BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
NGUYỄN ĐĂNG VY
TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG
VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI
TP Hồ Chí Minh – 2010
MÃ SỐ: 60 22 34
LỜI CẢM ƠN
Thực hiện luận văn này, bản thân tôi đã thường xuyên nhận được sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Nguyễn Thành Thi. Với tư cách một chuyên gia văn học hiện đại Việt Nam 1930-1945, am hiểu tường tận về sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, thầy đã giúp đỡ, chỉ dẫn khoa học rất cụ thể và đầy hiệu quả.
Xin được gửi lời cảm tạ chân thành sâu sắc nhất đến thầy, không phải chỉ vì thầy đã giúp tôi hoàn thành luận văn mà còn vì đã cho tôi nhiều kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu văn học cũng như thưởng thức cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương.
Nhân dịp luận văn hoàn thành, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy tận tình của tất cả các thầy cô phụ trách chuyên đề Cao học; cảm ơn BCN khoa Ngữ văn, các thầy cô chuyên viên phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong học tập nghiên cứu. Cảm ơn bằng hữu đã nhiệt tình động viên cổ vũ tôi.
Con xin chân thành cảm ơn ba má đã không ngừng động viên giúp đỡ con về vật chất
lẫn tinh thần để có ngày hoàn tất và bảo vệ luận văn này.
TP Hồ Chí Minh ngày 01/01/2011
NGUYỄN ĐĂNG VY
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Từ khi xuất hiện cho đến nay, sáng tác văn học của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng đã thu hút được sự quan tâm của giới phê bình và độc giả. Ý kiến về các ông, tùy từng thời điểm, thiên về khen hay chê, phủ nhận hay khẳng định, tất thảy đều cho thấy đánh giá sự nghiệp văn chương của hai ông không hề đơn giản. Thời gian trôi qua, dường như khoảng cách đã đủ để cân nhắc thẩm định đầy đủ hơn, sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng là một trong nhiều hiện tượng văn học được nhìn nhận lại trong những năm gần đây. Trên tinh thần đổi mới, giờ là lúc cần có sự đánh giá khách quan khoa học để trả lại giá trị đích thực vốn có của các hiện tượng văn học ấy trong đó có sáng tác của Khái Hưng Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ).
Nghiên cứu sáng tác của hai ông, các nhà nghiên cứu đã chú ý nhiều đến tiểu thuyết. Điều đó là đúng và cần thiết, song chưa đủ. Trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, bên cạnh tiểu thuyết, còn có truyện ngắn. Có một thực tế không thể phủ nhận là trong sáng tác của hai ông, thành tựu sáng tác truyện ngắn không nổi bật bằng thành tựu sáng tác tiểu thuyết. Nhưng cũng có một giả thuyết, rằng: nếu không có các sáng tác truyện ngắn vừa như là một sự thể nghiệm, chuẩn bị ý tưởng và kinh nghiệm cho sáng tác tiểu thuyết, vừa như là một sự bổ sung, hòa phối với tiểu thuyết thì liệu tiểu thuyết của TLVĐ có được sức vang dội như thế không, và văn chương TLVĐ liệu có được nhữnh thành tựu như đã có hay không?
Thiết tưởng, câu hỏi này chưa được đặt ra và trả lời thỏa đáng.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu về “Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự
Lực Văn Đoàn”, luận văn này nhằm hướng tới các mục đích sau:
- Tìm hiểu truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng, để thấy được vai trò mở đường và phát triển nghệ thuật truyện ngắn, hiện đại hóa VXNT quốc ngữ Việt Nam của TLVĐ – một vấn đề mà trước đây thường bị bỏ qua hoặc chưa chú ý đúng mức.
Đó cũng là lý do chủ yếu thôi thúc chúng tôi chọn, nghiên cứu đề tài “Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn” để thực hiện luận văn thạc sĩ.
- Trên cơ sở miêu tả đặc điểm nội dung và hình thức của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong bối cảnh VXNT TLVĐ, khẳng định thêm về những giá trị, đóng góp của hai ông trong sáng tác tiểu thuyết và truyện ngắn.
Với đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong bối cảnh VXNT TLVĐ – được nhìn chủ yếu trong mối quan hệ tương tác giữa sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết – luận văn chủ yếu tập trung khảo sát các tập truyện ngắn của hai ông sáng tác thời TLVĐ.
Cũng cần nói thêm rằng: Truyện ngắn của Nhất Linh và Khái Hưng có một khối lượng
không nhỏ.
Bên cạnh tập truyện ngắn Anh phải sống hai nhà văn viết chung với nhau, Nhất Linh
có tất cả 7 tập truyện ngắn (tổng cộng 40 truyện ngắn).
Trong đó, 5 tập sáng tác trước năm 1942 (từ 1927 đến 1937):
1) Người quay tơ (1927)
2) Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng, 1934)
3) Tối tăm (1936)
4) Hai buổi chiều vàng (1937)
5) Thế rồi một buổi chiều (1937);
2 tập sáng tác sau 1942 (Mối tình chân: 1948-1950 và Thương chồng: 1949-1950).
Khái Hưng cũng có hàng trăm truyện ngắn, phần lớn đã xuất bản thành tập. Đó là các
tập:
2) Anh phải sống (viết chung với Nhất Linh, 1934)
3) Số đào hoa (1937)
4) Tiếng suối reo (1937)
5) Hạnh (1938)
6) Đợi chờ (1939)
7) Đội mũ lệch (1941)
8) Cái ve (1944)
Ngoài ra, ông còn một số truyện ngắn khác mới chỉ đăng báo, chưa in thành tập. (Tổng
cộng 67 truyện ngắn)
1) Dọc đường gió bụi (1936)
Do số lượng truyện ngắn của hai nhà văn khá lớn, hiện nay, lại có những khó khăn đáng kể trong việc sưu tầm những tư liệu truyện ngắn do tình hình báo cũ bị mai một, thất lạc (ngay cả ở các thư viện lớn), nên tập hợp chưa thật đầy đủ. Trong khuôn khổ có hạn, luận văn chủ yếu tập trung khảo sát những tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu của hai nhà văn, gần đây đã được tuyển in thành sách. Cụ thể là:
Khảo sát 40 tác phẩm truyện ngắn của Nhất Linh, chủ yếu in trong tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh (truyển chọn và giới thiệu) (2000), NXB Văn học, Hà Nội và tập truyện ngắn “Những ngày diễm ảo” (1993), NXB Văn học, Hà Bắc. (Xem Danh mục tham khảo, từ 95 đến 120)
Khảo sát 67 tác phẩm truyện ngắn của Khái Hưng, chủ yếu in trong tập Truyện ngắn Khái Hưng, Hoàng Bích Hà, Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn) (2004), NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, và một vài tập truyện ngắn khác của ông (có Danh mục tác phẩm kèm theo trong Danh mục tham khảo từ 72 đến 79 và Phụ lục của luận văn).
Đồng thời, trong trường hợp cần thiết, luận văn cũng đối chiếu so ánh với một số tác
phẩm tiểu thuyết của hai nhà văn trong xu hướng tiểu thuyết TLVĐ.
3. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
3.1. Về việc đánh giá sự đóng góp của nhóm Tự Lực Văn Đoàn đối với tiến trình
phát triển của văn học dân tộc
Trước 1945, có thể kể đến bài viết về nhà văn TLVĐ của các tác giả: Trương Tửu, Đức Phiên, Trần Thanh Mại, Hà Văn Tiếp, Nguyễn Lương Ngọc, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính,…
Sau 1975 nhất là từ 1986 trở đi, việc đánh giá văn đoàn này càng ngày càng thỏa đáng, đúng mực hơn, kể cả một số nhà phê bình trước đây đã từng đánh giá khắt khe. Các nhà nghiên cứu phê bình văn học viết về TLVĐ khá đông đảo: Hoàng Xuân Hãn, Trương Chính, Trần Đình Hượu, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Phan Cự Đệ, Nguyễn Trác – Đái Xuân Ninh, Trần Hữu Tá, Phong Lê, Lê Thị Đức Hạnh, Đỗ Đức Hiểu, Hà Minh Đức, Lê Thị Dục Tú, Trần Thị Mai Nhi, Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Thành
Từ 1945 đến 1975 ý kiến đánh giá về TLVĐ ở miền Nam và miền Bắc có nhiều điểm khác nhau. Ở miền Nam có: Thanh Lãng, Thế Phong, Phạm Thế Ngũ, Doãn Quốc Sỹ, Bùi Xuân Bào, Lê Hữu Mục, Nguyễn Văn Xung, Đặng Tiến, Nguyễn Văn Trung, Dương Nghiệm Mậu, Thế Uyên, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Thị Thế,… Xu hướng chung là đánh giá cao đóng góp của TLVĐ. Ở miền Bắc, có thể kể đến công trình bài viết của các tác giả: Nguyễn Đức Đàn, Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Phan Cự Đệ - Bạch Năng Thi. Nhìn chung trong một bối cảnh cụ thể của đất nước, các tác giả này phê phán TLVĐ khá nặng nề.
Thi, Trịnh Bá Đĩnh, Vương Trí Nhàn,… Ở đây, có một sự vận động trong nhận thức đánh giá về văn đoàn.
Đương thời, hoạt động văn học của TLVĐ tuy gây được tiếng vang lớn trong dư luận xã hội và đời sống văn học, tuy vậy đóng góp của TLVĐ vẫn chưa chính thức được giới nghiên cứu phê bình đặt vấn đề đánh giá đầy đủ, nghiêm túc.
Phải mười mấy năm sau, vào năm 1957, với một tinh thần xã hội học trong đánh giá công và tội của bộ phận văn học công khai trước Cách mạng Tháng Tám 1945, trong đó có sáng tác của các nhà văn lãng mạn trong TLVĐ (như Khái Hưng, Nhất Linh) và ngoài tổ chức văn học này, Trường Chinh đã phát biểu ý kiến nhận định như sau:
“Ngoài một số tác phẩm kể trên (Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, thơ Tố Hữu) các nhà phê bình của ta còn tránh nói đến những tác phẩm lãng mạn, vì chưa biết đánh giá thế nào cho đúng. Có khuynh hướng gạt bỏ chung những xu hướng lãng mạn ngày trước, coi tất cả đều là sa đọa thoát ly. Cần nhận rõ rằng văn nghệ cách mạng của chúng ta là kẻ thừa kế tất cả những giá trị văn nghệ do các thời trước tạo ra và truyền lại cho đến ngày nay. Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển tất cả di sản của dân tộc và cũng chỉ có chúng ta mới có thể làm nổi công việc đó (…) Đối với trào lưu văn học lãng mạn, chúng ta không nên mạt sát và vơ đũa cả nắm…”.
Ông còn gợi ý trong văn học lãng mạn, bên cạnh những mặt tiêu cực, còn có “nỗi đau khổ của người dân mất nước, sự quằn quại của tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng khao khát một cuộc sống chân thật và tự do. (…) Việc uốn nắn lại những thái độ hẹp hòi máy móc đối với những giá trị văn nghệ cũ không những có tác dụng sửa chữa thái độ bất công đối với nhiều tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường cho sáng tác văn nghệ hiện thời” (Bài nói tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, 1957).
Về vai trò hiện đại hóa văn học của TLVĐ, giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng đã có lần khẳng định: “Nhóm Tự Lực Văn Đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [dẫn theo theo Nguyễn Hữu Hiếu, 61, tr.74].
Hơn một thập niên sau, trong khi do một hoàn cảnh riêng, ở miền Bắc, các sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng và TLVĐ cùng với trào lưu văn học lãng mạn bị xem là chứa nhiều “nọc độc”, “bạc nhược, suy dồi”, thì ở miền Nam, Hiếu Chân, trên Tạp chí Văn số 156, năm 1970, cũng đã khẳng định động cơ yêu nước, ý thức dân tộc của Nhất Linh, Khái Hưng và các cộng sự khi thành lập TLVĐ và điều hành hoạt động của tổ chức này: “Nhất Linh, Khái Hưng có nhiều mặt đồng điệu và tâm đắc. Đi Pháp về, Nhất Linh gặp Khái Hưng. Hai người cùng có một nguyện vọng là làm sao đóng góp vào sự phát triển văn hóa dân tộc, Họ muốn bảo vệ di sản văn hóa dân tộc (…) Nhất Linh và Khái Hưng đều có thể ra làm quan nhưng họ không thích cuộc đời quan trường. Họ thích tự do. Họ có hoài bão này từ hồi còn đi học. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước, và họ đã biểu hiện lòng yêu nước qua hành động của họ. Tất nhiên là nó rất hạn chế và không nhất quán” [17].
Năm 2004, trong Lời giới thiệu tuyển tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh cho rằng TLVĐ là một phong trào văn học “có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học thế kỷ XX” [39, tr.5]; rằng, sáng tác của các nhà văn “trên các trang báo Phong Hóa sau 1934 đã thổi vào xã hội một luồng sinh khí tươi trẻ, nhẹ nhàng, giàu sinh lực phản ánh được cái khí thế của một thế hệ trẻ rất hăng hái cải tạo xã hội và văn hóa.” [39, tr.6]; rằng, “nhiều tài năng của nền văn học mới có lúc từng quần tụ trong TLVĐ” [39, tr.6]; và rằng, trong TLVĐ, Nhất Linh “là người chủ xướng và tổ chức quan trọng nhất” [39, tr.6].
3.2. Việc đánh giá truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng:
Trước hết, có thể thấy rằng có một thái độ thiên lệch ít nhiều mang tính lịch sử khi đánh giá sự nghiệp văn chương của Nhất Linh, Khái Hưng: tiểu thuyết được coi trọng, truyện ngắn có phần bị coi nhẹ.
Thái độ thiên lệch này là có thực trong giới nghiên cứu, phát hành, ngay cả khi sáng tác của hai ông đã bắt đầu được khôi phục, đánh giá lại. Chẳng hạn, khi làm Tổng tập văn học Việt Nam những người tuyển tập chỉ dè dặt đưa vào vài truyện ngắn như truyện Bóng người trong sương mù (Nhất Linh) và truyện Người vợ mù (Khái Hưng), song lại rất tự tin, rộng rãi trong việc trích tuyển tiểu thuyết của hai nhà văn này. Thái độ này cũng đã khiến cho những người làm tuyển tập Truyện ngắn Khái Hưng phải thốt lên: “tiếc là lâu nay tiểu thuyết Khái Hưng vẫn có phần lấn át truyện ngắn của tác giả. Trong vòng 25 năm nay mới chỉ thấy có một tập truyện ngắn Khái Hưng in ra ở NXB Hải Phòng (1994) và một tập truyện thiếu nhi, in ở NXB Hải Phòng và Kim Đồng (2000)” [59, tr.5].
Về tình hình nghiên cứu, tác giả, tác phẩm truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình, bài viết. Tuy nhiên, các công trình ấy, hầu như đều chủ yếu đi sâu nghiên cứu về tiểu thuyết. Các ý kiến bàn về truyện ngắn không nhiều. Dẫu vậy, vẫn có thể nhặt ra một số ý kiến đáng chú ý xung quanh vị trí, đặc điểm của truyện ngắn trong sáng tác của hai tác giả.
Về vị trí của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong sáng tác của hai ông thời
TLVĐ:
Như vậy, nếu không tính đến những tập truyện ngắn của hai ông in ở miền Nam trước 1975, thì mãi đến năm 1994, truyện ngắn của Khái Hưng mới được in lại, còn truyện ngắn của Nhất Linh, thì phải chờ đến năm 2000, đúng thời điểm chuyển giao giữa thế kỷ cũ và thế kỷ mới mới được tuyển in lại. Dầu sao, thời gian gần đây, thái độ coi nhẹ truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng đã được điều chỉnh đáng kể. Bằng chứng là có những bộ sưu tập truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng ra đời. Kèm theo là nhiều bài viết, công trình nghiên cứu. Có thể xem đây là những cố gắng nhằm tạo ra cách nhìn nhận thỏa đáng và khôi phục lại đóng góp thực sự của Nhất Linh, Khái Hưng trong lĩnh vực truyện ngắn. Đó là một sự điều chỉnh cần thiết, dù muộn màng thì có vẫn hơn không.
Nhìn chung, so với sáng tác truyện ngắn của Nhất Linh, sáng tác truyện ngắn của Khái
Hưng được chú ý hơn.
Vũ Ngọc Phan khẳng định Khái Hưng là cây bút văn xuôi TLVĐ đã viết được “những
truyện ngắn tuyệt hay” [141].
Phạm Thế Ngũ cũng cho rằng sức viết của Khái Hưng bộc lộ nhiều qua truyện ngắn và đây là thể loại không thể thiếu trong sự nghiệp văn chương của ông: “Ngoài những truyện dài, Khái Hưng còn viết rất nhiều truyện ngắn. Trên báo Phong Hóa rồi Ngày Nay những năm đầu, thường thường tuần nào ông cũng có một truyện (không kể tiểu thuyết dài ngắt kỳ). Đếm tất cả những truyện này của Khái Hưng trong gần mười năm có thể đi đến vài trăm” [136, tr.476].
Bên cạnh việc khẳng định tài viết truyện ngắn của Khái Hưng, Phan Cự Đệ còn khẳng
định: “Nhất Linh cũng có tài viết truyện ngắn” [36, tr.907]
Về vai trò mảng truyện ngắn trong sáng tác của Nhất Linh, Phạm Thế Ngũ đã viết: “Ra tờ Phong Hóa rồi, Nguyễn Tường Tam lại trở lại viết truyện. Ông bắt đầu đăng trên Phong Hóa 1932 – 1933 những truyện ngắn, thoạt đầu ký bút hiệu Bảo Sơn rồi Nhất Linh.” [136, tr.446]
Còn về vai trò của mảng truyện ngắn trong sự nghiệp văn chương của Khái Hưng, Lê Dục Tú khẳng định: “Có thể nói truyện ngắn là thể loại đầu tiên Khái Hưng trình làng trước công chúng. Trên báo Phong Hóa và Ngày Nay những năm đầu hầu như tuần nào Khái Hưng cũng đăng một truyện ngắn. Trong vòng mười năm ông đã đăng đến hàng trăm truyện ngắn. Một số truyện ngắn đầu tay của Khái Hưng khi ra đời đã được coi là “món ăn ngon và lạ” cải thiện cho khẩu vị đọc của người dân thị thành. Truyện ngắn “Bên dòng Hương giang” được in lần đầu tiên trên báo Phong Hóa ngày 31/3/1932 và tập truyện ngắn “Dọc đường gió bụi” ra đời năm 1936 đã nhận được sự cổ vũ nồng nhiệt của công chúng” [189]
Về đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng:
Cùng thời với Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Ngọc Phan nhấn mạnh vẻ đẹp giản dị, sức chinh phục độc giả ở kĩ thuật dựng truyện, hành văn của Khái Hưng. Trong Nhà văn hiện đại, ông viết:
“Về truyện ngắn, Khái Hưng viết tuyệt hay. Người ta thấy phần nhiều truyện ngắn của ông lại có vẻ linh hoạt và cảm người đọc hơn cả truyện dài của ông. Truyện ngắn của Thạch
Hai ý kiến trên (của Phạm Thế Ngũ và Lê Dục Tú) đã gặp nhau ở một điểm quan trọng: Cả Nhất Linh, Khái Hưng đều khởi nghiệp bằng việc viết truyện ngắn. Và trước, trong khi trở thành tác giả của những thiên tiểu thuyết nổi tiếng một thời, Nhất Linh, Khái Hưng đã và đang là những cây bút viết truyện ngắn có thứ hạng trên văn đàn công khai 1930-1945. Như thế xét từ một góc độ nào đó, với hai ông và độc giả đương thời, viết và đọc truyện ngắn có thể xem là một sự chuẩn bị, tập dượt cho viết và đọc tiểu thuyết.
Lam và Đỗ Đức Thu ngả về mặt sầu cảm và kín đáo bao nhiêu thì truyện ngắn của Khái Hưng vui tươi và rộng mở thế ấy, nhưng không phải cái vui thái quá như những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đâu. Ngay ở những truyện buồn của Khái Hưng, người ta cũng chỉ thấy một thứ buồn man mác, không bao giờ là cái buồn ủ rũ như ở những truyện của Thạch Lam (…). Đọc những truyện ngắn của Khái Hưng, tôi nhận thấy nghệ thuật của ông là tìm cho ra những ý nghĩ đau đớn hay khoái lạc của mọi việc trên đời, rồi ghi lại bằng những lời văn gọn gàng, sáng suốt, làm cảm người ta bởi những việc mình dàn xếp, mình làm cho khi nổi khi chìm, chứ không phải cám dỗ người ta bởi những thuyết mà mình tưởng là cao cả ”.[141, tr.770]
Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ còn chia truyện ngắn của Khái Hưng ra làm hai loại: “một loại nhẹ, truyện vui, truyện phiếm, đăng vừa một cột báo, in lên hai ba trang sách, không có ý nghĩa gì sâu xa” [136, tr.477] và “một loại nặng, đứng đắn, rộng kích thước hơn, viết công phu hơn, đặt ra một vấn đề luận lý, xã hội, đưa ra một mẩu tâm lý, một mảng sinh hoạt, bắt người ta phải suy nghĩ, đôi khi phải cảm động đau thương”. [136, tr.477]
Trước khi hai tuyển tập truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng ra đời (2002; 2004), Có thể thấy rằng hầu như các công trình nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Phạm Thế Ngũ, Lê Thị Dục Tú,… đều ghi nhận những đóng góp về truyện ngắn của Nhất Linh và Khái Hưng cho sự tiến bộ của văn học nước nhà. Song, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có điều kiện để thực sự đi vào nghiên cứu một cách chuyên sâu. Điều này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có lẽ một phần là do truyện ngắn của hai ông bị chìm đi sau tiếng vang tiểu thuyết của họ.
Sau 2000-2004 đáng chú ý trước hết là các Lời dẫn, Lời giới thiệu tuyển tập truyện
ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng.
Trong Lời giới thiệu tuyển tập Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Đĩnh cho rằng:
Về ngôn ngữ nghệ thuật, Trịnh Bá Đĩnh khẳng định: “Nhất Linh viết văn theo các thể loại của văn học Âu Tây, xây dựng nhân vật, kết cấu truyện… theo lối của các nhà văn Châu Âu. Văn phong của ông là sự áp dụng lối tổ chức ngữ pháp Tây phương vào tiếng Việt: Lôgích chặt chẽ, sáng sủa và cực kỳ giản dị (…) Nhà văn đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật phương Tây để xây dựng tâm hồn phương Đông” [39, tr.8]. Tuy vậy, “Chất thơ của Giấc mộng Từ Lâm, Lan rừng… là chất thơ của loại truyện truyền kỳ, truyện Liêu trai. Còn con bướm trắng trong hoài niệm của Trương cũng là con bướm trắng trong giấc mộng Trang Chu chất thơ đó chính là cái Đẹp, cái Đẹp hiện hữu nhưng khó nắm bắt, nó như con bướm trắng luôn chập chờn bay trong không gian và thời gian của thhế giới nghệ thuật Nhất Linh” [39, tr. 9].
“Về sáng tác, Nhất Linh từng viết ở nhiều thể loại: thơ, phóng sự, khảo luận, phê bình, tuy nhiên ngòi bút của ông chủ yếu vẫn là để sáng tạo văn xuôi – truyện ngắn và tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết. Nhất Linh thuộc vào số những nhà cách tân tiểu thuyết quan trọng của văn học ta” [39, tr.6-7].
Về sức sống của tác phẩm Nhất Linh, nhà nghiên cứu, người làm tuyển tập truyện ngắn Nhất Linh quả quyết rằng sáng tác của nhà văn này “vừa là tiếng nói của một thời vừa là tiếng nói của không chỉ một thời” [39, tr.10].
Trong Lời dẫn của nhóm sưu tầm, biên soạn tuyển tập Truyện ngắn Khái Hưng, các tác giả khẳng định: “Bên cạnh cây bút tiểu thuyết tài hoa, Khái Hưng (1986-1947) đồng thời còn là một tác giả truyện ngắn dồi dào sức lực, thường xuyên có truyện in Phong Hóa, Ngày Nay, và ngay từ trước 1945, đã được tập hợp một phần trong các tập…” [59, tr.5]; truyện ngắn là “một lĩnh vực mà ngòi bút của ông liên tục làm việc và có nhiều thành tựu đáng ghi nhận” [59, tr.5].
Về việc phân loại, tác giả Lời dẫn cũng cho rằng sáng tác truyện ngắn của Khái Hưng “bao gồm truyện sinh hoạt, truyện lịch sử, truyện viết theo lối truyện kể dân gian và truyện viết bằng bút pháp hiện đại” [59, tr.5].
Trong một số bài viết gần đây, như “Chuyên nghiệp hóa sáng tác – một đòi hỏi tất yếu của công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam trước 1945” [168], “Mấy ghi nhận về tương tác tiểu thuyết truyện ngắn và sự biến đổi nòng cốt của hai thể loại này” [169], “Tự Lực Văn Đoàn – những lằn ranh văn học” [170], Nguyễn Thành Thi cũng đề cập nhiều đến sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, đặc biệt là sáng tác truyện ngắn. Trong đó có nhiều ý kiến, luận điểm rất đáng chú ý.
Về mặt loại hình và đặc điểm thể tài của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, trong Tự Lực Văn Đoàn – những lằn ranh văn học, bài viết gần đây nhất [170], Nguyễn Thành Thi đề xuất phân loại tiểu thuyết Nhất Linh Khái Hưng thành ba loại hình thể tài: 1) tiểu thuyết luận đề, 2) tiểu thuyết phân tích xã hội, 3) tiểu thuyết phân tích tâm lý và, theo đó, ông phân truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng thành bốn khuynh hướng thể tài: 1) truyện ngắn thiên về
Theo Nguyễn Thành Thi, nhìn chung, thế mạnh của truyện ngắn Nhất Linh là “khám phá, miêu tả tâm lý” và khả năng “lồng vào truyện những ý tưởng luận đề”; trong khi đó, Khái Hưng lại “thường chú trọng đặc biệt đến ngôn ngữ đối thoại và luôn có ý thức miêu tả giọng điệu, lời nói của các loại nhân vật, các hạng người trong xã hội” [168]; hoặc: “trong kĩ thuật truyện ngắn, Nhất Linh, với năng lực ưu trội trong việc đi sâu vào thế giới tinh thần cá nhân của con người, thường nghiêng về những tìm tòi thể nghiệm miêu tả tâm lý, kĩ thuật phô diễn tiếng nói nội tâm của nhân vật (ngay cả khi ông dùng đến các chất liệu kì ảo)”[168], và: “Khái Hưng, với năng lực ngữ cảm và các nhận xét tinh tế ít nhiều mang tính chất “siêu ngôn ngữ” [168]. Nhà nghiên cứu còn phân tích, minh chứng thêm: Khái Hưng “hay để cho người kể chuyện trong truyện ngắn của ông nhận xét về nhạc tính, âm hưởng riêng trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Trong truyện Cô hàng nước chẳng hạn, nhân vật xưng tôi tên Ban nhận thấy qua những mẩu đối thoại của nhân vật “cô hàng nước” “tiếng nói vùng bể rất nặng và đầy những tiếng thanh ngang, khiến Ban phải mỉm cười”. Hơn thế, cũng như nhân vật tôi, “cô hàng nước” nơi thôn dã này còn phân biệt rạch ròi cách dùng từ cô hay bà trong “cô tú” (bản thân người phụ nữ đã thi đỗ tú tài) với “bà tú” (người phụ nữ là vợ của người thi đỗ tú tài)” [169, tr.70]
kuynh hướng luận đề; 2) truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích xã hội; 3) truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích tâm lý và 4) truyện ngắn có khuynh hướng tổng hợp loại hình [170].
Về tính quá trình và sự tương tác thể loại trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, đặc biệt là Nhất Linh, Nguyễn Thành Thi, cho rằng: “hành trình hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa truyện ngắn của Nhất Linh không có đứt đoạn. Từ Người quay tơ (1927), qua Anh phải sống (1934), đến Tối tăm (1936), Hai buổi chiều vàng (1937), Mối tình chân (1948-1950) là một hành trình liên tục. Hành trình tiểu thuyết của Nhất Linh từ Nho phong qua Đoạn tuyệt, đến Bướm trắng đã vận động trong sự tương tác với hành trình liên tục nói trên ở lĩnh vực truyện ngắn”. [168, tr.69].
Các ý kiến trên đây, nhất là của Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Lê Thị Dục Tú, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thành Thi,… thực sự là những gợi ý quan trọng đối với tác giả luận văn khi thực hiện đề tài “Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn”.
Chung quy, theo tổng hợp chúng tôi, từ các công trình, ý kiến đề cập đến truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng mà luận văn đã lược thuật trên đây, có thể rút ra mấy điểm quan trọng, rất có ý nghĩa đối với việc định hướng và tiếp tục nghiên cứu của luận văn này:
Thứ nhất: truyện ngắn là một bộ phận sáng tác có giá trị trong sáng tác văn chương
của Nhất Linh, Khái Hưng, đáng được tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ sâu sắc hơn;
Thứ hai: truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng đều có những nét đặc sắc riêng, khá nhất
quán, tương hợp với lối viết tiểu thuyết của hai ông;
Thứ ba: nghiên cứu truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng không thể và không nên tách rời khỏi bối cảnh không khí chung trong sáng tác tiểu thuyết của hai ông, cũng như bối cảnh, không khí sáng tác VXNT của TLVĐ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp loại hình
Phương pháp hệ thống
Phương pháp so sánh
Tất nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, khoa học hơn về truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng là hết sức cần thiết. Trên tinh thần tiếp thu thành quả của người đi trước, tác giả luận văn hy vọng rằng với việc hoàn thành đề tài Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn, việc nghiên cứu truyện ngắn của hai ông sẽ được đẩy xa thêm một bước nữa.
Phương pháp thi pháp học
Sử dụng thao tác thống kê…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống những đóng góp cùng hạn chế của Nhất Linh, Khái Hưng về truyện ngắn, đặt trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Tiếp thu ý kiến bàn về truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng của những người đi trước, chọn cách trình bày từ góc độ nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn và những đóng góp quan trọng trong nội dung và nghệ thuật viết truyện ngắn của hai nhà văn đối với tiến trình phát triển của văn học hiện đại Việt Nam nói chung và truyện ngắn nói riêng.
Người viết có ý thức khảo sát một cách nhất quán đặc điểm nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng. Cách xem xét này giúp ta hình dung được toàn bộ đặc điểm truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng không phải như một tổng số các đặc điểm rời rạc mà như một chỉnh thể thống nhất các nét độc đáo xuyên suốt nội dung và hình thức các tác phẩm của hai ông.
Bằng việc nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, luận văn góp thêm một tiếng nói khẳng định những đóng góp và vị trí của nhà văn trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, nội dung cơ bản của luận văn được trình bày theo ba chương, với các nội dung chủ yếu sau đây:
Chương 2 với nhan đề NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG KHUYNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN, luận văn tập trung miêu tả đặc điểm nội dung, cảm hứng, xu hướng tư tưởng của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong khuynh hướng tư tưởng của tiểu thuyết TLVĐ.
Chương 3, với nhan đề CÁC LOẠI HÌNH TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG TƯƠNG QUAN VỚI CÁC LOẠI HÌNH TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN, luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu loại hình, lý thuyết tự sự học để xác định, miêu tả đặc điểm cấu trúc truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng theo các khuynh hướng thể tài chủ yếu cũng như đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn của hai ông.
Chương 1 với nhan đề NHẤT LINH, KHÁI HƯNG NHƯ LÀ NHỮNG NHÀ VĂN VIẾT TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI, sau khi giới thuyết một số khái niệm công cụ, tập trung xác định vị trí, tầm vóc của truyện ngắn trong sáng tác VXNT của Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng, TLVĐ nói chung.
NHẤT LINH, KHÁI HƯNG NHƯ LÀ NHỮNG NHÀ VĂN VIẾT TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI
CHƯƠNG I
1.1. Truyện ngắn và nhìn chung về truyện ngắn hiện đại Việt Nam trước 1945
1.1.1. Truyện ngắn – khái niệm, đặc trưng
1.1.1.1. Truyện ngắn là một khái niệm quen thuộc nhưng cách hiểu về nó không đơn giản. Nhiều nhà nghiên cứu lý luận phê bình (trên thế giới như Antônốp, Gulaiép, D.Grojnowski, Pospelốp; ở Việt Nam như Lê Bá Hán, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Bùi Việt Thắng,…) đã đưa cách hiểu và đề xuất định nghĩa riêng của mình.
Tuy vậy, dù cách diễn đạt khác nhau thì hầu hết, nói đến truyện ngắn, người ta đều dễ
dàng thừa nhận cái lõi, cái nòng cốt của thể loại này:
- Truyện ngắn là tác phẩm thuộc loại hình tự sự cỡ nhỏ.
- Phạm vi phản ánh của truyện ngắn khá rộng (có thể bao trùm hầu hết các phương
diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo là ngắn).
Một trong những xác định súc tích và khá chuẩn về truyện ngắn là định nghĩa của Lại Nguyên Ân: “Một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ”. [51, tr.1846-1847]
Các nhà văn, với trải nghiệm thực tế của mình, đã đưa ra những cảm nhận cụ thể và một số đúc kết đa dạng. Pautopxki đã phát biểu: “Truyện ngắn là truyện viết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái bình thường và cái gì bình thường hiện ra như một cái không bình thường” [137]. Aimatov chú ý đến đặc trưng lao động nghệ thuật: “Truyện ngắn giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô đúc, các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một việc vô cùng tinh tế. Xoay xỏa trên một mảnh đất chật hẹp, đó chính là chỗ để cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác”. [137, tr.146]. Nhấn mạnh đến chi tiết, Nguyễn Công Hoan cho rằng “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [159, tr.186].
Có chung tính chất là tự sự, ranh giới giữa truyện ngắn và tiểu thuyết khá mong manh. Nhiều người ghi nhận hiện tượng này: truyện ngắn “ít nhiều mang những đặc tính của tư duy tiểu thuyết” (Lại Nguyên Ân), là “một bộ phận của tiểu thuyết” (Bùi Việt Thắng), hay là “một dạng tiểu thuyết đặc biệt” (Vương Trí Nhàn).
nêu ra một số đặc trưng cơ bản của thể loại này.
Xuất phát từ những quan niệm tương đối thống nhất về truyện ngắn, chúng ta có thể
đời, nắm bắt đời sống riêng mang tính chất thể loại.
Truyện ngắn thuộc một kiểu tư duy mới mang cá tính sáng tạo, một cách nhìn cuộc
Đặc trưng đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là dung lượng nhỏ. Thế nào là nhỏ? Có thể nói, dung lượng thông thường của một truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50 trang. Dưới con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mini”, hoặc “truyện ngắn trong lòng bàn tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi là truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Những cách gọi này tương ứng với các khái niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) trung thiên tiểu thuyết (truyện vừa) trường thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ đầu của văn xuôi tự sự hiện đại. Tuy nhiên tính chất “nhỏ” của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung lượng, mà quan trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Do tính chất ngắn gọn, truyện ngắn được tổ chức bằng các phương thức và chất liệu đặc biệt.
Về “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”, truyện ngắn không có tham vọng ôm vào mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và hay” (Bùi Việt Thắng). Nguyên tắc chung nhất của truyện ngắn không cho phép“dồn ép” hoặc “nhồi nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương như thế, thành truyện ngắn. Nếu ta đem cắt tỉa, gọt đẽo một tiểu thuyết vài ba trăm trang xuống chỉ còn vài chục trang thì cái thành phẩm đặc biệt này cũng không phải và không thể trở thành một truyện ngắn. Như vậy, ngắn gọn trong truyện ngắn là cái ngắn gọn tinh lọc và chặt chẽ. Sekhov, một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví: Truyện ngắn cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì được thừa. Khác với truyện dài và truyện vừa, truyện ngắn phải là “một lát cắt gọn ghẽ”, “toàn truyện là một cái vòng khép kín không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”. [153, tr.365]. Để đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tưởng mà vẫn sống động tự nhiên, truyện ngắn “phải lựa chọn được một cách nhìn và một điểm nhìn tập trung, giống như cái tiêu điểm của thấu kính, tập trung ánh sáng mặt trời để có thể đốt cháy đám bùi nhùi” [1, tr.42]. Các tác giả truyện ngắn thường hướng tới việc khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người.
Tính nhanh nhạy, cập nhật cũng là một đặc trưng của truyện ngắn. Với đặc thù ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, truyện ngắn thường gắn liền với hoạt động báo chí, có tác động mạnh mẽ, kịp thời tới cuộc sống. Để đạt được điều này, điều cốt yếu của truyện ngắn là phải “nhạy bén trước những đổi thay của cuộc sống” [137], truyện ngắn cần bắt nhịp nhanh với cuộc sống thời hiện tại. Truyện ngắn là thể loại thích hợp giúp nhà văn tìm hiểu về những vấn đề mới đang được đặt ra trong cuộc sống. Người ta có thể cho phép tiểu thuyết trở về khái quát
Về tác động của truyện ngắn, do tính chất cô đúc, truyện ngắn có sức nén. Đỗ Chu cho rằng: “một truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt” bởi vì “sức chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”. Thomas Mann khẳng định: Truyện ngắn tuy bé nhỏ, nhưng “những cái bé nhỏ đó cũng có sức chứa nội tại lớn lao, cũng có thể bao quát được toàn bộ đời sống, có thể đạt được kích thước anh hùng ca và có được tác dụng nghệ thuật chẳng khác gì một sáng tác đồ sộ khác”[146].
một giai đoạn đã qua, nhưng truyện ngắn thì không thể làm thế. Truyện ngắn phải trực tiếp đả động đến điều mọi người đang suy nghĩ trong cuộc sống ngày hôm nay, cho dù chất liệu sử dụng trong tác phẩm là những điều xưa cũ.
1.1.1.2. Có thể rút ra một số nét riêng của các yếu tố cấu thành tác phẩm truyện ngắn
trong sự đối chiếu với tác phẩm văn xuôi tự sự nói chung như sau:
Cốt truyện: là yếu tố hết sức quan trọng của thể tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng. Song, khác với tiểu thuyết, cốt truyện của truyện ngắn “thường tự giới hạn về thời gian, không gian” (Lại Nguyên Ân). Nếu tiểu thuyết dõi theo cả một hay nhiều số phận nhân vật, và tái hiện một bức tranh xã hội rộng lớn, thì truyện ngắn, tập trung vào một khoảnh khắc, trong đó xây dựng một tình huống truyện. Tình huống chính là điểm giao cắt của nhiều yếu tố cùng một lúc, qua đó tính cách của nhân vật tức thì hiện ra và vấn đề đột nhiên được phơi mở.
Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn lại là một “mặt cắt của dòng đời”. Nếu tiểu thuyết “diễn tả một quá trình vận động của cuộc sống” thì truyện ngắn lại “tập trung vào một tình thế thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm trạng nhân vật”, nếu tiểu thuyết “mở ra một diện” thì truyện ngắn “tập trung xoáy vào một điểm”.[159]
Về cách thức tiếp cận cuộc sống, truyện ngắn cũng có những khác biệt, nó “khái quát cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để nối cái vĩnh cửu”. [160]
Về tính chất, điều đặc biệt ở truyện ngắn là cốt truyện của nó nhiều khi rất rõ nét, rất li kì, hấp dẫn nhưng cũng có khi không có, hoặc mờ nhạt. Thạch Lam là một nhà văn có nhiều tác phẩm có cốt truyện mơ hồ, “truyện mà không có chuyện” như thế.
Vậy các yếu tố nào khác khiến cho truyện ngắn vẫn được chấp nhận khi thiếu vắng cốt
truyện? Có lẽ, yếu tố đó chính là chi tiết, kết cấu, nhân vật của “hình thức nhỏ”.
Như vậy, vai trò của chi tiết trong truyện ngắn là hết sức quan trọng. Không chỉ vậy, nhiều chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh” [159, tr. 84].
Là thể loại tự sự đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, kết cấu truyện ngắn cũng có những nét đặc thù riêng. Theo Nguyễn Minh Châu, “Cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật tinh xảo – kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo,
Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí, không khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nhân vật. Nhận xét về điều này, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã”. [57, tr.33]
dồn nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [18, tr.251]. Nhiệm vụ của kết cấu là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ các bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất.
Nhân vật là một phương diện rất quan trọng của truyện ngắn. Ở các truyện ngắn đặc sắc, bao giờ các tác giả cũng xây dựng được những nhân vật điển hình. Nếu tiểu thuyết theo dõi, mô tả tỉ mỉ sự thăng trầm của số phận con người thì truyện ngắn chỉ tập trung ống kính vào một vài khoảnh khắc của đời người. Do ngắn, gọn, truyện ngắn thường “không có mấy nhân vật” [137, tr.25], “một hoặc hai nhân vật chính, kèm theo đôi ba nhân vật phụ” [137, tr.125], họ “chỉ cần có mặt với đôi đường nét mờ chìm như cảnh núi, cảnh sông” [137, tr.26]. Là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, truyện ngắn thường hướng tới việc “thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp, một trạng thái nhân vật” [159, tr. 73].
Một đặc điểm nữa của truyện ngắn là gắn liền với báo chí. Khuôn khổ báo chí quy định tính chất ngắn gọn của truyện ngắn. Vương Trí Nhàn cho rằng: “chỉ có một nơi thích ra lệnh cho tác giả về khuôn khổ và rất nghiệt ngã trong mệnh lệnh mình là báo chí”. Chính vì giới hạn trong một khuôn khổ như thế nên, truyện ngắn hiện đại “đòi hỏi người viết một sự lựa chọn dồn nén các chi tiết, sự kiện, nhân vật và cả những tư tưởng, tình cảm của tác giả lẫn sự biểu đạt ngôn ngữ văn bản nghệ thuật một cách nghiêm ngặt”.
Từ những đặc trưng trên, có thể nói truyện ngắn là một thể loại dân chủ gần gũi với
đời sống hàng ngày, súc tích, dễ đọc, có tác dụng ảnh hưởng kịp thời trong đời sống…
Ngoài khái niệm then chốt là truyện ngắn, đã được giới thuyết như trên, có một và khái niệm khác cũng cần được giới thuyết với một nội hàm xác định: tiểu thuyết, văn xuôi nghệ thuật, văn hư cấu,…
Nếu truyện ngắn thuộc loại hình tự sự cỡ nhỏ thì tiểu thuyết thuộc loại hình tự sự cỡ lớn. Đây thực sự là hai thể loại chủ đạo của văn xuôi nghệ thuật. Tuy nhiên sự phân biệt ở đây chỉ có ý nghĩa tương đối, và điều đáng nói hơn là khi nghiên cứu hai thể loại văn học này, người ta không thể không quan tâm đến sự tương tác thể loại giữa truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhà nghiên cứu trong khi nghiên cứu khảo sát các tác phẩm truyện ngắn hoàn toàn có thể tìm thấy ở đây những dấu hiệu kĩ thuật, thi pháp của tiểu thuyết và ngược lại, đúng như
Văn xuôi nghệ thuật (đôi khi được gọi vắn tắt là văn xuôi): là khái niệm chỉ một tập hợp thể loại được sáng tạo một cách nghệ thuật (có tính nghệ thuật, đặc biệt là tính hư cấu và tính hình tượng) nói chung. Văn xuôi nghệ thuật sử dụng chung một loại chất liệu làm ngôn ngữ công cụ (văn xuôi). Văn xuôi nghệ thuật bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự (văn học), tự truyện, hồi kí, tùy bút, bút kí, tản văn,…Trong văn xuôi nghệ thuật, có những thể loại không hư cấu (non fiction) như bút kí, tùy bút,…; có những thể loại hư cấu (fiction), trong đó quan trọng nhất là tiểu thuyết và truyện ngắn. Đây là hai thể loại có “nòng cốt” gần gũi nhau nhất và cũng luôn nắm giữ vị trí chủ đạo của nền văn xuôi nghệ thuật. Vị thế tương tác giữa chúng cũng phổ biến, tinh tế và có tác dụng thúc đẩy văn học phát triển rõ hơn cả.
nhận định của Nguyễn Thành Thi trong Mấy ghi nhận về tương tác giữa tiểu thuyết và truyện ngắn và sự biến đổi nòng cốt của hai thể loại này [169, tr.49].
1.1.2. Vài nét về truyện ngắn Việt Nam hiện đại trước 1945
Trong bức tranh chung của văn học hiện đại Việt Nam trước 1945, truyện ngắn là thể
loại khá phát triển và có một diện mạo riêng, một tiến trình vận động khá rõ nét.
Khi nhận định rằng truyện ngắn là “thể loại khá phát triển”, tác giả luận văn không chỉ căn cứ cả vào số lượng tác giả, tác phẩm mà còn căn cứ vào chất lượng và tính đa dạng về khuynh hướng tư tưởng thẩm mĩ của thể loại này.
Có khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa (chủ yếu thuộc khu vực văn xuôi lãng mạn), có khuynh hướng hiện thực (chủ yếu thuộc khu vực văn học hiện thực phê phán); có khuynh hướng thuyết lý đạo đức, khuynh hướng luận đề, khuynh hướng hiện thực xã hội, khuynh hướng hiện thực tâm lý,… Về hình thức kĩ thuật tự sự, có khuynh hướng viết ngắn, có khuynh hướng viết dài, tiếp cận với truyện vừa, có tổng hợp kĩ thuật của tiểu thuyết, có yếu tố huyền thoại kì ảo, có yếu tố lịch sử, có yếu tố đồng thoại (truyện loài vật),…
Sự phong phú của truyện ngắn cũng tương ứng với sự phong phú của tiểu thuyết, thậm chí sáng tác truyện ngắn đều hơn so với sáng tác tiểu thuyết. Và, sẽ là không quá lời khi cho rằng, trong nền văn xuôi Việt Nam, thể loại truyện ngắn có bề dày truyền thống và đạt nhiều thành tựu hơn thể loại tiểu thuyết.
Quan sát sự hình thành và phát triển của truyện ngắn hiện đại Việt Nam, thấy có hai
chặng đường chính sau đây:
1) Chặng sinh thành: cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đến 1930
2) Chặng phát triển: từ 1930 đến 1945
Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản là đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) Việt Nam hiện đại đầu tiên viết theo kiểu Tây phương. Vì Nguyễn Trọng Quản đã có điều kiện tiếp xúc với văn học Pháp từ trước 1890. Xuất hiện vào cuối những năm 80 của thế kỉ XIX, Truyện Thầy Lazaro Phiền là một hiện tượng quá mới mẻ đối với công chúng văn học miền Nam. “Truyện Thầy Lazaro Phiền có phần nào trở thành “con chim lạ từ phương Tây đáp xuống một vùng đất còn vắng bóng đồng loại” và “nổi lên như một ốc đảo chơi vơi vào nửa sau thế kỷ XIX không riêng ở Nam Kì mà ở cả Việt Nam” [45, tr.303].
Trong chặng “sinh thành” truyện ngắn Việt Nam hiện đại, phải kể đến vai trò nổi bật của các nhà văn Nguyễn Trọng Quản, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tường Tam…
Từ 1917 đến 1924, trên Nam Phong nổi lên chùm đoản thiên tiểu thuyết của Nguyễn Bá Học (9 truyện ), Phạm Duy Tốn (3 truyện), Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng (Vì nghĩa
quên tình: 7 truyện, năm 1921; Anh hàng phở lấy cô đầu: 8 truyện, năm 1928). Đây là những truyện ngắn thời kì đầu của các khuynh hướng hiện thực phê phán, lãng mạn thoát ly (Phạm Duy Tốn, Tản Đà).
Nguyễn Bá Học vốn là một nhà nho, văn chương của ông dùng nhiều chữ Hán, đầy rẫy tính chất biền ngẫu, du dương. Những tác phẩm của ông mang khuynh hướng hiện thực đôi khi lẫn với khuynh hướng đạo đức. Một cảnh gia đình nêu cao lòng yêu thương đùm bọc giữa vợ chồng; Câu chuyện gia tình đả kích thói cờ bạc rượu chè; Cô Chiêu Nhì chỉ trích tính xa hoa, lười biếng, ỷ lại; truyện ngắn có giá trị nhất của Nguyễn Bá Học là Câu chuyện một tối của người tân hôn (1921).
Phạm Duy Tốn ảnh hưởng của văn Pháp nhiều, ông viết những truyện ngắn như: Con người Sở Khanh, Bực mình, Nước đời lắm nỗi… Nổi tiếng nhất là Sống chết mặc bay (1918). Tác phẩm thuật về một chuyện vỡ đê: quan huyện và nha lại đi hộ đê đóng trong một ngôi đình kiên cố và ung dung nhàn nhã đánh tổ tôm. Trong lúc đó, nhân dân đói khát đang ra sức vật lộn với nước. Nhưng sức nước quá mạnh, đê vỡ. Có người vào báo, quan cứ mặc kệ vì quan đang mê mải theo ván bài.
Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) trước khi thành lập Tự lực Văn đoàn và chủ trương Phong Hóa, Ngày Nay đã viết cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Riêng về truyện ngắn, thời gian này ông có hơn chục tác phẩm, sau được in chung trong tập Người quay tơ. Về tư tưởng, tập truyện vừa có khuynh hướng hiện thực (Nô lệ), vừa có khuynh hướng lãng mạn (Giấc mộng Từ Lâm), lại có cả khuynh hướng yêu nước (Người quay tơ). Xét trên nhiều phương diện, nhất là về kĩ thuật, hình thức, tác giả luận văn xem đây là một hiện tượng và là bước chuẩn bị quan trọng cho nội dung, phương thức tự sự của Nhất Linh và Tự lực văn đoàn sau đó không lâu.
(Tiếc rằng nhiều người đánh giá chưa thích đáng về ý nghĩa lịch sử các truyện ngắn
này, từ phương diện xây dựng thể tài.)
của các nhà văn thuộc cả hai khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa và hiện thực phê phán.
Giữ vai trò nổi bật ở khuynh hướng thứ nhất của quá trình phát triển truyện ngắn – khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa – là các nhà văn: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn, Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao, Xuân Diệu…
Giữ vai trò nổi bật ở khuynh hướng thứ hai – khuynh hướng hiện thực phê phán – là các nhà văn: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Bùi Hiển, Tô Hoài, Kim Lân, …
Năm 1930, Tản Đà mở mục Việt Nam nhị thập thế kỉ Xã hội ba đào kí trên Annam tạp chí. Từ 1930 đến 1932, Nguyễn Công Hoan viết 24 truyện ngắn, trong đó có 20 truyện đăng trên mục Xã hội ba đào kí (chiếm hơn một nửa tổng số truyện ngắn đăng trên mục này). “Nguyễn Công Hoan trở thành một nhà văn sáng giá những năm đầu thập niên 30 thế kỉ
Trong chặng “phát triển” của truyện ngắn Việt Nam trước 1945, phải kể đến vai trò
trước, là người cắm ngọn cờ đầu của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong lĩnh vực truyện ngắn.” [37, tr.289].
Nguyễn Công Hoan được xem là người đầu tiên viết truyện ngắn theo khuynh hướng hiện thực phê phán và sớm đạt được thành tựu đáng được ghi nhận. Các tập truyện ngắn có giá trị của ông là Ngựa người người ngựa (1934), Kép tư bền (1935)… Nhìn thẳng vào hiện thực, bằng tiếng cười trào phúng, Nguyễn Công Hoan phơi ra mặt trái của xã hội đầy bất công thối nát, kẻ giàu phè phỡn, vô đạo, còn người nghèo thì bị ức hiếp và đói khổ cùng cực. Riêng tập Kép tư bền, gồm 15 truyện ngắn sáng tác trong khoảng 1929 – 1935, đã gây tiếng vang lớn, được Hải Triều biểu dương nhiệt liệt, coi tập truyện này là “tác phẩm thuộc về trào lưu tả thực xã hội của nước ta”.
Tiếp đó là đóng góp của hàng loạt tác giả hiện thực phê phán.
Vũ Trọng Phụng tuy chủ yếu là cây bút tiểu thuyết, song các truyện ngắn của ông cũng đặc sắc và giàu ý nghĩa phê phán hiện thực (Bộ răng vàng, Một đồng bạc, Bà lão lòa…). Nguyên Hồng cũng có nhiều truyện ngắn viết theo cảm quan hiện thực xuất sắc, cảm động (Mợ Du, Con chó vàng, Miếng bánh,…). Bùi Hiển viết nhiều truyện ngắn đặc sắc về hiện thực đời sống dân quê ở một làng chài thuộc dải đất miền trung (Nằm vạ, Ma đậu, Chiều sương).
Nhịp độ phát triển về lượng của truyện ngắn quốc ngữ cũng mau lẹ khẩn trương. Theo thống kê trong Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (Vũ Tuấn Anh – Bích Thu, Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam; NXB Văn học, H., 2001) thì trong khoảng từ 1933 đến 1945, truyện ngắn xuất bản trên phạm vi cả nước có 51 tập (540 đơn vị tác phẩm).
Ở trên, luận văn đã nói đến sự phong phú đa dạng về tính khuynh hướng và liệt kê cá khuynh hướng ấy. [“Có khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa (chủ yếu thuộc khu vực văn xuôi lãng mạn), có khuynh hướng hiện thực (chủ yếu thuộc khu vực văn học hiện thực phê phán); có khuynh hướng thuyết lý đạo đức, khuynh hướng luận đề, khuynh hướng hiện thực xã hội, khuynh hướng hiện thực tâm lý,… Về hình thức kĩ thuật tự sự, có khuynh hướng viết ngắn, có khuynh hướng viết dài, tiếp cận với truyện vừa, có tổng hợp kĩ thuật của tiểu thuyết, có yếu tố huyền thoại kì ảo, có yếu tố lịch sử, có yếu tố đồng thoại (truyện loài vật),…”] . Đến đây phải nói rõ hơn rằng, sự phong phú đa dạng về khuynh hướng này chủ yếu bộc lộ ở chặng “phát triển” của truyện ngắn quốc ngữ Việt Nam (1930-1945). Và, trong sự tương tác thể loại, còn đáng ghi nhận sự phong phú về mặt loại hình của truyện ngắn: truyện ngắn “trữ tình hóa” (tiêu biểu là truyện của Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh), truyện ngắn “kịch hóa” (tiêu biểu là truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Pụng), truyện ngắn “tiểu thuyết hóa” (tiêu biểu là các truyện của Nam Cao như Đời thừa, Trăng sáng, Chí Phèo, Nửa đêm,…). Trong khuynh hướng “trữ tình hóa”, các truyện ngắn trong tập Chân trời cũ của Hồ Dzếnh lại có một dòng chảy riêng: truyện ngắn tự truyện.
Riêng sáng tác của Tự lực văn đoàn đã có 16 tập truyện ngắn (151 đơn vị tác phẩm). Thạch Lam xuất bản 3 tập (33 truyện) và khoảng 17 truyện ngắn mới chỉ đăng báo. Nhất Linh xuất bản 6 tập, và Khái Hưng xuất bản 7 tập cùng rất nhiều truyện ngắn đăng báo khác.
1.2. Truyện ngắn – một bộ phận sáng tác quan trọng và có thành tựu đáng ghi nhận trong sự nghiệp văn học của Nhất Linh, Khái Hưng
1.2.1. Tự Lực Văn Đoàn như là một tổ chức văn học
Tự Lực Văn Đoàn là một tổ chức văn học hiện đại, được thành lập và hoạt động khá hiệu quả, trong vòng một thập niên (1932-1942), có thành tựu và ảnh hưởng lớn sự phát triển của văn học hiện đại Việt Nam, nửa đầu thế kỉ XX. Tự Lực Văn Đoàn có tôn chỉ, mục đích riêng, có nhà in riêng (Đời Nay) cùng cơ quan ngôn luận riêng (Phong Hóa, Ngày Nay).
Tự Lực Văn Đoàn gồm 7 thành viên chính thức: Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam), Trần Khánh Giư (Khái Hưng), Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu), Nguyễn Thứ Lễ (Thế Lữ), Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ). Cùng với các thành viên chính thức nói trên, Tự Lực Văn Đoàn tập hợp được cả một đội ngũ cộng tác viên chọn lọc, có uy tín trên nhiều lĩnh vực sáng tác nghệ thuật: văn, thơ, nhạc, họa.
Cho đến nay, các nghiên cứu về TLVĐ của các nhà Việt học đã có bề dày và khá
thống nhất. Luận văn này không nhắc lại nữa, chỉ xin lưu ý mấy điểm sau:
Thứ nhất. Cần phải nói ngay rằng, hoạt động của TLVĐ trên thực tế đã vượt ra ngoài khuôn khổ, phạm vi văn học. Về thực chất là một tổ chức văn hóa xã hội, hoạt động văn học của TLVĐ vừa là phương tiện, vừa là nội dung.
Thứ hai. Các đánh giá về đóng góp của văn chương LLVĐ trước đây vì nhiều lý do khách quan và chủ quan còn có nhiều điểm bất hợp lý, thậm chí bất công. Về sau có được điều chỉnh. Nhà văn TLVĐ được nhìn nhận từ phương diện giai cấp, thế giới quan tiểu tư sản: “Họ là những nhà văn tiểu tư sản thức thời, có tinh thần dân tộc, có một lý tưởng thực tiễn, là dựa vào những điều kiện cụ thể để hoạt động và làm ăn bằng văn học. Hoạt động và làm ăn bằng văn học có nghĩa là viết lách được thường xuyên về đề tài xã hội, và xuất bản được, để có thể lự lực sống bằng lao động nghệ thuật của mình, không phải ngửa tay lĩnh lương hằng tháng của chính quyền Pháp. Muốn thế, phải biết thị hiếu của lớp độc giả mới,
Mặc dầu khó lòng tách bạch hoạt động văn hóa xã hội và hoạt động văn học của nhóm – cũng như khó lòng mà tách bạch được trong các sáng tác văn học của các nhà văn trụ cột, các thành viên chính thức của TLVĐ, đâu là phương tiện, đâu là nội dung hoạt động. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả sẽ cố gắng tập trung vào hoạt động sáng tác của tổ chức này từ góc độ một tổ chức văn học. Nói cách khác, sẽ chỉ nhìn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, như là những người sáng tác văn học, những nhà văn.
từng lớp tiểu tư sản thành thị, là lớp độc giả đông đảo nhất đương thời, nếu không nói là duy nhất. […] Người ta đã chán những thở than não nuột, chán cái bệnh thời đại “không ốm mà rên”. Người ta muốn vui lên tí chút dù hoàn cảnh chẳng có gì đáng vui. Người đọc lại cũng đã tiêm nhiễm ít nhiều tinh thần, tư tưởng Âu Tây, thích thú tự do cá nhân, đặc biệt trong lĩnh vực tình yêu. Công kích phong thái sinh hoạt trong các gia đình phong kiến, lên án cái không kí đài các, trưởng giả, cái tôn ti trật tự cứng nhắc Khổng Mạnh, nếu lại biết dùng một lối văn nhẹ nhàng, thanh thoát, dễ đọc, dễ hiểu, thì chắc chắn sẽ có được những tác phẩm hợp với khẩu vị người đọc. Cho nên tôn chỉ của TLVĐ là “lúc nào cũng trẻ, yêu đời. Không có tính cách ttrưởng giả quí phái… Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nhữa. Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam”. Đóng góp của TLVĐ là ở đấy mà hạn chế cũng là ở đấy.” [179, tr.21]
Song các đánh giá nhận định vẫn nặng thiên kiến và vẫn còn quá dè dặt, chưa thỏa đáng. Xu hướng chung vẫn cho rằng TLVĐ là tổ chức văn học “đóng góp ít, hạn chế nhiều” [179, tr.21], và, thường không đặt hoạt động văn chương của các thành viên TLVĐ trong một bối cảnh rộng hơn: hoạt động văn hóa – xã hội của nhóm. Do vậy chưa thể đánh giá hết được tác mức độ, chiều hướng tác động đến công chúng đương thời của tổ chức văn học này.
Lật lại Tôn chỉ của Tự lực văn đoàn, gồm mười điểm, sẽ thấy cần phải có cái nhìn thỏa
đáng hơn đối với hoạt động văn học trong toàn bộ hoạt động của họ:
1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có giá trị văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và cho xã
hội ngày một hay hơn lên.
3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho
người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có giá trị phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6. Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân . Không có tính cách trưởng giả quí phái.
7. Trọng tự do cá nhân.
8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9. Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam.
4. Dùng một lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.
10. Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.
(Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, cuốn 3) [136]
Nhìn vào “mười điều tâm niệm” trên đây, sẽ dễ dàng nhận thấy, hoạt động của TLVĐ không chỉ khuôn hẹp trong sáng tác, truyền bá văn chương mà còn bao hàm cả các hoạt động nhiều phương diện khác trong phạm vi văn hóa, xã hội. Các hoạt động này đều dựa trên lập trường dân chủ, dân tộc và duy tân.
Có lẽ, trong cái nhìn và quan niệm của TLVĐ, dân ta chủ yếu là dân quê, trình độ văn hóa thấp, đời sống hết sức lạc hậu, xã hội thôn quê bảo thủ, trì trệ. Do vậy phải tiến hành cải cách làm thay đổi diện mạo văn hóa Việt Nam theo tinh thần Âu hóa và dân chủ hóa. Các hoạt động cải cách văn hóa của TLVĐ được thực hiện thông qua hai hình thức: tuyên truyền (bằng báo chí, văn chương) và hành động (với một số hoạt động cụ thể như làm nhà Ánh sáng, phát chẩn,…).
Tham vọng của TLVĐ – làm một cuộc cách mạng văn hóa xã hội nhằm tạo ra một thế giới riêng có cuộc sống no đủ, văn minh, tồn tại hợp pháp trong lòng chế độ thuộc địa dưới sự dẫn dắt của những trí thức Tây học – xét đến cùng là ảo tưởng, song trên bình diện văn hóa, phong tục, họ đã tạo ra một phong trào tiến bộ, có tính dân tộc, có ảnh hưởng xã hội khá sâu đối với công chúng văn học ở các đô thị nước ta thời bấy giờ.
1.2.2. Nhất Linh, Khái Hưng – hai cây bút chủ lực của văn xuôi nghệ thuật Tự Lực Văn Đoàn
Ở Việt Nam, rất nhiều nhà thơ đồng thời là người viết tiểu thuyết, truyện ngắn. Thế Lữ chẳng hạn, ông là một nhà thơ, nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của ông không thể không nói đến các tập truyện ngắn, truyện vừa. Tuy nhiên, có lẽ ít có ai gọi Thế Lữ là một tác giả truyện ngắn. Đơn giản, vì số lượng lẫn chất lượng tác phẩm truyện ngắn của ông chưa đạt được cái ngưỡng để có thể xem ông như là một tác giả truyện ngắn.
1.2.2.1. Nhất Linh và vị trí của truyện ngắn trong sáng tác văn học của ông
Tên thật là Nguyễn Tường Tam, sinh năm 1906 (có tài liệu ghi 1905) anh trai của Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Nhất Linh là thủ lĩnh và cũng là nhà văn trụ cột của TLVĐ. Hai em ông, Thạch Lam, Hoàng Đạo cũng là những văn nhân nổi tiếng đã đóng góp rất nhiều cho Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tường Bách cũng đã viết phụ giúp cho Tự Lực Văn Đoàn.
Đúng như nhiều tài liệu đã nói, Nhất Linh là một trí thức Tây học; sau nhiều năm du học ở Pháp, trở về Tổ quốc (1930) với tấm bằng cử nhân khoa học, ông mua lại trường Nguyễn Văn Tòng, sau đổi tên là trường Thăng Long (École Thăng Long). Năm 1932, ra báo Phong Hoá rất hài hước, chế riễu hủ tục bán rất chạy, mấy năm sau bán lại trường cho một
Nhất Linh, Khái Hưng thì không phải vậy. Cả số lượng lẫn chất lượng truyện ngắn trong sự nghiệp văn chương của hai ông đều cung cấp cho ta những cơ sở đáng tin cậy để xem hai nhà văn này là các tác giả truyện ngắn.
nhóm giáo sư hùn hợp. Tờ Phong Hóa ra từ 1932 đến 1936 thì bị đóng cửa nhưng tờ Ngày Nay vẫn còn hoạt động tiếp tục sự nghiệp văn hóa của văn đoàn. Văn đoàn đã thành lập riêng một nhà xuất bản để in những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn của họ… Hoạt động của TLVĐ đã góp phần làm giàu cho văn hóa nước nhà, dùng văn An Nam, tôn trọng tự do cá nhân, chỉ trích những phong tục lỗi thời, nhằm cải tạo cách mạng xã hội.
Sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh được bắt đầu từ năm 1924 với tác phẩm đầu tiên là Nho phong (1926-27) và kết thúc là Dòng sông Thanh Thủy năm 1961. Dẫu có một khoảng thời gian khá dài từ năm 1939 đến 1949, Nhất Linh không sáng tác nhưng ông cũng đã để lại một sự nghiệp văn học khá lớn. Có thể kể ra đây những sáng tác của Nhất Linh:
Về tiểu thuyết gồm có:
2) Nho phong (1927)
3) Gánh hàng hoa (viết chung với Khái Hưng, 1934)
4) Đời mưa gió (viết chung với Khái Hưng, 1934)
5) Nắng thu (1934)
6) Đoạn tuyệt (1934 – 1935)
7) Lạnh lùng (1935 – 1936)
8) Đôi bạn (1936 – 1937)
9) Bướm trắng (1938 – 1939)
10) Xóm cầu mới (1949 – 1957) trường thiên (chưa hoàn thành).
11) Dòng sông Thanh Thủy (1960 – 1961), trường thiên tác phẩm cuối cùng.
Truyện ngắn của Nhất Linh gồm có các tập:
2) Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng, 1934)
3) Tối tăm (1936)
4) Hai buổi chiều vàng (1937)
5) Thế rồi một buổi chiều (1937)
6) Mối tình chân (1948-1950)
7) Thương chồng (1949-1950)
1) Người quay tơ (1927)
Như vậy, với gần bốn mươi năm sáng tác, Nhất Linh đã để lại 10 cuốn tiểu thuyết và 7 tập truyện ngắn cùng với 1 tiểu luận (Viết và đọc tiểu thuyết). Chừng ấy tác phẩm ở những
giai đoạn sáng tác khác nhau, sẽ cho ta thấy, bên cạnh những sáng tác tiểu thuyết, Nhất Linh còn là một tác giả truyện ngắn với số lượng tác phẩm đáng kể.
Trên đại thể, truyện ngắn Nhất Linh chưa tạo được một phong cách nghệ thuật thật rõ
nét, song cũng có nhiều thể nghiệm và đóng góp đáng quý, không thể phủ nhận.
1.2.2.2. Khái Hưng và vị trí của truyện ngắn trong sáng tác văn học của ông
Khái Hưng tên thật là Trần Giư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần Khánh Giư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trần. Ông sinh năm 1896 – một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897 – trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng.
Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, một thời gian Khái Hưng dạy học ở trường tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh.
Theo Nguyễn Vỹ trong “Văn Thi Sĩ Tiền Chiến”, Khái Hưng “Người gầy ốm, đôi má hơi cóp và nước da hơi tái, nhưng nụ cười rất tươi. Nụ cười ngụ nét hóm hỉnh, nhưng hiền lành khả ái, […] không trào lộng như Nguyễn Tường Tam”. Về tính tình “Khái Hưng cũng không tự kiêu tự đắc, tính điềm và tao nhã... Ít nói, tính điềm đạm, nhưng thỉnh thoảng khôi hài đôi chút, và không làm mích lòng ai”. Về sáng tác, Khái Hưng “thẳng thắn nhìn nhận rằng anh viết tiểu thuyết theo nhu cầu và điều kiện văn nghệ của một thời đại mà thôi”. Vì vậy, nhà giáo, nhà văn đi vào con đường “tiểu thuyết luận đề” nhằm khai phá dòng sinh khí mới trong văn học qua lăng kính xã hội, nêu ra thực trạng trong cuộc sống bi đát của xã hội với nhân tình thế thái, với cảnh đời ô trọc, phong tục, tập quán cổ hủ trong thời điểm phong kiến và thực dân xâm phạm nhân phẩm, phẩm cách, giá trị cao quý đích thực của nhiều tầng lớp nổi trôi, trầm luân trong cuộc sống.
Tiểu thuyết:
1. Hồn bướm mơ tiên (1933).
2. Đời mưa gió (viết chung với Nhất Linh, 1933)
3. Gánh hàng hoa (viết chung với Nhất Linh,1935)
4. Nửa chừng xuân (1936)
5. Trống mái (1936)
6. Gia đình (1936)
7. Tiêu sơn tráng sĩ (tiểu thuyết lịch sử - 1937 – 2 tập)
Các tác phẩm chính của Khái Hưng:
8. Thoát ly (1938)
9. Hạnh (1938)
10. Thừa tự (1938)
11. Đẹp (1940)
12. Thanh Đức (1942)…
Các tập truyện ngắn:
Khái Hưng cũng là một cây bút truyện ngắn xuất sắc với các tập:
1) Anh phải sống (viết chung với Nhất Linh, 1934)
2) Tiếng suối reo (1937)
3) Đợi chờ (1939)
4) Đội mũ lệch (1941)
5) Cái ve (1944)
6) Hạnh (?)
Ngoài ra, ông còn một số truyện ngắn khác mới chỉ đăng báo, chưa in thành tập.
Có thể thấy, văn chương Khái Hưng ngoài tiểu thuyết (12 cuốn), thì truyện ngắn (6 tập) cũng là một thế mạnh của nhà văn. Hầu như tác phẩm của ông thường xoáy vào chủ đề: đề cao tình yêu tự do, chống lễ giáo phong kiến, một phần cải cách xã hội. Truyện của ông phần kết bao giờ cũng gây cảm giác bâng khuâng, man mác cho bạn đọc.
Như vậy, Khái Hưng không chỉ là nhà tiểu thuyết tài hoa, ông còn là một tác giả truyện ngắn dồi dào sức lực, thường xuyên có truyện in trên Phong Hóa, Ngày Nay… Viết về Khái Hưng, các nhà văn học sử đều đã dành riêng ít trang để mô tả ông như một tác giả truyện ngắn. Theo Vũ Ngọc Phan: “Đọc những truyện ngắn của Khái Hưng, tôi nhận thấy nghệ thuật của ông là tìm cho ra những ý nghĩa đau đớn hay khoái lạc của mọi việc ở trên đời, rồi ghi lại bằng những lời văn gọn gàng, sáng suốt, làm cảm người ta bởi những việc mình dàn xếp, mình làm cho khi nổi khi chìm, chứ không phải cám dỗ người ta bởi những thuyết mà mình tưởng là cao cả” [141, tr.773]; còn với Phạm Thế Ngũ thì: “Đây là một cây bút đi nhặt nhạnh chuyện người, một thứ gương pha lê hướng ra cuộc đời lắm vẻ và dung
Về truyện ngắn của Khái Hưng, Vũ Ngọc Phan nhận xét: Khái Hưng viết truyện ngắn tuyệt hay, linh hoạt và cảm người ta hơn là truyện dài. Vì nó vui tươi và rộng mở. Khái Hưng quan sát lão luyện và dùng ngòi bút tài tình. Truyện ngắn Khái Hưng có một đặc biệt là ông tìm ra ý nghĩa của mọi việc trên đời, dùng ngôn ngữ giản dị trong sáng ghi lại, làm cho người ta cảm nhận chứ không gò ép cám dỗ người ta bằng lý trí.
nạp một cách trung thực và khoan hòa những tâm tư và hình thái của một xã hội chung quanh ông” [136, tr.482]
1.2.3. Nhìn chung về truyện ngắn của Khái Hưng, Nhất Linh
1.2.3.1. Việc in lại các tác phẩm của Tự Lực Văn Ðoàn, ở ngoài nước, từ trước đến nay chưa bao giờ ngừng, nhưng đối với trong nước bây giờ trở thành một phong trào: Nhất Linh, Khái Hưng và Tự Lực Văn Ðoàn đã được đánh giá lại. Có những tuyển tập Khái Hưng, Nhất Linh, thu thập những bài viết của nhiều tác giả khác nhau, trong Nam, ngoài Bắc, trước và sau 1975, tựu trung hầu như tất cả đều đồng ý công nhận giá trị của Nhất Linh – Khái Hưng và Tự Lực Văn Ðoàn trong công việc cải tạo xã hội, giải phóng phụ nữ, đặt móng cho một nền văn học quốc ngữ mà trước và sau họ chưa có một văn đoàn nào đạt được ảnh hưởng sâu xa trong văn học và xã hội như vậy. Tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn trên và trước hết nhằm truyền tư tưởng chống đối nho phong hủ bại mà suốt hàng ngàn năm đã nhúng xã hội Việt Nam vào u mê tăm tối.
Khi nói đến những đóng góp của nhóm Tự Lực văn đoàn thì phải kể đến công lao của Nhất Linh, người được coi là “linh hồn của nhóm”. Trong vai trò là người sáng lập, Nhất Linh điều hành chính toàn bộ hoạt động của nhóm và hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay – cơ quan ngôn luận chính của văn đoàn.Với khả năng lãnh đạo và tổ chức, Nhất Linh đã thu hút được rất nhiều văn nghệ sĩ tài năng tham gia cộng tác cùng văn đoàn.
1.2.3.2. Để nhận thấy trên đại thể nét riêng và vị trí vững chắc của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong văn xuôi nghệ thuật TLVĐ, trước khi đi vào tìm hiểu xu hướng cách tân tư tưởng và nghệ thuật trong bộ phận sáng tác này, xin hãy đọc đối chiếu ba tác phẩm cùng viết về đề tài “cô hàng nước Việt Nam” của hai ông (Nhất Linh: truyện ngắn Tiếng kêu thương, Khái Hưng: truyện ngắn Cô hàng nước) và nhà văn Thạch Lam (Hàng nước cô Dần – trong tập tùy bút Hà Nội 36 phố phường).
Với tư cách là một nhà văn, Nhất Linh là một cây bút chủ chốt của nhóm Tự Lực văn đoàn. Ông sáng tác nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, viết phê bình, luận chiến văn học, cả vẽ tranh. Truyện ngắn của Nhất Linh chiếm một số lượng đáng kể. Mới lạ và mạnh mẽ, sáng tác của ông đã “vạch ra một con đường riêng”, thể hiện rõ nhất đường lối, tôn chỉ của nhóm Tự Lực văn đoàn. Những tác phẩm chống lại cái thủ cựu phong kiến của Nhất Linh đã mạnh mẽ lan tỏa trong giới tiểu tư sản, và từ đó mỗi ngày một khuếch tán trong nhiều tầng lớp thanh niên trí thức. Giới này nhận ra rằng những khung cảnh mà họ sống bấy lâu ràng buộc tâm hồn họ một cách vô lý và bất công đến nỗi tư tưởng và ý thức xã hội của họ không thể nào thoát ra khỏi lũy tre làng kiên cố hàng ngàn năm qua. Như vậy, cùng với Khái Hưng, ông là cây bút tiêu biểu của nhóm này. Đồng thời, những vấn đề mà ông đã đặt ra trong tác phẩm của mình có ý nghĩa xã hội và văn học không nhỏ, nó đã góp phần vào hiện đại hóa thể loại truyện ngắn trong nửa đầu những năm 30 của thế kỷ này.
Vẫn là cô hàng nước ấy, song, với Khái Hưng thì đó là một nhân tố mới của đời sống – một cô hàng nước mang cốt cách trí thức, “tân thời”; dù cô có phần hơi lạc lõng ở chốn làng quê, song cô chính là người phát ra cái tín hiệu đáng lạc quan của cuộc sống. Với Nhất Linh, cô hàng nước là một chứng nhân bi kịch của một đời sa sút, bi thương – một sự sa sút bi thương như được báo trước, như định mệnh nghiệt ngã và chua xót, nhưng đồng thời cũng là hình ảnh để nhà văn dóng lên tiếng nói cảnh tỉnh bất bình, không phải là tiếng nói con người chung chung mà là tiếng nói của cái tôi phụ nữ – và cụ thể là “lời một người đàn bà bán hàng nước”. Với Thạch Lam, cô hàng nước ấy lại là một kết tinh cho vẻ đẹp của 36 phố phường Hà Nội, cho phong vị quê hương Việt Nam.
Cả ba nhân vật đều đáng mến, đáng trọng, song nhân vật của Khái Hưng thì vừa là mĩ nhân vừa là một tài nữ tân thời. Nhân vật của Nhất Linh chỉ là nạn nhân của cuộc đời “lên voi xuống chó”. (Cả hai đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, của hư cấu nghệ thuật). Còn, nhân vật của Thạch Lam, thì giản dị chỉ như là một hình ảnh thân thương – một hình ảnh không thể thiếu trong cuộc sống gồm đủ vui buồn thường nhật của người Việt Nam ở khắp các làng quê lẫn các phố phường.
Là những tác phẩm hư cấu, Cô hàng nước của Khái Hưng và Tiếng kêu thương của Nhất Linh, hòa chung vào tiếng nói nồng nhiệt của văn chương Tự Lực Văn Đoàn hồi bấy giờ: cải thiện dân trí, cải cách nông thôn và giải phóng phụ nữ. Ở đây, hư cấu là một ưu thế giúp nhà văn tác động mạnh mẽ đến cái “não trạng” đáng buồn của cả xã hội hay những định kiến, những nếp nghĩ đã thành xơ cứng của người đọc.
Sau Cô hàng nước của Khái Hưng, Tiếng kêu thương (lời một người đàn bà bán hàng nước) của Nhất Linh là một sự lật trở, bổ sung cần thiết có tác dụng trực tiếp hay gián tiếp tránh cho người đọc cái nhìn đơn giản một chiều về cuộc sống, cũng như số phận người phụ nữ tân học đương thời – hai nhân vật nữ này đều là người tân học – qua hình ảnh hư cấu về những “cô hàng nước”.
Cô hàng nước (Khái Hưng) là truyện ngắn xoay quanh cuộc gặp gỡ tình cờ của một chàng trí thức từ thành phố về với một cô thôn nữ bán hàng nước ở một làng quê xa. Cô hàng nước này cũng có học thức, xinh đẹp, thông minh, hóm hỉnh, quan niệm sống tự do phóng túng. Càng trò chuyện càng thấy hòa hợp với nhau và đem lòng yêu nhau. Trong truyện ngắn này, nhân vật của Khái Hưng là hình ảnh một cô hàng nước “tân thời” hiện thân cho những cô gái mới của văn chương đầy mơ mộng của Tự Lực Văn Đoàn trong chặng đầu (1932- 1935). Nhà văn say mê khám phá cái đời “huyền bí” của một cô hàng nước tân học chốn thôn quê, theo cái nhìn của Ban, một trí thức thông minh, đa tình và nhạy cảm.
Là tác phẩm phi hư cấu, Hàng nước cô Dần của Thạch Lam đơn giản chỉ là bức chân dung khắc họa những nét đẹp bình dị, đằm thắm, có thực mà dễ khuất lấp, để đưa vào “bảo tàng” văn hóa Việt Nam, “bảo tàng” văn hóa của Hà Nội băm sáu phố phường. Đây chỉ là bức chân dung bé nhỏ, mà nếu thiếu nó, Hà Nội phồn hoa hay miền quê êm ả không có sự đảo lộn gì ghê gớm, nhưng sẽ là một sự trống vắng đáng tiếc vô cùng, trống vắng những “hạt bụi vàng” làm nên cái lấp lánh của phong vị đời sống Việt Nam.
Để thể hiện được một vẻ đẹp như thế, trong một cái nhìn như thế, Khái Hưng tập trung quan sát, miêu tả hành vi, ngôn ngữ, đặc biệt là giọng nói, cách nói của cô hàng nước. Đây là một sự lựa chọn, xử lý kỹ thuật thích đáng và đầy ý nghĩa. Điều gì giúp người ta dễ dàng nhận diện một thiếu nữ chưa quen biết là cô gái mới, người tân học giữa đám đông phụ nữ lao động lam lũ tất bật nếu không phải là hành vi, phong thái, giọng nói riêng biệt của cô ta?
Dĩ nhiên muốn khắc họa một cô hàng nước thôn quê thì phải chú ý đến ngôi hàng của cô: cánh đồng, con đường quê, túp lều, cái chõng, những chiếc bát uống nước, không khí khách ra, khách vào hàng,… Thiếu những thứ đó thì nhà văn không thể dựng lên được một bối cảnh thích hợp. Song đó chưa phải là dụng công và hứng thú nghệ thuật chủ yếu. Lựa chọn quan trọng nhất của Khái Hưng khi viết Cô hàng nước là: tập trung làm nổi nét riêng biệt trong cách trò chuyện, đối đáp, bày tỏ ý kiến của cô. Vì thế, nhà văn phải tập trung vào việc sáng tạo ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong những tình huống thích hợp. Vốn là nhà văn có tài quan sát và dựng đối thoại, Khái Hưng đã rất thành công trong lựa chọn kỹ thuật này. Nhìn chung, cách dựng đối thoại của Khái Hưng khá tự nhiên, tươi tắn, linh hoạt, lột tả được tính cách; khi cần sử dụng cả các nhận xét mang tính “siêu ngôn ngữ” – đúng như một nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Thành Thi khi bàn đến ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn này [168].
Giọng nói của cô hàng nước ngay từ đầu đã khiến người ta phải chú ý: “một câu mời giọng trong trẻo khiến Ban thò vội đầu nhìn vào hàng”. Sau đó là những cuộc thoại mà lời thoại của cô hàng nước luôn mang đến bất ngờ, thậm chí khiến người nghe phải giật mình vì vốn hiểu biết tân học, khiếu hài hước và thái độ tự tin, quyết đoán của cô hàng nước trong các cuộc thoại.
“Ban nhìn cô hàng thấy cô đang vuốt lại món tóc mai và sửa lại cái khăn vuông thêu
hoa.
- Cô tú lấy ông tú?
Điềm nhiên cô hàng đáp:
- Nếu thế thì phải gọi bà tú chứ?
- Hay cô…đỗ?
- Đỗ “bắc”?
Sự kinh ngạc của Ban lên tột điểm. Mơ màng, vì chàng có một tâm hồn lãng mạn, Ban tưởng tượng sống trong cảnh huyền ảo thần tiên như nhân vật trong truyện Liêu trai chí dị. Một cô hàng nước có học thức? Một cô gái quê có Tây học?
Ví dụ, sau đây là một tình huống: nghe người làng gọi cô hàng nước là “cô Tú”, cũng như nhân vật Ban – một trang thư sinh “dọc đường gió bụi” – người đọc muốn biết hai chữ ấy nghĩa là thế nào. Khái Hưng dựng lên một cuộc thoại hé lộ nhiều điều thú vị, bất ngờ từ những “tham thoại” của “cô hàng nước”:
Lúc đó chàng ngắm cô hàng, sắc đẹp tăng bội phần, nước da bánh mật đã hây hây nhuốm mầu hồng và cặp mắt cặp môi cho chí hai đồng tiền bên má, chàng cảm thấy có giấu cái thông minh kín đáo mà tinh quái ở trong.
Nhưng cô hàng nói tiếp:
- Đỗ “bắc” thì quả không; ở đây họ coi tôi là một con chim lạ, vì tôi biết, biết quốc
ngữ, nên họ gọi đùa tôi là cô tú đó đấy thôi. Nhưng ông thì chắc là ông Tú?
- Sao cô biết?
- Đoán có đúng không, thưa ông?
- Đúng lắm, thưa cô tú.
Cô hàng vờ nghiêm trang.” [59, tr. 45-46].
Những điều bất ngờ thú vị ấy sẽ được cắt nghĩa đầy đủ hơn ngay sau đó khi cô chủ
hàng nước và người khách mới quen “đem chuyện riêng kể cho nhau nghe”.
Truyện ngắn Tiếng kêu thương của Nhất Linh – như cái tên của nó – là câu chuyện về
một cuộc đời sa sút và bất hạnh trong hôn nhân.
Như vậy nhân vật của Nhất Linh ở đây là nhân vật bi kịch: một phụ nữ trẻ không cam lòng chịu đựng sự thua thiệt, bất hạnh cuộc đời bất công, vô lý dành cho mình. Lựa chọn có ý nghĩa của Nhất Linh là hình thức tự thuật với điểm nhìn nội quan của nhân vật “người đàn bà bán hàng nước”. Tác phẩm từ đầu đến cuối là một lời độc thoại: “lời người đàn bà”, véo von như tiếng sáo, như lời than khóc của chính tâm hồn chị và những nạn nhân chung quanh chị (anh bạn tên Lương, người chồng tên Đàn). Cái tôi của nhân vật người đàn bà bán hàng nước trong truyện này không mạnh mẽ táo bạo như cô Tuyết (Đời mưa gió), cô Nhung (Lạnh lùng) trong tiểu thuyết của ông, song cũng chứa chất bao nhiêu nỗi niềm, tiềm ẩn những phản ứng mạnh mẽ đối với số phận.
Ở đây, cách chọn vai kể, điểm nhìn của Nhất Linh kéo theo cách lựa chọn một số thủ pháp kể chuyện tương ứng khác như thủ pháp đối lập, thủ pháp láy lại. Đặc biệt là cách láy
Nhất Linh để cho nhân vật tôi, người đàn bà bán hàng nước tự thuật chuyện mình trong truyện vốn là một thiếu nữ con nhà khá giả, có học. 16 tuổi cô kết hôn với một anh học trò cũng con nhà khá giả. Họ sống với nhau một quãng đời đầy đủ, sung túc. Nhưng anh chồng thất bại trên đường học vấn, sự nghiệp, thành kẻ vô công rồi nghề, sống ăn bám gia đình. Anh ta phẫn chí nghiện ngập, nướng cả gia tài vào thuốc phiện. Cả nhà lâm vào cảnh khốn khó. Người chồng phải tự kiếm tiền hút bằng đường trộm cắp. Còn người vợ phải mở một ngôi hàng nước tần tảo nhọc nhằn nuôi mẹ chồng, bản thân và những đứa con. Mỗi lần nghe ông chồng buồn tình thổi sáo, nhân vật tôi, người đàn bà bán hàng nước trong truyện tưởng như cảm nhận hết cái cảnh sống tối tăm, trụy lạc của mình và cất lên “tiếng kêu thương”. (Truyện ngắn này in trong tập Tối tăm của Nhất Linh).
lại tạo những điểm nhấn tâm trạng trước những biến thiên tai ác của cuộc đời. Đặt mình vào hoàn cảnh tâm trạng của một người đang từ cuộc sống sung túc, trưởng giả bị nhấn chìm vào trong cảnh ngộ “tối tăm”, “khốn nạn”, “trụy lạc”, mà kể cho người đọc nghe câu chuyện, cất lên tiếng kêu thương từ đáy lòng của một người đàn bà bán hàng nước, Nhất Linh láy đi láy lại một cách diết da, thê thiết âm điệu tiếng sáo bên ngoài (tiếng sáo trúc do những người đàn ông thổi lên) và tiếng sáo bên trong (tiếng lòng của cô hàng nước). Nó buộc người ta không thể không lắng nghe, chia sẻ và suy nghĩ.
Sau một đoạn mở đầu với tiết tấu nhanh: “Thuở bé, hồi tôi lên mười một, mười hai tuổi, tôi đã có cắp sách đi học, học ở một trường con trai huyện G… Tôi không có một người bạn gái nào, vì độ ấy con gái đi học còn hiếm lắm.” [39, tr.275]. Nhân vật tự thuật dẫn người đọc ngay vào cái thế giới “tăm tối” âm u của những đồng vọng trong “tiếng sáo”:
Tiếng sáo của Lương, anh bạn trẻ sa sút nghèo hèn thuở nào bỗng trở thành tiếng sáo
thời hiện tại của chồng nghiện ngập phẫn chí:
“(…) tiếng sáo não nùng như tiếng than vãn cái cảnh nghèo của con một ông Án ở trong túp lều tranh xơ xác với bà mẹ già đầu tóc bạc phơ, chiều hôm ấy đã gieo vào tâm trí non nớt của tôi một nỗi buồn chán nản và lần đầu tiên đã cho tôi cảm thấy rõ cái đau khổ của những cảnh sa sút ở đời.
Tiếng sáo ấy, tiếng sáo của một buổi chiều trong kí vãng xa xăm lúc nào cũng như văng vẳng trong đời tôi, đến nay thì cái dư thanh ấy đã biến thành tiếng sáo thực, cứ chiều chiều lại đến nỉ non trong người tôi… ngay ở trong nhà tôi mà người thổi sáo bây giờ lại là Đàn, chồng tôi.” [39, tr.276. ]
Sau khi gặp lại một người bạn thiếu thời nay thành đạt, sang trọng, người đàn bà tự
thuật trong truyện ngắn tự đặt lời nghi vấn như cất lên một “tiếng kêu thương”:
“Khi Hải lên xe đi rồi, cả ngày hôm ấy tôi như người mất hồn.
Tôi tự hỏi thế, nhưng không tìm được câu trả lời”. [39, tr.281]
Và lại vẳng nghe tiếng sáo, lại ngẫm nghĩ trong tiếng sáo:
“Chồng tôi lúc thổi sáo không biết lòng có rung động gì không, còn tôi thì khi nghe tiếng sáo tôi tưởng như là tiếng than khóc của tâm hồn tôi, tâm hồn một người đàn bà đương độ thanh xuân, đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp mà số phận đã bắt phải mãi mãi sống những ngày tuyệt vọng của cái đời trụy lạc này.
Tôi yên lặng ngồi ngắm cái cảnh nhìn đã quen mắt trước cửa hàng, cái cảnh tồi tàn đìu hiu, hình ảnh cuộc đời tôi; một bụi chuối xơ xác, mấy chiếc xe sắt mui đã tả tơi đổ bên cái cầu gỗ sơn đen, bắc ngang một con sông nước không bao giờ chảy.” [39, tr.282]
- Vì cớ gì mình lại phải sống cái đời khốn nạn như thế này?
Quả thật hình tượng “cô hàng nước Việt Nam” hiện lên trong hai tác phẩm với những đặc điểm thẩm mĩ khá phong phú đa dạng. Cô hàng nước ấy, qua tưởng tượng hư cấu của Khái Hưng, Nhất Linh nhân vật trở đã thành những số phận, những suy tư mang âm vang của các luận đề xã hội quen thuộc trong văn chương Tự Lực Văn Đoàn. Tuy nhiên, qua cái nhìn mơ mộng, bút pháp lãng mạn của Khái Hưng, nhân vật trở thành một hình tượng tươi vui, lạc quan tràn đầy sức sống; còn qua cái nhìn suy cảm, triết luận và bút pháp thiên về lột tả tâm lý nhân vật của Nhất Linh thì lại trở thành một hình tượng thấm đượm nỗi buồn nhân thế.
Điều đó giúp người đọc hiểu sâu sắc, đầy đủ hơn về một chân lý phổ quát trong sáng tạo nghệ thuật: con người và cuộc sống là muôn màu, nhà văn hãy chọn lấy một góc nhìn một mục tiêu mà sáng tác, điều quan trọng là có tác phẩm phải có tính sáng tạo, tính nghệ thuật; không gian thẩm mĩ trong văn chương nghệ thuật luôn tươi mới, sống động, song đó là sự tươi mới sống động được tạo ra không phải tùy tiện mà luôn tuân thủ những qui luật, đặc trưng thể loại và đặc điểm bút pháp của nhà văn.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Như vậy, cho dù TLVĐ hoạt động trên nhiều lĩnh vực (giáo dục, văn hóa, báo chí, chính trị, xã hội, kinh tế,...), hoạt động chủ yếu, quan trọng và có thành tựu nổi bật nhất của họ vẫn là hoạt động văn chương đặc biệt là sáng tác (làm báo, viết văn).
Trong TLVĐ Nhất Linh, Khái Hưng là hai nhà văn trụ cột, một người là thủ lĩnh văn học, một người là linh hồn nghệ thuật của nhóm. Hai tác giả này hầu như chỉ viết văn xuôi. Điều đáng lưu ý là bên cạnh việc sáng tác tiểu thuyết hai ông còn viết truyện ngắn. Và truyện ngắn Khái Hưng, Nhất Linh đều có những thành tựu đáng ghi nhận, bổ sung đáng kể cho những khiếm khuyết của tiểu thuyết.
và tiểu thuyết của hai ông.
Các chương tiếp theo sẽ tìm hiểu kĩ các đóng góp của truyện ngắn hai ông bên cạnh tiểu thuyết. Nghiên cứu truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong TLVĐ thực chất là nghiên cứu đối trọng và tương tác giữa truyện ngắn
NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG
KHUYNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG CỦA
TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
CHƯƠNG 2
Có một sự tương tác hòa phối về nội dung, cảm hứng, xu hướng, tư tưởng giữa truyện ngắn Nhất Linh với các sáng tác văn xuôi nghệ thuật, mà trước hết là tiểu thuyết của TLVĐ hay không, sự hòa phối ấy nếu có thì theo thể thức như thế nào? Nội dung chương này góp phần trả lời câu hỏi đó.
2.1. TLVĐ - từ “tôn chỉ mục đích” đến các chủ đề tiểu thuyết
2.1.1. “Tôn chỉ mục đích” – những định hướng về nội dung cảm hứng văn
chương
Trong chương trước, luận văn đã đề cập đến “Tôn chỉ mục đích” của TLVĐ (xem chương 1, mục 1.2.1. Tự Lực Văn Đoàn như là một tổ chức văn học, tr.14-16). Ở đây, để hiểu khuynh hướng tư tưởng bao trùm văn chương TLVĐ, xin nhắc lại có nhấn mạnh ở tính công khai, dứt khoát, rành mạch của “mười điều tâm niệm”.
Cốt lõi của bản “tôn chỉ mục đích” này suy cho cùng, không ngoài mấy chữ : “tân tiến” (theo mới), “dân chủ” (quyền cá nhân và ý thức công dân), “dân tộc” (cốt cách, bản lĩnh An Nam) “tự do” (thoát bỏ mọi khuôn phép, ràng buộc). Trên cái nền ấy, luận văn tìm hiểu đánh giá những nội dung tư tưởng manh tính khuynh hướng rõ rệt của tiểu thuyết, và rộng hơn, văn xuôi nghệ thuật TLVĐ.
Đặc điểm tình yêu trong tiểu thuyết TLVĐ:
Dưới ngòi bút của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, chuyện tình yêu không phải là tất cả, tình yêu chỉ là cái cớ, là phương tiện để nói chuyện khác, thường là một ý tưởng xã hội. Cụ thể là các kiểu lồng ghép sau:
- Tình yêu và tự do trong gia đình, tự do hôn nhân: Truyện tình gắn với cuộc đấu tranh chống lễ giáo phong kiến, đề cao tình yêu tự do nhằm giải phóng cá nhân, nhất là giải phóng phụ nữ: Hồn bướm mơ tiên, Gánh hàng hoa, Nắng thu, Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Thoát ly, Lạnh lùng,…
- Tình yêu và lý tưởng: Truyện tình gắn với thái độ nhập cuộc và lý tưởng cải tạo xã hội, nâng cao dân trí, cải cách đời sống dân quê: Đôi bạn, Tiêu sơn tráng sĩ, Gia đình, Con đường sáng,…
Thứ nhất: Truyện tình lồng ghép với các ý tưởng xã hội:
- Tình yêu và sự thể hiện cá tính, sở thích: Truyện tình gắn với sự thể hiện bản ngã, khẳng định lẽ sống thuộc về con người cá nhân: Đời mưa gió, Trống mái, Đẹp, Bướm trắng, Băn khoăn,…
Thứ hai: Tình yêu say mà không đắm và không thất tình
- Những đôi lứa yêu nhau với hầu đủ mọi cung bậc, cảm giác nồng say, ngây ngất nhưng say mà không đắm, say mà vẫn tỉnh. Nguyên nhân thật dễ hiểu: tình yêu lồng ghép với các ý tưởng xã hội, luận đề cải cách. Ở đây, tình yêu giữ khoảng cách với hôn nhân: yêu nhau mà không nhất thiết phải lấy nhau, hoặc yêu nhau để cùng dấn thân trên đường gió bụi.
- Các cặp tình nhân trong tiểu thuyết TLVĐ thường dễ hòa hợp, luôn luôn chủ động: chủ động yêu, cảm nhận tình yêu, chủ động dấn tới hay dừng lại, tiến tới hôn nhân hay khước từ hoặc kéo dài “thời chưa cưới”; yêu là được yêu, chinh phục là được; họ có thể phải xa nhau, nhưng không thất tình, không chịu kết cục bi thảm. Nhiều mối tình tràn đầy hạnh phúc, mãn nguyện: Duy – Thơ (Con đường sáng), Hạc – Bảo (Gia đình), Phương – Lan (Những ngày vui). Tình yêu như vậy mang lại vui vẻ trẻ trung đáp ứng được tâm lý xã hội lúc bấy giờ.
2.1.2. Những chủ đề tự sự mang tính quan niệm của xu hướng tiểu thuyết TLVĐ
Đây là các chủ đề chính gắn với các thể tài cụ thể của xu hướng tiểu thuyết TLVĐ
(1933-1943).
Các thể tài của tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn bao gồm: tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết
phân tích xã hội, tiểu thuyết phân tích tâm lý.
Tiểu thuyết phân tích xã hội có ưu thế phân tích các quan hệ phức tạp giữa cá nhân với
cộng đồng, giữa nhân cách và hoàn cảnh.
Gia đình, Thoát ly và Thừa tự, chẳng hạn, là ba cuốn tiểu thuyết khá tiêu biểu cho mảng tiểu thuyết phân tích xã hội của Khái Hưng. Có lẽ cũng từ cuốn tiểu thuyết này mà Vũ Ngọc Phan đã coi Khái Hưng là nhà tiểu thuyết phong tục. Cùng viết về những câu chuyện xoay quanh gia đình, nhưng ở mỗi cuốn tiểu thuyết đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa lớn. Cùng góp mặt ở thể tài này, Nhất Linh có tiểu thuyết: Đôi bạn – cuốn sách “phần nào khích lệ thanh niên tham gia các hoạt động xã hội theo hướng dân tộc, dân chủ”.
Tiểu thuyết luận đề có thế mạnh chính luận nên đề cập trực tiếp được các vấn đề duy tân văn hóa, cải tạo hiện trạng xã hội. Ví dụ các tiểu thuyết Nửa chừng xuân (Khái Hưng) Đoạn tuyệt, Lạnh lùng (Nhất Linh), Gánh hàng hoa, Đời mưa gió (Khái Hưng, Nhất Linh) mang tính luận đề rất đậm: luận đề về hôn nhân một vợ một chồng, dựa trên tình yêu; luận đề giải phóng phụ nữ nói riêng, con người cá nhân nói chung; luận đề về tự do cá nhân…
Tiểu thuyết phân tích tâm lý là một thể tài tiểu thuyết hiện đại khá đặc biệt (khác với tiểu thuyết hiện đại nói chung, ít nhiều có sử dụng tâm lý ở cấp độ yếu tố, thủ pháp kĩ thuật, tiểu thuyết phân tích tâm lý xem tâm lý cũng là một nội dung tự sự). Thể tài này có khả năng dẫn người đọc thám hiểm vào cõi thầm kín là thế giới tinh thần riêng tư, bí ẩn của con người. Rất tiêu biểu cho thể tài này là Thanh Đức (nhan đề khác: Băn khoăn) của Khái Hưng và Bướm trắng của Nhất Linh – những tác phẩm cuối cùng của xu hướng tiểu thuyết TLVĐ (1942-1943).
Mỗi thể tài, do vậy, thường có nội dung, phạm vi phản ánh riêng gắn với ưu thế tư
tưởng nghệ thuật của chúng.
Tuy nhiên, từ một cái nhìn bao quát, có thể tổng hợp nội dung tiểu thuyết TLVĐ theo
mấy chủ đề tư tưởng có tính khuynh hướng rất rõ rệt sau đây:
- Ủng hộ một quan niệm mới mẻ về tình yêu – hôn nhân, gia đình; công khai đề cao con người hành động cải cách xã hội (chủ yếu ở tiểu thuyết luận đề, và phần nào, tiểu thuyết phân tích xã hội);
- Khám phá, thể hiện con người cá nhân với vẻ đẹp thể chất và thế giới tinh thần của con người cá nhân trên tinh thần tôn trọng tuyệt đối quyền tự chủ – tự do cá nhân (chủ yếu ở thể tài phân tích tâm lý, và phần nào, tiểu thuyết phân tích xã hội, tiểu thuyết luận đề);
- Thể hiện ý thức dân tộc, tình quê hương; lòng trìu mến đối với cảnh quan thiên nhiên, sinh hoạt ở các đô thị, các miền quê và những vẻ đẹp khuất lấp trong cuộc sống hàng ngày (ở cả ba thể tài tuy dạng thức, mức đậm nhạt có khác nhau)…
2.2. Nội dung tự sự và những nguồn cảm hứng chính bộc lộ khuynh hướng tư tưởng của TLVĐ trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng
cổ vũ con người hành động cải cách, cải tạo xã hội
Đây là một nội dung nổi bật trong sáng tác truyện ngắn, cũng như đã từng được thể hiện rất rõ nét trong tiểu thuyết của hai tác giả. Chính với nội dung này đã làm nổi bật hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Nhất Linh và Khái Hưng, đương thời, đã khác xa với văn học truyền thống bởi vì họ không chỉ bác bỏ đạo đức phong kiến mà tất cả mọi đạo đức đã được xác lập, đã được duy lý hóa. Ở đây đúng là có một sự bổ sung, hòa phối, cộng hưởng giữa hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn trong sáng tác của ông.
Tuy thế, quan sát bức tranh chung của văn xuôi nghệ thuật TLVĐ, cũng cần thấy rằng, truyện ngắn là thể loại đầu tiên Nhất Linh, Khái Hưng trình làng trước công chúng văn học 1930-1945, nên đề tài tình yêu trong văn chương Nhất Linh, Khái Hưng, trước hết được thể hiện trong truyện ngắn.
2.2.1. Ủng hộ quan niệm mới về tình yêu - hôn nhân, gia đình; công khai đề cao,
Trên báo Phong Hóa và Ngày Nay những năm đầu, hầu như tuần nào Khái Hưng cũng đăng một truyện ngắn. Có đến hàng trăm truyện ngắn của Khái Hưng được đăng trong vòng mười năm. Bên dòng sông Hương là truyện ngắn được in lần đầu tiên trên báo Phong Hóa ngày 31/3/1932. Vấn đề tình yêu đã đặt ra trong truyện ngắn Khái Hưng sớm hơn khi được thể hiện trong tiểu thuyết của ông (Hồn bướm mơ tiên) gần ba năm.
Nhất Linh được biết đến trong buổi đầu không chỉ với Nho phong (1927) mà còn với các truyện ngắn viết về tình yêu trong Người quay tơ (1927) và một số truyện ngắn trong tập Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 1934).
Tuy nhiên, cũng như trong tiểu thuyết, tình yêu chưa phải là cái đích thực sự của những trang viết về đề tài này trong truyện ngắn của hai ông. Những “chuyện tình” được kể lại, nhiều khi chỉ như là phương tiện của tư tưởng, nhằm làm mềm mại hóa, hay tăng sức quyến rũ của các vấn đề quan yếu trong đời sống của cá nhân, gia đình, xã hội – các triết lý sống hay các luận đề. Bởi thế, nội dung tự sự ở đây, trong truyện ngắn của hai ông, thường xoay quanh một số chủ đề có tính khuynh hướng rõ rệt. Đặc điểm này là chung cho nội dung tự sự của hai nhà văn.
Một trong những khía cạnh bộc lộ rõ xu hướng tư tưởng của tiểu thuyết, truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng là một quan niệm mới về tình yêu, hạnh phúc. Chẳng hạn, từ nhiều truyện ngắn của hai ông, người ta thấy toát ra cái “luận đề” về hạnh phúc, rằng: không thể có hạnh phúc dựa trên những rung động bồng bột; người hạnh phúc là người biết thưởng thức, tận hưởng cái đẹp, hưởng thụ sự sống có nghĩa lý của cá nhân, biết tìm kiếm theo đuổi chuẩn mực giá trị riêng, xứng đáng với chính mình.
Viết về tình yêu, Khái Hưng thường miêu tả các mối tình lãng mạn trẻ trung với rất
nhiều màu sắc đa dạng.
Bên dòng sông Hương là một câu chuyện tình lãng mạn. Vinh Sơn là một chàng trai du học ở Pháp về nhưng chàng không thích ra làm quan để tiến thân như bao người khác. Chàng đi theo tiếng gọi đắm say của tình yêu với nàng Diễm Lan, “cựu nữ sinh trường Sư Phạm, một trang tân tiến cực kỳ mỹ lệ, đã nổi tiếng lãng mạn khắp Hà thành” (Khái Hưng, Bên dòng sông Hương) [59, tr.132] dù gia đình phản đối. Vinh Sơn đã vượt qua mọi sự ngăn
Cũng như vậy, nhiều truyện ngắn toát ra cái “luận đề” về tình yêu, rằng: Tình yêu không thể có hoặc không thể xây dựng trên sự khác biệt (Nước chảy đôi dòng – Nhất Linh). Không nên lầm tưởng những rung động bồng bột như rung động của các anh chàng Tống Bình, Nam Chân (Dưới bóng hoa đào – Nhất Linh) hay việc “ăn trái cấm” vội vã của đôi bạn gặp nhau lần đầu Văn, Tẹo (Dưới ánh trăng – Khái Hưng) là tình yêu đích thực. Trái lại, tình yêu đích thực chỉ có thể có và được xây dựng, nuôi dưỡng trên sự đồng điệu, sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn (Tiếng dương cầm, Ái tình – Khái Hưng). Và trong tình yêu, nhiều khi biết lặng lẽ hy sinh cũng chính là biết tự tạo ra hạnh phúc cho mình (Mười năm qua, Tháng ngày qua, Hai buổi chiều vàng – Nhất Linh; Anh phải sống, Tình tuyệt vọng, Linh hồn thi sĩ – Khái Hưng).
cản, chế giễu, khinh bỉ của gia đình và bạn bè, cùng người tình “đưa nhau đi ẩn, hay nói cho đúng đi tìm một cảnh thích hợp với ái tình. Cảnh ấy là sông Hương”, để tận hưởng hạnh phúc của tình yêu. (Khái Hưng, Bên dòng sông Hương) [59, tr.133].
Điều đáng nói là đằng sau câu chuyện tình lãng mạn ấy có một triết lý sống, một triết lý yêu: khát vọng tự tạo một ốc đảo hạnh phúc cho tình yêu ngay cả một nơi thơ mộng, với một người tình lãng mạn nhất, thực ra, là điều không tưởng. Bả danh lợi hay những bon chen đời thường vẫn len lỏi vào được cái ốc đảo ấy để mà đầu độc tình yêu.
Các “chuyện tình” khác cũng thế. Nhà văn không chỉ kể chuyện yêu đương mà còn khơi sâu một khía cạnh thâm trầm nào đó của đời sống để tạo nên ý vị của những triết lý, suy tư.
Đây, mối tình tuyệt vọng, trớ trêu của chàng trai trẻ Văn Châu (Tình tuyệt vọng), yêu vợ bạn ngay trong lễ cưới của bạn, để rồi phải âm thầm theo đuổi mối tình vô vọng ấy trong bao nhiêu năm ròng. Kia, mối tình đơn phương của Linh (Đợi chờ), một ông chủ trang trại trẻ tuổi với cô Phụng, một cô gái thành phố “đầy đặn nở nang, nước da hồng hào rám nắng, mà thoạt trông chàng ví ngay với màu da cam bắt đầu rám chín dưới luồng gió heo may” (Khái Hưng, Đợi chờ) [59, tr.192]. Để rồi, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi ấy, nhưng cái kỷ niệm giây phút ấy đối với Linh đã thành vĩnh viễn, thiêng liêng.
“Năm, năm, cứ đến tháng chạp khi cam ngoài vườn bắt đầu rám đỏ dưới luồng gió heo may, Linh lại cảm thấy thân thể và tâm hồn rung chuyển. Rồi trong vườn cam lại hiện ra hình ảnh một thiếu nữ tươi tốt, hồng hào thướt tha bên gốc cam, gốc quít.” (Khái Hưng, Đợi chờ) [59, tr.197]. Và cứ thế, “Linh chờ đợi, mong ngóng…” (Khái Hưng, Đợi chờ) [59, tr.198].
Tuy nhiên, viết những câu chuyện tình yêu, Khái Hưng không chỉ đơn giản là miêu tả tình yêu với những sắc màu lãng mạn. Có khi với câu chuyện tình pha một chú huyền bí, oái oăm, Khái Hưng đã cho ta thấy sức mạnh của tình yêu và cái đa đoan của đời sống tâm hồn:
Và kia nữa, mối tình của Phát và Hoàn trong Thời chưa cưới lại là một kiểu mối tình khác. Thoạt đầu có vẻ đó là mối tình “đôi lứa xứng đôi” của trai tài gái sắc. Họ yêu nhau vì tài, cảm nhau vì sắc. Hai người đã sống những giây phút thần tiên mộng ảo của tình yêu thời chưa cưới. Nhưng rồi họ đã làm tổn thương nhau và mối tình của họ có nguy cơ tan vỡ. “Họ đi sát cánh nhau. Họ nói chuyện để nghe thấy câu chuyện tẻ nhạt của nhau. Họ yên lặng để nghĩ đến, để nhớ đến cái xoàng, cái tầm thường của nhau, của gia đình nhau.” (Khái Hưng, Thời chưa cưới) [59, tr.360]. Nhưng cuối cùng thì đám cưới của Phát và Hoàn cũng diễn ra, vì họ “cho việc hôn nhân của mình là do số mệnh (…) Và đám cưới linh đình, ồn ào, ầm ỹ. Để che cái nhạt nhẽo, cái lạnh lùng của hai linh hồn sắp hòa hợp.” (Khái Hưng, Thời chưa cưới) [59, tr.361]. Thời chưa cưới là một truyện ngắn hay (trong tập Hạnh). Ở đó, “Khái Hưng khảo sát tính tình hạng thanh niên tân tiến đúng vô cùng. Tình yêu của họ là thứ tình yêu nồng nàn, bồng bột, cho nên cái thời chưa cưới của họ càng kéo dài bao nhiêu, họ càng có dịp để chán nhau bấy nhiêu” [141, tr.190].
Thì ra tình yêu, đôi khi, mạnh hơn cả tín ngưỡng, tôn giáo. Sư Tuệ trong truyện ngắn cùng tên, một nhà sư chỉ ngoài ba mươi tuổi, vẻ mặt khôi ngô nhưng là “bực tu hành về đường khổ hạnh cũng như về đường học vấn” (Khái Hưng, Sư Tuệ) [59, tr.395]. Bao nhiêu năm đắc đạo, tưởng đã rũ sạch bụi trần, thế mà chỉ một lần ngắm bức tượng Ngọc Nữ trong chùa, hình ảnh người tình xưa và cả một thời dĩ vãng đã sống dậy trong ký ức kẻ tu hành. “Sư Tuệ sợ hãi vội cúi xuống quyển kinh và cất cao giọng, gõ mạnh tiếng mõ như cố xóa, lấp cái hình ảnh quá khứ. Nhưng vẻ mặt tươi cười, đôi mắt sắc sảo, cặp môi đỏ thắm của pho tượng mà sư ông nhớ từng nét vẫn như vẽ ra trên trang giấy chữ lớn. Sư ông nhắm mắt lại và tụng thuộc lòng luôn mấy trang kinh, cái khuôn mặt xinh tươi càng rõ rệt hơn, và sau cùng, sáng lóe một cái tên chữ quốc ngữ, tên người đàn bà xưa.” (Khái Hưng, Sư Tuệ) [59, tr.403]. Và rồi, sáng sớm hôm sau, người ta thấy nhà sư đã cởi bỏ bộ áo tu hành rời chùa ra đi.
Tình yêu vốn là một tình cảm thiêng liêng, cao quý giữa người với người. Song tình yêu ấy có trở nên cao thượng như đúng với bản chất vốn có của nó hay trở nên một thứ dục vọng tầm thường, thấp hèn, đầy vị kỷ là do ở cách xử sự của con người. Khái Hưng gửi thông điệp ấy đến với người đọc qua những tác phẩm: Tình tuyệt vọng, Tình điên, Thưa chị,…
Việc ủng hộ quan niệm mới về tình yêu - hôn nhân, gia đình; công khai đề cao, cổ vũ con người hành động cải cách, cải tạo xã hội cũng có thể xem là một cụm chủ đề tự sự mang tính khuynh hướng rõ rệt trong truyện ngắn Nhất Linh. Thậm chí, sự lồng ghép chủ đề tình yêu với các chủ đề khác trong sáng tác của Nhất Linh lại còn phong phú tinh diệu hơn so với Khái Hưng.
Tuy vậy, khác với Khái Hưng, truyện ngắn của Nhất Linh có khả năng mang lại cho người đọc một khao khát và nhiệt hứng hành động. Thực ra, không riêng gì Nhất Linh, các tác giả tiểu thuyết TLVĐ đều thấm nhiễm tư tưởng tôn thờ hành động của Andre Gide với cái triết lý “hành động để hành động”. Song trường hợp Nhất Linh, triết lý này được thể hiện tập trung hơn cả.
Hành động gắn với tư tưởng thường được khởi nguyên từ một tinh thần phán xét, phản
Đọc những trang viết về tình yêu, hôn nhân, gia đình của Nhất Linh, người đọc dễ dàng nhận thấy mình đang cùng băn khoăn, chia sẻ với người kể chuyện bao nhiêu câu hỏi thấm đẫm suy tư. Đó là những câu hỏi rất thông thường về hạnh phúc gia đình, về ý nghĩa của tình yêu, về mục đích của hôn nhân, về nghĩa lý của đời sống cũng như việc lựa chọn, thực hiện một triết lý sống sao cho đích đáng. Trong các trường hợp ấy, chất men của tình yêu trở thành phương tiện truyền cảm các triết lý hay các ý tưởng luận đề của tác giả.
Tập “Người quay tơ” của Nhất Linh có nhiều truyện ngắn bộc lộ thái độ phê phán gay gắt đối với chế độ thực dân phong kiến, đồng thời thể hiện khao khát hành động làm thay đổi chế độ xã hội ấy.
biện những cái chính thống lỗi thời, những trạng thái hiện tồn phi lý.
Một thanh niên trí thức tham gia phong trào yêu nước bị thực dân Pháp đày chung thân ở Côn Đảo. Người vợ ở nhà quay tơ dệt lụa phụng dưỡng mẹ già thay chồng. Mẹ mất, nàng xin Nhà nước theo chồng ba năm và sinh được một con trai. Nghe lời khuyên của chồng, nàng đưa con về quê. Ít lâu sau được tin chồng tự tử, rồi tiếp đến con chết, nàng đau khổ quá hóa điên.
Bệnh điên của nàng cũng như việc tự sát của người tù chính trị gần như là một sự lên án chế độ thực dân đương thời. Tất nhiên dưới chế độ kiểm duyệt, sự phê phán phải mang một giọng điệu ám chỉ, đôi khi chỉ là sự lên án một số phận vô hình oan nghiệt nào đấy.
“Mới đầu cũng thương hại, song nghĩ cho kỹ thời thế lại hay cho nàng đấy, có lẽ vì thế mà lại xong, thật đấy, nàng lại là người sung sướng nhất đời còn chúng mình đây không được như nàng, phải đày đọa chung thân. Ừ thử nghĩ mà xem, sống mà đeo cái đau khổ suốt đời, cái đau khổ không bao giờ khuây được chỉ có một cách là tự diệt mình mới thoát ly, thời cái điên là chẳng nên ước lắm sao? Nàng không biết mình khổ thời nàng là tiên rồi.” (Nhất Linh, Người quay tơ) [39, tr.17,18).
Truyện ngắn “Nô lệ” vạch trần và lên án thủ đoạn cướp ruộng đất của người nông dân một cách trắng trợn và bỉ ổi của một tên chủ đồn điền ở Thanh Sơn. Những người nông dân trước đây đang “tự do”, “ruộng mình mình cấy, đường mình mình đi, nghênh ngang ai nạt, ai cấm” (Nhất Linh, Nô lệ) [39, tr.21), giờ đây bị cướp mất ruộng trở thành những người làm phu trong đồn điền. Trước kia là ông chủ, nay hạ xuống bậc người làm công, “trước kia tự do, bây giờ đem thân nô lệ một người” (Nhất Linh, Nô lệ), [39, tr.22). Những lời văn trên không chỉ thể hiện niềm trắc ẩn đối với những người nông dân hiền lành chất phác bị cướp đoạt ruộng đất mà còn chứa đựng một tấm lòng yêu nước kín đáo của Nhất Linh.
Nếu không có một trái tim giàu tình yêu dân tộc thì không thể tạo nên một ngôn ngữ chân thành, cảm động trong văn chương, lại càng không thể tạo nên được một hình tượng hấp dẫn, quyến rũ người đọc như hình ảnh người khách chinh phu trong một số tác phẩm của Nhất Linh – hình ảnh đã một thời gieo vào tâm hồn thanh niên tiểu tư sản trí thức những tình cảm dân tộc thiêng liêng khiến họ có thể dứt bỏ gia đình ra đi “theo tiếng gọi lên đường” như thế.
Với Nhất Linh, tinh thần dân tộc, sự thông cảm chân thành đối với số phận những người lao động nghèo khổ biểu hiện khá rõ và tư tưởng, tình cảm ấy phát triển khá nhất quán từ “Người quay tơ” đến “Đôi bạn”. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà Tự Lực văn đoàn tham gia Mặt trận Bình dân và Nhất Linh đã có lần tuyên bố trên báo “Tin tức”, cơ quan của Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ những lời lẽ chân thành, rằng: “Tôi vẫn tha thiết mong cho đám bình dân thiệt thòi và thấp kém trong xã hội có những quyền sống mà họ thiếu thốn. Tôi đã bị thất vọng nhiều lần, thất vọng như bao nhiêu người khác đã quá mong mỏi ở những nơi không nên mong mỏi. Mặt trận Bình dân Đông Dương mới thành lập đem lại cho tôi một tia ánh sáng hy vọng. Lấy trách nhiệm là một nhà văn cùng với những người đồng chí khác, tay cầm tay đứng trong hàng ngũ, tôi xin hết sức giúp một phần nhỏ mọn vào công việc đòi quyền sống của hết thảy anh em bị thiệt: Mặt trận Bình dân”.
Những người khách chinh phu trong tiểu thuyết và truyện ngắn của Nhất Linh được viết từ nguồn cảm hứng chính trị pha lẫn tình cảm lãng mạn. Những tác phẩm ấy đã phản ánh phần nào tâm trạng của tầng lớp thanh niên trí thức một thời muốn làm một việc gì đó để thoát khỏi cảnh tù túng ngột ngạt của gia đình phong kiến, xóa bỏ cảnh bất công trong xã hội. Họ muốn thoát ly đi tìm một lý tưởng yêu nước mặc dù mục đích còn mơ hồ và niềm tin cũng rất mong manh. Khách chinh phu là một sự hòa hợp giữa người chiến sỹ yêu nước với kẻ giang hồ lãng tử hay nói khác đi, đó là một hình ảnh lãng mạn về những thanh niên yêu nước.
Xét về mặt lịch sử, thời kỳ này, Mặt trận Bình dân ở Pháp lên nắm chính quyền. Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương phải nới tay đàn áp vì thế các khuynh hướng tư tưởng dân chủ tiến bộ có điều kiện bộc lộ mạnh mẽ hơn. Đây cũng là thời kỳ thế giới sắp sửa bùng nổ một cuộc chiến tranh lớn chưa từng có trong lịch sử. Ở Đông Dương, người ta nghi ngờ sức mạnh của Pháp trước tiềm lực quân sự lớn lao của Nhật. Nhiều người lo lắng cho số phận của đất nước, nhưng chưa dám lên tiếng, ngoại trừ những người cộng sản.
Theo Đặng Tiến, triết lý “hành động để hành động” của Andre Gide được các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng xem là một triết lý đẹp, thích hợp, vừa tầm với thanh niên thời bấy giờ nên đã chấp nhận nó và thể hiện trong lối sống của các nhân vật trong Đôi bạn (Nhất Linh), Tiêu Sơn tráng sỹ (Khái Hưng) và các tác phẩm truyện ngắn Thế rồi một buổi chiều (Nhất Linh), Giấc mộng Từ Lâm (Nhất Linh)... Nhất Linh, Khái Hưng học được ở Gide giá trị của cảm giác, phương pháp khai thác phát triển ngũ quan để tiếp nhận. “Nhất Linh học được ở Gide cách đầu tư tâm hồn vào sự phân tích tra vấn hạnh phúc, cách bắt chợt hạnh phúc đang qua, cách đợi chờ hạnh phúc đang đến… cách thụ hưởng tối đa những niềm vui nhỏ bé (…). Có thể đối với Nhất Linh, Gide không phải là tri kỷ nhưng ít ra, Gide cũng là một thời đại” [177, tr.101].
Cũng thể hiện những tình cảm nghiêng về giới bình dân, song những truyện ngắn trong tập Hai buổi chiều vàng của Nhất Linh lại khác hẳn những truyện trong tập Tối tăm.
Tối tăm là một tập truyện ngắn tả những cảnh tối tăm của những con người trong xã hội Việt Nam, thể hiện tư tưởng hành động, bênh vực giới bình dân của Nhất Linh. Một số người cho rằng tập truyện này gợi nhớ đến quyển “Marée fraiche et Vins de Champange” của Pieere Hamp, nhà văn bình dân nước Pháp. Pierre Hamp cũng tả những cảnh lầm than của những người thợ thuyền, nhưng ông chỉ phô bày mọi việc ra một cách giản dị và khéo léo, không lời phê bình, nhưng làm cho người đọc phải suy nghĩ nhiều về sự tổ chức của xã hội. Đó không phải là một ý kiến thiếu căn cứ. Qua tập truyện này, dễ thấy rằng Nhất Linh hay động lòng về những điều trông thấy, nhưng sự thương xót của ông là sự thương xót của một người ở giai cấp khác. Từ những cảnh nô lệ trong Nô lệ (Nhất Linh, Nô lệ), [39, tr.19)] cho đến cảnh nghèo khổ, bẩn thỉu trong Hai vẻ đẹp (Nhất Linh, Hai vẻ đẹp), [39, tr.224], cho đến Đầu đường xó chợ, Nhất Linh đã đem con mắt người có học, có óc mới để quan sát, rồi kết luận những cảnh tối tăm ấy là những cảnh mà những kẻ khốn nạn kia đã tự dấn thân vào vì vô học, vì óc hủ lậu, ông đã không cho là do ở sự thiếu tổ chức của một xã hội.
Truyện Hai buổi chiều vàng ở đầu tập là một thứ truyện tâm tình rất nhẹ nhàng và rất trong sáng:
“Đã ba năm nay chàng chưa gặp mặt, nhưng hình ảnh Thoa lúc nào cũng phảng phất trong trí tưởng. Mặc dầu Thoa đã lấy chồng, đối với Triết, Thoa lúc nào cũng là một người bạn gái, chàng đã yêu trong quãng đời hoa niên xa xăm mà chàng biết rằng còn yêu, yêu mãi…
(…) Nhìn theo khói thuốc lá từ từ lan ra phía cửa sổ, chàng thẩn thờ để tâm trí phiêu diêu nhớ đến cảnh quê cũ: mấy nóc nhà tranh bên vài cây cau thân trắng, khóm chuối xơ xác và những ao bèo đầy lá khô, những bè rau rút mỗi khi thu về điểm hoa vàng lấm tấm… nơi mà chàng đã cùng Thoa sống những ngày vui không trở lại nữa.” (Nhất Linh, Hai buổi chiều vàng) [39, tr.286-287].
Mối tình ấy cứ tươi đẹp lặng lẽ như thế, tuy có lâu bền thật, nhưng để cho Triết và Thoa phải băn khoăn có biết bao nhiêu lần! Triết yêu Thoa và trong thâm tâm chỉ ước được Thoa làm vợ; Thoa cũng yêu Triết, nhưng nàng yêu chàng như một người anh, nên nàng lấy Lộc. Lộc bị tù tội, làm cho Triết lại nghĩ tới sự ao ước cũ của mình, nhưng chính chàng lại là người mà Thoa nhờ lo cho chồng thoát khỏi vòng tù tội. Triết vẫn yêu Thoa. Nhưng vẫn phải hết sức lo cho chồng Thoa. Rút cục Lộc được tha, Thoa và Lộc lại đoàn tụ và cái tình yêu lặng lẽ giữa Triết và Thoa lại lặng lẽ hơn xưa. Như vậy mối tình tuy có bền, mà hai bên không khỏi nhiều phen thẩn thờ ngao ngán.
Truyện Cái tẩy trong tập Hai buổi chiều vàng là một truyện có một ý nghĩa về triết lý và cũng là một truyện theo luận đề nữa: số phận người ta nhiều khi chỉ trông vào những cái rất mong manh, và không nên đi tìm hạnh phúc ở đâu cả. “Phải làm thế nào cho hạnh phúc ở đời phải ở mình, chỉ ở mình thôi” (Nhất Linh, Cái tẩy), [39, tr.342].
Dứt khoát sống theo đời mới, giải phóng cá nhân, giải phóng phụ nữ khỏi vòng lễ giáo phong kiến, nhân vật của Nhất Linh là những con người có chí khí, biết thắc mắc và có những ý kiến khá rõ ràng về chế độ xã hội hiện tại và đã có hành động để mong thay đổi chế độ đó.
Tuy không tả rõ sự bóc lột của bọn địa chủ, nhưng trong truyện Hai vẻ đẹp, Nhất Linh cũng đã nói được những điều đáng nói. Bên cạnh đó, tác phẩm còn hé mở được quan niệm
Những tâm sự của Nhất Linh trong tiểu thuyết cũng như truyện ngắn là tâm sự của một người đau khổ vì đã nhìn thấy những điều chưa hợp lý của chế độ cũ, muốn hành động để giải phóng cho cá nhân, để cho đời mình và đời kẻ khác có thể đẹp đẽ hơn, tươi sáng hơn. Tâm sự của Nhất Linh cũng là nỗi niềm của của nhiều nhà văn khác trong Tự Lực văn đoàn, song ở vị “chủ soái” này, tâm sự ấy sâu sắc, thành thực và có một giá trị tiến bộ rõ rệt, phù hợp với thanh niên trí thức tiểu tư sản sống vào khoảng 1934 – 1940 hơn cả. Điển hình là nhà văn đã theo đuổi đến cùng sự nghiệp chính trị của mình để thực hiện lý tưởng đó.
của Nhất Linh về nghệ thuật. Quan niệm đó là quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh, và tác giả đã diễn tả tâm sự của mình qua tâm sự của Doãn.
Doãn, nhân vật chính, là con nuôi bà Thượng, được bà Thượng nuôi cho ăn học và trở thành họa sĩ. Doãn thấy rằng: tiền ăn học của chàng trong bao năm là tiền của những người nhà quê đói khổ ngồi kia, hay tiền của những người nhà quê ở nơi khác, chỗ cha nuôi chàng làm quan. Trước kia, chàng cũng biết thế, nhưng chàng không để tâm đến, và nhất là không lúc nào chàng cảm thấy sự khốn nạn của điều đó mãnh liệt, sâu cay bằng lúc này. Nhìn các cô em gái của chàng, Doãn nghĩ:
“Giá mà họ (những người nhà quê) biết rằng ba cô em mình được sang, đẹp, và sống nhàn rỗi là nhờ họ, nhờ ở số tiền lãi bao nhiêu năm súc tích lại!” (Nhất Linh, Hai vẻ đẹp) [39, tr.245].
Phần lớn các nhân vật chính của Nhất Linh là những con người hoạt động để mong cải thiện cuộc đời những người nghèo khổ. So sánh với những nhân vật của các nhà văn lãng mạn khác, kể cả các nhà văn trong Tự Lực văn đoàn, ta thấy những nhân vật của Nhất Linh có phần suy tư hơn nhưng cũng vì thế mà rất đáng yêu và có ý nghĩa xã hội hơn.
Điểm hạn chế của Nhất Linh là xuất phát từ cái nhìn của người trong giai cấp tiểu tư sản thành thị, do đó, Nhất Linh không đánh giá đúng sức mạnh của lực lượng quần chúng đông đảo. Ông cho rằng người nông dân sống như cây cỏ bị áp bức mà không biết khổ nhục, nên không oán trách ai và không bao giờ hy vọng thoát ra khỏi cảnh Tối tăm ngàn đời của họ. Có hình ảnh người nông dân đem thân làm nô lệ cho người (Nô lệ), hay những người tá điền đưa vịt biếu cho địa chủ mà bị cự tuyệt không lấy rồi tủi thân, như tả trong Hai vẻ đẹp của Nhất Linh. Nhưng lại cũng có nhiều người nông dân mạnh mẽ, quyết liệt khác như: Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, như anh Pha trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan. Như vậy, sự thực, cuộc đấu tranh giữa nông dân và địa chủ trong xã hội ta ngày trước, thực tế là một cuộc đấu tranh âm thầm, kéo dài, không phải lúc nào nông dân cũng thắng, nhưng cũng không phải lúc nào họ cũng nhẫn nhục đầu hàng cả.
“Mỗi lần nhìn những người nhà quê nhem nhuốc ngồi bệt xuống đất, bên những đống rác hôi hám, hàng bán lèo tèo mấy thức quà vặt bẩn thỉu, đầy cát bụi, và mỗi lần ngửi thấy mùi quần áo, mùi mồ hôi người lẫn với trăm nghìn thứ mùi khác ở các hàng xông lên, Doãn có cảm tưởng khó chịu về sự bất di bất dịch của những xã hội quê, bao giờ cũng khốn nạn, cũng nghèo xơ xác như bao giờ. Chàng thấy cảnh ấy hai mươi năm trước đây cũng vậy; chàng buồn bã đoán rằng mấy mươi năm sau nữa, rồi cũng thế này thôi, không có chút hy vọng gì về một sự đổi thay hoàn toàn và kịch liệt như một trận gió mạnh nổi lên thổi sạch hết bụi cát rác rơm”. (Nhất Linh, Hai vẻ đẹp) [39, tr.239-240]
Thật ra, không phải dân quê không hằng mong ước đỡ phải chịu hà hiếp, bức bách, mà những người hiểu biết và giàu tâm huyết, giàu tinh thần dân tộc như Nhất Linh mong ước
Nhất Linh trong Hai vẻ đẹp, có viết một đoạn như sau:
như thế là điều chính đáng, nhưng điều cốt yếu là phải làm cho người nông dân vùng dậy, tiến hành một cuộc phản phong phản đế vũ bão. Ông chỉ muốn làm như Doãn, tức là sống ở thôn quê để nâng dần đời sống của thôn quê, hoặc chỉ muốn hành động phiêu lưu như Dũng!
2.2.2. Vẻ đẹp thể chất và thế giới tinh thần của con người cá nhân
Vấn đề về “con người cá nhân” là một vấn đề nổi bật trong tiểu thuyết cũng như trong truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng. Bên cạnh đó, khả năng đi sâu mổ xẻ “thế giới tinh thần” những nhân vật trong truyện ngắn của hai tác giả cho thấy khả năng phân tích những khía cạnh tinh vi, sâu kín của tâm hồn và đã biểu hiện một cách sinh động trên mặt giấy. Đó cũng là một sự đóng góp lớn nữa của hai tác giả trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Với tư cách là các tác giả chuyên nghiệp, không bằng lòng những gì đã có, Nhất Linh, Khái Hưng luôn có những tìm tòi riêng mang phong cách cá nhân qua các sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết của mình. Chẳng hạn, viết truyện ngắn, nếu Nhất Linh dường như “chỉ phản ánh tâm hồn mình, kể lể những băn khoăn của mình, theo đuổi một giấc mộng của mình” [136, tr.481, 482], thì Khái Hưng, khác hẳn, ông “nhặt nhạnh chuyện người” [136, tr.482.], dùng tấm gương pha lê của tâm hồn mình để phản chiếu hình thái của cả một xã hội và tâm sự nhiều vẻ của người đời.
Bên cạnh đó, vẻ đẹp thể chất là một trong hai yếu tố của con người hoàn chỉnh tạo nên sự hài hòa giữa con người tự nhiên và con người xã hội. Trong miêu tả con người cá nhân thì vẻ đẹp thể chất là một yếu tố cần thiết. Song phải bắt đầu từ Tự Lực văn đoàn, vẻ đẹp thể chất mới được xem là tiêu chuẩn để đánh giá con người hoàn chỉnh. Điều này thể hiện một quan niệm thẩm mỹ mới có tính thời đại về cái đẹp của con người, đặc biệt là con người đô thị. Con người trong tác phẩm của nhà văn đã ý thức công khai rằng sắc đẹp tự thân là một yếu tố giá trị cá nhân, là điều đáng tự hào của các nhân vật, là ấn tượng đầu tiên mang đến cảm giác tình yêu, cũng vì thế con người luôn có ý thức làm đẹp cũng như phô diễn sắc đẹp của bản thân mình.
Phần lớn các cô thiếu nữ trong tác phẩm Tự Lực văn đoàn đều có hình thức bề ngoài khá quyến rũ, dù xuất thân từ gia đình trung lưu hay nghèo khó, nhất là các cô gái ở đô thị.
Một đóng góp lớn của các tác giả Nhất Linh, Khái Hưng trong việc khẳng định vị trí cá nhân là bằng việc phủ định những ràng buộc phong kiến trong cuộc xung đột của cá nhân với xã hội truyền thống. Tác phẩm của họ được xem là bản tuyên ngôn nhân quyền bằng nghệ thuật. Con người trong tác phẩm luôn được đặt trong sự thử thách của hoàn cảnh nhưng không hoàn toàn bị khuất phục. Con người cá nhân ở đây còn có đặc điểm không đi đến sự đoạn tuyệt hay phá bỏ các giới hạn thực tế mà tìm sự khẳng định cá nhân theo nhiều hướng: hoặc thoát ly vào tình yêu, hoặc khẳng định lập trường cá nhân trong hành động cải cách dân quê, hoặc khi chí lớn anh hùng bị suy sụp thì quay về than khóc cho tình yêu đã mất…
Nhân vật nào cũng đẹp, đẹp ở khuôn mặt trái xoan, ở nước da trắng mát, trắng hồng; đẹp ở mái tóc đen mượt óng ánh; đẹp ở đôi má lúm đồng tiền, ở những làn môi thắm như cánh hoa hồng tươi đẹp, nhất là những cặp mắt huyền nhung sáng long lanh…
Không những thế, vẻ đẹp thể chất của các nhân vật trong tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng còn luôn được thể hiện kết hợp với những diễn biến tâm lý, vì thế nó là vẻ đẹp động chứ không phải là vẻ đẹp tĩnh. Không chỉ quan tâm đến vẻ đẹp bên ngoài, hai tác giả còn chú ý gắn nó với vẻ đẹp tinh thần. Những cô thiếu nữ trong trang văn đẹp cả ở dáng hình thon thả trong bộ áo dài dân tộc thướt tha mềm mại, đẹp cả kiểu dáng đi đứng, lời ăn tiếng nói dịu dàng và còn mang những phẩm chất tinh thần khác như: hiểu biết, thông minh, nhạy cảm, có duyên và biết hy sinh vì người khác.
Cô đào Mơ (Dọc đường gió bụi) là một cô gái có vẻ đẹp “muôn phần diễm lệ”. “Hai đặc điểm của Mơ là cái giọng véo von bổng trầm đúng bậc và tấm nhan sắc diễm lệ. Không phải là cái nhan sắc chín chắn, thùy mị kín đáo của phần nhiều các cô gái quê, nhưng là cái nhan sắc long lanh với đôi mắt hơi xếch, với cặp môi tươi thắm luôn nhích một nụ cười lẳng lơ, nồng nàn.” [59, tr.8].
Cô hàng nước (Cô hàng nước) xinh đẹp “nước da bánh mật đã hây hây nhuốm màu hồng và cặp mắt, cặp môi cho chí hai đồng tiền bên má (…) đều có giấu cái thông minh kín đáo” [59, tr.46].
Bà Tùng Thiện “đẹp lộng lẫy, đẹp rực rỡ (…), nước da trắng hồng, đôi mắt xanh sáng quắc như hai ngôi sao, cặp môi son cười tươi tựa đóa hồng hàm tiếu” [59, tr.112], một nhan sắc diễm lệ “muốn người buồn, người phải buồn, muốn người vui người phải vui” (Khái Hưng, Tình tuyệt vọng) [59, tr.112].
Cô lái đò (Nước chảy đôi dòng – Nhất Linh) được nhà văn khắc họa vẻ đẹp dưới nhiều góc độ khác nhau: “Sinh quay lại thấy một người con gái trạc độ mười tám tuổi, mặc chiếc áo tứ thân vá vai đã cũ, chiếc khăn vuông đã bạc, tóc rủ xuống má bối rối, nhưng nét mặt xinh đẹp tuyệt trần, hai con mắt trong và sáng, trông thanh tao có vẻ con nhà khuê các.” [39, tr.156]; “Dưới ánh lửa, hai mắt người con gái lại càng sáng, đôi má lại càng hồng” [39, tr.156]; “Bấy giờ ngoài mặt sông bóng trăng rọi xuống như rắc hoa bạc trêm làn sóng… còn ngoài xa thì sương đêm mơ mộng, mà trong cái cảnh như thực như hư ấy, Sinh tưởng chừng đương ngồi đối diện với một người tiên nữ trá hình làm người con gái chở đò…” [39, tr.158]; “Sinh nói mấy câu ngụ ý, người con gái đều không hiểu cả, chỉ trả lời bằng mấy câu mộc mạc, hay cười một cách ngây thơ. Sinh càng nhìn người con gái càng thấy xinh đẹp, cái vẻ đẹp lộng lẫy dẫu ai trông thấy cũng phải cảm, huống như chỉ Sinh ngồi đối diện tha hồ ngắm nghía, trên trời dưới nước, riêng mình với một tuyệt thế giai nhân.” [39, tr.160].
Vẻ đẹp của cô hàng hoa trong truyện Dưới bóng hoa đào của Nhất Linh được miêu tả: “Mái tóc mây lẩn dưới vành khăn đen láy, (vì hôm nay cô không chít khăn vuông) khuôn mặt dịu dàng, nước da trắng hung in trong cái khung tròn màu hồng phơn phớt của cây đào đầy hoa, khiến Nam Chân lại nhớ đến bức tranh Nhật Bản” [39, tr.111].
Các tác giả còn quan tâm đến miêu tả trang phục, trang điểm của nhân vật vì đó không chỉ là yếu tố làm nên vẻ đẹp thể chất nói chung mà chủ yếu là một yếu tố của con người hiện đại. Người thiếu phụ trong tác phẩm Cô áo trắng, Khái Hưng miêu tả: “người đàn bà trong bộ quần áo lụa bạch, trông xa như một bông hoa trắng rung rinh in lên nền trời xanh phớt nhuộm hồng” [59, tr.566]. Hay cô gái xinh đẹp, hiện đại, được tiếp nhận một nền giáo dục mới ở trường học và sống trong một gia đình theo mới, là một biểu hiện của con người đô thị, trong Đợi chờ của Khái Hưng có một “nụ cười tình tứ điểm theo” [59, tr.193], khiến chàng trai “ngắm thấy ngọt như mật ong, thơm như hoa cam sành mới nở, và có mãnh lực làm cho chàng lúng túng mất vài giây”, [59, tr.193] lại thêm “đôi lông mày bán nguyệt tô thêm (…) hơi díu lại một cách rất nũng nịu, dễ yêu” [59, tr.193].
Các nhân vật nữ tân thời trong truyện ngắn Nhất Linh Khái Hưng không phải chỉ là những người biết làm đẹp, tự ý thức được cái đẹp của mình, giới mình mà còn biết cảm nhận, thưởng thức vẻ đẹp hình thể và khí chất, tâm hồn của người khác giới. Đọc tiểu thuyết Trống mái của Khái Hưng, người đọc hẳn không quên được cô thiếu nữ tân thời tên Hiền say mê vẻ đẹp vạm vỡ trai tráng của anh dân chài tên Vọi. Thì cũng thế, người đọc cũng khó mà quên được vẻ đẹp hình thể, khí chất của các nhân vật chính trong các truyện ngắn Linh hồn thi sĩ, Số đào hoa, của nhà văn này; khó mà quên được vẻ đẹp nam tính, ngang tàng của nhân vật Thái trong Những ngày diễm ảo của Nhất Linh.
Như vậy, qua miêu tả vẻ đẹp thể chất của các nhân vật, những người cầm bút như Nhất Linh, Khái Hưng đã thể hiện ý thức mới về giá trị con người, một trình độ mới về cảm nhận con người. Đó cũng chính là điểm làm nên sức hấp dẫn, trẻ trung và quyến rũ cho những tác phẩm của họ. Tuy nhiên, vẻ đẹp thể chất của các nhân vật trong tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng phần nhiều được tả theo tưởng tượng hơn là quan sát thực tế nên thường có sự lặp lại và vì thế mà sự cá tính hóa trong việc miêu tả chân dung, ngoại hình ở tác phẩm hai nhà văn chưa đạt đến tầm của văn học hiện thực chủ nghĩa.
Thế giới nội tâm của con người cá nhân ở đây được đề cập đến như một nội dung tự
Ở trên có nói: Đọc những trang viết về tình yêu, hôn nhân, gia đình, của ông, người đọc dễ dàng nhận thấy mình đang cùng băn khoăn, chia sẻ với người kể chuyện bao nhiêu câu hỏi thấm đẫm suy tư. Đó là những câu hỏi rất thông thường về hạnh phúc gia đình, về ý nghĩa của tình yêu, về mục đích của hôn nhân, về nghĩa lý của đời sống cũng như việc lựa chọn, tuân thủ một triết lý sống sao cho đích đáng.
Đến đây, tác giả luận văn này thấy cần nhấn mạnh thêm: đó còn là những câu hỏi thấm
sự thể hiện quan niệm mới về con người trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng.
Chẳng hạn, truyện ngắn của hai nhà văn đặt ra một số tình huống gợi suy tư suy ngẫm
về ý nghĩa của đời sống, về tình yêu, hạnh phúc của con người cá nhân:
đẫm suy tư về nhiều phương diện của đời sống.
+ Một người khiếm khuyết về thể chất liệu có thể mang lại hạnh phúc không? Điều kiện nào có thể bù trừ được các khiếm khuyết này (người vợ câm: Tiếng dương cầm – Khái Hưng)
+ Hành vi ăn cắp có phải bao giờ cũng xấu không? (người đàn bà ăn cắp gà mua thuốc
phiện cho chồng: Đầu đường xó chợ – Nhất Linh)
+ Nàng Châu Long trong khi đi nuôi bạn ăn học thành tài giúp chồng có rung động,
rạo rực không? (Lưu Bình Dương Lễ – Khái Hưng)
+ Sự bất khuất của con người có đồng nhất với bướng bỉnh cố chấp không? (Trần Can/
Hồ Quý Ly: Linh hồn thi sĩ, Số đào hoa – Khái Hưng)
+ Số phận con người chịu tác động bởi cái nhỏ nhặt, ngẫu nhiên như thế nào? (Cái tẩy – Nhất Linh; Cháu nhà quan – Khái Hưng, nhân vật giỏi giang đi làm thư kí cho ông chú nhà quan và trắng tay, phải làm những việc lặt vặt không xứng tài)
+ Chuyện vui buồn, tính cách của con người có phải lúc nào cũng bộc lộ rõ ra bên
ngoài để người khác trực quan được hay không? (Người vui tính – Khái Hưng)
+ Tình yêu đôi lứa của con cháu có thể hóa giải được hận thù gia tộc của ông cha hay
không? (Cái thù ba mươi năm – Khái Hưng)
+ Một người chồng thường xuyên bị vợ áp chế có bao giờ đảo ngược tình thế không?
(Linh hồn; Cái Ve – Khái Hưng)
+ Khoảng cách giữa tình yêu và hôn nhân có phải bao giờ cũng ngắn và những người
yêu nhau luôn mong mỏi rút ngắn “thời chưa cưới” không? (Thời chưa cưới – Khái Hưng)
+ Lầm lỗi trong tình yêu đáng trách đến mức nào? (Dưới ánh trăng, Đợi chờ – Khái
Hưng)
Câu trả lời và cách trả lời các câu hỏi toát ra những ý tưởng thâm trầm, nhiều khi bộ lộ rõ cảm quan đời sống của hai tác giả. Chẳng hạn, cảm quan ấy bộc lộ qua các quan niệm về chân – thiện – mỹ; về giá trị của cá nhân và lý tưởng nhân văn …
Trước những câu hỏi đại loại như thế, nhiều khi, câu trả lời của hai nhà văn, về căn bản, là giống nhau, song, cách trả lời bằng nghệ thuật của họ lại rất khác nhau. So sánh truyện ngắn Nước chảy đôi dòng (Nhất Linh) với Bến đò xưa (Khái Hưng) sẽ thấy tâm trạng của nhân vật, thiên hướng tư tưởng của hai nhà văn có nhiều điểm khác biệt. Cả hai truyện đều dựa trên một tình tiết tương tự: nhân vật chính sau nhiều năm gặp lại người phụ nữ lái đò từng chở mình trên một con đò, ở một khúc sông. Song, một đằng là sự thức nhận của nhân vật về sự cách biệt giữa hai lối sống, hai hoàn cảnh (như “nước chảy đôi dòng”); một đằng là sự gặp gỡ và tiếp đón đầy thiện cảm giữa những người quen lâu ngày nhận ra nhau sau bao nhiêu thay đổi của cuộc sống.
Những quan niệm này bộc lộ qua một số loại nhân vật, nhất là các nhân vật chính trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng. Loại nhân vật nhận được cái nhìn trìu mến, đồng cảm của người kể chuyện, tác giả và bộc lộ một quan niệm thẩm mĩ, một mĩ cảm riêng qua các hình mẫu nhân vật sau :
- Người có lòng tốt, giàu tình thương như phần lớn các nhân vật nam nữ có học thức
trong truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng.
- Người có khát vọng tự do: Với lý tưởng đề cao tự do cá nhân, những nhân vật này có thể vấp sai lầm, thái quá, có thể là người dám sống tự do, bất chấp dư luận và người tự trói buộc (như cô Lạch), đối lập với những kẻ cam lòng chịu trói buộc (như cô Bìm) trong truyện ngắn Hai chị em của Nhất Linh; hoặc như nhân vật “sư bác” trong truyện ngắn Sư bác chùa Kênh cũng của tác giả này.
- Người có tâm hồn đẹp, trẻ, nhạy cảm, giàu mộng mơ, tiêu biểu là nhân vật người vợ
câm đánh dương cầm trong Tiếng Dương Cầm của Khái Hưng.
- Người có hiểu biết, có văn hóa được trí thức hóa và đô thị hóa, ngay cả khi họ đang sống ở chốn thôn quê tiêu biểu là nhân vật cô Tú trong Cô hàng nước của Khái Hưng.
- v.v.
2.2.3. Hình ảnh quê hương đất nước, cảnh quan thiên nhiên, sinh hoạt và những vẻ
đẹp khuất lấp
Cũng như trong Thơ Mới và phần lớn các tác phẩm thuộc bộ phận văn học công khai thời bấy giờ, ý thức dân tộc, tình cảm quê hương đất nước trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng thường bộc lộ một cách gián tiếp, thầm kín. Những tình cảm ấy ít nhiều tìm thấy trong các tác phẩm của TLVĐ nói chung, trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng. Đặc biệt tập trung là trong các tác phẩm viết về các nhân vật lịch sử như Linh hồn thi sĩ, Hoàng Oanh của Khái Hưng, hoặc ít nhiều mang màu sắc lịch sử như Vết thương, Hai buổi chiều vàng của Nhất Linh.
Qua các nhân vật của mình trong truyện ngắn, Nhất Linh, Khái Hưng còn bộc lộ một quan niệm sống mới – chú trọng giá trị cá nhân và tính nhân văn. Họ là những người có quan niệm riêng về sự sống/ cái chết theo nghĩa triết lý của khái niệm (như nhân vật Khương trong Chết dở – Nhất Linh). Họ miệt mài theo đuổi lý tưởng nhân văn của mình (như nhân vật Doãn trong Hai vẻ đẹp – Nhất Linh, nhân vật Trần Can trong Linh hồn thi sĩ – Khái Hưng), thực hiện hoài bão về tự do kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc của mình (như các nhân vật Phương trong Nắng mới trong rừng xuân, Hiệp trong Những ngày diễm ảo của Nhất Linh; hay nhân vật Bằng trong Bên đường dừng bước, nhân vật người chồng tên Minh trong Tiếng dương cầm của Khái Hưng). Cũng vì vậy, các nhân vật này thường sống có chủ kiến, có đam mê, có lòng tốt song cũng biết tận hưởng nhiều niềm vui sống ở đời.
Cùng với đề tài người bình dân, một số truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng như Người quay tơ (Nhất Linh), Biển (Khái Hưng), Trăng thu (Khái Hưng), Tương tri (Khái Hưng), Dọc đường gió bụi (Khái Hưng)… còn đề cao giá trị văn hóa của dân tộc. Truyện Trăng thu dẫn người đọc đến một đêm hát trống quân trên thuyền ở trên dòng sông Tô. Điệu hát trống quân mượt mà, êm ái không chỉ khiến con người xích lại gần nhau, trao gửi cho nhau những tình cảm đẹp đẽ, mà còn làm cho con người “cảm thấy mình sống trong một thế giới lạ lùng, một thế giới khác hẳn với cái thế giới bùn lầy nước đọng, làm ăn vất vả mọi ngày thường” (Khái Hưng, Trăng thu) [59, tr.432]. Tiếng hát trống quân ấy đã khiến anh Nhiêu biết mở lòng ra, trở thành một người chồng độ lượng, biết tôn trọng niềm say mê của vợ, cũng như những làn điệu chèo duyên dáng thiết tha đã níu giữ cô đào Mơ tài sắc lẫy lừng (Khái Hưng, Dọc đường gió bụi).
Ở truyện ngắn Tương tri (Khái Hưng), sự trân trọng những giá trị văn hóa tốt đẹp lại được thể hiện ở tấm lòng ngưỡng mộ tài năng, nhân cách của một ông lão đánh cờ. Với Chùa Hương, tình yêu đất nước quê hương gắn liền với sự gìn giữ cảnh vật thiên nhiên, với những truyền thuyết đầy màu sắc huyền thoại Liêu Trai.
Hơn thế nữa, hình ảnh quê hương đất nước, cảnh quan thiên nhiên, sinh hoạt và những
vẻ đẹp khuất lấp còn có thể xem như một nội dung tự sự trong truyện ngắn của hai ông.
Đây là một nội dung đặc sắc và khá phong phú trong truyện ngắn của hai tác giả, đã đưa lại cho người đọc nhiều hình ảnh về thiên nhiên diễm ảo, sinh hoạt giàu chất thơ. Tác phẩm của họ đã khéo phô diễn những vẻ đẹp của thiên nhiên miền trung du Bắc Việt, góp phần làm nên linh hồn câu chuyện, chứ không phải theo công thức phong vân tuyết nguyệt đầy ước lệ của phần lớn thơ văn cũ. Lê Đình Kỵ đánh giá cao văn xuôi lãng mạn vì “chính bắt đầu với văn xuôi lãng mạn thì tình cảm thiên nhiên mới trở thành cảm hứng sáng tác, chân thực và đậm sắc thái cảm xúc” [88, tr.88].
“Trăng, nước và âm nhạc, nhan nhản tả trong thơ Tàu, không bao giờ tôi cảm thấy có
liên lạc nhịp nhàng với nhau bằng cái đêm trăng trên sông Đáy.
Anh Đạt, một tài tử, thổi chiếc ống tiêu mà anh đã mang theo. Đêm khuya, trăng ngả về tây, lượn chung quanh thuyền trên con sông khúc khuỷu, khi ở đằng mũi, khi ở đằng lái, khi sang bên tả, khi sang bên hữu, như múa khúc nghê thường theo điệu tiếng trúc véo von, giải lụa vàng thướt tha bay trong sương, dịu dàng lướt trên mặt nước. Tiếng bổng cất cao tận đỉnh trời xanh. Tiếng trầm rơi trên làn sóng tan trong nhịp chèo. Âm nhạc ngừng, tiếng ngân
Viết về Chùa Hương (Chùa Hương), một thắng cảnh của đất nước, Khái Hưng đã bắt đầu bằng những dòng đầy xúc cảm xen lẫn hoài niệm như sau: “đối với tôi, chùa Hương sẽ mãi mãi là một cảnh bồng lai huyền ảo, mịt mùng trong tưởng tượng dễ dàng của tuổi thơ, và âm thầm trong đêm trăng, trên sông Đáy, lẫn với kỷ niệm tươi đẹp của thời xấp xỉ hai mươi.” (Khái Hưng, Chùa Hương) [59, tr.218]. Và rồi nhà văn dẫn dắt người đọc đến những cảnh sắc đầy thơ mộng, nhuốm màu huyền thoại như trong truyện Liêu trai của cảnh chùa Hương, sông Đáy, bến Đục như sau:
như còn kéo dài trong yên lặng của ban đêm, lưu luyến với luồng ngấn trắng chuyển động chạy sau thuyền.
(…)
Bến Đục!
Từ đó vào tới chùa ngoài, cái suối nước phẳng lặng đưa chiếc tam bản mỏng mảnh của chúng tôi, cùng với hàng chục chiếc tam bản đầy chật khách lễ chùa, lượn quanh những quả núi nhỏ và xinh như những hòn non bộ bày trong bể cạn.” (Khái Hưng, Chùa Hương) [59, tr.220-221].
Viết về Bến Hòn Gai, Khái Hưng đã có những câu văn đầy những so sánh độc đáo:
“Bến Hòn Gai chìm dần trong đêm tối. Phía trước mặt, những cù lao đủ hình quái dị cắt lên nền trời đông sắc xám. Những con vật khổng lồ ấy, những con gấu, sư tử, phượng hoàng, cá sấu ấy như vừa từ dưới nước nhô lên và nhe nanh, quắp mỏ, hùng hổ bơi sấn vào bến mà nuốt chửng đàn thuyền gỗ nhỏ nối nhau nằm chúc đầu vào bờ, xòe ta như cái đuôi công xòe múa.” (Khái Hưng, Bến Hòn Gai) [59, tr.199].
Hay là cảnh thung lũng Ý Lìn Hồ kỳ vĩ như “một bức tranh Tàu nét vẽ già dặn, hình
sắc nhịp nhàng” của Khái Hưng:
“Thung lũng Ý Lìn Hồ, chiều chiều ngồi chơi trên hòn Núi Đen hay dạo mát trên những con đường cao, tôi thường đứng lại ngắm. Nó ở sâu hoắm, sát ven sườn Phan – xi – păng. Hai bên dòng nước trắng long lanh khuất hiện trong những khóm mai, rải rác những túp nhà tranh nhỏ xíu, trông như những đồ chơi bằng sành mà người ta gắn vào cái non bộ nhẵn nhụi, xinh xẻo. Có khi trong một vùng u ám dưới sương, mây mù che phủ, thung lũng Ý Lìn Hồ tựa như một cảnh thần tiên hiện ra, rực rỡ ánh nắng vàng, hiện ra mấy phút rồi lại lẩn vào trong sương mờ, mây trắng từ ngọn núi chìm dần xuống.
Đây là cảnh đêm trăng thu đẹp một cách kỳ ảo, lạ lùng, khi “… ánh trăng thu như có phép huyền bí, màu nhiệm làm cho vụt trở nên một cảnh khác hẳn, một cảnh dịu dàng, đầy thơ và đầy mộng. (…) Hình như ai nấy cùng cảm động để trí bình tĩnh mơ màng theo con thuyền êm lặng lướt trên mặt nước sông bằng phẳng, lờ mờ phản chiếu bóng cây đa xù xì, cây gạo cao vút, cây xoan mảnh khảnh, những khóm tre rậm rạp hay xơ xác, ngả nghiêng và những lò gạch vắt ngang một làn khói trắng đặc, hoặc đổ nát, bỏ hoang bên những túp lều tre tường xiêu, mái sụp. (…) Và tôi thoáng cảm thấy trong giây phút, rằng nếu mặt trời là của sự hùng tráng, của sự rực rỡ, của các màu xán lạn, huy hoàng, của trăm tiếng chim đua hót, của
(…) Cảnh Ý Lìn Hồ hùng vĩ và đẹp lạ. Cái lạch nước êm lặng mà tôi thấy khi ngồi ngắm từ đỉnh đồi cao, kỳ thực là một con sông, nước réo ầm ầm, dữ dội như tiếng thủy triều đương dâng. Đứng trên cầu mây, tôi chóng mặt, rợn người nhìn bọt sóng sùng sục sôi lên quanh những tảng đá đen lớn.” (Khái Hưng, Tiếng khèn) [59, tr.266-267]
trăm thức hoa đua nở khoe tươi, của trăm sự hành động, cạnh tranh, chiến đấu rộn ràng, thì trái lại, mặt trăng chỉ riêng của một sự yên lặng.” (Khái Hưng, Trăng thu) [59, tr.423-424]
Và đây là cảnh Từ Lâm: “xa xa toàn là núi, ngọn nọ ngọn kia không dứt, sắc núi màu lam, buổi sáng buổi chiều mây bay sương phủ. Từ Lâm là một cái làng nhỏ ở chân đồi, vẻ đặc sắc nhất là tĩnh, có con sông con , sắc nước trong xanh chảy từ từ trong lòng cát trắng (…) , Tuy không phải là nơi danh thắng, non không cao, nước không sâu, nhưng có vẻ điều độ, ân ái, dễ xiêu người.” (Nhất Linh, Giấc mộng Từ Lâm) [39, tr.30-31].
Rõ ràng, Khái Hưng là một nhà văn của Cái Đẹp, chắt chiu cái đẹp của thiên nhiên, của con người; văn chương của ông thực sự đã bảo tồn cái đẹp có giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc.
Nhất Linh, nhà văn nặng tình với dân tộc, cũng thật dồi dào với những trang văn tả cảnh thiên nhiên miền Bắc Bộ đẹp như những bài thơ. “Trời đông mưa phùn lấm tấm. Bên kia dãy nhà lá núp dưới chân đê Yên Phụ, nóc không cao quá mặt đường, nước Hồ Tây mù mịt, bát ngát, mênh mông, như một cửa biển chìm đắm trong cảnh sương mù buổi sáng. Đứng nhìn xuống, con đường lát gạch lờ mờ quanh co tựa con rắn nâu dài quặn mình lượn khúc ở giữa hai làn nước xám.” (Nhất Linh, Dưới bóng hoa đào) [39, tr.105].
2.2.4. Những băn khoăn về cảnh ngộ, nhân cách của giới bình dân và âm hưởng
phân tích xã hội, phê phán hiện thực
Đó là số phận gia đình nhà anh phó nề Thức (Khái Hưng, Anh phải sống), sống trong “gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.105] trên đê Yên Phụ và trên chiếc “phản gỗ không chiếu” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.105] là ba đứa con nhỏ đang khóc lóc gọi mẹ vì đói. Thằng Bò khát sữa kêu gào đòi bú. Nguồn sống chính của gia đình là ngày ngày ra giữa dòng sông vớt củi đem bán nên hai vợ chồng anh Thức và chị Lạc trông mong ngày có nước to, củi tràn về nhiều. Tình thế khó khăn, cái nghèo cái đói
Đề tài người bình dân là một mảng đề tài lớn trong truyện ngắn Khái Hưng. Các truyện ngắn viết về đề tài này, phần lớn ra đời trong khoảng thời gian từ 1939 – 1940, là thời kỳ cao trào đấu tranh Mặt trận dân chủ diễn ra sôi nổi. Giai đoạn này, vấn đề người bình dân, người lao động được nhiều nhà văn chú ý. Nếu như văn học hiện thực phê phán đã xây dựng được chân dung “người lao động, người nhà quê” điển hình như anh Pha (Bước đường cùng – Nguyễn Công Hoan), chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố)… thì trên báo Ngày Nay của các nhà văn Tự Lực văn đoàn cũng mở mục “Bùn lầy nước đọng”. Chuyên mục này đăng một số phóng sự điều tra về nông thôn, sau đó đăng một số truyện ngắn về nông thôn và người nông dân: Con trâu, Sau lũy tre, Những ngày thơ ấu. Các cây bút chủ lực của Tự Lực văn đoàn chuyển từ lãng mạn sang hiện thực. Khái Hưng viết một loạt truyện: Anh phải sống, Người vợ mù, Cái ve, Dọc đường gió bụi, Đào mơ, Cô hàng nước, Dưới ánh trăng, Biến đổi... đề cập đến số phận của những người dân nghèo “chân lấm tay bùn”, quanh năm đầu tắt mặt tối.
của gia đình, đã khiến họ quên mình, phó mặc số phận cho dòng nước. Giữa lúc “gió vẫn to, vù vù, gầm hét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm chảy nhanh như thác. (…) Da trời một màu đen sẫm” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.107], hai vợ chồng vẫn phải lao ra giữa dòng nước chảy xiết để vớt củi. Con thuyền nhỏ như “chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.108]. Rồi chiếc thuyền nan lật sấp. Chị Lạc buông tay, chịu chết chìm trong dòng nước để anh Thức được sống vì còn ba đứa con côi cút trông vào sức lao động của anh. Kết thúc của câu chuyện là hình ảnh “Đèn điện sáng rực suốt bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỡ đứng bên cạnh. Đó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy sinh vì lòng thương con. Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.” (Khái Hưng, Anh phải sống) [59, tr.110]. Tác phẩm khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương vô hạn những kiếp đời khốn khổ. Một kết thúc đầy ám ảnh, day dứt người đọc khác gì kết thúc truyện với hình ảnh những đứa con thơ bơ vơ vì mất mẹ trong Nhà mẹ Lê của Thạch Lam. Với tác phẩm Anh phải sống, Khái Hưng đã cho chúng ta có một cái nhìn khác về nhà văn, ông không chỉ là một nhà văn lãng mạn, mà hơn thế, nhà văn đã vượt khỏi thiên kiến giai cấp của mình để chia sẻ, đồng cảm với sự cùng quẫn của những người dân nghèo. Và vì thế, Anh phải sống xứng đáng là một tác phẩm hiện thực xuất sắc.
,
Viết về những người nghèo, hai tác giả đặc biệt quan tâm và dành nhiều tình cảm cho những người phụ nữ. Những người phụ nữ trong các truyện của họ phần lớn đều là những người phụ nữ nghèo và cuộc đời họ luôn gặp phải những bất hạnh, những trắc trở, luôn phải đối mặt với cuộc sống thiếu thốn về vật chất và cả về tinh thần. Đó là Liệt, một cô gái “nức tiếng là xinh nhất làng Nghi Hồng. Đôi khi quán sớm chợ chiều, cái sắc đẹp tươi tắn, cái vẻ duyên mặn mà của nàng đã làm xiêu lòng bao khách đi đường” (Nhất Linh, Giết chồng báo thù chồng) [39, tr.135], làm vợ của ông chánh tổng không bao lâu thì ông chết một cách đột
Trong hàng loạt các tác phẩm khác của Khái Hưng, Nhất Linh như: Cái Ve, Xanh cà bung, Người vợ mù, Lòng tốt, Hai vẻ đẹp, Cúng rượu ..., ta còn bắt gặp hình ảnh những người dân nghèo gầy gò, “nét mặt tiều tụy, quần áo rách rưới”. Trẻ con thì “trần truồng, (…) bụng to và hai chân lẳng khẳng trông tựa một con nhái dựng đứng” (Nhất Linh, Hai vẻ đẹp) [39, tr.230]. Những người nhà quê nghèo khổ ấy “như bị chìm đắm vào trong đêm tối; họ đã quen đi rồi, mà từ xưa tới nay không có một người nào bảo cho họ biết tình cảnh của họ” (Nhất Linh, Hai vẻ đẹp) [39, tr.244]. Cuộc sống của họ là ở trong những túp lều “xiêu vẹo bẩn thỉu (…) dựng tạm bợ để che mưa che nắng” (Khái Hưng, Xanh cà bung) [59 tr.386] của môi trường ô nhiễm đầy “mùi hôi thối và những vật dơ dáy” (Khái Hưng, Xanh cà bung) [59, tr.382]. Trong truyện ngắn Nghèo, Nhất Linh miêu tả cảnh khốn cùng của đôi vợ chồng bị sa cơ lỡ vận, phải sống một cảnh đời nghèo khổ, tăm tối, nặng trĩu âu lo, không lối thoát: “Không có một làn gió nhẹ, vải màn rủ nặng nề xuống chiếu. Trọng tưởng như nằm trong một cái ngục tối, và tưởng thấy thấm vào người cái hơi nóng của một cái vạc dầu để gần đó. Chàng gục đầu vào cánh tay, nhắm chặt mắt lại và muốn đắm mình trong giấc ngủ như một người đắm mình trong cõi chết” (Nhất Linh, Nghèo) [39, tr.212].
ngột. Trước cái chết đầy bí ẩn của chồng, bằng trí thông minh, sự kiên cường hiếm có, không ngại gian khổ, và một niềm tiết liệt son sắt, Liệt đã truy tìm được kẻ sát nhân, báo thù cho chồng mình.
Đó là một cô Tẹo trong sáng, ngây thơ bị phụ tình, rồi mang thai phải tự tử chết (Khái Hưng, Dưới ánh trăng). Một cô Ve (Khái Hưng, Cái Ve) nghèo, xấu xí, bị sự xa lánh, hắt hủi của người đời. Một cô đào Mơ (Khái Hưng, Đào Mơ, Dọc đường gió bụi) tài sắc nổi tiếng, hay một chị Đông (Khái Hưng, Bến Hòn Gai) xinh đẹp nhưng lận đận trong cuộc đời.
Đó còn là cuộc đời một người đàn bà bán hàng nước sống cuộc đời sa sút “trong túp lều tranh xơ xác với bà mẹ già đầu tóc đã bạc phơ” (Nhất Linh, Tiếng kêu thương (Lời người đàn bà bán hàng nước)), [39, tr.276] mà mỗi chiều về, nghe tiếng sáo lại “tưởng như là tiếng than khóc của tâm hồn (…), tâm hồn người đàn bà đương độ thanh xuân, đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp mà số phận đã bắt phải mãi mãi sống những ngày tuyệt vọng của cái đời trụy lạc này” [39, tr.282]. Đoạn cuối tác phẩm là những dòng văn thật cảm động mà nhân vật người đàn bà tự bộc lộ: “Tôi yên lặng ngồi ngắm cái cảnh nhìn đã quen mắt trước cửa hàng, cái cảnh tồi tàn, đìu hiu, hình ảnh cuộc đời tôi; một bụi chuối xơ xác, mấy chiếc xe sắt mui đã tả tơi đổ bên cái cầu gỗ sơn đen, bắc ngang một con sông nước không bao giờ chảy.” [39, tr.282].
Không chỉ trân trọng phẩm chất tốt đẹp của những con người nghèo khổ, bất hạnh, mà trong những trang viết của mình, nhà văn còn bênh vực họ. Chị Hiên, sống cuộc đời nghèo khổ, đầu đường xó chợ, vì hết lòng với chồng mà phải đi ăn trộm. Kết thúc tác phẩm, nhà văn viết: “Cái đời đầu đường xó chợ ấy ngay từ thuở còn nhỏ đã dạy cho tôi hiểu rằng: muốn cho người ta dễ có lòng thiện thì phải làm thế nào cho người ta khỏi nghèo khổ, mà một xã hội nghèo khổ thì bao giờ cũng dễ thành một xã hội xấu xa” (Nhất Linh, Đầu đường xó chợ) [39, tr.154].
Ở truyện Dưới ánh trăng, tác giả lên án kẻ gây ra nỗi bất hạnh của cuộc đời cô gái bằng một lời tự thú của nhân vật Văn: “Người ta đương sống với cái đời giản dị, bình thường của người ta, tự nhiên mình về quyến rũ người ta. Rồi khi mãn nguyện thì bỏ mặc người ta, như thế không gọi là khốn nạn thì gọi là gì?” (Khái Hưng, Dưới ánh trăng) [59, tr.330].
Rõ ràng, khi miêu tả người phụ nữ nghèo, dù là nông dân hay dân nghèo thành thị, Nhất Linh, Khái Hưng đều bộc lộ cảm tình đối với họ, cảm thông với sự nghèo khổ, lạc hậu, thiệt thòi của họ. Và vì thế mỗi tác phẩm của hai nhà văn đều là một “ô cửa” để nhìn thấy những cảnh đời, những duyên phận của con người. Với một cái nhìn nhân văn, nhà văn không chỉ cảm thông mà còn trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của họ. Chị Lạc (Khái Hưng, Anh phải sống) hy sinh thân mình, đã chịu dòng nước xiết cuốn trôi để chồng con được sống. Cô Ve (Khái Hưng, Cái Ve) dẫu xấu xí về hình thức bề ngoài song có tâm hồn nhân hậu và tràn đầy khát vọng về tình yêu con người. Đào Mơ (Khái Hưng, Dọc đường gió bụi) xinh đẹp, hát hay, tiền bạc cũng không khuất phục được lòng đam mê nghề nghiệp.
Ta còn thấy một số truyện ngắn của hai tác giả đề cập đến những vấn đề triết lý nhân sinh. Đây là những bài học nhà văn viết qua sự từng trải, chiêm nghiệm lẽ đời. Qua những truyện ngắn này, người viết hoặc trực tiếp phát biểu quan điểm triết lý của mình, hoặc để người đọc tự rút ra những ý nghĩa triết lý qua hình tượng nghệ thuật. Đó là những triết lý về hạnh phúc “Hạnh phúc chỉ ở trong sự yên lặng” (Khái Hưng, Tiếng dương cầm) [59, tr.23]; “Phải làm thế nào cho hạnh phúc ở đời phải ở mình, chỉ ở mình thôi (…) Hạnh phúc chỉ ở lòng mình, hạnh phúc ở sự yên tĩnh của tâm hồn” (Nhất Linh, Cái tẩy) [39, tr.342-343].
Trong truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng, ta còn bắt gặp một triết lý khác về danh dự và ý nghĩa của cuộc sống. Đoạn cuối tác phẩm Hai chị em, Nhất Linh để cho nhân vật tôi tự kết luận: “Lẽ cố nhiên là Bìm được trọng vọng và Lạch bị khinh rẻ. Nhưng đời một người bán thân bằng số tiền mấy chục bạc để về làm nô lệ một đứa bé hỉ mũi chưa sạch, đời một người vẫn được tiếng là con hiền, dâu thảo, đứng đắn, nết na, cái đời lương thiện ấy khốn nạn quá, bẩn thỉu quá đến nỗi tôi lưỡng lự không biết có thể đặt lên trên đời Lạch, một con đĩ, được không? Đời Lạch tuy xấu xa nhưng còn là đời một người, và Lạch tuy làm đĩ, nhưng còn biết mình làm đĩ, không ù lì như một con trâu người ta trả tiền lôi đi vì nó được việc. Bìm khình Lạch, nhưng thật ra Bìm không có quyền ví mình với Lạch, một người đã có hơn nàng cái giá trị làm một người.” (Nhất Linh, Hai chị em) [39, tr.273]. Ở Hai cảnh trụy lạc, nhân vật Bản đã nói: “Ở đời chỉ có sự lười biếng, sự ỷ lại là bê tha (…) Không có sự gì làm (…) đau lòng bằng ngắm cảnh một người không còn sung túc mà cứ muốn có cái hào nhoáng của một người sung túc” (Khái Hưng, Hai cảnh trụy lạc) [59, tr.56].
Trong các âm hưởng phân tích xã hội, phê phán hiện thực luôn có âm hưởng luận đề
cũng như tinh thần phân tích tâm lý.
Nhất Linh, Khái Hưng thường được xem là các nhà văn lãng mạn, nhưng thực ra, hai ông còn là những nhà văn phản ánh được hiện thực cuộc sống. Bằng sự mẫn cảm của mình,
Ở một truyện ngắn khác, Khái Hưng lại cảnh báo người đọc ở cách xử thế qua triết lý: Con người tuy “vốn sẵn có lòng tốt. Song chỉ có lòng tốt liệu đã đủ chưa?” [59, tr.71]. Có khi vì bản tâm tốt, “sốt sắng làm điều thiện quá” [59, tr.71] mà “gây nên toàn những sự tai hại cũng chưa biết chừng” (Khái Hưng, Con chim vành khuyên) [59, tr.71]. Vì vậy, có những việc ta tưởng ta làm phúc cho người khác nhưng tác dụng lại ngược lại. Bởi vậy trước khi làm việc gì ta phải cân nhắc cho cẩn thận. Truyện Một nhà hiền triết lại là câu chuyện của một thanh niên tên là Đoàn chuyên chỉ tuân theo một triết lý “chẳng đi đâu mà thiệt”. Rồi một lần Đoàn gặp hạn, mắc phải một món nợ lớn. Anh phải vào tù. Có một người nào đó đã trả món nợ cho anh và anh được tự do. Sau này, Đoàn mới biết người trả nợ cho anh là Châu. Châu là người tình ngày xưa của Đoàn mà Đoàn từng cưu mang và đối xử đàng hoàng mặc dù Châu đã phản bội Đoàn để đi theo người khác. Bây giờ Châu đã lấy một người chồng giàu có. Và như vậy, triết lý “Chẳng đi đâu mà thiệt” của Đoàn đã “đắc đạo”. Như một nhà hiền triết, Khái Hưng đã gửi đến cho người đọc một triết lý: cuộc đời rất công bằng, nếu anh ăn ở như thế nào, anh sẽ được đối xử lại như thế. Rõ ràng “chẳng đi đâu mà thiệt” (Khái Hưng, Một nhà hiền triết).
lắm khi họ cũng đã nói lên được những vấn đề nhức nhối, nóng bỏng của cuộc sống, cùng những gì mà người nghệ sĩ và nhân vật của họ hằng thao thức, băn khoăn. Những khi ấy tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng mang đậm âm hưởng luận đề và tinh thần phân tích tâm lý. Ví dụ: Giàu – nghèo có phải luôn luôn đối kháng không, có kết bạn được với nhau không? Nhất Linh, Khái Hưng, qua truyện ngắn của mình, muốn trả lời phần nào câu hỏi đó; Thêm nhiều câu hỏi mang tính luận đề khác: Nông thôn và thành thị, có thể xóa bớt khoảng cách được không? Muốn rút bớt được khoảng cách đó, người ta phải làm gì, đưa trí thức về nông thôn để nâng cao dân trí (Giấc mộng Từ Lâm – Nhất Linh)? Những mối thù dòng họ, của thế hệ trước có nên nuôi mãi, bằng cách nào để những người thù địch có thể giao hảo, kết nối với nhau (Cái thù ba mươi năm – Khái Hưng)?
Cùng với âm hưởng luận đề là tinh thần phân tích tâm lý. Các nhà văn, bằng sự hiểu biết tâm lý con người của mình, dẫn người đọc vào thế giới tinh thần nhân vật bằng sự miêu tả, phân tích tâm lý. Tâm lý nhân vật tôi trong Cái tẩy của Nhất Linh (với nỗi ám ảnh vượt thời gian về cái tẩy và cơn giận dữ của một ông giáo, tạo một cú hích làm biến đổi hẳn số phận người học trò đáng thương). Rồi tâm lý của các thiếu nữ đang yêu (Cái Ve – Khái Hưng), tâm lý của chàng trai thành thị hay người đi xa về làng (Dưới ánh trăng – Khái Hưng). Nhà văn thường hãm chậm lại, phóng to lên, thuyết minh, diễn giải các trạng thái tâm lý để người đọc cảm thấy được và cùng phiêu lưu trong thế giới chìm khuất, tiềm ẩn ấy của nhân vật.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
“Tôn chỉ mục đích” của TLVĐ rõ ràng không chỉ có ý nghĩa định hướng cho sáng tác tiểu thuyết mà còn cả sáng tác tiểu thuyết của nhóm, nhất là sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng.
Nội dung tự sự và những nguồn cảm hứng chính bộc lộ khuynh hướng tư tưởng của TLVĐ trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng theo khảo sát của luận văn, thường tập trung vào các chủ điểm như: Ủng hộ quan niệm mới về tình yêu – hôn nhân, gia đình; công khai đề cao, cổ vũ con người hành động cải cách, cải tạo xã hội; miêu tả thể hiện vẻ đẹp thể chất và thế giới tinh thần của con người cá nhân; thể hiện hình ảnh quê hương đất nước, cảnh quan thiên nhiên, sinh hoạt và những vẻ đẹp khuất lấp; bày tỏ những băn khoăn về cảnh ngộ, nhân cách của giới bình dân và âm hưởng phân tích xã hội, phê phán hiện thực…
Đó cũng chính là những nội dung góp phần thực hiện những điều tâm niệm nhằm phát
triển văn hóa, văn học dân tộc của TLVĐ.
CÁC LOẠI HÌNH TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH, KHÁI HƯNG TRONG TƯƠNG QUAN VỚI CÁC LOẠI HÌNH TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
CHƯƠNG BA
Tìm hiểu truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, từ phương diện nghệ thuật, trong mối liên hệ với nghệ thuật tiểu thuyết của TLVĐ, một loạt câu hỏi đặt ra với tác giả luận văn: Có mối quan hệ nào không giữa đặc điểm thể tài tiểu thuyết TLVĐ với đặc điểm thể tài truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng? Các phương thức, kĩ thuật tự sự được hai ông thể nghiệm và sử dụng thành công trong tiểu thuyết có được phát huy (ở một mức độ nào đó) trong khi viết truyện ngắn hay không? Có yếu tố nào vốn là kĩ thuật của tiểu thuyết được hai ông chuẩn bị trước qua truyện ngắn hay sử dụng đồng thời trong khi sáng tác truyện ngắn hay không?
Những câu hỏi như thế sẽ tìm được câu trả lời trực tiếp hay gián tiếp qua các nội dung
cụ thể trong chương này.
Về phương pháp nghiên cứu, một khi việc tìm hiểu nội dung, cảm hứng truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng được tiến hành theo cách liên hệ, đối chiếu với đặc điểm nội dung cảm hứng tiểu thuyết của hai ông thì việc tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn của hai nhà văn này cũng phải được tiến hành theo cách đó: liên hệ đối chiếu với các đặc điểm hình thức của tiểu thuyết.
Mặt khác, các dạng thức tồn tại của tác phẩm văn học, xét từ góc độ thể tài, luôn hàm chứa trong nó những nét khu biệt mang tính loại hình. Do vậy, cần có một cách tiếp cận đặc thù: phương pháp nghiên cứu thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn theo loại hình.
3.1. Đặc điểm hình thức và những cách tân nghệ thuật của xu hướng tiểu thuyết TLVĐ
Đến thời của Nhất Linh, Khái Hưng tiểu thuyết đã tưởng thành. Có thể gọi đây là thời của tiểu thuyết, hay đúng hơn thời của tư duy tiểu thuyết phát triển trong văn xuôi quốc ngữ. Tư duy tiểu thuyết, tất nhiên không phải là phương thức tư duy nghệ thuật độc quyền của tiểu thuyết: trong khi tiếp cận hiện thực đời sống theo phương thức tư duy này, nhà văn còn có thể sáng tác tiểu phẩm, bút ký, phóng sự… Tuy vậy, thể loại phát huy cao độ công năng của tư duy tiểu thuyết, chắc hẳn phải là tiểu thuyết. Mà thời Nhất Linh, Khái Hưng viết văn trong TLVĐ, người ta có xu hướng gọi chung truyện ngắn (đoản thiên), truyện vừa (trung
Mười thế kỉ văn học Hán Nôm Việt Nam, nhìn từ ưu thế của các thể loại, có thể gọi là thời của thơ, phú. Cuối thế kỉ XIX, bắt đầu thấy xuất hiện du ký rồi tiểu thuyết quốc ngữ, thay thế dần cho truyện, ký chữ Hán và truyện thơ. Văn học buổi giao thời vẫn còn ngổn ngang vật liệu như một đại công trường với bao nhiêu hạng mục chưa kịp thi công. Trong bức tranh thể loại của nền văn học chưa trưởng thành khi ấy, tiểu thuyết còn quá non trẻ.
thiên) truyện dài (trường thiên) là “tiểu thuyết”. Khác nhau, chỉ ở quy mô tự sự (“cỡ nhỏ”, “cỡ vừa” hay “cỡ lớn”).
Vì vậy, hoàn toàn có cơ sở khi chúng ta tìm hiểu phương thức, phương tiện, kĩ thuật tự sự chung cho cả tiểu thuyết và truyện ngắn, đồng thời với việc tìm kiếm những nét khu biệt, đặc thù cho mỗi thể loại.
Theo đó, từ những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết TLVĐ đến những cách tân trong nghệ thuật truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng rõ ràng là có một mối liên hệ mật thiết. Rất có thể cả hai nhà văn đã dùng các sáng tác truyện ngắn như là cơ hội thử nghiệm kĩ thuật tiểu thuyết; đồng thời khai thác các yếu tố kĩ thuật hay những thủ pháp đắc dụng của tiểu thuyết để sáng tác truyện ngắn.
Theo đó, có hai cấp độ cần tìm hiểu: khuynh hướng phát triển thể tài và mô hình kĩ
thuật của tiểu thuyết truyện ngắn TLVĐ.
3.1.1. Thể tài và quá trình vận động của tiểu thuyết TLVĐ
Trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX – theo nhận định của Nguyễn Thành Thi, nhìn từ sự vận động, giao thoa thể loại – mỗi trào lưu văn học công khai đều hình thành tồn tại và phát triển ba khuynh hướng thể tài. Ba khuynh hướng thể tài tiểu thuyết thuộc trào lưu văn học hiện thực chủ nghĩa là (HTCN): thuyết lý đạo đức; miêu tả hiện thực xã hội; miêu tả hiện thực tâm lý, còn ba khuynh hướng thể tài tiểu thuyết TLVĐ, trong trào lưu văn học lãng mạn chủ nghĩa (LMCN) là: tiểu thuyết luận đề; tiểu thuyết phân tích xã hội; tiểu thuyết phân tích tâm lý. [170]
Căn cứ vào thực tiễn sáng tác, xuất phát từ tác phẩm tiểu thuyết của TLVĐ, trên đại thể, có thể vạch ra các đặc điểm loại hình của mỗi khuynh hướng tiểu thuyết – luận đề, phân tích xã hội, phân tích tâm lý – như sau:
3.1.1.1. Tiểu thuyết luận đề:
Ở đây, có một sự tương ứng gần như “một đối một” về khuynh hướng phát triển thể tài rất đáng lưu ý giữa trào lưu văn học HTCN và trào lưu văn học LMCN. Theo đó trong một cái nhìn đồng đại, ta có các cặp đối sánh: tiểu thuyết thuyết lý đạo đức (HTCN) – tiểu thuyết luận đề (LMCN); tiểu thuyết miêu tả xã hội (HTCN) – tiểu thuyết phân tích xã hội (LMCN); tiểu thuyết phân tích hiện thực xã hội (HTCN) – tiểu thuyết phân tích tâm lý (LMCN). Sự khác biệt giữa các cặp đối vị này – cũng theo Nguyễn Thành Thi – là ở chỗ: “một bên nhà văn ưu tiên ý thức tuân thủ, tôn trọng “hiện thực” (khách quan, vốn có) còn một bên, lại ưu tiên ý thức sáng tạo tự do, phóng túng; “hiện thực” ở đây sẽ được tái tạo theo cái cách mà nhà văn quan niệm (chấp nhận sử dụng cái đột biến, bất thường hay yếu tố ngẫu nhiên trong khi miêu tả thực tại)” [170].
Khuynh hướng này ứng dụng các hình thức kĩ thuật nhằm quy chiếu cốt truyện, nhân
vật, trần thuật vào luận đề;
Mục đích chính của tác phẩm luận đề là đề xuất và minh chứng cho các tư tưởng, chủ đề chính luận; có tính nhận thức – dự báo. Nội dung nhận thức trong tiểu thuyết luận đề có nhiều điểm gần gũi với nội dung nhận thức trong khuynh hướng thuyết lý đạo đức. Tuy nhiên, đạo đức, đạo lý ở đây, khi được đề cập đến, thường không dựa trên lập trường truyền thống của nho gia hay của người xưa nói chung mà dựa trên lập trường duy tân, dân chủ, mang những xác tín chủ nghĩa cá nhân.
3.1.1.2. Tiểu thuyết phân tích xã hội:
Khuynh hướng này ứng dụng kĩ thuật phân tích các mâu thuẫn, các quan hệ xã hội, sử dụng đến một mức nào đó các phương thức điển hình hóa trong miêu tả nhân vật (chi tiết, hoàn cảnh, tính cách). Do vậy tiểu thuyết phân tích xã hội gần với tiểu thuyết phân tích hiện thực xã hội.
Chất liệu của tiểu thuyết phân tích xã hội cũng lấy từ hiện thực đời sống xã hội, song, thế giới nghệ thuật ở đây là hình bóng hiện thực khúc xạ mạnh mẽ qua lăng kính nhà văn; không phải một hiện thực như nó vốn có mà như tác giả hình dung. Các giải pháp xã hội thường được đề xuất một cách rất sốt sắng, song chúng mang nặng tính chất chủ quan, ảo tưởng…
3.1.1.3. Tiểu thuyết phân tích tâm lý:
Khuynh hướng này ứng dụng, thể nghiệm các phương thức kĩ thuật miêu tả, phân tích tâm lý khá hiện đại như kĩ thuật khắc họa tâm trạng, kết cấu tâm lý, miêu tả cảm giác, độc thoại nội tâm,…
Khuynh hướng này có những điểm tương đồng song cũng có một số khác biệt so với
Theo khuynh hướng này, nhà tiểu thuyết quan niệm về con người cá nhân như một cá thể đầy ắp những phức cảm tâm lý. Khi chọn một ca phức cảm tâm lý nào đó để “phân tích” bằng nghệ thuật tiểu thuyết, nhà văn không có ý định cắt nghĩa, lý giải nó mà đơn giản chỉ làm một cuộc thám hiểm thú vị, đầy tính phiêu lưu.
3.1.1.4. Quá trình vận động
Nhìn một cách tổng quá trình vận động, ba khuynh hướng tiểu thuyết nói trên hiện hữu
đủ ở cả ba chặng đường tiểu thuyết TLVĐ (1933-1936; 1936-1939; 1939-11942):
Chặng đường 1933-1936: Bắt đầu với tiểu thuyết luận đề (có sắc thái “tình cảm ái tình tục lụy”) với Hồn bướm mơ tiên, Gánh hàng hoa. Sau đó là tiểu thuyết luận đề phát triển theo hai nhánh hoặc đan xen hòa phối với nhiều yếu tố phân tích tâm lý như Đời mưa gió
tiểu thuyết phân tích hiện thực tâm lý.
(Khái Hưng – Nhất Linh), hoặc đan xen với yếu tố phân tích tâm lý và nhiều yếu tố phân tích xã hội như Tiêu Sơn tráng sĩ.
Chặng đường 1936-1939: Bên cạnh các tác phẩm tiểu thuyết luận đề đạt đến độ chín như Nửa chừng xuân (Khái Hưng), Đoạn tuyệt (Nhất Linh), Con đường sáng (Hoàng Đạo) có nhiều tác phẩm mang đậm tính chất tổng hợp về khuynh hướng thể tài: có tác phẩm là tiểu thuyết phân tích xã hội kết hợp với yếu tố luận đề như Gia đình, Thừa tự, Thoát ly (Khái Hưng); có tác phẩm là tiểu thuyết phân tích xã hội kết hợp với yếu tố luận đề và phân tích tâm lý như Lạnh lùng (Khái Hưng); có tác phẩm là tiểu thuyết phân tích tâm lý kết hợp với yếu tố phân tích xã hội như Đôi bạn (Nhất Linh).
Chặng đường 1940-1942: Đây là chặng đỉnh cao của tiểu thuyết phân tích tâm lý. Bướm trắng (Nhất Linh), Đẹp, Băn khoăn (Khái Hưng), đặc biệt Bướm trắng là bằng chứng cho việc đạt đỉnh này. Tuy nhiên, khuynh hướng thể tài vẫn không thuần nhất: tiểu thuyết phân tích tâm lý ở chặng đường này vẫn kết hợp với yếu tố phân tích xã hội như Đẹp, Băn khoăn (Khái Hưng), tuy rằng các yếu tố này so với chặng trước về mức độ có mờ nhạt hơn.
3.1.2. Về “mô hình chung” của tiểu thuyết TLVĐ
Về cấu trúc nghệ thuật, tiểu thuyết TLVĐ, nhất là tiểu thuyết luận đề, thường được
sáng tạo theo một mô hình chung khá nhất quán.
Tính chất thống nhất, tập trung về xu hướng thẩm mỹ của các tác phẩm tiểu thuyết trong khuôn khổ hoạt động sáng tác của TLVĐ thể hiện ở chỗ các tiểu thuyết ở đây dường như có thể soi chung vào một mô hình nghệ thuật. Mô hình này đã được Nguyễn Đăng Mạnh trong Giáo trình văn học Việt Nam 1930-1945 (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000) khái quát hóa và mô tả trên 5 loại yếu tố: đề tài, chủ đề; nhân vật lý tưởng; văn phong; cảm hứng chủ đạo; phong cách thể tài.
(1) Đề tài tiểu thuyết TLVĐ: Tiểu thuyết luận đề “chống lễ giáo phong kiến, khẳng định chủ nghĩa cá nhân như một tư tưởng tiến bộ tất yếu của sự phát triển xã hội” hoặc “cải tạo nông thôn và khẳng định chủ nghĩa cá nhân gắn liền với khẳng định một tư tưởng dân chủ, nhân đạo” (thực chất đây là những truyện tình gắn với những luận đề cải cách xã hội).
Về tính chất, chức năng, các truyện tình ở đây chỉ là phương tiện, nên người ta yêu
nhau say mà vẫn tỉnh, không đau khổ, tuyệt vọng, không thất tình.
Về sau mô hình tiểu thuyết TLVĐ mà Nguyễn Đăng Mạnh phác thảo nói trên được một người học trò của ông là Nguyễn Thị Tuyến, trong luận án tiến sĩ [190] có tên là Mô hình tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, (thực hiện và bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004) đã hệ thống hóa, khơi sâu thêm. Nguyễn Thị Tuyến đã xác lập mô hình ấy dựa trên bốn loại yếu tố trong cấu trúc nghệ thuật của tiếu thuyết TLVĐ, đại thể như sau (lược thuật theo Tóm tắt luận án tiến sĩ Mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn - tr. 8-15):
(2) Nhân vật lý tưởng của tiểu thuyết TLVĐ: thường là nam nữ thanh niên trí thức, thanh lịch, hào hoa, suy nghĩ, hành động như những “tín đồ” Âu hóa, những quân cờ để đánh một ván bài đắc thắng (khuếch trương Âu hóa).
(3) Kết cấu tiểu thuyết TLVĐ: Tác phẩm thường được kết cấu theo lối tổ chức các tình tiết xoay quanh một nhân vật trung tâm có vai trò trực tiếp phát ngôn tư tưởng chủ đề tác phẩm và tạo ra những tình huống để giúp nhân vật phát ngôn nhằm khẳng định những luận đề xã hội.
(4) Văn tiểu thuyết TLVĐ: Một thứ văn diễm tình “chàng nàng” du dương với lối trần
thuật một giọng.
Một mô hình tiểu thuyết như vậy rất có thể chưa khái quát hết được cấu trúc nghệ thuật trên thực tế của tiểu thuyết TLVĐ. Tuy nhiên, về cơ bản nó gợi nhắc được ý thức tuân thủ tôn chỉ mục đích của TLVĐ và cho thấy tính thống nhất từ nội dung đến hình thức trong sáng tác của các tiểu thuyết gia trụ cột của TLVĐ, đặc biệt là của Nhất Linh, Khái Hưng.
Chính tính thống nhất này cung cấp thêm cứ liệu để người ta tin rằng, trong một bối cảnh, không khí và ý thức sáng tác như vậy, sự tương tác thể loại sẽ còn tạo ra những điểm gặp gỡ, tương đồng thú vị, tất yếu giữa khuynh hướng thể tài, cấu trúc nghệ thuật của tiểu thuyết với truyện ngắn trong sáng tác của các cây bút TLVĐ.
3.2. Đặc điểm loại hình – cấu trúc của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng
Trong bối cảnh vận động, phát triển của VXNT TLVĐ, mà phần nào luận văn đã phác họa trên đây, có thể mô tả đặc điểm truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng theo ba khuynh hướng phát triển thể tài tương ứng với các khuynh hướng sáng tác tiểu thuyết của hai ông: truyện ngắn luận đề; truyện ngắn phân tích xã hội, truyện ngắn phân tích tâm lý.
Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng: việc phân chia tác phẩm tiểu thuyết theo thể tài thực tế sáng tác vốn phức tạp. Việc phân chia tác phẩm truyện ngắn theo thể tài, trên thực tế, càng phức tạp hơn. Hơn nữa, do đặc trưng “cỡ nhỏ” của truyện ngắn, việc xác định đường biên giữa các loại hình truyện ngắn so với tiểu thuyết, là có thể, song cũng không đơn giản. Một tác phẩm truyện ngắn ra đời nhiều khi không thuần nhất, nó có thể đồng thời dung hợp cả yếu tố luận đề, yếu tố phân tích xã hội, yếu tố phân tích tâm lý. Và như thế, mọi sự phân chia chỉ có tính tương đối. Tùy vào ý đồ, hiệu quả nghệ thuật của nhà văn mà các lằn ranh giữa các loại hình truyện ngắn vừa kể, có lúc đậm, có lúc nhạt, có thể rõ, có thể mờ.
Cũng do vậy, cách gọi tên, miêu tả đặc điểm các khuynh hướng này trong truyện ngắn càng phải mềm mại hơn. Khi phân loại và định danh các thể tài truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng, luận văn không nói hẳn là truyện ngắn luận đề/ phân tích xã hội/ phân tích tâm lý,… mà gọi là “truyện ngắn thiên về khuynh hướng…” luận đề/ phân tích xã hội/ phân tích tâm lý.
Sau đây là kết quả khảo sát phân loại truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng theo loại
hình – khuynh hướng thể tài:
Bảng 1: Khảo sát các khuynh hướng thể tài truyện ngắn Nhất Linh
TT Tên truyện
Luận đề LĐ - PTTL PTXH- TL LĐ - PTXH
Phân tích xã hội Phân tích tâm lý
Tập Người quay tơ
1 Người quay tơ x
2 Nô lệ x
3 Chiến tranh x
4 Giấc mộng Từ Lâm x
5 Sư bác chùa Kênh x
x 6
Làm gì mà băn khoăn thế
7 Giật mình tỉnh dậy x
x 8 người ca
Truyện kỹ họ Nguyễn
9 Bạch Liên x
10 Vuông vải trắng x
11 Sự thật ở miệng trẻ x
Tập Anh phải sống
12 Tháng ngày qua
x
13 Dưới bóng hoa đào
x
x
14 Bóng người trên sương
mù
x
15 Nắng mới trong rừng
xuân
x
16 Giết
chồng
báo
(Kịch)
thù chồng
17 Đầu đường xó chợ x
18 Nước chảy đôi dòng x
Tập Tối tăm
19 Thế rồi một buổi chiều x
20 Chết dở x
21 Nghèo x
22 Hai cảnh ngoài phố x
23 May quá x
24 Hai vẻ đẹp x
25 Hai chị em x
26 Tiếng kêu thương x
buổi chiều
Tập Hai vàng
27 Hai buổi chiều vàng x
28 Mười năm qua x
29 Cái tẩy x
30 Vết thương x
giấc mộng
32 Lan rừng
x
Tập Mối tình chân
33 Mối tình chân
x
34 Một buổi sáng
x
35 Cúng rượu
x
36 Lòng mẹ
x
37 Tam chiến Lã Bố
x
x 31 Câu chuyện mơ trong
38 Bao giờ em về x
Tập Những ngày diễm ảo
39 Những ngày diễm ảo x
40 Thương chồng x
Tổng cộng 9 7 11 4 8 1
Bảng 2: Khảo sát các khuynh hướng thể tài truyện ngắn Khái Hưng
TT Tên truyện
Luận đề LĐ - PTTL PTXH- TL LĐ – PTXH
Phân tích xã hội Phân tích tâm lý
Tập Dọc đường gió bụi
1 Dọc đường gió bụi x
2 Tiếng dương cầm x
x 3
Bên đường dừng bước
4 Cô hàng nước x
5 Hai cảnh trụy lạc x
6 Bãi sậy vườn cam x
x 7 chim vành
Con khuyên
8 Trong nhà thương x
9 Thưa chị x
10 Điên x
11 Anh phải sống
x
12 Tình tuyệt vọng
x
13 Sóng gió Đồ Sơn
x
x
14 Bên
dòng
sông
Hương
15 Tình điên
x
Tập Số đào hoa
16 Đi Nam Kỳ
x
Tập Anh phải sống
17 Linh hồn thi sĩ x
18 Hoàng Oanh x
x thù ba mươi
19 Cái năm
Tập Đợi chờ
20 Đợi chờ x
21 Bến Hòn Gai x
22 Biến đổi x
23 Chùa Hương x
24 Bến đò năm xưa x
25 Cháu nhà quan x
26 Sín Sáng x
27 Ngày giỗ x
28 Điếu thuốc lá x
29 Tiếng khèn x
30 Tống tiền x
31 Đào Mơ x
32 Đồng xu x
34 Dưới ánh trăng
x
Tập Hạnh
35 Hai người bạn
x
36 Tương tri
x
37 Thời chưa cưới
x
38 Một buổi chầu
x
Tập Cái Ve
33 Tập ảnh x
39 Một nhà hiền triết x
40 Xanh cà bung x
41 Người vợ mù x
42 Sư Tuệ x
43 Lòng tốt x
44 Linh hồn x
45 Trăng thu x
46 Biển x
47 Cái Ve x
Các truyện in báo
48 Lá thư rơi x
49 Tuổi mơ mộng x
50 Một tập thư x
51 Cháu Tạ x
52 Giai nhân x
53 Nhà phê bình x
54 Đêm giao thừa x
56 Cô áo trắng
x
57 Những ngày vui
x
58 Cô dâu
x
59 Mười năm yêu dấu
x
60 Người hầu sáng
x
61 Thời xưa
x
x
62 Lưu Bình – Dương
Lễ
55 Vui tính x
63 Chàng thi nhân x
64 Ái tình x
65 Nghiện x
66 Cái nhà x
67 Quá khứ x
Tổng cộng 7 12 12 22 14
Bảng 3: Đối chiếu tổng hợp số liệu truyện ngắn theo thể tài của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng:
– –
Tác giả Luận đề
LĐ PTXH (SL:%) LĐ PTTL (SL:%) PTXH- TL (SL:%) Số truyện KS (SL:%) Phân tích xã hội (SL:%) Phân tích tâm lý (SL:%) 3 4 5
9:22.50 7: 17.50 11:27.50 4: 10.00 8: 20.00 1:2.50 40
Nhất Linh
7:10.60 12:17.88 12:17.88 22:32.78 14:20.86 0:0.00 67
Nhận xét:
- Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng đều khá phong phú về khuynh hướng thể tài. Tính chất tổng hợp về khuynh hướng thể tài (LĐ-PTXH + LĐ-PTTL + PTXH-TL) trong sáng tác truyện ngắn của hai ông đều rất đậm (Nhất Linh: 32,50%; Khái Hưng: 53,64%). Tuy nhiên, sáng tác truyện ngắn của Nhất Linh có xu hướng tách biệt loại hình rõ hơn so với Khái Hưng: cả ba khuynh hướng luận đề, phân tích xã hội, phân tích tâm lý đều khá thuần chất và phân bố tương đối đều ở các tập truyện trong hai giai đoạn sáng tác đầu của ông (1927-1931; 1932-1935). Sáng tác truyện ngắn của Khái Hưng, trái lại ngay từ đầu đã có xu hướng tổng hợp thể tài, và càng về sau, xu hướng tổng hợp ấy ngày càng rõ: các yếu tố phân tích xã hội, phân tích tâm lý, nhất là yếu tố phân tích xã hội, hay yếu tố phân tích xã hội kết hợp với yếu tố phân tích tâm lý thường đậm nét hơn yếu tố luận đề.
Khái Hưng
- Truyện ngắn có khuynh hướng luận đề của Nhất Linh (chiếm 22,50%) nhiều hơn gấp hai lần so với Khái Hưng (10.86%); tuy vậy, càng về sau khuynh hướng này trong sáng tác của hai ông, đặc biệt là của Nhất Linh càng kém ưu thế về lượng so với các khuynh hướng thể tài khác.
- Truyện ngắn có khuynh hướng phân tích tâm lý của Nhất Linh chiếm tỉ lệ cao nhất (27,50%), cao hơn hẳn trong sáng tác của Khái Hưng. Đây là khuynh hướng thể tài càng về sau càng chiếm ưu thế lấn át so với các loại hình khuynh hướng thể tài khác, nhất là khuynh hướng luận đề trong sáng tác của Nhất Linh. Truyện ngắn có khuynh hướng luận đề - phân tích xã hội (LĐ-PTXH) chiếm tỉ lệ cao nhất trong sáng tác của Khái Hưng (32,78%), cao hơn hẳn (hơn gấp ba lần) số lượng truyện ngắn cùng loại hình trong sáng tác của Nhất Linh (10,00%).
- Tỉ lệ các truyện ngắn có khuynh hướng phân tích xã hội hay luận đề-phân tích tâm lý (LĐ-PTTL) trong sáng tác của Nhất Linh (17.50%; 20.00%), là tương đương với các khuynh hướng truyện ngắn này trong sáng tác của Khái Hưng (17.88%; 20.86%).
- Trong sáng tác của Khái Hưng, loại hình truyện có khuynh hướng phân tích tâm lý phân bố tập trung ở một số tập truyện ở chặng giữa trong đời văn của ông, còn loại hình truyện có khuynh hướng luận đề-phân tích xã hội (LĐ-PTXH) thì phân phố khá đều ở mọi chặng đường sáng tác, và ở phần lớn các tập truyện ngắn của nhà văn này.
Sau đây, luận văn lần lượt mô tả đặc điểm các khuynh hướng thể tài:
3.2.1. Truyện ngắn thiên về khuynh hướng luận đề
Một luận đề muốn trở thành mục tiêu nghệ thuật của người viết truyện, phải thỏa mãn
những điều kiện của nó. Chẳng hạn:
- Nội dung tác phẩm thường có tính thời sự; góp phần giải quyết, tháo gỡ các nan đề
nóng bỏng, nhức nhối của thực tại (thích hợp với thời đại báo chí);
- Nhà văn thường bộc lộ quan niệm, chủ kiến, thiên kiến rõ rệt của mình trong khi đề
xuất hướng giải quyết các nan đề xã hội;
- Luận đề được diễn giải bằng hình tượng, thông qua một, vài hành động trung tâm có tính chất tranh đấu (đối đầu, đối diện, đối thoại, đối đáp kịch tính,…); nhân vật thường là một hình mẫu xã hội tiêu biểu hơn là tính cách; sức hấp dẫn ở họ là ở quan niệm, nhận thức tư tưởng đầy chủ kiến hơn là ở các hành vi, tình cảm đạo đức.
Cũng như với tiểu thuyết luận đề, truyện ngắn luận đề là một dạng thể tài truyện ngắn hiện đại, mà ở đó nhà văn nêu, giải quyết/ đề xuất hướng giải quyết một nan đề của thực tại đời sống (xuất phát từ một thực trạng xã hội) thông qua các hình mẫu nghệ thuật.
Nhất Linh, Khái Hưng vốn là những nhà văn viết tiểu thuyết luận đề hoặc tiểu thuyết có yếu tố luận đề từ năm 1933 đến năm 1939. Truyện ngắn của các ông – những “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ”, viết trong cái thời mà người ta chưa thật sự có nhu cầu phân biệt với tiểu thuyết, những tác phẩm “tự sự cỡ lớn” – đương nhiên có thể xem như là những tiểu thuyết viết “ngắn” (đoản thiên). Xét từ một góc độ nào đó, khi đã có thể xem truyện ngắn là một hình thức thu nhỏ của tiểu thuyết, thì các yếu tố thuộc về phương thức, kĩ thuật tự sự của chúng cũng có thể xem là hình ảnh thu nhỏ của tiểu thuyết. Nhận định này – truyện ngắn như là những tiểu thuyết viết “ngắn”, viết từng phần – với trường hợp sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng là hoàn toàn có cơ sở (chính ông đã lên một kế hoạch viết truyện ngắn theo đề cương rồi liên kết chúng thành tiểu thuyết trường thiên). Vì vậy, việc tìm hiểu các yếu tố kĩ thuật của tiểu thuyết luận đề trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng giúp trả lời câu hỏi: Liệu có một loại hình thể tài viết theo khuynh hướng luận đề trong sáng tác của hai ông cũng như trong VXNT của TLVĐ hay không; nếu có thì đặc điểm hình thức của các truyện ngắn này là như thế nào?
Kết quả nghiên cứu của luận văn cho phép khẳng định có một mảng truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng thiên về khuynh hướng luận đề. Thậm chí, có thể khẳng định rằng trong sáng tác của Nhất Linh, chính các truyện ngắn mang đậm tính luận đề trong tập Người quay tơ (1927) là sự chuẩn bị cho một thời kì nở rộ của tiểu thuyết luận đề của TLVĐ (1933- 1939)
Tiêu biểu cho truyện ngắn thiên về khuynh hướng luận đề của hai nhà văn, có: Giấc mộng Từ Lâm, Nô lệ, Chiến tranh, Hai vẻ đẹp, Thế rồi một buổi chiều, Tiếng kêu thương, Hai buổi chiều vàng,… của Nhất Linh; Dọc đường gió bụi, Bên dòng sông Hương, Cô hàng nước, Những ngày vui, Cái thù ba mươi năm,… của Khái Hưng.
3.2.2. Truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích xã hội:
Đặc điểm nổi bật:
Về hình thức, kĩ thật của mảng truyện ngắn này, đáng chú ý là các thủ pháp quy chiếu sự kiện, nhân vật, trần thuật vào luận đề mà nhà văn đề xuất, truyền tải trong tác phẩm. Chẳng hạn trong truyện ngắn Giấc mộng Từ Lâm, tình tiết chính được Nhất Linh xây dựng xoay quanh giấc mộng xây dựng một ngôi làng lý tưởng mà ở đó mọi cá nhân trong cộng đồng đều được sống tử tế và thân thiện với nhau, không phân biệt giàu nghèo. Sự kiện, nhân vật, trần thuật của tác giả đều có giá trị qui chiếu nhằm làm rõ luận đề: giấc mộng cải cách xã hội theo quan điểm, chủ kiến của tác giả. Cũng như vậy, trong truyện ngắn Dọc đường gió bụi hay Cô hàng nước, Khái Hưng cũng quy chiếu nhiều yếu tố của tác phẩm vào luận đề: cá nhân sẵn sàng đánh đổi cả cuộc sống bình lặng yên ổn để lựa chọn đường đi cho đời mình, tự do sống dấn thân theo cái cách của mình và sẵn sàng chịu trách nhiệm về sự lựa chọn ấy.
Nói chung, truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích xã hội thường chú ý mối quan hệ gữa nhân vật, số phận, tính cách với hoàn cảnh, môi trường xã hội tự nhiên. Nhiều nét tâm lý của nhân vật có thể là tâm lý của thế hệ, thời đại. Nhiều mối quan hệ được quan tâm khám phá, mô tả như mối quan hệ giữa xã hội và con người cá nhân cá thể, quan hệ giữa tâm lý và hoàn cảnh làm nảy sinh tâm lý ấy,…
Tác phẩm tiêu biểu: Sư bác chùa Kênh; Truyện người ca kĩ họ Nguyễn, Bạch Liên (truyện dịch), Nghèo, Hai chị em, Mười năm qua,…của Nhất Linh; và Biển, Cô dâu, Mười năm yêu dấu, Người hầu sáng, Nghiện,… của Khái Hưng.
Trong các truyện ngắn thuộc khuynh hướng này, Nhất Linh và Khái Hưng thường sử dụng sự thay đổi của hoàn cảnh, điều kiện sống, các quan hệ xã hội cụ thể để miêu tả, và trực tiếp hay gián tiếp giải thích sự thay đổi trong tính cách, số phận của nhân vật.
Trong truyện ngắn Nghèo, Nhất Linh đã phân tích khá sắc sảo tác động của hoàn cảnh xã hội lên tâm lý của nhân vật Trọng – một người lao động trí óc, bị sa sút, không có việc làm thích hợp, phải đi làm thợ sửa xe. Anh ta suy nghĩ rất thực: khi khá giả, trốn vợ tiêu pha xa xỉ chưa bao giờ thấy băn koăn, nay trong cảnh bần hàn, ăn đĩa xôi đậu một mình, lại thấy băn khoăn nhiều: “Chàng cảm động nghĩ đến những cái vụng trộm khác, trốn vợ đi hát mở từng chai sâm banh, và lấy làm lạ rằng nhữngc lúc ấy sao không áy náy bằng khi ăn có hai xu đậu đen chấm muối vừng rang mặn”. [39, tr.210] Hành động (ăn vụng) và thái độ (băn khoăn hổ thẹn) của nhân vật Trọng ở đây rất gần với hành động thái độ của một số nhân vật được xây dựng theo khuynh hướng phân tích xã hội có cùng đề tài. Chẳng hạn, giống hành động, thái độ nét mặt của nhân vật Sinh trong truyện ngắn Đói (Thạch Lam) và nhân vật Hưng trong Miếng bánh (Nguyên Hồng).
Truyện ngắn Sư bác chùa Kênh tập trung vào một biết cố: sự ra đi bất ngờ của vị “sư bác”. Dưới ngòi bút của Nhất Linh, thực chất đây là chuyện về sự tha hóa của một bậc tu hành: cái bả danh lợi vẫn là miếng mồi đầy sức quyến rũ đối với nhà tu hành, một khi có điều kiện thuận lợi. Thời điểm ông ta phát hiện được một kho vàng trong pho tượng đá cổ trong chùa chính là thời điểm cái bả danh lợi đã bắt đầu cám dỗ và làm biến đổi số phận, tâm tính của nhà sư, sau bao nhiêu năm nặng kiếp tu hành. Trong truyện ngắn Hai chị em, Nhất Linh mô tả hai tính cách đối lập, hai mẫu người phụ nữ khác biệt– Bìm và Lạch. Hai chị em ruột này sống trong hai môi trường khác nhau, theo đuổi hai lối sống khác nhau: Một người ở nhà quê với mẹ có vẻ thuần hậu song xu nịnh, lắm điều hớt lẻo, và thích gồi lê đôi mách. Người kia lăn lộn chốn phố phường, mượn màu son phấn kiếm sống, bị gia đình dè bỉu, song khi có việc lại có thể giúp đỡ và rất có trách nhiệm với người khác. Nhất Linh đã khai thác sự tương phản này để đặt một vấn đề có ý nghĩa xã hội: trong hai cô ả ấy, ai là người đáng trọng hơn ai? Ai sống có ích hơn ai? Nhà văn nhường quyền trả lời trực tiếp các câu hỏi như thế cho độc giả. Nhìn chung, lối sống, cách cư xử cũng như cái hoàn cảnh mà mỗi người trong số họ đã, đang sống mang một ý nghĩa điển hình khá sâu sắc.
Các truyện ngắn Xanh cà bung, Lòng tốt, Biển, Cô Dâu,… của Khái Hưng cũng tiêu biểu cho đặc điểm kĩ thuật của loại hình truyện viết theo khuynh hướng phân tích xã hội như trên.
Gần gũi với chiều hướng thay đổi cách hành vi ứng xử, thái độ đối với vợ của nhân vật Trọng trong Nghèo của Nhất Linh, nhân vật chính trong truyện ngắn Xanh cà bung của Khái Hưng, vốn là một anh chồng khảnh ăn khó tính, hay chê vợ, sau một lần đói lả người, trông thấy cái xanh cà bung của một anh bếp nghèo nấu cho một đám thợ lầm than ăn, anh ta thấy thơm ngon, hấp dẫn thèm thuồng quá, bèn bắt chước về nhà bảo vợ nấu cho món cà bung như thế để ăn. Từ đó, với anh, nhiều món giản dị khác mỗi khi ăn mà hình dung lại hương vị của xanh cà bung thì đều thấy chúng thật ý vị, ngon lành. Thì ra phải thật thấm đói, thật thấu hiểu cái lam lũ, biết trân trọng niềm vui giản dị của những người cần lao xung quanh, người ta mới cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc mà mình đang có.
Các tác phẩm và sự phân tích trên đây cho thấy, mảng truyện ngắn có khuynh hướng phân tích xã hội của Nhất Linh, Khái Hưng không chỉ gần gũi với các tiểu thuyết phân tích xã hội của hai ông mà còn khá gần gũi với các truyện ngắn hiện thực chủ nghĩa trên văn đàn công khai thời bấy giờ.
3.2.3. Truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích tâm lý
Đặc điểm chung, nổi bật:
Cũng như trong tiểu thuyết phân tích tâm lý của TLVĐ mà tiêu biểu là Bướm trắng của Nhất Linh, truyện ngắn thuộc khuynh hướng này xem tâm lý con người như một cõi riêng, một vùng tối đầy bí ẩn (tiềm thức, vô thức), song cũng đầy sức hấp dẫn.
Đặc điểm kĩ thuật nổi bật của loại hình này là việc ứng dụng, thể nghiệm các phương
thức kĩ thuật miêu tả, phân tích tâm lý như kĩ thuật dòng ý thức, độc thoại nội tâm,…
Trong những thành tựu cách tân quan trọng nhất của tiểu thuyết TLVĐ, không thể không nói đến kĩ thuật miêu tả, phân tích tâm lý. Đơn cử một trường hợp tiêu biểu nhất: Bướm trắng của Nhất Linh. Tác phẩm này có mấy đặc điểm kĩ thuật nổi bật của tiểu thuyết phân tích tâm lý Việt Nam hiện đại nói chung, cuối thập niên 30, đầu thập niên 40 nói riêng:
- Tâm lí nhân vật được thể hiện qua đối thoại, độc thoại kết hợp với phân tích, miêu tả
tâm lí;
- Tâm lí của nhân vật Trương là thứ tâm lý đột biến, không có quá trình, “không có
lí”;
Đáng nói là tiểu thuyết hay truyện ngắn viết theo khuynh hướng này không chú ý nhiều đến những qua trình tâm lý biện chứng, lôgic, mà thường hứng thú hơn với những biến cố, hiện tượng tâm lý đứt gãy, phi lý,…
- Thế giới tinh thần của nhân vật Trương được miêu tả là một thế giới hòa trộn giữa ý
thức và vô thức, hiện thực và giấc mơ.
Tác phẩm tiêu biểu: Cái tẩy, Vết thương, Câu chuyện mơ trong giấc mộng, Lan
rừng… của Nhất Linh; Điên, Tình tuyệt vọng, Tình điên,… của Khái Hưng.
Nhiều truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng cũng đã sử dụng các kĩ thuật phân tích tâm lý nói trên. Điều đáng nói là ở tính phong phú trong cách thể nghiệm kĩ thuật, bút pháp phân tích tâm lý nhân vật của hai ông.
Các truyện ngắn Vết thương và Câu chuyện mơ trong giấc mộng, Lan rừng của Nhất Linh, mỗi truyện tiêu biểu cho một loại kĩ thuật. Vết thương sử dụng kĩ thuật phân tích khắc họa tâm lý theo lối hồi ức với độc thoại nội tâm. Câu chuyện mơ trong giấc mộng sử dụng kĩ thuật phân tích tâm lý bằng yếu tố giấc mơ khá hiện đại. Lan rừng sử dụng yếu tố kì ảo để phân tích tâm lý nhân vật chính.
Hai truyện Điên và Tình điên của Khái Hưng sử dụng tâm lý học để phân tích tâm lý nhân vật chính. Truyện Sư Tuệ của ông lại sử dụng kĩ thuật dòng ý thức để miêu tả, phân tích tâm lý của Sư Tuệ.
3.2.4. Truyện ngắn có khuynh hướng hỗn hợp
Đây là mảng truyện ngắn chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Các truyện này không thuộc hẳn một khuynh hướng nào nên có thể gọi là truyện ngắn có khuynh hướng hỗn hợp về loại hình. Tất nhiên ở đây, ba loại yếu tố: luận đề, phân tích xã hội, phân tích tâm lý dung hợp với nhau khá phức tạp, tạo ra nhiều sắc độ đậm nhạt theo tương quan khác nhau giữa các loại yếu tố.
Phân tích một số truyện ngắn thuộc mảng sáng tác này – chẳng hạn: truyện Bóng người trên sương mù, Chết dở, Hai vẻ đẹp của Nhất Linh hay Điếu thuốc lá, Đồng xu, Đào Mơ của Khái Hưng – sẽ thấy rõ ưu thế, hiệu quả nghệ thuật của loại hình thể tài có tính chất tổng hợp này.
Bóng người trên sương mù dẫn người đọc vào một thế giới hư huyễn, ma mị: một chuyến tàu hỏa chạy đêm lên miền núi phía Bắc suýt lao xuống vực trong gang tấc, nếu
Các truyện ngắn theo khuynh hướng này – theo như kết quả thống kê, khảo sát trên đây – chiếm tỉ lệ cao và là mảng sáng tác chiếm ưu thế, có nhiều thành công trong địa hạt truyện ngắn của Nhất Linh (khoảng trên 20%), Khái Hưng (khoảng trên 50%). Tất nhiên, tổng hợp cũng có nhiều sắc độ: có những truyện nói là tổng hợp nhưng vẫn đậm chất luận đề (Bóng người trên sương mù, Nước chảy đôi dòng, Làm gì mà băn khoăn thế? – Nhất Linh; Dọc đường gió bụi, Bên đường dừng bước, Con chim vành khuyên – Khái Hưng), có những truyện đậm chất phân tích xã hội (Nắng mới trong rừng xuân, Thưa chị, Trong nhà thương, Tập ảnh, Dưới ánh trăng, Đào Mơ, Thời chưa cưới – Khái Hưng;…), lại có những truyện đậm màu sắc kĩ thuật phân tích tâm lý (Chết dở, Giật mình tỉnh dậy, Hai vẻ đẹp – Nhất Linh; Đồng xu – Khái Hưng;...).
không có “bóng người trên sương mù” nhiều lần cấp báo. Đó phải chăng là một bóng hình của “đấng cứu thế” nào, hay linh hồn một người đàn bà lâm trọng bệnh (vợ của nhân vật tôi) đến phò nguy, hay linh tính kì diệu của nhân vật tôi – người kể chuyện đã cứu cho bao nhiêu sinh mệnh con người thoát cái chết thảm khốc? Không phải, “tinh thần khoa học thái Tây” đã được ứng dụng ở đây: đơn giản là nhờ một con bướm tình cờ bị ép vào chiếc đèn hộp của nhà tàu, cái bóng của nó được ánh đèn phóng to lên giống cái bóng của một người đàn bà xuất hiện từ xa cản không cho tài xế đoàn tàu tiến lên bờ vực và thoát hiểm. Đây là một truyện phân tích tâm lý có khả năng đưa đến cho người đọc dị đoan một luận đề khoa học.
Trong cái nhìn đầy mặc cảm của nhân vật Khương (Chết dở – Nhất Linh), một anh chồng tàn phế (cơm ăn, thuốc hút đều nhờ một tay vợ nuôi “báo cô”). Bất đắc chí và bi phẫn, cuộc sống chẳng khác nào bị nhốt trong một cái nhà mồ; căn buồng là cái áo quan. Khương muốn chết nhưng không đủ can đảm để chết. Đành chấp nhận sống trong một cái xác không hồn, từng ngày, từng giờ đau đớn nhìn thấy “cái chết của tâm hồn” còn “ghê sợ bằng mấy mươi cái chết thật, vì nó bắt chàng phải sống mãi, sống để mà biết” [39, tr.204]. Tâm lý mặc cảm, dằn vặt khổ sở vừa khiến cho Khương nhu nhược, vừa khiến anh ta nhiều khi vô cớ cáu bẳn, sĩ diện hão và anh hùng rơm đã được Nhất Linh miêu tả rất đúng. Cái cách Nhất Linh miêu tả tâm lý của nhân vật Khương trong truyện ngắn này gợi nhớ cách nhà văn miêu tả tâm lý của nhân vật Trương trong tiểu thuyết Bướm trắng.
Với các sáng tác truyện ngắn hỗn hợp đậm chất phân tích tâm lý này, Nhất Linh dường như đã chuẩn bị khá kĩ cho cuốn tiểu thuyết phân tích tâm lý vào loại xuất sắc nhất của ông và của TLVĐ – cuốn Bướm trắng.
Điếu thuốc lá, Đồng xu, Đào Mơ,… của Khái Hưng cũng là những truyện ngắn đặc sắc nhờ sự kết hợp hài hòa nhiều yếu tố thể tài, nhất là sự kết hợp giữa yếu tố phân tích xã hội và yếu tố phân tích tâm lý (riêng chất luận đề trong các truyện này thường không thật rõ). Điều đáng nói ở trường hợp Khái Hưng là bằng sáng tác, ông cũng đã lập nên được một hành trình
Hai vẻ đẹp của Nhất Linh có đủ cả ba yếu tố luận đề, phân tích xã hội, phân tích tâm lý. Từ góc độ luận đề, truyện đưa ra một tuyên ngôn nghệ thuật của chính tác giả qua quan niệm và những chuyển biến trong quan niệm về cái đẹp của chàng họa sĩ trẻ tên Doãn. Chàng họa sĩ này đã đắm mình trong những suy ngẫm, bừng ngộ về chân lý đời sống lẫn chân lý về nghệ thuật. Từ góc độ phân tích xã hội, Nhất Linh cũng phản ánh được một vài khía cạnh thuộc về thực trạng của xã hội thôn quê Việt Nam đương thời, cùng những mâu thuẫn và khả năng giải quyết mâu thuẫn giữa kẻ giàu với người nghèo, giữa người vị tha, có từ tâm và kẻ ích kỉ, tàn nhẫn, độc địa. Từ góc độ phân tích tâm lý, có thể nhận thấy đây là truyện mà người kể chuyện len vào dòng ý thức của nhân vật chính (Doãn) mà thuật lại độc thoại nội tâm của chàng họa sĩ trẻ hào hoa, nhạy cảm, giàu tình thương. Qua dòng suy tưởng của nhân vật, nhà văn tạo được một sự tương phản đậm nét giữa vẻ đẹp cuộc sống trong tranh vẽ (của Doãn) và vẻ lầm than tăm tối ngoài đời sống đan quê cần được khắc ghi vào tâm tưởng của những nhà họa sĩ có lương tri. Điểm nhìn của nhân vật chàng họa sĩ và của người kể chuyện hòa trộn vào nhau một cách khá tự nhiên và có tính nghệ thuật.
riêng: Từ truyện ngắn Dọc đường gió bụi đến Đào Mơ, Sư Tuệ là một chặng đường tự điều chỉnh, bổ sung làm mới kĩ thuật truyện ngắn không ngừng.
Đào Mơ là sự tiếp nối, và phần nào chuyển hướng, chủ đề của Dọc đường gió bụi. Tác giả đã đi từ truyện phân tích xã hội đậm chất luận đề (LĐ-PTXH) sang truyện phân tích tâm lý có màu sắc luận đề (LĐ-PTTL).
Sư Tuệ là sự tiếp nối về đề tài tình yêu có màu sắc tôn giáo của Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), Sư bác Chùa Kênh (Nhất Linh). Nhưng ở Sư Tuệ, Khái Hưng đã sử dụng kĩ thuật phân tích tâm lý bằng dòng ý thức, khắc họa tâm lý nhân vật khá thành công.
Nhìn chung chất luận đề trong sáng tác truyện ngắn của Khái Hưng ở cả hai chặng đường (1932-1935 và 1935-1940) thường hoặc nhạt hơn hoặc kín đáo hơn so với chất luận đề trong sáng tác của Nhất Linh rất nhiều.
3.3. “Mô hình chung” của tiểu thuyết TLVĐ và “mô hình chung” của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng:
3.3.1. Nhận xét phác thảo “mô hình chung” tiểu thuyết TLVĐ của một số nhà nghiên cứu
Có thể thừa nhận: “mô hình tiểu thuyết” TLVĐ được Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Thị Tuyến phác thảo – luận văn đã mô tả ở mục 3.1.2 – là đúng về căn bản khi lấy các tác phẩm tiểu thuyết luận đề ở chặng khởi đầu (1933-1936) của tiểu thuyết TLVĐ như Nửa chừng xuân (Khái Hưng), Đoạn tuyệt (Nhất Linh) mà soi vào.
Bởi vậy, cần có sự nghiên cứu kĩ lưỡng để có những bổ sung cho thỏa đáng, nhất là với hai khuynh hướng tiểu thuyết phân tích xã hội và phân tích tâm lý, nhằm có thêm công cụ, phương tiện để nghiên cứu truyện ngắn Khái Hưng Nhất Linh trong tương quan với tiểu thuyết của hai ông nói riêng, tiểu thuyết TLVĐ nói chung một cách chuyên sâu, hiệu quả
Tuy vậy, cách khái quát, lược quy thành “mô hình” như vậy có phần đơn giản hóa vấn đề và trên thực tế, chỉ đúng một phần. Bởi vì, không phải toàn bộ hay phần lớn tiểu thuyết TLVĐ là tiểu thuyết luận đề; còn có tiểu thuyết phân tích xã hội (được sáng tác nhiều ở chặng đường 1936-1939) và tiểu thuyết phân tích tâm lý (được sáng tác nhiều vào chặng đường 1939-1942). Ngay từ chặng khởi đầu thì các tiểu thuyết như Đời mưa gió (Khái Hưng, Nhất Linh) Tiêu Sơn tráng sĩ (Khái Hưng) cũng đã sai biệt, chệch hẳn ra khỏi mô hình trên. Sang chặng đường thứ hai (1936-1939) nhiều cuốn tiểu thuyết TLVĐ như Lạnh lùng, Thoát ly, Con đường sáng vẫn hiện hữu yếu tố luận đề, song bên cạnh yếu tố luận đề, yếu tố phân tích xã hội (Lạnh lùng, Thoát ly, Con đường sáng) và yếu tố phân tích tâm lý (Lạnh lùng) lúc này đã rất đậm và khá thuần thục. Đến chặng đường cuối (1939-1942), với sự xuất hiện của các tiểu thuyết phân tích tâm lý như Đẹp, Băn khoăn (Khái Hưng) và nhất là Bướm trắng (Nhất Linh), thì mô hình trên hầu như không còn thích hợp nữa.
hơn. Xuất phát từ yêu cầu và mục đích đó, dựa vào những gợi ý của tác giả Nguyễn Thành Thi trong tiểu luận “Tự Lực Văn Đoàn – Những lằn ranh văn học”, luận văn xin đề xuất hai mô hình bổ sung sau đây, chủ yếu là mô hình dành cho các thể tài tiểu thuyết truyện ngắn phân tích xã hội và phân tích tâm lý.
3.3.2. Đề xuất các mô hình bổ sung cho tiểu thuyết và truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng:
3.3.2.1. Mô hình tiểu thuyết, truyện ngắn phân tích xã hội:
- Đề tài: tiểu thuyết, truyện ngắn phân tích xã hội, dù muốn dù không, đã chú ý mô tả hiện trạng xã hội Việt Nam với xu hướng Âu hóa (với một số biểu hiện tích cực không thể phủ nhận) ngày càng rõ rệt cả ở thành thị lẫn thôn quê của nó. Ở đó, cái mới cái trẻ chưa hẳn là ưu thắng, song cái cũ, cái già cũng không thể tồn tại yên ổn như trước được nữa. Đây là cuộc đấu tranh cũ – mới có thực trong đời sống đã được nhà văn phản ánh vào tác phẩm.
- Nhân vật lý tưởng: Nhân vật hiện thực, con người có đầu óc thực tiễn, cấp tiến.
- Kết cấu tác phẩm: không nhất thiết xoay quanh một luận đề, tác phẩm chú trọng việc
tìm một sợi dây liên hệ giữa hoàn cảnh và số phận, tính cách.
- Văn phong: có xu hướng xích gần, áp sát hơn với ngôn ngữ đời sống, giảm bớt hẳn cái chất diễm tình “chàng nàng”. Trong cấu trúc diễn ngôn trần thuật, Diễn ngôn (đối thoại, độc thoại) của nhân vật hết sức được chú ý.
3.3.2.2. Mô hình tiểu thuyết, truyện ngắn phân tích tâm lý:
- Nhân vật lý tưởng: Kiểu con người có học thức, nhiều tâm sự, lắm “băn khoăn”, hay
suy ngẫm về thực tại và chân lý đời sống.
- Kết cấu tác phẩm: tiểu thuyết, truyện ngắn thuộc khuynh hướng này thường chọn kết
cấu tâm lý như kết cấu tự thuật, độc thoại, kết cấu theo dòng ý thức,…
- Văn phong: tiểu thuyết truyện ngắn phân tích tâm lý có xu hướng trữ tình hóa, nhà văn mài sắc thứ ngôn ngữ kết hơp lý trí và xúc cảm, mài sắc ngôn ngữ trực giác,… Diễn ngôn của người kể chuyện thường được phong cách hóa, đặc biệt được chú ý phát huy sức mạnh thuyết minh, phân tích tâm lý của nó.
Một bước chuyển biến quan trọng trong sáng tác của tiểu thuyết TLVĐ so với tiểu thuyết quốc ngữ đầu thế kỉ XX là sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Nhất Linh,
- Đề tài: Tiểu thuyết, truyện ngắn phân tích tâm lý xem tâm lý con người là một phương diện của nội dung tự sự, một đối tượng miêu tả không kém phần quan trọng của nghệ thuật văn chương. Nhà văn TLVĐ càng về sau càng có hứng thú đặc biệt với đối tượng miêu tả này.
Khái Hưng trong khi viết tiểu thuyết, truyện ngắn, bất kể thuộc khuynh hướng thể tài nào, đều tập trung vào một số kiểu nhân vật ưa chuộng và thông thạo của mình. Kiểu nhân vật trung tâm quen thuộc của hai ông, khá nhất quán trong suốt hành trình sáng tạo có thể khái quát như sau:
a) Nhân vật Nam thì thường thuộc mẫu người có học thức, có cá tính hoặc giàu nam tính; đa cảm, đa tình (đào hoa); thích “quăng thân”, dấn bước trên con đường gió bụi dù chưa hay đích đến sẽ là đâu. Họ mang trong mình thật nhiều khát vọng và băn khoăn; thích tự đề đạt theo đuổi một triết lý sống riêng, có khi lạ lùng, kì dị.
b) Nhân vật nữ thì thường trẻ, đẹp, tân thời, nhạy cảm, đa tình, lãng mạn; họ có thể mang trong mình những nét đẹp truyền thống của phụ nữ Việt song không phải và không hẳn là người hoàn toàn hiền thục; họ hiểu biết nên có chút bướng bỉnh, phóng túng hay có sức quyến rũ bởi một nét đặc biệt nào đó.
c) Nhưng điều quan trọng hơn là nhân vật chính trong tiểu thuyết, truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng đều có đời sống tâm lý riêng; đời sống tâm lý ấy bị chi phối bởi một hoàn cảnh, động cơ, lẽ sống cụ thể nào đó. Trong tiểu thuyết: Loan (Đoạn tuyệt – Nhất Linh), Nhung (Lạnh lùng – Nhất Linh), Dũng (Đôi bạn – Nhất Linh), Trương (Bướm trắng – Nhất Linh); Phạm Thái (Tiêu Sơn tráng sĩ – Khái Hưng), Cảnh (Băn khoăn – Khái Hưng),… đều là những nhân vật có đời sống tâm lý riêng như thế. Trong truyện ngắn: Doãn (Hai vẻ đẹp – Nhất Linh), Quang (Lan rừng – Nhất Linh), Huy (Cái tẩy – Nhất Linh), “Tôi” (Giật mình tỉnh dậy, Đầu đường xó chợ – Nhất Linh); Đào Mơ (Dọc đường gió bụi, Đào Mơ – Khái Hưng), Sư Tuệ (Sư Tuệ – Khái Hưng),… cũng vẫn là những nhân vật có đời sống tâm lý riêng như thế.
Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Khái Hưng là một không gian của đời sống, thực tại rất rộng mở trước mắt người kể chuyện và nhân vật. Đó là không gian của bãi biển Đồ Sơn (Sóng gió Đồ Sơn), Sầm Sơn (Biển), Sông Hương (Bên dòng sông Hương), một làng quê miền quê trung du (Dưới ánh trăng), một cảnh đồn điền (Bãi sậy vườn cam, Đợi chờ), thôn quê làm ruộng (Cô hàng nước), bến nước Hòn Gai (Bến Hòn Gai), một bến đò, một ngôi nhà, một quán nước bên đường thiên lý (Bến đò năm xưa, Bên đường dừng bước, Cô hàng nước), phố xá Hải Phòng (Người vợ mù), cảnh sông nước đêm trăng với hát trống quân (Hát trống quân, Trăng thu); không gian thời xưa của lịch sử, cổ tích, kỉ niệm tuổi thơ (Một buổi chầu, Chàng thi nhân, Linh hồn thi sĩ, Hoàng Oanh, Cái thù ba mươi năm, Điếu thuốc lá, Đào Mơ,…) không gian chùa chiền hang động thơ mộng và kì bí (Chùa Hương, Sư Tuệ, Tương tri), nơi bếp núc (Xanh cà bung), nhà trọ (Cái Ve, Tuổi mộng mơ), quán xá (Lá thư rơi: quán sách, Người hầu sáng: quán ăn, Cô hàng nước: quán nước); nhà thương (Trong nhà thương), rừng núi xa xăm, bí ẩn (Tiếng khèn), cảnh hội chợ (Cháu Tạ, Giai nhân); không gian đầm ấm của gia đình (Bên đường dừng bước, Tiếng dương cầm, Tình tuyệt vọng, Xanh cà bung, Tuổi mơ mộng, Vui tính, Những ngày vui, Lưu Bình Dương Lễ,…) và không gian tuyệt đích với hình ảnh con đường (Dọc đường gió bụi, Bên đường dừng bước, Đào Mơ,…).
Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Nhất Linh về căn bản cũng gắn liền với nhiều loại không gian của đời sống thời TLVĐ. Song, cũng có nét đặc trưng khác hẳn, không phong phú, rộng mở, khoáng đãng như trong truyện ngắn Khái Hưng. Trái lại, là một thế giới khuôn hẹp vào trong một số cảnh quan đặc thù – một thế giới dẫn dắt người đọc vào nội quan, làm nền cho những suy tư, triết luận về nhiều vấn đề thẩm mĩ – chính trị – xã hội mà người trí thức đương thời quan tâm. Ví dụ: Không gian làng quê gia đình cổ truyền với nhân vật đặc trưng cho một thực trạng đời sống, một mô hình xã hội, gợi nhiều suy nghĩ về nhiều vấn đề chính trị – xã hội nung nấu trong tâm hồn người trí thức, nghệ sĩ như trong các truyện ngắn Người quay tơ, Hai vẻ đẹp,…
Theo khảo sát của tác giả luận văn, trong tổng số 40 truyện ngắn của Nhất Linh, đã có
tới 32 truyện mang đặc điểm không gian này.
3.4. Ngôn ngữ truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong xu hướng phát triển ngôn ngữ VXNT của TLVĐ
Từ các mô hình bổ sung trên đây luận văn này sẽ đi sâu tìm hiểu một yếu tố được xem là có tầm quan trọng đó là văn phong. Thực ra, tìm hiểu văn phong với ý nghĩa là tìm hiểu “phong cách ngôn ngữ với những nét độc đáo có giá trị thẩm mĩ trong lựa chọn, sử dụng ngôn từ” của tiểu thuyết TLVĐ là việc không đơn giản. Hơn nữa, đây là văn phong tiểu thuyết, nên cần được tiếp cận từ góc độ tự sự học.
Lý thuyết tự sự học quan niệm diễn ngôn trần thuật là văn bản được tạo ra bởi hành động kể dưới dạng truyền miệng hoặc viết. “Mỗi văn bản trần thuật là sự móc nối và luân phiên giữa diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật” (Dolezel). Theo đó, một văn bản trần thuật thường bao gồm hai thành phần diễn ngôn: diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật.
Diễn ngôn của người kể chuyện:
Trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, những phát ngôn của người kể chuyện chủ
yếu tồn tại dưới ba dạng: lời kể, lời tả và đôi khi, bình luận.
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của tiểu thuyết, truyện ngắn TLVĐ, không thể bằng lòng với một số nhận định tuy cũng đích đáng, tinh tế song quá thiên về bao quát và không khỏi có phần cảm tính, mơ hồ như trong mô hình tiểu thuyết trên đây của Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Thị Tuyến. (Chẳng hạn: khi hai nhà nghiên cứu cho rằng tiểu thuyết TLVĐ “viết theo lối hiện đại, lời văn trong sáng giản dị nhưng vẫn thiếu cái khỏe khoắn góc cạnh gân guốc của cuộc sống bình dân”; hoặc: “một thứ văn diễm tình “chàng nàng” du dương với lối trần thuật một giọng”). Người nghiên cứu đến sau có thể đi xa hơn: trên cơ sở khảo sát các thành phần diễn ngôn trần thuật cũng như tương quan giữa chúng để rút ra các đặc điểm lời văn nghệ thuật của tiểu thuyết, truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng.
Lời kể là kiểu lời trần thuật chiếm số lượng lớn và có vai trò quan trọng giúp người trần thuật tổ chức một cấu trúc tự sự. Nội dung truyện về cơ bản được hoàn chỉnh theo mạch trần thuật của những người tham gia kể chuyện. Thông thường, lời kể của người trần thuật tồn tại dưới hai hình thức: lời khách quan của người kể chuyện giấu mặt và lời chủ quan của người kể chuyện ngôi thứ nhất. Cả hai loại lời này đều có thể được “phong cách hóa” tức là làm cho nó mang đậm dấu ấn chủ thể của người nắm giữ diễn ngôn.
Cùng với lời kể, lời tả cũng khá phổ biến trong diễn ngôn của người kể chuyện. Tả là vẽ lại hình hài của vật chất qua con mắt của người kể. Nó hỗ trợ đắc lực cho việc kể và làm cho câu chuyện được kể, con người được kể sống động, hấp dẫn hơn.
Người kể chuyện trong tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại với tư cách người mang quan điểm, tư tưởng, thái độ của nhà văn hướng tới người đọc, khi cần, có thể dùng những lời bình luận để trực tiếp bày tỏ thái độ về một vấn đề hay một sự kiện nào đó trong cuộc sống.
Diễn ngôn của nhân vật:
Phần lớn các diễn ngôn của nhân vật trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng thuộc
dạng đối thoại và độc thoại.
Diễn ngôn đối thoại trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại bao gồm đối thoại giữa từng cặp nhân vật và đối thoại giữa rất nhiều nhân vật với nhau. Trong đó, diễn ngôn đối thoại đa nhân vật chiếm một tỉ lệ thấp, thường xuất hiện trong các cuộc trò chuyện đám đông trong gia đình, hay không gian đàm thoại công cộng.
Trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, hình thức diễn ngôn song thoại chiếm dung lượng lớn hơn nhiều các diễn ngôn đa thoại. Với đặc điểm mang dấu ấn riêng của từng nhân vật tham gia đối thoại, các diễn ngôn song thoại đem lại nhiều hiệu quả nghệ thuật khác nhau. Qua diễn ngôn song thoại, các nhân vật tự bộc lộ tâm tư, tình cảm, khát vọng, tính cách, phẩm chất, đạo đức của bản thân.
Vận dụng thành tựu tự sự học và hội thoại học, dựa trên một số kết quả khảo sát cụ thể, chúng tôi cố gắng đưa ra một số nhận định về đặc điểm diễn ngôn trần thuật của truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong xu hướng cách tân ngôn ngữ của TLVĐ.
Sau đây là phần miêu tả, nhận xét đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn
Nhất Linh, Khái Hưng.
Diễn ngôn độc thoại là “lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó”. Độc thoại nội tâm giúp nhân vật tự bộc bạch hết tất cả những gì người trần thuật khó nói hoặc không thể nói hết. Đó là những suy tư, trăn trở, khát vọng, niềm vui, nỗi buồn và những lo toan thầm kín về bản thân hay về người khác….
Diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng đã tạo được một tương quan mới có tính nghệ thuật giữa diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn nhân vật. Kết quả khảo sát, thống kê cho phép luận văn đưa ra một số nhận định như sau:
(1). Diễn ngôn của người kể chuyện trong truyện ngắn của hai ông thường được phong cách hóa. Đó không phải là kiểu diễn ngôn mực thước trung tính của người kể chuyện trong truyện cổ tích hay truyện trung đại mà luôn mang phong cách ngôn ngữ của ai đó. Rõ nhất là khi các nhà văn sử dụng diễn ngôn phong cách hóa của người kể chuyện xưng “tôi”. Cùng chọn cách kể chuyện xưng “tôi” như thế, Nhất Linh có 5/40 trường hợp, chiếm tỉ lệ 12,5 %. Đó là các truyện: Chiến tranh, Giấc mộng Từ Lâm, Giật mình tỉnh dậy, Bóng người trên sương mù, Đầu đường xó chợ. Khái Hưng có 12/67 chiếm tỉ lệ 17,90%. Đó là các truyện: Con chim vành khuyên, Bến Hòn Gai, Chùa Hương, Cháu nhà quan, Ngày giỗ, Điếu thuốc lá, Tiếng khèn, Tương tri, Linh hồn, Cô áo trắng, Thời xưa, Quá khứ.
Hình thức diễn ngôn người kể chuyện được “phong cách hóa” như vậy thường tạo cho truyện ngắn của hai ông một sắc thái trữ tình kèm với chất suy tư, chiêm nghiệm đầy dụng ý. Chẳng hạn với lối kể này ở truyện ngắn Bóng người trên sương mù, Nhất Linh dẫn dắt người đọc phiêu lưu vào thế giới tâm linh rồi lại đột ngột nhẹ nhàng dắt họ thoát khỏi thế giới ấy. Truyện ngắn Điếu thuốc lá lại như một lời sám hối, người kể chuyện xưng “tôi” đưa độc giả về với kỉ niệm lỗi lầm của anh ta khi còn là một cậu bé liều lĩnh và dại dột.
(2). Diễn ngôn của nhân vật – bao gồm cả đối thoại và độc thoại – chiếm một địa vị
xứng đáng trong diễn ngôn trần thuật của Nhất Linh, Khái Hưng.
Chẳng hạn, với Khái Hưng (trích bảng tổng hợp kết quả thống kê):
Khi cần, cả hai nhà văn cũng thỉnh thoảng để cho nhân vật độc thoại. Song đáng chú ý hơn là các trường hợp để cho nhân vật “tôi” thực hiện diễn ngôn kể chuyện theo dòng độc thoại nội tâm như trường hợp Giật mình tỉnh dậy (Nhất Linh) hay Đào Mơ (Khái Hưng). Tuy nhiên, chiếm tỉ lệ cao trong diễn ngôn của nhân vật trong truyện ngắn của hai ông, đặc biệt của Khái Hưng, là đối thoại. Chúng tôi khảo sát thống kê với mỗi tác giả 20 truyện ngắn để đưa ra những nhận xét có căn cứ về phân bố diễn ngôn đối thoại trong tác phẩm của mỗi người.
TẦN SUẤT ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG
TT
Tên tập và thời gian sáng tác; Tên truyện Số trang Số lượt thoại
Số cuộc thoại Số lượt trên trang Số lượt trên cuộc
1.
Tập Dọc đường gió bụi
6 Tiếng dương cầm 8 < 3,6 > 4,8 29
16 > 5,3 > 5,6 17 90
Bên đường dừng bước
47 Cô hàng nước 8 13 > 5,8 > 3,6
0 9 0 = 0,0 = 0,0 chim vành
Con khuyên
14 73 15 >5,2 > 4,8 thù ba mươi
Cái năm
3 Anh phải sống Đi Nam Kỳ 6 44 7 > 7,3 > 6,28
Sóng gió Đồ Sơn 13 61 10 < 4,7 = 6,1
Tương tự, với Nhất Linh (trích bảng tổng hợp kết quả thống kê)
TẦN SUẤT ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH
TT Tên tập và thời gian sáng Số trang Số lượt
thoại tác; Tên truyện Số cuộc thoại
Số lượt trên trang Số lượt trên cuộc
1. Tập Anh phải sống
10 Tháng ngày qua 14 4 = 1,4 3,5
Bóng người trên sương mù 9 8 1 < 1,0 8,0
Giết chồng báo thù chồng 12 18 6 = 1,5 3,0
10 Nước chảy đôi dòng 34 4 = 3,4 8,5
Tập Người quay tơ
2
Sư bác chùa Kênh 5 0 0 = 0,0 0,0
Làm gì mà băn khoăn thế 6 0 0 = 0,0 0,0
Giật mình tỉnh dậy 5 0 0 = 0,0 0,0
Kết quả thu được như sau:
20 truyện với tổng số 299 trang, nhân vật của Nhất Linh đối thoại 377 lượt lời. Trung
bình cứ mỗi trang, Nhất Linh sử dụng 1,26 lượt lời.
Dựa vào kết quả thống kê, có thể đưa ra nhận xét:
Đối thoại là một thành phần diễn ngôn quan trọng của Khái Hưng. Điều này khiến cho cấu trúc diễn ngôn trần thuật của ông khác hẳn với cấu trúc diễn ngôn trần thuật của Nhất Linh. Rõ ràng, Khái Hưng rất chú trọng đến nghệ thuật dựng đối thoại và ông cũng tỏ ra rất có sở trường về mặt này. Lời thoại của nhân vật ông thường lịch sự, tinh tế; ngôn ngữ đối thoại mang đặc điểm tính cách thành phần xã hội rất rõ. Như thế, Khái Hưng đã bỏ xa thứ ngôn ngữ trần thuật trung tính, hay nặng về giáo huấn của người kể chuyện và nhân vật trong truyện trung đại. Có thể minh chứng cho các đặc điểm trên đây bằng một dẫn chứng rất tiêu
20 truyện ngắn của Khái Hưng được khảo sát với tổng cộng 192 trang, có 717 đơn vị diễn ngôn (lượt lời). Trung bình cứ một trang truyện ngắn, Khái Hưng sử dụng 3,88 lượt lời.
biểu: lời nhân vật cô Tú đối đáp với nhân vật Ban, chàng trai trí thức trong truyện ngắn Cô hàng nước.
Lựa chọn quan trọng nhất của Khái Hưng khi viết truyện ngắn này là: tập trung làm nổi nét riêng biệt trong cách trò chuyện, đối đáp, bày tỏ ý kiến của cô. Vì thế, nhà văn phải tập trung vào việc sáng tạo ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong những tình huống thích hợp. Vốn là nhà văn có tài quan sát và dựng đối thoại, Khái Hưng đã rất thành công trong lựa chọn kỹ thuật này. Nhìn chung, cách dựng đối thoại của Khái Hưng khá tự nhiên, tươi tắn, linh hoạt, lột tả được tính cách; khi cần sử dụng cả các nhận xét mang tính “siêu ngôn ngữ”. Thành công này, tác giả luận văn đã có dịp đề cập đến trong chương 1 (mục 1.2.3.2., trang 27-30). Ở đây, chỉ xin lưu ý thêm về phương diện kĩ thuật dựng hội thoại, điều phối diễn ngôn trần thuật, đặc biệt là việc sáng tạo diễn ngôn của nhân vật “cô hàng nước”.
Quả là thật khó lòng quên được một cuộc đối thoại thế này:
“Ban nhìn cô hàng thấy cô đang vuốt lại món tóc mai và sửa lại cái khăn vuông thêu
hoa.
- Cô tú lấy ông tú?
Điềm nhiên cô hàng đáp:
- Nếu thế thì phải gọi bà tú chứ?
- Hay cô …đỗ?
- Đỗ “bắc”?
Sự kinh ngạc của Ban lên tột điểm. Mơ màng, vì chàng có một tâm hồn lãng mạn, Ban tưởng tượng sống trong cảnh huyền ảo thần tiên như nhân vật trong truyện Liêu trai chí dị. Một cô hàng nước có học thức? Một cô gái quê có Tây học?
Nhưng cô hàng nói tiếp:
- Đỗ “bắc” thì quả không; ở đây họ coi tôi là một con chim lạ, vì tôi biết, biết quốc
ngữ, nên họ gọi đùa tôi là cô tú đó đấy thôi. Nhưng ông thì chắc là ông Tú?
- Sao cô biết?
- Đoán có đúng không, thưa ông?
- Đúng lắm, thưa cô tú.
Lúc đó chàng ngắm cô hàng, sắc đẹp tăng bội phần, nước da bánh mật đã hây hây nhuốm mầu hồng và cặp mắt cặp môi cho chí hai đồng tiền bên má, chàng cảm thấy có giấu cái thông minh kín đáo mà tinh quái ở trong.
Cô hàng vờ nghiêm trang.” [59, tr.45-46.]
Tất nhiên, trong đoạn trích trên, diễn ngôn của người kể chuyện vẫn giữ vai trò chủ đạo trong cấu trúc diễn ngôn trần thuật (có chức năng tạo không khí, thuyết minh cử chỉ tâm trạng của các nhân vật tham gia hội thoại; dẫn dắt cuộc thoại; thuật lại ý nghĩ thầm kín, hay độc thoại nội tâm của nhân vật Ban – người đang bị lối ứng đáp thông minh, sắc sảo của “cô hàng nước” mê hoặc). Song, điều đáng nói là các diễn ngôn của nhân vật ở đây đã được phong cách hóa một cách tự nhiên. Phải là một người thông quốc ngữ, bặt thiệp trong giao tiếp, có ý thức lựa chọn chính xác trong khi diễn đạt ý kiến mới có được những câu nói vặn vẹo “bẻ câu”, “bẻ chữ” và cái lối “xem mặt mà bắt hình dong” đầy xác tín như “cô hàng nước” này. Ở đây, diễn ngôn của nhân vật đã có một sức nặng, thậm chí, một ma lực khá đặc biệt, sức nặng của bản lĩnh, cá tính trong giao tiếp và ma lực cảm hóa “đối phương”. Mà, suy cho cùng, đó cũng chính là cái ma lực ngôn từ của Khái Hưng.
(3.) Sự tương tác giữa diễn ngôn của người kể chuyện, diễn ngôn của nhân vật và
vai trò điều phối của tác giả.
Đoạn trích trên đây trong truyện ngắn Cô hàng nước đồng thời cũng đã cho ta một ví dụ tiêu biểu về sự tương tác giữa các loại diễn ngôn trần thuật và vai trò điều phối sự vận động trong diễn ngôn của tác giả. Diễn ngôn của người kể chuyện trong tác phẩm của Khái Hưng có đặc điểm nổi bật là bình dị, song mượt mà, mềm mại, linh hoạt và giàu chất họa, chất nhạc lẫn chất thơ; các diễn ngôn này thường đảm nhiệm chức năng tạo bối cảnh, tâm thế cho những cuộc thoại, những lời thoại trong sáng, ngọt ngào tươi vui trong diễn ngôn của nhân vật. Ai đã đọc đoạn văn tả những chiếc lá lìa cành đẹp như một bài thơ trữ tình của ông một lần thì khó mà quên. Cũng như vậy, khó mà quên cái ấn tượng về một dòng thời gian được điểm nhịp theo điệp khúc “lá rụng” vang lên mười một lần trong chương 11 tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên.
Trên đây, luận văn đã khẳng định rằng: Đối thoại là một thành phần diễn ngôn quan
trọng, thu hút nhiều hứng thú sáng tạo nghệ thuật của Khái Hưng.
Ở truyện ngắn Nhất Linh, tình hình có khác: nói chung, ông không chú ý thường xuyên đến lời thoại trực tiếp của nhân vật. Song, chỗ khác biệt đáng nói là diễn ngôn đối thoại, độc thoại của nhân vật trong truyện ngắn Nhất Linh thường được người kể chuyện mô tả, thuyết minh thêm. Ở đây tác giả tận dụng vai trò điều phối của mình để các thành phần diễn ngôn (diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật) tạo được một tương tác có ý nghĩa nghệ thuật. Nhất Linh thường, hoặc biến lời đối thoại của nhân vật thành lời độc thoại theo lối cho họ nói mà không cần ai trả lời (chỉ có lời trao, không có lời đáp) [39, tr.225], hoặc theo lối cho nhân vật nói thành tiếng, “lẩm bẩm”, ngẫm nghĩ một mình. Trong
Về mặt lý thuyết, diễn ngôn của người kể chuyện nắm giữ vai trò chủ đạo trong vận động tương tác của các loại diễn ngôn. Tuy nhiên cũng phải lưu ý ngay rằng, trên thực tế, nhà văn sử dụng vai trò điều phối tương tác diễn ngôn ấy ở mức nào, theo cách nào thì còn tùy thuộc vào sở trường, sở đoạn, ý đồ nghệ thuật riêng của mỗi người trong từng ngữ cảnh trần thuật cụ thể.
20 truyện ngắn của ông được khảo sát , có 21 lượt lời của nhân vật được thực hiện theo kiểu này.
Các biện pháp kĩ thuật thường được Nhất Linh sử dụng thuần thục, nhất quán ở tiểu thuyết, truyện ngắn trong thời TLVĐ là: khắc họa tâm trạng nhân vật; miêu tả hành vi giao tiếp đơn thoại (nói một mình); và, cho nhân vật độc thoại nội tâm.
Chẳng hạn, trong tiểu thuyết, ông khắc họa trực tiếp tâm trạng của Nhung (Lạnh lùng):
- “Trong bóng tối, nàng nói không nghĩ ngợi.” [106, tr. 34]
- “Nhung nhắm mắt lại rùng mình, hai tay nàng mê man ôm ghì cái gối bông mềm vào
ngực.” [106, tr.50]
- “Nàng thấy hạnh phúc của nàng đẹp đẽ như ánh lửa lấp lánh trong cốc rượu đương
sóng sánh trong tay nàng” [106, tr.85]
Trong truyện ngắn, ông cũng khắc họa trực tiếp tâm trạng của nhân vật Doãn (Hai vẻ
đẹp):
“Doãn ngồi không dám động đậy sợ những điều chàng nhận ra như con chim còn dút
dát bay vụt đi mất.” [39, tr.260]
Ông để cho Doãn (Hai vẻ đẹp), chàng họa sĩ trẻ, miệt mài trong những băn khoăn, suy
tưởng và buột lên những độc thoại nội tâm:
“- Trong công việc tô tạo vẻ đẹp của con người, ta sẽ khoan khoái và lòng ta cũng rung động một cách êm ái như những khi tìm những mầu hòa hợp để vẽ nên tranh … Cảnh đời đẹp đẽ của dân quê đối với ta cũng là một bức tranh đẹp.” [39, tr.262]
Cứ như thế, văn bản diễn ngôn trần thuật của ông dày đặc các cụm từ lược thuật, miêu tả, thuyết minh, phân tích tâm lý của người kể chuyện về nhân vật. Có cảm tưởng như ông đang sử dụng diễn ngôn của người kể chuyện mà dẫn người đọc mỗi lúc một sâu hơn vào dòng suy tư của nhân vật.
(4.) Sự phân đoạn diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng
cũng là một điều rất đáng tìm hiểu.
Thói quen và ý đồ chia tách hay không chia tách diễn ngôn trong văn bản truyện ngắn
thành nhiều hay ít tiểu đoạn của hai nhà văn cũng rất khác nhau.
Ông chăm chú quan sát không để sót một hành vi cử chỉ của Doãn (Hai vẻ đẹp) và mạnh dạn để cho nhân vật này “nói một mình” không biết bao nhiêu lần trong tác phẩm: Doãn “lắc đầu nói một mình” [39, tr.226], “ngẫm nghĩ” [39, tr.227], “lẩm bẩm” [39, tr.228], “mỉm cười vì một cái ý nghĩ ngộ nghĩnh thoáng hiện trong óc” [39, tr.229], “chàng tự hỏi” [39, tr.238], “chàng ngẫm nghĩ” [39, tr.241], “mừng rỡ đứng lên nói” [39, tr.245], “Doãn mỉm cười” [39, tr.245], “Chàng lẩm bẩm nhắc lại” [39, tr.250],...
Trong sáng tác, Khái Hưng thích chia tách diễn ngôn trần thuật trong tác phẩm thành nhiều tiểu đoạn. Trong 67 truyện ngắn của ông có 12 truyện không chia đoạn; 9 truyện chia thành 2 đoạn; 12 truyện chia 3 đoạn; 34 truyện khác chia thành từ 4 đến 8 đoạn, thậm chí 11 đoạn (Dưới ánh trăng); Có những truyện dài chỉ 8 trang (Bên dòng sông Hương) hoặc 9 trang sách nhỏ (Linh hồn thi sĩ) nhưng vẫn được nhà văn chia tác thành 8 đoạn. Độ dài của phần lớn truyện ngắn Khái Hưng thường trong khoảng từ 6 đến 11 trang. Những truyện hơi dài của ông đều được chia thành rất nhiều đoạn. Dưới ánh trăng: 33 trang, chia 11 đoạn; Cái Ve: 31 trang, chia 6 đoạn; Cô dâu: 29 trang chia 7 đoạn;…
Thói quen và ý đồ chia tách diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn thành nhiều đoạn nhỏ như thế rất nhất quán với lối viết tiểu thuyết trong chặng đầu (1933-1936) của Khái Hưng. Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên (1933) được bố cục thành 11 chương ngắn; Gánh hàng hoa (1934): 13 chương, Nửa chừng xuân (1936): 18 chương (3 phần).
Gánh hàng hoa là một trong hai cuốn tiểu thuyết Khái Hưng viết chung với Nhất Linh (cuốn kia là Đời mưa gió). Nhưng các cách chia chương, mục là thể nghiệm của chính Khái Hưng, từng gặt hái được thành công từ Hồn bướm mơ tiên – cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông – nên có thể suy đoán rằng, cách bố cục chương mục ở Gánh hàng hoa chủ yếu và trước hết là do ông đề xuất. Mười ba chương ấy có tên như sau: Hy vọng; Hạnh phúc; Sau ngày vui; Hương và sắc; Sáng và tối; Hy sinh; Viết báo; Trong vườn bách thảo; Ánh sáng; Khủng hoảng; Hai cảnh mộng; Con đường cũ; Đời vẫn vui vẫn đẹp.
Văn chương của Khái Hưng, do chỗ chú ý đến cái tinh tế mà dễ gợi trong tâm trí người đọc hình ảnh của những tác phẩm cỡ nhỏ, cỡ vừa, gọn gàng, thanh thoát, xinh xắn như những áng văn xuôi trữ tình, thậm chí, những bài thơ. Nó cũng mang lại cho người ta cái cảm giác nhẹ nhõm kèm theo một thoáng bâng khuâng, suy tưởng về con người, cuộc đời.
Đặc điểm này làm cho tác phẩm của Nhất Linh tuy không có cái vẻ thanh thoát, mạch lạc của truyện ngắn Khái Hưng, song lại thường trĩu nặng suy tư triết luận, rất phù hợp với chất luận đề hay những cuộc phiêu lưu về tinh thần của lối viết mạnh về phân tích tâm lý. Không phải một tâm lý thông thường mà ẩn chứa nhiều u uẩn khuất khúc.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Về mặt loại hình, tiểu thuyết TLVĐ gồm có tiểu thuyết luận đề; tiểu thuyết phân tích xã hội; tiểu thuyết phân tích tâm lý và có một hành trình vận động riêng theo ba chặng đường của xu hướng tiểu thuyết TLVĐ (càng về sau thì tiểu thuyết luận đề càng giảm tiểu thuyết phân tích xã hội và phân tích tâm lý càng tăng). Truyện ngắn Nhất Linh Khái Hưng cũng có
Nhất Linh lại khác. Trong số 40 truyện ngắn của ông đã có tới 23 truyện không chia tách thành đoạn nhỏ. Số còn lại, tình hình như sau: chia thành 2 đoạn: 6 truyện; chia thành 3 đoạn: 4 truyện; chia thành 4 đoạn: 4 truyện; chia 5 đoạn: 1 truyện (Lan rừng); chia 6 đoạn: 1 truyện (Hai buổi chiều vàng); chia 7 đoạn: 1 truyện (Thế rồi một buổi chiều).
sự tương ứng về loại hình với bốn khuynh hướng phát triển thể tài: Truyện ngắn thiên về khuynh hướng luận đề; Truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích xã hội; Truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích tâm lý và Truyện ngắn có khuynh hướng hỗn hợp. Tuy nhiên ở đây ranh giới giữa các loại hình thể tài truyện ngắn (luận đề, phân tích xã hội, phân tích tâm lý) không rõ rệt (ít nhất là trong tương quan so sánh với tiểu thuyết).
Về cấu trúc, cũng như với tiểu thuyết, với truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, cũng có thể nói đến một “mô hình chung” (như một số nhà nghiên cứu đã đề xuất). Tuy nhiên, cần có sự bổ sung phân biệt ba loại mô hình: tiểu thuyết truyện ngắn luận đề; tiểu thuyết truyện ngắn phân tích xã hội và tiểu thuyết, truyện ngắn phân tích tâm lý.
Đặt trong xu hướng phát triển ngôn ngữ VXNT của TLVĐ, ngôn ngữ truyện ngắn – nhìn từ góc độ tính nghệ thuật trong cách hòa phối các thành phần diễn ngôn trần thuật – cũng là một phương diện đóng góp quan trọng của Nhất Linh, Khái Hưng.
KẾT LUẬN
Dựa vào nội dung, kết quả nghiên cứu ở ba chương của luận văn, tác giả đi đến mấy
kết luận sau đây:
1. Nhất Linh, Khái Hưng là hai tác giả lớn, thực sự giữ vai trò trụ cột trong hoạt động khá nhiều mặt của TLVĐ – một tổ chức văn học có nhiều đóng góp nổi bật làm khởi sắc văn học quốc ngữ Việt Nam trước 1945. Song, đã đến lúc cần phải có một cái nhìn đầy đủ hơn về sự nghiệp sáng tác văn học của hai ông: Nhất Linh, Khái Hưng không chỉ là hai nhà tiểu thuyết thời danh của TLVĐ mà còn là hai nhà văn viết truyện ngắn. Đó là một khẳng định hoàn toàn có cơ sở, được bảo đảm bằng cả số lượng và chất lượng nghệ thuật truyện ngắn của hai ông.
Đó là những sáng tác không chỉ có ý nghĩa bổ sung cho những gì mà tiểu thuyết của hai ông chưa hoặc không làm được mà nhiều khi còn có ý nghĩa chuẩn bị, thể nghiệm sáng tạo trong một hình thức “tự sự cỡ nhỏ”, trước khi sử dụng một hình thức “tự sự cỡ lớn”.
2. Theo khảo sát của luận văn, nội dung cảm hứng, xu hướng tư tưởng, của truyện
ngắn Nhất Linh, Khái Hưng, là vừa nhất quán vừa phong phú, đa dạng.
Ủng hộ quan niệm mới về tình yêu – hôn nhân, gia đình; công khai đề cao, cổ vũ con người hành động cải cách, cải tạo xã hội; miêu tả thể hiện vẻ đẹp thể chất và thế giới tinh thần của con người cá nhân; thể hiện hình ảnh quê hương đất nước, cảnh quan thiên nhiên, sinh hoạt và nhiều vẻ đẹp khuất lấp trong đời sống; bày tỏ những băn khoăn về cảnh ngộ, nhân cách của giới bình dân và âm hưởng phân tích xã hội, phê phán hiện thực;… đó là những nội dung cảm hứng chủ đạo của hai ông không chỉ trong tiểu thuyết, mà cả trong truyện ngắn.
3. Cũng như tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng, truyện ngắn của hai nhà văn này
Tuy nhiên, nếu như ở tiểu thuyết, ranh giới loại hình giữa các thể tài tiểu tuyết luận đề, tiểu thuyết phân tích xã hội, tiểu thuyết phân tích tâm lý là tương đối rõ nét, biên độ giao thoa hẹp hơn, thì ở truyện ngắn của hai ông, ranh giới ấy thường mờ nhạt hơn, biên độ giao thoa giữa các loại hình thể tài cũng rộng và phức tạp hơn. Qua khảo sát, thấy truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng có những tác phẩm thiên về khuynh hướng luận đề, có những tác phẩm thiên về khuynh hướng phân tích xã hội, có những tác phẩm thiên về khuynh hướng phân tích tâm lý, lại có những tác phẩm đan xen, hòa phối hai hay ba loại yếu tố thuộc các khuynh hướng nói trên (có thể gọi là “khuynh hướng tổng hợp về loại hình thể tài).
Nhìn trên đại thể, truyện ngắn thiên về khuynh hướng luận đề được Nhất Linh viết nhiều hơn và chất luận đề ấy, khi xen phối vào các khuynh hướng truyện ngắn khác của ông cũng thường đậm hơn. So với Khái Hưng, kĩ thuật phân tích tâm lý của Nhất Linh cũng sắc
khá phong phú về mặt loại hình, thể tài.
sảo hơn; các “ca” tâm lý của nhân vật Nhất Linh cũng hóc hiểm, rắc rối hơn. Đặc điểm này cũng bộc lộ rõ trong lĩnh vực sáng tác tiểu thuyết của Nhất Linh. Như vậy, có sự gặp gỡ, tương hợp rất đáng kể giữa Nhất Linh trong tiểu thuyết và Nhất Linh trong truyện ngắn.
Cũng nhìn trên đại thể, truyện ngắn có khuynh hướng phân tích xã hội hoặc truyện ngắn có khuynh hướng tổng hợp thể tài chiếm tỉ lệ rất cao trong sáng tác của Khái Hưng. Khái Hưng không thật sự dụng công theo đuổi “luận đề”, ông chú ý hơn đến một tinh thần phân tích tổng hợp dựa trên trải nghiệm và những gì quan sát thu nhận được từ bản thân đời sống.
4. Nghiên cứu truyện ngắn trong tương quan với tiểu thuyết Nhất Linh, Khái Hưng, từ bình diện cấu trúc loại hình của tác phẩm, chúng ta hoàn toàn có thể nói đến một mô hình (mang tính ước lệ) thâu tóm được nhiều đặc điểm chung của hàng loạt sáng tác cụ thể. Luận văn cho rằng có thể khái quát thành ba dạng mô hình: mô hình chung của tiểu thuyết truyện ngắn luận đề, mô hình chung của tiểu thuyết truyện ngắn phân tích xã hội, mô hình chung của tiểu thuyết, truyện ngắn phân tích tâm lý dựa trên các yếu tố cơ bản: đề tài – chủ đề; nhân vật lý tưởng; kết cấu; văn phong,…
Sự khảo sát cũng cho thấy: cấu trúc diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng có đặc điểm chung là hiện đại, luôn có sự tương tác giữa các thành phần diễn ngôn như diễn ngôn của người kể chuyện (kể, tả, bình luận), diễn ngôn của nhân vật (đối thoại, độc thoại), được thực hiện dưới vai trò điều phối của tác giả, đó thường là những cách tổ chức diễn ngôn có tính nghệ thuật và có giá trị thẩm mĩ khá cao. Tuy nhiên, thực tế sáng tác cũng cho thấy, Nhất Linh, Khái Hưng mỗi nhà văn đều có sở trường sở đoản riêng trong lĩnh vực sáng tạo này.
Khái Hưng lại có xu hướng bảo đảm một sự hài hòa cân đối ở một mức độ có thể chấp nhận được giữa hai loại diễn ngôn trên. Diễn ngôn của người kể chuyện trong truyện ngắn của ông thường trong sáng, linh hoạt mà không kém phần sâu lắng, tế nhị.
5. Kể từ lúc TLVĐ chấm dứt hoạt động và Nhất Linh, Khái Hưng không còn sáng tác văn học trong TLVĐ nữa, hơn sáu thập niên đã trôi qua, không phải mọi sáng tác tiểu thuyết hay truyện ngắn của hai ông đều đứng vững được trước thử thách của thời gian. Tuy nhiên, những gì mà các ông đã sáng tạo thể nghiệm, chắc chắn đều có một ý nghĩa đối với sự vận động phát triển của văn học nước nhà.
Nhất Linh có xu hướng thu hẹp phạm vi diễn ngôn của nhân vật và mở rộng nhiều khi tối đa diễn ngôn của người kể chuyện. Diễn ngôn của người kể chuyện chú trọng cả việc kiêm luôn việc miêu tả, lược thuật diễn ngôn của nhân vật. Diễn ngôn của người kể chuyện trong truyện ngắn của ông thường gợi mở suy tư, dẫn vào nội tâm, cảm giác và nhiều khi hướng tới triết luận. Nhà văn cũng thường để cho nhân vật độ thoại nội tâm, nhưng nhiều hơn là để cho nhân vật xưng “tôi” tự thuật, tự phân tích tâm lý.
Ngày nay, ngày sau nữa, người đọc yêu thích truyện ngắn của hai ông có thể ít đi. Song, nếu có dịp lật giở lịch sử văn học Việt Nam, ôn lại lịch sử, văn chương TLVĐ, người ta buộc phải nhớ đến hai ông. Khi ấy, những cái tên Nhất Linh, Khái Hưng sẽ lại hiện lên vừa như là những tác gia tiểu thuyết, vừa như là những nhà văn viết truyện ngắn có thực tài của thế kỷ XX.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Duy Anh, “Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí”, www.evan.com.vn.
2. Huỳnh Phan Anh (1970), “Nhất Linh và Bướm trắng”, Tạp chí Văn, (156), trang 56 –
78.
3. Nguyễn Thị Kiều Anh (2007), Một chặng đường lý luận về tiểu thuyết trong văn học
Việt Nam, NXB Công An Nhân dân.
4. Vũ Tuấn Anh (chủ biên) (1994), Thạch Lam – văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội.
5. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú, tuyển chọn và giới thiệu, Thạch Lam về tác gia và tác
phẩm, NXB Giáo dục, 2007.
6. Đào Văn A (1975), “Tự lực văn đoàn trên sách báo miền Nam trước đây”, Tạp chí
Văn học,(1)
7. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
8. Tào Văn Ân (2000), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Tp. HCM .
9. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà
Nội.
10. M. Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử dịch và giới thiệu),
NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1993.
11. Nguyễn Tường Bách, “Việt Nam, một thế kỷ qua”, http://www.vnthuquan.net
13. B.s. Trần Văn Bảng (1970), “Bệnh tật và cái chết của Nhất Linh – Nguyễn Tường
Tam”, Tạp chí Văn,(156), tr.29 – 40.
14. Bùi Xuân Bào (1972), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Sài Gòn.
15. Vũ Bằng (1970), “Nguyễn Tường Tam,một nhà văn “đa bất mãn hoài”, Tạp chí
Văn,(156), tr. 41 – 55.
16. Huy Cận (1989), “Tự Lực Văn Đoàn có đóng góp lớn vào Văn học Việt Nam”, Đặc
12. Nguyễn Tường Bách, “Tự Lực văn đoàn: Nhất Linh”, http://www.xuquang.com
17. Hiếu Chân (1970), “Hoài niệm Nguyễn Tường Tam”, Tạp chí Văn, (156), tr.5 – 28.
18. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
san báo Giáo viên Nhân dân.
19. Anh Chi (2002), “Giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn và trường hợp buồn tiếc nhất”, Tạp
chí Nhà Văn,(12), tr.158 – 162.
20. Nguyễn Huệ Chi (sưu tầm, biên soạn, giới thiệu) (1989), Tuyển tập Hoàng Ngọc
Phách, NXB văn học.
21. Trương Chính (2000), “Dưới mắt tôi”, Tự Lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân
tộc, NXB Văn hóa – thông tin, Hà Nội.
22. Trương Chính (tháng 7/1987), “Tự Lực văn đoàn”, Báo Giáo viên nhân dân số đặc
biệt,(27),(28),(29),(30),(31)
23. Nguyễn Đình Chú (tháng 7/1989), “Cần nhìn đúng thời kỳ văn học 1930 – 1945”,
Báo Người giáo viên nhân dân số đặc biệt, (27),(28),(29),(30),(31)
24. Vũ Hoàng Chương (1970), “Ai điếu Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam”, Tạp chí Văn,
(156), tr.1 – 4.
25. Nguyễn Thanh Du (2004), Văn xuôi nghệ thuật của Trần Tiêu giai đoạn 1930 –
1945, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, TP. Hồ Chí Minh.
26. Lê Tiến Dũng (1991), Tìm hiểu tác phẩm văn học, NXB Tổng Hợp, Sông Bé.
27. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận văn học, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM .
28. Vương Trùng Dương, “Nhất Linh (1905 – 1963”), http://tvvn.org/f45/nhat-linh-
1905-1963-a-3799/
29. Nguyễn Duy Diễn (1967), Luận đề về Tự Lực văn đoàn, NXB Thăng Long, Sài Gòn.
30. Nguyễn Duy Diễn (1970), “Chân dung của Nhất Linh giữa cuộc đời và vai trò của
Nhất Linh trước Văn học sử”, Tạp chí Văn học,(109), tr.25 – 49.
biểu trong Tự Lực văn đoàn”, Tập san văn - sử - địa, (46)
32. Nguyễn Đức Đàn (1963), “Nhất Linh trên bước đường sáng tác hiện nay”, Tạp chí
Văn học,(1), tr.60 – 68.
33. Trọng Đạt, “Đọc bài “Làm sáng tỏ một sự kiện văn học” của ông Nguyễn Tường
Thiết”, http://_docsu14.blogspost.com/2006_07_01_archive.html
34. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (tập 1), NXB Đại học và Trung
31. Nguyễn Đức Đàn (1958), “Mấy ý kiến về Nhất Linh và Khái Hưng – hai nhà văn tiêu
35. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn: con người và văn chương, NXB văn học, Hà
Nội.
36. Phan Cự Đệ (1999), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 -1945, NXB Giáo dục.
học chuyên nghiệp.
37. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2007), Truyện ngắn Việt Nam – lịch sử – thi pháp – chân
dung, NXB Giáo dục.
38. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975, NXB đại học và
trung học chuyên nghiệp.
39. Trịnh Bá Đĩnh (truyển chọn và giới thiệu) (2000), Nhất Linh truyện ngắn, NXB Văn
học, Hà Nội.
40. Tự Lực Văn Đoàn (1943), “Tự Lực Văn Đoàn”, Phong Hóa,(87)
41. Hà Minh Đức (1998), Khảo luận văn chương, NXB khoa học xã hội Hà Nội.
42. Hà Minh Đức (2006), “Hoàng Đạo (1907 – 1948)”, Tạp chí Nghiên cứu Văn
học,(8),(414), tr.75 – 86.
43. Hà Minh Đức (2007), Tự Lực Văn Đoàn – trào lưu – tác giả, NXB Giáo dục.
44. Hà Minh Đức (2007), “Trần Tiêu (1900- 1954)”, Tạp chí Nghiên cứu Văn
học,(6),(424), tr.3 – 8.
45. Bằng Giang (1998), Văn học quốc ngữ ở Nam Kì 1865 – 1930; NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
46. Vu Gia (1993), Khái Hưng – nhà tiểu thuyết, NXB Văn hóa, Hà Nội.
47. Vu Gia (1994), “Một ít tư liệu chung quanh Thạch Lam”, Tạp chí Văn học,(8),
tr.53,54,55.
48. Vu Gia (1995), Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa, NXB Văn hóa, Hà Nội.
49. Nhiều tác giả (2000), Nhất Linh cây bút trụ cột của Tự Lực văn đoàn, NXB Văn hóa
50. Nhiều tác giả (1957), Lược thảo Văn học Việt Nam, tập III (từ giữa thế kỷ X đến
1945), NXB Xây dựng, Hà Nội.
51. Nhiều tác giả (2004), Từ điển Văn học bộ mới, Nhà xuất bản Thế Giới, Hà Nội.
52. Nhiều tác giả (1983-1984), Từ điển văn học, Tập I, II, NXB KHXH, Hà Nội.
53. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
54. Nhiều tác giả (1999), Văn học Việt Nam (1990 – 1945), NXB Giáo dục, Hà Nội.
55. Nhiều tác giả (1976), Lịch sử Văn học Việt Nam 1930 – 1945,NXB Giáo dục.
56. Nhiều tác giả (1972), Khái Hưng – thân thế và tác phẩm, Nam Hà.
thông tin.
57. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
58. Phan Thị Ngọc Giàu (2007), Bản sắc dân tộc trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (Khảo sát qua một số tác phẩm tiêu biểu của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Khái Hưng, Nhất Linh), Luận văn Thạc sĩ Văn học, TP. Hồ Chí Minh.
59. Hoàng Bích Hà, Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn) (2004), Truyện ngắn Khái
Hưng, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội.
60. Dương Quảng Hàm (1960), Việt Nam văn học sử giản yếu, Bộ giáo dục quốc gia xuất
bản, Hà Nội.
61. Hoàng Xuân Hãn (tháng 4/1989), Sông Hương,(37)
62. Lê Thị Đức Hạnh (1991), “Thêm mấy ý kiến đánh giá về Tự Lực Văn Đoàn”, Tạp
chí Văn học,(3)
63. Lê Thị Đức Hạnh (1993), “Tự Lực văn đoàn và thơ mới”, Tạp chí Văn học,(2)
64. Đặng Thị Hạnh – Lê Hồng Sâm, Văn học lãng mạn và Văn học hiện thực phương
Tây thế kỷ XIX, NXB Đại Học và Trung học chuyên nghiệp.
65. Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học, vấn đề và suy
nghĩ, NXB Giáo dục, TP.HCM .
66. Nguyễn Hữu Hiếu (1994), Mấy suy nghĩ về nhà văn Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam,
Tạp chí Văn học, số 4, trang 50, 51, 53.
67. Đỗ Đức Hiểu (1977), “Đọc Đôi bạn của Nhất Linh”, Tạp chí Văn học (1),(299), tr.15
– 20.
68. Đỗ Đức Hiểu (1996), “Đọc Bướm trắng của Nhất Linh”, Tạp chí Văn học,(10),(296),
tr.3 – 8.
70. Huỳnh Thị Hoa (2006), Vấn đề tiếp nhận văn xuôi Tự Lực Văn Đoàn, Luận văn Thạc
sĩ Văn học, TP. Hồ Chí Minh.
71. Nguyễn Kim Hồng (2001), “Xu hướng hiện thực tâm lý qua các tác phẩm viết về
làng quê của Thạch Lam”, Tạp chí Văn học,(12), (358), tr.53 – 60.
72. Khái Hưng, Anh phải sống, (1994), NXB Văn nghệ TP. HCM.
73. Khái Hưng (ngày 17/6/1958), “Tình tuyệt vọng”, Tạp chí Văn hóa Ngày nay, Tập 1,
69. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn.
74. Khái Hưng (1958), “Nhân đọc bài Tình tuyệt vọng”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập
9, tr.70.
75. Khái Hưng (1958), “Đợi chờ”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 8, tr.131 – 134.
tr.109 – 112.
76. Khái Hưng (1958), “Trăng xưa”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 5, tr.85.
77. Khái Hưng (1958), “Thế thì hòa”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 8, tr.155.
78. Khái Hưng (1958), “Trăng trong văn của Khái Hưng”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay,
Tập 5, tr.169 – 171.
79. Khái Hưng (1958), “Trăng thu”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 5, tr.150 – 155.
80. Mai Hương, tuyển chọn và biên soạn (2000), Nhất Linh – cây bút trụ cột, NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
81. Mai Hương (tuyển chọn) (2000), Tự Lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc,
NXB Văn hóa thông tin.
82. Phạm Thị Thu Hường (1993), “Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện
ngắn Thạch Lam”, Tạp chí Văn học,(3), (261), tr.16 – 18.
83. Trần Đình Hượu (1991), “Tự Lực Văn Đoàn – nhìn từ góc độ tính liên tục của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông”, Sông Hương,(4)
84. Tam Ích (1967), “Hồn bướm mơ tiên”, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 – 1945),
NXB Văn học, Hà Nội.
85. Thụy Khuê, “Nhất Linh (1906 – 1963)”, http://www.thuykhue.free.fr
86. Nguyễn Hoành Khung (1998), Lời giới thiệu “Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 –
1945)”, NXB Khoa Học Xã Hội.
87. Nguyễn Hoành Khung (sưu tầm và soạn tuyển) (1997), Tổng tập Văn học Việt Nam,
tập 29B, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
88. Lê Đình Kỵ (1992), “Vấn đề đánh giá văn học lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945”,
89. Lê Đình Kỵ (biên soạn) (1984), Mac – Anghen – Lenin Bàn về Văn học Nghệ thuật,
Trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh.
90. Thạch Lam (1958), “Trăng trong văn của Thạch Lam”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay,
Tập 5, tr.166.
91. Thạch Lam (1974), “Giới thiệu chân trời cũ của Hồ Dzếnh”, Tạp chí Văn học,(185),
tr.47 – 48.
92. Thạch Lam, 33 truyện ngắn (2009), NXB Văn học, Hà Nội.
93. Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 32, tập 3, NXB Phong trào Văn hóa, Sài
Gòn.
Tạp chí Văn học,(6)
94. Phong Lê (1998), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
95. Nhất Linh (1933), “Bắc Kỳ thể thao với Phong Hóa”, Phong Hóa,(37)
96. Nhất Linh (1958), “Bao giờ em về”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 8, tr.37 – 49.
97. Nhất Linh (17/6/1958), “Bắn vịt trời”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 1, tr.72 – 80.
98. Nhất Linh (1958), “Búng ruồi”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 5, tr.159 – 165.
99. Nhất Linh (1958), “Con thuyền ngược nước”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 9,
tr.86, 87.
100. Nhất Linh (1958), “Cúng rượu”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 5, tr.95 – 103.
101. Nhất Linh (1958), “Dân quê”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 9, tr.98.
102. Nhất Linh (1958), “Giao thừa Quý Tỵ 1953”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 8,
tr.12-13.
103. Nhất Linh (1933), “Hai cái thái cực”, Phong Hóa,(42)
104. Nhất Linh (1934), “Ngược lên chiều gió”, Tạp chí Văn học Việt Nam, (92), tr.108 –
111.
105. Nhất Linh (1965), “Những di chúc của Nhất Linh”, Tạp chí Văn học, (41), tr.32.
106. Nhất Linh (1999), Lạnh lùng, NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh.
107. Nhất Linh, tập truyện ngắn “Những ngày diễm ảo” (1993), NXB Văn học, Hà Bắc.
108. Nhất Linh (1958), “Lòng tử tế”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 8, tr.76 – 79.
109. Nhất Linh (1969), “Tìm một cái chết”, Tạp chí Văn học, (98), tr.76 – 81.
111. Nhất Linh (1958), “Tranh ngoại bản cúc xưa”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 8,
tr.11.
112. Nhất Linh (1958), “Thơ mới”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay, Tập 8, tr.165-166.
113. Nhất Linh (1958), “Trăng trong văn của Nhất Linh”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay,
Tập 5, tr.167, 168.
114. Nhất Linh (1934), “Văn bác học và Văn bình dân”, Tạp chí Văn học Việt Nam,
(118), tr.139 – 141.
110. Nhất Linh (1933), “Tựa truyện “Hồn bướm mơ tiên”, Phong Hóa, (61).
115. Nhất Linh (1965), “Viên độc dược”, Tạp chí Văn học, (41), tr.28 – 31.
116. Nhất Linh (1961), Viết và đọc tiểu thuyết – biên khảo, NXB Đời Nay.
117. Nhất Linh (1965), “Văn trong tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học, (41), tr.15 – 18.
118. Nhất Linh (1965), “Xóm Cầu Mới”, Tạp chí Văn học, (41), tr.20 – 27.
119. Nhất Linh (17/6/1958), “Xóm Cầu Mới – Cô Mùi”, Tạp chí Văn hóa Ngày Nay,
Tập 1, tr.45 – 58.
120. Nhất Linh, tập truyện ngắn “Những ngày diễm ảo” (1993), NXB Văn học, Hà
Bắc.
121. Phạm Quang Long (1990), “Tự Lực Văn Đoàn – một kiểu tư duy văn học”, Tạp chí
Khoa Học, (2), Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội.
122. Trần Triệu Luật (1965), “Ý tưởng cải tạo xã hội của nhóm Tự Lực Văn Đoàn”, Tạp
chí Văn học, (41), tr.33 – 43.
123. Phan Quốc Lữ (2003), Văn xuôi trữ tình thời kỳ 1930 – 1945 – mấy vấn đề về đặc điểm thi pháp.
124. Phan Quốc Lữ (2003), “Tính chất phi cốt truyện trong văn xuôi Thạch Lam, Xuân
Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh”, Tạp chí Văn học, (6), tr.55 – 62.
125. Thế Lữ (2003), “Tính cách tạo tác của Thạch Lam”, Thạch Lam, về tác gia và tác
phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
126. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà (1986), Lý luận Văn học, tập 1, NXB Giáo
dục, TP. Hồ Chí Minh.
127. Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác (1976), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945, tập 5, phần 1 (in lần thứ 4), NXB Giáo dục.
129. Nguyễn Thị Hoàng Mai (2008), Tiểu thuyết Nhất Linh trong và sau Tự Lực Văn
Đoàn, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, TP. HCM.
130. Nguyễn Đăng Mạnh (1987), Lời giới thiệu Hợp tuyển Văn học Việt Nam (1920 –
1945), tập 1, NXB Văn Học, Hà Nội.
131. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
128. C. Mac – F. Ăng ghen (1977), Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội.
132. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), “Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX”, Tạp chí Văn học, (5)
NXB Giáo dục.
133. Nam Mộc (1962), Sai lầm chủ yếu trong cuốn “Viết và đọc tiểu thuyết” của Nhất
Linh, Tạp chí Văn học số 7 (31), trang 49 – 55.
134. Phương Ngân (2000), Khái Hưng – nhà tiểu thuyết xuất sắc của Tự Lực Văn Đoàn,
NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
135. Phan Ngọc (1993), “Ảnh hưởng của Văn học Pháp tới Văn học Việt Nam 1932 –
1940”, Tạp chí Văn học, (4)
136. Phạm Thế Ngũ (1997), tái bản, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Văn
học hiện đại 1862 – 1945, NXB Đồng Tháp.
137. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, NXB Văn nghệ Thành Phố Hồ Chí
Minh.
138. Vương Trí Nhàn (2005), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học
Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
139. Trần Thị Mai Nhi, Văn học hiện đại – Văn học Việt Nam giao lưu gặp gỡ, NXB Văn
học.
140. Phạm Thị Ninh (2006), “Thử vận dụng lý thuyết mạch lạc phân tích truyện ngắn
“Hai đứa trẻ””, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr.37 – 44.
141. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập 2, (1994), NXB Văn học, Hội nghiên cứu và
giảng dạy Văn học, TP. HCM.
142. Võ Phiến, “Văn học miền Nam, tổng quan”, http://www.vnthuquan.net
143. Thế Phong (1974), Nhà tiểu thuyết tiền chiến 1930 – 1945.
144. Vũ Đức Phúc (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945.
Nam hiện đại 1930 – 1945.
146. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi Việt Nam những năm 80 và những vấn đề
dân chủ mới của nền văn học”, Tạp chí văn học, (4)
147. Vũ Tiến Quỳnh (tuyển chọn và trích dẫn), Phê bình – Bình luận Văn học: Khái
Hưng, Thạch Lam, Hồ Biểu Chánh, NXB Tổng Hợp Khánh Hòa.
148. Vũ Tiến Quỳnh (tuyển chọn và trích dẫn) (1999), Phê bình – Bình luận Văn học:
145. Vũ Đức Phúc (1971), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn học Việt
149. Tạ Văn Ru, Nguyễn Duy Diễn (1958), Luận đề về Tự Lực Văn Đoàn, tập II, NXB
Thăng Long – Sài Gòn.
Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, NXB Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh.
150. Băng Sơn (2006), “Thạch Lam và ga Cẩm Giàng”, Tạp chí Nhà Văn, (10), tr.142 –
146.
151. Trương Bảo Sơn (1964), “Triết lý tuyệt hảo trong cuộc đời Nhất Linh – Nguyễn
Tường Tam”, Văn, (14)
152. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và lịch sử, NXB
Đại học Sư Phạm.
153. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận văn học, Nhà xuất
bản Giáo dục.
154. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (truyển chọn) (2005), Văn học so sánh
– nghiên cứu và triển vọng, NXB Đại Học Sư Phạm.
155. Doãn Quốc Sỹ (1960), Tự Lực Văn Đoàn, NXB Hồng Hà, Sài Gòn.
156. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, NXB TP.HCM.
157. Nguyễn Tường Tam (23/2/1934), “Tựa “Nửa chừng xuân”, Phong Hóa, tr.450-451.
158. Văn Tạo (2006), “Nên có nhà lưu niệm về Tự Lực Văn Đoàn”, Tạp chí Nghiên cứu
Văn học, (Số 3), (409), tr.125 – 131.
159. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
160. Bùi Việt Thắng (1992), Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học Hà Nội.
161. Nguyễn Thị Thế (1974), Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường – Nhất Linh, Hoàng
Đạo, Thạch Lam, Sài Gòn.
163. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam.
164. Nguyễn Thành Thi (2001), Thạch Lam – văn và người, NXB Trẻ, Hội Nghiên cứu
và Giảng dạy Văn học TP. HCM.
165. Nguyễn Thành Thi (2006), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, NXB Khoa
học xã hội.
166. Nguyễn Thành Thi (2008), “Lược đồ” văn học Quốc Ngữ Việt Nam trước 1945 –
162. Bạch Năng Thi – Phan Cự Đệ (1961), Văn Học Việt Nam 1930 – 1945, tập 1.
167. Nguyễn Thành Thi (1999), “Từ quan niệm về con người cá nhân đến thế giới cảm giác trong văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam”, Kỉ yếu khoa học Hội nghị các nghiên cứu sinh Ngữ Văn, Khoa Ngữ Văn, Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
nhìn từ qua trình hình thành và tương tác thể loại…
168. Nguyễn Thành Thi (2010), “Chuyên nghiệp hóa hoạt động sáng tác như một đòi học tất yếu của công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam trước 1945”, Nghiên cứu văn học, (số 4), 2010.
169. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học - thế giới mở, NXB Trẻ TP HCM.
170. Nguyễn Thành Thi (2010), “Tự Lực Văn Đoàn – Những lằn ranh văn học”,
Phongdiep.net.
171. Nguyễn Tường Thiết (1970), “Những ngày cuối cùng của thân phụ tôi”, Tạp chí Văn
học, (109), tr.50 – 67.
172. Nhật Thịnh (19..?), Chân dung Nhất Linh hay thân thế sự nghiệp Nguyễn Tường
Tam, NXB Sống Mới.
173. Lâm Nhựt Thuận (2000), Tiếp nhận Văn học (Qua một số tiểu thuyết của Khái Hưng
– Nhất Linh – Hoàng Đạo), Luận văn Tốt nghiệp, TP. Hồ Chí Minh.
174. Ngô Văn Thư (2005), “Quan niệm văn chương của Khái Hưng”, Tạp chí nghiên cứu
Văn học, (3), Viện văn học, Viện KHXHVN.
175. Ngô Văn Thư (2005), Tiểu thuyết của Khái Hưng, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Hà
Nội.
176. Phan Trọng Thưởng (1998), Vài nét về Tự Lực văn đoàn, (lời giới thiệu “văn
chương Tự Lực văn đoàn” tập 1), NXB Giáo dục.
177. Đặng Tiến (1965), “Hạnh phúc trong tác phẩm của Nhất Linh”, Tạp chí Văn, (37)
178. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP.HCM.
179. Nguyễn Trác (1989), Về Tự lực văn đoàn, NXB Thành phố HCM.
181. Nguyễn Thị Thu Trang (2007), “Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn
1954 – 1975”, Tạp chí nghiên cứu Văn học, (5)
182. Trần Khánh Triệu (1964), “Ba tôi”, Văn, (số 22)
183. Hoàng Trinh (chủ biên) (1978), Văn học cuộc sống Nhà văn, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
184. Nguyễn Hữu Trọng (1970), “Nhất Linh – con phượng hoàng gẫy cánh”, Tạp chí Văn
học, (109), tr.15 – 21.
185. Truyện ngắn Việt Nam 1930 – 1945 (1990), tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội.
180. Nguyễn Trác, Đái Xuân Ninh (1989), Về Tự Lực Văn Đoàn, NXB TP. HCM.
186. Lê Thị Dục Tú (1994), “Quan niệm về con người cá nhân trong tiểu thuyết Tự Lực
Văn Đoàn”, Tạp chí Văn học, (4), tr.30 – 33.
187. Lê Thị Dục Tú (1994), “Miêu tả nội tâm trong Tự lực văn đoàn”, Tạp chí Văn học,
(8), tr.20 – 24.
188. Lê Thị Dục Tú (2003), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn,
NXB Thanh Niên.
189. Lê Dục Tú (2005), “Tìm hiểu truyện ngắn Khái Hưng”, Tạp chí nghiên cứu Văn
học, (3)
190. Nguyễn Thị Tuyến (2004), Mô hình tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Luận án Tiến sĩ
Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.
191. Hồ Hữu Tường (1964), “Khái Hưng – người thứ nhất muốn làm nguyên soái của
“văn chương sáng giá”, Văn, (22)
192. Huỳnh Vân (1990), “Quan hệ văn học – hiện thực với vấn đề tiếp nhận, tác động và
giao tiếp thẩm mỹ”, Văn học và hiện thực, NXB KHXH, Hà Nội.
193. Nguyễn Văn Xung (1958), Bình giảng về Tự Lực Văn Đoàn, NXB Tân Việt, Sài
Gòn.
PHẦN PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Các bảng thống kê, khảo sát văn bản tác phẩm truyện ngắn Nhất Linh, Khái
Hưng do tác giả luận văn thực hiện
Bảng 1: Khảo sát các khuynh hướng thể tài truyện ngắn Nhất Linh
TT Tên truyện
Luận đề LĐ - PTTL PTXH- TL - LĐ PTXH
Phân tích xã hội Phân tích tâm lý
Tập Người quay tơ
1 Người quay tơ x
2 Nô lệ x
3 Chiến tranh x
4 Giấc mộng Từ Lâm x
5 Sư bác chùa Kênh x
x 6
Làm gì mà băn khoăn thế
x
7 Giật mình tỉnh dậy x
người
ca
Truyện kỹ họ Nguyễn
9
Bạch Liên
x
10 Vuông vải trắng
x
11
Sự thật ở miệng trẻ
x
(Kịch)
Tập Anh phải sống
12 Tháng ngày qua
x
8
13 Dưới bóng hoa đào x
14 Bóng người trên sương x
mù
x 15 Nắng mới trong rừng
xuân
x 16 Giết chồng báo
thù chồng
17 Đầu đường xó chợ x
18 Nước chảy đôi dòng x
Tập Tối tăm
19 Thế rồi một buổi chiều x
20 Chết dở x
21 Nghèo x
22 Hai cảnh ngoài phố x
23 May quá x
24 Hai vẻ đẹp x
25 Hai chị em x
26 Tiếng kêu thương x
buổi chiều
27 Hai buổi chiều vàng
x
28 Mười năm qua
x
29 Cái tẩy
x
30 Vết thương
x
x
31 Câu chuyện mơ trong
giấc mộng
32 Lan rừng
x
Tập Mối tình chân
Tập Hai vàng
33 Mối tình chân x
34 Một buổi sáng x
35 Cúng rượu x
36 Lòng mẹ x
37 Tam chiến Lã Bố x
38 Bao giờ em về x
Tập Những ngày diễm ảo
39 Những ngày diễm ảo x
40 Thương chồng x
8 1 Tổng cộng 9 7 11 4
Bảng 2: khảo sát các khuynh hướng thể tài truyện ngắn Khái Hưng
TT Tên truyện
Luận đề PTXH- TL LĐ – PTXH LĐ - PTTL
Phân tích xã hội Phân tích tâm lý
1
Dọc đường gió bụi
x
2
Tiếng dương cầm
x
x
3
Bên đường dừng bước
4
Cô hàng nước
x
5
Hai cảnh trụy lạc
x
6
Bãi sậy vườn cam
x
7
x
chim
vành
Con khuyên
Tập Dọc đường gió bụi
Trong nhà thương 8 x
9 Thưa chị x
10 Điên X
Tập Anh phải sống
11 Anh phải sống x
12 Tình tuyệt vọng X
13 Sóng gió Đồ Sơn x
x 14 Bên dòng sông
Hương
15 Tình điên X
Tập Số đào hoa
16 Đi Nam Kỳ x
17 Linh hồn thi sĩ X
18 Hoàng Oanh X
X thù ba mươi
19 Cái năm
Tập Đợi chờ
20 Đợi chờ x
22 Biến đổi
X
23 Chùa Hương
x
24 Bến đò năm xưa
X
25 Cháu nhà quan
X
26 Sín Sáng
X
27 Ngày giỗ
x
28 Điếu thuốc lá
x
29 Tiếng khèn
x
21 Bến Hòn Gai X
30 Tống tiền x
31 Đào Mơ x
32 Đồng xu x
33 Tập ảnh x
34 Dưới ánh trăng x
Tập Hạnh
35 Hai người bạn x
36 Tương tri x
37 Thời chưa cưới x
38 Một buổi chầu x
Tập Cái Ve
39 Một nhà hiền triết x
40 Xanh cà bung x
41 Người vợ mù x
42 Sư Tuệ x
43 Lòng tốt x
44 Linh hồn x
46 Biển
x
47 Cái Ve
x
Các truyện in báo
48 Lá thư rơi
X
49 Tuổi mơ mộng
x
50 Một tập thư
x
51 Cháu Tạ
x
52 Giai nhân
x
45 Trăng thu x
53 Nhà phê bình x
54 Đêm giao thừa x
55 Vui tính x
56 Cô áo trắng x
57 Những ngày vui x
58 Cô dâu x
59 Mười năm yêu dấu x
60 Người hầu sáng x
61 Thời xưa x
62 Lưu Bình – Dương x
Lễ
63 Chàng thi nhân x
64 Ái tình x
65 Nghiện x
66 Cái nhà x
67 Quá khứ x
Tổng cộng 7 12 12 22 14
Nhất Linh, Khái Hưng
–
–
Tác giả
Luận đề
LĐ PTXH (SL:%)
LĐ PTTL (SL:%)
PTXH- TL (SL:%)
Số truyện KS
(SL:%)
Phân tích xã hội (SL:%)
Phân tích tâm lý (SL:%)
3
4
5
9:22.50
7: 17.50
11:27.50
4: 10.00
8: 20.00
1:2.50
40
Nhất Linh
Bảng 3: Đối chiếu tổng hợp số liệu truyện ngắn theo thể tài của hai tác giả
7:10.60 12:17.88 12:17.88 22:32.78 14:20.86 0:0.00 67
Khái Hưng
Bảng 4.1: TẦN SUẤT ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG
TT
Số trang Số lượt thoại Tên tập và thời gian sáng tác; Tên truyện
Số cuộc thoại Số lượt trên trang Số lượt trên cuộc
1.
Tập Dọc đường gió bụi
6 Tiếng dương cầm 8 < 3,6 > 4,8 29
16 > 5,3 > 5,6 17 90
Bên đường dừng bước
Cô hàng nước 8 13 > 5,8 > 3,6 47
9 0 = 0,0 = 0,0 0 chim vành
Con khuyên
14 73 15 >5,2 > 4,8 thù ba mươi
Cái năm
3 Anh phải sống Đi Nam Kỳ 6 7 > 7,3 > 6,28 44
Bảng 4.2: TẦN SUẤT ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN NHẤT LINH
TT Tên tập và thời gian sáng
Số trang Số lượt
thoại
tác; Tên truyện
Số cuộc thoại
Số lượt trên trang
Số lượt trên cuộc
1. Tập Anh phải sống
Sóng gió Đồ Sơn 13 10 < 4,7 = 6,1 61
14 4 = 1,4 3,5 Tháng ngày qua 10
8 1 < 1,0 8,0 Bóng người trên sương mù 9
18 6 = 1,5 3,0 Giết chồng báo thù chồng 12
34 4 = 3,4 8,5 Nước chảy đôi dòng 10
Tập Người quay tơ
2
0 0 = 0,0 0,0 Sư bác chùa Kênh 5
0 0 = 0,0 0,0 Làm gì mà băn khoăn thế 6
0 0 = 0,0 0,0 Giật mình tỉnh dậy 5
Kết quả tổng hợp:
20 truyện ngắn của Khái Hưng được khảo sát với tổng cộng 192 trang, có 717 đơn vị diễn ngôn (lượt lời). Trung bình cứ một trang truyện ngắn, Khái Hưng sử dụng 3,88 lượt lời.
20 truyện với tổng số 299 trang, nhân vật của Nhất Linh đối thoại 377 lượt lời. Trung
bình cứ mỗi trang, Nhất Linh sử dụng 1,26 lượt lời.
Bảng 5:
Khảo sát đặc điểm tổ chức văn bản diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Nhất
5.1. Truyện ngắn Nhất Linh
Số đoạn
Số trang
TT Tên tập và thời gian sáng tác; Tên truyện
Đặc điểm nghệ thuật nổi bật
Nhân vật chính Điểm nhìn vai kể
Đặc điểm lời văn
tơ:
1. Tập Người quay
Linh, Khái Hưng
Người quay tơ 6 1 Từ Nương NKC tích
Phân tâm lý
Chàng nông phu NKC Nô lệ 4 1 tích
Phân tâm lý
Chiến tranh 3 1 Tôi tích
Phân tâm lý NKC + tôi
20 1 Trần Lưu mộng tích
NKC + tôi Giấc Từ Lâm Phân tâm lý
5 1 NKC Sư bác tích
Sư bác chùa Kênh Phân tâm lý
6 1 Phạm Đài tích
Làm gì mà băn khoăn thế Phân tâm lý
NKC Chất triết lý
5 1 Tôi
Giật mình tỉnh dậy NKC + tôi Yếu tố kỳ ảo
Vũ Khâm Lân NKC 6 1
Yếu tố lịch sử Truyện người ca kỹ họ Nguyễn
Bạch Liên 7 1 Bạch Liên NKC
Yếu tố kỳ ảo
Minh Tử NKC Vuông vải trắng 5 1 tích
13
NKC
Phân tâm lý
tích đoạn
(Kịch)
Phân tâm lý Sự thật ở miệng trẻ
Đ1:Mẹ và con; Đ2: Trinh và bác Mạch; Đ3: Ngọc, Ngọ, Dần; Đ4: ông Lý, Minh.
phải
2. Tập Anh sống:
Tháng ngày qua 10
3
Giao
NKC
tích
Phân tâm lý
1
Dưới bóng hoa 11
Phân
tích Tống Bình, Nam NKC
4 (mỗi đoạn có NVC khác nhau)
đào tâm lý Chân
9 1 Trạch
Bóng người trên sương mù Yếu tố kỳ ảo NKC + tôi
10 1 Phương NKC tích
Nắng mới trong rừng xuân Phân tâm lý
12 4 Liệt NKC tích
Giết chồng báo thù chồng Phân tâm lý
8 2 Tôi tích
NKC + tôi Đầu đường xó chợ Phân tâm lý
10 2 Sinh NKC tích
Nước chảy đôi dòng Phân tâm lý
3. Tập Tối tăm:
NKC 28 Dũng Thế rồi một tích
buổi chiều Phân tâm lý
5 đoạn lớn, đoạn 5 có 2 đoạn nhỏ
Chết dở 10 1 Khương NKC tích
Phân tâm lý
Trọng NKC Nghèo 9 3 tích
Phân tâm lý
7 1 Sửu NKC tích
May quá
3
1
Nhiêu Tích
NKC
tích
Phân tâm lý
Doãn
NKC
Hai vẻ đẹp
40
4 (dấu La Mã) Phân
tích
tâm lý
Hai chị em
11
2
Bìm, Lạch
NKC
tích
Phân tâm lý
8
1
NKC
kêu
tích
đàn
Tiếng thương
Phân tâm lý
Người bà hàng nước
4. Tập Hai
buổi
Hai cảnh ngoài phố Phân tâm lý
chiều vàng:
Triết NKC Hai buổi chiều tích
vàng Phân tâm lý
41 Đ1: 3 đoạn nhỏ; Đ2: 1 đoạn nhỏ; Đ3: 2 đoạn nhỏ; Đ4: 2 đoạn nhỏ; Đ5: 1 đoạn nhỏ.
Lan Hà NKC Mười năm qua 7 1 tích
Phân tâm lý
Cái tẩy 11 2 Huy NKC tích
Phân tâm lý
Vết thương 9 3 Dung NKC tích
Phân tâm lý
6 1 Sinh NKC
chuyện giấc Yếu tố kỳ ảo
Câu mơ trong mộng
Quang NKC Lan rừng 18 6
Yếu tố kỳ ảo
tình
5. Tập Mối chân:
Bé NKC Mối tình chân 27 3 tích
Một buổi sáng 21
1
Gia đình bác Lê NKC
tích
Phân tâm lý
Gia đình bác Lê NKC
Cúng rượu
34
1
tích
Phân tâm lý
Lòng mẹ
17
1
Gia đình bác Lê NKC
tích
Phân tâm lý
11
1
Gia đình bác Lê NKC
chiến
tích
Tam Lã Bố
Phân tâm lý
Phân tâm lý
Bao giờ em về 32 2 Bé, Đỗi NKC tích
Phân tâm lý
6. Tập Những
ngày diễm ảo: có thêm truyện:
36 4 Hiệp, Diên NKC Những ngày tích
Phân tâm lý diễm ảo
Thương chồng 26 2 Nhung NKC tích
Phân tâm lý
5.2. Truyện ngắn Khái Hưng.
vật
Nhân chính Điểm nhìn vai kể
TT Tên tập và thời gian sáng tác; Tên truyện Số trang Số đoạn Đặc điểm nghệ thuật nổi bật
Đặc điểm lời văn
1. Tập Dọc đường gió bụi (?):
9 5 Mơ Dọc đường
gió bụi
Người kể chuyện (NKC) Yếu tố phân tích tâm lý
8
1
Minh(?)
NKC
dương
tích
Tiếng cầm
Phân tâm lý
Chất triết lý
17
1
Bằng
NKC
đường
tích
Bên dừng bước
Phân tâm lý
Giàu chất thơ
Cô hàng nước 8
2
Ban(?)
NKC
tích
Phân tâm lý
Mượt mà, trau chuốt
Mượt mà, giàu chất thơ
9 2 Hải, Bản
Hai cảnh trụy lạc Phân tích tâm lý
6 1 Hùng tích
Bãi sậy vườn cam Phân tâm lý
9 3 Tôi(?) tích
Con chim vành khuyên Phân tâm lý
8 2 Lực(?) tích
Trong nhà thương Phân tâm lý
Địch, Nga(?) Thưa chị 8 3 tích
Phân tâm lý
Mã Điên 14 2 tích
Phân tâm lý
phải
2. Tập Anh sống (?):
Anh phải sống 8 3 Thức, Lạc tích
Phân tâm lý
Văn Châu Tình tuyệt vọng 7 2 tích
Phân tâm lý
13 6 gió Đồ tích
Sóng Sơn Phân tâm lý
8
8
Bạch Tuyết, Thu Cúc, Văn Hải
Sơn,
tích
Cúc, Giao
Tình điên
15
7
tích
Phân tâm lý
đào
3. Tập Số hoa:
Đi Nam Kỳ
6
5
Lan
tích
Phân tâm lý
8
Linh hồn thi sĩ 9
Trần Can
Yếu
Bên dòng sông Hương Phân tâm lý Vinh Diễm Lan
tố lịch sử
Hoàng Oanh 8 4 Hoàng Oanh
Yếu tố lịch sử
14 5 Giang(?) ba tích
thù Cái mươi năm Phân tâm lý
4. Tập Đợi (?): chờ
Đợi chờ 8 6 Linh tích
Phân tâm lý
Bến Hòn Gai 8 2 Tôi tích
Phân tâm lý
Biến đổi 11 Lực, Đoàn(?) 7 tích
Phân tâm lý
Tôi Chùa Hương 11 3
Yếu tố kỳ ảo
7 3 Nguyên tích
Bến đò năm xưa Phân tâm lý
Tôi (?) Cháu nhà quan 7 3 tích
Phân tâm lý
Sín Sáng Sín Sáng 7 5
Ngày giỗ
7
1
Tôi (?)
tích
Phân tâm lý
Tôi
Điếu thuốc lá
7
3
tích
Phân tâm lý
Tiếng khèn
12
2
Tôi
tích
Phân tâm lý
Tống tiền
6
2
?
tích
Phân tâm lý
Đào Mơ
6
1
Phân
tích Mơ
Yếu tố lịch sử
tâm lý
Đồng xu 7 Phiên 2 tích
Phân tâm lý
Lý Tập ảnh 7 1 tích
Phân tâm lý
Dưới ánh trăng 33 11 Văn, Tẹo tích
Phân tâm lý
5. Tập Hạnh (?):
Hai người bạn 10 Phúc, Tảo 1 tích
Phân tâm lý
Tương tri 7 Tôi, cụ Tú 2
Yếu tố kỳ ảo
Phát, Hoàn Thời chưa cưới 11 2 tích
Phân tâm lý
Hà thị lang Một buổi chầu 7 4
Yếu tố lịch sử
6. Tập Cái Ve (?):
Đoàn 7 5 tích Một nhà hiền
Xanh cà bung 11
4
Văn
tích
Phân tâm lý
Người vợ mù
6
2
tích
Phân tâm lý
Vợ chồng người mù
Sư Tuệ
10
1
Sư Tuệ
tích
Phân tâm lý
Lòng tốt
8
Nhân
2
tích
Phân tâm lý
Linh hồn
11
1
Yếu tố kỳ Tôi
triết Phân tâm lý
ảo
Trăng thu 11 Nhiễu(?) 3 tích
Phân tâm lý
Tuất (?) Biển 10 1 tích
Phân tâm lý
Cái Ve 31 Ve tích
Phân tâm lý đoạn 3
3 lớn, đoạn nhỏ
in báo:
7. Tập truyện mới
Lá thư rơi 17 5 tích
Phân tâm lý
Chung, Thuyết, Trường, Soạn
Tuổi mơ mộng 16 Ái 5 tích
Phân tâm lý
Độ Một tập thư 7 4 tích
Phân tâm lý
Cháu Tạ 11 7 Bà lão tích
Phân tâm lý
Giai nhân 8 Bông 1 tích
Hát
Nhà phê bình 9
1
tích
Phân tâm lý
Đêm giao thừa 11
Nhà bà Ty
2
tích
Phân tâm lý
Vui tính
8
Tê
3
tích
Phân tâm lý
Cô áo trắng
8
Tôi
2
Yếu tố kỳ ảo?
Phân tâm lý
Những ngày vui 11 3 Độ tích
Phân tâm lý
Cô dâu 29 7 Thúy Lan
Yếu tố lịch sử?
8 2 Bản tích
Mười năm yêu dấu Phân tâm lý
? Người hầu sáng 6 3
Người hầu sáng
Tôi Thời xưa 5 1 tích
Phân tâm lý
27 - Bình,
Yếu tố lịch sử Lưu Bình Dương Lễ Lưu Châu Long đoạn 3
5 lớn, đoạn nhỏ
Thi nhân Chàng thi nhân 9 6
Yếu tố kỳ ảo
? Ái tình 9 1 tích
Phân tâm lý
Nghiện 9 3 P. và R. tích
Phân tâm lý
Liễn, Thuyết 2 Cái nhà 16 tích
4
Quá khứ
10
Tôi
Phân tâm lý
tích
Phân tâm lý
PHỤ LỤC 2
Bài viết đã công bố của tác giả liên quan trực tiếp đến luận văn
(Bài đã đăng trong “Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”, Hội Nghiên cứu và Giảng dạy TP HCM – Viện Phật giáo Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh, năm 2010, tr.829-838)
CHÙM TÁC PHẨM VIẾT VỀ “CÔ HÀNG NƯỚC VIỆT NAM”
CỦA KHÁI HƯNG, NHẤT LINH, THẠCH LAM
KHUÊ VĂN NGUYỄN ĐĂNG VY
1. Những thiên truyện, ký như một “chùm” tác phẩm
Thạch Lam, tác giả Hà Nội 36 phố phường, trong lúc “phiếm du” khắp nẻo, đã nhận ra cái phong vị Hà Nội, phong vị Việt Nam trong hình ảnh một “cô hàng nước”. Và, chính ông đã không tiếc lời tôn vinh cái ý vị “tiểu thuyết” hay bản sắc văn hóa của một ngôi hàng bình dị, quen thuộc – “hàng nước” Việt Nam:
“Cô hàng nước Việt Nam, từ xưa đến nay đã chiếm một địa vị quan hệ trong lịch sử và trong văn chương: đã có nhiều tiểu thuyết bắt đầu ở một hàng nước và kết cục cũng ở đấy.”1.
Tác giả bài viết này muốn nói đến một “chùm” tác phẩm nhỏ gồm: Cô hàng nước in trong tập truyện ngắn Dọc đường gió bụi của Khái Hưng (1932-1935); Tiếng kêu thương (lời một người đàn bà bán hàng nước) in trong tập truyện ngắn Tối tăm của Nhất Linh (1936); và, Hàng nước cô Dần in trong tùy bút Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam (1943). Câu hỏi đặt ra ở đây là khi viết các tác phẩm này, liệu các nhà văn có chịu ảnh hưởng gì nhau không và các tác phẩm này tương tác soi chiếu lẫn nhau không?
1 Thạch Lam: Hàng nước cô Dần trong Hà Nội 36 phố phường, NXB Văn nghệ TP HCM, 1998, tr.186. Các trích dẫn khác về Hàng nước cô Dần trong bài viết này đều rút từ cuốn sách trên của Thạch Lam.
Thật vậy, hình ảnh “cô hàng nước” “dưới gốc đa, bên ruộng lúa hay ở mái hiên của thành phố” đã thành đề tài, cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà văn thế hệ ông. Bài viết này sẽ chỉ nói đến hình ảnh cô hàng nước trong một số sáng tác văn xuôi của Tự lực văn đoàn mà Thạch Lam – tác giả của sự tôn vinh trên – và Nhất Linh, Khái Hưng là những thành viên quan trọng.
Về thời điểm sáng tác, Khái Hưng viết Cô hàng nước sớm nhất là 1932, muộn nhất là 1935, Nhất Linh viết Tiếng kêu thương năm 1936, và Thạch Lam viết Hàng nước cô Dần muộn nhất là năm 1943. Như vậy chắc chắn, Nhất Linh có đọc truyện ngắn của Khái Hưng trước khi viết Tiếng kêu thương, và Thạch Lam có đọc truyện ngắn của Khái Hưng, Nhất Linh trước khi viết Hàng nước cô Dần. Điều này càng có cơ sở khẳng định chắc chắn hơn khi chúng ta biết rằng, trong một tổ chức văn học gần gũi, thân thiết như trong một gia đình, các nhà văn này thường giữ mối liên hệ mật thiết với nhau trong sáng tác, công bố tác phẩm của mình. Vì vậy khi cùng viết về một đề tài, cùng lấy cảm hứng từ một đối tượng cụ thể trong đời sống, họ phải làm sao để đối tượng miêu tả này không hề trở nên mòn cũ mà còn được khơi sâu thêm từ nhiều phía và có thêm cơ hội tốt để bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của mình.
Vậy, hoàn toàn có cơ sở để chúng ta xem đây như một “chùm” tác phẩm viết về cô hàng nước Việt Nam (tuy ba mà một, tuy một mà ba) và nên chăng hãy đọc chúng trong mối quan hệ bổ sung, đối chiếu, “liên văn bản”?
2. Một cái nhìn đối sánh
Có chăng những điều thú vị về đề tài “cô hàng nước Việt Nam” mà người đọc chỉ có thể nhận thấy rõ rệt, khi đặt các tác phẩm nói trên cạnh nhau? Sau đây là một vài cảm nhận, thu hoạch riêng khi đọc Cô hàng nước (Khái Hưng), Tiếng kêu thương (Nhất Linh), và Hàng nước cô Dần (Thạch Lam) như một “chùm” tác phẩm.
2.1. Nhân vật hư cấu và nhân vật phi hư cấu – những lựa chọn, xử lý đầy dụng ý
của các tác giả
Ba tác phẩm cùng hướng đến một đối tượng trong đời sống, nhưng viết bằng ngôn ngữ thể loại khác nhau theo cảm hứng và phong cách nghệ thuật khác nhau, tất nhiên sẽ mang lại cho người đọc những cảm quan thẩm mĩ khác nhau.
Cả ba nhân vật đều đáng mến, đáng trọng, song nhân vật của Khái Hưng thì vừa là mĩ nhân vừa là một tài nữ tân thời. Nhân vật của Nhất Linh chỉ là nạn nhân của cuộc đời “lên voi xuống chó”. (Cả hai đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, của hư cấu nghệ thuật). Còn, nhân vật của Thạch Lam, thì giản dị chỉ như là một hình ảnh thân thương – một hình ảnh
Vẫn là cô hàng nước ấy, song, với Khái Hưng thì đó là một nhân tố mới của đời sống – một cô hàng nước mang cốt cách trí thức, “tân thời”; dù cô có phần hơi lạc lõng ở chốn làng quê, song cô chính là người phát ra cái tín hiệu đáng lạc quan của cuộc sống. Với Nhất Linh, cô hàng nước là một chứng nhân bi kịch của một đời sa sút, bi thương – một sự sa sút bi thương như được báo trước, như định mệnh nghiệt ngã và chua xót, nhưng đồng thời cũng là hình ảnh để nhà văn dóng lên tiếng nói cảnh tỉnh bất bình, không phải là tiếng nói con người chung chung mà là tiếng nói của cái tôi phụ nữ – và cụ thể là “lời một người đàn bà bán hàng nước”. Với Thạch Lam, cô hàng nước ấy lại là một kết tinh cho vẻ đẹp của 36 phố phường Hà Nội, cho phong vị quê hương Việt Nam.
không thể thiếu trong cuộc sống gồm đủ vui buồn thường nhật của người Việt Nam ở khắp các làng quê lẫn các phố phường.
Là những tác phẩm hư cấu, Cô hàng nước của Khái Hưng và Tiếng kêu thương của Nhất Linh, hòa chung vào tiếng nói nồng nhiệt của văn chương Tự Lực Văn Đoàn hồi bấy giờ: cải thiện dân trí, cải cách nông thôn và giải phóng phụ nữ. Ở đây, hư cấu là một ưu thế giúp nhà văn tác động mạnh mẽ đến cái “não trạng” đáng buồn của cả xã hội hay những định kiến, những nếp nghĩ đã thành xơ cứng của người đọc.
Là tác phẩm phi hư cấu, Hàng ngước cô Dần của Thạch Lam đơn giản chỉ là bức chân dung khắc họa những nét đẹp bình dị, đằm thắm, có thực mà dễ khuất lấp, để đưa vào “bảo tàng” văn hóa Việt Nam, “bảo tàng” văn hóa của Hà Nội băm sáu phố phường. Đây chỉ là bức chân dung bé nhỏ, mà nếu thiếu nó, Hà Nội phồn hoa hay miền quê êm ả không có sự đảo lộn gì ghê gớm, nhưng sẽ là một sự trống vắng đáng tiếc vô cùng, trống vắng những “hạt bụi vàng” làm nên cái lấp lánh của phong vị đời sống Việt Nam.
Sau Cô hàng nước của Khái Hưng, Tiếng kêu thương (lời một người đàn bà bán hàng nước) của Nhất Linh là một sự lật trở, bổ sung cần thiết có tác dụng trực tiếp hay gián tiếp tránh cho người đọc cái nhìn đơn giản một chiều về cuộc sống, cũng như số phận người phụ nữ tân học đương thời – hai nhân vật nữ này đều là người tân học – qua hình ảnh hư cấu về những “cô hàng nước”.
2.2. Những thể nghiệm thành công của mỗi nhà văn trong cách viết
2.2.1. Cô hàng nước (Khái Hưng) là truyện ngắn xoay quanh cuộc gặp gỡ tình cờ của một chàng trí thức từ thành phố về với một cô thôn nữ bán hàng nước ở một làng quê xa. Cô hàng nước này cũng có học thức, xinh đẹp, thông minh, hóm hỉnh, quan niệm sống tự do phóng túng. Càng trò chuyện càng thấy hòa hợp với nhau và đem lòng yêu nhau. Trong truyện ngắn này, nhân vật của Khái Hưng là hình ảnh một cô hàng nước “tân thời” hiện thân cho những cô gái mới của văn chương đầy mơ mộng của Tự Lực Văn Đoàn trong chặng đầu
Nhưng nghệ thuật và đời sống, dù quan hệ mật thiết với nhau, không phải là một. Con người có nhu cầu về những vẻ đẹp hư cấu, vẻ đẹp sáng tạo bằng nghệ thuật hội họa, diêu khắc,… thì cũng có nhu cầu về cái đẹp không hư cấu, vẻ đẹp sáng tạo bằng thứ ngôn ngữ của nhà nhiếp ảnh, của người ghi chép sự thật, ghi chép lịch sử, văn hóa,.... Nhu cầu của người thưởng thức văn học cũng thế. Có nhu cầu thưởng thức cái đẹp của con người trong của tiểu thuyết, truyện ngắn thì cũng có nhu cầu thưởng thức cái đẹp của con người trong phóng sự, tùy bút. Sau hai truyện ngắn nói trên của Khái Hưng, Nhất Linh, việc Thạch Lam viết Hàng nước cô Dần là một sáng tạo có ý nghĩa bổ sung như thế. Tác giả Hà Nội 36 phố phường đã không phải tìm kiếm đâu xa, cũng không cần đến những hành trình tưởng tượng, hư cấu. Ông chỉ “phiếm du” nơi phố xá, làng quê và ghi chép về những “cô hàng nước”, để kí họa hình ảnh một cô Dần cụ thể, song lại thâu tóm được nét đẹp của hàng trăm hàng nghìn cô Dần khác, để làm nên bức vẽ sinh động về “cô hàng nước Việt Nam” của muôn đời.
(1932-1935). Nhà văn say mê khám phá cái đời “huyền bí” của một cô hàng nước tân học chốn thôn quê, theo cái nhìn của Ban, một trí thức thông minh, đa tình và nhạy cảm.
Để thể hiện được một vẻ đẹp như thế, trong một cái nhìn như thế, Khái Hưng tập trung quan sát, miêu tả hành vi, ngôn ngữ, đặc biệt là giọng nói, cách nói của cô hàng nước. Đây là một sự lựa chọn, xử lý kỹ thuật thích đáng và đầy ý nghĩa. Điều gì giúp người ta dễ dàng nhận diện một thiếu nữ chưa quen biết là cô gái mới, người tân học giữa đám đông phụ nữ lao động lam lũ tất bật nếu không phải là hành vi, phong thái, giọng nói riêng biệt của cô ta?
Dĩ nhiên muốn khắc họa một cô hàng nước thôn quê thì phải chú ý đến ngôi hàng của cô: cánh đồng, con đường quê, túp lều, cái chõng, những chiếc bát uống nước, không khí khách ra, khách vào hàng,… Thiếu những thứ đó thì nhà văn không thể dựng lên được một bối cảnh thích hợp. Song đó chưa phải là dụng công và hứng thú nghệ thuật chủ yếu. Lựa chọn quan trọng nhất của Khái Hưng khi viết Cô hàng nước là: tập trung làm nổi nét riêng biệt trong cách trò chuyện, đối đáp, bày tỏ ý kiến của cô. Vì thế, nhà văn phải tập trung vào việc sáng tạo ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong những tình huống thích hợp. Vốn là nhà văn có tài quan sát và dựng đôi thoại, Khái Hưng đã rất thành công trong lựa chọn kỹ thuật này. Nhìn chung, cách dựng đối thoại của Khái Hưng khá tự nhiên, tươi tắn, linh hoạt, lột tả được tính cách; khi cần sử dụng cả các nhận xét mang tính “siêu ngôn ngữ” – đúng như một nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Thành Thi khi bàn đến ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn này2.
Giọng nói của cô hàng nước ngay từ đầu đã khiến người ta phải chú ý: “một câu mời giọng trong trẻo khiến Ban thò vội đầu nhìn vào hàng”. Sau đó là những cuộc thoại mà lời thoại của cô hàng nước luôn mang đến bất ngờ, thậm chí khiến người nghe phải giật mình vì vốn hiểu biết tân học, khiếu hài hước và thái độ tự tin, quyết đoán của cô hàng nước trong các cuộc thoại.
“Ban nhìn cô hàng thấy cô đang vuốt lại món tóc mai và sửa lại cái khăn vuông thêu
hoa.
- Cô tú lấy ông tú?
Điềm nhiên cô hàng đáp:
- Nếu thế thì phải gọi bà tú chứ?
2 Nguyễn Thành Thi: Chuyên nghiệp hóa hoạt động sáng tác như một đòi học tất yếu của công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam trước 1945, Nghiên cứu văn học số 4/ 2010. In lại trong tập tiểu luận phê bình của cùng tác giả với nhan đề Văn học - thế giới mở, NXB Trẻ TP HCM, 2010.
Ví dụ, sau đây là một tình huống: nghe người làng gọi cô hàng nước là “cô Tú”, cũng như nhân vật Ban – một trang thư sinh “dọc đường gió bụi” – người đọc muốn biết hai chữ ấy nghĩa là thế nào. Khái Hưng dựng lên một cuộc thoại hé lộ nhiều điều thú vị, bất ngờ từ những “tham thoại” của “cô hàng nước”:
- Hay cô…đỗ?
- Đỗ “bắc”?
Sự kinh ngạc của Ban lên tột điểm. Mơ màng, vì chàng có một tâm hồn lãng mạn, Ban tưởng tượng sống trong cảnh huyền ảo thần tiên như nhân vật trong truyện Liêu trai chí dị. Một cô hàng nước có học thức? Một cô gái quê có Tây học?
Lúc đó chàng ngắm cô hàng, sắc đẹp tăng bội phần, nước da bánh mật đã hây hây nhuốm mầu hồng và cặp mắt cặp môi cho chí hai đồng tiền bên má, chàng cảm thấy có giấu cái thông minh kín đáo mà tinh quái ở trong.
Nhưng cô hàng nói tiếp:
- Đỗ “bắc” thì quả không; ở đây họ coi tôi là một con chim lạ, vì tôi biết, biết quốc
ngữ, nên họ gọi đùa tôi là cô tú đó đấy thôi. Nhưng ông thì chắc là ông Tú?
- Sao cô biết?
- Đoán có đúng không, thưa ông?
- Đúng lắm, thưa cô tú.
Cô hàng vờ nghiêm trang.”3.
Những điều bất ngờ thú vị ấy sẽ được cắt nghĩa đầy đủ hơn ngay sau đó khi cô chủ
hàng nước và người khách mới quen “đem chuyện riêng kể cho nhau nghe”.
3 Truyện ngắn Khái Hưng, (Hoàng Bích Hà sưu tầm, Vương Trí Nhàn biên soạn), NXB Hội Nhà văn, 2004. Tr. 45-46. Các trích dẫn khác về truyện ngắn Cô hàng nước trong bài viết này đều rút từ tập truyện đã dẫn của Khái Hưng.
4 Nhân vật tôi, người đàn bà bán hàng nước tự thuật chuyện mình trong truyện vốn là một thiếu nữ con nhà khá giả, có học. 16 tuổi cô kết hôn với một anh học trò cũng con nhà khá giả. Họ sống với nhau một quãng đời đầy đủ, sung túc. Nhưng anh chồng thất bại trên đường học vấn, sự nghiệp, thành kẻ vô công rồi nghề, sống ăn bám gia đình. Anh ta phẫn chí nghiện ngập, nướng cả gia tài vào thuốc phiện. Cả nhà lâm vào cảnh khốn khó. Người chồng phải tự kiếm tiền hút bằng đường trộm cắp. Còn người vợ phải mở một ngôi hàng nước tần tảo nhọc nhằn nuôi mẹ chồng, bản thân và những đứa con. Mỗi lần nghe ông chồng buồn tình thối sáo, nhân vật tôi, người đàn bà bán hàng nước trong truyện tưởng như cảm nhận hết cái cảnh sống tối tăm, trụy lạc của mình và cất lên “tiếng kêu thương”. Truyện ngắn này in trong tập Tối tăm của Nhất Linh.
2.2.2. Truyện ngắn Tiếng kêu thương của Nhất Linh – như cái tên của nó – là câu chuyện về một cuộc đời sa sút và bất hạnh trong hôn nhân4. Nhân vật của Nhất Linh là nhân vật bi kịch: một phụ nữ trẻ không cam lòng chịu đựng sự thua thiệt, bất hạnh cuộc đời bất công, vô lý dành cho mình. Lựa chọn có ý nghĩa của Nhất Linh là hình thức tự thuật với điểm nhìn nội qun của nhân vật “người đàn bà bán hàng nước”. Tác phẩm từ đầu đến cuối là một lời độc thoại: “lời người đàn bà”, véo von như tiếng sáo, như lời than khóc của chính tâm hồn chị và những nạn nhân chung quanh chị (anh bạn tên Lương, người chồng tên Đàn). Cái tôi của nhân vật người đàn bà bán hàng nước trong truyện này không mạnh mẽ táo bạo như cô Tuyết (Đời mưa gió), cô Nhung (Lạnh lùng) trong tiểu thuyết của ông, song cũng chứa chất bao nhiêu nỗi niềm, tiềm ẩn những phản ứng mạnh mẽ đối với số phận.
Ở đây, cách chọn vai kể, điểm nhìn của Nhất Linh kéo theo cách lựa chọn một số thủ pháp kể chuyện tương ứng khác như thủ pháp đối lập, thủ pháp láy lại. Đặc biệt là cách láy lại tạo những điểm nhấn tâm trạng trước những biến thiên tai ác của cuộc đời. Đặt mình vào hoàn cảnh tâm trạng của một người đang từ cuộc sống sung túc, trưởng giả bị nhấn chìm vào trong cảnh ngộ “tối tăm”, “khốn nạn”, “trụy lạc”, mà kể cho người đọc nghe câu chuyện, cất lên tiếng kêu thương từ đáy lòng của một người đàn bà bán hàng nước, Nhất Linh láy đi láy lại một cách diết da, thê thiết âm điệu tiếng sáo bên ngoài (tiếng sáo trúc do những người đàn ông thổi lên) và tiếng sáo bên trong (tiếng lòng của cô hàng nước). Nó buộc người ta không thể không lắng nghe, chia sẻ và suy nghĩ.
Sau một đoạn mở đầu với tiết tấu nhanh: “Thuở bé, hồi tôi lên mười một, mười hai tuổi, tôi đã có cắp sắch đi học, học ở một trường con trai huyện G… Tôi không có một người bạn gái nào, vì độ ấy con gái đi học còn hiếm lắm.”5, nhân vật tự thuật dẫn người đọc ngay vào cái thế giới “tăm tối” âm u của những đồng vọng trong “tiếng sáo”:
Tiếng sáo của Lương, anh bạn trẻ sa sút nghèo hèn thuở nào bỗng trở thành tiếng sáo
thời hiện tại của chồng nghiện ngập phẫn chí:
“(…) tiếng sáo não nùng như tiếng than vãn cái cảnh nghèo của con một ông Án ở trong túp lều tranh xơ xác với bà mẹ già đầu tóc bạc phơ, chiều hôm ấy đã gieo vào tâm trí non nớt của tôi một nỗi buồn chán nản và lần đầu tiên đã cho tôi cảm thấy rõ cái dau khổ của những cảnh sa sút ở đời.
Tiếng sáo ấy, tiếng sáo của một buổi chiều trong kí vãng xa xăm lúc nào cũng như văng vẳng trong đời tôi, đến nay thì cái dư thanh ấy đã biến thành tiếng sáo thực, cứ chiều chiều lại đến nỉ non trong người tôi… ngay ở trong nhà tôi mà ngưoiừi thổi sáo bây giờ lại là Đàn, chồng tôi.” [tr 276. ]
Sau khi gặp lại một người bạn thiếu thời nay thành đạt, sang trọng, người đàn bà tự
thuật trong truyện ngắn tự đặt lời nghi vấn như cất lên một “tiếng kêu thương”:
- Vì cớ gì mình lại phải sống cái đời khốn nạn như thế này?
Tôi tự hỏi thế, nhưng không tìm được câu trả lời”. [tr. 280-281]
Và lại vẳng nghe tiếng sáo, lại ngẫm nghĩ trong tiếng sáo:
“Chồng tôi lúc thổi sáo không biết lòng có rung động gì không, còn tôi thì khi nghe tiếng sáo tôi tưởng như là tiếng than khóc của tâm hồn tôi, tâm hồn một người đàn bà đương độ thanh xuân, đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp mà số phận đã bắt phải mãi mãi sống những ngày tuyệt vọng của cái đời trụy lạc này.
5 Nhất Linh truyện ngắn, (Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn giới thiệu), NXB Văn học, 2000, tr. 275. Các trích dẫn khác về truyện ngắn Tiếng kêu thương trong bài này đều từ rút tập truyện nói trên của Nhất Linh.
“Khi Hải lên xe đi rồi, cả ngày hôm ấy tôi như người mất hồn.
Tôi yên lặng ngồi ngắm cái cảnh nhìn đã quen mắt trước cửa hàng, cái cảnh tồi tàn đìu hiu, hình ảnh cuộc đời tôi; một bụi chuối xơ xác, mấy chiếc xe sắt mui đã tả tơi đổ bên cái cầu gỗ sơn đen, bắc ngang một con sông nước không bao giờ chảy.” [tr. 282]
2.2.3. Nhân vật cô Dần của Thạch Lam là hình ảnh hiện thân cho một vẻ đẹp truyền
thống của “cô hàng nước Việt Nam” cùng sự bền vững của vẻ đẹp ấy.
Khi viết tùy bút và dựng chân dung cô Dần, Thạch Lam, tất nhiên phải tuân thủ thi pháp thể loại: kết hợp khéo léo quan sát, ghi chép, miêu tả đối tượng (cô hàng nước) với bộc lộ suy cảm hay trữ tình - chính luận khi cần. Tuy nhiên điều đáng nói là ở đây nhà văn đã có một lựa chọn, ứng xử kỹ thuật rất đáng lưu ý: trong khi khắc họa những nét riêng của cô Dần và hàng nước cô Dần, nhà văn luôn luôn có ý thức nâng tầm khái quát cho nhân vật. Đây là cách hiệu qua giúp cho nhân vật của ông vừa là cô Dần vừa không phải cô Dần, tức là thoát xác một cô hàng cụ thể để hóa thân thành cô hàng nước Việt Nam mà người ta vẫn gặp đâu đó “dưới bóng đa, bên ruộng lúa hay ở mái hiên của thành phố”…
Vì thế, nhà văn thường đan xen vào lời miêu tả cô Dần những vế câu, cụm từ liên hệ
đến đất nước, dân tộc mình:
- “Cửa hàng của cô cũng không có gì: một vài miếng trầu, một vài phong thuốc lào, một bao thuốc lá bán lẻ, vài cái bát uống nước, như các bát uống nước ở tất cả các hàng nước Việt Nam, đặt úp xuống mặt chõng.”; “cô bán nước chè uống sôi, dù trời rét hay trời nóng, mùa đông hay mùa hạ, ấm nước chè bọc một cái áo gai rất cẩn thận, dựng bên một cái hỏa lò than cũng hồng, mang một ấm nước bao giờ cũng réo sôi.” [tr. 184-185]
- “Cô nhũn nhặn lắn: mặc một cái áo tứ thân nâu cũ giản dị và đảm đang như cô gái Việt Nam. Trong mấy ngày Tết, người ta mới thấy khoác cái áo mới hơn một chút, ván vành khăn tròn trặn và chặt chẽ hơn. Và dưới mái tóc đen, lúc đó mới lấp lánh mặt đá đôi hoa vàng, bà cụ đánh cho cô năm còn trẻ, làm cái vốn riêng, chắc thế.” [tr. 186]
một người và đặc tính chung mang tính “cộng đồng”:
- Riêng: “Cô Dần là một thiếu nữ còn trẻ, cứ nghe tên cô thì đủ biết (…). Tuy vậy cô là một thiếu nữ đảm đang lắm.” [tr.184]. Chung: “Tất cả các cô hàng nước đều đảm đang.”
- Riêng: “Cô nhũn nhặn lắm. Cô không đẹp, chỉ xinh thôi” [tr186]. Chung: cô Dần chị, cô Dần em “kéo dài mãi cái phong vị bình dân và mộc mạc của các cô hàng nước cùng với các cô hàng xén kĩu kịt đi chợ đông chợ đoài, là cái tinh hoa của người Việt Nam từ xưa đến giờ.” [tr. 187]
- Riêng: cô Dần có “cái nhìn của đôi mắt nhỏ, lanh lẹ, hai con ngươi đen bóng loáng, như hai con mắt của một con vật non nào” [tr.185]; hoặc: “Thấy khách hàng nói một câu bông đùa, cô dã tưởng người ta chòng ghẹo mình, díu đôi lông mày lại, và ngoe ngoẩy cái nhìn. (…) Nhưng cô không giận lâu: chỉ một lát cô lại vui tính ngay.” [tr. 187]. Chung: “Một
Cứ thế, tác phẩm của Thạch Lam sử dụng rộng rãi lối viết đan xen giữa nét riêng của
hàng nước đắt khách vì các thức quà bán đã đành, nhưng đôi khi cũng đắt khách vì cả cô hàng. Cô hàng nước Việt Nam – dù ở dưới bóng đa, bên ruộng lúa, hay dưới mái hiên thành phố, ở đâu cũng vậy, miệng cười tươi của cô hàng là dây liên lạc khắp mọi người.” [tr. 186]
3. Những “cô hàng nước” – tuy ba mà một, tuy một mà ba…
Quả thật hình tượng “cô hàng nước Việt Nam” hiện lên trong ba tác phẩm với những đặc điểm thẩm mĩ khá phong phú đa dạng. Vẫn là những cô hàng nước ấy, nhưng qua tưởng tượng hư cấu của Khái Hưng, Nhất Linh thì nhân vật trở thành những số phận, những suy tư mang âm vang của các luận đề xã hội quen thuộc trong văn chương Tự Lực Văn Đoàn; qua quan sát ghi chép, trữ tình chính luận của Thạch Lam sau những cuộc phiếm du thì nhân vật lại trở thành một biểu trưng văn hóa Việt Nam. Tương tự, qua cái nhìn mơ mộng, bút pháp lãng mạn của Khái Hưng thì nhân vật trở thành một hình tượng tươi vui, lạc quan tràn đầy sức sống; còn qua cái nhìn suy cảm, triết luận và bút pháp thiên về lột tả tâm lý nhân vật của Nhất Linh thì lại trở thành một hình tượng thấm đượm nỗi buồn nhân thế.
Chân dung “cô hàng nước” trong chùm tác phẩm này vừa phong phú, đa dạng vừa có nét trùng khớp thống nhất: tuy ba mà một tuy một mà ba. Điều đó giúp người đọc hiểu sâu sắc, đầy đủ hơn về một chân lý phổ quát trong sáng tạo nghệ thuật: con người và cuộc sống là muôn màu, nhà văn hãy chọn lấy một góc nhìn một mục tiêu mà sáng tác, điều quan trọng là có tác phẩm phải có tính sáng tạo, tính nghệ thuật; không gian thẩm mĩ trong văn chương nghệ thuật luôn tươi mới, sống động, song đó là sự tươi mới sống động được tạo ra không phải tùy tiện mà luôn tuân thủ những qui luật, đặc trưng thể loại.
TP HCM, tháng 7 năm 2010
Khuê Văn Nguyễn Đăng Vy