẹt những điều húy kị” [42]. Câu chuyện thực ra là sự đối thoại ngầm trong
tưởng tưởng của nhân vật ông tổng biên tập với ngón tay út của mình về tình
đời và về nghề viết văn. Trước thời khắc đêm giao thừa ông như đối thoại với
chính mình để tìm những hoài bão, lý tưởng đã mất đi trong ông khi ông
không còn giữ đủ lòng tin, lòng can đảm để bảo vệ những nỗi niềm, tâm tư
của nhà văn qua trang viết của họ. Ông không có can đảm và dũng khí để lắng
nghe họ nói lên những sự thực ở đời, bởi cái lối đi ông đã chọn là “một nhà
cầm bút hèn nhát”. Cứ chuyện gì ảnh hưởng không tốt đến xưởng in là ông có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn50
thể sẵn sàng cắt bỏ để tránh đụng chuyện không hay với người khác, lâu dần ở
44
ông đã mất đi bản sắc của một người viết văn, một người phản chiếu cuộc
sống đúng với những cung bậc thăng trầm của nó – “một thư ký của thời đại”.
Ông thấy mình thấy tủi hổ, hèn nhát, cay đắng biết bao?
Văn của Đoàn Lê rõ ràng đâu phải thứ văn giải trí để độc giả đọc xong
trôi qua luôn. Dường như nỗi trăn trở cuộc đời luôn thường trực trong chị? Sự
lo lắng trước tình trạng con người để mất đi gương mặt thật của mình đã được
nhà văn khéo léo lồng ghép vào lời đối thoại của đôi nam nữ trong “Cổ tích
ma-nơ canh”, chị đối thoại với chúng ta về thực trạng tha hóa của con người:
“Khi nấp dưới khuôn mặt hờ hững của cô manơcanh, nàng nhìn người
qua lại tấp nập và phát hiện bộ mặt con người quả thực dửng dưng đáng sợ.
Ta không hiểu họ nghĩ gì, toan tính điều gì trong vẻ lạnh lùng ấy.
- Anh à, em thấy con người cũng phần nào giống manơcanh đấy chứ.
- Đúng thế. Như anh và em đứng đây, có ai nhìn thấy bộ mặt thật của
ta đâu. Và em thấy đấy, con người vốn dĩ thích dấu mặt em à.
- Anh bảo sao?
- Có những con người thích dấu mặt như mấy ông thầy dùi, lại có
những ông dấu mặt theo dõi hành vi những ông thầy dùi ấy, lại có
những ông dấu mặt mưu toan hất thủ trưởng, thủ phó cơ quan, lại có
những anh tình nhân dấu mặt diệt tình địch…” [43, tr 9].
Đoàn Lê đưa ra đối thoại không chỉ để phơi bày thực trạng mà còn là
một sự cố gắng lý giải mối quan hệ nhân quả của sự tha hóa ấy.
Những truyện đối thoại ngầm về quan niệm sáng tạo nghệ thuật này là
những tâm sự chân thành của Đoàn Lê đến với độc giả. Qua đó nhà văn bộc lộ
quan điểm nghệ thuật của bản thân và khuynh hướng nghệ thuật của chị.
Đoàn Lê thể hiện quan niệm tôn trọng cái đẹp, hết mình vì cái đẹp và sẵn sàng
can đảm chấp nhận mọi khó khăn thử thách của cuộc đời để bảo vệ cái đẹp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn51
đến cùng. Chị tin rằng cho dù trải qua khó khăn đến đâu thì những vẻ đẹp
45
nghệ thuật thực sự sẽ tồn tại vĩnh hằng. Chị cũng tỏ rõ quan niệm tin tưởng
tuyệt đối vào nhân phẩm cao đẹp của người nghệ sĩ chân chính.
Đoàn Lê còn thể hiện ý thức đối thoại ngầm với những quan niệm sống
của con người hiện nay. Cuộc sống muôn màu, muôn vẻ với rất nhiều điều
xảy đến khiến ta không thể lường trước được, nhưng thật ra mỗi chúng ta vẫn
đang có sự lựa chọn cách sống cho riêng mình trước mỗi hoàn cảnh. Đoàn Lê
quan tâm nhiều đến những nghịch cảnh trong tình yêu. Những người yêu nhau
bị những quan niệm đạo đức xã hội lạc hậu trói buộc. Những câu chuyện
mang màu sắc ấy đó là: Tình muộn, Oan hồn ngõ đá dốc, Chuyện lãng mạn
cuối cùng… Họ đều là chàng trai, cô gái, người đàn ông, người phụ nữ yêu
nhau tha thiết nhưng bị nhiều quan niệm xã hội ngăn cản. Họ là những người
như: Tú và Thơ; Nhà văn và cô sinh viên đánh máy bản thảo; là người đàn
ông hai mươi tám và người phụ nữ bốn mươi chín tuổi đã có quảng thời gian
trẻ sống bên nhau,… Họ yêu nhau nhưng không thể đến với nhau bởi rất
nhiều lí do như: ám ảnh cuộc đời của người mẹ bị bố mình vứt bỏ do lớn hơn
hai tuổi nên Thơ không đến với Tú, không chấp nhận anh mãi đến khi anh ra
đi cũng không hề hay biết; Là sự ngăn cách về tuổi tác, sức khỏe như các
nhân vật trong truyện ngắn Tình muộn… Rất nhiều lí do cấm cản để không
cho họ đến với nhau. Những quan niệm sống ấy là những mảng đối thoại
ngầm trong suy nghĩ của rất nhiều người. Họ muốn được đến với tình yêu của
mình nhưng sợ số phận bất hạnh sẽ vây bám mãi đời họ ( Oan hồn ngõ đá
dốc), sợ người đời cười chê (Tình muộn, Cụ ngoại và tôi, Mỹ nhân mèo,
Chuyện lãng mạn cuối cùng,…). Vậy là họ từ chối hạnh phúc, do dự trước
hạnh phúc của mình và đánh mất đi hạnh phúc đã trong tầm tay. Trong truyện
ngắn Oan hồn ngõ đá dốc, Thơ và Tú cùng lớn lên ở xóm biển nghèo. Thơ
sống với bà ngoại, còn Tú sống cùng người cha tâm thần. Từ nhỏ đã thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn52
nhau, chơi với nhau rất mực yêu thương, chân thành. Lớn lên vì sự chọc ghẹo
46
của bạn bè mà không còn thân thiết như trước nữa, nhưng tình cảm mà Tú
dành cho Thơ thì không hề thay đổi. Anh rất muốn cưới Thơ, nhưng cô gái lại
sợ cho cuộc tình của mình, lo cho hạnh phúc của người mình yêu: “Em nhờ
anh nói hộ với Tú, em không thể chấp nhận. Em rất biết ơn Tú nhưng sống
với nhau phải nghĩ chuyện lâu dài. Em hơn tuổi Tú cơ mà... Mẹ em cũng vì
hơn tuổi bố em mà bị ông bỏ rơi sau khi sinh em. Do đau khổ quá, bà bỏ đi
biệt tăm bao nhiêu năm. Làng nước không ai biết cho, cứ trách mẹ em vô tình.
Tới lúc chết, mẹ em mới gửi thư về xin bà ngoại tha tội. Không đời nào em
lặp lại nỗi đau khổ của mẹ. Giờ em lại trót dở dang, Tú càng không nên theo
đuổi nữa. Như vậy cả hai đứa mới đỡ khổ. Cứ để em chống chọi một mình, trả
giá cho lầm lỗi của em. Em chịu được hết. Thực lòng bây giờ em chỉ mong Tú
có một hạnh phúc trọn vẹn, xứng đáng. Đời Tú quá khổ rồi anh ạ!” [ 50, tr
120]. Cô đánh mất hạnh phúc của mình khi kịp nhận ra nó, bởi Tú đi biển gặp
bão đã không thể trở về với cô. Câu chuyện kết thúc bi thảm với hai phận
người long đong, một người chết, một người điên loạn cả đời.
2.2. Hình tượng xóm Chùa và các vấn đề đạo đức – xã hội đương đại
2.2.1. Tác động của nền kinh tế thị trường và sự băng hoại các giá trị
đạo đức
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế tự do phát triển với định
hướng phát triển của nhà nước. Nền kinh tế ấy giúp con người tự do mua bán
trao đổi với nhau những hàng hóa chỉ cần luôn tuân theo những gì pháp luật
quy định. Nhưng khi đồng tiền ngự trị có cầu ắt có cung, mọi sở thích, ham
muốn của con người đều có thể đáp ứng nếu có tiền. Và đồng tiền dần đã làm
băng hoại nhiều con người, nhiều thành phần trong xã hội. Những người ham
tiền sẵn sàng khiến nhân phẩm, nhân cách của mình biến chất. Đồng tiền
khiến nhiều gia đình tan nát, tha hóa. Đoàn Lê đã phản chiếu những bức tranh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn53
xã hội sinh động về nền kinh tế thị trường và sự đi xuống của những giá trị
47
đạo đức, văn hóa xã hội qua các truyện ngắn: Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm
Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, A Tuorism xóm Chùa, Hợp đồng đã thanh lý,… Ở
đó những con người như Lão Bản, Bà Duệ, Cường - Hưởng, Phó giám đốc
Hoàng Quốc Thích,… vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của chính
mình. Họ coi thường giá trị bản thân, coi mình như một món hàng để trao đổi
buôn bán trong Trinh tiết xóm Chùa. Cô Khờ ngày nào thất tình giờ đã lấy tây
để đổi đời. Cô giàu có và về lần này để tuyển chọn các cô gái trong làng để
làm mai đi lấy chồng nước ngoài. Cô đang được đổi đời: “Khờ lấy tên họ Tàu,
gọi là cô Lầy Lầy. Từ dạo bị người ta dụ dỗ đem bán tận Hồng Kông, chốn
lầu xanh nó kiếm được anh Từ Hải lấy làm chồng, ai cũng mừng cho phúc
phận nhà nó. Mừng hơn nữa nó biết mang cái thân xác tìm về quê quán, lại
mang kèm theo hàng đống tiền, vàng, của nả... Năm ngoái nó cho mẹ tiền xây
nhà ba tầng, xây lại mộ cụ mõ, xây mộ ông đánh giậm, nghênh ngang to bằng
hai nhà táng ở giữa nghĩa địa xóm Chùa, rất khiêu khích. Đành rằng từ thời
mở cửa, xóm Chùa ông có thừa hơi hướng văn minh hiện đại, những nhà cao
tầng mọc như nấm rơm, video mở cả hăm bốn tiếng, nhưng ngôi nhà ba tầng
sang trọng hơn cả khách sạn ba sao ngoài tỉnh cùng hai ngôi mộ nói trên vẫn
khiến cả làng lác mắt” [41, tr 133]. Chính nhờ những thành tựu cô có được
khi lấy chồng ngoại mà cô dễ dàng làm bà mai dắt mối. Cô không hề dấu
diếm ý định của mình mà còn họp bà con họ hàng công khai để tìm mối làm
ăn chân chính: “Cháu về lần này cũng muốn nhặt vài chị em gái, đưa sang
bên ấy cho đông vây cánh làm ăn. Cứ có khả năng xuất được cháu sẽ giúp.
Các bà phải xác định cho con cháu đi cứu gia đình thoát nghèo, thoát khổ.
Quanh quẩn xóm Chùa ông đây, dù tài, dù sắc đến mấy cũng chả có cơ hội
đổi đời. Làm vợ mấy anh nhọ đít, hai tay vày lỗ miệng, phí!” [41, tr 137], và
cô không ngần ngại về việc mình làm “Buồn cười chưa? Cháu làm gì phạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn54
pháp đâu. Là cháu thương họ hàng loay hoay nghèo túng, cháu giúp, bận đến
48
ai? Ôi dào, khối người lạy cháu chả được”. Khờ cho rằng mình làm việc
chính đáng. Làm phúc cho chị em trong dòng họ. Nhưng mai mối lấy chồng
ngoại chẳng khác gì bán một món đồ cho người ta, đưa hình cho người ta
xem, nếu đồng ý sẽ xem hàng, qua vòng đó rồi lo thủ tục và xuất giá về nhà
chồng một cách chóng vánh. Người chồng của Lầy Lầy là một bí ẩn với mọi
người. Ai cũng thấy sự giàu có của cô nhưng chẳng bao giờ người ta thấy cô
đi bên cạnh chồng mình, nói về chồng mình… Phải chăng ẩn sau đó là những
chua chát của cảnh lấy chồng ngoại. Chua chát vì một cô gái chỉ ngoài hai
mươi tuổi lấy người chồng trên bảy mươi gần đất xa trời. Chua chát vì lấy
phải những người chông nghèo khó, thất học vũ phu bị đánh đập hành hạ tàn
nhẫn…Thế nhưng cái viễn cảnh đổi đời vẫn che mờ lí trí của họ, lấy chồng
ngoại để đổi đời, để thoát nghèo hay gánh thêm một nợ đời khác, gánh thêm
bất hạnh vào cuộc đời mình. Đó là những điều đáng để xã hội quan tâm.
Nền kinh tế thị trường khiến cho con người luôn phải tìm cách chống
chọi lại sự cám dỗ của đồng tiền, chống chọi lại những suy đồi về văn hóa đạo
đức. Thế nhưng vẫn không thể thoát được bởi lòng tham lam vô hạn của
chính mình. Họ tham tiền, tham danh nên bất chấp mọi thủ đoạn. Ngay cả
việc hiếu thảo với cha mẹ cũng mang tính cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh để
được tiếng hiếu thảo như trong tác phẩm Con Mốc của Đoàn Lê. Vì việc bán
đất của gia đình để làm sân gôn theo dự án của xã, họ bới móc nhau việc hiếu
thảo với cụ Cậy - mẹ của Giáo và Nhị nên hai anh em tranh giành nhau nuôi
mẹ. Ông giáo Nhất tìm mọi cách đón mẹ về nuôi để không phải bị ông Nhị
chủ tịch xóm Chùa cho là không có quyền lên tiếng việc bán đất trong nhà bởi
ông giáo Nhất không nuôi mẹ già, không hiếu thảo với mẹ. Thế là ông Giáo
dùng mọi biện pháp để đón mẹ về. Việc đón mẹ diễn ra vào một ngày ông Nhị
đi họp cả gia đình ông Giáo sang đón mẹ một cách rầm rộ, họ tranh giành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn55
nhau, chửi mắng nhau chỉ cốt giành cho được mẹ già: “Thím cho tôi đón bà
49
về. Chú thím phụng dưỡng bà ngần ấy năm đủ hiếu thảo lắm rồi. Nhưng dám
kể công nuôi mẹ thì tôi sổ toẹt tất. No đói bà về bên tôi cho đúng luật đời…
Chúng bay đâu, vào đón bà, quần áo đồ dùng, lấy sau!” [45]. Đón mẹ như thể
cướp một món đồ từ tay người khác: “Hai đứa thanh niên lực lưỡng tức thì
đẩy băng bà thím dâu ra, cõng luôn cụ Cậy đang run như giẽ lên lưng, huỳnh
huỵch chạy”, người chạy kẻ đuổi theo: “Khi đám nhà ông giáo Nhất cõng
chiến lợi phẩm về gần tới ngõ thì chiến binh nhà ông chủ tịch Nhì truy đuổi
kịp. Ông chủ tịch cùng ba đứa con cũng ngoài hai mươi tuổi, lực lưỡng, xông
vào giằng lấy bà cụ Cậy trong vòng tay đối phương. Đó chính là thời điểm
con Mốc bị đạp bắn vào bờ rào”. Họ tranh nhau hành hạ “cái thân thể một
nhúm thịt xương rệu rão” đến nổi bà cụ phải gào lên “Ối làng nước ơi, chúng
nó đang xé xác tôi ra đây làng nước ơi. Gẫy tay tôi rồi!”. Nhưng họ đâu hiếu
thảo với người mẹ đã tám mươi sáu tuổi bệnh tật đau yếu ấy mà chỉ để cốt lấy
danh lấy tiếng. Sau khi giành được người mẹ về nhà ông giáo Nhất lại bận lo
toan việc của mình: “Cụ nằm nhà nghỉ ngơi. Con đi họp một chốc. Cái Thảo,
thằng Tuấn chúng nó học ở nhà ngang cả đấy. Cụ cần gì cứ gọi chúng nó
nhá”. Và rồi: “Ông đi họp tổ hưu, bà đi chợ kẹo, hai đứa con đều đến xí
nghiệp gò đồng, con dâu đi dạy học, tất nhiên ông phải khóa cổng cẩn thận
đề phòng đối thủ tập kích”. Người mẹ ấy mệt mỏi đau khổ bởi sự hiếu thảo
của các con đến nỗi chẳng biết bày tỏ cùng ai, bà nói chuyện với con chó Mốc
của lão kép cải lương mà thôi: “bà cụ Cậy lần mò ra giếng. Bà vừa sụt sịt lau
nước mắt vừa múc gầu nước rửa mặt. Bà cụ sợ. Nhỡ đứa nào về bắt gặp bà
khóc chúng lại chả gắt toáng lên cho xem. Sao phải khóc? Hay bà sợ về đây
không được ăn sung mặc sướng bằng ở nhà nó? Về đây người ta để bà chết
đói chắc? Nó nuôi, nó kể công, thì nó coi bà là mẹ, báo hiếu bà đấy à? Đấm
thèm bước vào cái cổng nhà nó nữa. Bà trăm tuổi về già, chúng nó kéo đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn56
người ta chả lót tay lá chuối dắt ra cho nhục chứ đùa! Vậy nên bà cụ biết
50
mình không có quyền khóc. Rồi um nhà lên, rồi thiên hạ chửi cho bọn vô
phúc, rồi nhỡ ảnh hưởng đến cái chức chủ tịch của thằng Nhì, rồi vợ nó róc
rỉa bà hại con hại cháu... Nhưng càng nén lòng bao nhiêu bà cụ càng đau
đớn, hai hàng nước mắt càng lã chã bấy nhiêu. Sao mày lại nằm khổ sở ở đây
vậy? Dễ mày nghĩ tao sướng hơn mày đấy. Mày là con chó già, sống chết
không bận đến ai, chứ như tao sống cũng khổ, già càng khổ, muốn chết không
xong, được như mày thì phúc đức quá”. Bà cụ già được con cháu hiếu thảo
hết mực ấy đã chết thực, bà chết rớt xuống giếng khi đi ra đó uống nước. Bà
chết để không phải chứng kiến cảnh mình bị hành hạ bởi cuộc chiến hiếu thảo
của con cháu.
Xóm Chùa không còn yên ả khi nền kinh tế thị trường chiếm lĩnh, đồng
tiền lên ngôi. Ngay cả khi đã khuất mặt về với đất mà họ còn ganh tỵ nhau,
đấu đá lẫn nhau ngay ở cõi âm. Các con ma trong câu chuyện Nghĩa địa xóm
Chùa, cũng rất bận rộn để nghênh tiếp một đại tá về hưu giàu có quyền lực,
ban quản trị tôn kính, chu đáo ân cần mời mọc đại tá chiếu cố đến xóm nghèo.
Lời nói của họ ban đầu thật lịch sự nhã nhặn, nể trọng ông đại tá. Thế nhưng
khi biết đó chỉ là sự nhầm lẫn thì thái độ của họ trái hẳn với lúc trước, họ hạch
sách, quát nạt con ma mới thợ điện bậc ba vì nghèo quá không thể chôn ở Mai
Dịch nên phải nhờ quen biết họ hàng nhà bà Hai Đá xóm Chùa để được chôn
ở đó. Thái độ của họ đối với hồn ma ấy chính là cư xử của họ đối với chức tước,
địa vị, sang hèn, giàu nghèo… Họ chỉ coi trọng những ai có địa vị, giàu sang mà
thôi, còn người nghèo phải nể trọng, phải sợ hãi bọn quan cai trị của vùng.
Giá trị đạo đức cũng bị xói mòn theo những ma lực, nhờ đồng tiền mà
có được như sự quyến rũ từ sắc đẹp của người phụ nữ. Nhiều người không
biết tôn trọng cái đẹp coi mọi thứ đều có thể quy đổi và mua bằng hiện vật.
“Hai mươi mùa xuân” của nhà họa sĩ vẽ tranh khỏa thân phụ nữ thu hút một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn57
bộ phận không nhỏ những kẻ ham muốn tầm thường, “mặc cả ráo riết” [41,
51
tr.83]. Trong truyện ngắn Người đẹp xóm Chùa, Đoàn Lê đã cho thấy ngay cả
việc thưởng thức nghệ thuật họ cũng tầm thường hóa những giá trị thẩm mĩ
thiêng liêng cao cả, xem chúng như những món hàng bình thường, không hơn
không kém.
Tác hại của nền kinh tế thị trường sâu sắc nhất đến cuộc sống của con
người qua lối sống buông thả của ngay cả những người vì muốn thỏa mãn mọi
ham muốn trần tục của mình, coi cuộc đời như một sân khấu để diễn xiếc theo
những điều họ muốn. Trong truyện ngắn Ông nọ bà kia của Đoàn Lê việc
ngoại tình, quan hệ ngoài hôn nhân diễn ra với tốc độ chóng mặt: “Phải, như
bây giờ cái Cục quan trọng này được gọi mỉa mai chế giễu là “Cục – ông –
nọ – bà – kia”. Phòng Tổ chức cán bộ thỉnh thoảng lại nhận được một tin đồn
thất thiệt: văn phòng đại diện tại nước X, nước Y đang xảy ra những cuộc
tình chiến. Tôi rất thắc mắc. Phần lớn cán bộ đi xa đều được tiêu chuẩn mang
theo vợ con, vậy mà các cuộc tình du kích không hề giảm”. Nhất là việc đó
xảy ra trong một Cục văn hóa của nhà nước. Các cán bộ ấy ngoại tình một
cách công khai và dùng thế lực chính trị xã hội để che đậy tiếng xấu, che đậy
bản chất thối nát của chính mình: “Người ta bịt chặt miệng anh xế lại, bảo
rằng phải giữ quốc thể, không được làm ầm ĩ. Nên nhớ chúng ta đang sống
trên đất nước người, địch luôn luôn nhòm ngó bới lông tìm vết, điều tối quan
trọng là không được vạch áo cho thiên hạ xem lưng, mọi chuyện ở đây đều
xếp vào loại bí mật quốc gia cả đấy! Anh có muốn người ta tống khứ vợ
chồng con cái nhà anh về nước ngay lập tức không? Anh xế đành lấy hết tinh
thần để nuốt nhục.
Bà vợ sếp ngất lên ngất xuống, cũng phải cắn răng mà chịu. Phu nhân
có thương chúng em thì giữ yên lặng cho cơ quan nhờ. Đừng để người ta sờ
gáy anh nhà, rồi cái sảy nảy cái ung, chuyện nọ phát sinh chuyện kia. Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn58
phòng đại diện nào chả có những vấn đề tế nhị, không được lộ sáng. Ở trong
52
nước thiên hạ đang ghen ăn tức ở, thêm chuyện này càng rách việc. Phu nhân
bình tĩnh đi, đừng xúc động quá. Về lâu dài “của nhà” vẫn đấy. Chỉ là thư
giãn tý chút. Hết ba năm, ông nọ về nhà ông nọ, bà kia về nhà bà kia, không
ai lăn tăn nữa. Thứ tình – yêu – nhiệm – kỳ ở Cục mình là chuyện thường
thôi, xảy ra như cơm bữa. Chẳng qua phu nhân bị bất ngờ, tất nhiên phải
choáng. Chúng em vô cùng thông cảm. Nhưng xin nể mặt chúng em!”. Họ tìm
mọi cách để thu xếp êm xuôi mọi chuyện để giữ gìn danh tiếng cho cơ quan.
Họ cũng tìm cách sắp xếp lại cuộc đời của mình để che đậy những ngày tháng
sống buông thả, ăn chơi của bản thân. Thông qua việc tìm việc cho nhân vật
tôi trong truyện, ông Nhã đã toan tính rất nhiều cho con gái tên là Hoa của
ông, kế hoạch của họ không thành công bởi người bố đã mất của anh qua
thương con đến đỗi phải báo mộng cho anh biết để tránh tai kiếp: “Tội nghiệp
con giai của bố. Con đã lọt vào kế hoạch của bố con ông Nhã mất rồi. Con
Hoa ở bên kia sống buông thả lắm, nghe đâu trước đây trót dính chuyện với
thủ trưởng của nó, ai cũng biết, nên giờ khó lấy chồng. Ông Nhã đang cần
tìm tấm bình phong che chắn cho nó. Hãy nhớ lời bố dặn đây: lấy ai thì lấy,
chớ dính vào con gái trong Cục... Rồi tan nát cả một cuộc đời con ạ!”. Kinh
tế thị trường thực sự đã làm biến chất những phẩm hạnh cao quý tốt đẹp của
rất nhiều người bởi họ không vượt qua được sự cám dỗ của nó.
Nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của nước
ta nhưng cũng đang thử thách bản lĩnh làm chủ, nhân cách của con người
trước những ma lực cám dỗ của nó.
2.2.2. Chân dung nhân cách méo mó, bi hài
Với những chân dung nhân cách méo mó, bi hài khiến truyện ngắn
Đoàn Lê mang những nét riêng. Đó là những con người có vẻ ngoài và nội
tâm trái ngược nhau, họ có vẻ ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong lại chứa đầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn59
những suy nghĩ xấu xa. Như ông Hưởng trong truyện ngắn A Tourism xóm
53
Chùa, bề ngoài ông tỏ ra mình là một người đạo đức phẩm hạnh nhưng khi
bị thử thách trước vẻ đẹp của cô tiếp viên Lan ông đã không thắng nổi dục
vọng và sa ngã. Còn con trai ông tên Cường là một kẻ rất mưu mô xảo
quyệt. Hắn lấy danh nghĩa làm cho quê hương phát triển thành một địa điểm
du lịch với “Động người xưa”, hắn đã làm nhiều việc xấu xa trên chính
mảnh đất quê nhà của mình. Hắn phát triển đội ngũ tiếp viên trẻ đẹp mà hắn
săn lùng khắp nơi để mua vui cho khách nước ngoài đến thăm quan. Hắn cấu
kết với quan chức, bắt tay với hãng du lịch,… tất cả đều nhằm trục lợi riêng
cho bản thân mình.
Chân dung méo mó biến dạng ấy còn là những kẻ đểu giả mang danh
nghĩa tốt đẹp để làm những việc xấu xa như cô Khờ sau khi lấy chồng tây.
Khi đã là cô Lầy Lầy, cô Khờ lại tìm cách dụ dỗ người khác để cô mai mối gả
lấy chồng nước ngoài như bản thân cô chỉ ngoài hai mươi tuổi mà lấy ông
chồng hơn bảy mươi. Cô sống sung sướng giàu có nhưng có thật đó là những
gì tốt đẹp của đời cô. Thế mà cô lại về quê khoe khoang sự giàu có sung
sướng của mình hòng gạt gẫm những cô gái nhẹ dạ cả tin lấy chồng ngoại
(Trinh tiết xóm Chùa).
Những méo mó biến dạng nhân cách ấy đôi khi xuất hiện trong những
lúc con người yếu đuối không thể vượt qua những bản năng ham muốn của
mình trong các tác phẩm như: Chuyện lãng mạn cuối cùng, Ngày cuối, Mỹ
nhân mèo, Quai xăm, Oan hồn ngõ đá dốc, Trinh tiết xóm Chùa,…. Đôi lúc
họ không thể thắng nổi ham muốn trần tục của bản thân, không còn giữ mình
là một nghệ sĩ chân chính yêu cái đẹp: Trinh tiết xóm Chùa, Mỹ nhân mèo,
Chuyện lãng mạn cuối cùng,… Họ nhìn nhận cái đẹp bằng những cặp mắt
tầm thường nhất. Người họa sĩ vẽ khỏa thân trong Trinh tiết xóm Chùa đã có
cái nhìn vẩn đục với cô người mẫu Hương: “Tôi xiết bao bàng hoàng. Cả góc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn60
phòng ngổn ngang luộm thuộm bỗng sáng bừng trước vẻ đẹp lộng lẫy tinh
54
khiết của một thân thể thiếu nữ. Tôi không thể cầm lòng để không thể hình
dung một bức tranh khỏa thân đúng như trước mắt tôi kia” [ 41, tr 91].
Nhưng rồi vượt qua những lúc yếu đuối ấy anh vẫn làm một người nghệ sĩ
chân chính: “Xin trời tha thứ cái yếu lòng thằng tôi. Chút áy náy cuối cùng
lẫn lòng trắc ẩn ấy đã nhường chỗ cho con ngựa nghệ thuật nó đột ngột lồng
lộn. Tôi bỗng náo nức, con tim nhảy thì thụp dưới áo, luýnh quýnh vơ đại cây
bút nào trong tầm tay tôi.” [41, tr 91]. Thế nhưng không phải lúc nào người
nghệ sĩ cũng chiến thắng chính bản thân mình, nhân cách của họ cũng đôi lúc
bị chao đảo nghiêng ngả như lời tự thú của nhà văn trong Chuyện lãng mạn
cuối cùng đã bị ham muốn xác thịt đánh gục: “Hắn khỏa lấp chỗ trống rỗng
trong tâm hồn hắn bằng những đôi môi đàn bà ngọt ngào. Ngày lại ngày hàng
rổ ngực, rổ mông đổ ập lên người hắn tối tăm mặt mũi. Hắn chơi bời điên
cuồng. Chơi như cả quãng thời gian chung sống với vợ đã khiến hắn phải
chết nhịn chết thèm đến phát rồ. Chỉ có dịp vợ chết hắn mới được biết thế nào
là đàn bà. Thỏa thuê, phè phỡn, hết bồ non đến gái bán bia ôm, cô bánh mì
đến chị bán sách cũ… Không có người đàn bà nào hắn không ngấu nghiến
ngon lành khi tình cờ quơ được…” [50]. Đó là những lúc ông nhà văn trong
tác phẩm yếu lòng vì vợ mất, vì tình cảm ông dành cho Thuận quá xa xôi, mơ
hồ. Sự đánh mất bản thân mình khiến cho nhiều nghệ sĩ rơi vào thế giới riêng
của chính mình: “Bức tranh siêu thực ở chỗ con mèo có bộ ngực thiếu nữ
căng tràn sức sống, khêu gợi nhục cảm, ẩn hiện bên màu lông trắng. Tựa hồ
có mỹ nhân nào trêu ngươi khoác bộ áo lông mèo, chỉ hé lộ đôi chút cho
người ta tưởng tượng thèm muốn. Hắn đặt tên bức tranh là Mỹ-nhân-mèo”.
Đó là tác phẩm kết tinh từ một tình cảm sâu thẳm anh dành cho một người
con gái láng giềng cận kề. Tình cảm kìm nén khiến nhiều lúc anh rơi vào
chính ảo mộng của mình: “Hắn không dám hé răng kể rằng đêm đêm hắn vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn61
thường đón khi thì con mèo Xiêm biến thành cô gái, khi biến thành Thục
55
Hiền, họ thay nhau lên giường cho hắn ôm ấp. Đôi khi hắn nghe thấy chính
tiếng mình gào trong mơ như một con mèo đực gào gọi bạn tình” .
Con người trong hành trình làm người của mình đã bị cuộc đời thử
thách biết bao lần để hình thành nên nhân cách của bản thân mình. Có đôi lúc
con người không nhận ra thử thách ấy bởi cuộc đời có quá nhiều mối bận tâm.
Trong truyện ngắn Quai xăm, nhân vật Song đã trải qua cuộc thử thách nhân
cách mà cái giá phải trả là chính mạng sống của mình. Bởi sự ghen ghét, đố
kỵ với Đối người bạn thân thiết từ thuở ấu thơ của mình Song đã nhiều lần có
suy nghĩ hãm hại người bạn của mình. Song luôn mặc cảm về bản thân: “Từ
tấm bé tôi đã khổ sở vì mình thua kém Đối mọi mặt, dù chúng tôi bằng tuổi
nhau, nhà cùng ở ngõ đá dốc. Nó lực lưỡng, hiền lành, khôi ngô; tôi bé người
hơn, lại đen đủi, tuy có phần láu vặt hơn. Và suốt những năm học cấp một, tôi
như bị nó đè bẹp dí”. Chính vì vậy mà Song luôn có sự đố kỵ với bạn của
mình, lúc nhỏ để trả thù bạn đôi lúc Song chỉ bài sai cho bạn, bày trò để bạn
mắc mưu… Nhưng Song cũng vẫn hiểu rằng Đối rất tốt với mình, sẵn sàng
bênh vực mình khi bị người khác ức hiếp. Mối quan hệ giữa Song và Đối
mới đầu chỉ là sự ganh ghét trẻ con vì không bằng bè bằng bạn nhưng khi cô
bạn gái Dâng xuất hiện thì mối quan hệ ấy ngày càng phức tạp hơn. Song rất
thích và quý mến Dâng. Anh làm quen và biết Dâng trước, anh quý trọng cô
bé ấy hết mực, nâng niu như vật báu của mình: “Ngồi dưới chân đảo ăn món
ngao nướng, tôi lựa lúc vui nhất đánh bạo đọc cho Dâng nghe bài thơ tình tôi
tìm được trong một tập thơ, sau mấy đêm thức trắng... Tình anh như sóng
triều dâng. Những e ướt bóng một vầng trăng non...”. Song yêu Dâng nhưng
phải ghìm nén tình cảm trước cô gái: “Đôi mắt đen ướt của Dâng nhìn tôi
đăm đắm ẩn giấu một điều gì khiến tôi như ngộp thở. Tôi vội đứng ngay dậy,
bỏ chạy một lèo lên chân ngọn hải đăng để cho lòng yên tĩnh lại... Dù sao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn62
cũng phải kìm nén chờ Dâng học hết lớp cuối cấp đã. Tôi không cho phép
56
mình làm ảnh hưởng đến chuyện học tập thi cử của em. Một năm nữa chứ
mấy.” Thế nhưng Song không ngờ khi tình cảm anh không bộc lộ ra thẳng
thắn với Dâng thì cô đã nhận tình cảm của Đối và cả hai đã âm thầm quen
nhau đến khi cô tốt nghiệp phổ thông đi làm quản lý nội trú ở một trường học
thì công khai. Song còn loay hoay chưa biết tính toán ra sao thì hai người bạn
ấy lấy nhau. Quai xăm là thử thách nhân cách của Song một cách nghiệt ngã.
Đó là thử thách của tình yêu, tình bạn, tình động loại giữa biển khơi nghìn
trùng. Lúc này Song càng cảm thấy sự thua cuộc, thất bại của mình, thấy
mình như bị bạn phản bội và ý nghĩ trả thù bạn đến với anh một cách chóng
vánh khi cùng nhau làm việc: “Chúng tôi có nhiệm vụ buộc những cái khoẳm
bám chặt lại. Buộc xong dưới miệng đáy, chúng tôi trồi lên bên trên. Tôi nhìn
những bong bóng nước từ miệng Đối thở ra và chợt thấy mình tức ngực. Tôi
vội ngoi lên. Ô hay, sao bỗng dưng ngắn hơi thế? Đừng chú ý vào việc gì
khác, đến mức lơ đãng công việc như vậy. Tĩnh lại đi Song ơi! Bám vào mạn
thuyền tôi ngoái nhìn xuống mặt biển. Nước trong nên tôi có thể thấy lờ mờ
cái đầu tóc đen đen của Đối phía dưới sâu. Hắn đang còn loay hoay bên cọc
xăm. Lúc ấy... lúc ấy mà... Leo hẳn lên thuyền, tự nhiên mắt tôi lướt qua cái
đòn khiêng đặt bên mạn như ước lượng độ dài một cách vô ý thức... Rồi tôi
vội ngoảnh đi. Quái, bác Khảm đâu nhỉ? Liệu bác có để ý thấy tôi nhìn cái
đòn khiêng hay không? Cái đòn khiêng... Lúc sáng cùng Đối đưa giã xăm ra
thuyền, có lúc tôi thoáng hình dung cái đầu đòn vạt nhọn ở đoạn mấu tre già
cứng như sắt nguội này, nó mà dộng xuống đầu, cầm chắc đi đứt”. Song đã có
những ý định giết bạn vì những đau khổ mà bạn gây ra cho anh thế nhưng anh
nào hiểu bởi anh yêu người ta mà không nói ra, tình cảm cứ giấu trong lòng
thì ai có thể hiểu và tình yêu thì có những lí lẽ riêng mà không quy luật nào
trói buộc chỉ có tình bạn tình người chân chính cao quý mới khiến người ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn63
sống với nhau chan hòa. Song đã may mắn thức tỉnh không làm những điều
57
dại dột ấy với bạn, chưa xảy ra một sự đáng tiếc nào nhưng anh lại nhận được
một bài học làm người rất thích đáng. Song có ý nghĩ giết Đối nhưng chính
Đối lại là người cứu Song thoát chết: “Xuống dưới sâu, tôi mở mắt nhìn.
Đúng thế, những con tép óng ánh đang lao vun vút theo luồng nước chảy xiết.
Buộc khoẳm trở nên khó khăn hơn. Tay tôi phải bám cứng cái cọc, hai chân
quặp chặt. Quái lạ, bữa nay nước ào như lũ ngầm là thế nào? Chỉ sẩy tay một
chút, tôi sẽ bị cuốn phăng vào đáy xăm, chết trong đám lưới vây bọc tựa một
con moi bất hạnh. Cái chết ấy luôn rình rập tất cả dân quai xăm lớ ngớ. Phía
trên, Đối đang duỗi chân lặn sâu hơn. Những cái chân hắn săn vồng, gân
guốc như chân ếch. Và cả bộ đồ nghề của hắn ở dưới nước cũng thêm vẻ
hung dữ, bày ra như khiêu khích sát mặt tôi. Lúc đó trong tôi đột ngột trào
lên một khao khát cháy bỏng được túm lấy người Đối kéo ghì xuống, để cả
hai thằng cùng trôi tuột theo dòng lũ ngầm vào đáy. Dâng ơi, vầng trăng non
của tôi ơi...Răng tôi nghiến lại. Tôi điên khùng bám cọc xăm bằng một tay,
một tay nhanh thoắt quờ đôi chân đang đung đưa trước mặt, ghì chặt. Nó
không đề phòng nên tôi dễ dàng kéo nó tuột xuống. Phải, sẽ không ai biết
được vì sao Đối bị cuốn vào đáy xăm... Có thể sau đó tôi sẽ tháo một móc
khoẳm ra, người ta sẽ nghĩ móc khoẳm ấy theo sức nước bật văng vào mặt
Đối khiến nó rời tay, bị lũ ngầm cuốn trôi... Có thể nó đột ngột bị chuột rút...
Có thể nó đã uống hơi nhiều rượu và sức khỏe giảm sút sau tháng trăng
mật...Vào đúng giây phút ấy tôi chợt hiểu Dâng chỉ là cái cớ cuối cùng cho
tất cả những ấm ức thua thiệt, cho sự đau đớn ngấm ngầm của tôi với Đối ở
cuộc đời này trong suốt những năm tháng còn lại.
Thân hình Đối cong xuống. Nó bám cọc xăm để toài về phía tôi. Trong
bóng nước, hai khuôn mặt chúng tôi xáp gần nhau, tôi nhận ra đôi mắt ngây
ngô của Đối nhướn to đầy ngạc nhiên. Hình như nó muốn hỏi tôi đã xảy ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn64
điều gì? Tôi nhắm mắt lại không dám nhìn vào đôi mắt nó nữa. Phải, đúng
58
lúc này tôi chỉ cần giật một cái nhẹ là Đối rời tay ra... Nó không phòng bị gì
cả... Nào... Nhưng tôi không thể, tôi không thể... dù chỉ một động tác đơn
giản.Bỗng tôi thấy cánh tay chắc khỏe ấm áp của nó luồn qua nách mình, ghì
chặt lấy, cùng lúc đôi chân nó vùng khỏi vòng tay rời rã của tôi. Đó là lúc tôi
muốn buông xuôi tất cả. Tôi rời nốt bàn tay níu cọc xăm, mặc cho thằng Đối
dìu tôi ngoi lên. Thân hình nó áp chặt vào tôi mới ấm áp làm sao, sự ấm áp
thân yêu ruột rà của những sinh linh đang sống chết cùng nhau giữa muôn
trùng biển khơi... Đối ơi, giá mày buông tay để tao chìm nghỉm xuống đáy
biển còn hơn.” Song mới thấy xấu hổ biết bao về hành động của mình, anh
được người mình muốn giết cứu thoát chết trong gang tấc. Tâm hồn của Song
không phải bản chất độc ác, toan tính nhưng đôi lúc sự yếu đuối của bản thân
lại để cái ác thắng thế, ngự trị khiến anh mất nhân tính. Thật may mắn cho
Song khi có Đối một người bạn thật thà, chất phác luôn bên cạnh bảo vệ anh,
làm hết khả năng giúp đỡ anh.
Sự biến dạng méo mó nhân cách trong tác phẩm của Đoàn Lê có đầy đủ
những cung bậc của căn bệnh ấy. Có người mới mắc phải, có người nhận ra
và sửa đổi, thế nhưng cũng có người nhiễm căn bệnh đó rất nặng nó ăn sâu
vào cội rễ con người.
2.2.3. Thân phận người phụ nữ trong xã hội hiện đại
Người phụ nữ hiện đại có những vai trò quan trọng trong gia đình và xã
hội. Họ không chỉ là người phụ nữ quanh quẩn chỉ biết lo cơm nước, nhà cửa,
chăm lo cho gia đình, chồng con mà họ còn là những người thành đạt trong xã
hội, họ tự khẳng định bản thân mình cùng chồng con xây dựng và giữ gìn
hạnh phúc gia đình, cùng chồng vun vén cho mái ấm gia đình. Thế nhưng họ
lại là những người phụ nữ thiệt thòi trong xã hội hiện đại. Những nhân vật nữ
ấy đã bước vào thế giới truyện ngắn của Đoàn Lê.
Nhân vật nữ trong truyện ngắn Đoàn Lê cô đơn trong gia đình của mình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn65
như: Ngôi nhà gỗ [41]. Chị đã từng có một mái nhà thật hạnh phúc, một người
59
chồng yêu thương hết mực vì chị rất mong manh yếu đuối và có một nỗi sợ
hãi to lớn về con ếch. Thế nhưng rồi theo những chuyến công tác xa, hạnh
phúc của chị mong manh dần và đến một ngày anh về quát nạt chị vì tính sợ
ếch ấy, cũng từ đó anh không về nhà nữa, gia đình tan nát thực sự. Phải
chăng, do chị sợ ếch hay anh cố ý tìm một cái cớ để bỏ chị chạy theo tình
nhân, tìm một cái cớ để anh không phải thấy ăn năn có lỗi, cắn rứt lương tâm.
Bởi vì chị đã có những hạnh phúc rất ngọt ngào bên anh và con, hạnh phúc
nhỏ nhoi đáng trân trọng: “Anh nắm tay chị dắt đi như một đứa bé… tự dưng
chị bật cười, thích thú khám phá chất nông dân còn sót lại trong anh”. Khi
biết nỗi sợ của chị về những con ếch anh luôn bào chữa, bao dung cho chị:
“Trời sinh ra có những loài kị nhau”. Thế nhưng rồi những chuyến công tác
nghiên cứu Hán – Nôm dần đưa anh ra xa chị. Đến một ngày, anh trở về nhà
gọi cửa rất lâu nhưng chị không thể bước chân ra ngoài để mở cửa cho anh
bởi trên nền nhà có một con ếch. Chị sợ hãi co rúm trong màn. Anh đã thay
đổi từ trước và anh đã lấy cái cớ từ nỗi sợ hãi của chị mà rũ bỏ gia đình ra đi.
Họ là những người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng con, hết lòng vì
người mình yêu, mong muốn cho người mình yêu hạnh phúc. Người phụ nữ
bốn mươi chín tuổi đã từng chăm sóc anh chàng trai hai mươi tám – trong
truyện ngắn Tình muộn của Đoàn Lê, họ có một tình cảm rất mơ hồ, một tình
cảm mà hai người không dám xác định rõ với nhau. Chênh lệch về tuổi tác
nên cách xưng hô của họ cũng có sự khác biệt. Họ gọi nhau, xưng với nhau là
cô và em. Người phụ nữ ấy biết mình lớn tuổi hơn nên giữ khoảng cách với
người thanh niên, xem người thanh niên như một cậu em đúng nghĩa nhưng
thật ra tình cảm ấy trong họ đã được hình thành và nuôi dưỡng từ rất lâu. Tình
cảm của họ bền chặt với thời gian mặc cho cuộc đời gieo ra nhiều trắc trở,
bộn bề. Họ vẫn đến bên nhau: “Nàng sống với hắn trọn hai tháng trời tại ngôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn66
nhà nhỏ của mình. Nàng cảm giác bị cuốn đi trong cơn lốc xoáy dữ dội, mê
60
mụ, trong vòng tay cường tráng của gã đàn ông. Nàng nhìn thấy tình yêu
bừng sáng trong đôi mắt hắn đốt cháy những ý nghĩ chống đỡ cuối cùng ở
nàng”. Nhưng biết bao trăn trở suy tư, do dự bởi người phụ nữ ấy không thể
chối bỏ tất cả, không thể bất chấp sự thật chênh lệch về tuổi tác, về những trải
nghiệm của cuộc đời. Chị yêu nhưng vẫn tỉnh để nhận thấy mình không có
quyền và không được quyền phá hỏng cuộc đời người thanh niên ấy: “Em hãy
quên cô đi. Em phải lấy vợ, có con, có một gia đình hạnh phúc bình thường”.
Dù chính chị đau đớn về tình cảm của mình: “Đôi lúc nhìn hắn ngủ, thơ thới
bình lặng, nàng thấy tội nghiệp. Nàng khẽ lùa ngón tay vuốt mớ tóc mềm như
tơ của hắn, nhìn nét môi gọn hơi động nhẹ trong giấc ngủ, lòng nàng trào lên
một thứ tình mẫu tử dịu dàng tha thiết. Như thể hắn là một phần máu thịt của
nàng, như thể nàng đã xâm nhập ẩn náu vào trong tận cùng cái thân thể đàn
ông này”. Tình cảm của người phụ nữ ấy luôn bị trói buộc khiến chị đau khổ
không nguôi.
Người phụ nữ luôn chịu thiệt thòi trong tình yêu. Họ hy sinh cho người
mình yêu, để người ấy có thể chu toàn hạnh phúc gia đình, chỉ bản thân mình
đau khổ vất vả nuôi con. Người phụ nữ trong truyện ngắn Ngày cuối đã khóc
rất nhiều trong lá thư gửi người tình cũ mong sau này khi bà chết ông sẽ thăm
nom, chăm sóc ngôi mộ của con trai họ. Bà cũng đang mang bệnh trong người
nên phòng trước, lo lắng trước cho con cũng như nói hết những điều đau buồn
mà mình gánh chịu bấy lâu. Chị buồn bị người tình yêu cầu bỏ đứa con vì
hoàn cảnh gia đình không cho phép. Nhưng vì thương con chị cùng cha rời bỏ
quê nhà để sinh con, nuôi con. Thế nhưng rồi người cha cũng qua đời, hai mẹ
con nương nhau mà sống. Đứa con biết được ông đại tá trong tấm hình trên
báo là cha mình đến tìm và gặp ông trong cảnh giàu sang hạnh phúc bên vợ
con. Đứa con trai trở nên ngang bướng, bất chấp mẹ khuyên ngăn như muốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn67
tìm cách trả thù cha của nó. Nó trở nên một tay anh chị giang hồ rồi chết trong
61
một lần chém nhau. Nó không chịu được đả kích lớn từ số phận của mình và
tìm cách phản công lại bằng những suy nghĩ nông nổi bồng bột mà phải trả
giá quá đắt. Ngày cuối là những thời khắc lương tâm người cha, người chồng
không làm tròn trách nhiệm quay quắt đau đớn trước những điều sai trái, thiếu
sót của bản thân, nhưng dù ông có hối hận ăn năn như thế nào thì nỗi đau, nỗi
mất mát của người phụ nữ ấy chẳng thể nào bù đắp được.
Người phụ nữ luôn lo lắng cho hạnh phúc của con cái, xem đó như mục
đích cao nhất của cuộc đời mình. Họ luôn muốn làm mọi điều để bảo vệ con
mình, mang lại hạnh phúc cho con. Đoàn lê đã từng trải nghiệm những điều
ấy bằng cuộc đời của mình khi con chị nghiện ngập nên chị hiểu hơn ai hết
tình cảm mẹ dành cho con. Họ sẵn sàng sống tạm bợ, không màng đến hạnh
phúc của bản thân vì lo cho con, lo cho gia đình nhỏ bé của con như trong
Giường đôi xóm Chùa, Ngày cuối,… họ không muốn làm con hụt hẫng, làm
con tan nát gia đình. Tự mình gánh chịu lấy đắng cay. Có lúc người chồng
mất sức lao động họ cũng đứng ra gánh vác cả gia đình mà không hề oán
than: “Nhưng sau một đận Nang bị sưng gan nặng, thằng bố vai u thịt bắp bắt
buộc phải bỏ nghề quai vồ, hai đứa con không quen sống kham khổ, cũng
giống hệt bố chúng ruồi bâu mép chả buồn đuổi. Bấy giờ tất cả gánh nặng đổ
lên đầu người đàn bà. Nuôi ba cái miệng ruồi đậu ấy, chưa kể thuốc men, Ty
quay như chong chóng. Giật gấu vá vai cho đủ hai bữa thị cũng đã thần tình
lắm. Thị bỗng trở thành người khổng lồ dưới cái lốt mảnh mai nhỏ nhắn đến
tội nghiệp. Vừa thấy thị cất rượu cho quán cơm bình dân, lại đã thấy thồ sò
huyết, dưa hấu cho khách sạn cuối bãi, rồi tranh thủ nhận chở mấy xe cải tiến
gạch trong xóm, trước khi bịt khăn nửa mặt quét vôi ve ở hiệu cắt tóc mới
mở”. Chị thà lao động vất vả nhưng không làm việc gì có lỗi với chồng con.
Chị làm việc quần quật từ sáng đến tối: “Ngược lại càng bắt thị phải khỏe để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn68
gánh tiếp tội nợ. Cứ xem, tuy nhịn miệng nhường chồng con, người ngợm thị
62
vẫn thon thả, bắp thịt tròn lẳn, săn cứng tựa củ sắn cái, trông ngon mắt đáo
để. Không thế tha lôi sao nổi tạ tư đến tạ sáu gạo mỗi buổi sáng, bằng cái xe
đạp thồ rệu rão, rồi những leo lên dốc, tụt xuống dốc con đường xóm núi gập
ghềnh? Chiều đến, nhọ mặt người mới thấy thị đèo hai thùng nước gạo đầy
khự, mua gom tại các quán ăn về nuôi đàn lợn hơn chục con ở nhà”. Đến khi
quá túng bấn người ta nói chị nên hành nghề bán thân nuôi niệng nhưng chị
nhất định không làm, luôn giữ tấm lòng chung thủy với chồng con.
Người phụ nữ xinh đẹp có tài nhưng duyên phận hẩm hiu không trọn
vẹn. Họ trao gửi tình cảm nồng nàn cho người mình yêu nhưng nhận lại chỉ là
một chút tình vụng trộm, qua đường mà thôi. Đó là số phận của các nhân vật
nữ trong các tác phẩm: Cổ tích manơcanh, Ngày cuối, Trăng đường,... Họ có
quyền lựa chọn một hạnh phúc trọn vẹn nhưng dây tình của họ vấn vương nơi
những người đàn ông không trọn vẹn. Những người đàn ông ấy đều đã có gia
đình, có vợ, có con. Họ gặp và yêu nhau, không phải là tình thoáng qua,
không hẳn đã sâu nặng và cũng chẳng thể nào người đàn ông từ bỏ gia đình
mà đến với họ được. Người phụ nữ trong truyện ngắn Trăng đường là một
họa sĩ vẽ tranh có tài, luôn tìm tòi sáng tạo để có những tác phẩm đẹp. Họ
xứng đáng được yêu thương, chăm sóc hết lòng nhưng họ nhận được gì từ
những mảnh tình họ có. Chỉ là một chút tình cảm giành giựt, chen ngang vào
hạnh phúc của người khác, chỉ là người phụ nữ được yêu thương trong lén lút
vụng trộm. Cô gái trong Cổ tích manơcanh ao ước đến cháy lòng một mong
ước giản đơn: “Vậy chúng mình được sống với nhau mãi mãi chứ? Chúng
mình bên nhau mãi mãi chứ… Đó, cũng không tệ, em thấy chưa? Điều chúng
ta mong mỏi tưởng đến tận kiếp luân hồi nào thì nay đã có. Anh xin đánh đổi
tất cả để có được cơ hội bên nhau mãi mãi như thế này”. Hạnh phúc của họ
chỉ là vay mượn mà thôi thế nên qua những giờ phút say đắm với tình yêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn69
người đàn ông lại nhớ đến những trách nhiệm, những nghĩa vụ của bản thân
63
anh: “một hôm anh bỗng nhớ đến lời hẹn với cô con gái chuẩn bị thi tốt
nghiệp, nhớ đến ngày giỗ bố vợ sắp tới, nhớ đến những bài báo chưa hoàn
thành... Ô, có hàng trăm thứ nhớ ập đến một lúc. Kể cả những con đập trên
thượng nguồn sông Mê Kông đang là nguy cơ lớn với nửa nước Việt Nam...”.
Và anh không chỉ sống cho tình yêu của chị anh còn nhiều trói buộc, anh cũng
lựa chọn, lựa chọn nghiệt ngã với tình nhân của mình, anh không cùng chị
làm người manơcanh sống cuộc sống vô lo, vô nghĩ nữa mà trở về đời sống
cơm áo gạo tiền đa mang của anh. Anh để chỉ lạc lõng giữa thế giới
manơcanh trơ lạnh, đơn độc, đau đớn bất tận. Để rồi khi anh chợt nhớ ra chị,
chị đã vỡ vụn tan nát tâm can như hình ảnh cuối cùng của truyện: “Cô
manơcanh chưa được mặc bộ áo cưới mới đã rơi xuống. Hình như do chủ
hàng vô ý kéo một sợi đăng ten vướng vít phía sau. Hoặc sợi đăng ten chả
liên quan tới cô ta, nhưng cô đã tự nhào xuống. Nếu hàng nhựa chắc chắn
cũng không thể vỡ, nhưng riêng cô manơcanh này được làm bằng thạch cao,
kiểu cách lỗi thời, mặt hàng phải tránh di chuyển. Bởi thế nó vỡ vụn như trái
bóng thủy tinh”. Chấm dứt cho cuộc đời đơn độc của chị, chấm dứt những
mong ước giản dị về hạnh phúc của riêng chị.
2.3. Thế giới tưởng tượng trong truyện ngắn Đoàn Lê
2.3.1. Thế giới cõi âm, giấc mơ, sự biến hình
Đoàn Lê không chỉ khai thác hiện thực với các nhân vật có tên tuổi đời
sống thực tại mà còn khám phá hiện thực cuộc sống bằng những chất liệu
khác của văn học như cõi âm, giấc mơ, sự biến hình. Những không gian ấy
như mở rộng thêm đời sống hiện thực chật hẹp để mỗi người nhìn rõ tâm tư,
khao khát, nguyện vọng trong tâm hồn của chính bản thân họ.
Cõi âm trong tác phẩm của Đoàn Lê thể hiện qua một số tác phẩm:
Nghĩa địa xóm Chùa, Giấc mơ thứ, Chờ nhật thực, Nhập hồn, Na ơi, Vua gái,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn70
Người xiếc chữ,…. Đây những là tác phẩm mà Đoàn Lê đã khai thác một khía
64
cạnh mới về thế giới cõi âm. Cõi âm của Đoàn Lê không phải là những oán
than, trách móc, tiếc nuối của những người đã chết về cuộc đời của mình. Mà
cõi âm của Đoàn Lê là sự khám phá cuộc sống riêng của những con người đã
chết ở Nghĩa địa xóm Chùa, câu chuyện về cõi âm nhưng thực chất là những
câu chuyện đầy nhức nhối về cõi nhân gian. Những người đã chết như: ông
Giáo, lão Hớn, trung sĩ Tạo, cụ Bạch mù… là những linh hồn hiện hữu khi
đêm về. Khi bóng tối bao trùm họ có thể tụ họp, gặp nhau trò chuyện. Dưới
ngòi bút Đoàn Lê thế giới cõi âm không phải u ám như mọi người vẫn nghĩ
mà nó cũng mang màu sắc như cuộc sống mà ta đang sống. Họ có một thế
giới đầy sắc màu: “Trăng mới nhú. Khung cảnh nhuốm màu bàng bạc. Nhấp
nhô trên mỗi ngôi mả từng đầu ma ngỗi dãi thẻ, vươn vai vặn mình cho đỡ
mỏi. Mươi cái bóng khoác áo lân tinh chạy tới chạy lui chập chờn. Ai chưa
quen mắt nhìn chúng tôi dễ phát khiếp. Nhưng cư dân nghĩa địa nhìn nhau
không chỉ thấy có khung xương trắng hếu, họ thấy cả hình hài nhau thuở sinh
thời, mắt trần chẳng bao giờ nhận ra” [40]. Họ cũng có những mối quan tâm
thế sự như khi còn sống. Chẳng hạn lúc có một con ma mới xuất hiện họ cũng
tìm mọi cách để tìm hiểu về con ma đó, cũng bàn tán, thì thào, xì xầm: “Này,
có cả huân chương kháng chiến hạng nhất nữa nhé… cái gậy bịt bạc, quan
tài bằng kính…” [40, tr. 55]. Và nơi ấy con người ta vẫn quan tâm đến chức
tước, địa vị xã hội của nhau. Lúc đầu họ nhầm tưởng ma mới là một thiếu
tướng nên những ma cũ đón tiếp rất long trọng: “Kính thưa thủ trưởng, dân
cư nghĩa địa xóm Chùa xin nhiệt liệt chào mừng thủ trưởng”. Thế nhưng sau
khi biết đó là một sự nhầm lẫn do người mai táng tắc trách, thực ra ma mới
chỉ là một thợ điện bậc ba thì thái độ của mọi người cũng khác hẳn: “Này ông
Lâm, hiện thời chúng tôi chưa quyết định điều gì cả. Ông hãy nhờ ông Giáo
kia - ông ta chỉ vào ngay tôi - làm hộ một bản tường trình sự việc nhầm lẫn để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn71
chúng tôi xét. Hiểu chưa?” [40]. Cuộc sống cõi âm mà nhà văn miêu tả mang
65
đậm dấu ấn cuộc sống hằng ngày của chúng ta như quan niệm “sống sao chết
vậy”. Cõi âm còn xuất hiện trong nhiều tác phẩm như một chi tiết quan trọng
trong truyện. Những chi tiết ấy khái quát cái nhìn hiện thực của người âm đầy
đủ hơn cái nhìn của người trần thế về cuộc sống. Khi chi tiết cõi âm xuất hiện
nhân vật thường rơi vào nửa tỉnh nửa mê và có nhiều luồng suy nghĩ đan xen.
Cõi âm xuất hiện một tần xuất lớn trong những sáng tác của Đoàn lê. Chi tiết
cõi âm xuất hiện khi nhân vật chính nhớ đến người mình yêu thương, tìm
cách lí giải về sự ra đi đột ngột của cô trong tác phẩm Chờ nhật thực. Vì quá
yêu người con gái nên khi cô ra đi đột ngột trong một chuyến đi vẽ anh không
tin đó là sự thực. Cô ra đi khi mới mười chín tuổi, khi còn sống cô có sở thích
xem nhật thực. Thậm chí từng ước ao xem nhật thực toàn phần: “Toàn phần?
Em biết rồi, nghĩa là mặt trời biến mất... A, không phải, nghĩa là sẽ có một
mặt trời đen tuyền lơ lửng trên không... Chao ôi, giá em được một lần nhìn
thấy thế nhỉ!”. Cô gái mong manh nhỏ bé với tình yêu trong veo của mình
khiến chàng trai phải nâng niu, chiều chuộng đến mức quên mình nhưng lại
rất hạnh phúc được yêu cô: “Em không biết một lời hứa thiêng liêng bí mật đã
gắn bó chúng ta khiến tôi say mê em hơn, lúc nào cũng như chàng Đông-ki-
sốt tôn thờ tuyệt đối thần tượng nàng Đuyn-xi-nê cao quý”. Thế nên chàng
muốn làm theo di nguyện của nàng, anh muốn đón nhật thực cùng nàng và cõi
âm xuất hiện khi nhật thực đến, khi anh cầm bức ảnh về một bãi đá cổ trên
tay. Anh đã hiểu được tại sao cô ra đi bằng một câu chuyện lịch sử về người
hầu gái trung thành can đảm của Huyền Trân công chúa. Rằng cô là người
con gái ấy, cô yêu anh nhưng không thể trọn duyên kiếp với anh. Như một
định mệnh nàng sẽ ra đi năm mười chín tuổi dù lí do cái chết rất vô lí như:
“Về cái chết kỳ lạ xảy ra, tôi không tin do ong vò vẽ, mặc dù em nằm bất động
ngay bên dưới tán cổ thụ, cạnh một tổ ong đang bay xớn xác. Làm sao một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn72
vài nốt ong châm trên cánh tay em lại là nguyên nhân để em phải chấm dứt
66
cuộc sống trên thế gian này?”. Cõi âm xuất hiện để giải đáp những thắc mắc,
những ấm ức trong lòng anh, để anh bớt nỗi nhớ thương, để anh tin vào duyên
kiếp của họ là mãi mãi: “Và chúng ta đã lần mò tìm nhau trong nhiều kiếp,
chàng biết không? Cảm động vì sự thủy chung, giời đất lại cho chúng ta gặp
nhau, dưới hình hài hôm nay. Em cũng là Hoa. Như ngày xưa, em vẫn chỉ
được hưởng dương đến năm mười chín tuổi, em mượn những con ong làm
duyên cớ ra đi. Xin chàng đừng thương tiếc một kiếp trinh nữ bạc phận.
Duyên số em với chàng là thế, chòm sao Đại Hùng của em ạ. Để rồi chúng ta
khao khát mãi trong vòng luân hồi nhân gian...”. Hình ảnh cõi âm xuất hiện
ngắn ngủi trong giấc mơ của nhân vật nhưng nó mang đến cho độc giả một
niềm tin vào tình yêu đôi lứa.
Cõi âm còn xuất hiện qua những chi tiết từ hiện thực. Trong tác phẩm
Nhập hồn, khi Huệ qua đời, nhà văn trong chuyện có một linh cảm rất khác lạ
bởi từ bức tranh anh vẽ cô, nước không ngừng tuôn ra thấm ướt bức tranh.
Huệ là người phụ nữ ông yêu say đắm nhưng hoàn cảnh không cho họ đến với
nhau, Huệ có gia đình nhưng chồng cô bị bệnh tâm thần không như người
bình thường. Trong thời gian Huệ lên giúp việc cho người chú thì cô Huệ và
người họa sĩ đã yêu nhau, có mối quan hệ sâu đậm với nhau. Để cô có thể lên
sống với ông, người họa sĩ ấy đã gửi tiền về quê để cô nhờ người chăm nom
người chồng bệnh tật. Ông nhiều lần làm như vậy, khi quá khó khăn cô cũng
nhờ ông giúp đỡ mình chuyện tiền nong. Nhưng tình cảm của họ không thể
tiếp tục vì người chồng rất cần Huệ chăm sóc. Cô vẫn liên lạc với ông, cô
thường bày tỏ nỗi nhớ nhung với ông nhưng ông dần cảm thấy mình bị lợi
dụng về tiền bạc và không nghe điện thoại của cô nữa. Một thời gian sau ông
nhận thấy bức tranh của Huệ có những điều khác thường: “Bức tranh này ông
vẽ Huệ đứng khỏa thân bên khóm hoa ngọc trâm. Người ta chỉ nhìn thấy nàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn73
từ phía sau, một tấm lưng thiếu nữ trắng ngần vô cùng gợi cảm. Bức tranh
67
ông đã thân thuộc mỗi vết màu, mỗi vùng phớt thẫm dịu dàng, như thể nhắm
mắt ông cũng hình dung ra miền da thịt thương nhớ từng run rẩy dưới bàn
tay ông... Giờ đây tấm lưng trong bức tranh óng ánh những giọt nước đọng
lại, tựa hồ mồ hôi Huệ đang không ngừng túa ra”. Thêm một chi tiết lạ nữa là
ông nhận được điện thoại của Huệ: “Chợt cái điện thoại di động ở đầu giường
réo chuông. Ông lại giật mình. Ai gọi giờ này? Đồng hồ trong phòng chỉ nửa
đêm rồi. Huệ ư? Đúng là Huệ. Hẳn nàng thừa biết ông mong mỏi tin nàng
chừng nào. Ông chợt nghĩ tới chuyện thần giao cách cảm. Tim ông nảy lên.
Nhưng ông chưa kịp cầm lấy điện thoại nó đã im bặt. Quái lạ thật. Bấm xem
số máy gọi đến, ông ngạc nhiên nhận ra một dãy số 3 không thể hiểu nổi”.
Chính những chi tiết khiến người họa sĩ nhận ra điềm báo, như Huệ đang
muốn nói lời chia tay đối với ông. Thế giới con người và cõi âm dường như
không có gì chia cắt, nhưng cũng không thể tồn tại song hành. Cõi âm người
ta nghĩ đến như để luyến tiếc để nhớ thương những gì mình không thể níu giữ,
những yêu thương đã ra khỏi tầm tay.
Giấc mơ trong tác phẩm của Đoàn Lê xuất hiện rất thực rất tự nhiên,
người đọc không thể ngờ rằng mình đi vào cõi mơ. Trong truyện ngắn Cô
Khịt tác giả nhẹ nhàng đưa người vào cõi mơ. Câu chuyện kể về một cô gái
làng muộn duyên chồng con: “Hình dung xấu xí quá thì không ai đặt những
cái tên mỹ miều làm gì, hoặc giả có đặt cũng chỉ toàn cái Lác, thằng Ngố, con
Sứt… tùy theo đặc điểm nổi bật. Vậy nên cô gái có tên là Khịt từ bao giờ
chẳng biết, dù cô Khịt đã lớn, không còn chảy mũi dãi, khụt khịt như xưa.
Lớn, cô cũng không được đổi cái tên nào khá hơn. Gái nhà lành, hăm mốt
tuổi mà chưa một gã trai đi qua dám nhìn lâu, có nghĩa là ế chồng đứt đuôi
rồi. Tội nghiệp cô gái, nghe hóng hớt ai nói chuyện chồng con ở đâu lập tức
xán vào. Khi mùa cưới đến, nhà này có cô dâu, nhà kia dựng rạp cho chú rể,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn74
cô Khịt bồn chồn đứng ngồi không yên” [42, tr.66]. Cô rất mong muốn có thể
68
lấy được anh Khờ bởi vì cô có tình ý với anh. Nhưng người anh chàng ấy
cưới không phải là Khịt. Điều đó khiến cô rất đau đớn và quyết định đi khỏi
làng “Cô khoác túi áo quần với ba mươi ngàn đồng giấu dưới đáy túi, cô
bước thấp bước cao ra khỏi cái cổng làng hiền lành quen thuộc” [42]. Đi
được một đoạn thì cô ngồi nghỉ và thiếp đi. Trong giấc mơ, cô thấy mình đặt
chân đến một thế giới khác. Nơi đó hiện thực hoàn toàn trái ngược những gì
nơi cô đang sống. Ở đây phụ nữ rất được quý trọng, được ưu tiên trong mọi
việc, được lấy nhiều chồng tùy ý và của cải nhiều vô kể. Cô thấy bỡ ngỡ
nhưng rất vui mừng vì mình được quyền làm vợ và quyền được lựa chọn hạnh
phúc và giàu có. Nhưng với nhân vật cô Khịt, giấc mơ chỉ là giấc mơ. Bởi
như câu kết của truyện: “cái thời huy hoàng của phụ nữ chúng ta rất tiếc chưa
quay trở lại’.
Trong truyện ngắn Người khách đêm giao thừa cũng theo mô típ ấy.
Ban đầu ông tổng biên tập tiếp người khách lạ “Nhác trông hắn có vẻ hơi cổ
lỗ trong bộ com lê màu xám nhạt, vẻ người thanh tú với nước da mai mái cớm
nắng của các thày ký khi xưa. Hắn nhẹ nhàng đóng cánh cửa phía sau lại. Tôi
hơi bực mình. Nảy đâu ra ông khách vô duyên đến thăm vào giờ này nhỉ? Có
chuyện quan trọng chăng?” [42]. Và ông biên tập không vừa lòng khi phải
gặp người khách này bởi vì đây là đêm giao thừa và: “Giời ạ, mười một giờ
đêm giao thừa cơ. Ai đã mời hắn vào? Xưa nay tôi vốn có lệ cho vợ con làm
bữa cơm tất niên thật thịnh soạn, mời chú dì, cô bác nội ngoại hai bên cùng
họp mặt vui vẻ.” [42]. Thế nên cuộc tiếp xúc của họ rất cưỡng cầu không hề
vui vẻ diễn ra nhưng vì phép lịch sự ông vẫn phải tiếp người khách ấy. Và
người khách ấy thật ra chỉ là một ngón tay út mà thôi ông ta đến đây với mục
đích: “Giây phút ông gạch mấy trang kết của tập "Gió lạ" đau đớn vô cùng.
Lời nói đọi máu, nhất là những lời cuối cùng trước khi vĩnh việt thế gian... Dù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn75
là chuyện đã rồi, tôi chỉ muốn hỏi giúp ông chủ tôi một câu thôi. Đó là lý do
69
đánh liều tìm tới đây giãi bày cùng ông... Ông gạch chúng tôi đâu phải vì
ghét bỏ, có phải vậy không thưa ông?” [42]. Ngón tay út muốn thay mình giãi
bày tâm sự vì mấy trang cuối cùng đầy tâm huyết trong bản thảo “Gió lạ” bị
ông biên tập cắt bỏ hêt. Người biên tập trở về thực tại khi nghe thấy tiếng
đồng hồ gõ nhịp báo hiệu giao thừa tức là những sự kiện đang diễn ra với ông
biên tập, ông đang muốn về nhà đón giao thừa. Ông sực tỉnh và có cảm giác
như đang đối thoại với chính mình. Đó cũng là sự biến hình tiêu biểu trong
tác phẩm Đoàn Lê. Sự biến hình ấy là chia tách từ một phần cơ thể của nhân
vật và hai bản thể ấy đối thoại với nhau về một điều mà trong lòng nhân vật
ấy quan tâm. Thực sự câu chuyện Người khách đêm giao thừa diễn ra bởi một
suy nghĩ của ông tổng biên tập ngay từ đầu tác phẩm: “Sau khi tiễn mọi người
hỉ hả ai về nhà nấy, tôi thường đóng cửa phòng riêng, ngồi nhâm nhi tách cà
phê pha thật ngon để thức chờ giao thừa. Tai tôi vẫn nghe mẹ con nhà nó
lách cách dao thớt dưới bếp sửa soạn cỗ cúng đón năm mới. Đấy cũng là dịp
để tôi ngồi kiểm điểm những kế hoạch bị phá sản trong năm vừa qua, cho
chúng trôi đi theo vị đắng cà phê, đồng thời vạch ra những kế hoạch năm mới
để có cái mà tiếp tục phá sản” [42, tr 67]. Chính ông đang suy nghĩ về công
việc, những suy tính của mình nên mới có cuộc đối thoại đó.
Giấc mơ của con người đến thông qua những vật có liên quan đến
những gì mình ao ước, mong muốn suy nghĩ, trong thời điểm các nhân vật
trong truyện muốn gặp người mình yêu thương đã chết, muốn thực hiện
những ước muốn hiện thực của họ. Chẳng hạn trong truyện ngắn Giường đôi
xóm Chùa, người vợ mơ thấy mình lạc vào đảo khỉ và ở đó khỉ đực rất yêu
thương chiều chuộng những người vợ của mình kể cả con khỉ cái không đẻ
được con, cô khỉ ấy chỉ mong muốn được ôm ấp nựng nịu những đứa con của
những con khỉ khác. Chúa khỉ vẫn giúp cô thực hiện mong muốn ấy bằng việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn76
đánh lừa khỉ mẹ đang ôm khỉ con vui đùa để cô thỏa lòng mong ước của mình
70
trong chốc lát. Người phụ nữ lại mơ thấy truyền thuyết gia đình khỉ yêu
thương nhau, tìm nhau khi bị chia cách dù chết chìm giữa biển khơi. Bởi lúc
này gia đình của chị đang ở bờ vực tan vỡ, người chồng ngoại tình bỏ mặc vợ
con, phá vỡ mái ấm gia đình hai mươi tám năm xây dựng. Giấc mơ của chị là
những ao ước khắc khoải về mái ấm gia đình của mình. Trong tác phẩm Chờ
nhật thực, người đàn ông cũng đi vào cõi mộng vì mong ước đón nhật thực
toàn phần với người yêu đã mất, cùng với tấm ảnh về ngôi mộ bí ẩn anh đã
nhìn thấy người anh yêu. Người họa sĩ trong câu chuyện Mỹ nhân mèo cũng
vì thương nhớ người yêu đã ra đi đột ngột mà anh thường hình dung hình
bóng của cô gái qua bức tranh siêu thực anh vẽ với cái tên anh đặt cho bức
tranh là Mỹ nhân mèo. Anh thấy sự hóa thân kì lạ của cô gái. Thấy những ao
ước khát khao nhục thể mà anh hằng mong muốn đối với cô gái ấy. Nhưng lạc
vào cõi mơ anh lại thấy mình càng chìm đắm không thể dứt ra bởi nó mới là
cuộc sống anh mong muốn: có người yêu bên cạnh, sung sướng hưởng hạnh
phúc tình yêu. Chứ không phải là hiện thực đơn độc mà anh đang sống. Anh
luôn muốn chìm mãi trong giấc mộng của mình.
Giấc mơ có khi là sự ám ảnh của nhân vật về một đoạn đường đời đầy
gian khổ mình đã đi qua. Cõi mơ ấy có những hình ảnh về những điều đau
khổ đã xảy ra với nhân vật, nhân vật không muốn nhớ nhưng nó là kí ức quá
sâu đậm, ám ảnh không thể quên. Trong tác phẩm Giấc mơ thứ, người vợ mơ
thấy người chồng đã chết, không phải vì nhớ nhung mà vì ám ảnh quãng thời
gian đã sống với anh ta. Anh ta là người trăng hoa, hết ôm ấp người này đến
người khác khiến chị phải đau khổ. Đến nỗi khi anh ta đã chết chị còn mơ
thấy người tình của anh ta đến nhà. Anh ta không chỉ có một người tình mà là
hai rồi ba người. Anh ta còn dọa chị: “Cô không chịu cũng không được. Tôi
định sao cứ y thế mà làm cấm bàn cãi! Cô định gây sự hả? Cô mà gây sự, tý
nữa đi ngủ cái N. nó vào bóp cổ cô đấy”. Người phụ nữ ấy đã bị người chồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn77
hành hạ cả cuộc đời vì những thói hư tật xấu của anh khiến người vợ không
71
chịu đựng nổi, ngay cả trong mơ chị cũng muốn chống cự lại bằng cách của
mình: “Các chị nên ủng hộ tôi. Tôi phải cho anh ta biết đâu là lẽ phải, cho dù
anh ấy lấy quyền làm chồng, quyền làm chủ ngôi nhà này, lấy vũ lực áp đặt,
tôi cũng bất cần”. Chị đã kháng cự dù người chồng dọa đánh, dọa đốt nhưng
chị không thể chịu đựng thêm kiếp chồng chung. Đó là những ác mộng mà
người phụ nữ đó không hề muốn nhớ lại. Giấc mơ không phải bao giờ cũng
đẹp nhưng đó lại là những bí ẩn sâu kín trong tâm hồn con người bởi thực tại
không theo ý mong muốn của họ.
Truyện ngắn của Đoàn lê còn sử dụng những thủ pháp biến hình, nhập
thân để khám phá tâm hồn của các nhân vật trong tác phẩm của mình. Trong
truyện ngắn Người khách đêm giao thừa, ngón tay út của ông phó tổng biên
tập biến thành một người khách đến gặp ông nói chuyện thay cho nhà văn,
tác giả cuốn tiểu thuyết Gió lạ. Ông biên tập đang định cắt bỏ ba trang cuối
trong tác phẩm ấy bởi vì: “Tuyệt thì vẫn tuyệt, nhưng có thể ví chúng như
những quả bom khủng bố. Ông nhà văn trút vào đó mọi nỗi bức xúc, mọi ẩn
ức của mình qua miệng cô nhân vật chính. Tôi có cảm giác cô ta vén váy chửi
cả làng Vũ Đại theo kiểu chú Chí Phèo thời A còng. Chưa ai dám đáo để hói
huỵch toẹt những điều húy kị như cô ta. Đến nhắc lại ở đây tôi cũng còn chả
dám, e rằng phạm thượng nữa là. Tôi đồ chừng chúng được viết ra trong sự
phấn hứng giữa những cơn mê sảng”. Ông biên tập không thể cho in những
dòng ấy vì nó sẽ ảnh hưởng đến hình tượng, đến doanh thu của nhà xuất bản
mà ông làm việc: “Tôi mới leo lên cái ghế Phó tổng biên tập chưa được nửa
năm, chân ghế vẫn còn rung rinh. Phó là chức chuyên đại diện cơ quan
những dịp tang ma hiếu hỉ, thực quyền đâu đến phần mình, chỉ hứng tai ba vạ
gió cho thiên hạ. Dù vậy tôi vẫn sứt đầu mẻ trán mới leo được lên ghế, đâu
dám coi làm thường. Và nồi cơm của chức vụ quèn ấy không phải nồi cơm
thần Thạch Sanh, nó có nguy cơ rỗng tuếch bất cứ lúc nào, nếu tôi sơ suất để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn78
lọt lưới những dòng bản thảo phạm luật chơi. Mà giả dụ tôi uống thuốc liều
72
cho qua ba trang kết đầy gai sự này, chắc gì đã vượt cửa ải lão Giám đốc nhà
xuất bản. Lão luôn sẵn sàng quắc mắt nạt nộ mọi người: "Làm ăn thế à? Mắt
mũi anh để vào đâu? Có muốn đi nghỉ mát không đấy?". Và lão vứt toẹt ngay
bản thảo "Gió lạ" vào sọt rác như thể nó chứa bom vi trùng. Chấm hết!”. Thế
nên mới có vị khách đặc biệt là ngón tay út đến thăm ông. Ngón tay đến kể
với ông về cuộc đời, về mong ước, hy vọng và trăn trở của nhà văn đang nằm
trên giường bệnh thập tử nhất sinh. Nhưng đó cũng là câu chuyện đời, là
mong ước là hy vọng bỏ quên lâu nay của ông biên tập. Những lời nói của vị
khách – ngón tay út ấy khiến ông thức tỉnh, nhớ lại những mong ước những
hy vọng của bản thân. Nhớ lại những điều mình đã làm trong những năm
tháng kia. Môtip biến hình còn thể hiện trong bức tranh vẽ một chú mèo siêu
thực, mang hình hài con người: “Bức tranh siêu thực ở chỗ con mèo có bộ
ngực thiếu nữ căng tràn sức sống, khêu gợi nhục cảm, ẩn hiện bên màu lông
trắng. Tựa hồ có mỹ nhân nào trêu ngươi khoác bộ áo lông mèo, chỉ hé lộ đôi
chút cho người ta tưởng tượng thèm muốn. Hắn đặt tên bức tranh là Mỹ-
nhân-mèo”. Nhân vật “hắn” từ bức tranh ấy nghĩ về người mình hằng yêu
mến hết lòng nhưng chưa giãi bày thì nàng đã ra đi. Với người họa sĩ ấy bức
tranh trở thành “nhân vật” hắn chiêm ngưỡng và coi như người tình. Hắn nghĩ
người yêu của hắn sẽ từ bức tranh bước ra hiện thực và có thể đến với hắn
(Mỹ nhân mèo).
Sự biến hình trong truyện ngắn của Đoàn Lê còn thông qua việc nhập
vai các nhân vật lịch sử để giải thích cho cuộc đời và số phận của mình.
Trong truyện ngắn Vua gái, cô sinh viên y khoa Lý Chiêu Hoàng đã nhập
thân, biến hình để kể về cuộc đời của vị vua nữ duy nhất trong lịch sử nước
ta. Cô sinh viên ấy nhập vai để hiểu thêm về những tâm tư sâu kín trong lòng
của Lý Chiêu Hoàng. Về thân phận thật sự của bà, về những trắc trở trên con
đường đời của bà. Lý Chiêu Hoàng vị vua nữ duy nhất của nhà Lý có một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn79
cuộc đời đầy bí ẩn. Bí ẩn về thân thế, về việc lên ngôi, nhường ngôi cho
73
chồng, bị tước bỏ ngôi vị hoàng hậu, lấy một vị tướng quân khác. Bà thực sự
có rất nhiều điều bí ẩn đối với người sống đương thời. Chính vì vậy mà dưới
sự hóa thân của cô sinh viên y khoa người đời mới thấu hiểu mới cảm nhận
những nỗi đau, nỗi bất hạnh của bà, bà chỉ là một con cờ trong tay những
người thao túng quyền hành, triều đình như Trần Thủ Độ chứ không hề sống
cuộc đời riêng của chính mình. Khi trút bỏ ngôi Vua bà mới thực sự thanh
thản: “Chính vì vậy ta đã thật sự tìm thấy hạnh phúc đằm thắm nhất và sự che
chở tin yêu nơi người anh hùng họ Lê. Chúng ta được hai người con, sum vầy
tới tận khi đầu bạc răng long…”. Sử dụng thủ pháp hóa thân, nhập vai, Đoàn
Lê đã giúp người đọc hiểu rõ những chất chứa trong lòng của các nhân vật,
đồng thời góp phần giải mã những bí mật của cuộc đời và con người.
2.3.2. Tưởng tượng – một cách nhận thức về thực tại
Tưởng tượng là tạo ra trong trí não hình ảnh của những sự vật đã tác
động vào các giác quan, hoặc trên cơ sở những sự vật này, hình ảnh của
những sự vật xa lạ xuất hiện. (Từ điển Tiếng Việt).
Đoàn Lê đã có tưởng tượng về ngón tay út trong Người khách đêm giao
thừa, về một cõi nữ quyền trong Cô Khịt,… Thông qua tưởng tượng người
đọc thấy được sự kết hợp nhiều kênh thể hiện trong bút pháp Đoàn Lê. Tưởng
tượng là một cách giải quyết sự việc khi con người đang bế tắc và trước khi
vào cõi mơ tưởng họ hiểu rõ hoàn cảnh của mình hơn ai hết, đến khi thoát
khỏi ám ảnh ấy, họ càng cay đắng nhận ra thực tại đau đớn của bản thân.
Trước hết các nhân vật trong truyện không ý thức mình đi vào sự tưởng
tưởng mà chỉ muốn nhìn nhận sự việc dưới một góc cạnh khác. Họ không tin
người thân mình đã ra đi, muốn trốn chạy những hiện thực nghiệt ngã tìm đến
những điều họ mong muốn. Trong Người khách đêm giao thừa, nhân vật phó
tổng biên tập tưởng tượng ngón tay mình trở thành một người khách để đối
thoại, để nhìn nhận lại mình sau một năm làm việc. Ngón tay út là phần thẳm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn80
sâu trong tâm hồn mà ông phó tổng biên tập cất giấu không muốn ai biết về
74
nó. Đó là những phần đau đớn nhưng chân thật nhất về con người ông. Cô
Khờ nhận thức bản thân mình xấu xí không lấy được chồng, không ai quý
trọng cô nên trong tiềm thức cô đã tưởng tượng ra cõi nữ quyền để mình được
tôn trọng, yêu thương hết mực. Đó là thế giới hạnh phúc mà Khờ ước ao
muốn có, tương phản với hiện thực cay đắng, bất hạnh của thân phận cô.
Trong tư duy sáng tạo của mình Đoàn lê sử dụng yếu tố tưởng tưởng để giải
quyết những ngăn cách cố hữu của cuộc đời, những ngăn cách mà thực tại con
người không thể vượt qua được như: sự sống - cái chết; cái đẹp - cái ác; cái
thực - cái mơ. Nhà văn dùng tưởng tượng để hình dung ra những kết quả nhân
vật của mình phải lãnh nhận với những việc làm đã qua. Như khi nhân vật
Song tưởng tượng ra cảnh hãm hại Đối bằng việc sẽ bố trí để Quai xăm rớt
trên đầu anh (Quai xăm).
Những điều tưởng tượng của các nhân vật, có khi là trái ngược với thực
tại, không phải là điều họ mong muốn nhưng cũng có khi là những mong ước
không thể thành hiện thực của nhân vật. Yếu tố tưởng tượng làm cho câu
chuyện có những diễn biến mới đặc sắc tinh tế, gây ấn tượng với người đọc
bởi những suy nghĩ riêng của chính họ.
2.4. Yếu tố tự truyện trong truyện ngắn Đoàn Lê
2.4.1. Nét riêng của yếu tố tự truyện trong sáng tác Đoàn Lê
Tự truyện của Đoàn Lê mang phong cách riêng, khai thác chính niềm
vui nỗi buồn của bản thân trong cách nhập vai vào nhân vật. Nhân vật được
hóa thân từ cuộc đời hiện thực của chị, kể những câu chuyện chị đã trải qua.
Nhưng nét riêng biệt của chị trong tự truyện không hề có nhân vật cụ thể,
nhân vật “tôi” lúc ẩn lúc hiện qua các trang văn dưới nhiều hình tượng khác nhau.
Có lúc chị dùng yếu tố tưởng tượng để nói lên suy tư của mình trong: Người
khách đêm giao thừa ( lấy hình ảnh ngón tay út nói về bản thảo văn chương).
Các hình tượng mà chị lựa chọn là riêng biệt, mới mẻ chưa ai khám
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn81
phá, thể hiện. Tự truyện của chị có một tuyến nhân vật tự độc thoại với chính
75
mình như trong truyện ngắn Người đẹp xóm Chùa. Với những tâm tư tình cảm
của mình dành cho nghệ thuật tranh khỏa thân, chị trải lòng qua từng trang
văn “ “Hai mươi mùa xuân” là tên gọi cho hai mươi bức tranh khỏa thân nữ,
tôi cật lực vẽ ra trong suốt bốn năm. Bốn năm tính ra gần ngàn rưỡi ngày
đêm. Cái ngàn rưỡi ấy đáng lẽ dùng mua được biết bao ngọt bùi, nhưng tôi
lại dành hết quãng “sinh thời” quý báu để ca ngợi cái đẹp kỳ diệu của phân
nửa nhân loại. Bởi phân nửa này vốn hoàn mỹ nhất trong các sáng tác của
thượng đế, đến nỗi nó làm cho toàn trái đại cầu khốn đốn.” [41]. Nhưng cũng
có lúc yếu tố tự truyện được tái hiện bằng cách đối thoại phân thân. Trường
hợp nay cũng đã gặp trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trong tác
phẩm Bức tranh của mình. Nhà văn miêu tả nhân vật chính đối thoại với
chính mình, nhưng cuộc đối thoại ấy là cuộc đối thoại của hai nửa khuôn mặt
đang trong hiệu cắt tóc. Một bên mặt đã cạo, đã cắt sạch sẽ, bên còn lại thì
chưa được cạo tỉa, kem cạo râu còn đầy trên mặt. Đó là một cuộc đối thoại nội
tâm độc đáo để nhìn lại quãng đời mình đã đi qua của một ông họa sĩ nổi
tiếng nhưng lương tâm ông đã ray rứt vì không làm đúng lời hứa với người
trong bức tranh ông đã vẽ. Trong tranh là một người chiến sĩ, anh muốn nhờ
ông mang hình của mình và tin tức của anh về với người nhà. Nhưng năm
tháng đi qua, phần vì hoàn cảnh chiến tranh phần vì tư lợi riêng ông đã không
giao lại bức tranh cho chủ nhân thực sự của nó. Và ông luôn phải đối mặt, đối
diện với cái tôi của chính mình. Truyện ngắn Đoàn Lê cũng có những môtip
phân thân để đối thoại như thế. Nhưng nét khác biệt ở đây là sự phân thân đối
thoại ấy đan xen các yếu tố kì ảo. Ngón tay út trong câu chuyện Người khách
đêm giao thừa, hiện thân như một người đàn ông thực sự để đến nói chuyện
với ông biên tập thay cho chủ nhân của mình là tác giả tiểu thuyết Gió lạ.
Ngón tay út ấy nói lên thân phận của mình và tâm tư của người nghệ sĩ đang
hấp hối trên giường bệnh: “Nhưng chương cuối cuốn Gió lạ ông vừa gạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn82
mới thật sự là những dòng ông chủ tôi tâm huyết nhất. Những đêm ấy, biết
76
mình không qua khỏi, ông tôi gắng gượng tựa vào đống chăn đệm, chong đèn
ngồi viết, say như người nhập đồng. Tôi biết giây phút này ông chủ đang sống
thật nhất, không sợ hãi, không đắn đo. Hai gã Cả, gã Trỏ run như giẽ, chỉ
chực buông cây bút xuống. Chúng lấy cớ ông chủ tôi đang vào giai đoạn sức
tàn lực kiệt, cần phải nghỉ ngơi. Nhưng tôi đi guốc vào bụng dạ hèn nhát của
chúng. Chúng sợ liên đới trách nhiệm. Còn gã Giữa nịnh thần với anh chàng
Nhẫn thì tảng lờ, giả câm giả điếc” [42]. Nét riêng trong tự truyện của chị còn
ở chỗ những tự truyện ấy hòa phối trong các tác phẩm nghệ thuật, lồng ghép
vào những chi tiết sự việc khác nữa với nhiều nội dung như những thông điệp
nghệ thuật gửi đến bạn đọc.
2.4.2. Những trải nghiệm và tâm tư của Đoàn Lê
Đoàn Lê viết bằng những trải nghiệm đời mình, nên từng trang văn của
chị phảng phất bóng dáng cuộc đời chị. Truyện ngắn Mẹ và con và thánh thần
của chị viết về đứa con trai bất hạnh đã ra đi của chị. Chị viết bằng nỗi đau
của người mẹ mất con, bằng những trải nghiệm thương đau của chính bản
thân mình. Chị thương con mà không giữ được con lại với cuộc đời, là nỗi ân
hận đau xót khôn nguôi của chị. Cũng bởi viết từ những trải nghiệm, từ những
vết thương còn đang ứa máu của mình mà những tâm tình của chị rất thật,
đọng lại trong lòng người đọc sự cảm thông, buồn thương vô hạn. Gia đình ly
tán, đứa con trai duy nhất của chị vướng vào cái chết trắng ra đi để lại người
vợ yếu đuối, đứa con thơ dại. Những đau đớn ấy chị đều viết, thể hiện rõ
trong các tác phẩm của mình: Viên sỏi, Giường đôi xóm Chùa, Mẹ, và con và
thánh thần,… Những tác phẩm ấy nói lên cuộc đời thực của chị nhưng được
viết rất khách quan, chân thực không chỉ mang chất tự sự mà chất nghệ thuật,
trữ tình cũng tràn đầy qua các trang văn. Đoàn Lê giữ cho mình bình thản để
đối diện với sự thật đời mình. Sự bình thản đến nao lòng, đến xót xa của một
người phụ nữ tài hoa mà đa đoan chịu nhiều bất hạnh. Những gì đau đớn uất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn83
ức trong lòng mình dường như Đoàn Lê mượn văn thơ và hội họa để thể hiện.
77
Trong tác phẩm Người đẹp xóm Chùa, chị đã mượn nhân vật họa sĩ trong tác
phẩm để nói chính bản thân chị về hội họa. Những tranh nghệ thuật chân
chính mà nhiều người chưa hiểu, chưa cảm nhận vẻ đẹp của nó. Truyện ngắn
Người khách đêm giao thừa, lại là những trải lòng của chị về nghiệp văn. Chị
xót xa, thảng thốt khi những đứa con tinh thần của chị bị đối xử tàn nhẫn, bị
coi như một vật giải trí phục vụ cho tiếng nói riêng của người viết. Chị đã can
đảm phơi trải, tỏ lộ những chất liệu của cái tôi lên trang văn để nói lên những
nỗi niềm và suy nghĩ của mình về cuộc sống quanh mình và về chính mình.
Chuyện con trai chị chết vì nghiện ma túy là một nỗi đau, một sự “đả kích”
lớn lao đối với chị, từng dòng từng chữ là nỗi ân hận vô vàn của chị đối với
sự ra đi của con. Chị viết để lòng mình thanh thản và để những người làm
cha, làm mẹ trên đời này đừng mắc phải sai lầm đáng tiếc như chị. Từng câu
từng chữ còn đó, những nỗi đau nguyên khối khó thể nguôi ngoai. Nhưng khi
phải chứng kiến con nghiện ngập không cách nào cứu chữa chị đã phải thốt
lên: “Mẹ xót xa bất lực trước những ngày cuối cùng của con. Mẹ có cảm giác
tựa hồ trái tim mình đang bị nhay bởi một lưỡi cưa cùn. Khi những nốt mụn
se miệng lặn vào bên trong, mẹ lại ngỡ con sắp khỏi. Thật tội nghiệp. Mẹ đâu
ngờ đó mới là dấu hiệu của sự chấm dứt. Cũng là lúc con không muốn mở
miệng nói với ai một lời nào nữa, kể cả mẹ. Con đòi đưa con về nhà. Con nói
không đủ can đảm chứng kiến hàng ngày chung quanh con cứ mỗi lúc một vợi
dần những con bệnh lả đi sau vài đêm kêu la”. Đoàn Lê cố giữ cho ngòi bút
của mình nhẹ nhàng, khách quan thanh thản nhưng đọc văn chị người đọc vẫn
thấy nỗi đau cào xé đến tận tâm can, với cách thức dùng “giọng dịu mềm mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn84
gào thét”.
78
Chương 3
MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ
3.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
Tình huống truyện là một duyên cớ, một nguyên nhân nào đó mà dựa
vào đấy tác giả có thể triển khai câu chuyện của mình. Vì thế, khi lựa chọn
được một tình huống đặc sắc thì xem như tác giả đã có được một bộ khung lý
tưởng để từ đó triển khai toàn bộ tác phẩm của mình. Xem xét truyện ngắn
Đoàn Lê chúng tôi nhận thấy bên cạnh tài năng khám phá những điều mới lạ
từ những sự kiện đời thường, khả năng mô tả tâm lý nhân vật một cách điêu
luyện thì Đoàn Lê khá xuất sắc trong việc tạo ra những tình huống bất ngờ,
độc đáo. Những tình huống trong truyện của chị thường không phải là những
xung đột xã hội dữ dội về mặt tính cách giữa các nhân vật, mà đó thường là
những tình huống mang tính chất gần gũi, đời thường nhưng khá trớ trêu và
cay nghiệt.
3.1.1. Tình huống hiện thực
Tình huống hiện thực dùng để miêu tả những câu chuyện xảy ra với các
nhân vật, khung thời gian, địa điểm một cách rõ ràng, rành mạch. Câu chuyện
diễn ra theo tình huống này có kết cấu trần thuật đơn giản theo trình tự thời
gian tuyến tính. Nhiều tác phẩm của mình, Đoàn Lê sử dụng tình huống hiện
thực như: Xóm Chùa ông, Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa, Làm đẹp,
Ông nọ bà kia, Con Mốc, Cụ ngoại và tôi, Trinh Tiết xóm Chùa, A Tourism
xóm Chùa, Viên sỏi, Dì Thảo, Chọi chữ, Người đẹp xóm Chùa,... Trong tác
phẩm không có sự chồng chéo, đan xen về thời gian. Câu chuyện nhẹ nhàng
kể về những con người sinh sống ở nơi đây như chuyện lão Bạch mù, ông Sĩ
Thái Sư, mẹ con bà Chiu,… họ sống chan hòa với nhau nơi xóm Chùa. Trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn85
truyện ngắn Xóm Chùa ông, nhà văn đã dùng tình huống hiện thực để kể lại
79
câu chuyện về sự đổi thay đời sống nơi đất xóm Chùa. Với những câu chuyện
viết về hiện thực cuộc sống, khai thác những đề tài mang tính thế sự, về nền
kinh tế thị trường thì nhà văn thường sử dụng tình huống truyện này. Đó là
những câu chuyện sâu sắc giàu ý nghĩa về cuộc đời. Nhiều câu chuyện kể về
cảnh đời ngang trái nhưng không có kết thúc nào quá bi thảm đối với nhân vật
trong truyện, đó có thể là những kết thúc mở nhưng vẫn còn lối thoát cho các
nhân vật trong truyện. Họ cũng có những sai phạm trong cuộc đời mình
nhưng cái giá của họ phải trả chưa phải là bằng chính cuộc đời của mình.
Tình huống hiện thực còn được nhà văn dùng làm trục chính, khung đỡ
cho các tình huống khác trong truyện. Tình huống này chỉ khai thác được bề
nổi của sự vật không đi sâu phân tích tâm lý nhân vât như những tình huống
khác nhưng chính bản thân các sự việc ấy tự nói lên điều đặc biệt mà câu
chuyện ẩn giấu sau những lớp vỏ cuộc đời gian đơn, bình dị.
3.1.2. Tình huống giả tưởng – hài hước
Giả tưởng là tưởng tượng ra; được tạo ra nhờ trí tưởng tượng, câu
chuyện giả tưởng (Từ điển tiếng Việt).
Hài hước là có tính gây cười hoặc có tác dụng giáo dục (Từ điển tiếng Việt).
Tình huống giả tưởng - hài hước được Đoàn Lê miêu tả trong các tác
phẩm: Con bướm nhựa cánh xanh, Mỹ nhân mèo, Cô Khịt,... Tình huống
truyện này thường nhằm mục đích giải quyết những sự việc bế tắc của một
nhân vật đáng cảm thông, nhà văn dùng tình huống này để thỏa mãn ước mơ
của nhân vật. Trong truyện Cô Khịt, thông qua tình huống giả tưởng, nhà văn
đưa nhân vật vào giấc mơ lấy được chồng và được yêu chiều không bị coi
thường. Cô lạc vào thế giới mà ở đó đàn ông là “thê thiếp” của phụ nữ, được
phụ nữ lựa chọn, phục vụ hết mình cho phụ nữ… Cô mơ như vậy vì cô rất
nghèo, rất xấu không ai để ý đến cô. Ngay cả anh chàng mà cô thầm yêu mến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn86
là anh Khờ cũng không thèm lấy cô làm vợ. Tình huống truyện tiếp nối bằng
80
việc cô lạc vào một cánh rừng. Mọi việc ở đó trái ngược hiện thực cuộc sống
của cô. Ở đó người đàn ông phải nhường nhịn tất cả cho phụ nữ, làm mọi việc
từ nhẹ nhàng đến nặng nhọc . Ở đó người đàn ông lớn tuổi không được nói
chuyện với cô gái trẻ nếu không sẽ: “bị đuổi khỏi nhà với hàng chữ thích vào
trán”. Và may mắn đến với Khịt vì cô là con gái, những người được quý hơn
vàng ở xứ này. Ở vương quốc này: “đã hơn bảy năm nay chưa có thêm một ổ
mới, chúng tôi sốt ruột, tưởng phát điên lên. Xem nào, chúng tôi sẽ làm lễ nạp
chồng cho em ngay ngày mai mới được”. Thế là Khịt sẽ thoát cảnh đơn côi bị
mọi người khinh chê, coi thường. Ở nơi đây thân phận của Khịt cao quý biết
chừng nào. Tình huống hài hước nhẹ nhàng giản dị gỡ một lối thoát cho nhân
vật, để nhân vật thực hiện được những điều mình mong muốn, dù chỉ là trong
giấc chiêm bao.
Tình huống hài hước còn thể hiện qua truyện Con Mốc. Tình huống
truyện ở đây mang yếu tố hài hước châm biếm mỉa mai. Mở đầu truyện là
hình ảnh: “Người ta bảo: chó chết, hết chuyện. Xem ra con Mốc xóm Chùa đã
chết cho hết chuyện. Mốc, tên con chó cái lai của lão kép cải lương. Nó đẻ
được ba lứa rồi ốm lay lắt như người đàn bà hậu sản, hôm nay chết còng
queo ở xó vườn. Nguyên nhân dẫn đến cái chết có thể do nó bị đói khát kinh
niên. Bởi từ dạo bà vợ đi theo tiên tổ, lão kép cải lương sống trơ thân cụ, rất
coi khinh cái sự ăn uống. Gặp gì ăn nấy, bốc bải cho xong bữa, chỉ rượu là
tài. Lão bảo rượu đích thị tinh gạo, lại chả bổ. Con chó không uống được
rượu, không nốc được chút tinh gạo vào ruột, do vậy gầy trơ xương. Giống
chó, nó giữ đúng câu: chó không chê chủ. Đói quá không nhịn được, nó lang
thang tha thẩn các bãi rác khắp làng sục sạo, rồi lại về phủ phục dưới chân
lão già”. Nhưng không phải câu chuyện nói về con chó mà là câu chuyện về
một người mẹ hơn tám mươi tuổi như một bộ xương héo khô lại bị con cháu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn87
giành giựt như một món đồ. Hai số phận ấy như bị cuộc đời trêu đùa, họ bị
81
hành hạ cho đến chết. Con chó già Mốc bị đám đi đón bà cụ của nhà giáo
Nhất đạp vào tường rào đau đớn, còn bà cụ bị người nhà giáo Nhất và chủ tịch
Nhì đánh nhau tranh giành: “Ối làng nước ơi, chúng nó đang xé xác tôi ra đây
làng nước ơi. Gẫy tay tôi rồi!”. Thân phận của người mẹ già nua ấy được so
sánh với con chó già nhà lão kép cải lương. Đó là một tình huống hài hước
khiến cho câu chuyện dở khóc dở cười, mang đậm sắc thái bi hài, mỉa mai,
lên án những thói hiếu thảo bề ngoài để lấy tiếng khen thiên hạ. Tình huống
hài hước thể hiện trong các tác phẩm nhằm phê phán một cách nhẹ nhàng
những sự việc có tính chất vênh lệnh, trái ngược với đạo đức xã hội.
3.1.3. Tình huống giả tưởng – kinh dị
Kinh dị là kinh hãi hoặc làm cho kinh hãi bởi điều gì quá lạ lùng (Từ
điển tiếng Việt).
Tình huống giả tưởng - kinh dị xuất hiện trong một số tác phẩm: Người
khách đêm giao thừa, Nhân bản, Nghĩa địa xóm Chùa,… Tình huống này thể
hiện những suy nghĩ riêng của tác giả về một số hiện tượng đặc biệt trong đời
sống. Đó là những hiện tượng phải nghiền ngẫm suy nghĩ nhiều để hiểu, để
cảm nhận nhưng lại rất khó thể hiện. Tác giả lựa chọn tình huống này để phù
hợp với đề tài truyện như: đối thoại với bản thân của các nhân vật. Tình
huống thể hiện trong tác phẩm là mang tính chất giả tưởng - kinh dị như
người phó tổng biên tập đối thoại với ngón tay út. Họ là hai người đàn ông
đối diện với nhau nói chuyện. Người phó tổng nói những chuyện đang diễn ra
trong cuộc sống hàng ngày của anh như biên tập các tác phẩm sẽ xuất bản,
ứng phó với các vấn đề của việc giữ chức vụ trong ngành nghề… Còn người
đàn ông làm khách nói những chuyện ban đầu là chuyện của một nhà văn của
tiểu thuyết Gió lạ vì việc phải cắt bỏ những trang tâm huyết bản thảo của ông
(Người khách đêm giao thừa). Người con trai trong tác phẩm Nhân bản, gặp
lại người cha của mình, bởi đó là một nhân bản vô tính của cha anh. Nhân bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn88
ấy được tạo nên bởi cha anh còn có một bản thảo chưa hoàn tất, và ông muốn
82
nhân bản của mình làm tiếp di nguyện của ông. Người con trai bị vứt bỏ ra
ngoài đường, không nhà không cửa sống lang thang vất vả mưu sinh thế mà
bây giờ lại phải lo lắng lại cho người anh nhân bản vô tính của anh. Anh đã
đủ khốn khổ với cuộc đời của mình giờ phải chịu trách nhiệm với nhân bản ấy
bởi vì cha anh đã chết không còn tồn tại về mặt xã hội nữa, không ai tưởng
tượng nổi nếu mình gặp phải tình huống gặp lại người đã chết. Tình huống giả
tưởng - kinh dị ấy thể hiện trong câu chuyện còn là một lời cảnh tỉnh của cuộc
sống hiện nay đó là việc lặp lại những phiên bản của những cuộc đời con
người đầy bất hạnh, những kiếp người khổ sở đa mang.
3.1.4. Sự đan xen các tình huống
Các tình huống truyện đan xen là những tác phẩm thể hiện tài năng và
nghệ thuật thể hiện của Đoàn Lê. Các tác phẩm ấy thường mang những nội
dung thẩm mĩ đa dạng phong phú như: Giường đôi xóm Chùa, Ngôi nhà gỗ,
Nhân bản,… Trong các tác phẩm này, tình huống hiện thực làm trục chính để
kể về câu chuyện của nhân vật, rồi trong diễn biến của tác phẩm các tình
huống còn lại như những dây leo gắn kết để tạo nên một tác phẩm thực - ảo
đan xen, vừa hài hước vừa buồn bã, vừa sợ hãi vừa gây ra tiếng cười nhẹ
nhàng, hóm hỉnh. Trong tác phẩm Nhân bản, Đoàn Lê thể hiện một cốt truyện
nhiều tình huống đan xen lẫn nhau. Ban đầu truyện được thể hiện bằng một
tình huống thực, đó là người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi trở về gặp lại
người dì của mình. Tình huống hiện thực làm trục chính của câu chuyện, nhân
vật nhớ về quá khứ tuổi thơ của mình, nhớ những sự việc xảy ra trong cuộc
đời mình. Tình huống tưởng tượng - kinh dị xảy ra đó là việc anh gặp một
nhân bản vô tính của bố anh lấy tên là Vũ Huếch đến yêu cầu anh giúp đỡ cho
cuộc sống của hắn vì hắn không thể sống như người bình thường: “Thi sĩ cho
nhân bản mình nhằm lấy người kế tục thực hiện ước vọng lớn lao ông chưa
đạt được lúc sinh thời”. Tình huống hiện thực và mộng ảo tưởng tượng đan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn89
xen giúp người đọc nắm rõ hơn về cuộc sống của anh và những việc anh đã
83
từng trải, từng làm. Sự đan xen tinh huống còn thể hiện trong những trường
hợp các nhân vật nhận thức về bản thân mình, nhận thức về cuộc sống, tình
cảm của bản thân. Nhờ sử dụng tình huống đan xen làm kết cấu trần thuật của
câu chuyện không theo một trật tự tuyến tính mà có sự kết hợp về không gian
thời gian để tạo nên tác phẩm như: quá khứ đan xen hiện tại (Ngôi nhà gỗ),
hiện tại đan xen với tương lai (Người khách đêm giao thừa), cõi âm và cõi
dương (Nghĩa địa xóm Chùa), người đã chết và người đang sống (Mẹ và con
và thánh thần),… Những kết hợp tình huống truyện đã góp phần gia tăng sự
hấp dẫn và lôi cuốn người đọc trong quá trình tiếp nhận và thưởng thức tác
phẩm của Đoàn Lê.
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật
3.2.1. Nắm bắt nhanh các trạng thái tâm lý nhân vật
Tâm lý con người muôn đời vẫn là điều bí ẩn và khó khám phá ngay cả
đối với chính bản thân mỗi người. Vì tính chất phức tạp đó nên các nhà văn
khi miêu tả và khắc họa tâm lý của nhân vật thường phải vận dụng rất nhiều
thủ pháp: khi thì trực tiếp miêu tả, khi thì gián tiếp miêu tả, có lúc mượn hành
động để khắc họa tâm lý nhân vật, có lúc dùng lời đối thoại hoặc độc thoại nội
tâm để nhân vật tự mình bộc lộ những điều tâm can nhất. Khắc họa tâm lý qua
những biểu hiện bên ngoài cũng là một trong những thủ pháp tiêu biểu để
khám phá tâm lý nhân vật. Như chúng ta đều biết, mỗi nhân vật cũng như mỗi
con người đều là một vũ trụ đầy bí ẩn, mỗi cá thể tồn tại là một tiểu thế giới
với tất cả sự phức tạp và phong phú khôn lường của nó. Vậy thì căn cứ vào
đâu chúng ta có thể đoán định được hoặc nắm bắt được phần nào những suy
tư thầm kín và chân thật của nhân vật? Đoàn Lê miêu tả tâm lý nhân vật một
cách trực tiếp. Tâm lý của các nhân vật được nhà văn nắm bắt một cách tinh
tế, sát thực và nhanh chóng. Đoàn Lê có một cái nhìn mẫn cảm và tinh tế đối
với các sự việc đang diễn ra. Chị có thể hiểu những diễn biến tâm lý của một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn90
đứa trẻ nhỏ về hình ảnh người bà: “Tôi háo hức với chuyến đi còn vì một lẽ:
84
tôi chưa hình dung cụ ngoại như thế nào. Tôi chỉ biết cụ đồng nghĩa với cái di
động của bà nội. Mỗi khi chuông điện thoại bà nội đổ hồi, tôi áp máy vào tai,
lắng nghe giọng cụ dịu dàng rất mực âu yếm hỏi han”. Hình ảnh người bà
trong đứa trẻ chỉ là hình ảnh thông qua trí tưởng tượng non nớt của nó kết hợp
với giọng nói dịu dàng ngọt ngào âu yếm của bà. Tâm lý trẻ thơ cũng không
phải đơn giản như mọi người thường nghĩ. Qua truyện ngắn Cụ ngoại và tôi,
ta thấy Đoàn Lê đã miêu tả một cu Dế hai tuổi rất ngây thơ, rất trong sáng
nhưng sớm nhận biết mọi điều xung quanh bằng những suy nghĩ và kinh
nghiêm riêng của bản thân người đã từng là trẻ nhỏ trong quá khứ. Bé quý cụ
ngoại nhưng khi gặp mặt thật thì không tin đó là cụ, không quý mến đến chơi
với cụ nữa. Em cho rằng cụ không giống trong trí tưởng tượng của em. Đến
khi dùng điện thoại khơi gợi xác nhận lại giọng cụ nói Dế mới tin là sự thật.
Đoàn Lê miêu tả khắc họa tâm lý nhân vật rất độc đáo và sáng tạo. Chị nắm
bắt những tâm tư tình cảm nhân vật nhanh nhạy và thể hiện một cách tinh tế
trên trang văn. Những biến đổi nội tâm, những góc khuất trong tâm hồn cũng
được chị soi rọi để nhận ra và hiểu rõ tâm tư tình cảm của nhân vật, để thấy
được tâm lý diễn biến nội tâm của nhân vật. Chị dùng nhiều độc thoại để nhân
vật tự khám phá ra chính bản thân mình: “Dầu anh phụ bạc em nhưng không
đời nào em làm thế với anh. Em không thể xóa bỏ hình bóng con người em đã
nguyện trọn đời yêu anh. Nếu giời bắt em phải mất anh cho con vẹo mũi, em
sẽ ở vậy suốt đời. Em chả lòng dạ nào đổi anh lấy mười lăm anh chàng không
quen biết kia. Ới anh Khờ ơi…” [42, tr.66]. Nhà văn luôn dõi theo sự diễn
biến tâm lý để khắc họa những trạng thái tâm lý mà nhân vật trải qua. Đó là
những lúc nhân vật hoài niệm về quá khứ, nhớ lại hạnh phúc của mình, niềm
hạnh phúc vỡ òa cùng với nỗi đau của thực tại, sự nhớ thương với dày vò
trách móc,… cùng nhiều trạng thái tâm lý đan xen trong một thời điểm. Nhân
vật có lúc oán giận, lúc lại biết ơn, lúc căm ghét, lúc lại yêu thương,… Các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn91
trạng thái tâm lý luôn biến chuyển đối với những hiện thực sự vật mà họ đang
85
trải qua. Cách thể hiện các trạng thái ấy ta có thể bắt gặp trong tất cả các
truyện ngắn của nhà văn. Mỗi tác phẩm chị đều thể hiện được những trạng
thái tâm lý riêng của nhân vật. Trong câu chuyện Quai xăm, khi Song ghen
ghét vì Đối lúc nào cũng lợi thế hơn anh về công việc, cuộc sống và lấy được
Dâng người anh hằng yêu mến nên trạng thái tâm lý của Song diễn biến rất
phức tạp. Đó là lúc Song thấy ghét Đối vì hắn luôn nổi trội hơn nhưng lại
không phủ nhận Đối luôn bênh vực, bảo vệ anh. Song căm hận Đối vì Đối lấy
mất Dâng - người con gái anh thầm yêu hết mực nên nảy sinh ý định trả thù,
anh nảy sinh ý định một cách tức thời, không phải là chuẩn bị trước nên có sự
e ngại do dự nên anh không dám ra tay với bạn. Lần thứ hai khi đi cột quai
xăm trong lúc nhiều gió nhiều sóng và cá tép nặng lưới anh lại tìm được cách
hại Đối và anh đã thực hiện bởi lúc này rượu cho anh thêm sức mạnh. Con
người đố kỵ trong anh muốn hành động trả thù. Các diễn biến ấy rất hợp lý
bởi tâm tư tình cảm của Song đã quá dồn nén, và hơn thế nữa nỗi đau về Dâng
như giọt nước tràn ly.
Đoàn Lê thường nắm bắt những trạng thái tâm lý đan xen rất nhạy bén.
Chị thể hiện tài năng của mình thông qua những trạng thái tâm lý sâu sắc soi
rọi từ sự nửa tỉnh nửa mơ của nhân vật. Để nhân vật hoàn toàn bộc lộ mình.
Ngày nhớ đêm mong nên khi nhìn bức tranh Mỹ nhân mèo, anh họa sĩ lại nhớ
thương người con gái anh thầm yêu, đau đớn tiếc nuối. Anh nhìn thấy người
yêu qua bức tranh con mèo có bộ ngực của cô gái, khiến anh thể hiện hết các
trạng thái tâm lý của mình, bộc lộ hết những nhớ nhung, khắc khoải trong
anh với người yêu.
Đoàn Lê đã khắc họa khá tài tình các trạng thái tâm lý phức hợp khi
nhân vật đang trăn trở để quyết định có ra tay hay không với người bạn và là
tình địch của mình (Quai xăm), có ly hôn hay không với người đàn ông đã
gắn bó gần nửa đời người với mình (Giường đôi xóm Chùa),… Tâm trạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn92
nhân vật cũng có những biến chuyển trong những lúc họ nhớ về qúa khứ: nhớ
86
lại cảnh cô gái đón nhật thực (Chờ nhật thực), nhớ lúc còn chung sống với
nhau (Ngôi nhà gỗ), nhớ về thời thơ ấu đầy đau khổ (Nhân bản), nhớ về
người mình đã yêu thương chăm sóc (Tình Guột),… Nhà văn đã thể hiện sự
đan xen tâm lý một cách nhuần nhuyễn, thể hiện rõ khả năng nắm bắt tâm lý
nhân vật của mình.
3.2.2. Sắc sảo và hài hước trong cách sử dụng các chi tiết mô tả
Chi tiết là những ngữ liệu quan trọng tạo nên tác phẩm. Các chi tiết
trong truyện ngắn Đoàn Lê rất sắc sảo, tinh tế. Nhiều tác phẩm chỉ một vài chi
tiết tiêu biểu nhưng diễn tả hết đặc điểm của nhân vật. Chẳng hạn như trong
truyện ngắn Con Mốc, khi dự án sân gôn muốn được thông qua, chủ tịch Nhì
động viên khuyến khích bà con trong làng bán đất thì bị anh ruột của mình là
giáo Nhất phản đối. Cuộc tranh cãi kịch liệt nổ ra, ông giáo Nhất nói ông chủ
tịch tham ô, ăn bẩn nên ông chủ tịch mắng lại ông giáo không nuôi mẹ già.
Chính từ lời nói ấy mà cả nhả ông Giáo Nhất tìm đủ mọi cách phải rước bà cụ
Cậy. Chi tiết đón cụ về bằng cách xông vào nhà, đưa cụ lên vai rồi vác chạy,
giằng kéo cụ qua lại đã bộc lộ sự hám danh hám lợi của hai đứa con. Chúng
không nghĩ gì đến sự đau yếu của mẹ mà chỉ cốt đạt mục đích trước mắt.
Trong truyện ngắn của Đoàn Lê còn gợi nên chi tiết bà cụ Cậy ngồi tâm sự
với con chó Mốc, đó là một dụng ý nghệ thuật đặc sắc của nhà văn. Chỉ bằng
hình ảnh và cảnh huống đó nhà văn đã tạo nên sự so sánh ngầm, tạo trường
liên tưởng đến nhân vật lão Hạc bên con chó Vàng trong truyện ngắn Lão Hạc
của Nam Cao.
Nhà văn tạo nên những chi tiết độc đáo qua cách miêu tả các chi tiết sự
vật rất hài hước. Cả nhà cu Dế (Cụ ngoại và tôi) không thể ngờ Dế không
dám đến gần cụ ngoại vì không giống trong điện thoại mà bé từng tiếp xúc.
Người vợ trong Ngôi nhà gỗ có một sự sợ hãi quá đáng đối với con ếch…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn93
Những chi tiết hài hước ấy giúp cho câu chuyện trở nên nhẹ nhàng và ý nhị
87
hơn. Khi cả câu chuyện đều kể về những nỗi đau, nỗi bất hạnh trong đời
người như phải chịu sử sinh ly, tử biệt, chịu cảnh dang dở khi yêu nhau…thì
chất hài hước ,giúp câu chuyện mang màu sắc an nhiên bớt đi sự căng thẳng
nặng nề.
3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê
Một nhà văn đích thực phải ý thức về mình như một nhà ngôn ngữ vì
ngôn ngữ là “yếu tố đầu tiên qui định cung cách ứng xử” của người đó, là
phương tiện bắt buộc để họ giao tiếp với bạn đọc. Đối với văn chương, ngôn
ngữ không chỉ là “cái vỏ của tư duy” mà còn là tài năng, cá tính và quan
điểm nghệ thuật, do đó giọng điệu của tác phẩm trước hết cũng là giọng điệu
ngôn ngữ.
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu của
tác phẩm văn xuôi, bên cạnh những yếu tố khác như cú pháp, nhịp điệu, cách
diễn đạt… Chúng ta thấy hiện lên trong truyện ngắn Đoàn Lê một lối kể
chuyện hấp dẫn, tự nhiên, hóm hỉnh, xóa nhòa khoảng cách giữa người kể
chuyện và nhân vật, người kể chuyện và độc giả. Chúng tôi cho rằng nghệ
thuật kể chuyện đặc biệt khó ở chỗ phải vào đầu như thế nào cho trơn tru và
kết thúc như thế nào (có thể gọn ghẽ, có thể bỏ lửng) để tạo được dư ba cảm
xúc cho người đọc. Đoàn Lê đã làm được điều đó trong truyện ngắn của mình,
với việc mở đầu câu chuyện bằng cách đi trực tiếp vào vấn đề và cách kết
thúc truyện bằng những câu kết nhẹ như gió, nhưng buộc người đọc phải suy
ngẫm. Nghĩa địa xóm Chùa là truyện ngắn tiêu biểu cho cách thức diễn ngôn
của người kể chuyện. Ngay vào phần mào đầu, Đoàn Lê đã tập trung ngòi bút
để miêu tả những chi tiết về ngoại hình, về tính cách, về cuộc đời, về nghề
nghiệp,… của những cư dân ma nơi nghĩa địa. Cuối cùng, để làm bật lên hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn94
ảnh một “đại tá” khác người, khác người nên mới được các cư dân ở đây
88
nghinh đón long trọng còn nhân vật thì sợ sệt đến mức tội nghiệp. Có ai biết
đâu ẩn đằng sau cái áo khoác oai vệ ấy lại là một anh thợ điện bậc ba nghèo
hèn cực khổ, vất vả cả đời. Câu kết truyện ngắn này thoạt nhìn vào có vẻ khá
lạ lùng, khách quan, cứ như là lời trêu ghẹo:
“Này thày giáo ơi..
Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái dở…”
Thế nhưng, người đọc dễ dàng nhận ra đó là một kết thúc cần phải có,
bởi nó đã được “chuẩn bị” ngay từ những dòng phác họa đầu tiên về câu
chuyện thú vị này bởi mở đầu đã là những câu bông đùa về cư dân nơi nghĩa
địa xóm Chùa: “Từ ngày ra nhập tịch nghĩa đia xóm Chùa tôi được sống
trong cảnh chan hòa tình người, tối lửa tắt trăng có nhau cực kỳ vui vẻ” [40].
Họ cũng có tình yêu của chính mình, có niềm vui của bản thân ngay cả khi họ
đã sang bên kia thế giới.
Ngôn ngữ Đoàn Lê có những nét riêng biệt giúp chúng ta nhận ra chị
trong dòng văn học nữ nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
Đoàn Lê có cách dùng ngôn ngữ giản dị, đậm chất sinh hoạt đời thường theo
đặc điểm vị trí của nhân vật trong xã hội. Nhân vật nào lời lẽ ấy. Đó là một
thứ ngôn ngữ vừa giản dị, vừa gọt rũa được cá thể hóa mang đậm cá tính sáng
tạo. Các nhân vật có chức quyền trong xã hội như quan chức địa phương, đại
tá, thiếu tướng,… lời nói cũng tỏ vẻ uy quyền không hề nhún nhường nhã
nhặn với người khác. Những người không có thân phận địa vị sẽ có một cách
thể hiện e dè, sợ sệt hơn trong lời nói. Người dân có cách nói mộc mạc chân
chất. Trong những truyện viết về làng Chùa, ngôn ngữ sinh hoạt được khắc
họa rõ nét. Cách nói của người thôn quê mộc mạc: “Con ma ti vi bắt hồn bắt
vía chúng bay hay sao hả? Chiều mai bà không thổi cơm xem thử chúng bay
đủ sức ti – vi nữa hay không?” [40]. Đó là cách bà Chiu trong Xóm Chùa ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn95
trách mắng con khi chúng ăn cơm chiều xong là mải mê đi xem ti vi đến gần
89
mười rưỡi tối mới về. Lời nói của những ông lão trong làng có vẻ chua chát
hơn, khinh bạc cuộc đời hơn bởi có lẽ họ đã phải trải qua nhiều vất vả mưu
sinh trong đời, đã nếm đủ vị đắng cay trong đời. Khi họ nói về việc quan
chức hám tiền, vụ lợi, lời nói mang sắc thái nặng nề: “ Nó nuốt nhiều cho
nó chết nghẹn”, “Ấy chớ! Chớ rủa kẻo hối không kịp. Nó chết khối thằng chết
nghẹn theo” [42, tr.153].
Nhà văn có những kết hợp từ mới lạ rất riêng để thể hiện tính cách,
hình ảnh, tạo nên giọng điệu riêng của nhân vật trong tác phẩm trong việc thể
hiện ngôn ngữ đặc trưng cho các ngành nghề. Những nhà báo văn sĩ có cách
nói rất hoa mĩ văn chương, tranh luận săc bén đúng như nghề nghiệp của họ
như trong truyện Chọi chữ: “Tôi cần hắn chấm dứt ngay cái giọng điệu châm
chọc bố láo, những phát ngôn sau lưng tôi rất bừa bãi, ác ý… Làm thế nào
tùy anh miễn sao đừng để hắn biết tôi đứng đằng sau anh”. Người đi biển,
cách phát ngôn lại mang vẻ phóng khoáng, khỏe khoắn của riêng họ: “Tao
pha trà rồi anh em ơi. Hôm nay thằng Đối ăn khao vợ mới món bánh khảo
ngon tuyệt đây” (Quai xăm).
3.3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê
Giọng điệu là: “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của
nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách
xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ,
thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [33,tr.134].
Khi tìm hiểu giọng điệu, Lê Huy Bắc đã phân biệt giọng điệu với giọng
như sau: giọng là “âm thanh được xác định ở góc độ vật lý như cường độ,
trường độ, cách phối âm và âm lượng”; giọng điệu là “âm thanh được xét ở
góc độ tấm lòng, biểu hiện thái độ: buồn, vui, giận, hờ hững” [12, tr.67].
Cái làm cho nhà văn này khác nhà văn kia chính là giọng điệu, nó thể
hiện một cách rõ nét cái nhìn của chủ thể, vì giọng điệu “mang thái độ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn96
đánh giá của tác giả” về đối tượng được nói đến. Văn học thời kỳ đổi mới
90
chứng kiến sự đa dạng và phong phú của các giọng điệu, hệ quả tất yếu của
tinh thần dân chủ và sự giải phóng cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong truyện
ngắn của mình, Đoàn Lê đã tạo nên giọng điệu riêng với sự giao thoa các sắc
thái giọng điệu. Chúng ta thấy truyện ngắn Đoàn Lê có một giọng điệu nhẹ
nhàng, đằm thắm và sâu lắng. Giọng văn ấy không chỉ thể hiện ở lối kể
chuyện chậm rãi, thư thái mà còn thể hiện ở cả ngôn ngữ của nhân vật, ở
những đoạn miêu tả nội tâm của nhân vật. Văn Đoàn Lê giàu cảm xúc vì nhân
vật trong đa số truyện ngắn của chị không tranh cãi chan chát để tìm ra chân
lý cuộc sống, cũng không manh động, liều lĩnh để giành lấy quyền lợi cho
mình, họ thường nhẫn nhịn chịu đựng những thiệt thòi trong cuộc sống một
cách trầm tĩnh đáng ngạc nhiên. Những đặc điểm ấy trong tính cách và tâm lý
nhân vật đã góp phần tạo nên âm điệu trầm lắng và buồn bã cho giọng điệu
truyện ngắn Đoàn Lê:
Giọng hài hước, dí dỏm là nét nổi bật trong truyện ngắn Đoàn Lê. Đây
là chất giọng tạo nên ấn tượng khó phai cho những trang văn của tác giả.
Không ồn ào, phô diễn trên bề mặt, cũng không sắc sảo, chao chát như một số
cây bút nữ cùng thời, giọng hài hước dí dỏm của Đoàn Lê là cái hài nhẹ
nhàng, hóm hỉnh, rất có duyên và không kém phần sâu sắc. Chất giọng này
được biểu hiện ở những cung bậc khác nhau góp phần làm phong phú và sâu
sắc cho chất giọng của tác giả. Đó là cách Đoàn Lê sử dụng thủ pháp giễu
nhại. Nhìn từ góc cạnh nào đó, giễu nhại có hai đặc điểm chính: nhại và giễu,
tức bắt chước và châm biếm. Đó là hình thức tiếp nhận các giá trị đời sống
một cách dân chủ, đa nguyên, phi qui phạm.
Với cái cười nhại đầy chất thị dân, Đoàn Lê giúp người đọc “mục sở
thị” về sự đổi thay của xóm Chùa: “Do nhờ tình hình Nam Bắc giao lưu
mạnh, nền văn minh ùa vào xóm Chùa ông. Những ngày có điện đột xuất, cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn97
xóm ồn ào gần bằng nổi loạn… Bên này giọng đàn ông gào rống: “Thôi im
91
đi, vui gì mà cười… ”, bên kia lại nức nở: “Anh chết trên vai em một lần
cuối”. Bọn loa ngoại chúng đã gào, gào đến bằng điếc tai, gào hết điện mới
thôi. Chả trách người ta hay ghét bọn mồm loa mép giải!”. Sự đổi mới trong
công tác tổ chức tang lễ: “Vào lúc nhập quan, nhà đám đang băn khoăn chưa
thấy kèn trống đâu thì Sĩ Thái sư lù lù vác cái cát-set tới… Ông cắm điện rồi
bật công tắc đánh toạch. “Tùng, tùng! Tò tí toe…oe…ối mẹ ơi, âm dương từ
nay cách trở. Biết bao giờ con thấy mẹ, mẹ ơi…ơi…Tùng, tùng…”
Cái cát-set mở hết công suất loa, bỗng kêu váng lên. Ngỡ đến bốn đôiụ
nhà kèn cùng thổi một lúc. Và hàng chục người hờ khóc cũng không thể địch
lại một cái miệng hờ trong máy kia”. Thật khôi hài đến xót xa khi: “Con cháu
nhà đám im tịt xúm cả vào cái cát-set. Nhưng người đến chia buồn cũng quên
luôn bà già nằm đó, chỉ còn trầm trồ bàn tán xôn xao về sự sáng kiến
này…”Mẹ ơi, hai sương một nắng suốt đời. Chúng con khôn lớn, mẹ thời đi
đâu… Hờ…Tò tí toe…oe…oe…Nghe mà đứt ruột gan”. “Thế mới hiện đại!””
(Xóm Chùa ông). Cái được và cái mất? Văn minh hay tụt hậu? Lên dốc hay
xuống dốc?...độc giả sẽ phân định được rõ ràng.
Trong Thành hoàng làng xổ số, giọng giễu nhại được dùng để giải thích
khuôn mẫu mực thước trong đời sống: “Theo thánh tích, vị Thành hoàng đã
hóa vào giờ tý, tức nửa đêm (…) Lại còn thời gian cho ngài đứng tần ngần
trước gian nhà tranh cửa cài kín, lắng nghe tiếng thở của vợ con, ngửi mùi
oai oải thân thiết (ít nhất cũng đủ thời gian cho ngài kịp thổn thức)… ”,…
Với cái nhìn sắc sảo như thấu gan, thấu ruột thiên hạ bởi những câu
chuyện khiến người ta cười ra nước mắt, Đoàn Lê đã phơi bày hiện thực xã
hội đương đại với nhiều vấn đề nóng bỏng, nhức nhối như lòng tham, lối sống
hưởng thụ, hôn nhân, trinh tiết,… trong Đất xóm Chùa, A tuorism xóm Chùa,
Trinh tiết xóm Chùa, Lên ruồi,… Nhà văn tạo ra những tình huống khác lạ,
mang chức năng của các nút nhấn để từ đó bức tranh xã hội, con người hiện ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn98
với tất cả đường nét và dáng vẻ xiêu vẹo tức cười của nó.
92
Chất giọng khoái hoạt, hài hước dí dỏm này giúp nhà văn thoát khỏi
các quy phạm nghệ thuật, tự do trình bày quan điểm cá nhân, xóa nhòa
khoảng cách tiếp nhận của độc giả và nhờ vậy tác phẩm có khả năng thu hút
nhiều tầng lớp độc giả khác nhau.
Giọng trữ tình sâu lắng cũng là một trong những thể nghiệm của Đoàn
Lê trong việc nỗ lực tạo nên nhiều kiểu giọng mới, để cho truyện ngắn của
nhà văn luôn vang lên tiếng nói đa thanh trên nhiều cung bậc.
Một trong những mối quan tâm lớn nhất của Đoàn Lê thân phận con
người. Nhà văn rất nhạy cảm với những cảnh ngộ, những éo le ngang trái mà
con người gặp phải trong cuộc sống, đặc biệt là nỗi niềm trăn trở xót xa về
thân phận đàn bà. Đó là tấm lòng trắc ẩn trước kiếp sống lay lắt đến tội
nghiệp của những bà mẹ, những đứa trẻ nghèo ở xóm liều: “Nào mấy ai quan
tâm xem những người đàn bà xóm liều làm nghề ngỗng gì. Họ nhặt rác hay
đại loại những nghề tương tự, hẳn vậy. Họ sống dai dẳng kiểu cỏ dại, tầm
gửi, chỉ cần bám hờ mảnh gỗ mục cũng sống. Họ lang thang vật vờ dưới ánh
mặt trời. Khi chiều xuống họ rút về những hang ổ tù mù ngọn đèn dầu, hòa
nhập vào bóng đêm (..) được ăn no, được chơi thoải mái, ngủ lăn lóc bất kỳ
xó xỉnh nào. Rồi mẹ khắc tìm được, khắc bế từng đứa về túp lều rách” (Hạt
vừng). Đó là niềm xót xa thương cảm của nhân vật Tôi trước cảnh ngộ của
những người con gái nghèo phải bán thân nơi cửa biển Hải Phòng, nhân vật
Tôi đã liên tưởng cuộc đời họ giống như những cụm bèo, bị đời vùi dập tàn
nhẫn: “bị biển ném ào lên kè đá, giập nát, đôi khi chúng còn tươi với những
búp mọng xanh” (Con bướm nhựa cánh xanh). Nhà văn trân trọng sự hy sinh
và chia sẻ với những mất mát, thiệt thòi mà người phụ nữ phải gánh chịu (Dì
Thảo), những éo le mà người phụ nữ gặp phải (Giao cảm cuối cùng, Ngày
cuối,…). Đoàn Lê viết về họ bằng tất cả sự chân thành và đồng cảm của trái
tim mình – một trái tim của người phụ nữ từng trải, đã từng bị nhiều tổn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn99
thương và mất mát.
93
Giọng điệu trữ tình còn có trong Một ngày xứ em, Đêm ngâu vào, Dĩ
vãng thơm nồng, Mẹ con và thánh thần, Ngôi nhà gỗ,… Đây đều là giọng
trầm buồn, trĩu nặng suy tư về cuộc đời và con người. Bao trăn trở suy nghĩ
của nhân vật đều được tái hiện trên từng trang viết như cần một sự cảm thông
chia sẻ. Ở Giường đôi xóm Chùa vút lên giọng trữ tình thương cảm da diết:
“những khoảng thời gian ít ỏi tôi đã trải qua cùng anh rốt cục là có thật hay
cũng chỉ là một con số ảo trên mặt quân xúc xắc (..) một dịp chồng tôi đi công
tác, một dịp tình cờ gặp cô ấy, tình cờ phải nói dối…”. Bất hạnh có thể ập đến
với con người bất cứ lúc nào. Vì vậy, Đoàn Lê trân trọng những khoảnh khắc
hạnh phúc ngắn ngủi của con người. Đối với người đàn bà, hạnh phúc có khi
chính là cảm giác “nhồn nhột rạo rực” khi thực hiện thiên chức thiêng liêng
của mình. Hạnh phúc cũng là những khoảnh khắc được sống trong những giấc
mơ tình yêu “nồng nàn, ngọt ngào” của riêng mình (Dấu hỏi gửi Thượng đế),
hạnh phúc là được sống cho người mình yêu và chết cho người mình yêu
(Tình Guột),…
Có khi chính từ nỗi đau, nỗi bất hạnh của mình mà Đoàn Lê tìm thấy vẻ
đẹp lấp lánh của những tâm hồn thánh thiện. Trong Tình Guột, ta thấy một
giọng văn bùi ngùi, xúc động đầy xót xa: “ có Thảo nó không thấy cô độc,
không thấy bị ghẻ lạnh. Những khuyết tật vốn làm nó đau khổ bỗng nhiên biến
mất vì báu vật đẹp đẽ nó che chở, nâng niu. Nó lại thích bị ngược đãi để được
hai bàn tay bé bỏng của cô Thảo vỗ về”.
Trên trang viết của Đoàn Lê là cái chất giọng trữ tình sâu lắng, thấm
buồn, lắng đọng nỗi niềm nhân thế và tâm tư của cái tôi chủ thể.
Có thể nói trong truyện ngắn Đoàn Lê có sự giao thoa giọng điệu.
Trong giọng hài hước dí dỏm xen lẫn giọng trữ tình sâu lắng, hai chất giọng
này đan xen, hòa kết làm đậm các sắc thái giọng điệu với các luyến nhấn lôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn100
cuốn người đọc.
94
KẾT LUẬN
1. Mãi đến thập niên tám mươi của thế kỷ XX, cái tên Đoàn Lê mới
xuất hiện trên văn đàn Việt Nam đương đại. Sự hiện diện muộn màng của một
người phụ nữ đã có thâm niên hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật như điện
ảnh và hội họa như đã bổ sung, làm giàu thêm vốn sống và năng lực sáng tạo
nơi chị, thôi thúc chị dấn bước vào lãnh địa văn học mà chị đam mê từ thời
thiếu nữ. Và ngay từ tác phẩm dài hơi đầu tiên của Đoàn Lê với nhan đề Cuốn
gia phả để lại đã nhận được giải thưởng cao nhất của Hội nhà văn Việt Nam
năm 1990. Từ đó, cái tên Đoàn Lê trở thành quen thuộc với đời sống văn học
đương đại nói chung và dòng văn học nữ nói riêng. Dù tiểu thuyết là thể loại
Đoàn Lê giành được thành công từ bước đi ban đầu nhưng truyện ngắn mới là
thể loại làm nên “thương hiệu” Đoàn Lê với các tập Thành hoàng làng xổ số
(1992), Nghĩa địa xóm Chùa (1999), Trinh tiết xóm Chùa (2005), Người
khách đêm giao thừa (2007), ... và Sex (2010), Đoàn Lê – tác phẩm chọn lọc
(2011). Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc tác phẩm của Đoàn Lê, những độc
giả gần gũi nhà văn đã cảm nhận một cách chân xác: “Ngoài cái tài văn
chương như trời đất đã “mặc định” vào Đoàn Lê, hình như truyện ngắn còn
có mối nhân duyên đặc biệt với chị. Có thể nói Đoàn Lê viết truyện cứ như
không, cứ như câu chuyện cuộc đời – sự vật, thân phận con người – nhân vật
nó vốn thế, chị chẳng cần sáng tác hư cấu. Nhưng sau khi đọc xong truyện rồi,
gấp sách lại thì các chi tiết ngữ cảnh, nhân vật từ các trang chữ ấy bỗng hiện lên
thành hồn cốt, tính vía, nó ám ảnh người ta mãi ” [71] (Vũ Quốc Văn).
2. Khi đã bước vào thế giới truyện ngắn của Đoàn Lê, người đọc không
thể dứt ra được, bởi ở đó, người ta nhận ra hiện thực đời sống và con người
của ngày hôm nay, của thì hiện tại dở dang, chưa ổn định, mang đậm màu sắc
thế sự đời tư. Nổi bật ở truyện ngắn Đoàn Lê là hình tượng xóm Chùa với các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn101
vấn đề đạo đức nhân sinh của xã hội hiện đại, chịu tác động sâu sắc của nền
95
kinh tế thị trường với cả mặt tích cực lẫn tiêu cực trong quá trình đô thị hóa.
Ở đây, hiện thực đời sống không chỉ được nhà văn nhận diện ở hiện thực trên
“một cõi nhân gian bé tí”, mà ở cả hiện thực thứ hai, hiện thực ở cõi âm với
đầy đủ các màu sắc thẩm mỹ xen lẫn bi hài. Và thêm một nét đặc biệt góp
phần làm phong phú hơn trong thế giới truyện ngắn Đoàn Lê là sự hiện hữu
của yếu tố tự truyện. Đi sâu vào khai thác chất liệu cái tôi, người đọc nhận ra
bóng dáng của nhà văn trong các nhân vật nữ đa tài, đa đoan, vừa dịu dàng,
đằm thắm vừa dữ dội, quyết liệt trong đời riêng và trong cả nghiệp mưu sinh.
3. Bức tranh hiện thực trong truyện ngắn Đoàn Lê ở cả chốn nhân gian
hay ở thế giới bên kia (cõi âm) đều được thể hiện với những phương thức
nghệ thuật, những thủ pháp biểu hiện mang tính chuyên nghiệp, đầy hiệu quả
thẩm mỹ: từ cách thức xây dựng tình huống truyện ứng với nội dung phản ánh
đến nghệ thuật miêu tả các trạng thái tâm lý của nhân vật. Dưới ngòi bút tài
hoa của nhà văn một thế giới nhân vật đa dạng và sắc nét với nhiều kiểu loại
nhân vật hiện ra bằng những hình tượng nghệ thuật khá sắc sảo và hài hước.
Bên cạnh đó, Đoàn Lê thu hút người đọc ở khả năng sử dụng linh hoạt ngôn
ngữ và các sắc thái giọng điệu khi thủ thỉ tâm tình, lúc khoái hoạt, hài hước,
khi dịu nhẹ, buồn thương. Các chất giọng ấy được hòa quyện, đan xen tạo nên
sự đa dạng, độc đáo trong ngôn ngữ, giọng điệu của truyện ngắn Đoàn Lê.
4. Tất nhiên bên cạnh sở trường, truyện ngắn Đoàn Lê cũng không
tránh được sở đoản, nhưng xét trong chỉnh thể, truyện ngắn của chị đã đạt
được thành tựu trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Có thể nói truyện
ngắn Đoàn Lê đã góp một điểm sáng trong bức tranh văn xuôi Việt Nam thời
kỳ đổi mới, và là một “mắt xích” rất riêng trong dòng chảy của các cây bút nữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn102
đương đại.
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andrew Taylor, “Cốt truyện – cửa ải gian khó của nhà văn”, nguồn:
http://evan.vnexpress.net.
2. Ngọc Anh (ngày 10/07/2003), “Đã đến lúc những người đàn bà nổi loạn”,
Báo nông thôn ngày nay.
3. Nhuệ Anh (2006), “Các nhà văn nữ và thế kỷ của nàng”, Tạp chí văn
nghệ, (21).
4. Thái Phan Vàng Anh, “Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam
đương đại”, nguồn: http://tapchisonghuong.com.
5. Thái Phan Vàng Anh, “Từ phương diện điểm nhìn nhận diện quan niệm
trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam đương đại”, nguồn:
vanganh.hoaco@gmail.com.
6. Thái Phan Vàng Anh, “Hình tượng người trần thuật trong truyện ngắn
Việt Nam thời kỳ đổi mới”, nguồn: vanganh.hoaco@gmail.com.
7. Thái Phan Vàng Anh (3/2012) “Chiến tranh mang khuôn mặt phụ nữ
trong văn xuôi hậu chiến”, Tạp chí văn nghệ quân đội, (4).
8. Vũ Tuấn Anh (1995), “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí văn
học, (4).
9. Vũ Tuấn Anh (1996), “Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện
thể loại”, Tạp chí văn hóa, (9).
10. Y Ban (2006), “Hãy lắng nghe tác phẩm của nhà văn nữ”, nguồn:
http://vietbao.com.
11. Việt Báo, “Nữ sĩ Đoàn Lê: “Trời không nín gió””, nguồn:
http://www.cand.com.vn.
12. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn học Việt Nam hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn103
đại”, Tạp chí văn học, (9).
97
13. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới
cơ bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Nguyễn Thị Bình (2001), “ Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau
1975”, Tạp chí văn học số (3).
15. Triệu Thanh Bình, “Nhà văn Đoàn Lê: “Tình riêng bỏ chợ, tình người đa
đoan””, nguồn: http://tintuc.xalo.vn.
16. Nguyễn Minh Châu (1987), “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh họa”, Tạp chí văn nghệ Quân đội, (49, 50).
17. Diễm Chi (thực hiện), Võ Thị Hảo (2005), “Tôi là người nô lệ cho gia
đình”, Báo phụ nữ, (7).
18. Nguyễn Lân Dũng, “Ai cứu xóm Chùa?”, Nguồn:
Nguyenlandung.vietsciences.org.
19. Đông Dương, “Nhà văn Đoàn Lê và huyền thoại xóm Chùa”, nguồn:
http://thuvien-ebook.com.
20. Đặng Anh Đào (1993), “Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay”, Tạp
chí văn học, (3).
21. Nguyễn Đăng Điệp, “Vấn đề phái tính nữ và âm hưởng nữ quyền trong
văn học Việt Nam đương đại”, nguồn: http://phongdiep.net.
22. Hà Minh Đức (1991), Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb sự thật, Hà Nội.
23. Hoàng Thị Hồng Hà (2003), “Truyện ngắn nữ và xu hướng tự nghiệm”,
Tạp chí văn hóa – văn nghệ công an, (10).
24. Việt Hà (thực hiện), “Nhà văn Đoàn Lê: Một mình một lối”, nguồn:
http://vnca.cand.com.vn.
25. Nguyễn Đức Hạnh (2008), Tiểu thuyết Việt Nam thời kì 1965 – 1975
nhìn từ góc độ thể loại, Nxb Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn104
26. Hà Nội 36 truyện ngắn đặc sắc của nhà văn nữ (2009), NXB Lao động.
98
27. Ngọc Hiền, “Đoàn Lê và những cung bậc cuộc đời”, nguồn:
http://www.cand.com.vn.
28. Nguyễn Thái Hòa (2000), Mấy vấn đề thi pháp của truyện,Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
29. Nguyễn Khải (18/9/1990), “Nghề văn cũng lắm công phu”, Báo Văn nghệ.
30. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới – Hội
nhà văn Việt Nam.
31. Mai Ngọc , “Trinh tiết xóm Chùa – Tập truyện ngắn hấp dẫn của nhà văn
nữ Đoàn Lê”, nguồn: http://thuvien-ebook.com.
32. Đào Thuỷ Nguyên (2008), Phương pháp tiếp cận sáng tác của Nguyễn
Khải trong giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo Dục.
33. Nhiều tác giả (2006), Từ điển thuật ngữ văn học,Nxb Thế giới.
34. Nhiều tác giả (2002), Lý luận văn học (tập giáo trình dạy học), Nxb Giáo dục.
35. Người khách đêm giao thừa – phút trải lòng của Đoàn Lê. Nguồn: Ita
express (Tập đoàn tân tạo).
36. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
các nhà văn, Nxb Giáo dục.
37. Nguyễn Đăng Mạnh, “Lợi thế truyện ngắn”, Tạp chí tác phẩm mới.
38. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển Thuật ngữ
văn học, Nxb ĐHQG, Hà nội.
39. Đoàn Lê (1990), Thành Hoàng Làng xổ số, Tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ.
40. Đoàn Lê (1999), Nghĩa địa xóm Chùa, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.
41. Đoàn Lê (1999), Trinh tiết xóm Chùa, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.
42. Đoàn Lê (2007), Người khách đêm giao thừa, Tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ.
43. Đoàn Lê (2010), … và sex, Tập truyện ngắn, Nxb Thanh niên.
44. Đoàn Lê (15-4-2010), “Cụ ngoại và tôi”, Báo Thời nay, (28).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn105
45. Đoàn Lê (6-9-2010), “Con mốc”, Báo Đại biểu nhân dân, (249).
99
46. Đoàn Lê (5-10-2010), “Vua gái”, Báo Đại biểu nhân dân, (278).
47. Đoàn Lê (10-2-2011), “Mỹ nhân mèo”, Báo Ngân hàng, (24).
48. Đoàn Lê (29-5-2011), “Tình muộn”, Báo Thanh niên, (149).
49. Đoàn Lê (9-7-2011), “Người xiếc chữ”, Báo Đại đoàn kết, (163).
50. Đoàn Lê (2011), Đoàn Lê - tác phẩm chọn lọc, Tập truyện ngắn, Nxb
Phụ nữ.
51. Dương Thị Thu Hiền (2007), Tô Hoài với 2 thể văn: Chân dung và tự
truyện, LVThS, ĐHSP Thái Nguyên.
52. Nguyễn Văn Long (2001), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau
cách mạng tháng tám, Nxb Giáo dục.
53. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb
Giáo dục.
54. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975:
Những vấn đề nghiên cứu giảng dạy, Nxb Giáo dục.
55. Nguyễn Văn Long – Trịnh Thu Tuyết (2007), Nguyễn Minh Châu và
công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học sư phạm.
56. Phương Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX,
Nxb Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
57. “Lời phát biểu trong cuộc thảo luận về “Truyện ngắn hôm nay””
(30/11/1991), Báo văn nghệ, (48).
58. Trần Đình Sử (chủ biên) (2000), Tự sự học, Một số vấn đề lí luận và lịch
sử, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
59. Hồ Anh Thái (19-9-2009), “ Đoàn Lê “chị tôi””, Báo Văn nghệ, (38).
60. Hồ Anh Thái, “Người đàn bà đa đoan”, Nguồn: http://Vietbao.com.
61. Hồ Anh Thái (2003), Tự sự 265 ngày, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà
văn (tái bản).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn106
62. Đỗ Ngọc Thạch, “Truyện ngắn – Đặc trưng thể loại”, nguồn: http://hnv.vn
100
63. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học.
64. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn
thể loại, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
65. Bùi Việt Thắng (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn,
tháng 1.
66. Bùi Việt Thắng (2004), “Truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí văn học, (1).
67. Bích Thu (1996), “Thành tựu truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí văn học, (6).
68. Trần Thị Việt Trung (2009), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi
Việt Nam hiện đại, Nxb ĐH Thái Nguyên.
69. Phùng Văn Tửu (1996), “Một phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí văn
học, (2).
70. Truyện ngắn nữ 2010 (2010), Nxb phụ nữ.
71. Vũ Quốc Văn (4-8-2012), “Thấp thoáng Đoàn Lê”, Báo Văn nghệ, (31).
72. Ý kiến của Vũ Thị Huyền (22-10-2010), Báo Hải Phòng cuối tuần.
73. Ngân Xuyên (dịch), “Bình luận về tập truyện Nghĩa địa xóm Chùa”,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn107
Nguồn: Viêt báo Nhật Việt.