ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÙI VŨ NGỌC TRÂM

TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn1

THÁI NGUYÊN - 2012

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÙI VŨ NGỌC TRÂM

TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÍCH THU

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn2

THÁI NGUYÊN - 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội

dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố

trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn3

Bùi Vũ Ngọc Trâm

LỜI CẢM ƠN

Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn

PGS.TS Nguyễn Bích Thu, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong

suốt quá trình thực hiện đề tài.

Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại

học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái

Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên

cứu tại trường.

Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới BGH, bạn bè, đồng

nghiệp trường THPT Thác Bà, Sở GD & ĐT tỉnh Yên Bái cùng gia đình và

những người thân yêu đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện

giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn4

Bùi Vũ Ngọc Trâm

i

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục ........................................................................................................... i

MỞ ĐẦU........................................................................................................1

NỘI DUNG ..................................................................................................10

Chương 1. TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ TRONG DÒNG CHẢY

TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM SAU 1975 ............................................10

1.1. Khái lược truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ...................................... 10

1.1.1. Một số vấn đề lý thuyết thể loại. ...................................................10

1.1.2. Bối cảnh lịch sử - thẩm mĩ của văn học Việt Nam sau 1975 .........13

1.1.3. Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ..................................................16

1.2. Khái lược về thế hệ nhà văn nữ Việt Nam sau 1975 ........................ 18

1.2.1. Sự nối tiếp của nhiều thế hệ cầm bút ............................................18

1.2.2. Một số biểu hiện của “đặc điểm giới” trong tác phẩm của các

nhà văn nữ 1975 .....................................................................................20

1.3 Đoàn Lê - một cây bút nữ độc đáo của văn học Việt Nam sau 1975 22

1.3.1. Người phụ nữ đa tài, đa đoan........................................................22

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác phong phú ......................................................27

1.3.3. Vị trí truyện ngắn trong sáng tác của Đoàn Lê ..............................30

Chương 2. BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG TRONG

TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ.......................................................................34

2.1. Ý thức của nhà văn với hiện thực đời sống..................................... 34

2.1.1. Đi sâu khai thác mảng đề tài thế sự..............................................34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn5

2.1.2. Ý thức đối thoại ngầm với những quan niệm sáng tạo đương đại......41

ii

2.2. Hình tượng xóm Chùa và các vấn đề đạo đức – xã hội đương đại . 46

2.2.1. Tác động của nền kinh tế thị trường và sự băng hoại các giá trị

đạo đức...................................................................................................46

2.2.2. Chân dung nhân cách méo mó, bi hài ..........................................52

2.2.3. Thân phận người phụ nữ trong xã hội hiện đại.............................58

2.3. Thế giới tưởng tượng trong truyện ngắn Đoàn Lê........................... 63

2.3.1. Thế giới cõi âm, giấc mơ, sự biến hình .........................................63

2.3.2. Tưởng tượng – một cách nhận thức về thực tại .............................73

2.4. Yếu tố tự truyện trong truyện ngắn Đoàn Lê ................................... 74

2.4.1. Nét riêng của yếu tố tự truyện trong sáng tác Đoàn Lê .................74

2.4.2. Những trải nghiệm và tâm tư của Đoàn Lê ...................................76

Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NGHỆ THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ .......................................................78

3.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện .......................................... 78

3.1.1. Tình huống hiện thực....................................................................78

3.1.2. Tình huống giả tưởng – hài hước ..................................................79

3.1.3. Tình huống giả tưởng – kinh dị.....................................................81

3.1.4. Sự đan xen các tình huống ............................................................82

3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ................................................. 83

3.2.1. Nắm bắt nhanh các trạng thái tâm lý nhân vật...............................83

3.2.2. Sắc sảo và hài hước trong cách sử dụng các chi tiết mô tả ............86

3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê ......... 87

3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê...........................87

3.3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê .........................89

KẾT LUẬN..................................................................................................94

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn6

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................96

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn7

CHÂN DUNG NHÀ VĂN ĐOÀN LÊ

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

Truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay phát triển mạnh mẽ cả về

số lượng và chất lượng. Đặc biệt sau 1986, trong không khí dân chủ hóa của

đời sống văn học, truyện ngắn Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể.

Hòa vào dòng chảy ấy không thể không kể đến những đóng góp của các nhà

văn nữ thời kỳ đổi mới. Trên văn đàn, sự hiện diện truyện ngắn của những

cây bút nữ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc như Phan Thị Vàng

Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư,…Trong

số đó, sáng tác của Đoàn Lê dù không ồn ào gây “sốc” như một số tác giả nữ

trẻ khác nhưng đọc tác phẩm của chị, độc giả dễ ấn tượng với con người, cuộc

sống, với cảm hứng và cách viết của nữ sĩ. Sáng tác của Đoàn Lê thực sự đã

làm sinh động, phong phú thêm cho đời sống văn xuôi nói riêng và văn học

nước nhà nói chung.

Đoàn Lê tên thật là Đoàn Thị Lê, sinh ngày 15.04.1943 ở thành phố

Bengich (nay là phố Lê Lợi – Hải Phòng). Không riêng gì ở Hải Phòng mà

đối với giới văn nghệ sĩ cả nước tên tuổi nữ sĩ Đoàn Lê đã trở nên quen thuộc.

Gọi chị là nhà văn, họa sĩ, nhà biên kịch, diễn viên hay đạo diễn đều đúng cả.

Những “cầm kỳ thi họa” đem lại cho Đoàn Lê một danh tiếng tài hoa. Học vẽ

từ bậc thầy như Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên. Học điện ảnh từ các bậc

thầy của Nga và Việt Nam. Khởi nghiệp biên kịch điện ảnh với những tác

phẩm được đồng nghiệp đánh giá tốt. Nhưng cuối cùng, văn xuôi mới là sở

trường của người đàn bà thành phố cảng, vẻ thùy mị duyên dáng song hành

với tính cách một người đàn bà quyết đoán, sắc sảo. Những điều dường như

xung khắc ấy cùng lúc tồn tại trong một con người, dệt nên những trang văn

xuôi tài hoa, vừa dịu dàng, vừa quyết liệt, lôi cuốn sự chú ý của người đọc

cũng như giới nghiên cứu, giảng dạy văn học Việt Nam đương đại. Nói như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn8

Đoàn Lê: “tôi đặc biệt thích viết truyện ngắn, chỉ những gì không thể viết

2

ngắn được thì tôi đành chịu”. Hơn thế nữa, ở nữ nhà văn này, người đọc nhận

ra sự hội tụ các yếu tố của nhiều loại hình nghệ thuật: điện ảnh, hội họa, thi ca

qua các trang văn của chị.

Những tiểu thuyết đầy trăn trở tâm huyết của chị như Cuốn gia phả để

lại, Lão già tâm thần, Người đẹp và đức vua, Tiền định gây được nhiều thiện

cảm với bạn đọc. Cuốn gia phả để lại ngay khi mới ra mắt công chúng đã

được nhận giải thưởng văn học của Hội nhà văn Việt Nam (1990). Song phải

kể đến thành quả chị nhận được ở truyện ngắn. Truyện của chị được dịch tại

Mỹ, Thụy Điển, Đức và ở đâu cũng được hoan nghênh. Có thể kể tên những

tập truyện ngắn của Đoàn Lê như Thành hoàng làng xổ số, Trinh tiết xóm

Chùa, Người khách đêm giao thừa, Nghĩa địa xóm Chùa, …Và Sex. Đọc văn

chị, ta bị cuốn hút bởi cách viết dung dị, những nhận xét hóm hỉnh và sâu sắc

về nhân tình thế thái, về những buồn vui ấm lạnh của cuộc đời. Truyện ngắn

của Đoàn Lê là một tiếng nói quen thuộc mà mới lạ, mang đậm dấu ấn sáng

tạo của nhà văn.

Đến nay, tuy đã có một số bài giới thiệu, bình luận, đánh giá về tác

phẩm Đoàn Lê của một số nhà văn, nhà nghiên cứu nhưng vẫn chưa phải là

những công trình mang tính hệ thống, khẳng định vị trí của Đoàn Lê trong dòng

văn học nữ đương đại và rộng ra trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.

Trên đây là những lý do để chúng tôi chọn đề tài cho luận văn của mình

là TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ. Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi muốn tiếp cận

và nhận diện những thành tựu về nội dung cũng như về nghệ thuật của truyện

ngắn Đoàn Lê, đồng thời đặt sáng tác của chị trong sự vận động và đổi mới

của văn xuôi Việt Nam đương đại.

2. Lịch sử vấn đề

Đam mê và miệt mài, viết văn, làm thơ, biên kịch, đạo diễn phim và vẽ

tranh, một Đoàn Lê vẫn tiếp diễn trên con đường văn học nghệ thuật với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn9

nhiều chữ “sĩ”. Cuộc đời chị là vậy, đa mang, truân chuyên nhưng những đứa

3

con tinh thần của người đàn bà mảnh mai và cương nghị này lại có sức hấp

dẫn, cuốn hút độc giả và giành được những giải thưởng danh giá.

Trong quá trình tìm hiểu về Đoàn Lê và tác phẩm của chị, chúng tôi thu

thập được một số bài viết để tạo cơ sở cho một cái nhìn bao quát về truyện

ngắn Đoàn Lê.

2.1. Những ý kiến, những bài viết có tính chất khái quát về truyện ngắn

Đoàn Lê.

Trong các bài viết về sáng tác của Đoàn Lê, chúng tôi để ý nhiều đến

những bài viết của nhà văn Hồ Anh Thái – một nhà văn đã có cả một quá

trình theo dõi những sáng tác của chị. Với số lượng bài viết về Đoàn Lê nhiều

hơn cả, ông đã nắm được cái “thần” rất riêng, độc đáo trong giọng văn của

chị: “ Một giọng văn được nhớ, nền nã, dung dị bao giờ cũng kèm theo chất

hài hước ngấm ngầm” [60]. Hồ Anh Thái đã rất chú ý đến nghệ thuật sử dụng

những yếu tố kì ảo của nữ văn sĩ này. Ông cho rằng yếu tố kì ảo của Đoàn Lê

trong những truyện tiêu biểu nhất ấy là “cái thực lẫn với cái ảo chỉ làm lạ

hóa, chỉ thay đổi một góc nhìn hiện thực chứ không phải yếu tố xoay chuyển

và quyết định hiện thực nghệ thuật ” [59].

Chú ý đến bút pháp và giọng điệu, tạp chí Kirkus Peviews nhận xét:

“Thảng hoặc Đoàn Lê có xu hướng ngụ ngôn kiểu Kafka như Lên ruồi…ở chỗ

khác, những truyện ngắn đạt tới giọng điệu riêng tư thấm thía như trong

Giường đôi xóm Chùa…” [60].

Nghệ sĩ ưu tú Ngọc Hiền – một người bạn của nhà văn, cũng có tới hai

bài viết về chị. Ở Đoàn Lê – những cung bậc cuộc đời (http://vietbao.com.vn)

đã đưa những nhận định không thể phủ nhận: “…Có lẽ nếm trải cuộc đời với

đầy đủ những cung bậc buồn vui, những hạnh phúc và bất hạnh đã qua của

người đàn bà đa đoan này đã làm nên những trang viết mang màu sắc Đoàn

Lê”. Và thực sự là như thế, “không phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm gan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn10

ruột của chị, chị đã có chỗ đứng thật đẹp trong trái tim người đọc” [27].

4

Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, Việt Hà với bài viết Người khách

đêm giao thừa – phút trải lòng của Đoàn Lê nêu đặc điểm: “nhân vật trong

truyện ngắn Đoàn Lê thường có những thiệt thòi về ngoại hình…Chính từ nhân

vật kia nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp bất tử của tình yêu nguyên vẹn…” [35].

Trong bài Thấp thoáng Đoàn Lê (Báo Văn nghệ số 31 ra ngày

4/8//2012), tác giả Vũ Quốc Văn đã nhận xét về truyện ngắn Đoàn Lê: “Nó

(Truyện ngắn Đoàn Lê – Bùi Vũ Ngọc Trâm) như gió, như nước, hư thực hữu

hình, vô ảnh cuốn người ta, mê hoặc người ta khôn cưỡng lại để cười, buồn

thương, xót xa rồi mở mắt mà thức ngộ, mà nhận chân cuộc sống” [71].

2.2. Những ý kiến, những bài viết về một tập truyện, một tác phẩm cụ thể.

Ý kiến của tác giả Bonnier Crown (NewYork) trên tờ WorldLiterature

Today về tập truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa (The cemetery of Chua

village) – tập truyện được nhà xuất bản Curbtone Press ấn hành và có mặt

trong hệ thống hiệu sách toàn nước Mỹ, được giới thiệu và bán trên mạng

amazon.com. Trong bài viết, tác giả nói lên cảm nhận chung của mình khi đọc

tập truyện này: “ Đoàn Lê đã viết những truyện ngắn như những viên đá quý,

những truyện ngắn có thể đọc như truyện phúng dụ, châm biếm, huyễn tưởng.

Dù thuộc loại gì đi nữa, “Nghĩa địa xóm Chùa” cũng khiến người đọc bật

khóc bật cười… tập truyện ngắn phản ánh sự suy sụp các giá trị truyền thống

trước sự tham lam, hám lợi, quan liêu, đua đòi, sự áp bức giai cấp và tình

dục, sự tham nhũng và vi phạm nhân quyền…tác phẩm này của Đoàn Lê rất

đáng được giới thiệu vì văn phong tinh tế, linh hoạt, nó không chỉ là một sự

lựa chọn tốt cho văn học châu Á, mà còn cho các lớp học viết văn” [73].

Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú khi biên tập để in truyện ngắn Nghĩa địa

xóm Chùa trên tạp chí Tác phẩm mới đã nói về cảm xúc của mình khi đọc:

“hay Đoàn Lê nghi có mầm bệnh trong người? Chỉ có người ốm mới dám viết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn11

về những truyện khủng khiếp như vậy” [40]. Cùng chia sẻ với cảm nhận ấy,

5

tác giả Mai Ngọc bàn thêm: “Truyện ngắn này có phong cách rất mới. Nhân

vật trong truyện là những người đã chết. Chết nhưng vẫn sống trong thế giới

riêng, song song với thế giới của những người sống. Ở đây, những người chết

nhìn, nghe ngóng và phê phán chuyện của người sống, y hệt như khi họ còn

sinh thời”. Qua tình huống nhầm lẫn “ khiến người đọc ám ảnh cho xã hội mà

họ đang sống, nơi chỉ cần chút tiền “lót tay tiêu cực phí” là có thể thay đổi

được cục diện” [35]. Để có được lời đánh giá cao như vậy của đồng nghiệp là

điều mà không phải ai cũng có được.

Tạp chí Nghiệp đoàn phát hành (Consotium Distributorn) khi giới thiệu

tập truyện ngắn Trinh tiết xóm Chùa có viết: “Đoàn Lê được ghi nhận ở

phong cách đa dạng và sức sáng tạo tươi mới. Với học giả, những truyện

ngắn này cho một cái nhìn vào bên trong văn hóa Việt Nam sau đổi mới. Với

người đọc nói chung, đây là những tác phẩm bao quát và đầy nhân văn về

những đề tài như lòng tham, hôn nhân, ly dị, tuổi già; đó là những tác phẩm

về quyền con người, khảo sát tất cả những gì bí ẩn tinh tế của trái tim con

người” [41]. Cũng bàn về tập Trinh tiết xóm Chùa, giáo sư Nguyễn Lân

Dũng, một người “ngoại đạo” với văn chương cũng phải thốt lên: “Đọc xong

16 truyện trong tập sách này lòng tôi đau xót quá. Đành rằng không phải chỗ

nào cũng như xóm Chùa này, nhưng rõ ràng ở nhiều nơi nông thôn hiện đã

không còn bình yên nữa…Những xóm Chùa vẫn hiện diện nơi này nơi nọ với

những biến tướng khác nhau, nhưng đều giống nhau ở sự tha hóa” [18].

Trong bài viết Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975, tác giả

Nguyễn Thị Bình đã đề cập đến cảm hứng trào lộng biểu hiện thông qua việc

xây dựng các tình huống trào phúng trong văn xuôi sau 1975, tác giả nêu ví

dụ: “Các tác phẩm Thành hoàng làng xổ số, Đất xóm Chùa của Đoàn Lê…

đầy rẫy những tình huống trào phúng” [14] và trong chuyên luận Văn xuôi

Việt Nam 1975 – 1995. Những đổi mới cơ bản, tác giả nhận xét: “…Thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn12

hoàng làng xổ số, Đất xóm Chùa… là sự phóng đại hiện thực theo con mắt

6

trào lộng”, còn Người đẹp xóm Chùa “là số phận của nghệ thuật chân chính

trong môi trường phàm tục” [13].

Theo http://Vietbao.com, Hồ Anh Thái nhận thấy rằng ở Giường đôi

xóm Chùa có sự “xót xa thấm thía, sự hợp tan của một tổ ấm thường ở bên

ngoài ý chí của con người, có khi nó là bất khả tri”. Ở Người đẹp xóm Chùa,

ông phát hiện ra rằng “hiện tại chỉ trong thoáng chốc được đẩy về thành quá

khứ, khoảnh khắc hiện tồn bất chợt nhuốm màu trải nghiệm của cái đẹp đi

qua thời gian trong mối tương tác với thời gian”, còn ở Mẹ và con và thánh

thần, ta thấy “chị tự mổ xẻ theo kiểu không gây mê” [60].

Trên trang web của Tập đoàn tân tạo (Ita expess) có đăng bài viết bình

luận về tập truyện ngắn Người khách đêm giao thừa, trong đó có đoạn “Tập

truyện ngắn “Người khách đêm giao thừa” vẻn vẹn 12 truyện ngắn – 12 lần

tâm linh tác giả run lên dưới cái rét cuộc đời. Những khoảnh khắc tận cùng

của một giây cuối, một lần cuối và một con người đứng bơ vơ rồi đổ bóng

xuống lòng nhân thế. Từng trang văn xuôi xông lên mùi cát bụi, mùi nước

mắt, mùi mồ hôi nghe thật gần gũi thân quen” [35].

Ý kiến của Vũ Thị Huyền về tập truyện …và Sex cho rằng đây là

“mảnh ghép cuộc sống luôn được bà phụng dựng – theo phong cách nào –

vẫn cảm nhận được xã hội hiện đại với những mặt trái của thị trường. Những

gió độc làm tàn úa một vùng văn hóa (A Tourism xóm Chùa). Nền tảng xã

hội, tế bào xã hội – gia đình (Trinh tiết xóm Chùa) lung lay tận gốc. Và đặc

biệt trong chuyện “Mẹ và con và thánh thần” (với lời đề “Tặng con trai tội

nghiệp”), người đọc là tôi phải chùng lòng trước nỗi đau rứt ruột về tình mẫu

tử của người mẹ mất con vì tệ nạn xã hội thay cho một khát vọng vào một kiếp

sau mẹ lại là mẹ, con lại là con” [70].

Trên đây mới chỉ dừng lại ở phạm vi một bài báo hoặc những đánh giá

khái quát nằm trong các tiểu luận mang tính khái quát về văn học. Về cơ bản,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn13

các bài viết, các ý kiến nêu trên đều đánh giá cao Đoàn Lê. Cho đến thời điểm

7

này vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và hoàn

chỉnh về truyện ngắn Đoàn Lê. Các bài viết còn lẻ tẻ nhưng là những gợi dẫn

quý báu cho việc tiếp cận và triển khai luận văn của chúng tôi.

3. Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc khảo sát, tìm hiểu truyện ngắn Đoàn Lê, luận văn nhằm

mục đích:

3.1. Nhận diện và miêu tả những đặc điểm truyện ngắn Đoàn Lê về nội dung

và nghệ thuật. Đồng thời chỉ ra những nét đặc sắc, riêng biệt của Đoàn Lê

trong cách thể hiện cuộc sống và con người.

3.2. Khẳng định vị trí của Đoàn Lê trong đời sống văn học đương đại và ghi

nhận đóng góp của cây bút nữ này với thể loại truyện ngắn.

4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đoàn Lê sáng tác nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,... Tuy

nhiên, luận văn của chúng tôi chỉ tập trung vào thể loại truyện ngắn.

Trong thể loại truyện ngắn, chúng tôi tập trung khai thác các khía cạnh

về bức tranh hiện thực đời sống và một số phương thức thể hiện nghệ thuật

như: xây dựng tình huống truyện, ngôn ngữ, giọng điệu…

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của luận văn chúng tôi tập trung vào việc khảo sát 5

tập truyện ngắn sau của Đoàn Lê:

 Thành hoàng làng xổ số (Nhà xuất bản Phụ nữ, 1990)

 Nghĩa địa xóm Chùa (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999)

 Trinh tiết xóm Chùa (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2005)

 Người khách đêm giao thừa (Nhà xuất bản Phụ nữ, 2007)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn14

 …và Sex (Nhà xuất bản Thanh niên, 2010)

8

Ngoài ra, chúng tôi cũng sẽ chú ý tới một số truyện ngắn mới nhất,

chưa được tập hợp in thành tập truyện của tác giả như:

 Cụ ngoại và tôi (04 – 2010)

 Con mốc (09 – 2010)

 Vua gái (10 – 2010)

 Mỹ nhân mèo (02 – 2011)

 Tình muộn (05 – 2011)

 Người xiếc chữ (07 – 2011)

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có sự đối sánh truyện ngắn Đoàn

Lê với một số tác phẩm của nhà văn nữ khác cùng thời.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để phục vụ cho mục đích nêu trên, luận văn này có kết hợp các phương

pháp nghiên cứu như:

5.1. Phương pháp hệ thống

5.2. Phương pháp thống kê, phân loại

5.3. Phương pháp phân tích tổng hợp

5.4. Phương pháp so sánh

6. Nhiệm vụ và đóng góp của luận văn

6.1. Nhiệm vụ

Luận văn triển khai nhằm khẳng định thành tựu của truyện ngắn Đoàn

Lê trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật như: Bức tranh hiện thực đời

sống, phương thức xây dựng tình huống truyện, mô tả tâm lý nhân vật, giọng

điệu và ngôn ngữ trần thuật.

6.2. Đóng góp của luận văn

- Nhận diện những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật thể hiện trong

truyện ngắn Đoàn Lê. Từ đó đưa ra một cái nhìn hệ thống về truyện ngắn

Đoàn Lê.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn15

- Ghi nhận vị thế của Đoàn Lê ở thể loại truyện ngắn.

9

- Bước đầu minh chứng được sự phong phú, đa dạng của bức tranh

truyện ngắn nữ đương đại từ cái nhìn của một “mắt xích” truyện ngắn.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tham khảo, Nội dung

của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Truyện ngắn Đoàn Lê trong dòng chảy truyện ngắn nữ Việt

Nam sau 1975.

Chương 2: Bức tranh hiện thực đời sống trong truyện ngắn Đoàn Lê

Chương 3: Một số phương thức thể hiện nghệ thuật trong truyện ngắn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn16

Đoàn Lê.

10

NỘI DUNG

Chương 1

TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ TRONG DÒNG CHẢY

TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM SAU 1975

1.1. Khái lược truyện ngắn Việt Nam sau 1975

1.1.1. Một số vấn đề lý thuyết thể loại.

Văn học Việt Nam kể từ sau 1975 đã bước sang một thời kì mới, với sự

bừng nở của văn xuôi. Đặc biệt là từ giữa thập kỉ 80, khi ý thức văn hoá mới

hình thành, hệ hình giá trị biến đổi thì văn học đã thực sự chuyển sang một

hình thái khác trước, đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử văn học

dân tộc. Văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong bước ngoặt của dòng chảy hiện

đại ấy. Trong đó, truyện ngắn, một thể loại văn học được coi là “xung kích”

của đời sống văn học, một thể loại có tính chất “thuốc thử” đối với hầu hết

nhà văn trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình.

Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung thể loại của Truyện

ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử

thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn gọn. Bởi truyện ngắn được viết ra để

đọc liền một mạch. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ

yếu phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự khác (các loại truyện kể dân

gian cũng có độ dài tương đương với truyện ngắn). Hình hài của truyện ngắn

hiện đại như ta thấy hiện nay là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời,

một cách nắm bắt cuộc sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Khác với tiểu

thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn

của nó, truyện ngắn thường chỉ hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát

hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn17

người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp.

11

Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện

ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Về cách nắm bắt cuộc sống của thể

loại, truyện ngắn không có tham vọng ôm vào mình một hiện thực rộng lớn,

hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và hay” [63].

Nguyên tắc chưng cất của truyện ngắn không cho phép “dồn ép” hoặc “nhồi

nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương

như thế, thành truyện ngắn. Truyện ngắn hiện nay được hình thành từ mối

quan hệ con người với hoàn cảnh, mối quan hệ giữa thực chất sâu xa của hiện

tượng với biểu hiện bên ngoài, những mặt này đôi khi lẫn lộn với nhau khiến

người ta khó nhận ra một cách rành mạch.

Từ những sự kiện riêng lẻ trong cuộc sống, những trường hợp cá biệt,

người viết truyện ngắn phải tìm ra một cái gì chung, có ý nghĩa. Việc này

giống như cách làm của người thợ ngọc. Đá thì rất nhiều, nhưng không phải

đá nào cũng có ngọc. Người nghệ sĩ phải biết lựa chọn, rồi lại gia công thế

nào, để cuối cùng làm bật ra vẻ đẹp bấy lâu vẫn ẩn tàng trong đá chết. Các tác

giả truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện

một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con

người. Ám ảnh và đầy ấn tượng cũng là một trong những cách thức chiếm

lĩnh hiện thực và hấp dẫn người đọc của truyện ngắn. Về tác động của truyện

ngắn, do tính chất cô đúc, truyện ngắn có sức nén và sức công phá cao. Chỉ

cần một ít trang văn xuôi, người viết có thể làm “nổ tung trong tình cảm và ý

nghĩ của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người

đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại mãi không chán” [38, tr. 148].

Trong truyện ngắn hiện đại, nhiều khi cốt truyện gồm nhiều đường dây

cùng tồn tại, liên quan tới các hiện tượng mà bề ngoài dường như không có gì

liên quan tới nhau. Trong thời đại hiện nay, khi kỹ thuật đã phát triển tới một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn18

trình độ rất cao, nhân loại vẫn luôn luôn phải đối mặt với những vấn đề không

12

thể giải quyết, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Nhưng chính

trong một thế giới như vậy, văn học lại có điều kiện tìm ra mối quan hệ phức

tạp của các hiện tượng khác nhau. Với đặc trưng hết sức năng động, phản ứng

rất nhanh, dễ điều chỉnh và mau thu được kết quả, thể loại truyện ngắn có thể

dễ dàng theo dõi các qui luật sáng tạo của nhà văn, cùng là theo dõi việc giải

quyết những vấn đề được đề cập tới trong văn học. Bên cạnh đó truyện ngắn

cũng cho phép và khuyến dụ người viết thử nghiệm các phương pháp, hình

thức mới. So với việc phiêu lưu trong một thời gian gian dài với một cuốn

tiểu thuyết, việc “chơi” với một câu chuyện ngắn có lẽ có sức quyến rũ

hơn. Chính trong sự phát triển thể loại truyện ngắn người ta dễ cảm nhận

được sự uyển chuyển và khả năng thích nghi nhanh chóng của nó với thời đại,

với các trào lưu. Truyện ngắn hiện đại ngày nay đã cho thấy khá nhiều cách

tân và thể nghiệm táo bạo, vượt ra ngoài những giới hạn, phá vỡ cấu trúc năm

màn truyền thống, thậm chí truyện mà không có chuyện. Ở truyện ngắn, chi

tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí, không khí,

tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nhân vật. Nhận xét về

điều này, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt

truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể

chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo

chi tiết. Nó sẽ như nước lã” [58].

Sức hấp dẫn của truyện ngắn là ở chỗ nó không tự gói mình trong cái

áo chật hẹp của hình thức và của thể loại, mà luôn chứa đựng sức khai phóng

tiềm tàng. Ngay cả những truyện ngắn được cho là “không có gì để kể”, nó

vẫn có một độ căng hiện thực nhất định và khả năng bùng nổ.

Có thể gọi truyện ngắn là thể loại của thời hiện tại. Bởi cái chính, tác

động của truyện ngắn là tức thời và liền mạch. Nó tạo một lát cắt, bất ngờ đặt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn19

người đọc vào đâu đó giữa lòng cuộc sống rồi cứ thế đẩy anh ta đi tiếp.

13

Truyện ngắn không đòi hỏi người đọc phải bao quát được nhiều tầng của hiện

thực, nó chỉ là một khoảnh khắc được ngưng đọng, một tia sáng được soi

chiếu, thành ra người đọc dễ dàng đến với truyện ngắn trong bất cứ thời gian

nào, bối cảnh nào. Ký ức nó để lại bao giờ cũng tươi rói và đầy ấn tượng,

trong khoảnh khắc ấy, phút giây ấy. Cho nên, không đầy sự hoài vọng như

thơ hay tùy bút, không vươn mình kể những gì dài rộng như tiểu thuyết,

truyện ngắn thản nhiên bày biện một cách gọn ghẽ một hiện tại hiện tồn.

Dường như, truyện ngắn là thể loại thích hợp hơn cả để thể hiện những đoạn

cắt cuộc đời. Bởi quá khứ đã trôi qua, tương lai thì chưa tới, những mảnh vụn

tâm tình chỉ có thể dành cho hiện tại.

Hơn thế, trong nhịp sống hối hả ngày nay, con người có chút ít thời

gian để lật vội những trang báo, tạp chí hay kích chuột trên màn hình vi tính

để tìm đọc những sáng tác văn chương, truyện ngắn trở thành thể loại “hợp

thời” và cần thiết cho công cuộc duy trì văn hóa đọc của quần chúng.

1.1.2. Bối cảnh lịch sử - thẩm mĩ của văn học Việt Nam sau 1975

Mùa xuân năm 1975, chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh kết thúc cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chấm dứt sự chia cắt đất nước. Sự kiện này

mở ra một thời kỳ mới của xã hội và lịch sử dân tộc Việt Nam cùng những cơ

hội và thách thức mới ở phía trước.

Khi khúc khải hoàn vừa tấu xong, khi xúc cảm mãnh liệt về chiến công

tạm lắng xuống, thực trạng của đất nước sau chiến tranh với tất cả những đổ

nát, ngổn ngang, nhức nhối của nó đòi hỏi một sự nhận thức mới, sự đối mặt

với những vấn đề phức tạp đang diễn ra. Từ thời chiến bước sang thời bình,

hiện thực cuộc sống mở ra bao điều phức tạp, con người cũng có những thay

đổi trong tâm tư, tình cảm: trong kháng chiến, tất cả hướng về cái chung,

đồng lòng, đồng sức hướng về chiến thắng. Giờ đây, cuộc sống đầy lo toan,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn20

tính toán buộc con người phải căng mình lên đối mặt với những khó khăn,

14

những vun vén cá nhân. Các giá trị cao cả về xã hội, đạo đức, lối sống trong

chiến tranh bền vững thì đến giờ ít nhiều đã bắt đầu lung lay, rạn nứt. Các

chuẩn mực giá trị mới đang phôi thai từng bước hình thành. Đời sống văn hóa

– tư tưởng vào những năm tám mươi, chín mươi của thế kỷ đứng trước diễn

biến không ổn định. Những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường và việc

mở cửa, hội nhập làm nảy sinh tâm lý thực dụng, sùng ngoại, chạy theo lối

sống hưởng thụ vật chất, coi nhẹ các giá trị tinh thần của cộng đồng. Hiện

thực xã hội khiến con người chán nản, mất niềm tin, không có động lực để

phấn đấu.

Đứng trước những bất cập, những vấn đề nhức nhối, bức xúc của xã hội

hiện thực cuộc sống như muốn phá vỡ khuôn khổ vốn chật hẹp, bức bối của

nó. Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội, như

PGS.TS Phan Trọng Thưởng nhận định: “Mười năm sau chiến tranh, cơ chế

quan liêu bao cấp đã đến lúc bộc lộ hết những hậu quả nặng nề của nó trên

mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội. Hàng loạt chủ trương, chính sách đã

tỏ ra lỗi thời. Những quy luật đặc thù của đời sống chiến tranh đã hết hiệu

lực, không còn phù hợp với trạng thái phát triển của đất nước trong điều kiện

lịch sử mới”. Vậy nhu cầu đổi mới được đặt ra khẩn thiết và cấp bách.

Để khắc phục những sai lầm, khiếm khuyết, đưa đất nước vượt qua

cuộc khủng hoảng và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đại

hội Đảng toàn quốc lần VI đã đề ra đường lối đổi mới đất nước trong thời kỳ

quá độ. Có thể xem đây là bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc. “Đối với các

nước xã hội chủ nghĩa anh em, đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi

hỏi của thời đại, đối phó thắng lợi với mọi thử thách, đáp ứng những nhu cầu

ngày càng cao của nhân dân. Đối với đất nước ta, đổi mới có ý nghĩa sống

còn". (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VI 1987), với phương châm đổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn21

mới đồng bộ và toàn diện, và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng

15

sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã nghiêm khắc tự phê bình những chủ trương,

chính sách sai lầm, chủ quan, duy ý chí, đề ra đường lối phát triển nền kinh tế

hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ cơ chế

quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường, kế hoạch

hoá theo phương châm hạch toán kinh doanh... nhằm đưa đất nước ra khỏi

khủng hoảng, đi vào ổn định, phát triển. Giống như một cuộc lột xác đau đớn

để trưởng thành mạnh mẽ, đất nước ta đã chuyển mình để bắt kịp với quy luật

của sự phát triển. Những chuyển biến ấy đã tác động sâu sắc đến sự phát triển

của văn học nghệ thuật.

Văn học - hoạt động tư duy tinh tế, sâu sắc và mẫn cảm với hiện thực

đã được đặt lên hàng đầu trong công cuộc đổi mới. Tâm điểm của công cuộc

đổi mới là con người. Đáp ứng nhu cầu lịch sử, văn học đã tự nhận thức được

sứ mệnh của mình: công cụ quan trọng để hoàn thiện nhân cách con người.

Đổi mới văn học đã góp phần hình thành bộ mặt văn hóa xã hội trong thời kỳ mới.

Tư duy nghệ thuật cũ ngày càng tỏ ra không thích hợp với thời kỳ mới.

Sự chuyển đổi của tư duy nghệ thuật đã làm cho mối quan hệ giữa văn học và

hiện thực có sự thay đổi về chất. Suốt 30 năm chiến tranh, dường như nhà văn

chưa có điều kiện, thời gian để nghiền ngẫm, suy tư, để quan sát hiện thực từ

nhiều phía. Khi chiến tranh đã lùi lại phía sau, nhà văn mới có điều kiện để

quan sát, nhìn nhận nó trong tính toàn diện và nhiều mặt của sự kiện. Vấn đề

chiến tranh, số phận, đạo đức, nhân cách, những kiểu tư duy, làm ăn cũ đều

được nhìn nhận lại với ý nghĩa nhân văn mới. Và cùng với sự mở rộng giao

lưu, hội nhập văn hóa nhân loại, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công

nghệ, văn học cũng đã thực sự bước vào chặng đường đổi mới chính mình

theo xu hướng phát triển của thời đại.

Như vậy nhu cầu tự thân của văn học và nhu cầu xã hội đã dẫn đến đổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn22

mới văn học. Đổi mới văn học là một tất yếu lịch sử.

16

1.1.3. Truyện ngắn Việt Nam sau 1975

Truyện ngắn với ưu thế đặc biệt của thể loại luôn tỏ ra nhạy bén với cái

mới do tác động của điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội. Trong điều kiện hoàn

cảnh mới của đất nước sau 1975, thể loại nhạy cảm này chắc chắn có những

thay đổi quan trọng. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong công trình Truyện

ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại cũng khẳng định sự thành

công của truyện ngắn sau 1975: “... truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số

lượng và chất lượng”, “truyện ngắn có bước đột khởi nhờ vào ngọn gió lành

của công cuộc đổi mới” [64].

Khác với trước 1975, do tác động của điều kiện hoàn cảnh chiến tranh

và yêu cầu của Đảng về một nền văn nghệ cổ vũ, động viên cho hai cuộc

kháng chiến giải phóng dân tộc, văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng

mang đặc trưng “ký hoá” và “sử thi hoá” rõ nét. Truyện ngắn Việt Nam sau

1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh – đó là

hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính

chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu chiến

tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng

từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự

thật, không né tránh và viết về sự thật. Chuyện “đời thường” vì thế nổi trội

trong đa số truyện ngắn giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm

“văn học thế sự”. Nhà văn có thể viết tất cả mọi chuyện: Nỗi cô đơn, sự đau

khổ về thể xác và tinh thần của con người, niềm vui và sự đắng cay của cuộc

đời, sự trung thành và sự phản bội…

Truyện ngắn thời kỳ đổi mới đã xuất hiện một khuynh hướng khá nổi

bật là khuynh hướng nhận thức lại quá khứ. Sau chiến tranh, nhu cầu được nói

thẳng, nói thật đã trở nên cần thiết hơn bao giờ hết và điều này được cổ vũ bởi

tinh thần dân chủ của đời sống. Trong cảm quan sáng tác của các nhà văn lúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn23

này đã có ý thức lật xới lại vấn đề của lịch sử, hay nhìn thực tại với góc độ mới.

17

Hiện thực chiến tranh và người lính thời kỳ này giống như một cỗ xe

khổng lồ đang chạy theo quán tính vượt qua ranh giới lịch sử vẫn được trở lại

tiếp tục khai thác nhưng với cách tiếp cận mới. Chất giọng sử thi nhạt dần và

có thêm những giọng điệu mới từ giọng điệu thâm trầm trong Cỏ lau (Nguyễn

Minh Châu), Bản lý lịch tự thuật (Y Ban), Thời gian (Cao Duy Thảo),… đến

chất giọng xót xa với Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Người ở bến

sông Châu (Sương Nguyệt Minh),… Từ nhiều góc nhìn và sự thể hiện khác

nhau về sự đa đoan của con người, sự đa sự của cuộc sống, các truyện ngắn

viết về chiến tranh đã có sự phối âm của nhiều chất giọng. Điều đó tạo nên

tính đa sắc cho bức tranh cuộc sống con người thời hậu chiến, với những

gương mặt như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu,

Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu

Huệ, Phan Thị Vàng Anh,…

Không khí đổi mới - dân chủ tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học

nghệ thuật, đến các chủ thể sáng tạo. Con người trở thành đối tượng hàng đầu

trong cảm hứng sáng tác của các văn nghệ sĩ. Con người được mô tả như một

thực thể của những cái đã biết và những cái chưa biết – những “cái con

người” trong con người. Con người nếm trải với những vấn đề đời tư, bản thể,

tự do luyến ái, đời sống tình dục... được các nhà văn khai thác không né tránh,

ngại ngùng ở cả các mặt trái, góc khuất, phần chìm của hiện thực. “Chưa bao

giờ, con người với tất cả quan hệ xã hội của nó, thân phận và cuộc đời của nó

được phản ánh một cách sinh động và phong phú như trong giai đoạn hiện

nay” (Bích Thu). Con người được phản ánh trong văn học với cái nhìn đa

diện, đa chiều và được đặt trong mối quan hệ với các yếu tố xã hội phức tạp,

phong phú (Nhân vật của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải….). Trong văn

xuôi xuất hiện nhân vật tự thú (con người tự phê phán, khác giai đoạn trước:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn24

con người bị phê phán), nhân vật trí thức (tự khám phá, mổ xẻ nội tâm của

18

mình)… Bên cạnh đó, nhà văn đã đặt con người trong đời sống tinh thần, tình

cảm, đời sống tự nhiên, bản năng, giúp con người hiện ra toàn vẹn hơn, chân

thực hơn không chỉ với những khát vọng cao cả mà cả những dục vọng tầm

thường… Cái nhìn nhiều chiều kích và nhân bản ấy giúp nhà văn có những

nhận thức mới mẻ về con người. Đó là quan niệm về thiện - ác (“Đôi lúc,

con người ta trở nên tàn ác một cách rất hồn nhiên” - Đứa ăn cắp - Nguyễn

Minh Châu); là sự phát hiện về con người bí ẩn (Thiếu phụ chưa chồng -

Nguyễn Thị Thu Huệ, Một khái niệm tình yêu - Chu Lai, Chuỗi hạt của con

cáo - Phạm Thị Ngọc Liên …), con người tự nhiên (Người sót lại của rừng

cười - Võ Thị Hảo, Tân cảng - Nguyễn Thị Thu Huệ…); con người cô đơn

(Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp, Lạc thời - Nguyễn Khải, Cam ngọt - Phạm

Sông Hồng,…); con người tâm linh (Dị hương – Sương Nguyệt Minh,…);…

Tóm lại truyện ngắn sau 1975 tuy có khác nhiều so với truyện ngắn giai

đoạn 1945 - 1975 nhưng nó vẫn phát triển trên cái nền của những thành tựu

truyện ngắn 1945 - 1975 đã đạt được. Ngay những nhược điểm, những hạn

chế không thể tránh khỏi của giai đoạn trước cũng giúp cho kinh nghiệm nghệ

thuật của giai đoạn sau. Nhìn tổng thể, sự vận động của truyện ngắn sau 1975

đã diễn ra giống như một cuộc “nhận đường” toàn diện và sâu sắc: từ ý thức

nghệ thuật đến hành vi sáng tạo, từ tư tưởng đến thi pháp. Sự vận động ấy

hướng mạnh mẽ đến những nỗ lực cách tân nhằm đổi mới thể loại. Về mặt

hình thức, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đổi mới rõ rệt ở các phương diện:

dạng thức cấu trúc cốt truyện, trần thuật và ngôn ngữ truyện. Những cách tân

ấy đã góp phần tạo nên diện mạo mới cho truyện ngắn Việt Nam.

1.2. Khái lược về thế hệ nhà văn nữ Việt Nam sau 1975

1.2.1. Sự nối tiếp của nhiều thế hệ cầm bút

Văn học Việt Nam những năm gần đây xuất hiện một đội ngũ đông đảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn25

các nhà văn nữ như: Lê Minh Khuê, Đoàn Lê , Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ,

19

Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư, …Với cái nhìn mẫn cảm

bản năng, các nhà văn nữ thường quan tâm nhiều đến nỗi bất hạnh, sự cô đơn

và khát vọng tình yêu hạnh phúc, đến người phụ nữ, đến những đứa trẻ mồ

côi bất hạnh… những khía cạnh nhỏ nhoi, bí ẩn của cuộc sống đời thường. Sự

tiếp nối trong đội ngũ và cảm hứng sáng tác của các thế hệ nhà văn nữ thể

hiện ở nhiều khía cạnh trong tác phẩm văn học.

Trước hết các nhà văn nữ có sự tiếp nối về đề tài trong văn học nói

chung và truyện ngắn nói riêng. Nhưng đây là sự tiếp nối mang tính cách tân,

đổi mới trên nền truyền thống đề tài truyện ngắn mà nhiều nhà văn nữ khai

thác đó là việc tìm kiếm và theo đuổi hạnh phúc riêng tư của người phụ nữ.

Trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê hình ảnh những cô

gái Hà Nội trẻ trung tinh nghịch nhưng rất can đảm sẵn sàng hy sinh để hoàn

thành nhiệm vụ như: Nho, Thao, Phương Định. Các cô gái trẻ ấy ngoài những

lúc làm nhiệm vụ gian khổ thì trong lòng luôn lạc quan hy vọng tìm kiếm

hạnh phúc của bản thân. Ngoài ra là các đề tài về số phận những người nghèo

khổ, bất hạnh, hạnh phúc gia đình, những người phụ nữ đẹp người đẹp nết

nhưng trắc trở về tình duyên, gia đình gặp nhiều sóng gió.

Sự tiếp nối về thể loại: hầu hết các nhà văn nữ đều lựa chọn văn xuôi,

đặc biệt là truyện ngắn để thể hiện tâm tư, suy nghĩ của bản thân. Truyện

ngắn có cấu trúc như một truyện dài, mang đậm tư duy tiểu thuyết, là sự

chồng xếp, đan chéo của vô vàn trạng huống và những mảnh thân phận khác

nhau. Đó là những câu chuyện xoay quanh số phận những con người xóm

Chùa của Đoàn Lê, hay của con người nơi đất mũi trong Cánh đồng bất tận

của Nguyễn Ngọc Tư …

Sự tiếp nối những cách thức thể hiện trong tác phẩm: nghệ thuật miêu

tả tâm lý nhân vật trực tiếp hoặc gián tiếp. Những tình huống truyện độc đáo,

bất ngờ đầy táo bạo… là những nét nghệ thuật được các thế hệ nhà văn nữ kế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn26

thừa và phát huy.

20

1.2.2. Một số biểu hiện của “đặc điểm giới” trong tác phẩm của các nhà

văn nữ 1975

Nếu như ở các giai đoạn trước 1930 - 1945 hay 1945 - 1975 ưu thế

thuộc về các nhà văn nam như: Nam Cao, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn

Khải, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu… thì văn học đương đại phần đông

gắn với các tên tuổi nữ như: Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Đoàn Lê, Phạm Thị

Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị

Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu…Như lời phát biểu của nhà văn

Võ Phiến: Chúng ta đang có một nền văn chương đổi phái tính. Những trang

viết của các nhà văn nữ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận, hạnh phúc

và quyền sống của người giới mình. Trong cuộc sống hiện nay, theo suy nghĩ

và cảm nhận của họ, người phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi khổ cần được sẻ

chia và họ đã tìm thấy trong văn học nói chung và văn xuôi nói riêng một sức

mạnh để qua thế giới nhân vật nữ họ tìm được nơi để bày tỏ những tâm tư,

suy nghĩ uẩn khúc của lòng mình. Và có lẽ theo quy luật đồng thanh tương

ứng lúc đầu là một vài cây bút nữ viết, rồi những cây bút khác qua tác phẩm

của những người đi trước tìm thấy ở đó một sự đồng cảm và họ cũng viết để

giãi bày làm thành cả một dòng chảy. Ở dòng chảy đó họ như được tự do phơi

mở cái tôi cá nhân của chính mình với một giọng điệu riêng, một cách thức

riêng. Họ thẳng thắn đối thoại lại những quan niệm cũ về những mẫu hình nữ

giới trước đây luôn bị đóng khung trong những đặc điểm dịu dàng, thùy mị,

giàu đức hy sinh, nhẫn nhục và chịu đựng hoặc chỉ viết về những chuyện nhỏ

nhặt, không có tầm tư tưởng lớn. Họ mạnh dạn thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá

nhân, khát vọng bản thể, khẳng định giá trị sống… của chính mình trên diễn

đàn văn học nghệ thuật. Khi viết về tình yêu, họ khám phá toàn diện về mọi

mặt, mọi cung bậc, từ những dư vị ngọt ngào đến những dư vị đắng chát, từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn27

nhẹ dạ cả tin đến mạnh mẽ, chủ động, già dặn và từng trải…tất cả đều là

21

những bộc bạch chân thực nhất của các cây bút nữ viết về giới mình. Hơn nữa

khi nữ văn sĩ viết về phái yếu, cũng có nghĩa là họ đã hướng ngòi bút vào

chính mình, dù tác giả viết về người phụ nữ khác thì cái nhìn của họ cũng sẽ

có phần sâu sắc, triệt để và thấu đáo hơn. Nhà văn nữ viết nhiều về phụ nữ vì

theo đặc trưng tâm lý họ tồn tại với tình cảm hướng nội, luôn muốn tìm sự

đồng cảm, khác tâm lý đàn ông với lý trí hướng ngoại luôn luôn phân tích

chiếm lĩnh. Bên cạnh đó nhà văn nữ muốn thông qua nhân vật nữ để thể hiện

tâm hồn mình, bản thân mình, vì vậy mà những sáng tác của các tác giả nữ

thường mang màu sắc tự truyện. Diện sống của phụ nữ nói chung không rộng

bằng nam giới, các tác giả nữ lại thường viết tập trung vào những đề tài nhất

định, do đó đôi khi không tránh khỏi việc gây nên cảm giác đơn điệu cho

người đọc, như nhà văn Lê Minh Khuê nhận xét: “Nghĩ về những người viết

cùng giới mình, tôi thường bị chi phối bởi cảm giác nước đôi. Một mặt nhiều

chị em bộc lộ một tài năng rõ rệt, không lèm nhèm, không mờ nhạt. Mặt khác

sao vẫn cứ cảm thấy, đặt trong hoàn cảnh chung rồi mỗi người cũng thế thôi,

không bao giờ có sự gọi là đồ sộ, vĩ đại ở những cây bút nữ này cả” [27]. Và

nhà phê bình Đặng Anh Đào cũng khẳng định: “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ

đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trong sách…tuy nhiên phải nói thật là

ở mỗi người nguy cơ lặp lại chính mình, nguy cơ ấy khá rõ” [27]. Riêng thế

giới nhân vật nữ của các nhà văn nữ được xây dựng trên những trang văn

thấm đẫm tình cảm, cảm xúc như đang tuôn trào từ trái tim, tâm hồn của họ

với giọng điệu khi thì dịu dàng, ấm áp, khi thì xúc động nghẹn ngào… và tình

yêu luôn là đề tài trung tâm trong nhiều sáng tác của các cây bút nữ. Đặc biệt

người phụ nữ trong văn học thời kì đổi mới hiện lên với khát vọng yêu đương

mãnh liệt, luôn đòi hỏi được yêu thương che chở, bộc lộ những phẩm chất tốt

trong tình yêu và thường xuyên gặp ngang trái trong ái tình. Nhân vật nữ của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn28

các nhà văn nữ thời kì đổi mới không phải là không có những người hạnh

22

phúc, những khoảnh khắc vui, song hầu hết trong số họ là những người bất

hạnh, cô đơn. Với tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động nữ văn sĩ là người dễ nhận

ra và dễ khắc sâu những nỗi buồn của người cùng giới hoặc của chính mình.

Qua những trang viết đó, các nhà văn nữ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số

phận, hạnh phúc và quyền sống của người giới mình trong cuộc sống hiện

nay, theo suy nghĩ và cảm nhận của họ người phụ nữ vẫn còn mang nhiều nỗi

khổ cần được sẻ chia. Chính vì thế mấy mươi năm trở lại đây, người đọc đã

được thưởng thức nhiều giọng điệu mới với những phong cách khác nhau của

các cây bút nữ, trải nghiệm như Lê Minh Khuê, sắc sảo như Phạm Thị Hoài,

tinh tế như Phan Thị Vàng Anh, đằm thắm như Nguyễn Thị Thu Huệ, hồn hậu

và đậm sắc màu văn hoá như Nguyễn Ngọc Tư, ... Chưa bao giờ phái nữ lại

dành được sự quan tâm nhiều của người cầm bút như hôm nay. Khuynh

hướng duy nữ được thể hiện không chỉ là sự xuất hiện nhiều nhà văn nữ,

nhiều nhân vật nữ trong các tác phẩm mà nó còn chi phối ngay cả cách đặt tên

tác phẩm như: Người đàn bà đứng trước gương, Người đàn bà có ma lực, I

am đàn bà của Y Ban, Hồn trinh nữ, Goá phụ đen của Võ Thị Hảo, Thiếu phụ

chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ,… Mỗi tác giả đều cố gắng xác lập một

tiếng nói riêng, một giọng điệu của riêng mình. Dường như với xu hướng duy

nữ ngôn ngữ văn chương của nền văn học đã đổi thay, tinh tế hơn, chất nội

cảm nhiều hơn, màu sắc biểu tượng đa dạng hơn.

1.3. Đoàn Lê - một cây bút nữ độc đáo của văn học Việt Nam sau 1975

1.3.1. Người phụ nữ đa tài, đa đoan

Đoàn Lê là con gái một cụ đồ nho đất Cảng. Gia đình có nghề thuốc gia

truyền. Cụ đồ có ý hướng cho cô con gái yêu, thông minh khá mẫn cảm của

mình nối nghiệp nhà. Nhưng khi ấy, cô hoa khôi phố biển Đoàn Lê đang thì

mộng mơ bay nhảy đã không vâng theo ý phụ thân, mà thi vào học khoa điện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn29

ảnh, Trường Sân khấu điện ảnh Hà Nội.

23

17 tuổi, Đoàn Lê đã táo bạo rời làng quê, bỏ tuổi thơ đầy ắp những kỷ

niệm để lên chốn thị thành phồn hoa tìm sự nghiệp. Cũng nhanh chóng chị

bước vào cuộc hôn nhân thứ nhất với rất nhiều những mộng tưởng. 18 tuổi

Đoàn Lê đã làm mẹ, khi còn đang học lớp Sân khấu - điện ảnh khóa đầu tiên.

Cái gánh nặng này thật không hề dễ dàng với một cô gái “khuê các” đầy

mộng mơ. Sinh con gái đầu lòng được 15 ngày, Đoàn Lê gửi con cho em gái

là Đoàn Thị Tảo nuôi hộ để đi theo đoàn làm phim. Rồi cuộc hôn nhân đầu

của chị tan vỡ, chị bồng hai đứa con thơ ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng.

Cuộc đời cơm áo đè nặng lên đôi vai Đoàn Lê với biết bao khó khăn trước

mắt. Sau này, cuộc sống cô quạnh, vất vả khiến chị đi bước nữa, nhưng lấy

chồng cũng chẳng dư dật gì. Theo lời chị Tảo: “Tôi thường phải về nhà xin

vàng của mẹ đem bán để “cứu trợ” cho chị ấy”.

Có lẽ những nếm trải của cuộc đời với đầy đủ những cung bậc buồn

vui, hạnh phúc và bất hạnh đã qua của người đàn bà đa đoan này đã làm nên

những trang viết mang màu sắc Đoàn Lê! Không phải ngẫu nhiên mà Đoàn

Thị Tảo đã có bài thơ nổi tiếng tặng Chị tôi! Và cũng không phải ngẫu nhiên,

với những tác phẩm gan ruột của mình, chị đã có “chỗ đứng thật đẹp trong

trái tim người đọc”.

Đoàn Lê nổi lên như một nhan sắc dịu dàng, thánh thiện, với cặp mắt

nâu, da trắng, nụ cười lấp lóa thật hiền và một bím tóc dài chấm gót được vắt

về trước ngực.

Nhà văn, nhà biên kịch Đoàn Lê đến với nghiệp văn chương có lẽ bắt

đầu từ bài thơ Bói hoa năm chị mới mười sáu tuổi. Bài thơ nói lên sự e ấp

ngại ngùng của một cô thiếu nữ trước ngưỡng cửa cuộc đời, ngưỡng cửa tình

yêu. Ngay lập tức, bài thơ đã được giới trẻ lúc bấy giờ chuyền tay nhau chép

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn30

vào sổ thơ của mình:

24

Ngày xưa em thơ ngây

Ngồi bói bông hồng nở

Đoán tình yêu sau này

Vẹn tròn hay dang dở

Nhưng nụ hồng e ấp

Giấu kín điều em mong...

Với Đoàn Lê, người ta có thể gọi chị là nhà văn, nhà biên kịch điện

ảnh, hay nhà thơ, họa sĩ đều được. Với văn chương, chị khẳng định tài năng

bằng tiểu thuyết Cuốn gia phả để lại, đã được nhận giải thưởng của Hội nhà

văn Việt Nam năm 1990. Những cuốn tiểu thuyết khác như Lão già tâm thần,

Thành hoàng làng xổ số, Người đẹp và đức vua,... những tuyển tập truyện

ngắn như Nghĩa địa xóm Chùa, Người khách đêm giao thừa,... lần lượt ra đời

đã khẳng định rõ văn phong và ghi nhận tài năng của chị. Cuốn tiểu thuyết

Tiền định ra mắt bạn đọc gần đây nhất đã sớm được lọt vào vòng chung kết

giải thưởng Bách Việt. Với văn phong giản dị, hóm hỉnh mà sâu sắc, mỗi câu

chuyện về những số phận con người dưới ngòi bút tài hoa của Đoàn Lê đã

hiện lên chân thực, sống động và thấm đẫm tính nhân văn. Những câu chuyện

xoay quanh cái làng Chùa bé nhỏ nhưng trong ấy có hình dáng của nhiều làng

quê thân thuộc khác. Có những câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng mà khiến

người đọc sửng sốt, rồi rưng rưng nước mắt như Chuyện tình Guột. Lại có câu

chuyện mang tính triết lý ngụ ngôn cao như chuyện Nghĩa địa xóm Chùa,

hóm hỉnh đấy mà đầy chua cay về thói đời ngay cả khi chết đi rồi, con người

ta vẫn không dễ gì thay đổi. Đoàn Lê có biệt tài phát hiện và miêu tả những

chi tiết đắt giá ngay trong những cái tưởng chừng như vụn vặt của đời thường.

Văn phong của Đoàn Lê có những nét rất riêng, cuốn hút người đọc bằng

những câu chữ vừa tinh tế, mượt mà, vừa ý nhị, dí dỏm.

Đến với điện ảnh từ nghề diễn viên, nhưng Đoàn Lê lại chỉ mới có mặt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn31

trong bộ phim Quyển vở sang trang của đạo diễn Nguyễn Ngọc Trung, với

25

vai cô giáo Hồng Vân. Đóng góp cho ngành điện ảnh nhiều nhất đó là những

kịch bản phim như Làng Vũ Đại ngày ấy, Cha và con, Thành hoàng làng xổ

số, Bình minh xôn xao, Ngày về, Truy lùng băng quỷ gió,... và một loạt kịch

bản phim truyền hình khác mà chị vừa viết kịch bản vừa đạo diễn. Dường như

khả năng sáng tạo của chị là không giới hạn. Trong cùng một thời gian, người ta

thấy chị vừa viết, vừa làm phim, vừa vẽ và làm thơ.

Sau khi về hưu, Đoàn Lê lui về ẩn dật ở ngôi nhà nhỏ dưới chân núi

thuộc thị xã Đồ Sơn. Đó là một khu đất chừng 400m2, thuộc thị xã Đồ Sơn,

cách biển vài trăm mét, dựa lưng vào quả núi Mẫu, xóm núi đó lại gần đường

ô tô. Ra khỏi ngõ chừng vài chục mét là đến phố. Có thể nói ngôi nhà Đoàn

Lê vừa quê, vừa tỉnh, lại vừa biển. Chị xa lánh mọi thứ phù du để chuyên tâm

vào hội họa. Đoàn Lê giờ sống bình yên cùng những toan, những mầu, những

cây bút vẽ. Mọi vui buồn, chị dồn hết vào những bức tranh. Những gì không

viết nên thành câu chữ, chị dùng hội họa thay lời. Thi thoảng, chị lại cùng bạn

bè mở những triển lãm tranh nho nhỏ với những bức tranh sơn dầu. Thế mạnh

của Đoàn Lê là tranh sơn dầu, và đề tài chủ đạo là nét đẹp xuân thì của những

cô thiếu nữ. Hồi danh họa Bùi Xuân Phái còn sống, cụ đã là người chỉ bảo

cho Đoàn Lê những nét bút đầu tiên, những bài học cơ bản về hội họa. Những

năm bảy mươi của thế kỷ trước, Đoàn Lê đã thi đỗ vào trường mỹ thuật, song

cơ chế lúc đó đã kìm chân chị, khiến chị không được theo hội họa là bộ môn

nghệ thuật mà chị đam mê. Cũng là do thói thường của tệ quan liêu, trù úm,

cửa quyền. Nhưng cũng không biết thế là hay hay dở, vì nếu theo học trường

mỹ thuật hồi đó, thì chúng ta lại chưa chắc đã có một nhà văn Đoàn Lê như

ngày nay. Mọi sự âu cũng là do số phận cả, đều là do Tiền định – như tên

cuốn tiểu thuyết mới đây của chị.

Đọc Tiền định, người ta có thể nghĩ đây là một cuốn tự truyện, vì nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn32

vật cô Chín trong tiểu thuyết cũng lận đận, long đong như số phận nhà văn,

26

nhà biên kịch Đoàn Lê. Nhưng khác với cô Chín trong tiểu thuyết có số phận

nghiệt ngã, ở cái kết "không có hậu", với Đoàn Lê lại tìm thấy một lẽ sống

trong tình yêu nghệ thuật. Và chị tìm thấy sự bình yên sau bao ngày sóng gió

bão bùng. Những tác phẩm hội họa của chị thể hiện sự tĩnh tại, an nhiên, xa

lánh mọi vòng tục lụy của đời thường.

Khi được hỏi hội họa và nghề viết bổ sung cho nhau như thế nào? Đoàn

Lê cho biết nghề viết, viết văn, kịch bản, thơ viết ra đã có sự kiểm duyệt của

chính mình và nhiều khi không đủ diễn tả mọi xúc cảm. Niềm đam mê hội

họa giải phóng những thôi thúc khi không viết được. Những cảm xúc, những

vẻ đẹp không thể diễn tả thành lời thì tôi tìm đến hội họa. Nhờ tranh mà

những truyện ngắn hay kịch bản phim của tôi cũng có bố cục chặt chẽ hơn và

nhiều người nhận ra sự cân đối, hài hòa.

Sắp bước sang tuổi 70, nhà văn Đoàn Lê vẫn có những truyện ngắn và

tiểu thuyết với giọng văn hóm hỉnh, trẻ trung và với tài năng của chị, các nhà văn

trẻ vẫn thường yêu quý gọi chị là Chị tôi và thường ngâm nga những câu thơ: Thế

là chị ơi/ rụng bông hoa gạo/ ô hay, trời không nín gió/ cho ngày chị sinh?...

Cái nết na, nét dịu dàng, tần tảo của Đoàn Lê khiến người đời ngưỡng

mộ, nhưng nó dường như cũng chính là nạn nhân của sự giả dối, toan tính của

người đời. Ở chị luôn hiển hiện sự giằng xé giữa tình duyên và nặng gánh

trách nhiệm. Chính sự vương vấn, lỡ dở ấy tạo nên sự long đong, lân đận

trong đời của người đàn bà – là chị.

Phải nói rằng ít có người phụ nữ nào mà số phận long đong như nhà

văn Đoàn Lê với hai lần chia tay chồng. Người con trai yêu quý, chiếc lá xanh

đã rụng trước lá vàng. Số phận đổ xuống đầu dồn dập như muốn đánh gục

người đàn bà đa tài và đa tình này. Những chấn thương tình cảm để lại khá

nhiều dấu vết trong những sáng tác của chị. Truyện ngắn Giường đôi xóm

Chùa kể lại về cuộc chia tay giữa vợ chồng, cái tổ ấm mà nhà văn cố níu giữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn33

nhưng không được... Mẹ và con và thánh thần kể về sự ra đi của người con.

27

Nhà văn đã dùng ngòi bút để tự mổ xẻ mình trước căn bệnh cuộc đời. Truyện

ngắn này khá hay nhưng thật buồn. Giao cảm cuối cùng nói về cái chết của

mình và sự giao cảm với người tình tưởng tượng. Rồi có lúc làm thơ, chị viết:

Người đừng năm tiết, bảy tao

Mai ta ra biển, tan vào sóng xanh...

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác phong phú

Khi nghĩ tới một nhà văn Đoàn Lê là người đọc thường nhắc đến giải

thưởng Hội nhà văn năm 1990 với tiểu thuyết Cuốn gia phả để lại, hoặc gần

đây nhất là giải thưởng tập truyện ngắn Trinh tiết xóm Chùa, năm 2005. Và

khi nhắc đến một Đoàn Lê điện ảnh, người xem không thể quên bộ phim

Làng Vũ Đại ngày ấy. Còn ở lĩnh vực hội hoạ, đó dường như là một sự quay

về với một Đoàn Lê trẻ trung dịu dàng của một thời con gái. Bước vào thế

giới hội họa, sự run rẩy của cảm xúc luôn luôn như mới bắt đầu mỗi khi

Đoàn Lê cầm cây cọ để giải toả những ẩn ức trong tâm hồn mình. Mỗi bức

tranh của chị như một ẩn dụ, thông qua hình tượng để bày tỏ những xúc động

sâu thẳm trong con tim. Có lẽ, trái tim thi sĩ đa cảm hiện lên qua mầu sắc,

đường nét và được chắt lọc bởi bố cục khá tiết chế. Trong cõi sắc màu này,

cái thuở dậy thì thơ ca cách đây nửa thế kỷ với bài thơ Bói hoa của nữ sĩ

Đoàn Lê đã trở lại. Cái kiếp hoa ấy sau này nhập hồn vào giá vẽ của Đoàn Lê

với các tên khác nhau như Hoa bèo, Hoa lan tiêu, Hoa hồng,... Nhưng có thể

nói, ngoài những đề tài tập trung về phụ nữ và phong cảnh, thì mảng tranh

“nuy" của chị có một sức thu hút đặc biệt. Đây thật sự là một nét phá cách của

một thân phận đầy gian truân, trần ai với cuộc sống mà Đoàn Lê đã trải

nghiệm. Nhiều đau khổ đến mức chị đã định tìm đến thiền với một nguyên tắc

sống: "Không nói , không nhìn, không nghe, không tình dục!?". Nhưng cuộc

đời lại không cho chị được toại nguyện, nên giờ đây, với văn chương lại có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn34

một Đoàn lê nghiệt ngã hơn với tập truyện Trinh tiết xóm Chùa, còn với giá

28

vẽ xuất hiện một Đoàn Lê thi sĩ hơn khi gắn bó tinh tế trong hội hoạ "nuy".

Cái nhìn, cái nghe, cái tình dục qua toan với mầu sắc, đường nét mang thương

hiệu Đoàn Lê luôn luôn nhân ái và thật sự nồng ấm. Tác phẩm Hoa bèo của

chị là một ẩn dụ sâu sắc, giàu tính biểu đạt, thể hiện lòng thương với thân

phận của các cô gái trôi dạt về bãi biển Đồ Sơn như những cánh bèo lênh

đênh, bị sóng đánh tả tơi trên mặt cát. Hình tượng ấy qua bức tranh ‘nuy" đã

làm xúc động lòng người, nó không còn gây ấn tượng ở sự trần trụi gợi dục

mà là sự đày ải đến đáy thân phận con người nơi trần gian đã đánh thức lương

tâm người xem. Hay như bức Giếng lan tiêu, đâu chỉ có riêng cảnh một cô gái

tắm bên giếng, mà ở đó còn toát lên hương vị thanh tân của tuổi trẻ với một

sắc đẹp thiên nhiên dịu dàng trong gam xanh trong vắt của miền quê biển.

Bên cạnh đó những bức tranh khác của Đoàn Lê cũng gây ấn tượng như

những bài thơ đồng quê: Mèo ngủ, Phút yên lặng, Trong phòng tắm, Xóm núi,

Nông nhàn...

Đến và sống cùng điện ảnh suốt cuộc đời, Đoàn Lê đã tham gia trong

nhiều lĩnh vực hoạt động: diễn viên, thiết kế mỹ thuật, biên kịch rồi đạo diễn.

Người ta chưa quên hình ảnh cô giáo Hồng Vân của chị, vai chính trong phim

Quyển vở sang trang cùng những phim nhựa, phim truyền hình mà chị là biên

kịch hay đạo diễn hoặc biên kịch kiêm đạo diễn. Có thể kể đến Làng Vũ Đại

ngày ấy, Bình minh xôn xao, Niết bàn rực cháy, Song nữ, Nước mắt của biển,

Cái chết của Hồ Xuân Hương, Giọt nước mắt thiêng,... Chị đã được nhận

những giải thưởng xứng đáng cho các phim Con Vá, Chim bìm bịp trong Liên

hoan phim truyền hình toàn quốc.

Với văn học, Đoàn Lê lâu nay đã là một gương mặt nhà văn nữ có tiếng

với nhiều tác phẩm được độc giả đón nhận. Những tiểu thuyết tâm huyết đầy

trăn trở của chị như: Cuốn gia phả để lại, Lão già tâm thần, Người đẹp và đức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn35

vua, Tiền định đã gây được nhiều thiện cảm với người đọc. Cuốn gia phả để

29

lại ngay khi mới ra mắt công chúng đã được nhận giải thưởng của Hội Nhà

văn Việt Nam. Còn phải kể đến nhiều giải thưởng chị đã nhận được cho

những truyện ngắn và tập truyện ngắn trong nhiều năm qua. Những truyện

ngắn Giường đôi xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa... chính là khả năng quan sát

và thể hiện thực tế đời sống rất nhạy cảm của Đoàn Lê. Tác phẩm của chị

được dịch, xuất bản và được độc giả đón nhận tại Đức, Mỹ, Thụy Điển...

Cách viết dung dị, những nhận xét hóm hỉnh và sâu sắc về nhân tình thế thái,

về ấm lạnh cuộc đời của chị tựa như một nụ cười khoan dung và độ lượng đã

tìm được sự đồng cảm của nhiều tầng lớp độc giả trong và ngoài nước.

Sự trải nghiệm cuộc đời cùng một tâm hồn đầy cá tính đã tạo nên

nguồn năng lượng dồi dào và một nội lực “thâm hậu” trong lao động nghệ

thuật của Đoàn Lê. Những đứa con tinh thần của người đàn bà mảnh mai và

có vẻ yếu đuối này lại có một sức sống mãnh liệt, hấp dẫn, cuốn hút độc giả

và giành được những thành tựu đáng kể.

Là người con của đất cảng Hải Phòng, đi học và lập nghiệp tại Thủ đô

nhưng từ năm 1988, khi trở về “xóm núi Đồ Sơn” sống và tiếp tục trăn trở

sáng tạo với tinh thần “làm chủ quỹ thời gian”, Đoàn Lê thực sự đã có những

thành công trong nhiều lĩnh vực. Ở tuổi “tri thiên mệnh”, chị lại bất ngờ cho

ta một cách lắng nghe mới về sự lắng đọng của tâm hồn qua bài thơ Mưa núi:

Mưa núi gần kề bên hiên

Tí tách nguồn cơn ngõ bé

Xóm núi bâng khuâng rất khẽ

Khói chiều

Câu thơ hàng xóm đang yêu

Tạc một cánh diều vách núi

Chợt nghe bước chân lủi thủi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn36

Lá rừng.

30

Đoàn Lê nhìn cuộc đời rất giản dị nên chị quan niệm không việc gì phải

đao to búa lớn cả. Trong sáng tạo, chị làm việc cật lực, thậm chí lao lực,

nhưng xét cho đến cùng với chị đó cũng chỉ là những cuộc "rong chơi" trong

thế giới này mà thôi. Và sáng tạo nghệ thuật - đấy là một cách "chơi" của chị.

Chị lựa chọn một thái độ với cuộc sống bằng những câu thơ tình dí dỏm:

Anh cứ nói cả trăm điều dối trá

Để em tin như thể rất dại khờ

Em giấu trong lòng sớm nắng chiều mưa

Điều dối trá hồn nhiên thành vô tội

Thế gian này nặng đâu lời nói dối.

Những kiếp người èo uột sẽ đi qua

Rồi tất cả sẽ trở thành vô nghĩa

Tội tình gì em khe khắt với hai ta...

1.3.3. Vị trí truyện ngắn trong sáng tác của Đoàn Lê

Đoàn Lê thử nghiệp của mình trên nhiều loại hình nghệ thuật và ở lĩnh

vực nào chị cũng có những tác phẩm tiêu biểu. Nhưng có lẽ nói đến sự nghiệp

sáng tác của Đoàn Lê , là người ta nghĩ đến các sáng tác văn chương của nhà

văn. Đoàn Lê đã có những thành tựu thật sự với văn chương. Một giọng văn

được nhớ, nền nã dung dị nhưng bao giờ cũng kèm theo chất hài hước ngầm.

Những tập truyện: Thành hoàng làng xổ số, Nghĩa địa xóm Chùa, Trinh tiết

xóm Chùa; những tiểu thuyết: Lão già tâm thần, Cuốn gia phả để lại,... đã

đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam, báo Văn Nghệ,...

Đoàn Lê viết văn từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước. Nhưng

khoảng 20 năm gần đây chị mới nổi lên sau bao nhiêu thăng trầm nổi nênh

của cuộc đời và thân phận. Người viết văn xuôi thường vẫn vậy. Cuộc đời

làm nhà văn điên đảo đau đớn, nhưng bù lại qua đó ta mới thấy yêu quý đời

hơn, và văn của ta mới đằm thắm hơn, bao dung hơn. Vốn liếng văn chương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn37

của Đoàn Lê nay đã khá dày dặn.

31

Văn học vốn là thứ bùa mê đối với nhiều người. Đoàn Lê cũng bị thứ

bùa mê ấy hút hồn từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong các loại hình

văn học như đã nói trên, dường như truyện ngắn còn có “mối nhân duyên”

đặc biệt với Đoàn Lê. Chị thấy mình thoải mái hơn cả khi viết truyện ngắn.

Nó vừa đủ độ thời gian người viết dành cho nó, không kéo dài quá.

Nhà văn Đoàn Lê thực sự là một cây bút viết truyện ngắn đặc sắc.

Truyện ngắn của chị xuất hiện liên tục, đều đều trên nhiều tờ báo. Truyện của

Đoàn Lê lúc thì đằm thắm, trữ tình, lúc thì hiện thực sắc sảo. Có lúc lại táo bạo,

hiện đại bất ngờ, rồi có lúc lại trẻ trung thổn thức như một cô gái mới lớn.

Vậy những tiền đề mang đến thành công cho Đoàn Lê ở thể loại truyện

ngắn là gì? Và cũng thật chân tình, Đoàn Lê thú nhận: “Tôi rất mê truyện

ngắn của Nam Cao. Có thể nói, tôi chịu nhiều ảnh hưởng của nhà văn tiền

bối ấy trong nghề viết văn xuôi”.

Ở ngay hai truyện ngắn đầu tiên của tập truyện Thành hoàng làng xổ

số, người đọc dễ dàng nhận ra hai khuynh hướng, hướng nội và hướng ngoại

mà Đoàn Lê đã tìm thấy trong bậc tiền bối được ưa thích của mình. Đêm ngâu

vào báo hiệu một khuynh hướng sáng tác của Đoàn Lê. Khuynh hướng hướng

nội, phân tích tâm lý, đào sâu vào cái ẩn khuất của tâm hồn con người, cảm

thông với những thân phận bất hạnh. Truyện viết khá tinh tế về một mối tình

tay ba. Thành hoàng làng xổ số là một truyện ngắn viết theo xu hướng ngược

lại. Nó hướng ngoại. Trong truyện có chuyện, đầy sự kiện và chi tiết, nói về

những con người nghèo khổ, chỉ muốn đổi đời bằng xổ số, số đề. Xu hướng

hướng ngoại ấy của Đoàn Lê nổi lên rõ ràng và đặc sắc nhất là seri truyện

ngắn viết về xóm Chùa. Chúng ta bắt gặp Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm

Chùa, Người đẹp xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, Xóm Chùa thời ung thư.

Trước đây Nam Cao viết về một làng quê thời Pháp thuộc – làng Vũ Đại với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn38

sự khốn cùng thê thảm của nó. Còn Đoàn Lê thì vẽ ra cho chúng ta xem một

32

làng quê trong quá trình đô thị hóa. Thời gian đô thị hóa là thời gian bản lề,

nó là thời gian quá độ chuyển sang đời sống công nghiệp cho nên hiện thực

xảy ra vô cùng khắc nghiệt. Các giá trị truyền thống của một xã hội nông

nghiệp đang mất đi, và các giá trị mới chưa được hình thành. Chúng ta chứng

kiến văn hóa làng cổ truyền đang bị biến đổi hay là đang tan rã. Ở chùm

truyện ngắn này, những bi kịch về tranh chấp đất đai trong làng xóm xảy ra.

Đạo đức xuống cấp (Đất xóm Chùa). Rồi những cô gái đi lấy chồng Đài Loan,

Hàn Quốc (Trinh tiết xóm Chùa), thậm chí người ta bán cả mồ mả ông cha đi

mà không biết (Xóm Chùa thời ung thư).

Đoàn Lê chả phải đi thực tế đâu xa. Khi ở làng Lủ quê chồng, chị sống

chan hòa với người dân chung quanh, quan sát những con người và sự việc

hàng ngày quanh mình mà viết nên những truyện ngắn này. Nam Cao có một

làng quê mà ông cắm rễ rất sâu để làm chất liệu cho nghề văn của mình. Đoàn

Lê cũng làm như vậy. Có khác chăng giữa hai người, thì chỉ là hiện thực diễn

ra mỗi thời mỗi khác, và tâm hồn mỗi nhà văn mỗi khác. Hiện nay, nhà văn

nữ đang sống ở một xóm núi Đồ Sơn. Một cái xóm gần núi, gần biển. Đã

thấy những truyện ngắn Chốn sơn khê, Rồi Bụt hiện lên, mang hơi thở của cái

thị xã du lịch biển này, cái xóm ven biển cũng đang thay đổi từng ngày. Một

loạt truyện xóm Chùa của Đoàn Lê đem lại cho người đọc cảm giác chúng có

dáng dấp của một cuốn tiểu thuyết thời hậu hiện đại. Cuốn tiểu thuyết gồm

những truyện ngắn, tức là kết cấu của nó lỏng. Cái gắn kết các truyện đó lại là

chủ đề văn hóa làng thời hiện đại. Một cái gì đó quý giá đang mất đi và ta

đang cố níu giữ nó lại.

Phong cách truyện ngắn của Đoàn Lê ngày càng đa dạng. Ngoài những

truyện thiên về tả thực và phân tích tâm lý ta còn thấy nhiều truyện mang yếu

tố ảo hơn như : Lên ruồi, Nhân bản hoặc mang yếu tố hiện đại như Sex hoặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn39

sử dụng nhiều đến trí tưởng tượng tổng hợp hơn (immagination synthétique),

33

nghĩa là tác giả dùng hư cấu bịa đặt tổng hợp những trải nghiệm của cả đời

mình ra để viết như Chờ nhật thực, Cổ tích Manơcanh, Tình Guột.

Tóm lại truyện ngắn đã mang đến cho Đoàn Lê nhiều thành công và

được độc giả ghi nhận. Theo tạp chí nghiệp đoàn xuất bản về Tuyển tập Đoàn

Lê ở Mỹ đã khẳng định: “… Đoàn Lê được ghi nhận ở phong cách đa dạng và

sức sáng tạo tươi mới” [73]. Còn nhà văn Hồ Anh Thái thì nhận xét “… Đoàn

Lê U70 lại viết như U30” [60].

Nhà văn Đoàn Lê chứng tỏ một phong cách mới trong đời sống văn học

đương đại Việt Nam. Một phong cách dịu dàng, táo bạo, tỉnh táo nhưng rất

nền nã, nhẹ nhàng, và đặc biệt hài hước. Chị là nhà văn kế thừa và tiếp nối

dòng văn học nữ Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Đoàn Lê phát huy ưu

thế của ngòi bút trong thể loại truyện ngắn, và thực sự nó đã chiếm một vị trí

đáng kể trong sự nghiệp viết văn của chị. Khi nói tới Đoàn Lê là người đọc

nghĩ tới một “thương hiệu” Đoàn Lê trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn40

của chị nói riêng.

34

Chương 2

BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG

TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ

2.1. Ý thức của nhà văn với hiện thực đời sống

2.1.1. Đi sâu khai thác mảng đề tài thế sự

Tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ và mỗi nhà

văn, nhà thơ khi sáng tạo ra tác phẩm đều xuất phát từ một nguồn cảm xúc

nhất định. Đó là những trăn trở, dằn vặt, những rung động mãnh liệt của tác

giả trước cuộc sống. Những trạng thái, cảm xúc đó được gọi là cảm hứng, là

nhân tố quyết định sự thành bại của tác phẩm. Có lẽ ở Đoàn Lê, tình yêu đối

với xóm Chùa, những trăn trở về số phận và đời sống tình cảm của con người

là nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của chị. Như chúng ta đã biết, mỗi

tác giả tài năng đều có một vùng sáng tác chuyên biệt và để lại dấu ấn sâu sắc

trong lòng người đọc về sự tài hoa, uyên bác, cũng như tấm lòng, tình cảm

của mình đối với vùng đất ấy. Chẳng hạn, nhắc đến mảng sáng tác về đề tài

Tây Nguyên thì không thể không nhắc đến Nguyên Ngọc, hay nhắc đến thành

phố cảng Hải Phòng là chúng ta lại nhớ đến Nguyên Hồng, nhắc đến Hà Nội

thì không thể quên Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng…. Xuôi về phương

Nam, vùng đất trẻ trung của tổ quốc, chúng ta biết đến Sơn Nam - nhà Nam

Bộ học, Trang Thế Hy - người được Nguyên Ngọc mệnh danh là “người hiền

của văn học Nam Bộ”, rồi Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân…và bây giờ chúng

ta có Nguyễn Ngọc Tư. Nói như thế để thấy chúng ta lại có thêm một nhà văn

nữ đã lựa chọn mảnh đất xóm Chùa thân quen của mình làm đối tượng thẩm

mỹ trong sáng tác, đó là Đoàn Lê. Nếu Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện với tác

phẩm Cánh đồng bất tận khiến người đọc ngạc nhiên và thổn thức về một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn41

vùng quê Cà Mau xa xôi nhưng gần gũi. Đó là một miền quê nghèo khó đắng

35

cay chồng chất đắng cay. Nguyễn Thị Thu Huệ khai thác về đề tài người đàn

bà phố thị,… thì Đoàn Lê đến và góp một tiếng nói nghệ thuật về đời sống

một xóm Chùa với biết bao vui buồn, ấm lạnh của cuộc đời. Đoàn Lê với

những câu chuyện rất đời thường, những câu chuyện như đang diễn ra từng

ngày, từng giờ đâu đó quanh ta. Những câu chuyện ấy mang hơi thở cuộc

sống hôm nay, ở thì hiện tại chị đã đưa người đọc khám phá những mảng màu

tối - sáng của cuộc sống. Thông qua một số truyện ngắn nằm rải rác trong các

tập truyện, đặc biệt đậm đặc hơn trong seri truyện ngắn viết về xóm Chùa, ta

thấy mảng đề tài thế sự được chị đặc biệt chú ý. Chị phơi bày ở những mức

độ và bằng những cách thức khác nhau về thực trạng nhức nhối của đời sống

xã hội.

Chuyện quan chức mua quan bán tước, lạm dụng chức quyền tham ô.

Cuộc sống của người dân xóm Chùa bị náo động bởi thông tin có đường cao

tốc đi ngang qua ( Đất xóm Chùa) [ 40, tr 20], người dân nơi đây xôn xao kẻ

bán người mua đất tấp nập. Có người nhanh chóng muốn bán đi kẻo để lâu

mất giá như lão Hớn nói: “Mình nhanh chân làm trước thiên hạ mới giỏi. Chờ

lúc ai cũng đua nhau bán, rồi rẻ hơn bèo”. Mọi người quên đi việc quan chức

trong làng ăn bớt ngân quỹ, việc chạy giấy tờ để bán đất, để giành nhau đất

mặt tiền gần đường… mà lao vào một vụ đầu tư về nhà đất rầm rộ khắp xóm

đó là bán đất vì đất sẽ có đường cao tốc đi ngang qua. Thói hám lợi, lòng

tham đã len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống người dân “xóm Chùa”, ở từ

những kẻ thấp cổ bé họng đến những lãnh đạo cấp xã, huyện như Quảng,

Toản,…Chúng lợi dụng chức quyền, câu kết với nhau bán đất địa phương để

trục lợi cá nhân, bỏ túi bạc tỷ.

Chuyện gái làng dần dần lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc cũng được Đoàn

Lê phản ánh một cách khéo léo qua tác phẩm Trinh tiết xóm Chùa [41, tr 67].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn42

Các cô gái làng đang vào một cuộc lựa chọn gắt gao để đủ tiêu chuẩn lấy

36

chồng ngoại theo sự mai mối của cô Lầy Lầy. Chỉ có Hoa con gái của ông bà

Sĩ Duệ là không nôn nao vì cô nghĩ bản thân mình không đủ tiêu chuẩn cô

Lầy Lầy tuyển chọn. Tiêu chuẩn “xinh xắn, dễ coi, trẻ, khỏe” [41, tr.141] thì

cô Hoa không bận tâm nhưng còn điều kiện “phải còn xịn” [41, tr.141] thì cô

rất khó nghĩ vì cô trót phải lòng anh phó nháy đầu làng, ở với anh ta có con

nhưng anh ta “bỏ của chạy lấy người” nên cô và bà Duệ phải âm thầm đi bỏ

thai. Con gái xóm Chùa dần dần đều tỏ ý hoặc đồng ý ra mặt lấy chồng ngoại

để có thể đổi đời, có thể giúp đỡ gia đình thoát nghèo… Nhưng đằng sau ấy

cuộc đời các cô nơi xứ người sẽ ra sao? Câu hỏi ấy cứ dấy lên trong lòng độc

giả khi đọc đến trang cuối của tác phẩm.

Đề tài mà nhiều tác phẩm văn học quan tâm là hạnh phúc gia đình trong

xã hội hiện đại. Hạnh phúc gia đình luôn có những bóng đen đe dọa và trong

đó người phụ nữ cảm thấy đau khổ, bất hạnh vì không thể giữ trọn hạnh phúc

ấy, như trong truyện ngắn Giường đôi xóm Chùa. Người vợ sau hai mươi tám

năm chung sống đời vợ chồng đã quyết định chia tay chồng mình trước khi bị

chồng bỏ để chạy theo người tình cũ, già hơn chị, xấu hơn chị. Người vợ thấy

đau đớn, bất lực nhưng cũng không hề tiếc nuối chuyện đã qua, người phụ nữ

ấy chỉ thương con mình, cháu mình, bà chỉ muốn che chở cho gia đình nhỏ bé

của mình trước phong ba của cuộc đời. Bà chấp nhận chia tay khi đã thu xếp

cho con cháu ổn thỏa, chỉ có nỗi đau về hạnh phúc tan vỡ là đau đáu trong

lòng. Sự dễ hợp dễ tan của nhiều gia đình trong xã hội hiện nay là một điều

cần xem xét suy ngẫm, bởi vì hệ lụy từ việc tan vỡ gia đình gây nên rất nhiều

tổn thương cho những người thân bên cạnh mình. Cuộc sống biến động từng

ngày với biết bao sự kiện chính vì thế có khi hạnh phúc chúng ta nắm giữ

trong tay ngày hôm nay ngay mai lại thực sự tan biến. Nhiều tác phẩm của

Đoàn Lê cảnh báo về cuộc sống của con người thời hiện đại và nhất là cảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn43

báo về việc giữ gìn mái ấm gia đình của mỗi người qua các tác phẩm: Viên

37

sỏi, Ngôi nhà gỗ, Giường đôi xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa. Quả thật mái

ấm gia đình hết sức mong manh cần mọi người trong gia đình cùng nhau nâng

niu giữ gìn. Trong truyện ngắn Viên sỏi, người đọc ngỡ ngàng khi bắt gặp một

hình ảnh người đàn bà già nua đến tiệm trang sức để làm một chiếc nhẫn có

mặt là một viên sỏi. Bà đi nhiều tiệm năn nỉ hết lời: “ Tôi muốn có một chiếc

nhẫn mà mặt nhẫn bằng chính viên sỏi này… Tôi cũng biết mài được nhẫn nó

công phu lắm, rất tốn kém. Bởi vậy số tiền dành dụm được có thể đủ đánh

nhẫn vàng, tôi chỉ yêu cầu anh giúp hộ bằng bạc, còn bao nhiêu tính vào công

mài.” [ 5, tr 215] thế nhưng đáp lại bà chỉ là lời từ chối bởi công việc ấy tốn

quá nhiều thời gian và công sức của con người. Nhưng đối với bà lão ấy và cô

bé Mỹ Linh thì đó là món quà vô giá mà người cha cô bé tặng cho cô với lời

hứa một ngày nào đó sẽ trở về. So với mọi món quà trên đời này thì tình thân

là điều quý giá nhất đối với cô bé. Cô đã mất gia đình mình vào chính ngày

sinh nhật năm lên bốn tuổi vì chính lúc ấy mọi người phát hiện cha cô là một

con nghiện. Mẹ cô ly dị bỏ đi, tài sản tiêu tán hết. Người cha cũng bỏ đi biệt

vô âm tín chỉ còn lại hai bà cháu, hai cái bóng cô đơn nương nhau mà sống.

“Đứa cháu chính là cái phao cứu hộ của bà, giúp bà thoát khỏi chết chìm

trong cơn tuyệt vọng” [5. Tr 222]. Đó là một hồi chuông cảnh tỉnh cho những

gia đình quá nuông chiều con cái, sự nuông chiều thái quá không phải là

thương con mà là đang đào một nấm mồ chôn sống con dần dần đến thân tàn

ma dại. Đoàn Lê cũng là một người mẹ phải chịu cảnh đau đớn tiễn con ra đi

như thế. Chị đã bộc bạch qua truyện ngắn Mẹ và con và thánh thần. Câu

chuyện là một cuộc đối thoại nhưng mang tính chất độc thoại thì đúng hơn vì

người mẹ và cậu con trai trong câu chuyện dù nói chuyện với nhau nhưng mỗi

người một thế giới riêng miên man tràn ngập trong nỗi đau kỉ niệm. Họ nhớ

lại những kỉ niệm về gia đình, người mẹ nhớ lại những ngày tháng cuối cùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn44

bên con. Đó là một thảm cảnh của nhiều gia đình hiện nay. Cha mẹ không

38

quan tâm con đầy đủ, không hiểu con và giúp đỡ con trong những lúc con bế

tắc nhất để con rơi vào vòng tay đen tối của cuộc đời. Phải trả giá bằng mạng

sống của chính bản thân mình. Đề tài về những bế tắc trong gia đình này đã

được nhà văn phản ánh thông qua các tác phẩm: Ngày cuối, Giường đôi xóm

Chùa, Mẹ và con và thánh thần,… Đó là những máu và nước mắt nhà văn

dùng để trả giá cho những sai lầm trong cuộc đời của mình và chị hy vọng đó

là lời cảnh tỉnh, là tiếng chuông cảnh báo về bổn phận và trách nhiệm của

những người làm cha làm mẹ trước cuộc đời của con. Gia đình không có đủ

trách nhiệm với con cái để con lầm đường lạc lối, nghiện chất trắng, thuốc

lắc, ma túy là những hiện tượng rất thực trong cuộc sống hiện nay. Sinh con

ra chưa đủ mà còn phải chăm sóc, dạy dỗ con nhất là khi con bắt đầu vào tuổi

trưởng thành, phải uốn nắn con, phải là tấm gương tốt cho con noi theo. Đọc

những truyện ngắn ấy thiết nghĩ những bậc làm cha làm mẹ sẽ giật mình thức

tỉnh để nghiệm ra những bài học quý báu cho bản thân mình về hạnh phúc gia

đình, về tình yêu và trách nhiệm với con cái.

Hiện thực về gia đình chị còn khai thác trên khía cạnh ngoại tình của

những người đàn ông trong gia đình. Họ có những tình cảm ngoài luồng, san

sẻ tình cảm cho những người tình của họ trong những chuyến đi công tác

chóng vánh. Họ khéo thu vén, sắp xếp để đến với những người tình ấy thông

qua việc nói dối vợ con, nói dối gia đình. Đoàn Lê phản ánh hiện tượng ấy

trong nhiều truyện ngắn của chị: Cổ tích manơcanh, Giấc mơ thứ, Trăng

đường, Giường đôi xóm Chùa…Việc ngoại tình ấy diễn ra một cách âm thầm

lén lút nhưng đôi khi dẫn đến hệ lụy của nó là tan vỡ gia đình. Nhà văn khai

thác chuyện ngoại tình dưới một góc cạnh mới đó là góc cạnh nhìn về người

phụ nữ bị xem là người thứ ba trong hôn nhân của người khác. Thật ra họ

cũng là nạn nhân, tình cảm mà họ nhận được là tình cảm bị san sẻ khiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn45

những cô gái làm tình nhân của những cuộc tình ấy cũng rất đau khổ cho hoàn

39

cảnh của mình, họ hiểu thân phận của mình luôn cảm thấy hoài nghi khắc

khoải, luôn mong chờ, hy vọng có thể sống trọn vẹn với tình yêu, có thể sống

như những đôi vợ chồng bình thường, có thể làm mẹ… nhưng đó mãi là

những hy vọng của họ mà thôi.

Đoàn Lê phơi bày lòng tham của con người khi con người tự biến mình

thành nô lệ cho chính những dục vọng của mình. Những ảo tưởng cứ giăng

giăng trước mắt những kẻ ngu muội cho rằng sẽ có thể giàu có nhờ may rủi đỏ

đen. Từ một công chức nhà nước đàng hoàng, đã đề huề gia đình vợ con, lão

Khiển trong Thành hoàng làng xổ số đã có mọi thứ trong tay mà không biết

trân trọng để rồi rơi vào cảnh không nhà, sống cầu bơ cầu bất, không áo cơm,

không kẻ qua người lại rủ lòng thương “con người lão từ quần áo đến tư thế

đều đã rách nát”, và cái kết cục bi đát nhất cũng đến với lão, ấy là cái chết

của một con vật: bị hất ra ngoài đường, chết đói, chết rét, không một manh

chiếu, không một tấm ván chôn cất. Đây là bài học cảnh tỉnh đối với những kẻ

ảo tưởng vào của phù vân, và vẫn còn nguyên tính thời sự.

Ngoài ra nhà văn còn khai thác thêm nhiều chủ đề mang đậm hơi thở

cuộc sống như: việc tiếp nhận tranh khỏa thân (Người đẹp xóm Chùa), các tác

phẩm văn chương khi đưa đi in ấn, xuất bản (Người khách đêm giao thừa),

kinh doanh du lịch trá hình, vì lợi ích cá nhân (A Tourism xóm

Chùa)…Những chủ đề ấy thực sự phản ánh những vấn đề “nóng” gây tranh

cãi trong xã hội cũng như chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn trong cuộc sống.

Là một nghệ sĩ đa tài, sống hết mình cho nghệ thuật nhưng Đoàn Lê

cũng rất thẳng thắn và không ngần ngại vén tấm màn nội bộ để phê phán một

bộ phận giới nghệ sĩ đã mượn danh chính nghĩa, mượn diễn đàn để tìm cách

hạ nhau, để “khiêu khích bôi nhọ nhau” trên mặt báo, nhưng cũng có kẻ mượn

đó để tự tô son cho mình (Chọi chữ, Người xiếc chữ). Đồng thời, nhà văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn46

cũng phê phán lối sống ảo tưởng, xa rời thực tế của những con người này. Dù

40

được ưu ái sống hai lần trong cuộc đời nhưng họ vẫn không tỉnh ngộ (Nhân

bản). Thậm chí vì danh tiếng lợi ích người cầm bút đã không viết đúng sự

thật. Đoàn Lê phản ánh hiện thực ấy thông qua truyện ngắn Người xiếc chữ.

Nếu như trước kia, văn học thiên về ca ngợi, khẳng định, biểu dương

thì bây giờ văn học đến gần hơn với cuộc sống con người, là nhu cầu bổ sung,

khám phá thêm những mặt trái, mặt tiêu cực khuất lấp của xã hội. Phải chăng

đó là lý do mà mảng đề tài thế sự được Đoàn Lê đặc biệt quan tâm và đã

chiếm được thiện cảm của bạn đọc. Với lối viết không đao to búa lớn, triết lý

không nhiều, quy mô phản ánh không rộng, nhưng Đoàn Lê đã đánh đúng vào

phần nhức nhối không nhỏ của xã hội, được quy tụ tất cả ở không gian nghệ

thuật “xóm Chùa”. Đó không đơn thuần chỉ là chuyện thay đổi một lối sống,

một con người, cũng không chỉ là chuyện đất làng bị giải tỏa, hay cơn sốt lấy

chồng ngoại quốc để đổi đời, hay việc lập làng du lịch để kiếm tiền,… mà ở

đây chị đưa ra vấn đề về sự biến đổi tầng sâu văn hóa của người Việt. Đoàn

Lê phản ánh một hiện thực nhức nhối của những nước đang phát triển đó là

những biến tướng trong du lịch, kinh doanh dịch vụ nhà hàng khách sạn. Như

việc kinh doanh du lịch trá hình trong truyện ngắn A Tourism xóm Chùa, Rồi

bụt hiện lên… Hiện thực ấy được phản ánh sinh động qua những trang văn

bởi những hình ảnh như Cường, ông Hưởng, cô Ty, anh Nang…những nhân

vật ấy bị cuốn vào dòng xoáy của cuộc đời vì danh lợi mà Cường đã biến xóm

Chùa thành một nơi du lịch với “Động người xưa” chuyên thu thập những cô

gái trẻ về phục vụ khách du lịch có những nhu cầu về vui chơi ăn uống, tình

dục… Du lịch biển cũng biến tướng bởi những khách sạn kinh doanh trá hình

như nhà hàng khách sạn Thiên Phượng chuyên môi giới gái mại dâm một

cách chuyên nghiệp… Đó là một hiện thực tồn tại âm ỉ trong lòng xã hội.

Những việc làm đen tối mờ ám kín đáo ấy được phơi bày khiến chúng ta cảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn47

giác thêm những mặt chìm của xã hội hiện nay.

41

Nhà văn còn quan tâm đến rất nhiều thân phận người bất hạnh trong xã

hội như những nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam sau chiến tranh. Hậu quả

của những di chứng ấy không thể hiện rõ trên người của họ nhưng con cái của

họ phải gánh chịu những biến chứng trên hình hài, bệnh tật đau đớn, không

thể làm những con người khỏe mạnh bình thường được. Đọc truyện ngắn Xóm

đom đóm của Đoàn Lê, chúng ta khắc khoải nhớ mãi hình ảnh: “Sáng sáng

anh thợ mộc Cán lần lượt bế ba đứa trẻ lớn bé đặt vào cái cũi gỗ buộc sau xe

đạp cà tàng của mình, rồi khóa cửa căn phòng tập thể cấp bốn xập xệ lại, đi

đến xưởng gỗ làm việc. Anh ta lầm lũi dắt xe ra cổng trong con mắt ái ngại

của những bà hàng xóm đứng trước cửa nhà.” [43, tr 57]. Đó là những đứa

con bất hạnh bị nhiễm chất độc màu da cam của anh khi anh đi bộ đội ở chiến

trường Tây Ninh về. Gia đình tan nát, vợ bỏ đi, đứa con trai lớn chết, anh vừa

sống, vừa đi làm, vừa chăm sóc ba đứa trẻ còn lại. Gấp trang sách lại người

đọc còn ám ảnh bởi tiếng kêu thê thảm, thương tâm của anh: “Mẹ cha cái tập

đoàn bí mật mày ơi… Bụng mày nham hiểm giết người không dao… Bớ cái

tập đoàn bí mật chúng mày… Trời cao chứng giám thù này không tan… Mẹ

cha cái tập đoàn bí mật mày ơi… ơi…” [43, tr 60].

Hướng ngòi bút vào khai thác những yếu tố sinh hoạt thế sự, đây

không phải là những thử nghiệm mới mẻ của Đoàn Lê mà nó là xu hướng

chung của nhiều nhà văn đương đại. Mảng đề tài này đã chiếm một số lượng

không nhỏ trong sáng tác truyện ngắn của Đoàn Lê, đó là các truyện khai thác

chi tiết sinh hoạt thế sự, đậm chất đời thường, đã thực sự gây được sự tiếc

thương, chua xót cho những giá trị truyền thống đang bị xói mòn, có nguy cơ

trở nên “vang bóng một thời” và ẩn sau đó là khát khao không thành lời của

nhà văn về cái đẹp, cái thiện.

2.1.2. Ý thức đối thoại ngầm với những quan niệm sáng tạo đương đại

Những quan niệm sáng tạo nghệ thuật và sự tiếp nhận về các hình thức,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn48

loại hình nghệ thuật hiện nay đang gây tranh cãi rất nhiều như về việc tiếp

42

nhận ảnh khỏa thân, sex,… trong văn học. Những quan niệm ấy đã có những

ý kiến trái ngược nhau, phản bác nhau, và chưa thực sự thống nhất. Mỗi người

đứng trên lập trường của mình, dựa vào những hiểu biết, kinh nghiệm sống

của bản thân để tiếp nhận những hiện tượng trái chiều trong xã hội. Thế

nhưng Đoàn Lê lại có thể dung hòa những quan niệm ấy vào tác phẩm của

mình, cùng đối thoại, cùng đấu tranh để thấy được mọi mặt của đề tài, của vấn

đề đặt ra cho tác phẩm. Đoàn Lê sử dụng ý thức đối thoại ngầm với những

quan niệm sáng tạo trong các tác phẩm của chị. Chẳng hạn như trong truyện

ngắn “Người đẹp xóm Chùa” [ 41, tr 83], tác phẩm nói về ảnh khỏa thân hiện

nay và vấn đề vẽ ảnh khỏa thân. Nhân vật tự đối thoại với chính mình để nhận

thức sự việc, cả câu chuyện như lời tự sự của người họa sĩ vẽ tranh là nhân vật

xưng “tôi”: “Tôi vẫn ngỡ mình là một thiên tài chưa có đầu ra. Thị trường

còn đang manh nha, giá gặp mấy anh có máu buôn, chắc họ phải vồ lấy tôi.”

[ 41, tr 83]. Tranh của anh là tranh nude, tranh khỏa thân, anh vẽ và tôn vinh

nét đẹp của người phụ nữ nhưng không bán được bức tranh nào trong số “hai

mươi mùa xuân” [41, tr 84] của anh trong ngày trưng bày triển lãm. Ý thức về

cái đẹp trong anh đã rõ ràng, anh luôn bảo vệ quan điểm lập trường của mình

về tranh khỏa thân. Đó không phải là những tấm ảnh dung tục mà là những

tấm ảnh rất giàu nghệ thuật. Nhưng rồi một sự kiện xảy đến khiến anh phải

suy nghĩ về quan niệm của mình, anh cảm thấy quan niệm trong sáng về ảnh

nude của mình bị lung lay khi gặp Hương, em gái của Hiền. Cô bé là người

mẫu anh phải mướn bất đắc dĩ vì Hiền thiếu nợ không trả tiền được sẽ bị đánh

nên đã đến xin làm người mẫu để lấy tiền công hai trăm năm mươi ngàn trả

nợ. Anh họa sĩ đã bị Hương chinh phục thực sự, anh có những suy nghĩ khác

ngoài nghệ thuật khi vẽ Hương: “Tôi xiết bao bàng hoàng. Cả góc phòng

ngổn ngang luộm thuộm bỗng sáng bừng trước vẻ đẹp lộng lẫy tinh khiết của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn49

một thân thể thiếu nữ. Tôi không thể cầm lòng để không thể hình dung một

43

bức tranh khỏa thân đúng nghĩa trước mặt tôi…” [41, tr 91]. Người họa sĩ ấy

đã “động lòng” đã có những suy nghĩ phi nghệ thuật như khi anh coi thường

những con người dùng con mắt háu đói, phàm trần để chiêm ngưỡng tác phẩm

nghệ thuật của anh: “Trong đám người kia tôi nhận ra không ít những đôi mắt

phàm phu tục tử. Các vị khách háo ngọt lục lọi những phần thân thể đàn bà

tôi cố tình giấu đi. Hệt những anh hàng thịt soi mói những con lợn sắp pha”

[41, tr 85]. Nhưng rồi trong anh đấu tranh để bảo vệ quan niệm về cái đẹp của

mình, anh quyết định giữ lại bức tranh vẽ Hương để như một niềm tôn kính

cái đẹp của mình dù ai trả bất cứ giá nào anh cũng không bán. Như một minh

chứng cho tấm lòng của anh dành cho nghệ thuật, một sự cống hiến hết mình

và tận tâm.

Quan niệm sáng tạo nghệ thuật còn thể hiện trong tác phẩm Người

khách đêm giao thừa [42, tr 42]. Ông chủ nhà in chuẩn bị ra về thì có một vị

khách đến nói chuyện với ông về những bản thảo ông vừa biên soạn chuẩn bị

cho in. Và quan trọng là ba trang cuối cùng đầy tâm huyết của ông nhà văn

ấy, ông đủ biết mỗi dòng là “mỗi giọt máu” nhà văn tặng lại nhân gian, nhưng

ông đã không thể cho in mà cắt bỏ đi bởi giọng điệu, lời lẽ trong tác phẩm quá

gay gắt, “chúng như những quả bom”, đã “phạm thượng” vì dám nói “huỵnh

toẹt những điều húy kị” [42]. Câu chuyện thực ra là sự đối thoại ngầm trong

tưởng tưởng của nhân vật ông tổng biên tập với ngón tay út của mình về tình

đời và về nghề viết văn. Trước thời khắc đêm giao thừa ông như đối thoại với

chính mình để tìm những hoài bão, lý tưởng đã mất đi trong ông khi ông

không còn giữ đủ lòng tin, lòng can đảm để bảo vệ những nỗi niềm, tâm tư

của nhà văn qua trang viết của họ. Ông không có can đảm và dũng khí để lắng

nghe họ nói lên những sự thực ở đời, bởi cái lối đi ông đã chọn là “một nhà

cầm bút hèn nhát”. Cứ chuyện gì ảnh hưởng không tốt đến xưởng in là ông có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn50

thể sẵn sàng cắt bỏ để tránh đụng chuyện không hay với người khác, lâu dần ở

44

ông đã mất đi bản sắc của một người viết văn, một người phản chiếu cuộc

sống đúng với những cung bậc thăng trầm của nó – “một thư ký của thời đại”.

Ông thấy mình thấy tủi hổ, hèn nhát, cay đắng biết bao?

Văn của Đoàn Lê rõ ràng đâu phải thứ văn giải trí để độc giả đọc xong

trôi qua luôn. Dường như nỗi trăn trở cuộc đời luôn thường trực trong chị? Sự

lo lắng trước tình trạng con người để mất đi gương mặt thật của mình đã được

nhà văn khéo léo lồng ghép vào lời đối thoại của đôi nam nữ trong “Cổ tích

ma-nơ canh”, chị đối thoại với chúng ta về thực trạng tha hóa của con người:

“Khi nấp dưới khuôn mặt hờ hững của cô manơcanh, nàng nhìn người

qua lại tấp nập và phát hiện bộ mặt con người quả thực dửng dưng đáng sợ.

Ta không hiểu họ nghĩ gì, toan tính điều gì trong vẻ lạnh lùng ấy.

- Anh à, em thấy con người cũng phần nào giống manơcanh đấy chứ.

- Đúng thế. Như anh và em đứng đây, có ai nhìn thấy bộ mặt thật của

ta đâu. Và em thấy đấy, con người vốn dĩ thích dấu mặt em à.

- Anh bảo sao?

- Có những con người thích dấu mặt như mấy ông thầy dùi, lại có

những ông dấu mặt theo dõi hành vi những ông thầy dùi ấy, lại có

những ông dấu mặt mưu toan hất thủ trưởng, thủ phó cơ quan, lại có

những anh tình nhân dấu mặt diệt tình địch…” [43, tr 9].

Đoàn Lê đưa ra đối thoại không chỉ để phơi bày thực trạng mà còn là

một sự cố gắng lý giải mối quan hệ nhân quả của sự tha hóa ấy.

Những truyện đối thoại ngầm về quan niệm sáng tạo nghệ thuật này là

những tâm sự chân thành của Đoàn Lê đến với độc giả. Qua đó nhà văn bộc lộ

quan điểm nghệ thuật của bản thân và khuynh hướng nghệ thuật của chị.

Đoàn Lê thể hiện quan niệm tôn trọng cái đẹp, hết mình vì cái đẹp và sẵn sàng

can đảm chấp nhận mọi khó khăn thử thách của cuộc đời để bảo vệ cái đẹp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn51

đến cùng. Chị tin rằng cho dù trải qua khó khăn đến đâu thì những vẻ đẹp

45

nghệ thuật thực sự sẽ tồn tại vĩnh hằng. Chị cũng tỏ rõ quan niệm tin tưởng

tuyệt đối vào nhân phẩm cao đẹp của người nghệ sĩ chân chính.

Đoàn Lê còn thể hiện ý thức đối thoại ngầm với những quan niệm sống

của con người hiện nay. Cuộc sống muôn màu, muôn vẻ với rất nhiều điều

xảy đến khiến ta không thể lường trước được, nhưng thật ra mỗi chúng ta vẫn

đang có sự lựa chọn cách sống cho riêng mình trước mỗi hoàn cảnh. Đoàn Lê

quan tâm nhiều đến những nghịch cảnh trong tình yêu. Những người yêu nhau

bị những quan niệm đạo đức xã hội lạc hậu trói buộc. Những câu chuyện

mang màu sắc ấy đó là: Tình muộn, Oan hồn ngõ đá dốc, Chuyện lãng mạn

cuối cùng… Họ đều là chàng trai, cô gái, người đàn ông, người phụ nữ yêu

nhau tha thiết nhưng bị nhiều quan niệm xã hội ngăn cản. Họ là những người

như: Tú và Thơ; Nhà văn và cô sinh viên đánh máy bản thảo; là người đàn

ông hai mươi tám và người phụ nữ bốn mươi chín tuổi đã có quảng thời gian

trẻ sống bên nhau,… Họ yêu nhau nhưng không thể đến với nhau bởi rất

nhiều lí do như: ám ảnh cuộc đời của người mẹ bị bố mình vứt bỏ do lớn hơn

hai tuổi nên Thơ không đến với Tú, không chấp nhận anh mãi đến khi anh ra

đi cũng không hề hay biết; Là sự ngăn cách về tuổi tác, sức khỏe như các

nhân vật trong truyện ngắn Tình muộn… Rất nhiều lí do cấm cản để không

cho họ đến với nhau. Những quan niệm sống ấy là những mảng đối thoại

ngầm trong suy nghĩ của rất nhiều người. Họ muốn được đến với tình yêu của

mình nhưng sợ số phận bất hạnh sẽ vây bám mãi đời họ ( Oan hồn ngõ đá

dốc), sợ người đời cười chê (Tình muộn, Cụ ngoại và tôi, Mỹ nhân mèo,

Chuyện lãng mạn cuối cùng,…). Vậy là họ từ chối hạnh phúc, do dự trước

hạnh phúc của mình và đánh mất đi hạnh phúc đã trong tầm tay. Trong truyện

ngắn Oan hồn ngõ đá dốc, Thơ và Tú cùng lớn lên ở xóm biển nghèo. Thơ

sống với bà ngoại, còn Tú sống cùng người cha tâm thần. Từ nhỏ đã thân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn52

nhau, chơi với nhau rất mực yêu thương, chân thành. Lớn lên vì sự chọc ghẹo

46

của bạn bè mà không còn thân thiết như trước nữa, nhưng tình cảm mà Tú

dành cho Thơ thì không hề thay đổi. Anh rất muốn cưới Thơ, nhưng cô gái lại

sợ cho cuộc tình của mình, lo cho hạnh phúc của người mình yêu: “Em nhờ

anh nói hộ với Tú, em không thể chấp nhận. Em rất biết ơn Tú nhưng sống

với nhau phải nghĩ chuyện lâu dài. Em hơn tuổi Tú cơ mà... Mẹ em cũng vì

hơn tuổi bố em mà bị ông bỏ rơi sau khi sinh em. Do đau khổ quá, bà bỏ đi

biệt tăm bao nhiêu năm. Làng nước không ai biết cho, cứ trách mẹ em vô tình.

Tới lúc chết, mẹ em mới gửi thư về xin bà ngoại tha tội. Không đời nào em

lặp lại nỗi đau khổ của mẹ. Giờ em lại trót dở dang, Tú càng không nên theo

đuổi nữa. Như vậy cả hai đứa mới đỡ khổ. Cứ để em chống chọi một mình, trả

giá cho lầm lỗi của em. Em chịu được hết. Thực lòng bây giờ em chỉ mong Tú

có một hạnh phúc trọn vẹn, xứng đáng. Đời Tú quá khổ rồi anh ạ!” [ 50, tr

120]. Cô đánh mất hạnh phúc của mình khi kịp nhận ra nó, bởi Tú đi biển gặp

bão đã không thể trở về với cô. Câu chuyện kết thúc bi thảm với hai phận

người long đong, một người chết, một người điên loạn cả đời.

2.2. Hình tượng xóm Chùa và các vấn đề đạo đức – xã hội đương đại

2.2.1. Tác động của nền kinh tế thị trường và sự băng hoại các giá trị

đạo đức

Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế tự do phát triển với định

hướng phát triển của nhà nước. Nền kinh tế ấy giúp con người tự do mua bán

trao đổi với nhau những hàng hóa chỉ cần luôn tuân theo những gì pháp luật

quy định. Nhưng khi đồng tiền ngự trị có cầu ắt có cung, mọi sở thích, ham

muốn của con người đều có thể đáp ứng nếu có tiền. Và đồng tiền dần đã làm

băng hoại nhiều con người, nhiều thành phần trong xã hội. Những người ham

tiền sẵn sàng khiến nhân phẩm, nhân cách của mình biến chất. Đồng tiền

khiến nhiều gia đình tan nát, tha hóa. Đoàn Lê đã phản chiếu những bức tranh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn53

xã hội sinh động về nền kinh tế thị trường và sự đi xuống của những giá trị

47

đạo đức, văn hóa xã hội qua các truyện ngắn: Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm

Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, A Tuorism xóm Chùa, Hợp đồng đã thanh lý,… Ở

đó những con người như Lão Bản, Bà Duệ, Cường - Hưởng, Phó giám đốc

Hoàng Quốc Thích,… vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của chính

mình. Họ coi thường giá trị bản thân, coi mình như một món hàng để trao đổi

buôn bán trong Trinh tiết xóm Chùa. Cô Khờ ngày nào thất tình giờ đã lấy tây

để đổi đời. Cô giàu có và về lần này để tuyển chọn các cô gái trong làng để

làm mai đi lấy chồng nước ngoài. Cô đang được đổi đời: “Khờ lấy tên họ Tàu,

gọi là cô Lầy Lầy. Từ dạo bị người ta dụ dỗ đem bán tận Hồng Kông, chốn

lầu xanh nó kiếm được anh Từ Hải lấy làm chồng, ai cũng mừng cho phúc

phận nhà nó. Mừng hơn nữa nó biết mang cái thân xác tìm về quê quán, lại

mang kèm theo hàng đống tiền, vàng, của nả... Năm ngoái nó cho mẹ tiền xây

nhà ba tầng, xây lại mộ cụ mõ, xây mộ ông đánh giậm, nghênh ngang to bằng

hai nhà táng ở giữa nghĩa địa xóm Chùa, rất khiêu khích. Đành rằng từ thời

mở cửa, xóm Chùa ông có thừa hơi hướng văn minh hiện đại, những nhà cao

tầng mọc như nấm rơm, video mở cả hăm bốn tiếng, nhưng ngôi nhà ba tầng

sang trọng hơn cả khách sạn ba sao ngoài tỉnh cùng hai ngôi mộ nói trên vẫn

khiến cả làng lác mắt” [41, tr 133]. Chính nhờ những thành tựu cô có được

khi lấy chồng ngoại mà cô dễ dàng làm bà mai dắt mối. Cô không hề dấu

diếm ý định của mình mà còn họp bà con họ hàng công khai để tìm mối làm

ăn chân chính: “Cháu về lần này cũng muốn nhặt vài chị em gái, đưa sang

bên ấy cho đông vây cánh làm ăn. Cứ có khả năng xuất được cháu sẽ giúp.

Các bà phải xác định cho con cháu đi cứu gia đình thoát nghèo, thoát khổ.

Quanh quẩn xóm Chùa ông đây, dù tài, dù sắc đến mấy cũng chả có cơ hội

đổi đời. Làm vợ mấy anh nhọ đít, hai tay vày lỗ miệng, phí!” [41, tr 137], và

cô không ngần ngại về việc mình làm “Buồn cười chưa? Cháu làm gì phạm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn54

pháp đâu. Là cháu thương họ hàng loay hoay nghèo túng, cháu giúp, bận đến

48

ai? Ôi dào, khối người lạy cháu chả được”. Khờ cho rằng mình làm việc

chính đáng. Làm phúc cho chị em trong dòng họ. Nhưng mai mối lấy chồng

ngoại chẳng khác gì bán một món đồ cho người ta, đưa hình cho người ta

xem, nếu đồng ý sẽ xem hàng, qua vòng đó rồi lo thủ tục và xuất giá về nhà

chồng một cách chóng vánh. Người chồng của Lầy Lầy là một bí ẩn với mọi

người. Ai cũng thấy sự giàu có của cô nhưng chẳng bao giờ người ta thấy cô

đi bên cạnh chồng mình, nói về chồng mình… Phải chăng ẩn sau đó là những

chua chát của cảnh lấy chồng ngoại. Chua chát vì một cô gái chỉ ngoài hai

mươi tuổi lấy người chồng trên bảy mươi gần đất xa trời. Chua chát vì lấy

phải những người chông nghèo khó, thất học vũ phu bị đánh đập hành hạ tàn

nhẫn…Thế nhưng cái viễn cảnh đổi đời vẫn che mờ lí trí của họ, lấy chồng

ngoại để đổi đời, để thoát nghèo hay gánh thêm một nợ đời khác, gánh thêm

bất hạnh vào cuộc đời mình. Đó là những điều đáng để xã hội quan tâm.

Nền kinh tế thị trường khiến cho con người luôn phải tìm cách chống

chọi lại sự cám dỗ của đồng tiền, chống chọi lại những suy đồi về văn hóa đạo

đức. Thế nhưng vẫn không thể thoát được bởi lòng tham lam vô hạn của

chính mình. Họ tham tiền, tham danh nên bất chấp mọi thủ đoạn. Ngay cả

việc hiếu thảo với cha mẹ cũng mang tính cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh để

được tiếng hiếu thảo như trong tác phẩm Con Mốc của Đoàn Lê. Vì việc bán

đất của gia đình để làm sân gôn theo dự án của xã, họ bới móc nhau việc hiếu

thảo với cụ Cậy - mẹ của Giáo và Nhị nên hai anh em tranh giành nhau nuôi

mẹ. Ông giáo Nhất tìm mọi cách đón mẹ về nuôi để không phải bị ông Nhị

chủ tịch xóm Chùa cho là không có quyền lên tiếng việc bán đất trong nhà bởi

ông giáo Nhất không nuôi mẹ già, không hiếu thảo với mẹ. Thế là ông Giáo

dùng mọi biện pháp để đón mẹ về. Việc đón mẹ diễn ra vào một ngày ông Nhị

đi họp cả gia đình ông Giáo sang đón mẹ một cách rầm rộ, họ tranh giành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn55

nhau, chửi mắng nhau chỉ cốt giành cho được mẹ già: “Thím cho tôi đón bà

49

về. Chú thím phụng dưỡng bà ngần ấy năm đủ hiếu thảo lắm rồi. Nhưng dám

kể công nuôi mẹ thì tôi sổ toẹt tất. No đói bà về bên tôi cho đúng luật đời…

Chúng bay đâu, vào đón bà, quần áo đồ dùng, lấy sau!” [45]. Đón mẹ như thể

cướp một món đồ từ tay người khác: “Hai đứa thanh niên lực lưỡng tức thì

đẩy băng bà thím dâu ra, cõng luôn cụ Cậy đang run như giẽ lên lưng, huỳnh

huỵch chạy”, người chạy kẻ đuổi theo: “Khi đám nhà ông giáo Nhất cõng

chiến lợi phẩm về gần tới ngõ thì chiến binh nhà ông chủ tịch Nhì truy đuổi

kịp. Ông chủ tịch cùng ba đứa con cũng ngoài hai mươi tuổi, lực lưỡng, xông

vào giằng lấy bà cụ Cậy trong vòng tay đối phương. Đó chính là thời điểm

con Mốc bị đạp bắn vào bờ rào”. Họ tranh nhau hành hạ “cái thân thể một

nhúm thịt xương rệu rão” đến nổi bà cụ phải gào lên “Ối làng nước ơi, chúng

nó đang xé xác tôi ra đây làng nước ơi. Gẫy tay tôi rồi!”. Nhưng họ đâu hiếu

thảo với người mẹ đã tám mươi sáu tuổi bệnh tật đau yếu ấy mà chỉ để cốt lấy

danh lấy tiếng. Sau khi giành được người mẹ về nhà ông giáo Nhất lại bận lo

toan việc của mình: “Cụ nằm nhà nghỉ ngơi. Con đi họp một chốc. Cái Thảo,

thằng Tuấn chúng nó học ở nhà ngang cả đấy. Cụ cần gì cứ gọi chúng nó

nhá”. Và rồi: “Ông đi họp tổ hưu, bà đi chợ kẹo, hai đứa con đều đến xí

nghiệp gò đồng, con dâu đi dạy học, tất nhiên ông phải khóa cổng cẩn thận

đề phòng đối thủ tập kích”. Người mẹ ấy mệt mỏi đau khổ bởi sự hiếu thảo

của các con đến nỗi chẳng biết bày tỏ cùng ai, bà nói chuyện với con chó Mốc

của lão kép cải lương mà thôi: “bà cụ Cậy lần mò ra giếng. Bà vừa sụt sịt lau

nước mắt vừa múc gầu nước rửa mặt. Bà cụ sợ. Nhỡ đứa nào về bắt gặp bà

khóc chúng lại chả gắt toáng lên cho xem. Sao phải khóc? Hay bà sợ về đây

không được ăn sung mặc sướng bằng ở nhà nó? Về đây người ta để bà chết

đói chắc? Nó nuôi, nó kể công, thì nó coi bà là mẹ, báo hiếu bà đấy à? Đấm

thèm bước vào cái cổng nhà nó nữa. Bà trăm tuổi về già, chúng nó kéo đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn56

người ta chả lót tay lá chuối dắt ra cho nhục chứ đùa! Vậy nên bà cụ biết

50

mình không có quyền khóc. Rồi um nhà lên, rồi thiên hạ chửi cho bọn vô

phúc, rồi nhỡ ảnh hưởng đến cái chức chủ tịch của thằng Nhì, rồi vợ nó róc

rỉa bà hại con hại cháu... Nhưng càng nén lòng bao nhiêu bà cụ càng đau

đớn, hai hàng nước mắt càng lã chã bấy nhiêu. Sao mày lại nằm khổ sở ở đây

vậy? Dễ mày nghĩ tao sướng hơn mày đấy. Mày là con chó già, sống chết

không bận đến ai, chứ như tao sống cũng khổ, già càng khổ, muốn chết không

xong, được như mày thì phúc đức quá”. Bà cụ già được con cháu hiếu thảo

hết mực ấy đã chết thực, bà chết rớt xuống giếng khi đi ra đó uống nước. Bà

chết để không phải chứng kiến cảnh mình bị hành hạ bởi cuộc chiến hiếu thảo

của con cháu.

Xóm Chùa không còn yên ả khi nền kinh tế thị trường chiếm lĩnh, đồng

tiền lên ngôi. Ngay cả khi đã khuất mặt về với đất mà họ còn ganh tỵ nhau,

đấu đá lẫn nhau ngay ở cõi âm. Các con ma trong câu chuyện Nghĩa địa xóm

Chùa, cũng rất bận rộn để nghênh tiếp một đại tá về hưu giàu có quyền lực,

ban quản trị tôn kính, chu đáo ân cần mời mọc đại tá chiếu cố đến xóm nghèo.

Lời nói của họ ban đầu thật lịch sự nhã nhặn, nể trọng ông đại tá. Thế nhưng

khi biết đó chỉ là sự nhầm lẫn thì thái độ của họ trái hẳn với lúc trước, họ hạch

sách, quát nạt con ma mới thợ điện bậc ba vì nghèo quá không thể chôn ở Mai

Dịch nên phải nhờ quen biết họ hàng nhà bà Hai Đá xóm Chùa để được chôn

ở đó. Thái độ của họ đối với hồn ma ấy chính là cư xử của họ đối với chức tước,

địa vị, sang hèn, giàu nghèo… Họ chỉ coi trọng những ai có địa vị, giàu sang mà

thôi, còn người nghèo phải nể trọng, phải sợ hãi bọn quan cai trị của vùng.

Giá trị đạo đức cũng bị xói mòn theo những ma lực, nhờ đồng tiền mà

có được như sự quyến rũ từ sắc đẹp của người phụ nữ. Nhiều người không

biết tôn trọng cái đẹp coi mọi thứ đều có thể quy đổi và mua bằng hiện vật.

“Hai mươi mùa xuân” của nhà họa sĩ vẽ tranh khỏa thân phụ nữ thu hút một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn57

bộ phận không nhỏ những kẻ ham muốn tầm thường, “mặc cả ráo riết” [41,

51

tr.83]. Trong truyện ngắn Người đẹp xóm Chùa, Đoàn Lê đã cho thấy ngay cả

việc thưởng thức nghệ thuật họ cũng tầm thường hóa những giá trị thẩm mĩ

thiêng liêng cao cả, xem chúng như những món hàng bình thường, không hơn

không kém.

Tác hại của nền kinh tế thị trường sâu sắc nhất đến cuộc sống của con

người qua lối sống buông thả của ngay cả những người vì muốn thỏa mãn mọi

ham muốn trần tục của mình, coi cuộc đời như một sân khấu để diễn xiếc theo

những điều họ muốn. Trong truyện ngắn Ông nọ bà kia của Đoàn Lê việc

ngoại tình, quan hệ ngoài hôn nhân diễn ra với tốc độ chóng mặt: “Phải, như

bây giờ cái Cục quan trọng này được gọi mỉa mai chế giễu là “Cục – ông –

nọ – bà – kia”. Phòng Tổ chức cán bộ thỉnh thoảng lại nhận được một tin đồn

thất thiệt: văn phòng đại diện tại nước X, nước Y đang xảy ra những cuộc

tình chiến. Tôi rất thắc mắc. Phần lớn cán bộ đi xa đều được tiêu chuẩn mang

theo vợ con, vậy mà các cuộc tình du kích không hề giảm”. Nhất là việc đó

xảy ra trong một Cục văn hóa của nhà nước. Các cán bộ ấy ngoại tình một

cách công khai và dùng thế lực chính trị xã hội để che đậy tiếng xấu, che đậy

bản chất thối nát của chính mình: “Người ta bịt chặt miệng anh xế lại, bảo

rằng phải giữ quốc thể, không được làm ầm ĩ. Nên nhớ chúng ta đang sống

trên đất nước người, địch luôn luôn nhòm ngó bới lông tìm vết, điều tối quan

trọng là không được vạch áo cho thiên hạ xem lưng, mọi chuyện ở đây đều

xếp vào loại bí mật quốc gia cả đấy! Anh có muốn người ta tống khứ vợ

chồng con cái nhà anh về nước ngay lập tức không? Anh xế đành lấy hết tinh

thần để nuốt nhục.

Bà vợ sếp ngất lên ngất xuống, cũng phải cắn răng mà chịu. Phu nhân

có thương chúng em thì giữ yên lặng cho cơ quan nhờ. Đừng để người ta sờ

gáy anh nhà, rồi cái sảy nảy cái ung, chuyện nọ phát sinh chuyện kia. Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn58

phòng đại diện nào chả có những vấn đề tế nhị, không được lộ sáng. Ở trong

52

nước thiên hạ đang ghen ăn tức ở, thêm chuyện này càng rách việc. Phu nhân

bình tĩnh đi, đừng xúc động quá. Về lâu dài “của nhà” vẫn đấy. Chỉ là thư

giãn tý chút. Hết ba năm, ông nọ về nhà ông nọ, bà kia về nhà bà kia, không

ai lăn tăn nữa. Thứ tình – yêu – nhiệm – kỳ ở Cục mình là chuyện thường

thôi, xảy ra như cơm bữa. Chẳng qua phu nhân bị bất ngờ, tất nhiên phải

choáng. Chúng em vô cùng thông cảm. Nhưng xin nể mặt chúng em!”. Họ tìm

mọi cách để thu xếp êm xuôi mọi chuyện để giữ gìn danh tiếng cho cơ quan.

Họ cũng tìm cách sắp xếp lại cuộc đời của mình để che đậy những ngày tháng

sống buông thả, ăn chơi của bản thân. Thông qua việc tìm việc cho nhân vật

tôi trong truyện, ông Nhã đã toan tính rất nhiều cho con gái tên là Hoa của

ông, kế hoạch của họ không thành công bởi người bố đã mất của anh qua

thương con đến đỗi phải báo mộng cho anh biết để tránh tai kiếp: “Tội nghiệp

con giai của bố. Con đã lọt vào kế hoạch của bố con ông Nhã mất rồi. Con

Hoa ở bên kia sống buông thả lắm, nghe đâu trước đây trót dính chuyện với

thủ trưởng của nó, ai cũng biết, nên giờ khó lấy chồng. Ông Nhã đang cần

tìm tấm bình phong che chắn cho nó. Hãy nhớ lời bố dặn đây: lấy ai thì lấy,

chớ dính vào con gái trong Cục... Rồi tan nát cả một cuộc đời con ạ!”. Kinh

tế thị trường thực sự đã làm biến chất những phẩm hạnh cao quý tốt đẹp của

rất nhiều người bởi họ không vượt qua được sự cám dỗ của nó.

Nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của nước

ta nhưng cũng đang thử thách bản lĩnh làm chủ, nhân cách của con người

trước những ma lực cám dỗ của nó.

2.2.2. Chân dung nhân cách méo mó, bi hài

Với những chân dung nhân cách méo mó, bi hài khiến truyện ngắn

Đoàn Lê mang những nét riêng. Đó là những con người có vẻ ngoài và nội

tâm trái ngược nhau, họ có vẻ ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong lại chứa đầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn59

những suy nghĩ xấu xa. Như ông Hưởng trong truyện ngắn A Tourism xóm

53

Chùa, bề ngoài ông tỏ ra mình là một người đạo đức phẩm hạnh nhưng khi

bị thử thách trước vẻ đẹp của cô tiếp viên Lan ông đã không thắng nổi dục

vọng và sa ngã. Còn con trai ông tên Cường là một kẻ rất mưu mô xảo

quyệt. Hắn lấy danh nghĩa làm cho quê hương phát triển thành một địa điểm

du lịch với “Động người xưa”, hắn đã làm nhiều việc xấu xa trên chính

mảnh đất quê nhà của mình. Hắn phát triển đội ngũ tiếp viên trẻ đẹp mà hắn

săn lùng khắp nơi để mua vui cho khách nước ngoài đến thăm quan. Hắn cấu

kết với quan chức, bắt tay với hãng du lịch,… tất cả đều nhằm trục lợi riêng

cho bản thân mình.

Chân dung méo mó biến dạng ấy còn là những kẻ đểu giả mang danh

nghĩa tốt đẹp để làm những việc xấu xa như cô Khờ sau khi lấy chồng tây.

Khi đã là cô Lầy Lầy, cô Khờ lại tìm cách dụ dỗ người khác để cô mai mối gả

lấy chồng nước ngoài như bản thân cô chỉ ngoài hai mươi tuổi mà lấy ông

chồng hơn bảy mươi. Cô sống sung sướng giàu có nhưng có thật đó là những

gì tốt đẹp của đời cô. Thế mà cô lại về quê khoe khoang sự giàu có sung

sướng của mình hòng gạt gẫm những cô gái nhẹ dạ cả tin lấy chồng ngoại

(Trinh tiết xóm Chùa).

Những méo mó biến dạng nhân cách ấy đôi khi xuất hiện trong những

lúc con người yếu đuối không thể vượt qua những bản năng ham muốn của

mình trong các tác phẩm như: Chuyện lãng mạn cuối cùng, Ngày cuối, Mỹ

nhân mèo, Quai xăm, Oan hồn ngõ đá dốc, Trinh tiết xóm Chùa,…. Đôi lúc

họ không thể thắng nổi ham muốn trần tục của bản thân, không còn giữ mình

là một nghệ sĩ chân chính yêu cái đẹp: Trinh tiết xóm Chùa, Mỹ nhân mèo,

Chuyện lãng mạn cuối cùng,… Họ nhìn nhận cái đẹp bằng những cặp mắt

tầm thường nhất. Người họa sĩ vẽ khỏa thân trong Trinh tiết xóm Chùa đã có

cái nhìn vẩn đục với cô người mẫu Hương: “Tôi xiết bao bàng hoàng. Cả góc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn60

phòng ngổn ngang luộm thuộm bỗng sáng bừng trước vẻ đẹp lộng lẫy tinh

54

khiết của một thân thể thiếu nữ. Tôi không thể cầm lòng để không thể hình

dung một bức tranh khỏa thân đúng như trước mắt tôi kia” [ 41, tr 91].

Nhưng rồi vượt qua những lúc yếu đuối ấy anh vẫn làm một người nghệ sĩ

chân chính: “Xin trời tha thứ cái yếu lòng thằng tôi. Chút áy náy cuối cùng

lẫn lòng trắc ẩn ấy đã nhường chỗ cho con ngựa nghệ thuật nó đột ngột lồng

lộn. Tôi bỗng náo nức, con tim nhảy thì thụp dưới áo, luýnh quýnh vơ đại cây

bút nào trong tầm tay tôi.” [41, tr 91]. Thế nhưng không phải lúc nào người

nghệ sĩ cũng chiến thắng chính bản thân mình, nhân cách của họ cũng đôi lúc

bị chao đảo nghiêng ngả như lời tự thú của nhà văn trong Chuyện lãng mạn

cuối cùng đã bị ham muốn xác thịt đánh gục: “Hắn khỏa lấp chỗ trống rỗng

trong tâm hồn hắn bằng những đôi môi đàn bà ngọt ngào. Ngày lại ngày hàng

rổ ngực, rổ mông đổ ập lên người hắn tối tăm mặt mũi. Hắn chơi bời điên

cuồng. Chơi như cả quãng thời gian chung sống với vợ đã khiến hắn phải

chết nhịn chết thèm đến phát rồ. Chỉ có dịp vợ chết hắn mới được biết thế nào

là đàn bà. Thỏa thuê, phè phỡn, hết bồ non đến gái bán bia ôm, cô bánh mì

đến chị bán sách cũ… Không có người đàn bà nào hắn không ngấu nghiến

ngon lành khi tình cờ quơ được…” [50]. Đó là những lúc ông nhà văn trong

tác phẩm yếu lòng vì vợ mất, vì tình cảm ông dành cho Thuận quá xa xôi, mơ

hồ. Sự đánh mất bản thân mình khiến cho nhiều nghệ sĩ rơi vào thế giới riêng

của chính mình: “Bức tranh siêu thực ở chỗ con mèo có bộ ngực thiếu nữ

căng tràn sức sống, khêu gợi nhục cảm, ẩn hiện bên màu lông trắng. Tựa hồ

có mỹ nhân nào trêu ngươi khoác bộ áo lông mèo, chỉ hé lộ đôi chút cho

người ta tưởng tượng thèm muốn. Hắn đặt tên bức tranh là Mỹ-nhân-mèo”.

Đó là tác phẩm kết tinh từ một tình cảm sâu thẳm anh dành cho một người

con gái láng giềng cận kề. Tình cảm kìm nén khiến nhiều lúc anh rơi vào

chính ảo mộng của mình: “Hắn không dám hé răng kể rằng đêm đêm hắn vẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn61

thường đón khi thì con mèo Xiêm biến thành cô gái, khi biến thành Thục

55

Hiền, họ thay nhau lên giường cho hắn ôm ấp. Đôi khi hắn nghe thấy chính

tiếng mình gào trong mơ như một con mèo đực gào gọi bạn tình” .

Con người trong hành trình làm người của mình đã bị cuộc đời thử

thách biết bao lần để hình thành nên nhân cách của bản thân mình. Có đôi lúc

con người không nhận ra thử thách ấy bởi cuộc đời có quá nhiều mối bận tâm.

Trong truyện ngắn Quai xăm, nhân vật Song đã trải qua cuộc thử thách nhân

cách mà cái giá phải trả là chính mạng sống của mình. Bởi sự ghen ghét, đố

kỵ với Đối người bạn thân thiết từ thuở ấu thơ của mình Song đã nhiều lần có

suy nghĩ hãm hại người bạn của mình. Song luôn mặc cảm về bản thân: “Từ

tấm bé tôi đã khổ sở vì mình thua kém Đối mọi mặt, dù chúng tôi bằng tuổi

nhau, nhà cùng ở ngõ đá dốc. Nó lực lưỡng, hiền lành, khôi ngô; tôi bé người

hơn, lại đen đủi, tuy có phần láu vặt hơn. Và suốt những năm học cấp một, tôi

như bị nó đè bẹp dí”. Chính vì vậy mà Song luôn có sự đố kỵ với bạn của

mình, lúc nhỏ để trả thù bạn đôi lúc Song chỉ bài sai cho bạn, bày trò để bạn

mắc mưu… Nhưng Song cũng vẫn hiểu rằng Đối rất tốt với mình, sẵn sàng

bênh vực mình khi bị người khác ức hiếp. Mối quan hệ giữa Song và Đối

mới đầu chỉ là sự ganh ghét trẻ con vì không bằng bè bằng bạn nhưng khi cô

bạn gái Dâng xuất hiện thì mối quan hệ ấy ngày càng phức tạp hơn. Song rất

thích và quý mến Dâng. Anh làm quen và biết Dâng trước, anh quý trọng cô

bé ấy hết mực, nâng niu như vật báu của mình: “Ngồi dưới chân đảo ăn món

ngao nướng, tôi lựa lúc vui nhất đánh bạo đọc cho Dâng nghe bài thơ tình tôi

tìm được trong một tập thơ, sau mấy đêm thức trắng... Tình anh như sóng

triều dâng. Những e ướt bóng một vầng trăng non...”. Song yêu Dâng nhưng

phải ghìm nén tình cảm trước cô gái: “Đôi mắt đen ướt của Dâng nhìn tôi

đăm đắm ẩn giấu một điều gì khiến tôi như ngộp thở. Tôi vội đứng ngay dậy,

bỏ chạy một lèo lên chân ngọn hải đăng để cho lòng yên tĩnh lại... Dù sao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn62

cũng phải kìm nén chờ Dâng học hết lớp cuối cấp đã. Tôi không cho phép

56

mình làm ảnh hưởng đến chuyện học tập thi cử của em. Một năm nữa chứ

mấy.” Thế nhưng Song không ngờ khi tình cảm anh không bộc lộ ra thẳng

thắn với Dâng thì cô đã nhận tình cảm của Đối và cả hai đã âm thầm quen

nhau đến khi cô tốt nghiệp phổ thông đi làm quản lý nội trú ở một trường học

thì công khai. Song còn loay hoay chưa biết tính toán ra sao thì hai người bạn

ấy lấy nhau. Quai xăm là thử thách nhân cách của Song một cách nghiệt ngã.

Đó là thử thách của tình yêu, tình bạn, tình động loại giữa biển khơi nghìn

trùng. Lúc này Song càng cảm thấy sự thua cuộc, thất bại của mình, thấy

mình như bị bạn phản bội và ý nghĩ trả thù bạn đến với anh một cách chóng

vánh khi cùng nhau làm việc: “Chúng tôi có nhiệm vụ buộc những cái khoẳm

bám chặt lại. Buộc xong dưới miệng đáy, chúng tôi trồi lên bên trên. Tôi nhìn

những bong bóng nước từ miệng Đối thở ra và chợt thấy mình tức ngực. Tôi

vội ngoi lên. Ô hay, sao bỗng dưng ngắn hơi thế? Đừng chú ý vào việc gì

khác, đến mức lơ đãng công việc như vậy. Tĩnh lại đi Song ơi! Bám vào mạn

thuyền tôi ngoái nhìn xuống mặt biển. Nước trong nên tôi có thể thấy lờ mờ

cái đầu tóc đen đen của Đối phía dưới sâu. Hắn đang còn loay hoay bên cọc

xăm. Lúc ấy... lúc ấy mà... Leo hẳn lên thuyền, tự nhiên mắt tôi lướt qua cái

đòn khiêng đặt bên mạn như ước lượng độ dài một cách vô ý thức... Rồi tôi

vội ngoảnh đi. Quái, bác Khảm đâu nhỉ? Liệu bác có để ý thấy tôi nhìn cái

đòn khiêng hay không? Cái đòn khiêng... Lúc sáng cùng Đối đưa giã xăm ra

thuyền, có lúc tôi thoáng hình dung cái đầu đòn vạt nhọn ở đoạn mấu tre già

cứng như sắt nguội này, nó mà dộng xuống đầu, cầm chắc đi đứt”. Song đã có

những ý định giết bạn vì những đau khổ mà bạn gây ra cho anh thế nhưng anh

nào hiểu bởi anh yêu người ta mà không nói ra, tình cảm cứ giấu trong lòng

thì ai có thể hiểu và tình yêu thì có những lí lẽ riêng mà không quy luật nào

trói buộc chỉ có tình bạn tình người chân chính cao quý mới khiến người ta

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn63

sống với nhau chan hòa. Song đã may mắn thức tỉnh không làm những điều

57

dại dột ấy với bạn, chưa xảy ra một sự đáng tiếc nào nhưng anh lại nhận được

một bài học làm người rất thích đáng. Song có ý nghĩ giết Đối nhưng chính

Đối lại là người cứu Song thoát chết: “Xuống dưới sâu, tôi mở mắt nhìn.

Đúng thế, những con tép óng ánh đang lao vun vút theo luồng nước chảy xiết.

Buộc khoẳm trở nên khó khăn hơn. Tay tôi phải bám cứng cái cọc, hai chân

quặp chặt. Quái lạ, bữa nay nước ào như lũ ngầm là thế nào? Chỉ sẩy tay một

chút, tôi sẽ bị cuốn phăng vào đáy xăm, chết trong đám lưới vây bọc tựa một

con moi bất hạnh. Cái chết ấy luôn rình rập tất cả dân quai xăm lớ ngớ. Phía

trên, Đối đang duỗi chân lặn sâu hơn. Những cái chân hắn săn vồng, gân

guốc như chân ếch. Và cả bộ đồ nghề của hắn ở dưới nước cũng thêm vẻ

hung dữ, bày ra như khiêu khích sát mặt tôi. Lúc đó trong tôi đột ngột trào

lên một khao khát cháy bỏng được túm lấy người Đối kéo ghì xuống, để cả

hai thằng cùng trôi tuột theo dòng lũ ngầm vào đáy. Dâng ơi, vầng trăng non

của tôi ơi...Răng tôi nghiến lại. Tôi điên khùng bám cọc xăm bằng một tay,

một tay nhanh thoắt quờ đôi chân đang đung đưa trước mặt, ghì chặt. Nó

không đề phòng nên tôi dễ dàng kéo nó tuột xuống. Phải, sẽ không ai biết

được vì sao Đối bị cuốn vào đáy xăm... Có thể sau đó tôi sẽ tháo một móc

khoẳm ra, người ta sẽ nghĩ móc khoẳm ấy theo sức nước bật văng vào mặt

Đối khiến nó rời tay, bị lũ ngầm cuốn trôi... Có thể nó đột ngột bị chuột rút...

Có thể nó đã uống hơi nhiều rượu và sức khỏe giảm sút sau tháng trăng

mật...Vào đúng giây phút ấy tôi chợt hiểu Dâng chỉ là cái cớ cuối cùng cho

tất cả những ấm ức thua thiệt, cho sự đau đớn ngấm ngầm của tôi với Đối ở

cuộc đời này trong suốt những năm tháng còn lại.

Thân hình Đối cong xuống. Nó bám cọc xăm để toài về phía tôi. Trong

bóng nước, hai khuôn mặt chúng tôi xáp gần nhau, tôi nhận ra đôi mắt ngây

ngô của Đối nhướn to đầy ngạc nhiên. Hình như nó muốn hỏi tôi đã xảy ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn64

điều gì? Tôi nhắm mắt lại không dám nhìn vào đôi mắt nó nữa. Phải, đúng

58

lúc này tôi chỉ cần giật một cái nhẹ là Đối rời tay ra... Nó không phòng bị gì

cả... Nào... Nhưng tôi không thể, tôi không thể... dù chỉ một động tác đơn

giản.Bỗng tôi thấy cánh tay chắc khỏe ấm áp của nó luồn qua nách mình, ghì

chặt lấy, cùng lúc đôi chân nó vùng khỏi vòng tay rời rã của tôi. Đó là lúc tôi

muốn buông xuôi tất cả. Tôi rời nốt bàn tay níu cọc xăm, mặc cho thằng Đối

dìu tôi ngoi lên. Thân hình nó áp chặt vào tôi mới ấm áp làm sao, sự ấm áp

thân yêu ruột rà của những sinh linh đang sống chết cùng nhau giữa muôn

trùng biển khơi... Đối ơi, giá mày buông tay để tao chìm nghỉm xuống đáy

biển còn hơn.” Song mới thấy xấu hổ biết bao về hành động của mình, anh

được người mình muốn giết cứu thoát chết trong gang tấc. Tâm hồn của Song

không phải bản chất độc ác, toan tính nhưng đôi lúc sự yếu đuối của bản thân

lại để cái ác thắng thế, ngự trị khiến anh mất nhân tính. Thật may mắn cho

Song khi có Đối một người bạn thật thà, chất phác luôn bên cạnh bảo vệ anh,

làm hết khả năng giúp đỡ anh.

Sự biến dạng méo mó nhân cách trong tác phẩm của Đoàn Lê có đầy đủ

những cung bậc của căn bệnh ấy. Có người mới mắc phải, có người nhận ra

và sửa đổi, thế nhưng cũng có người nhiễm căn bệnh đó rất nặng nó ăn sâu

vào cội rễ con người.

2.2.3. Thân phận người phụ nữ trong xã hội hiện đại

Người phụ nữ hiện đại có những vai trò quan trọng trong gia đình và xã

hội. Họ không chỉ là người phụ nữ quanh quẩn chỉ biết lo cơm nước, nhà cửa,

chăm lo cho gia đình, chồng con mà họ còn là những người thành đạt trong xã

hội, họ tự khẳng định bản thân mình cùng chồng con xây dựng và giữ gìn

hạnh phúc gia đình, cùng chồng vun vén cho mái ấm gia đình. Thế nhưng họ

lại là những người phụ nữ thiệt thòi trong xã hội hiện đại. Những nhân vật nữ

ấy đã bước vào thế giới truyện ngắn của Đoàn Lê.

Nhân vật nữ trong truyện ngắn Đoàn Lê cô đơn trong gia đình của mình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn65

như: Ngôi nhà gỗ [41]. Chị đã từng có một mái nhà thật hạnh phúc, một người

59

chồng yêu thương hết mực vì chị rất mong manh yếu đuối và có một nỗi sợ

hãi to lớn về con ếch. Thế nhưng rồi theo những chuyến công tác xa, hạnh

phúc của chị mong manh dần và đến một ngày anh về quát nạt chị vì tính sợ

ếch ấy, cũng từ đó anh không về nhà nữa, gia đình tan nát thực sự. Phải

chăng, do chị sợ ếch hay anh cố ý tìm một cái cớ để bỏ chị chạy theo tình

nhân, tìm một cái cớ để anh không phải thấy ăn năn có lỗi, cắn rứt lương tâm.

Bởi vì chị đã có những hạnh phúc rất ngọt ngào bên anh và con, hạnh phúc

nhỏ nhoi đáng trân trọng: “Anh nắm tay chị dắt đi như một đứa bé… tự dưng

chị bật cười, thích thú khám phá chất nông dân còn sót lại trong anh”. Khi

biết nỗi sợ của chị về những con ếch anh luôn bào chữa, bao dung cho chị:

“Trời sinh ra có những loài kị nhau”. Thế nhưng rồi những chuyến công tác

nghiên cứu Hán – Nôm dần đưa anh ra xa chị. Đến một ngày, anh trở về nhà

gọi cửa rất lâu nhưng chị không thể bước chân ra ngoài để mở cửa cho anh

bởi trên nền nhà có một con ếch. Chị sợ hãi co rúm trong màn. Anh đã thay

đổi từ trước và anh đã lấy cái cớ từ nỗi sợ hãi của chị mà rũ bỏ gia đình ra đi.

Họ là những người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng con, hết lòng vì

người mình yêu, mong muốn cho người mình yêu hạnh phúc. Người phụ nữ

bốn mươi chín tuổi đã từng chăm sóc anh chàng trai hai mươi tám – trong

truyện ngắn Tình muộn của Đoàn Lê, họ có một tình cảm rất mơ hồ, một tình

cảm mà hai người không dám xác định rõ với nhau. Chênh lệch về tuổi tác

nên cách xưng hô của họ cũng có sự khác biệt. Họ gọi nhau, xưng với nhau là

cô và em. Người phụ nữ ấy biết mình lớn tuổi hơn nên giữ khoảng cách với

người thanh niên, xem người thanh niên như một cậu em đúng nghĩa nhưng

thật ra tình cảm ấy trong họ đã được hình thành và nuôi dưỡng từ rất lâu. Tình

cảm của họ bền chặt với thời gian mặc cho cuộc đời gieo ra nhiều trắc trở,

bộn bề. Họ vẫn đến bên nhau: “Nàng sống với hắn trọn hai tháng trời tại ngôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn66

nhà nhỏ của mình. Nàng cảm giác bị cuốn đi trong cơn lốc xoáy dữ dội, mê

60

mụ, trong vòng tay cường tráng của gã đàn ông. Nàng nhìn thấy tình yêu

bừng sáng trong đôi mắt hắn đốt cháy những ý nghĩ chống đỡ cuối cùng ở

nàng”. Nhưng biết bao trăn trở suy tư, do dự bởi người phụ nữ ấy không thể

chối bỏ tất cả, không thể bất chấp sự thật chênh lệch về tuổi tác, về những trải

nghiệm của cuộc đời. Chị yêu nhưng vẫn tỉnh để nhận thấy mình không có

quyền và không được quyền phá hỏng cuộc đời người thanh niên ấy: “Em hãy

quên cô đi. Em phải lấy vợ, có con, có một gia đình hạnh phúc bình thường”.

Dù chính chị đau đớn về tình cảm của mình: “Đôi lúc nhìn hắn ngủ, thơ thới

bình lặng, nàng thấy tội nghiệp. Nàng khẽ lùa ngón tay vuốt mớ tóc mềm như

tơ của hắn, nhìn nét môi gọn hơi động nhẹ trong giấc ngủ, lòng nàng trào lên

một thứ tình mẫu tử dịu dàng tha thiết. Như thể hắn là một phần máu thịt của

nàng, như thể nàng đã xâm nhập ẩn náu vào trong tận cùng cái thân thể đàn

ông này”. Tình cảm của người phụ nữ ấy luôn bị trói buộc khiến chị đau khổ

không nguôi.

Người phụ nữ luôn chịu thiệt thòi trong tình yêu. Họ hy sinh cho người

mình yêu, để người ấy có thể chu toàn hạnh phúc gia đình, chỉ bản thân mình

đau khổ vất vả nuôi con. Người phụ nữ trong truyện ngắn Ngày cuối đã khóc

rất nhiều trong lá thư gửi người tình cũ mong sau này khi bà chết ông sẽ thăm

nom, chăm sóc ngôi mộ của con trai họ. Bà cũng đang mang bệnh trong người

nên phòng trước, lo lắng trước cho con cũng như nói hết những điều đau buồn

mà mình gánh chịu bấy lâu. Chị buồn bị người tình yêu cầu bỏ đứa con vì

hoàn cảnh gia đình không cho phép. Nhưng vì thương con chị cùng cha rời bỏ

quê nhà để sinh con, nuôi con. Thế nhưng rồi người cha cũng qua đời, hai mẹ

con nương nhau mà sống. Đứa con biết được ông đại tá trong tấm hình trên

báo là cha mình đến tìm và gặp ông trong cảnh giàu sang hạnh phúc bên vợ

con. Đứa con trai trở nên ngang bướng, bất chấp mẹ khuyên ngăn như muốn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn67

tìm cách trả thù cha của nó. Nó trở nên một tay anh chị giang hồ rồi chết trong

61

một lần chém nhau. Nó không chịu được đả kích lớn từ số phận của mình và

tìm cách phản công lại bằng những suy nghĩ nông nổi bồng bột mà phải trả

giá quá đắt. Ngày cuối là những thời khắc lương tâm người cha, người chồng

không làm tròn trách nhiệm quay quắt đau đớn trước những điều sai trái, thiếu

sót của bản thân, nhưng dù ông có hối hận ăn năn như thế nào thì nỗi đau, nỗi

mất mát của người phụ nữ ấy chẳng thể nào bù đắp được.

Người phụ nữ luôn lo lắng cho hạnh phúc của con cái, xem đó như mục

đích cao nhất của cuộc đời mình. Họ luôn muốn làm mọi điều để bảo vệ con

mình, mang lại hạnh phúc cho con. Đoàn lê đã từng trải nghiệm những điều

ấy bằng cuộc đời của mình khi con chị nghiện ngập nên chị hiểu hơn ai hết

tình cảm mẹ dành cho con. Họ sẵn sàng sống tạm bợ, không màng đến hạnh

phúc của bản thân vì lo cho con, lo cho gia đình nhỏ bé của con như trong

Giường đôi xóm Chùa, Ngày cuối,… họ không muốn làm con hụt hẫng, làm

con tan nát gia đình. Tự mình gánh chịu lấy đắng cay. Có lúc người chồng

mất sức lao động họ cũng đứng ra gánh vác cả gia đình mà không hề oán

than: “Nhưng sau một đận Nang bị sưng gan nặng, thằng bố vai u thịt bắp bắt

buộc phải bỏ nghề quai vồ, hai đứa con không quen sống kham khổ, cũng

giống hệt bố chúng ruồi bâu mép chả buồn đuổi. Bấy giờ tất cả gánh nặng đổ

lên đầu người đàn bà. Nuôi ba cái miệng ruồi đậu ấy, chưa kể thuốc men, Ty

quay như chong chóng. Giật gấu vá vai cho đủ hai bữa thị cũng đã thần tình

lắm. Thị bỗng trở thành người khổng lồ dưới cái lốt mảnh mai nhỏ nhắn đến

tội nghiệp. Vừa thấy thị cất rượu cho quán cơm bình dân, lại đã thấy thồ sò

huyết, dưa hấu cho khách sạn cuối bãi, rồi tranh thủ nhận chở mấy xe cải tiến

gạch trong xóm, trước khi bịt khăn nửa mặt quét vôi ve ở hiệu cắt tóc mới

mở”. Chị thà lao động vất vả nhưng không làm việc gì có lỗi với chồng con.

Chị làm việc quần quật từ sáng đến tối: “Ngược lại càng bắt thị phải khỏe để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn68

gánh tiếp tội nợ. Cứ xem, tuy nhịn miệng nhường chồng con, người ngợm thị

62

vẫn thon thả, bắp thịt tròn lẳn, săn cứng tựa củ sắn cái, trông ngon mắt đáo

để. Không thế tha lôi sao nổi tạ tư đến tạ sáu gạo mỗi buổi sáng, bằng cái xe

đạp thồ rệu rão, rồi những leo lên dốc, tụt xuống dốc con đường xóm núi gập

ghềnh? Chiều đến, nhọ mặt người mới thấy thị đèo hai thùng nước gạo đầy

khự, mua gom tại các quán ăn về nuôi đàn lợn hơn chục con ở nhà”. Đến khi

quá túng bấn người ta nói chị nên hành nghề bán thân nuôi niệng nhưng chị

nhất định không làm, luôn giữ tấm lòng chung thủy với chồng con.

Người phụ nữ xinh đẹp có tài nhưng duyên phận hẩm hiu không trọn

vẹn. Họ trao gửi tình cảm nồng nàn cho người mình yêu nhưng nhận lại chỉ là

một chút tình vụng trộm, qua đường mà thôi. Đó là số phận của các nhân vật

nữ trong các tác phẩm: Cổ tích manơcanh, Ngày cuối, Trăng đường,... Họ có

quyền lựa chọn một hạnh phúc trọn vẹn nhưng dây tình của họ vấn vương nơi

những người đàn ông không trọn vẹn. Những người đàn ông ấy đều đã có gia

đình, có vợ, có con. Họ gặp và yêu nhau, không phải là tình thoáng qua,

không hẳn đã sâu nặng và cũng chẳng thể nào người đàn ông từ bỏ gia đình

mà đến với họ được. Người phụ nữ trong truyện ngắn Trăng đường là một

họa sĩ vẽ tranh có tài, luôn tìm tòi sáng tạo để có những tác phẩm đẹp. Họ

xứng đáng được yêu thương, chăm sóc hết lòng nhưng họ nhận được gì từ

những mảnh tình họ có. Chỉ là một chút tình cảm giành giựt, chen ngang vào

hạnh phúc của người khác, chỉ là người phụ nữ được yêu thương trong lén lút

vụng trộm. Cô gái trong Cổ tích manơcanh ao ước đến cháy lòng một mong

ước giản đơn: “Vậy chúng mình được sống với nhau mãi mãi chứ? Chúng

mình bên nhau mãi mãi chứ… Đó, cũng không tệ, em thấy chưa? Điều chúng

ta mong mỏi tưởng đến tận kiếp luân hồi nào thì nay đã có. Anh xin đánh đổi

tất cả để có được cơ hội bên nhau mãi mãi như thế này”. Hạnh phúc của họ

chỉ là vay mượn mà thôi thế nên qua những giờ phút say đắm với tình yêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn69

người đàn ông lại nhớ đến những trách nhiệm, những nghĩa vụ của bản thân

63

anh: “một hôm anh bỗng nhớ đến lời hẹn với cô con gái chuẩn bị thi tốt

nghiệp, nhớ đến ngày giỗ bố vợ sắp tới, nhớ đến những bài báo chưa hoàn

thành... Ô, có hàng trăm thứ nhớ ập đến một lúc. Kể cả những con đập trên

thượng nguồn sông Mê Kông đang là nguy cơ lớn với nửa nước Việt Nam...”.

Và anh không chỉ sống cho tình yêu của chị anh còn nhiều trói buộc, anh cũng

lựa chọn, lựa chọn nghiệt ngã với tình nhân của mình, anh không cùng chị

làm người manơcanh sống cuộc sống vô lo, vô nghĩ nữa mà trở về đời sống

cơm áo gạo tiền đa mang của anh. Anh để chỉ lạc lõng giữa thế giới

manơcanh trơ lạnh, đơn độc, đau đớn bất tận. Để rồi khi anh chợt nhớ ra chị,

chị đã vỡ vụn tan nát tâm can như hình ảnh cuối cùng của truyện: “Cô

manơcanh chưa được mặc bộ áo cưới mới đã rơi xuống. Hình như do chủ

hàng vô ý kéo một sợi đăng ten vướng vít phía sau. Hoặc sợi đăng ten chả

liên quan tới cô ta, nhưng cô đã tự nhào xuống. Nếu hàng nhựa chắc chắn

cũng không thể vỡ, nhưng riêng cô manơcanh này được làm bằng thạch cao,

kiểu cách lỗi thời, mặt hàng phải tránh di chuyển. Bởi thế nó vỡ vụn như trái

bóng thủy tinh”. Chấm dứt cho cuộc đời đơn độc của chị, chấm dứt những

mong ước giản dị về hạnh phúc của riêng chị.

2.3. Thế giới tưởng tượng trong truyện ngắn Đoàn Lê

2.3.1. Thế giới cõi âm, giấc mơ, sự biến hình

Đoàn Lê không chỉ khai thác hiện thực với các nhân vật có tên tuổi đời

sống thực tại mà còn khám phá hiện thực cuộc sống bằng những chất liệu

khác của văn học như cõi âm, giấc mơ, sự biến hình. Những không gian ấy

như mở rộng thêm đời sống hiện thực chật hẹp để mỗi người nhìn rõ tâm tư,

khao khát, nguyện vọng trong tâm hồn của chính bản thân họ.

Cõi âm trong tác phẩm của Đoàn Lê thể hiện qua một số tác phẩm:

Nghĩa địa xóm Chùa, Giấc mơ thứ, Chờ nhật thực, Nhập hồn, Na ơi, Vua gái,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn70

Người xiếc chữ,…. Đây những là tác phẩm mà Đoàn Lê đã khai thác một khía

64

cạnh mới về thế giới cõi âm. Cõi âm của Đoàn Lê không phải là những oán

than, trách móc, tiếc nuối của những người đã chết về cuộc đời của mình. Mà

cõi âm của Đoàn Lê là sự khám phá cuộc sống riêng của những con người đã

chết ở Nghĩa địa xóm Chùa, câu chuyện về cõi âm nhưng thực chất là những

câu chuyện đầy nhức nhối về cõi nhân gian. Những người đã chết như: ông

Giáo, lão Hớn, trung sĩ Tạo, cụ Bạch mù… là những linh hồn hiện hữu khi

đêm về. Khi bóng tối bao trùm họ có thể tụ họp, gặp nhau trò chuyện. Dưới

ngòi bút Đoàn Lê thế giới cõi âm không phải u ám như mọi người vẫn nghĩ

mà nó cũng mang màu sắc như cuộc sống mà ta đang sống. Họ có một thế

giới đầy sắc màu: “Trăng mới nhú. Khung cảnh nhuốm màu bàng bạc. Nhấp

nhô trên mỗi ngôi mả từng đầu ma ngỗi dãi thẻ, vươn vai vặn mình cho đỡ

mỏi. Mươi cái bóng khoác áo lân tinh chạy tới chạy lui chập chờn. Ai chưa

quen mắt nhìn chúng tôi dễ phát khiếp. Nhưng cư dân nghĩa địa nhìn nhau

không chỉ thấy có khung xương trắng hếu, họ thấy cả hình hài nhau thuở sinh

thời, mắt trần chẳng bao giờ nhận ra” [40]. Họ cũng có những mối quan tâm

thế sự như khi còn sống. Chẳng hạn lúc có một con ma mới xuất hiện họ cũng

tìm mọi cách để tìm hiểu về con ma đó, cũng bàn tán, thì thào, xì xầm: “Này,

có cả huân chương kháng chiến hạng nhất nữa nhé… cái gậy bịt bạc, quan

tài bằng kính…” [40, tr. 55]. Và nơi ấy con người ta vẫn quan tâm đến chức

tước, địa vị xã hội của nhau. Lúc đầu họ nhầm tưởng ma mới là một thiếu

tướng nên những ma cũ đón tiếp rất long trọng: “Kính thưa thủ trưởng, dân

cư nghĩa địa xóm Chùa xin nhiệt liệt chào mừng thủ trưởng”. Thế nhưng sau

khi biết đó là một sự nhầm lẫn do người mai táng tắc trách, thực ra ma mới

chỉ là một thợ điện bậc ba thì thái độ của mọi người cũng khác hẳn: “Này ông

Lâm, hiện thời chúng tôi chưa quyết định điều gì cả. Ông hãy nhờ ông Giáo

kia - ông ta chỉ vào ngay tôi - làm hộ một bản tường trình sự việc nhầm lẫn để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn71

chúng tôi xét. Hiểu chưa?” [40]. Cuộc sống cõi âm mà nhà văn miêu tả mang

65

đậm dấu ấn cuộc sống hằng ngày của chúng ta như quan niệm “sống sao chết

vậy”. Cõi âm còn xuất hiện trong nhiều tác phẩm như một chi tiết quan trọng

trong truyện. Những chi tiết ấy khái quát cái nhìn hiện thực của người âm đầy

đủ hơn cái nhìn của người trần thế về cuộc sống. Khi chi tiết cõi âm xuất hiện

nhân vật thường rơi vào nửa tỉnh nửa mê và có nhiều luồng suy nghĩ đan xen.

Cõi âm xuất hiện một tần xuất lớn trong những sáng tác của Đoàn lê. Chi tiết

cõi âm xuất hiện khi nhân vật chính nhớ đến người mình yêu thương, tìm

cách lí giải về sự ra đi đột ngột của cô trong tác phẩm Chờ nhật thực. Vì quá

yêu người con gái nên khi cô ra đi đột ngột trong một chuyến đi vẽ anh không

tin đó là sự thực. Cô ra đi khi mới mười chín tuổi, khi còn sống cô có sở thích

xem nhật thực. Thậm chí từng ước ao xem nhật thực toàn phần: “Toàn phần?

Em biết rồi, nghĩa là mặt trời biến mất... A, không phải, nghĩa là sẽ có một

mặt trời đen tuyền lơ lửng trên không... Chao ôi, giá em được một lần nhìn

thấy thế nhỉ!”. Cô gái mong manh nhỏ bé với tình yêu trong veo của mình

khiến chàng trai phải nâng niu, chiều chuộng đến mức quên mình nhưng lại

rất hạnh phúc được yêu cô: “Em không biết một lời hứa thiêng liêng bí mật đã

gắn bó chúng ta khiến tôi say mê em hơn, lúc nào cũng như chàng Đông-ki-

sốt tôn thờ tuyệt đối thần tượng nàng Đuyn-xi-nê cao quý”. Thế nên chàng

muốn làm theo di nguyện của nàng, anh muốn đón nhật thực cùng nàng và cõi

âm xuất hiện khi nhật thực đến, khi anh cầm bức ảnh về một bãi đá cổ trên

tay. Anh đã hiểu được tại sao cô ra đi bằng một câu chuyện lịch sử về người

hầu gái trung thành can đảm của Huyền Trân công chúa. Rằng cô là người

con gái ấy, cô yêu anh nhưng không thể trọn duyên kiếp với anh. Như một

định mệnh nàng sẽ ra đi năm mười chín tuổi dù lí do cái chết rất vô lí như:

“Về cái chết kỳ lạ xảy ra, tôi không tin do ong vò vẽ, mặc dù em nằm bất động

ngay bên dưới tán cổ thụ, cạnh một tổ ong đang bay xớn xác. Làm sao một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn72

vài nốt ong châm trên cánh tay em lại là nguyên nhân để em phải chấm dứt

66

cuộc sống trên thế gian này?”. Cõi âm xuất hiện để giải đáp những thắc mắc,

những ấm ức trong lòng anh, để anh bớt nỗi nhớ thương, để anh tin vào duyên

kiếp của họ là mãi mãi: “Và chúng ta đã lần mò tìm nhau trong nhiều kiếp,

chàng biết không? Cảm động vì sự thủy chung, giời đất lại cho chúng ta gặp

nhau, dưới hình hài hôm nay. Em cũng là Hoa. Như ngày xưa, em vẫn chỉ

được hưởng dương đến năm mười chín tuổi, em mượn những con ong làm

duyên cớ ra đi. Xin chàng đừng thương tiếc một kiếp trinh nữ bạc phận.

Duyên số em với chàng là thế, chòm sao Đại Hùng của em ạ. Để rồi chúng ta

khao khát mãi trong vòng luân hồi nhân gian...”. Hình ảnh cõi âm xuất hiện

ngắn ngủi trong giấc mơ của nhân vật nhưng nó mang đến cho độc giả một

niềm tin vào tình yêu đôi lứa.

Cõi âm còn xuất hiện qua những chi tiết từ hiện thực. Trong tác phẩm

Nhập hồn, khi Huệ qua đời, nhà văn trong chuyện có một linh cảm rất khác lạ

bởi từ bức tranh anh vẽ cô, nước không ngừng tuôn ra thấm ướt bức tranh.

Huệ là người phụ nữ ông yêu say đắm nhưng hoàn cảnh không cho họ đến với

nhau, Huệ có gia đình nhưng chồng cô bị bệnh tâm thần không như người

bình thường. Trong thời gian Huệ lên giúp việc cho người chú thì cô Huệ và

người họa sĩ đã yêu nhau, có mối quan hệ sâu đậm với nhau. Để cô có thể lên

sống với ông, người họa sĩ ấy đã gửi tiền về quê để cô nhờ người chăm nom

người chồng bệnh tật. Ông nhiều lần làm như vậy, khi quá khó khăn cô cũng

nhờ ông giúp đỡ mình chuyện tiền nong. Nhưng tình cảm của họ không thể

tiếp tục vì người chồng rất cần Huệ chăm sóc. Cô vẫn liên lạc với ông, cô

thường bày tỏ nỗi nhớ nhung với ông nhưng ông dần cảm thấy mình bị lợi

dụng về tiền bạc và không nghe điện thoại của cô nữa. Một thời gian sau ông

nhận thấy bức tranh của Huệ có những điều khác thường: “Bức tranh này ông

vẽ Huệ đứng khỏa thân bên khóm hoa ngọc trâm. Người ta chỉ nhìn thấy nàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn73

từ phía sau, một tấm lưng thiếu nữ trắng ngần vô cùng gợi cảm. Bức tranh

67

ông đã thân thuộc mỗi vết màu, mỗi vùng phớt thẫm dịu dàng, như thể nhắm

mắt ông cũng hình dung ra miền da thịt thương nhớ từng run rẩy dưới bàn

tay ông... Giờ đây tấm lưng trong bức tranh óng ánh những giọt nước đọng

lại, tựa hồ mồ hôi Huệ đang không ngừng túa ra”. Thêm một chi tiết lạ nữa là

ông nhận được điện thoại của Huệ: “Chợt cái điện thoại di động ở đầu giường

réo chuông. Ông lại giật mình. Ai gọi giờ này? Đồng hồ trong phòng chỉ nửa

đêm rồi. Huệ ư? Đúng là Huệ. Hẳn nàng thừa biết ông mong mỏi tin nàng

chừng nào. Ông chợt nghĩ tới chuyện thần giao cách cảm. Tim ông nảy lên.

Nhưng ông chưa kịp cầm lấy điện thoại nó đã im bặt. Quái lạ thật. Bấm xem

số máy gọi đến, ông ngạc nhiên nhận ra một dãy số 3 không thể hiểu nổi”.

Chính những chi tiết khiến người họa sĩ nhận ra điềm báo, như Huệ đang

muốn nói lời chia tay đối với ông. Thế giới con người và cõi âm dường như

không có gì chia cắt, nhưng cũng không thể tồn tại song hành. Cõi âm người

ta nghĩ đến như để luyến tiếc để nhớ thương những gì mình không thể níu giữ,

những yêu thương đã ra khỏi tầm tay.

Giấc mơ trong tác phẩm của Đoàn Lê xuất hiện rất thực rất tự nhiên,

người đọc không thể ngờ rằng mình đi vào cõi mơ. Trong truyện ngắn Cô

Khịt tác giả nhẹ nhàng đưa người vào cõi mơ. Câu chuyện kể về một cô gái

làng muộn duyên chồng con: “Hình dung xấu xí quá thì không ai đặt những

cái tên mỹ miều làm gì, hoặc giả có đặt cũng chỉ toàn cái Lác, thằng Ngố, con

Sứt… tùy theo đặc điểm nổi bật. Vậy nên cô gái có tên là Khịt từ bao giờ

chẳng biết, dù cô Khịt đã lớn, không còn chảy mũi dãi, khụt khịt như xưa.

Lớn, cô cũng không được đổi cái tên nào khá hơn. Gái nhà lành, hăm mốt

tuổi mà chưa một gã trai đi qua dám nhìn lâu, có nghĩa là ế chồng đứt đuôi

rồi. Tội nghiệp cô gái, nghe hóng hớt ai nói chuyện chồng con ở đâu lập tức

xán vào. Khi mùa cưới đến, nhà này có cô dâu, nhà kia dựng rạp cho chú rể,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn74

cô Khịt bồn chồn đứng ngồi không yên” [42, tr.66]. Cô rất mong muốn có thể

68

lấy được anh Khờ bởi vì cô có tình ý với anh. Nhưng người anh chàng ấy

cưới không phải là Khịt. Điều đó khiến cô rất đau đớn và quyết định đi khỏi

làng “Cô khoác túi áo quần với ba mươi ngàn đồng giấu dưới đáy túi, cô

bước thấp bước cao ra khỏi cái cổng làng hiền lành quen thuộc” [42]. Đi

được một đoạn thì cô ngồi nghỉ và thiếp đi. Trong giấc mơ, cô thấy mình đặt

chân đến một thế giới khác. Nơi đó hiện thực hoàn toàn trái ngược những gì

nơi cô đang sống. Ở đây phụ nữ rất được quý trọng, được ưu tiên trong mọi

việc, được lấy nhiều chồng tùy ý và của cải nhiều vô kể. Cô thấy bỡ ngỡ

nhưng rất vui mừng vì mình được quyền làm vợ và quyền được lựa chọn hạnh

phúc và giàu có. Nhưng với nhân vật cô Khịt, giấc mơ chỉ là giấc mơ. Bởi

như câu kết của truyện: “cái thời huy hoàng của phụ nữ chúng ta rất tiếc chưa

quay trở lại’.

Trong truyện ngắn Người khách đêm giao thừa cũng theo mô típ ấy.

Ban đầu ông tổng biên tập tiếp người khách lạ “Nhác trông hắn có vẻ hơi cổ

lỗ trong bộ com lê màu xám nhạt, vẻ người thanh tú với nước da mai mái cớm

nắng của các thày ký khi xưa. Hắn nhẹ nhàng đóng cánh cửa phía sau lại. Tôi

hơi bực mình. Nảy đâu ra ông khách vô duyên đến thăm vào giờ này nhỉ? Có

chuyện quan trọng chăng?” [42]. Và ông biên tập không vừa lòng khi phải

gặp người khách này bởi vì đây là đêm giao thừa và: “Giời ạ, mười một giờ

đêm giao thừa cơ. Ai đã mời hắn vào? Xưa nay tôi vốn có lệ cho vợ con làm

bữa cơm tất niên thật thịnh soạn, mời chú dì, cô bác nội ngoại hai bên cùng

họp mặt vui vẻ.” [42]. Thế nên cuộc tiếp xúc của họ rất cưỡng cầu không hề

vui vẻ diễn ra nhưng vì phép lịch sự ông vẫn phải tiếp người khách ấy. Và

người khách ấy thật ra chỉ là một ngón tay út mà thôi ông ta đến đây với mục

đích: “Giây phút ông gạch mấy trang kết của tập "Gió lạ" đau đớn vô cùng.

Lời nói đọi máu, nhất là những lời cuối cùng trước khi vĩnh việt thế gian... Dù

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn75

là chuyện đã rồi, tôi chỉ muốn hỏi giúp ông chủ tôi một câu thôi. Đó là lý do

69

đánh liều tìm tới đây giãi bày cùng ông... Ông gạch chúng tôi đâu phải vì

ghét bỏ, có phải vậy không thưa ông?” [42]. Ngón tay út muốn thay mình giãi

bày tâm sự vì mấy trang cuối cùng đầy tâm huyết trong bản thảo “Gió lạ” bị

ông biên tập cắt bỏ hêt. Người biên tập trở về thực tại khi nghe thấy tiếng

đồng hồ gõ nhịp báo hiệu giao thừa tức là những sự kiện đang diễn ra với ông

biên tập, ông đang muốn về nhà đón giao thừa. Ông sực tỉnh và có cảm giác

như đang đối thoại với chính mình. Đó cũng là sự biến hình tiêu biểu trong

tác phẩm Đoàn Lê. Sự biến hình ấy là chia tách từ một phần cơ thể của nhân

vật và hai bản thể ấy đối thoại với nhau về một điều mà trong lòng nhân vật

ấy quan tâm. Thực sự câu chuyện Người khách đêm giao thừa diễn ra bởi một

suy nghĩ của ông tổng biên tập ngay từ đầu tác phẩm: “Sau khi tiễn mọi người

hỉ hả ai về nhà nấy, tôi thường đóng cửa phòng riêng, ngồi nhâm nhi tách cà

phê pha thật ngon để thức chờ giao thừa. Tai tôi vẫn nghe mẹ con nhà nó

lách cách dao thớt dưới bếp sửa soạn cỗ cúng đón năm mới. Đấy cũng là dịp

để tôi ngồi kiểm điểm những kế hoạch bị phá sản trong năm vừa qua, cho

chúng trôi đi theo vị đắng cà phê, đồng thời vạch ra những kế hoạch năm mới

để có cái mà tiếp tục phá sản” [42, tr 67]. Chính ông đang suy nghĩ về công

việc, những suy tính của mình nên mới có cuộc đối thoại đó.

Giấc mơ của con người đến thông qua những vật có liên quan đến

những gì mình ao ước, mong muốn suy nghĩ, trong thời điểm các nhân vật

trong truyện muốn gặp người mình yêu thương đã chết, muốn thực hiện

những ước muốn hiện thực của họ. Chẳng hạn trong truyện ngắn Giường đôi

xóm Chùa, người vợ mơ thấy mình lạc vào đảo khỉ và ở đó khỉ đực rất yêu

thương chiều chuộng những người vợ của mình kể cả con khỉ cái không đẻ

được con, cô khỉ ấy chỉ mong muốn được ôm ấp nựng nịu những đứa con của

những con khỉ khác. Chúa khỉ vẫn giúp cô thực hiện mong muốn ấy bằng việc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn76

đánh lừa khỉ mẹ đang ôm khỉ con vui đùa để cô thỏa lòng mong ước của mình

70

trong chốc lát. Người phụ nữ lại mơ thấy truyền thuyết gia đình khỉ yêu

thương nhau, tìm nhau khi bị chia cách dù chết chìm giữa biển khơi. Bởi lúc

này gia đình của chị đang ở bờ vực tan vỡ, người chồng ngoại tình bỏ mặc vợ

con, phá vỡ mái ấm gia đình hai mươi tám năm xây dựng. Giấc mơ của chị là

những ao ước khắc khoải về mái ấm gia đình của mình. Trong tác phẩm Chờ

nhật thực, người đàn ông cũng đi vào cõi mộng vì mong ước đón nhật thực

toàn phần với người yêu đã mất, cùng với tấm ảnh về ngôi mộ bí ẩn anh đã

nhìn thấy người anh yêu. Người họa sĩ trong câu chuyện Mỹ nhân mèo cũng

vì thương nhớ người yêu đã ra đi đột ngột mà anh thường hình dung hình

bóng của cô gái qua bức tranh siêu thực anh vẽ với cái tên anh đặt cho bức

tranh là Mỹ nhân mèo. Anh thấy sự hóa thân kì lạ của cô gái. Thấy những ao

ước khát khao nhục thể mà anh hằng mong muốn đối với cô gái ấy. Nhưng lạc

vào cõi mơ anh lại thấy mình càng chìm đắm không thể dứt ra bởi nó mới là

cuộc sống anh mong muốn: có người yêu bên cạnh, sung sướng hưởng hạnh

phúc tình yêu. Chứ không phải là hiện thực đơn độc mà anh đang sống. Anh

luôn muốn chìm mãi trong giấc mộng của mình.

Giấc mơ có khi là sự ám ảnh của nhân vật về một đoạn đường đời đầy

gian khổ mình đã đi qua. Cõi mơ ấy có những hình ảnh về những điều đau

khổ đã xảy ra với nhân vật, nhân vật không muốn nhớ nhưng nó là kí ức quá

sâu đậm, ám ảnh không thể quên. Trong tác phẩm Giấc mơ thứ, người vợ mơ

thấy người chồng đã chết, không phải vì nhớ nhung mà vì ám ảnh quãng thời

gian đã sống với anh ta. Anh ta là người trăng hoa, hết ôm ấp người này đến

người khác khiến chị phải đau khổ. Đến nỗi khi anh ta đã chết chị còn mơ

thấy người tình của anh ta đến nhà. Anh ta không chỉ có một người tình mà là

hai rồi ba người. Anh ta còn dọa chị: “Cô không chịu cũng không được. Tôi

định sao cứ y thế mà làm cấm bàn cãi! Cô định gây sự hả? Cô mà gây sự, tý

nữa đi ngủ cái N. nó vào bóp cổ cô đấy”. Người phụ nữ ấy đã bị người chồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn77

hành hạ cả cuộc đời vì những thói hư tật xấu của anh khiến người vợ không

71

chịu đựng nổi, ngay cả trong mơ chị cũng muốn chống cự lại bằng cách của

mình: “Các chị nên ủng hộ tôi. Tôi phải cho anh ta biết đâu là lẽ phải, cho dù

anh ấy lấy quyền làm chồng, quyền làm chủ ngôi nhà này, lấy vũ lực áp đặt,

tôi cũng bất cần”. Chị đã kháng cự dù người chồng dọa đánh, dọa đốt nhưng

chị không thể chịu đựng thêm kiếp chồng chung. Đó là những ác mộng mà

người phụ nữ đó không hề muốn nhớ lại. Giấc mơ không phải bao giờ cũng

đẹp nhưng đó lại là những bí ẩn sâu kín trong tâm hồn con người bởi thực tại

không theo ý mong muốn của họ.

Truyện ngắn của Đoàn lê còn sử dụng những thủ pháp biến hình, nhập

thân để khám phá tâm hồn của các nhân vật trong tác phẩm của mình. Trong

truyện ngắn Người khách đêm giao thừa, ngón tay út của ông phó tổng biên

tập biến thành một người khách đến gặp ông nói chuyện thay cho nhà văn,

tác giả cuốn tiểu thuyết Gió lạ. Ông biên tập đang định cắt bỏ ba trang cuối

trong tác phẩm ấy bởi vì: “Tuyệt thì vẫn tuyệt, nhưng có thể ví chúng như

những quả bom khủng bố. Ông nhà văn trút vào đó mọi nỗi bức xúc, mọi ẩn

ức của mình qua miệng cô nhân vật chính. Tôi có cảm giác cô ta vén váy chửi

cả làng Vũ Đại theo kiểu chú Chí Phèo thời A còng. Chưa ai dám đáo để hói

huỵch toẹt những điều húy kị như cô ta. Đến nhắc lại ở đây tôi cũng còn chả

dám, e rằng phạm thượng nữa là. Tôi đồ chừng chúng được viết ra trong sự

phấn hứng giữa những cơn mê sảng”. Ông biên tập không thể cho in những

dòng ấy vì nó sẽ ảnh hưởng đến hình tượng, đến doanh thu của nhà xuất bản

mà ông làm việc: “Tôi mới leo lên cái ghế Phó tổng biên tập chưa được nửa

năm, chân ghế vẫn còn rung rinh. Phó là chức chuyên đại diện cơ quan

những dịp tang ma hiếu hỉ, thực quyền đâu đến phần mình, chỉ hứng tai ba vạ

gió cho thiên hạ. Dù vậy tôi vẫn sứt đầu mẻ trán mới leo được lên ghế, đâu

dám coi làm thường. Và nồi cơm của chức vụ quèn ấy không phải nồi cơm

thần Thạch Sanh, nó có nguy cơ rỗng tuếch bất cứ lúc nào, nếu tôi sơ suất để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn78

lọt lưới những dòng bản thảo phạm luật chơi. Mà giả dụ tôi uống thuốc liều

72

cho qua ba trang kết đầy gai sự này, chắc gì đã vượt cửa ải lão Giám đốc nhà

xuất bản. Lão luôn sẵn sàng quắc mắt nạt nộ mọi người: "Làm ăn thế à? Mắt

mũi anh để vào đâu? Có muốn đi nghỉ mát không đấy?". Và lão vứt toẹt ngay

bản thảo "Gió lạ" vào sọt rác như thể nó chứa bom vi trùng. Chấm hết!”. Thế

nên mới có vị khách đặc biệt là ngón tay út đến thăm ông. Ngón tay đến kể

với ông về cuộc đời, về mong ước, hy vọng và trăn trở của nhà văn đang nằm

trên giường bệnh thập tử nhất sinh. Nhưng đó cũng là câu chuyện đời, là

mong ước là hy vọng bỏ quên lâu nay của ông biên tập. Những lời nói của vị

khách – ngón tay út ấy khiến ông thức tỉnh, nhớ lại những mong ước những

hy vọng của bản thân. Nhớ lại những điều mình đã làm trong những năm

tháng kia. Môtip biến hình còn thể hiện trong bức tranh vẽ một chú mèo siêu

thực, mang hình hài con người: “Bức tranh siêu thực ở chỗ con mèo có bộ

ngực thiếu nữ căng tràn sức sống, khêu gợi nhục cảm, ẩn hiện bên màu lông

trắng. Tựa hồ có mỹ nhân nào trêu ngươi khoác bộ áo lông mèo, chỉ hé lộ đôi

chút cho người ta tưởng tượng thèm muốn. Hắn đặt tên bức tranh là Mỹ-

nhân-mèo”. Nhân vật “hắn” từ bức tranh ấy nghĩ về người mình hằng yêu

mến hết lòng nhưng chưa giãi bày thì nàng đã ra đi. Với người họa sĩ ấy bức

tranh trở thành “nhân vật” hắn chiêm ngưỡng và coi như người tình. Hắn nghĩ

người yêu của hắn sẽ từ bức tranh bước ra hiện thực và có thể đến với hắn

(Mỹ nhân mèo).

Sự biến hình trong truyện ngắn của Đoàn Lê còn thông qua việc nhập

vai các nhân vật lịch sử để giải thích cho cuộc đời và số phận của mình.

Trong truyện ngắn Vua gái, cô sinh viên y khoa Lý Chiêu Hoàng đã nhập

thân, biến hình để kể về cuộc đời của vị vua nữ duy nhất trong lịch sử nước

ta. Cô sinh viên ấy nhập vai để hiểu thêm về những tâm tư sâu kín trong lòng

của Lý Chiêu Hoàng. Về thân phận thật sự của bà, về những trắc trở trên con

đường đời của bà. Lý Chiêu Hoàng vị vua nữ duy nhất của nhà Lý có một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn79

cuộc đời đầy bí ẩn. Bí ẩn về thân thế, về việc lên ngôi, nhường ngôi cho

73

chồng, bị tước bỏ ngôi vị hoàng hậu, lấy một vị tướng quân khác. Bà thực sự

có rất nhiều điều bí ẩn đối với người sống đương thời. Chính vì vậy mà dưới

sự hóa thân của cô sinh viên y khoa người đời mới thấu hiểu mới cảm nhận

những nỗi đau, nỗi bất hạnh của bà, bà chỉ là một con cờ trong tay những

người thao túng quyền hành, triều đình như Trần Thủ Độ chứ không hề sống

cuộc đời riêng của chính mình. Khi trút bỏ ngôi Vua bà mới thực sự thanh

thản: “Chính vì vậy ta đã thật sự tìm thấy hạnh phúc đằm thắm nhất và sự che

chở tin yêu nơi người anh hùng họ Lê. Chúng ta được hai người con, sum vầy

tới tận khi đầu bạc răng long…”. Sử dụng thủ pháp hóa thân, nhập vai, Đoàn

Lê đã giúp người đọc hiểu rõ những chất chứa trong lòng của các nhân vật,

đồng thời góp phần giải mã những bí mật của cuộc đời và con người.

2.3.2. Tưởng tượng – một cách nhận thức về thực tại

Tưởng tượng là tạo ra trong trí não hình ảnh của những sự vật đã tác

động vào các giác quan, hoặc trên cơ sở những sự vật này, hình ảnh của

những sự vật xa lạ xuất hiện. (Từ điển Tiếng Việt).

Đoàn Lê đã có tưởng tượng về ngón tay út trong Người khách đêm giao

thừa, về một cõi nữ quyền trong Cô Khịt,… Thông qua tưởng tượng người

đọc thấy được sự kết hợp nhiều kênh thể hiện trong bút pháp Đoàn Lê. Tưởng

tượng là một cách giải quyết sự việc khi con người đang bế tắc và trước khi

vào cõi mơ tưởng họ hiểu rõ hoàn cảnh của mình hơn ai hết, đến khi thoát

khỏi ám ảnh ấy, họ càng cay đắng nhận ra thực tại đau đớn của bản thân.

Trước hết các nhân vật trong truyện không ý thức mình đi vào sự tưởng

tưởng mà chỉ muốn nhìn nhận sự việc dưới một góc cạnh khác. Họ không tin

người thân mình đã ra đi, muốn trốn chạy những hiện thực nghiệt ngã tìm đến

những điều họ mong muốn. Trong Người khách đêm giao thừa, nhân vật phó

tổng biên tập tưởng tượng ngón tay mình trở thành một người khách để đối

thoại, để nhìn nhận lại mình sau một năm làm việc. Ngón tay út là phần thẳm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn80

sâu trong tâm hồn mà ông phó tổng biên tập cất giấu không muốn ai biết về

74

nó. Đó là những phần đau đớn nhưng chân thật nhất về con người ông. Cô

Khờ nhận thức bản thân mình xấu xí không lấy được chồng, không ai quý

trọng cô nên trong tiềm thức cô đã tưởng tượng ra cõi nữ quyền để mình được

tôn trọng, yêu thương hết mực. Đó là thế giới hạnh phúc mà Khờ ước ao

muốn có, tương phản với hiện thực cay đắng, bất hạnh của thân phận cô.

Trong tư duy sáng tạo của mình Đoàn lê sử dụng yếu tố tưởng tưởng để giải

quyết những ngăn cách cố hữu của cuộc đời, những ngăn cách mà thực tại con

người không thể vượt qua được như: sự sống - cái chết; cái đẹp - cái ác; cái

thực - cái mơ. Nhà văn dùng tưởng tượng để hình dung ra những kết quả nhân

vật của mình phải lãnh nhận với những việc làm đã qua. Như khi nhân vật

Song tưởng tượng ra cảnh hãm hại Đối bằng việc sẽ bố trí để Quai xăm rớt

trên đầu anh (Quai xăm).

Những điều tưởng tượng của các nhân vật, có khi là trái ngược với thực

tại, không phải là điều họ mong muốn nhưng cũng có khi là những mong ước

không thể thành hiện thực của nhân vật. Yếu tố tưởng tượng làm cho câu

chuyện có những diễn biến mới đặc sắc tinh tế, gây ấn tượng với người đọc

bởi những suy nghĩ riêng của chính họ.

2.4. Yếu tố tự truyện trong truyện ngắn Đoàn Lê

2.4.1. Nét riêng của yếu tố tự truyện trong sáng tác Đoàn Lê

Tự truyện của Đoàn Lê mang phong cách riêng, khai thác chính niềm

vui nỗi buồn của bản thân trong cách nhập vai vào nhân vật. Nhân vật được

hóa thân từ cuộc đời hiện thực của chị, kể những câu chuyện chị đã trải qua.

Nhưng nét riêng biệt của chị trong tự truyện không hề có nhân vật cụ thể,

nhân vật “tôi” lúc ẩn lúc hiện qua các trang văn dưới nhiều hình tượng khác nhau.

Có lúc chị dùng yếu tố tưởng tượng để nói lên suy tư của mình trong: Người

khách đêm giao thừa ( lấy hình ảnh ngón tay út nói về bản thảo văn chương).

Các hình tượng mà chị lựa chọn là riêng biệt, mới mẻ chưa ai khám

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn81

phá, thể hiện. Tự truyện của chị có một tuyến nhân vật tự độc thoại với chính

75

mình như trong truyện ngắn Người đẹp xóm Chùa. Với những tâm tư tình cảm

của mình dành cho nghệ thuật tranh khỏa thân, chị trải lòng qua từng trang

văn “ “Hai mươi mùa xuân” là tên gọi cho hai mươi bức tranh khỏa thân nữ,

tôi cật lực vẽ ra trong suốt bốn năm. Bốn năm tính ra gần ngàn rưỡi ngày

đêm. Cái ngàn rưỡi ấy đáng lẽ dùng mua được biết bao ngọt bùi, nhưng tôi

lại dành hết quãng “sinh thời” quý báu để ca ngợi cái đẹp kỳ diệu của phân

nửa nhân loại. Bởi phân nửa này vốn hoàn mỹ nhất trong các sáng tác của

thượng đế, đến nỗi nó làm cho toàn trái đại cầu khốn đốn.” [41]. Nhưng cũng

có lúc yếu tố tự truyện được tái hiện bằng cách đối thoại phân thân. Trường

hợp nay cũng đã gặp trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trong tác

phẩm Bức tranh của mình. Nhà văn miêu tả nhân vật chính đối thoại với

chính mình, nhưng cuộc đối thoại ấy là cuộc đối thoại của hai nửa khuôn mặt

đang trong hiệu cắt tóc. Một bên mặt đã cạo, đã cắt sạch sẽ, bên còn lại thì

chưa được cạo tỉa, kem cạo râu còn đầy trên mặt. Đó là một cuộc đối thoại nội

tâm độc đáo để nhìn lại quãng đời mình đã đi qua của một ông họa sĩ nổi

tiếng nhưng lương tâm ông đã ray rứt vì không làm đúng lời hứa với người

trong bức tranh ông đã vẽ. Trong tranh là một người chiến sĩ, anh muốn nhờ

ông mang hình của mình và tin tức của anh về với người nhà. Nhưng năm

tháng đi qua, phần vì hoàn cảnh chiến tranh phần vì tư lợi riêng ông đã không

giao lại bức tranh cho chủ nhân thực sự của nó. Và ông luôn phải đối mặt, đối

diện với cái tôi của chính mình. Truyện ngắn Đoàn Lê cũng có những môtip

phân thân để đối thoại như thế. Nhưng nét khác biệt ở đây là sự phân thân đối

thoại ấy đan xen các yếu tố kì ảo. Ngón tay út trong câu chuyện Người khách

đêm giao thừa, hiện thân như một người đàn ông thực sự để đến nói chuyện

với ông biên tập thay cho chủ nhân của mình là tác giả tiểu thuyết Gió lạ.

Ngón tay út ấy nói lên thân phận của mình và tâm tư của người nghệ sĩ đang

hấp hối trên giường bệnh: “Nhưng chương cuối cuốn Gió lạ ông vừa gạch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn82

mới thật sự là những dòng ông chủ tôi tâm huyết nhất. Những đêm ấy, biết

76

mình không qua khỏi, ông tôi gắng gượng tựa vào đống chăn đệm, chong đèn

ngồi viết, say như người nhập đồng. Tôi biết giây phút này ông chủ đang sống

thật nhất, không sợ hãi, không đắn đo. Hai gã Cả, gã Trỏ run như giẽ, chỉ

chực buông cây bút xuống. Chúng lấy cớ ông chủ tôi đang vào giai đoạn sức

tàn lực kiệt, cần phải nghỉ ngơi. Nhưng tôi đi guốc vào bụng dạ hèn nhát của

chúng. Chúng sợ liên đới trách nhiệm. Còn gã Giữa nịnh thần với anh chàng

Nhẫn thì tảng lờ, giả câm giả điếc” [42]. Nét riêng trong tự truyện của chị còn

ở chỗ những tự truyện ấy hòa phối trong các tác phẩm nghệ thuật, lồng ghép

vào những chi tiết sự việc khác nữa với nhiều nội dung như những thông điệp

nghệ thuật gửi đến bạn đọc.

2.4.2. Những trải nghiệm và tâm tư của Đoàn Lê

Đoàn Lê viết bằng những trải nghiệm đời mình, nên từng trang văn của

chị phảng phất bóng dáng cuộc đời chị. Truyện ngắn Mẹ và con và thánh thần

của chị viết về đứa con trai bất hạnh đã ra đi của chị. Chị viết bằng nỗi đau

của người mẹ mất con, bằng những trải nghiệm thương đau của chính bản

thân mình. Chị thương con mà không giữ được con lại với cuộc đời, là nỗi ân

hận đau xót khôn nguôi của chị. Cũng bởi viết từ những trải nghiệm, từ những

vết thương còn đang ứa máu của mình mà những tâm tình của chị rất thật,

đọng lại trong lòng người đọc sự cảm thông, buồn thương vô hạn. Gia đình ly

tán, đứa con trai duy nhất của chị vướng vào cái chết trắng ra đi để lại người

vợ yếu đuối, đứa con thơ dại. Những đau đớn ấy chị đều viết, thể hiện rõ

trong các tác phẩm của mình: Viên sỏi, Giường đôi xóm Chùa, Mẹ, và con và

thánh thần,… Những tác phẩm ấy nói lên cuộc đời thực của chị nhưng được

viết rất khách quan, chân thực không chỉ mang chất tự sự mà chất nghệ thuật,

trữ tình cũng tràn đầy qua các trang văn. Đoàn Lê giữ cho mình bình thản để

đối diện với sự thật đời mình. Sự bình thản đến nao lòng, đến xót xa của một

người phụ nữ tài hoa mà đa đoan chịu nhiều bất hạnh. Những gì đau đớn uất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn83

ức trong lòng mình dường như Đoàn Lê mượn văn thơ và hội họa để thể hiện.

77

Trong tác phẩm Người đẹp xóm Chùa, chị đã mượn nhân vật họa sĩ trong tác

phẩm để nói chính bản thân chị về hội họa. Những tranh nghệ thuật chân

chính mà nhiều người chưa hiểu, chưa cảm nhận vẻ đẹp của nó. Truyện ngắn

Người khách đêm giao thừa, lại là những trải lòng của chị về nghiệp văn. Chị

xót xa, thảng thốt khi những đứa con tinh thần của chị bị đối xử tàn nhẫn, bị

coi như một vật giải trí phục vụ cho tiếng nói riêng của người viết. Chị đã can

đảm phơi trải, tỏ lộ những chất liệu của cái tôi lên trang văn để nói lên những

nỗi niềm và suy nghĩ của mình về cuộc sống quanh mình và về chính mình.

Chuyện con trai chị chết vì nghiện ma túy là một nỗi đau, một sự “đả kích”

lớn lao đối với chị, từng dòng từng chữ là nỗi ân hận vô vàn của chị đối với

sự ra đi của con. Chị viết để lòng mình thanh thản và để những người làm

cha, làm mẹ trên đời này đừng mắc phải sai lầm đáng tiếc như chị. Từng câu

từng chữ còn đó, những nỗi đau nguyên khối khó thể nguôi ngoai. Nhưng khi

phải chứng kiến con nghiện ngập không cách nào cứu chữa chị đã phải thốt

lên: “Mẹ xót xa bất lực trước những ngày cuối cùng của con. Mẹ có cảm giác

tựa hồ trái tim mình đang bị nhay bởi một lưỡi cưa cùn. Khi những nốt mụn

se miệng lặn vào bên trong, mẹ lại ngỡ con sắp khỏi. Thật tội nghiệp. Mẹ đâu

ngờ đó mới là dấu hiệu của sự chấm dứt. Cũng là lúc con không muốn mở

miệng nói với ai một lời nào nữa, kể cả mẹ. Con đòi đưa con về nhà. Con nói

không đủ can đảm chứng kiến hàng ngày chung quanh con cứ mỗi lúc một vợi

dần những con bệnh lả đi sau vài đêm kêu la”. Đoàn Lê cố giữ cho ngòi bút

của mình nhẹ nhàng, khách quan thanh thản nhưng đọc văn chị người đọc vẫn

thấy nỗi đau cào xé đến tận tâm can, với cách thức dùng “giọng dịu mềm mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn84

gào thét”.

78

Chương 3

MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NGHỆ THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ

3.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện

Tình huống truyện là một duyên cớ, một nguyên nhân nào đó mà dựa

vào đấy tác giả có thể triển khai câu chuyện của mình. Vì thế, khi lựa chọn

được một tình huống đặc sắc thì xem như tác giả đã có được một bộ khung lý

tưởng để từ đó triển khai toàn bộ tác phẩm của mình. Xem xét truyện ngắn

Đoàn Lê chúng tôi nhận thấy bên cạnh tài năng khám phá những điều mới lạ

từ những sự kiện đời thường, khả năng mô tả tâm lý nhân vật một cách điêu

luyện thì Đoàn Lê khá xuất sắc trong việc tạo ra những tình huống bất ngờ,

độc đáo. Những tình huống trong truyện của chị thường không phải là những

xung đột xã hội dữ dội về mặt tính cách giữa các nhân vật, mà đó thường là

những tình huống mang tính chất gần gũi, đời thường nhưng khá trớ trêu và

cay nghiệt.

3.1.1. Tình huống hiện thực

Tình huống hiện thực dùng để miêu tả những câu chuyện xảy ra với các

nhân vật, khung thời gian, địa điểm một cách rõ ràng, rành mạch. Câu chuyện

diễn ra theo tình huống này có kết cấu trần thuật đơn giản theo trình tự thời

gian tuyến tính. Nhiều tác phẩm của mình, Đoàn Lê sử dụng tình huống hiện

thực như: Xóm Chùa ông, Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa, Làm đẹp,

Ông nọ bà kia, Con Mốc, Cụ ngoại và tôi, Trinh Tiết xóm Chùa, A Tourism

xóm Chùa, Viên sỏi, Dì Thảo, Chọi chữ, Người đẹp xóm Chùa,... Trong tác

phẩm không có sự chồng chéo, đan xen về thời gian. Câu chuyện nhẹ nhàng

kể về những con người sinh sống ở nơi đây như chuyện lão Bạch mù, ông Sĩ

Thái Sư, mẹ con bà Chiu,… họ sống chan hòa với nhau nơi xóm Chùa. Trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn85

truyện ngắn Xóm Chùa ông, nhà văn đã dùng tình huống hiện thực để kể lại

79

câu chuyện về sự đổi thay đời sống nơi đất xóm Chùa. Với những câu chuyện

viết về hiện thực cuộc sống, khai thác những đề tài mang tính thế sự, về nền

kinh tế thị trường thì nhà văn thường sử dụng tình huống truyện này. Đó là

những câu chuyện sâu sắc giàu ý nghĩa về cuộc đời. Nhiều câu chuyện kể về

cảnh đời ngang trái nhưng không có kết thúc nào quá bi thảm đối với nhân vật

trong truyện, đó có thể là những kết thúc mở nhưng vẫn còn lối thoát cho các

nhân vật trong truyện. Họ cũng có những sai phạm trong cuộc đời mình

nhưng cái giá của họ phải trả chưa phải là bằng chính cuộc đời của mình.

Tình huống hiện thực còn được nhà văn dùng làm trục chính, khung đỡ

cho các tình huống khác trong truyện. Tình huống này chỉ khai thác được bề

nổi của sự vật không đi sâu phân tích tâm lý nhân vât như những tình huống

khác nhưng chính bản thân các sự việc ấy tự nói lên điều đặc biệt mà câu

chuyện ẩn giấu sau những lớp vỏ cuộc đời gian đơn, bình dị.

3.1.2. Tình huống giả tưởng – hài hước

Giả tưởng là tưởng tượng ra; được tạo ra nhờ trí tưởng tượng, câu

chuyện giả tưởng (Từ điển tiếng Việt).

Hài hước là có tính gây cười hoặc có tác dụng giáo dục (Từ điển tiếng Việt).

Tình huống giả tưởng - hài hước được Đoàn Lê miêu tả trong các tác

phẩm: Con bướm nhựa cánh xanh, Mỹ nhân mèo, Cô Khịt,... Tình huống

truyện này thường nhằm mục đích giải quyết những sự việc bế tắc của một

nhân vật đáng cảm thông, nhà văn dùng tình huống này để thỏa mãn ước mơ

của nhân vật. Trong truyện Cô Khịt, thông qua tình huống giả tưởng, nhà văn

đưa nhân vật vào giấc mơ lấy được chồng và được yêu chiều không bị coi

thường. Cô lạc vào thế giới mà ở đó đàn ông là “thê thiếp” của phụ nữ, được

phụ nữ lựa chọn, phục vụ hết mình cho phụ nữ… Cô mơ như vậy vì cô rất

nghèo, rất xấu không ai để ý đến cô. Ngay cả anh chàng mà cô thầm yêu mến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn86

là anh Khờ cũng không thèm lấy cô làm vợ. Tình huống truyện tiếp nối bằng

80

việc cô lạc vào một cánh rừng. Mọi việc ở đó trái ngược hiện thực cuộc sống

của cô. Ở đó người đàn ông phải nhường nhịn tất cả cho phụ nữ, làm mọi việc

từ nhẹ nhàng đến nặng nhọc . Ở đó người đàn ông lớn tuổi không được nói

chuyện với cô gái trẻ nếu không sẽ: “bị đuổi khỏi nhà với hàng chữ thích vào

trán”. Và may mắn đến với Khịt vì cô là con gái, những người được quý hơn

vàng ở xứ này. Ở vương quốc này: “đã hơn bảy năm nay chưa có thêm một ổ

mới, chúng tôi sốt ruột, tưởng phát điên lên. Xem nào, chúng tôi sẽ làm lễ nạp

chồng cho em ngay ngày mai mới được”. Thế là Khịt sẽ thoát cảnh đơn côi bị

mọi người khinh chê, coi thường. Ở nơi đây thân phận của Khịt cao quý biết

chừng nào. Tình huống hài hước nhẹ nhàng giản dị gỡ một lối thoát cho nhân

vật, để nhân vật thực hiện được những điều mình mong muốn, dù chỉ là trong

giấc chiêm bao.

Tình huống hài hước còn thể hiện qua truyện Con Mốc. Tình huống

truyện ở đây mang yếu tố hài hước châm biếm mỉa mai. Mở đầu truyện là

hình ảnh: “Người ta bảo: chó chết, hết chuyện. Xem ra con Mốc xóm Chùa đã

chết cho hết chuyện. Mốc, tên con chó cái lai của lão kép cải lương. Nó đẻ

được ba lứa rồi ốm lay lắt như người đàn bà hậu sản, hôm nay chết còng

queo ở xó vườn. Nguyên nhân dẫn đến cái chết có thể do nó bị đói khát kinh

niên. Bởi từ dạo bà vợ đi theo tiên tổ, lão kép cải lương sống trơ thân cụ, rất

coi khinh cái sự ăn uống. Gặp gì ăn nấy, bốc bải cho xong bữa, chỉ rượu là

tài. Lão bảo rượu đích thị tinh gạo, lại chả bổ. Con chó không uống được

rượu, không nốc được chút tinh gạo vào ruột, do vậy gầy trơ xương. Giống

chó, nó giữ đúng câu: chó không chê chủ. Đói quá không nhịn được, nó lang

thang tha thẩn các bãi rác khắp làng sục sạo, rồi lại về phủ phục dưới chân

lão già”. Nhưng không phải câu chuyện nói về con chó mà là câu chuyện về

một người mẹ hơn tám mươi tuổi như một bộ xương héo khô lại bị con cháu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn87

giành giựt như một món đồ. Hai số phận ấy như bị cuộc đời trêu đùa, họ bị

81

hành hạ cho đến chết. Con chó già Mốc bị đám đi đón bà cụ của nhà giáo

Nhất đạp vào tường rào đau đớn, còn bà cụ bị người nhà giáo Nhất và chủ tịch

Nhì đánh nhau tranh giành: “Ối làng nước ơi, chúng nó đang xé xác tôi ra đây

làng nước ơi. Gẫy tay tôi rồi!”. Thân phận của người mẹ già nua ấy được so

sánh với con chó già nhà lão kép cải lương. Đó là một tình huống hài hước

khiến cho câu chuyện dở khóc dở cười, mang đậm sắc thái bi hài, mỉa mai,

lên án những thói hiếu thảo bề ngoài để lấy tiếng khen thiên hạ. Tình huống

hài hước thể hiện trong các tác phẩm nhằm phê phán một cách nhẹ nhàng

những sự việc có tính chất vênh lệnh, trái ngược với đạo đức xã hội.

3.1.3. Tình huống giả tưởng – kinh dị

Kinh dị là kinh hãi hoặc làm cho kinh hãi bởi điều gì quá lạ lùng (Từ

điển tiếng Việt).

Tình huống giả tưởng - kinh dị xuất hiện trong một số tác phẩm: Người

khách đêm giao thừa, Nhân bản, Nghĩa địa xóm Chùa,… Tình huống này thể

hiện những suy nghĩ riêng của tác giả về một số hiện tượng đặc biệt trong đời

sống. Đó là những hiện tượng phải nghiền ngẫm suy nghĩ nhiều để hiểu, để

cảm nhận nhưng lại rất khó thể hiện. Tác giả lựa chọn tình huống này để phù

hợp với đề tài truyện như: đối thoại với bản thân của các nhân vật. Tình

huống thể hiện trong tác phẩm là mang tính chất giả tưởng - kinh dị như

người phó tổng biên tập đối thoại với ngón tay út. Họ là hai người đàn ông

đối diện với nhau nói chuyện. Người phó tổng nói những chuyện đang diễn ra

trong cuộc sống hàng ngày của anh như biên tập các tác phẩm sẽ xuất bản,

ứng phó với các vấn đề của việc giữ chức vụ trong ngành nghề… Còn người

đàn ông làm khách nói những chuyện ban đầu là chuyện của một nhà văn của

tiểu thuyết Gió lạ vì việc phải cắt bỏ những trang tâm huyết bản thảo của ông

(Người khách đêm giao thừa). Người con trai trong tác phẩm Nhân bản, gặp

lại người cha của mình, bởi đó là một nhân bản vô tính của cha anh. Nhân bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn88

ấy được tạo nên bởi cha anh còn có một bản thảo chưa hoàn tất, và ông muốn

82

nhân bản của mình làm tiếp di nguyện của ông. Người con trai bị vứt bỏ ra

ngoài đường, không nhà không cửa sống lang thang vất vả mưu sinh thế mà

bây giờ lại phải lo lắng lại cho người anh nhân bản vô tính của anh. Anh đã

đủ khốn khổ với cuộc đời của mình giờ phải chịu trách nhiệm với nhân bản ấy

bởi vì cha anh đã chết không còn tồn tại về mặt xã hội nữa, không ai tưởng

tượng nổi nếu mình gặp phải tình huống gặp lại người đã chết. Tình huống giả

tưởng - kinh dị ấy thể hiện trong câu chuyện còn là một lời cảnh tỉnh của cuộc

sống hiện nay đó là việc lặp lại những phiên bản của những cuộc đời con

người đầy bất hạnh, những kiếp người khổ sở đa mang.

3.1.4. Sự đan xen các tình huống

Các tình huống truyện đan xen là những tác phẩm thể hiện tài năng và

nghệ thuật thể hiện của Đoàn Lê. Các tác phẩm ấy thường mang những nội

dung thẩm mĩ đa dạng phong phú như: Giường đôi xóm Chùa, Ngôi nhà gỗ,

Nhân bản,… Trong các tác phẩm này, tình huống hiện thực làm trục chính để

kể về câu chuyện của nhân vật, rồi trong diễn biến của tác phẩm các tình

huống còn lại như những dây leo gắn kết để tạo nên một tác phẩm thực - ảo

đan xen, vừa hài hước vừa buồn bã, vừa sợ hãi vừa gây ra tiếng cười nhẹ

nhàng, hóm hỉnh. Trong tác phẩm Nhân bản, Đoàn Lê thể hiện một cốt truyện

nhiều tình huống đan xen lẫn nhau. Ban đầu truyện được thể hiện bằng một

tình huống thực, đó là người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi trở về gặp lại

người dì của mình. Tình huống hiện thực làm trục chính của câu chuyện, nhân

vật nhớ về quá khứ tuổi thơ của mình, nhớ những sự việc xảy ra trong cuộc

đời mình. Tình huống tưởng tượng - kinh dị xảy ra đó là việc anh gặp một

nhân bản vô tính của bố anh lấy tên là Vũ Huếch đến yêu cầu anh giúp đỡ cho

cuộc sống của hắn vì hắn không thể sống như người bình thường: “Thi sĩ cho

nhân bản mình nhằm lấy người kế tục thực hiện ước vọng lớn lao ông chưa

đạt được lúc sinh thời”. Tình huống hiện thực và mộng ảo tưởng tượng đan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn89

xen giúp người đọc nắm rõ hơn về cuộc sống của anh và những việc anh đã

83

từng trải, từng làm. Sự đan xen tinh huống còn thể hiện trong những trường

hợp các nhân vật nhận thức về bản thân mình, nhận thức về cuộc sống, tình

cảm của bản thân. Nhờ sử dụng tình huống đan xen làm kết cấu trần thuật của

câu chuyện không theo một trật tự tuyến tính mà có sự kết hợp về không gian

thời gian để tạo nên tác phẩm như: quá khứ đan xen hiện tại (Ngôi nhà gỗ),

hiện tại đan xen với tương lai (Người khách đêm giao thừa), cõi âm và cõi

dương (Nghĩa địa xóm Chùa), người đã chết và người đang sống (Mẹ và con

và thánh thần),… Những kết hợp tình huống truyện đã góp phần gia tăng sự

hấp dẫn và lôi cuốn người đọc trong quá trình tiếp nhận và thưởng thức tác

phẩm của Đoàn Lê.

3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật

3.2.1. Nắm bắt nhanh các trạng thái tâm lý nhân vật

Tâm lý con người muôn đời vẫn là điều bí ẩn và khó khám phá ngay cả

đối với chính bản thân mỗi người. Vì tính chất phức tạp đó nên các nhà văn

khi miêu tả và khắc họa tâm lý của nhân vật thường phải vận dụng rất nhiều

thủ pháp: khi thì trực tiếp miêu tả, khi thì gián tiếp miêu tả, có lúc mượn hành

động để khắc họa tâm lý nhân vật, có lúc dùng lời đối thoại hoặc độc thoại nội

tâm để nhân vật tự mình bộc lộ những điều tâm can nhất. Khắc họa tâm lý qua

những biểu hiện bên ngoài cũng là một trong những thủ pháp tiêu biểu để

khám phá tâm lý nhân vật. Như chúng ta đều biết, mỗi nhân vật cũng như mỗi

con người đều là một vũ trụ đầy bí ẩn, mỗi cá thể tồn tại là một tiểu thế giới

với tất cả sự phức tạp và phong phú khôn lường của nó. Vậy thì căn cứ vào

đâu chúng ta có thể đoán định được hoặc nắm bắt được phần nào những suy

tư thầm kín và chân thật của nhân vật? Đoàn Lê miêu tả tâm lý nhân vật một

cách trực tiếp. Tâm lý của các nhân vật được nhà văn nắm bắt một cách tinh

tế, sát thực và nhanh chóng. Đoàn Lê có một cái nhìn mẫn cảm và tinh tế đối

với các sự việc đang diễn ra. Chị có thể hiểu những diễn biến tâm lý của một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn90

đứa trẻ nhỏ về hình ảnh người bà: “Tôi háo hức với chuyến đi còn vì một lẽ:

84

tôi chưa hình dung cụ ngoại như thế nào. Tôi chỉ biết cụ đồng nghĩa với cái di

động của bà nội. Mỗi khi chuông điện thoại bà nội đổ hồi, tôi áp máy vào tai,

lắng nghe giọng cụ dịu dàng rất mực âu yếm hỏi han”. Hình ảnh người bà

trong đứa trẻ chỉ là hình ảnh thông qua trí tưởng tượng non nớt của nó kết hợp

với giọng nói dịu dàng ngọt ngào âu yếm của bà. Tâm lý trẻ thơ cũng không

phải đơn giản như mọi người thường nghĩ. Qua truyện ngắn Cụ ngoại và tôi,

ta thấy Đoàn Lê đã miêu tả một cu Dế hai tuổi rất ngây thơ, rất trong sáng

nhưng sớm nhận biết mọi điều xung quanh bằng những suy nghĩ và kinh

nghiêm riêng của bản thân người đã từng là trẻ nhỏ trong quá khứ. Bé quý cụ

ngoại nhưng khi gặp mặt thật thì không tin đó là cụ, không quý mến đến chơi

với cụ nữa. Em cho rằng cụ không giống trong trí tưởng tượng của em. Đến

khi dùng điện thoại khơi gợi xác nhận lại giọng cụ nói Dế mới tin là sự thật.

Đoàn Lê miêu tả khắc họa tâm lý nhân vật rất độc đáo và sáng tạo. Chị nắm

bắt những tâm tư tình cảm nhân vật nhanh nhạy và thể hiện một cách tinh tế

trên trang văn. Những biến đổi nội tâm, những góc khuất trong tâm hồn cũng

được chị soi rọi để nhận ra và hiểu rõ tâm tư tình cảm của nhân vật, để thấy

được tâm lý diễn biến nội tâm của nhân vật. Chị dùng nhiều độc thoại để nhân

vật tự khám phá ra chính bản thân mình: “Dầu anh phụ bạc em nhưng không

đời nào em làm thế với anh. Em không thể xóa bỏ hình bóng con người em đã

nguyện trọn đời yêu anh. Nếu giời bắt em phải mất anh cho con vẹo mũi, em

sẽ ở vậy suốt đời. Em chả lòng dạ nào đổi anh lấy mười lăm anh chàng không

quen biết kia. Ới anh Khờ ơi…” [42, tr.66]. Nhà văn luôn dõi theo sự diễn

biến tâm lý để khắc họa những trạng thái tâm lý mà nhân vật trải qua. Đó là

những lúc nhân vật hoài niệm về quá khứ, nhớ lại hạnh phúc của mình, niềm

hạnh phúc vỡ òa cùng với nỗi đau của thực tại, sự nhớ thương với dày vò

trách móc,… cùng nhiều trạng thái tâm lý đan xen trong một thời điểm. Nhân

vật có lúc oán giận, lúc lại biết ơn, lúc căm ghét, lúc lại yêu thương,… Các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn91

trạng thái tâm lý luôn biến chuyển đối với những hiện thực sự vật mà họ đang

85

trải qua. Cách thể hiện các trạng thái ấy ta có thể bắt gặp trong tất cả các

truyện ngắn của nhà văn. Mỗi tác phẩm chị đều thể hiện được những trạng

thái tâm lý riêng của nhân vật. Trong câu chuyện Quai xăm, khi Song ghen

ghét vì Đối lúc nào cũng lợi thế hơn anh về công việc, cuộc sống và lấy được

Dâng người anh hằng yêu mến nên trạng thái tâm lý của Song diễn biến rất

phức tạp. Đó là lúc Song thấy ghét Đối vì hắn luôn nổi trội hơn nhưng lại

không phủ nhận Đối luôn bênh vực, bảo vệ anh. Song căm hận Đối vì Đối lấy

mất Dâng - người con gái anh thầm yêu hết mực nên nảy sinh ý định trả thù,

anh nảy sinh ý định một cách tức thời, không phải là chuẩn bị trước nên có sự

e ngại do dự nên anh không dám ra tay với bạn. Lần thứ hai khi đi cột quai

xăm trong lúc nhiều gió nhiều sóng và cá tép nặng lưới anh lại tìm được cách

hại Đối và anh đã thực hiện bởi lúc này rượu cho anh thêm sức mạnh. Con

người đố kỵ trong anh muốn hành động trả thù. Các diễn biến ấy rất hợp lý

bởi tâm tư tình cảm của Song đã quá dồn nén, và hơn thế nữa nỗi đau về Dâng

như giọt nước tràn ly.

Đoàn Lê thường nắm bắt những trạng thái tâm lý đan xen rất nhạy bén.

Chị thể hiện tài năng của mình thông qua những trạng thái tâm lý sâu sắc soi

rọi từ sự nửa tỉnh nửa mơ của nhân vật. Để nhân vật hoàn toàn bộc lộ mình.

Ngày nhớ đêm mong nên khi nhìn bức tranh Mỹ nhân mèo, anh họa sĩ lại nhớ

thương người con gái anh thầm yêu, đau đớn tiếc nuối. Anh nhìn thấy người

yêu qua bức tranh con mèo có bộ ngực của cô gái, khiến anh thể hiện hết các

trạng thái tâm lý của mình, bộc lộ hết những nhớ nhung, khắc khoải trong

anh với người yêu.

Đoàn Lê đã khắc họa khá tài tình các trạng thái tâm lý phức hợp khi

nhân vật đang trăn trở để quyết định có ra tay hay không với người bạn và là

tình địch của mình (Quai xăm), có ly hôn hay không với người đàn ông đã

gắn bó gần nửa đời người với mình (Giường đôi xóm Chùa),… Tâm trạng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn92

nhân vật cũng có những biến chuyển trong những lúc họ nhớ về qúa khứ: nhớ

86

lại cảnh cô gái đón nhật thực (Chờ nhật thực), nhớ lúc còn chung sống với

nhau (Ngôi nhà gỗ), nhớ về thời thơ ấu đầy đau khổ (Nhân bản), nhớ về

người mình đã yêu thương chăm sóc (Tình Guột),… Nhà văn đã thể hiện sự

đan xen tâm lý một cách nhuần nhuyễn, thể hiện rõ khả năng nắm bắt tâm lý

nhân vật của mình.

3.2.2. Sắc sảo và hài hước trong cách sử dụng các chi tiết mô tả

Chi tiết là những ngữ liệu quan trọng tạo nên tác phẩm. Các chi tiết

trong truyện ngắn Đoàn Lê rất sắc sảo, tinh tế. Nhiều tác phẩm chỉ một vài chi

tiết tiêu biểu nhưng diễn tả hết đặc điểm của nhân vật. Chẳng hạn như trong

truyện ngắn Con Mốc, khi dự án sân gôn muốn được thông qua, chủ tịch Nhì

động viên khuyến khích bà con trong làng bán đất thì bị anh ruột của mình là

giáo Nhất phản đối. Cuộc tranh cãi kịch liệt nổ ra, ông giáo Nhất nói ông chủ

tịch tham ô, ăn bẩn nên ông chủ tịch mắng lại ông giáo không nuôi mẹ già.

Chính từ lời nói ấy mà cả nhả ông Giáo Nhất tìm đủ mọi cách phải rước bà cụ

Cậy. Chi tiết đón cụ về bằng cách xông vào nhà, đưa cụ lên vai rồi vác chạy,

giằng kéo cụ qua lại đã bộc lộ sự hám danh hám lợi của hai đứa con. Chúng

không nghĩ gì đến sự đau yếu của mẹ mà chỉ cốt đạt mục đích trước mắt.

Trong truyện ngắn của Đoàn Lê còn gợi nên chi tiết bà cụ Cậy ngồi tâm sự

với con chó Mốc, đó là một dụng ý nghệ thuật đặc sắc của nhà văn. Chỉ bằng

hình ảnh và cảnh huống đó nhà văn đã tạo nên sự so sánh ngầm, tạo trường

liên tưởng đến nhân vật lão Hạc bên con chó Vàng trong truyện ngắn Lão Hạc

của Nam Cao.

Nhà văn tạo nên những chi tiết độc đáo qua cách miêu tả các chi tiết sự

vật rất hài hước. Cả nhà cu Dế (Cụ ngoại và tôi) không thể ngờ Dế không

dám đến gần cụ ngoại vì không giống trong điện thoại mà bé từng tiếp xúc.

Người vợ trong Ngôi nhà gỗ có một sự sợ hãi quá đáng đối với con ếch…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn93

Những chi tiết hài hước ấy giúp cho câu chuyện trở nên nhẹ nhàng và ý nhị

87

hơn. Khi cả câu chuyện đều kể về những nỗi đau, nỗi bất hạnh trong đời

người như phải chịu sử sinh ly, tử biệt, chịu cảnh dang dở khi yêu nhau…thì

chất hài hước ,giúp câu chuyện mang màu sắc an nhiên bớt đi sự căng thẳng

nặng nề.

3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê

Một nhà văn đích thực phải ý thức về mình như một nhà ngôn ngữ vì

ngôn ngữ là “yếu tố đầu tiên qui định cung cách ứng xử” của người đó, là

phương tiện bắt buộc để họ giao tiếp với bạn đọc. Đối với văn chương, ngôn

ngữ không chỉ là “cái vỏ của tư duy” mà còn là tài năng, cá tính và quan

điểm nghệ thuật, do đó giọng điệu của tác phẩm trước hết cũng là giọng điệu

ngôn ngữ.

3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê

Ngôn ngữ là một trong những yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu của

tác phẩm văn xuôi, bên cạnh những yếu tố khác như cú pháp, nhịp điệu, cách

diễn đạt… Chúng ta thấy hiện lên trong truyện ngắn Đoàn Lê một lối kể

chuyện hấp dẫn, tự nhiên, hóm hỉnh, xóa nhòa khoảng cách giữa người kể

chuyện và nhân vật, người kể chuyện và độc giả. Chúng tôi cho rằng nghệ

thuật kể chuyện đặc biệt khó ở chỗ phải vào đầu như thế nào cho trơn tru và

kết thúc như thế nào (có thể gọn ghẽ, có thể bỏ lửng) để tạo được dư ba cảm

xúc cho người đọc. Đoàn Lê đã làm được điều đó trong truyện ngắn của mình,

với việc mở đầu câu chuyện bằng cách đi trực tiếp vào vấn đề và cách kết

thúc truyện bằng những câu kết nhẹ như gió, nhưng buộc người đọc phải suy

ngẫm. Nghĩa địa xóm Chùa là truyện ngắn tiêu biểu cho cách thức diễn ngôn

của người kể chuyện. Ngay vào phần mào đầu, Đoàn Lê đã tập trung ngòi bút

để miêu tả những chi tiết về ngoại hình, về tính cách, về cuộc đời, về nghề

nghiệp,… của những cư dân ma nơi nghĩa địa. Cuối cùng, để làm bật lên hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn94

ảnh một “đại tá” khác người, khác người nên mới được các cư dân ở đây

88

nghinh đón long trọng còn nhân vật thì sợ sệt đến mức tội nghiệp. Có ai biết

đâu ẩn đằng sau cái áo khoác oai vệ ấy lại là một anh thợ điện bậc ba nghèo

hèn cực khổ, vất vả cả đời. Câu kết truyện ngắn này thoạt nhìn vào có vẻ khá

lạ lùng, khách quan, cứ như là lời trêu ghẹo:

“Này thày giáo ơi..

Thầy như táo rụng sân đình

Em như gái dở…”

Thế nhưng, người đọc dễ dàng nhận ra đó là một kết thúc cần phải có,

bởi nó đã được “chuẩn bị” ngay từ những dòng phác họa đầu tiên về câu

chuyện thú vị này bởi mở đầu đã là những câu bông đùa về cư dân nơi nghĩa

địa xóm Chùa: “Từ ngày ra nhập tịch nghĩa đia xóm Chùa tôi được sống

trong cảnh chan hòa tình người, tối lửa tắt trăng có nhau cực kỳ vui vẻ” [40].

Họ cũng có tình yêu của chính mình, có niềm vui của bản thân ngay cả khi họ

đã sang bên kia thế giới.

Ngôn ngữ Đoàn Lê có những nét riêng biệt giúp chúng ta nhận ra chị

trong dòng văn học nữ nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

Đoàn Lê có cách dùng ngôn ngữ giản dị, đậm chất sinh hoạt đời thường theo

đặc điểm vị trí của nhân vật trong xã hội. Nhân vật nào lời lẽ ấy. Đó là một

thứ ngôn ngữ vừa giản dị, vừa gọt rũa được cá thể hóa mang đậm cá tính sáng

tạo. Các nhân vật có chức quyền trong xã hội như quan chức địa phương, đại

tá, thiếu tướng,… lời nói cũng tỏ vẻ uy quyền không hề nhún nhường nhã

nhặn với người khác. Những người không có thân phận địa vị sẽ có một cách

thể hiện e dè, sợ sệt hơn trong lời nói. Người dân có cách nói mộc mạc chân

chất. Trong những truyện viết về làng Chùa, ngôn ngữ sinh hoạt được khắc

họa rõ nét. Cách nói của người thôn quê mộc mạc: “Con ma ti vi bắt hồn bắt

vía chúng bay hay sao hả? Chiều mai bà không thổi cơm xem thử chúng bay

đủ sức ti – vi nữa hay không?” [40]. Đó là cách bà Chiu trong Xóm Chùa ông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn95

trách mắng con khi chúng ăn cơm chiều xong là mải mê đi xem ti vi đến gần

89

mười rưỡi tối mới về. Lời nói của những ông lão trong làng có vẻ chua chát

hơn, khinh bạc cuộc đời hơn bởi có lẽ họ đã phải trải qua nhiều vất vả mưu

sinh trong đời, đã nếm đủ vị đắng cay trong đời. Khi họ nói về việc quan

chức hám tiền, vụ lợi, lời nói mang sắc thái nặng nề: “ Nó nuốt nhiều cho

nó chết nghẹn”, “Ấy chớ! Chớ rủa kẻo hối không kịp. Nó chết khối thằng chết

nghẹn theo” [42, tr.153].

Nhà văn có những kết hợp từ mới lạ rất riêng để thể hiện tính cách,

hình ảnh, tạo nên giọng điệu riêng của nhân vật trong tác phẩm trong việc thể

hiện ngôn ngữ đặc trưng cho các ngành nghề. Những nhà báo văn sĩ có cách

nói rất hoa mĩ văn chương, tranh luận săc bén đúng như nghề nghiệp của họ

như trong truyện Chọi chữ: “Tôi cần hắn chấm dứt ngay cái giọng điệu châm

chọc bố láo, những phát ngôn sau lưng tôi rất bừa bãi, ác ý… Làm thế nào

tùy anh miễn sao đừng để hắn biết tôi đứng đằng sau anh”. Người đi biển,

cách phát ngôn lại mang vẻ phóng khoáng, khỏe khoắn của riêng họ: “Tao

pha trà rồi anh em ơi. Hôm nay thằng Đối ăn khao vợ mới món bánh khảo

ngon tuyệt đây” (Quai xăm).

3.3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê

Giọng điệu là: “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của

nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách

xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ,

thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [33,tr.134].

Khi tìm hiểu giọng điệu, Lê Huy Bắc đã phân biệt giọng điệu với giọng

như sau: giọng là “âm thanh được xác định ở góc độ vật lý như cường độ,

trường độ, cách phối âm và âm lượng”; giọng điệu là “âm thanh được xét ở

góc độ tấm lòng, biểu hiện thái độ: buồn, vui, giận, hờ hững” [12, tr.67].

Cái làm cho nhà văn này khác nhà văn kia chính là giọng điệu, nó thể

hiện một cách rõ nét cái nhìn của chủ thể, vì giọng điệu “mang thái độ và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn96

đánh giá của tác giả” về đối tượng được nói đến. Văn học thời kỳ đổi mới

90

chứng kiến sự đa dạng và phong phú của các giọng điệu, hệ quả tất yếu của

tinh thần dân chủ và sự giải phóng cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong truyện

ngắn của mình, Đoàn Lê đã tạo nên giọng điệu riêng với sự giao thoa các sắc

thái giọng điệu. Chúng ta thấy truyện ngắn Đoàn Lê có một giọng điệu nhẹ

nhàng, đằm thắm và sâu lắng. Giọng văn ấy không chỉ thể hiện ở lối kể

chuyện chậm rãi, thư thái mà còn thể hiện ở cả ngôn ngữ của nhân vật, ở

những đoạn miêu tả nội tâm của nhân vật. Văn Đoàn Lê giàu cảm xúc vì nhân

vật trong đa số truyện ngắn của chị không tranh cãi chan chát để tìm ra chân

lý cuộc sống, cũng không manh động, liều lĩnh để giành lấy quyền lợi cho

mình, họ thường nhẫn nhịn chịu đựng những thiệt thòi trong cuộc sống một

cách trầm tĩnh đáng ngạc nhiên. Những đặc điểm ấy trong tính cách và tâm lý

nhân vật đã góp phần tạo nên âm điệu trầm lắng và buồn bã cho giọng điệu

truyện ngắn Đoàn Lê:

Giọng hài hước, dí dỏm là nét nổi bật trong truyện ngắn Đoàn Lê. Đây

là chất giọng tạo nên ấn tượng khó phai cho những trang văn của tác giả.

Không ồn ào, phô diễn trên bề mặt, cũng không sắc sảo, chao chát như một số

cây bút nữ cùng thời, giọng hài hước dí dỏm của Đoàn Lê là cái hài nhẹ

nhàng, hóm hỉnh, rất có duyên và không kém phần sâu sắc. Chất giọng này

được biểu hiện ở những cung bậc khác nhau góp phần làm phong phú và sâu

sắc cho chất giọng của tác giả. Đó là cách Đoàn Lê sử dụng thủ pháp giễu

nhại. Nhìn từ góc cạnh nào đó, giễu nhại có hai đặc điểm chính: nhại và giễu,

tức bắt chước và châm biếm. Đó là hình thức tiếp nhận các giá trị đời sống

một cách dân chủ, đa nguyên, phi qui phạm.

Với cái cười nhại đầy chất thị dân, Đoàn Lê giúp người đọc “mục sở

thị” về sự đổi thay của xóm Chùa: “Do nhờ tình hình Nam Bắc giao lưu

mạnh, nền văn minh ùa vào xóm Chùa ông. Những ngày có điện đột xuất, cả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn97

xóm ồn ào gần bằng nổi loạn… Bên này giọng đàn ông gào rống: “Thôi im

91

đi, vui gì mà cười… ”, bên kia lại nức nở: “Anh chết trên vai em một lần

cuối”. Bọn loa ngoại chúng đã gào, gào đến bằng điếc tai, gào hết điện mới

thôi. Chả trách người ta hay ghét bọn mồm loa mép giải!”. Sự đổi mới trong

công tác tổ chức tang lễ: “Vào lúc nhập quan, nhà đám đang băn khoăn chưa

thấy kèn trống đâu thì Sĩ Thái sư lù lù vác cái cát-set tới… Ông cắm điện rồi

bật công tắc đánh toạch. “Tùng, tùng! Tò tí toe…oe…ối mẹ ơi, âm dương từ

nay cách trở. Biết bao giờ con thấy mẹ, mẹ ơi…ơi…Tùng, tùng…”

Cái cát-set mở hết công suất loa, bỗng kêu váng lên. Ngỡ đến bốn đôiụ

nhà kèn cùng thổi một lúc. Và hàng chục người hờ khóc cũng không thể địch

lại một cái miệng hờ trong máy kia”. Thật khôi hài đến xót xa khi: “Con cháu

nhà đám im tịt xúm cả vào cái cát-set. Nhưng người đến chia buồn cũng quên

luôn bà già nằm đó, chỉ còn trầm trồ bàn tán xôn xao về sự sáng kiến

này…”Mẹ ơi, hai sương một nắng suốt đời. Chúng con khôn lớn, mẹ thời đi

đâu… Hờ…Tò tí toe…oe…oe…Nghe mà đứt ruột gan”. “Thế mới hiện đại!””

(Xóm Chùa ông). Cái được và cái mất? Văn minh hay tụt hậu? Lên dốc hay

xuống dốc?...độc giả sẽ phân định được rõ ràng.

Trong Thành hoàng làng xổ số, giọng giễu nhại được dùng để giải thích

khuôn mẫu mực thước trong đời sống: “Theo thánh tích, vị Thành hoàng đã

hóa vào giờ tý, tức nửa đêm (…) Lại còn thời gian cho ngài đứng tần ngần

trước gian nhà tranh cửa cài kín, lắng nghe tiếng thở của vợ con, ngửi mùi

oai oải thân thiết (ít nhất cũng đủ thời gian cho ngài kịp thổn thức)… ”,…

Với cái nhìn sắc sảo như thấu gan, thấu ruột thiên hạ bởi những câu

chuyện khiến người ta cười ra nước mắt, Đoàn Lê đã phơi bày hiện thực xã

hội đương đại với nhiều vấn đề nóng bỏng, nhức nhối như lòng tham, lối sống

hưởng thụ, hôn nhân, trinh tiết,… trong Đất xóm Chùa, A tuorism xóm Chùa,

Trinh tiết xóm Chùa, Lên ruồi,… Nhà văn tạo ra những tình huống khác lạ,

mang chức năng của các nút nhấn để từ đó bức tranh xã hội, con người hiện ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn98

với tất cả đường nét và dáng vẻ xiêu vẹo tức cười của nó.

92

Chất giọng khoái hoạt, hài hước dí dỏm này giúp nhà văn thoát khỏi

các quy phạm nghệ thuật, tự do trình bày quan điểm cá nhân, xóa nhòa

khoảng cách tiếp nhận của độc giả và nhờ vậy tác phẩm có khả năng thu hút

nhiều tầng lớp độc giả khác nhau.

Giọng trữ tình sâu lắng cũng là một trong những thể nghiệm của Đoàn

Lê trong việc nỗ lực tạo nên nhiều kiểu giọng mới, để cho truyện ngắn của

nhà văn luôn vang lên tiếng nói đa thanh trên nhiều cung bậc.

Một trong những mối quan tâm lớn nhất của Đoàn Lê thân phận con

người. Nhà văn rất nhạy cảm với những cảnh ngộ, những éo le ngang trái mà

con người gặp phải trong cuộc sống, đặc biệt là nỗi niềm trăn trở xót xa về

thân phận đàn bà. Đó là tấm lòng trắc ẩn trước kiếp sống lay lắt đến tội

nghiệp của những bà mẹ, những đứa trẻ nghèo ở xóm liều: “Nào mấy ai quan

tâm xem những người đàn bà xóm liều làm nghề ngỗng gì. Họ nhặt rác hay

đại loại những nghề tương tự, hẳn vậy. Họ sống dai dẳng kiểu cỏ dại, tầm

gửi, chỉ cần bám hờ mảnh gỗ mục cũng sống. Họ lang thang vật vờ dưới ánh

mặt trời. Khi chiều xuống họ rút về những hang ổ tù mù ngọn đèn dầu, hòa

nhập vào bóng đêm (..) được ăn no, được chơi thoải mái, ngủ lăn lóc bất kỳ

xó xỉnh nào. Rồi mẹ khắc tìm được, khắc bế từng đứa về túp lều rách” (Hạt

vừng). Đó là niềm xót xa thương cảm của nhân vật Tôi trước cảnh ngộ của

những người con gái nghèo phải bán thân nơi cửa biển Hải Phòng, nhân vật

Tôi đã liên tưởng cuộc đời họ giống như những cụm bèo, bị đời vùi dập tàn

nhẫn: “bị biển ném ào lên kè đá, giập nát, đôi khi chúng còn tươi với những

búp mọng xanh” (Con bướm nhựa cánh xanh). Nhà văn trân trọng sự hy sinh

và chia sẻ với những mất mát, thiệt thòi mà người phụ nữ phải gánh chịu (Dì

Thảo), những éo le mà người phụ nữ gặp phải (Giao cảm cuối cùng, Ngày

cuối,…). Đoàn Lê viết về họ bằng tất cả sự chân thành và đồng cảm của trái

tim mình – một trái tim của người phụ nữ từng trải, đã từng bị nhiều tổn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn99

thương và mất mát.

93

Giọng điệu trữ tình còn có trong Một ngày xứ em, Đêm ngâu vào, Dĩ

vãng thơm nồng, Mẹ con và thánh thần, Ngôi nhà gỗ,… Đây đều là giọng

trầm buồn, trĩu nặng suy tư về cuộc đời và con người. Bao trăn trở suy nghĩ

của nhân vật đều được tái hiện trên từng trang viết như cần một sự cảm thông

chia sẻ. Ở Giường đôi xóm Chùa vút lên giọng trữ tình thương cảm da diết:

“những khoảng thời gian ít ỏi tôi đã trải qua cùng anh rốt cục là có thật hay

cũng chỉ là một con số ảo trên mặt quân xúc xắc (..) một dịp chồng tôi đi công

tác, một dịp tình cờ gặp cô ấy, tình cờ phải nói dối…”. Bất hạnh có thể ập đến

với con người bất cứ lúc nào. Vì vậy, Đoàn Lê trân trọng những khoảnh khắc

hạnh phúc ngắn ngủi của con người. Đối với người đàn bà, hạnh phúc có khi

chính là cảm giác “nhồn nhột rạo rực” khi thực hiện thiên chức thiêng liêng

của mình. Hạnh phúc cũng là những khoảnh khắc được sống trong những giấc

mơ tình yêu “nồng nàn, ngọt ngào” của riêng mình (Dấu hỏi gửi Thượng đế),

hạnh phúc là được sống cho người mình yêu và chết cho người mình yêu

(Tình Guột),…

Có khi chính từ nỗi đau, nỗi bất hạnh của mình mà Đoàn Lê tìm thấy vẻ

đẹp lấp lánh của những tâm hồn thánh thiện. Trong Tình Guột, ta thấy một

giọng văn bùi ngùi, xúc động đầy xót xa: “ có Thảo nó không thấy cô độc,

không thấy bị ghẻ lạnh. Những khuyết tật vốn làm nó đau khổ bỗng nhiên biến

mất vì báu vật đẹp đẽ nó che chở, nâng niu. Nó lại thích bị ngược đãi để được

hai bàn tay bé bỏng của cô Thảo vỗ về”.

Trên trang viết của Đoàn Lê là cái chất giọng trữ tình sâu lắng, thấm

buồn, lắng đọng nỗi niềm nhân thế và tâm tư của cái tôi chủ thể.

Có thể nói trong truyện ngắn Đoàn Lê có sự giao thoa giọng điệu.

Trong giọng hài hước dí dỏm xen lẫn giọng trữ tình sâu lắng, hai chất giọng

này đan xen, hòa kết làm đậm các sắc thái giọng điệu với các luyến nhấn lôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn100

cuốn người đọc.

94

KẾT LUẬN

1. Mãi đến thập niên tám mươi của thế kỷ XX, cái tên Đoàn Lê mới

xuất hiện trên văn đàn Việt Nam đương đại. Sự hiện diện muộn màng của một

người phụ nữ đã có thâm niên hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật như điện

ảnh và hội họa như đã bổ sung, làm giàu thêm vốn sống và năng lực sáng tạo

nơi chị, thôi thúc chị dấn bước vào lãnh địa văn học mà chị đam mê từ thời

thiếu nữ. Và ngay từ tác phẩm dài hơi đầu tiên của Đoàn Lê với nhan đề Cuốn

gia phả để lại đã nhận được giải thưởng cao nhất của Hội nhà văn Việt Nam

năm 1990. Từ đó, cái tên Đoàn Lê trở thành quen thuộc với đời sống văn học

đương đại nói chung và dòng văn học nữ nói riêng. Dù tiểu thuyết là thể loại

Đoàn Lê giành được thành công từ bước đi ban đầu nhưng truyện ngắn mới là

thể loại làm nên “thương hiệu” Đoàn Lê với các tập Thành hoàng làng xổ số

(1992), Nghĩa địa xóm Chùa (1999), Trinh tiết xóm Chùa (2005), Người

khách đêm giao thừa (2007), ... và Sex (2010), Đoàn Lê – tác phẩm chọn lọc

(2011). Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc tác phẩm của Đoàn Lê, những độc

giả gần gũi nhà văn đã cảm nhận một cách chân xác: “Ngoài cái tài văn

chương như trời đất đã “mặc định” vào Đoàn Lê, hình như truyện ngắn còn

có mối nhân duyên đặc biệt với chị. Có thể nói Đoàn Lê viết truyện cứ như

không, cứ như câu chuyện cuộc đời – sự vật, thân phận con người – nhân vật

nó vốn thế, chị chẳng cần sáng tác hư cấu. Nhưng sau khi đọc xong truyện rồi,

gấp sách lại thì các chi tiết ngữ cảnh, nhân vật từ các trang chữ ấy bỗng hiện lên

thành hồn cốt, tính vía, nó ám ảnh người ta mãi ” [71] (Vũ Quốc Văn).

2. Khi đã bước vào thế giới truyện ngắn của Đoàn Lê, người đọc không

thể dứt ra được, bởi ở đó, người ta nhận ra hiện thực đời sống và con người

của ngày hôm nay, của thì hiện tại dở dang, chưa ổn định, mang đậm màu sắc

thế sự đời tư. Nổi bật ở truyện ngắn Đoàn Lê là hình tượng xóm Chùa với các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn101

vấn đề đạo đức nhân sinh của xã hội hiện đại, chịu tác động sâu sắc của nền

95

kinh tế thị trường với cả mặt tích cực lẫn tiêu cực trong quá trình đô thị hóa.

Ở đây, hiện thực đời sống không chỉ được nhà văn nhận diện ở hiện thực trên

“một cõi nhân gian bé tí”, mà ở cả hiện thực thứ hai, hiện thực ở cõi âm với

đầy đủ các màu sắc thẩm mỹ xen lẫn bi hài. Và thêm một nét đặc biệt góp

phần làm phong phú hơn trong thế giới truyện ngắn Đoàn Lê là sự hiện hữu

của yếu tố tự truyện. Đi sâu vào khai thác chất liệu cái tôi, người đọc nhận ra

bóng dáng của nhà văn trong các nhân vật nữ đa tài, đa đoan, vừa dịu dàng,

đằm thắm vừa dữ dội, quyết liệt trong đời riêng và trong cả nghiệp mưu sinh.

3. Bức tranh hiện thực trong truyện ngắn Đoàn Lê ở cả chốn nhân gian

hay ở thế giới bên kia (cõi âm) đều được thể hiện với những phương thức

nghệ thuật, những thủ pháp biểu hiện mang tính chuyên nghiệp, đầy hiệu quả

thẩm mỹ: từ cách thức xây dựng tình huống truyện ứng với nội dung phản ánh

đến nghệ thuật miêu tả các trạng thái tâm lý của nhân vật. Dưới ngòi bút tài

hoa của nhà văn một thế giới nhân vật đa dạng và sắc nét với nhiều kiểu loại

nhân vật hiện ra bằng những hình tượng nghệ thuật khá sắc sảo và hài hước.

Bên cạnh đó, Đoàn Lê thu hút người đọc ở khả năng sử dụng linh hoạt ngôn

ngữ và các sắc thái giọng điệu khi thủ thỉ tâm tình, lúc khoái hoạt, hài hước,

khi dịu nhẹ, buồn thương. Các chất giọng ấy được hòa quyện, đan xen tạo nên

sự đa dạng, độc đáo trong ngôn ngữ, giọng điệu của truyện ngắn Đoàn Lê.

4. Tất nhiên bên cạnh sở trường, truyện ngắn Đoàn Lê cũng không

tránh được sở đoản, nhưng xét trong chỉnh thể, truyện ngắn của chị đã đạt

được thành tựu trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Có thể nói truyện

ngắn Đoàn Lê đã góp một điểm sáng trong bức tranh văn xuôi Việt Nam thời

kỳ đổi mới, và là một “mắt xích” rất riêng trong dòng chảy của các cây bút nữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn102

đương đại.

96

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Andrew Taylor, “Cốt truyện – cửa ải gian khó của nhà văn”, nguồn:

http://evan.vnexpress.net.

2. Ngọc Anh (ngày 10/07/2003), “Đã đến lúc những người đàn bà nổi loạn”,

Báo nông thôn ngày nay.

3. Nhuệ Anh (2006), “Các nhà văn nữ và thế kỷ của nàng”, Tạp chí văn

nghệ, (21).

4. Thái Phan Vàng Anh, “Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam

đương đại”, nguồn: http://tapchisonghuong.com.

5. Thái Phan Vàng Anh, “Từ phương diện điểm nhìn nhận diện quan niệm

trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam đương đại”, nguồn:

vanganh.hoaco@gmail.com.

6. Thái Phan Vàng Anh, “Hình tượng người trần thuật trong truyện ngắn

Việt Nam thời kỳ đổi mới”, nguồn: vanganh.hoaco@gmail.com.

7. Thái Phan Vàng Anh (3/2012) “Chiến tranh mang khuôn mặt phụ nữ

trong văn xuôi hậu chiến”, Tạp chí văn nghệ quân đội, (4).

8. Vũ Tuấn Anh (1995), “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí văn

học, (4).

9. Vũ Tuấn Anh (1996), “Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện

thể loại”, Tạp chí văn hóa, (9).

10. Y Ban (2006), “Hãy lắng nghe tác phẩm của nhà văn nữ”, nguồn:

http://vietbao.com.

11. Việt Báo, “Nữ sĩ Đoàn Lê: “Trời không nín gió””, nguồn:

http://www.cand.com.vn.

12. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn học Việt Nam hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn103

đại”, Tạp chí văn học, (9).

97

13. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới

cơ bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Nguyễn Thị Bình (2001), “ Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau

1975”, Tạp chí văn học số (3).

15. Triệu Thanh Bình, “Nhà văn Đoàn Lê: “Tình riêng bỏ chợ, tình người đa

đoan””, nguồn: http://tintuc.xalo.vn.

16. Nguyễn Minh Châu (1987), “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn

nghệ minh họa”, Tạp chí văn nghệ Quân đội, (49, 50).

17. Diễm Chi (thực hiện), Võ Thị Hảo (2005), “Tôi là người nô lệ cho gia

đình”, Báo phụ nữ, (7).

18. Nguyễn Lân Dũng, “Ai cứu xóm Chùa?”, Nguồn:

Nguyenlandung.vietsciences.org.

19. Đông Dương, “Nhà văn Đoàn Lê và huyền thoại xóm Chùa”, nguồn:

http://thuvien-ebook.com.

20. Đặng Anh Đào (1993), “Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay”, Tạp

chí văn học, (3).

21. Nguyễn Đăng Điệp, “Vấn đề phái tính nữ và âm hưởng nữ quyền trong

văn học Việt Nam đương đại”, nguồn: http://phongdiep.net.

22. Hà Minh Đức (1991), Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi

mới, Nxb sự thật, Hà Nội.

23. Hoàng Thị Hồng Hà (2003), “Truyện ngắn nữ và xu hướng tự nghiệm”,

Tạp chí văn hóa – văn nghệ công an, (10).

24. Việt Hà (thực hiện), “Nhà văn Đoàn Lê: Một mình một lối”, nguồn:

http://vnca.cand.com.vn.

25. Nguyễn Đức Hạnh (2008), Tiểu thuyết Việt Nam thời kì 1965 – 1975

nhìn từ góc độ thể loại, Nxb Giáo dục.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn104

26. Hà Nội 36 truyện ngắn đặc sắc của nhà văn nữ (2009), NXB Lao động.

98

27. Ngọc Hiền, “Đoàn Lê và những cung bậc cuộc đời”, nguồn:

http://www.cand.com.vn.

28. Nguyễn Thái Hòa (2000), Mấy vấn đề thi pháp của truyện,Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

29. Nguyễn Khải (18/9/1990), “Nghề văn cũng lắm công phu”, Báo Văn nghệ.

30. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới – Hội

nhà văn Việt Nam.

31. Mai Ngọc , “Trinh tiết xóm Chùa – Tập truyện ngắn hấp dẫn của nhà văn

nữ Đoàn Lê”, nguồn: http://thuvien-ebook.com.

32. Đào Thuỷ Nguyên (2008), Phương pháp tiếp cận sáng tác của Nguyễn

Khải trong giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo Dục.

33. Nhiều tác giả (2006), Từ điển thuật ngữ văn học,Nxb Thế giới.

34. Nhiều tác giả (2002), Lý luận văn học (tập giáo trình dạy học), Nxb Giáo dục.

35. Người khách đêm giao thừa – phút trải lòng của Đoàn Lê. Nguồn: Ita

express (Tập đoàn tân tạo).

36. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

các nhà văn, Nxb Giáo dục.

37. Nguyễn Đăng Mạnh, “Lợi thế truyện ngắn”, Tạp chí tác phẩm mới.

38. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển Thuật ngữ

văn học, Nxb ĐHQG, Hà nội.

39. Đoàn Lê (1990), Thành Hoàng Làng xổ số, Tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ.

40. Đoàn Lê (1999), Nghĩa địa xóm Chùa, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.

41. Đoàn Lê (1999), Trinh tiết xóm Chùa, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.

42. Đoàn Lê (2007), Người khách đêm giao thừa, Tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ.

43. Đoàn Lê (2010), … và sex, Tập truyện ngắn, Nxb Thanh niên.

44. Đoàn Lê (15-4-2010), “Cụ ngoại và tôi”, Báo Thời nay, (28).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn105

45. Đoàn Lê (6-9-2010), “Con mốc”, Báo Đại biểu nhân dân, (249).

99

46. Đoàn Lê (5-10-2010), “Vua gái”, Báo Đại biểu nhân dân, (278).

47. Đoàn Lê (10-2-2011), “Mỹ nhân mèo”, Báo Ngân hàng, (24).

48. Đoàn Lê (29-5-2011), “Tình muộn”, Báo Thanh niên, (149).

49. Đoàn Lê (9-7-2011), “Người xiếc chữ”, Báo Đại đoàn kết, (163).

50. Đoàn Lê (2011), Đoàn Lê - tác phẩm chọn lọc, Tập truyện ngắn, Nxb

Phụ nữ.

51. Dương Thị Thu Hiền (2007), Tô Hoài với 2 thể văn: Chân dung và tự

truyện, LVThS, ĐHSP Thái Nguyên.

52. Nguyễn Văn Long (2001), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau

cách mạng tháng tám, Nxb Giáo dục.

53. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb

Giáo dục.

54. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975:

Những vấn đề nghiên cứu giảng dạy, Nxb Giáo dục.

55. Nguyễn Văn Long – Trịnh Thu Tuyết (2007), Nguyễn Minh Châu và

công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học sư phạm.

56. Phương Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX,

Nxb Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

57. “Lời phát biểu trong cuộc thảo luận về “Truyện ngắn hôm nay””

(30/11/1991), Báo văn nghệ, (48).

58. Trần Đình Sử (chủ biên) (2000), Tự sự học, Một số vấn đề lí luận và lịch

sử, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.

59. Hồ Anh Thái (19-9-2009), “ Đoàn Lê “chị tôi””, Báo Văn nghệ, (38).

60. Hồ Anh Thái, “Người đàn bà đa đoan”, Nguồn: http://Vietbao.com.

61. Hồ Anh Thái (2003), Tự sự 265 ngày, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà

văn (tái bản).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn106

62. Đỗ Ngọc Thạch, “Truyện ngắn – Đặc trưng thể loại”, nguồn: http://hnv.vn

100

63. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học.

64. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn

thể loại, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

65. Bùi Việt Thắng (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn,

tháng 1.

66. Bùi Việt Thắng (2004), “Truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí văn học, (1).

67. Bích Thu (1996), “Thành tựu truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí văn học, (6).

68. Trần Thị Việt Trung (2009), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi

Việt Nam hiện đại, Nxb ĐH Thái Nguyên.

69. Phùng Văn Tửu (1996), “Một phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí văn

học, (2).

70. Truyện ngắn nữ 2010 (2010), Nxb phụ nữ.

71. Vũ Quốc Văn (4-8-2012), “Thấp thoáng Đoàn Lê”, Báo Văn nghệ, (31).

72. Ý kiến của Vũ Thị Huyền (22-10-2010), Báo Hải Phòng cuối tuần.

73. Ngân Xuyên (dịch), “Bình luận về tập truyện Nghĩa địa xóm Chùa”,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn107

Nguồn: Viêt báo Nhật Việt.