ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ VUI

TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT

DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ VUI

TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT

DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGÔ THỊ THANH QUÝ

THÁI NGUYÊN - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả

trình bày trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng được công bố

trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đó.

Nội dung luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tạp

chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019

Tác giả luận văn Nguyễn Thị Vui

i

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Ngô Thị

Thanh Quý - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em về tri thức, phương

pháp và kinh nghiệm nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Quý Thầy Cô giáo khoa Ngữ

văn, phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo

điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.

Em cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới người thân, đồng

nghiệp, bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp đỡ em

hoàn thành tốt luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Vui

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii

MỤC LỤC .......................................................................................................iii

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. ............................................................................ 2

2.1. Những công trình nghiên cứu chung về truyện thơ……………………….2

2.2. Những công trình nghiên cứu về văn học dân gian Sán Dìu……………..3

2.2.1. Các cuộc phỏng vấn với nhà văn Ôn Thái Trần ...................................... 3

2.2.2. Về các bài báo .......................................................................................... 3

2.2.3. Về các luận văn, đề tài, công trình nghiên cứu khoa học ........................ 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6

3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 6

3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 6

4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 6

5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7

6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7

7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8

8. Cấu trúc của luận văn……………………………………………………….8

Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA - VĂN HỌC VÀ TRUYỆN THƠ

MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT .................................................................................... 9

1.1. Tìm hiểu chung về văn hóa và văn học ...................................................... 9

1.1.1. Định nghĩa về văn hóa ............................................................................. 9

1.1.2. Văn học .................................................................................................. 12

1.2. Vai trò, vị trí của văn hóa và văn học ....................................................... 14

iii

1.2.1. Văn học phản ánh, soi chiếu văn hóa .................................................... 14

1.2.2. Văn học góp phần lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa ....................... 16

1.2.3. Phương pháp nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa .................... 18

1.3. Tiếp cận văn hóa với truyện thơ Mở trời dựng đất .................................. 20

1.3.1 Khái niệm truyện Nôm ........................................................................... 22

1.3.2. Vài nét về dân tộc Sán Dìu .................................................................... 22

1.3.3. Truyện thơ Mở trời dựng đất ................................................................. 26

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................ 28

Chương 2 N I DUNG TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT DƯỚI GÓC

NHÌN VĂN HÓA ........................................................................................... 29

2.1. Văn hóa giáo dục đạo lý trong truyện thơ Mở trời dựng đất ................... 29

2.1.1. Triết lý giáo dục đạo đức của dân tộc Sán Dìu...................................... 30

2.1.2. Giáo dục gắn với thực tiễn trong truyện thơ Mở trời dựng đất ............. 35

2.1.3. Mười điều khuyên về mối quan hệ trong gia đình. ............................... 39

2.2. Văn hóa ứng xử trong truyện thơ Mở trời dựng đất ................................. 45

2.2.1. Văn hóa ứng xử trong gia đình .............................................................. 46

2.2.2. Văn hóa ửng xử ngoài xã hội ................................................................. 48

2.3. Bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu trong truyện thơ Mở trời dựng đất ..... 50

2.3.1. Tín ngưỡng dân gian trong truyện thơ Mở trời dựng đất ...................... 50

2.3.2. Phong tục, tập quán trong truyện thơ Mở trời dựng đất ........................ 54

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................ 57

Chương 3 NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT

DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA ..................................................................... 58

3.1. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện thơ

Mở trời dựng đất .............................................................................................. 58

3.1.1. Khái niệm............................................................................................... 58

iv

3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thơ Mở trời dựng đất…....60

3.2. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong ngôn ngữ, hình ảnh và giọng điệu truyện

thơ Mở trời dựng đất ....................................................................................... 68

3.2.1. Hệ thống ngôn ngữ, hình ảnh mang đậm dấu ấn văn hóa Sán Dìu ....... 69

3.2.2. Dấu ấn văn hóa trong giọng điệu truyện thơ Mở trời dựng đất ............ 74

3.3. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong kết cấu truyện thơ Mở trời dựng đất ....... 78

3.3.1. Khái niệm............................................................................................... 78

3.3.2. Kết cấu truyện thơ Mở trời dựng đất ..................................................... 79

3.3.3. Sự kết hợp kết cấu tự sự - trữ tình ......................................................... 83

3.4. Không gian thời gian nghệ thuật truyện thơ Mở trời dựng đất ................ 87

3.4.1. Khái niệm không gian, thời gian nghệ thuật ......................................... 87

3.4.2. Không gian nghệ thuật trong truyện thơ Mở trời dựng đất ................... 88

3.4.3. Thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Mở trời dựng đất ...................... 92

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................ 96

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 99

v

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc sinh sống trên cùng một lãnh thổ.

Cộng đồng các dân tộc chung sống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau như

anh em ruột thịt, trong đó có dân tộc Sán Dìu. Người Sán Dìu ở Việt Nam có

dân số 146.821 người, có mặt tại 59 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Dân tộc

Sán Dìu có nền văn hóa dân gian rất phong phú và độc đáo, đó là làn điệu hát ví

Soọng cô, truyện thơ, ca dao, tục ngữ… mang dấu ấn bản sắc văn hóa Sán Dìu.

Đặc trưng mang tính truyền thống đó là một trong những điểm nổi bật của văn

học và văn hóa dân gian.

Văn học dân gian là một trong các bộ phận hợp thành của văn học Việt

Nam, và đặt nền móng quan trọng cho văn học viết sau này. VHDG như một

bức tranh đa sắc màu, mỗi câu ca dao, mỗi lời vè, câu hát dân ca đều mang đậm

màu sắc truyền thống văn hóa, cùng với đó là sự đa dạng về thể loại như: Thần

thoại, sử thi, truyền thuyết… hàm chứa trong tác phẩm là kho tàng tri thức quý

báu của ông cha để lại, luôn được thế hệ sau gìn giữ phát huy những giá trị tốt

đẹp. Truyện thơ dân gian là một trong những thể loại chính của VHDG, người

Thái có truyện thơ Tiễn dặn người yêu, người H’Mông có truyện thơ Tiếng hát

làm dâu, người Mường có truyện thơ Nàng Nga hai mối và tô điểm thêm vẻ

đẹp bức tranh đa sắc màu đấy là văn học Sán Dìu với truyện thơ dân gian đặc

sắc, tiêu biểu tác phẩm Mở trời dựng đất được nhà văn Ôn Thái Trần sưu tầm

và dịch, tác phẩm là sự hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc Sán Dìu.

Từ trước đến nay có khá nhiều công trình hoặc bài viết nghiên cứu về văn

hóa, văn học dân tộc Sán Dìu. Những nghiên cứu đấy cho chúng ta biết nguồn

gốc, đời sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng văn hóa truyền thống cho đến sự

phát triển kinh tế xã hội của người Sán Dìu. Về mảng văn học dân gian chưa có

công trình nào đi sâu vào tìm hiểu truyện thơ dân tộc Sán Dìu. Vì vậy chúng tôi

lựa chọn đề tài Truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa để có cái

1

nhìn toàn diện về giá trị văn hóa, văn học cũng như nội dung và nghệ thuật

truyện thơ Sán Dìu.

Bản thân tôi là người dân tộc Sán Dìu sống tại địa phương có nhiều người

Sán Dìu sinh sống với mong muốn bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

trong thời kỳ đất nước hội nhập và phát triển. Chúng tôi muốn gìn giữ những

nét đẹp truyền thống văn học, văn hóa dân gian để không bị thời gian làm cho

mai một lãng quên. Với những kết quả cũng như kiến thức thu nhận được, sau

khi nghiên cứu và thực hiện đề tài, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp nguồn tư

liệu bổ ích phục vụ cho quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy chương trình

Ngữ văn địa phương tỉnh Thái Nguyên và truyền thụ đến thế hệ bạn trẻ sự hiểu

biết và tình yêu, lòng tự hào về văn học, văn hóa dân tộc mình.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.

2.1. Những công trình nghiên cứu chung về truyện thơ.

Tác giả Võ Quang Nhơn trong cuốn Văn học dân gian các dân tộc ít

người ở Việt Nam (1983) [27], đánh giá cao vị trí của truyện thơ Nôm trong

văn học dân tộc các dân tộc ít người ở Việt Nam. Sách gồm bảy chương, trong

đó ông dành một chương để viết về truyện thơ. Về đề tài của truyện thơ, tác giả

cho rằng chúng rất phong phú, “chúng đề cập đến nhiều mặt trong hiện thực xã

hội của các dân tộc anh em... Đặc biệt là đề tài về cuộc đấu tranh cho tự do yêu

đương, cho quyền sống của người phụ nữ trong lòng xã hội cũ là một đề tài khá

phổ biến. Đó là khát vọng dân chủ thiết tha, mãnh liệt của quần chúng trong

lòng xã hội phong kiến mà quyền sống con người bị chà đạp, bóp nghẹt nặng

nề, được phản ánh vào trong nền văn học truyền thống các dân tộc anh em”

[27, tr.395-396].

Trên Tạp chí văn học năm 1997, số 7, Lê Trường Phát có bài viết “Về mô

hình cốt truyện của truyện thơ các dân tộc thiểu số” [28]. Tác giả nhận xét: Ở

truyện thơ Nôm của người Việt “mọi người hầu như đã nhất trí rằng phần lớn

cốt truyện của thể loại này được xây dựng theo mô hình “kết thúc có hậu”[28,

2

tr.52]. Tác giả Phan Đăng Nhật, năm 2004 có bài Truyện thơ, in trong cuốn

sách Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại của

Vũ Anh Tuấn [35].

Về vấn đề hình thành truyện thơ, Phan Đăng Nhật cho rằng “truyện thơ ra

đời do nhu cầu lịch sử - xã hội của thời đại của nó. Lúc bấy giờ trong xã hội các

dân tộc thiểu số đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa tình yêu chân

chính của đôi lứa với đòi hỏi khắt khe, lạnh lùng nhiều khi tàn bạo của gia đình

và xã hội; mâu thuẫn giữa kẻ nghèo khó và kẻ giàu sang; mâu thuẫn giữa chính

nghĩa và phi nghĩa. Lúc này vấn đề thân phận của con người được đặt ra và đòi

hỏi phải đáp ứng thoả đáng” [57, tr.401].

2.2. Những công trình nghiên cứu về văn học dân gian Sán Dìu.

2.2.1. Các cuộc phỏng vấn với nhà văn Ôn Thái Trần

Trên các phương tiện báo chí và truyền thông, đã có một số cuộc trả lời,

trò chuyện văn chương của nhà văn Ôn Thái Trần về văn học dân tộc Sán Dìu.

Báo Điện tử Tổ quốc: “Tôi hòa mình vào dân tộc và dân tộc đã đi vào thơ tôi”

[41], tác giả đã giới thiệu về một số tác phẩm văn học dân gian ông đã sưu tầm,

dịch cả từ truyền miệng dân gian và kể cả theo sách ghi lại như: Kinh sách dạy

con (Cạo chấy loang kênh), Vua Bàn Cổ (Phòn Cú Vòng), Mở trời dựng đất

(Hoi then dip thi), Văn khuyên đời (Hoẹn Gạy Mòn)…

Những ý kiến, quan điểm mà nhà văn Ôn Thái Trần đưa ra trong những

cuộc trả lời phỏng vấn, trò chuyện văn chương đều là những tư liệu tham khảo

hữu ích, giúp chúng ta hiểu và yêu quý thêm giá trị của truyện thơ dân gian

người Sán Dìu.

2.2.2. Về các bài báo

Một số nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà văn, đã có những bài báo khoa học

đề cập đến văn hóa dân gian Sán Dìu. Báo Quảng Ninh với bài viết: “Người

Sán Dìu có vốn văn nghệ dân gian, phong tục tập quán v.v.. rất phong phú,

trong đó nổi bật nhất là mảng văn học dân gian. Đặc sắc nhất trong văn học dân

3

gian của người Sán Dìu Quảng Ninh là những truyện thơ như: Mở trời dựng

đất, Vua cóc ở Man Cay Coóc, Dì ghẻ con chồng …”[42].

Tạp chí điện tử Văn Hiến khẳng định: “Văn hóa: Thơ ca dân gian của

người Sán Dìu phong phú, dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ (Soọng

cô) rất phổ biến. Truyện kể - chủ yếu truyện thơ khá đặc sắc. Các điệu nhảy

múa thường xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống, sáo, thanh

la, não bạt cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo. Nhiều trò chơi dân tộc được họ ưa

thích là: đi cà kheo, đánh khăng, đánh cầu lông kiểu Sán Dìu, kéo co...”[43].

Tạp chí điện tử Văn hóa nghệ thuật nói về: “Sự đa dạng về tài nguyên hóa,

người Sán Dìu có vốn văn học dân gian phong phú, tác giả nhấn mạnh về

những truyện thơ đặc sắc như Mở trời dựng đất, Vua Bàn Cổ…”[44].

Những nhận định, đánh giá của các bài báo trên đã nêu ra một số vấn đề

đáng lưu ý đến văn học Sán Dìu. Nhưng theo sưu tầm khảo sát của chúng tôi,

hiện nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu toàn diện, tìm

hiểu, đánh giá về truyện thơ đồng bào dân tộc Sán Dìu nói chung, và truyện thơ

Mở trời dựng đất nói riêng, đây là lý do chúng tôi chọn đề tài “Truyện thơ Mở

trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa” để thực hiện luận văn.

2.2.3. Về các luận văn, đề tài, công trình nghiên cứu khoa học

Đã có nhiều công trình, bài viết, nghiên cứu, đề cập trực tiếp hoặc gián

tiếp đến các khía cạnh văn học, văn hóa Sán dìu. Điều đó, cho thấy sức thu hút

và giá trị cần quan tâm ở lĩnh vực này, cụ thể như sau:

Bàn về bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu, phải kể đến cuốn Người Sán

Dìu ở Việt Nam của Ma Khánh Bằng [13]. Tác giả đã giới thiệu khái quát về

dân tộc Sán Dìu, các hoạt động kinh tế, sinh hoạt vật chất và một số tục lệ trong

đời sống hàng ngày của đồng bào.

Bên cạnh đó là cuốn Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người của người Sán

Dìu ở Việt Nam của Diệp Trung Bình [14]. Tác giả làm rõ đặc điểm văn hóa của

người Sán Dìu ở Việt Nam, đưa ra so sánh và khẳng định những giá trị truyền

4

thống, hiện đại, có sự biến đổi lớn trong bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc Sán

Dìu ở nước ta hiện nay.

Ngoài ra, còn có công trình nghiên cứu: Dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc

của Lâm Quang Hùng [23]. Tác giả nghiên cứu, tìm hiểu về giá trị văn hóa của

đồng bào Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc.

Tiếp đến là cuốn Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang của Ngô Văn Trụ, Nguyễn

Xuân Cần [20]. Tác giả khái quát về dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Bắc Giang. Tìm

hiểu về kinh tế truyền thống và quá trình đổi mới kinh tế của dân tộc Sán Dìu.

Giới thiệu văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể, ngôn ngữ và văn tự của người

Sán Dìu ở Bắc Giang.

Cùng với đó là các luận văn thạc sĩ nghiên cứu đời sống, văn hóa dân

gian Sán Dìu. Tôn giáo, tín ngưỡng của người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh

Thái Nguyên, tác giả Kiều Mỹ Hạnh [24], luận văn nghiên cứu về văn hóa tinh

thần của dân tộc Sán Dìu.

Khảo sát loại hình hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên và

Tuyên Quang, Nguyễn Thị Mai Phương [30]. Tác giả đã khảo sát và nghiên

cứu về loại hình hát Soọng cô trên phương diện nội dung và nghệ thuật...

Tổ chức xã hội và văn hóa của người Sán Dìu ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái

Nguyên (1945- 2010), Nguyễn Xuân Chiến [15]. Chu Thị Hường với Bản sắc

văn hóa của người Sán Dìu ở tỉnh Thái Nguyên [22]. Hoàng Thị Liên Gấm

Văn hóa tinh thần của người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên

(1945- 2010) [21], ở đây các tác giả nghiên cứu lĩnh vực đời sống vật chất, tinh

thần cũng như đặc điểm và tổ chức xã hội của người Sán Dìu, tìm hiểu những

giá trị văn hóa cổ truyền.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc

trong bối cảnh hiện nay, Lý Thị Phương [29], tác giả đề cập đến tầm quan

trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc

trong bối cảnh hiện nay.

5

Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên, Trần Thị Thanh Tâm

[36], tác giả tìm hiểu và nghiên cứu về truyện cổ tích, hát Soọng cô của dân tộc

Sán Dìu đây là loại hình nghệ thuật dân gian, văn học đặc sắc của người Sán

Dìu…

Như vậy, chúng ta có thể thấy nghiên cứu truyện thơ dân gian dân tộc Sán

Dìu còn rất khiêm tốn.Và hướng nghiên cứu các truyện thơ dân gian dưới góc

nhìn văn hóa chưa thực sự được quan tâm của các nhà nghiên cứu... nhưng các

công trình nghiên cứu trên là những gợi mở, tiền đề khoa học có giá trị cho việc

nghiên cứu đề tài luận văn của chúng tôi.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện thơ Mở

trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu truyện thơ Mở trời dựng đất của dân tộc Sán Dìu.

Phạm vi tư liệu là tác phẩm: Mở trời dựng đất (Hoi then dip thi) được nhà

văn Ôn Thái Trần sưu tầm, biên soạn, dịch [37].

4. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài này chúng tôi hướng đến mục đích nghiên cứu:

Thứ nhất: Khảo sát truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa,

tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. chúng tôi mong muốn

đóng góp nhỏ bé để đánh giá và khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu.

Từ đó góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống trước nguy cơ mai một

dần bởi mặt trái của cơ chế thị trường và quá trình đô thị hóa.

Thứ hai: Từ quá trình nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn đóng góp

thêm tiếng nói khoa học để tôn vinh sự phong phú giàu có đẹp đẽ của bản sắc

văn hóa dân tộc Sán Dìu nói riêng và bản sắc văn hóa đồng bào các dân tộc

thiểu số nói chung.

Thứ ba: Với kết quả nghiên cứu đề tài này, chúng tôi góp thêm một tư

liệu bổ ích trong công tác dạy và học, học phần Văn học thiểu số Việt Nam

6

hiện đại của trường ĐHSPTN, cung cấp một tài liệu giảng dạy học tập bổ

ích cho chương trình Văn học địa phương tỉnh Thái Nguyên.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu, chúng tôi thực hiện các

nhiệm vụ sau: Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tế liên quan đến đề tài,

khái niệm văn hóa, văn học dưới góc nhìn văn hóa, tìm hiểu phong tục tập

quán, tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa ứng xử cùng một số phương diện nghệ thuật

đặc sắc để thấy được giá trị của tác phẩm truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc

nhìn văn hóa.

6. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:

- Phương pháp liên ngành: Văn hóa luôn có mối quan hệ với các lĩnh vực

khác trong đời sống: văn học, ngôn ngữ, xã hội, lịch sử,… Phương pháp liên

ngành được thể hiện thông qua việc chúng tôi kết hợp nhìn nhận, đánh giá vấn

đề văn hóa học dưới góc nhìn của nhiều lĩnh vực có liên quan: Ngôn ngữ học,

xã hội học, lịch sử học, dân tộc học…

- Phương pháp phân tích: Sử dụng phương pháp phân tích nhằm phát

hiện, khai thác, phân tích một số tài liệu liên quan đến tác phẩm. Qua đó,

chúng tôi chọn lọc những thông tin, tri thức cần thiết phục vụ việc nghiên

cứu. Phương pháp phân tích bao gồm phân tích nguồn tài liệu, phân tích tác

giả và phân tích nội dung tác phẩm.

- Phương pháp so sánh: Nếu chỉ nhìn nhận ở một phương diện thì không

thể đưa ra kết luận về vấn đề một cách chính xác. Chính vì vậy, khi nghiên cứu

về văn hóa - văn học, chúng ta cần đặt đối tượng trong mối tương quan với các

đối tượng khác để có cái nhìn khái quát nhất. Mục đích của phương pháp so

sánh là làm rõ sự khác biệt hay những đặc trưng riêng của đối tượng nghiên

cứu, giúp cho các đối tượng quan tâm có căn cứ để đưa ra lựa chọn.

- Phương pháp tổng hợp: Là phương pháp được sử dụng nhằm liên kết các

bộ phận, khía cạnh liên quan đến đối tượng thành một chỉnh thể đầy đủ và sâu

sắc gắn với chủ đề nghiên cứu. Từ quá trình phân tích, chúng tôi đưa ra những

7

kết luận về vấn đề: Biểu hiện của văn hóa trong tác phẩm, ý nghĩa và giá trị của

các khía cạnh văn hóa được phản ánh qua tác phẩm.

7. Đóng góp của luận văn

Là đề tài đầu tiên nghiên cứu, khảo sát về truyện thơ Mở trời dựng đất

dưới góc nhìn văn hóa.

Nghiên cứu dưới góc nhìn văn hóa chúng tôi muốn góp tiếng nói khẳng

định giá trị độc đáo của truyện thơ dân gian Sán Dìu, đóng góp của truyện thơ

dân gian nói riêng và văn học dân gian Sán Dìu nói chung cho nền văn học dân

gian Việt Nam.

Luận văn là một trong những tư liệu có giá trị dùng để tham khảo cho các

công trình nghiên cứu tiếp theo về văn học dân tộc Sán Dìu.

8. Cấu trúc của luận văn

Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo

và Mục lục, phần Nội dung được triển khai trong ba chương:

Chương 1: Khái quát về văn hóa - văn học và truyện thơ Mở trời dựng đất.

Chương 2: Nội dung truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa.

Chương 3: Nghệ thuật của truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa.

8

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA - VĂN HỌC

VÀ TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT

1.1. Tìm hiểu chung về văn hóa và văn học

1.1.1. Định nghĩa về văn hóa

Từ trước đến nay, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Theo mỗi quan

điểm mà người ta có những định nghĩa khác nhau, ở mỗi định nghĩa đều phản

ánh một cách nhìn nhận và đánh giá riêng về văn hóa. Từ năm 1952, hai nhà

nhân mỹ học nổi tiếng là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn từng thống kê có

tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng trên thế

giới. Văn hóa được đề cập đến nhiều lĩnh vực trong các công trình nghiên cứu

như: địa văn hóa, văn hóa học, dân tộc học, dân gian học, xã hội học… Ở mỗi

lĩnh vực nghiên cứu thì định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau.

Từ điển bách khoa toàn thư đã tổng hợp và phân loại các định nghĩa về

văn hóa như sau:

“Về mặt thuật ngữ khoa học: văn hóa bắt nguồn từ chữ Latinh “Cultus”

mà theo nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là “gieo

trồng ruộng đất” và Cultus Animi là “gieo trồng tinh thần” tức là “sự giáo dục

bồi dưỡng cho tâm hồn con người”[45].

“Các định nghĩa miêu tả: định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa bao

hàm, chặng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnent Tylor (1832 -

1917) đã đưa ra định nghĩa văn hóa: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng

trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật,

đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con

người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội”[45].

“Các định nghĩa lịch sử: nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền

thống dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định

nghĩa đó là của Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học

9

người Mỹ: văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang

dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập

quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống”[45].

“Cách định chuẩn mực: nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị, chẳng

hạn William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi văn hóa

là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập

tục, phản ứng cư xử..)”[45].

“Các định nghĩa tâm lý học: nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi

trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một

trong những cách định nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 -

1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và

cộng sự của ông là: Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện

sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh…Những sự thích nghi này

được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc

và truyền đạt bằng kế thừa”[45].

“Các định nghĩa cấu trúc: chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn hóa,

ví dụ Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa: Văn

hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên

xã hội; Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó được các

thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa”[45].

“Các định nghĩa nguồn gốc: định nghĩa văn hóa từ góc độ của nó, ví dụ

định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968), nhà xã hội học

người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa xã hội học của Đại học Harvard; với

nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến

bởi hoạt động ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau

và tác động đến lối ứng xử của nhau”[45].

Theo Trần Ngọc Thêm, từ “văn hoá” có nhiều nghĩa, được dùng để chỉ

những khái niệm khác nhau. Tuy nhiên được dùng theo nhiều nghĩa, nhưng

10

khái niệm “văn hoá” có thể quy về hai cách hiểu chính: đó là theo nghĩa hẹp và

nghĩa rộng.

Trước tiên, theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo các chiều như:

chiều sâu, chiều rộng, không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều

sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị trong đời sống của con người bao gồm

(nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn

hoá được dùng chỉ nói đến giá trị ở trong từng lĩnh vực khác nhau như: văn hoá

giao tiếp, văn hoá kinh doanh… Giới hạn theo không gian, văn hoá dùng để

nói về các giá trị đặc thù riêng ở từng vùng miền (văn hoá Tây Nguyên, văn

hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá dùng để chỉ ra giá trị trong

từng giai đoạn lịch sử của đất nước (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…).

Theo nghĩa rộng, văn hoá bao gồm tất cả sản phẩm do con người sáng tạo

ra. Vào năm 1940, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục

đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ

viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công

cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ

những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”, (Dẫn theo Trần Quốc Vượng)

[39.tr21].

Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, đã phát biểu: “Đối với một số

người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy

và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm

cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất

cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ

hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về

các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise”[46].

Trong Từ điển tiếng Việt do nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển

học xuất bản năm 1995, Hoàng Phê chủ biên đã đưa ra một loạt quan niệm về

văn hóa:

11

“Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.

“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác

giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội”.

“Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời

sống tinh thần (nói tổng quát)”.

“Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát)”.

“Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh”.

“Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ

xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm

giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn”[31,tr1062].

Tóm lại, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa qua đó chúng ta hiểu văn hóa

là sản phẩm của con người, bao gồm một hệ thống các giá trị vật chất và tinh

thần do con người sáng tạo, tích lũy. Văn hóa được tạo ra và phát triển trong

quan hệ giữ con người và xã hội. Nhưng chính văn hóa đã tham gia vào việc

tạo nên con người, duy trì sự bền vững quá đó làm ổn định trật tự xã hội. Văn

hóa được lưu truyền qua nhiều thế hệ thông qua quá trình xã hội hóa.

Trong văn chương nghệ thuật, văn hóa thể hiện rất phong phú và đa dạng

trên nhiều cấp độ khác nhau, điều này được thấy rõ ở sự trải nghiệm và độ thẩm

thấu văn hóa của người nghệ sĩ. Nhưng có thể khẳng định văn hóa dân tộc là

một phẩm tính quan trọng trong việc làm nên giá trị các tác phẩm văn học.

1.1.2. Văn học

“Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã

hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu,

cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ…Tuy nhiên, về

mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn

chương, văn chương thường chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của

12

văn học về phương diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn

từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống”[47].

Văn học không giống như các loại hình nghệ thuật khác, nhưng giá trị nó

mang đến giống một vẻ đẹp không bao giờ bị thời gian làm cho mai một. Văn

học thể hiện sự sáng tạo của mình bằng phương diện nghệ thuật ngôn từ. Để

cảm nhận văn học phải bằng tâm hồn, con người phải dùng trí tưởng tượng, sự

liên tưởng, suy luận cảm xúc cùng với tất cả các giác quan thì mới có thể hình

dung được những sự vật, hiện tượng, vẻ đẹp trong đời sống văn học mang đến,

điều đó cho thấy ngôn từ mang tính chất phi vật thể. Nhờ đó văn học mới diễn

tả được những sự vật, sự việc theo dòng chảy lịch sử hàng ngàn năm, vạn năm

trên một không gian hữu hạn hoặc vô hạn. Văn học phản ánh hiện thực mang

lại cho người đọc một thế giới tri thức rộng lớn về đời sống vật chất, tinh thần

của nhân loại từ xưa đến nay. Văn học giúp hình thành nhân cách, giáo dục con

người, biết yêu cái tốt, ghét cái xấu, dám xả thân vì nghĩa và sống đúng đạo lí

con người. Đặc điểm của văn học là thông qua sự kiện, hình tượng trong tác

phẩm để khơi gợi, kích thích người đọc về mặt tình cảm, từ đó độc giả bày tỏ

thái độ và suy nghĩ để có hành động đúng đắn. Mặt khác, văn học giúp con

người tự giáo đục, tự hoàn thiện để có cuộc sống tốt đẹp và hữu ích xã hội.

Văn học là “bách khoa toàn thư” về cuộc sống, khi nghiên cứu văn học

dân gian chúng ta có cái nhìn toàn cảnh về văn hóa lịch sử các dân tộc trải qua

từng thời kỳ cụ thể. Như trong sử thi Đam - San tác giả dân gian miêu tả bức

tranh về con người, phong tục, tín ngưỡng, cảnh vật, văn hóa cồng chiêng, hình

thức diễn xướng Khan của dân tộc Ê-đê. Truyện thơ Tiễn dặn người yêu của

dân tộc Thái đưa ta đến vùng đất Tây Bắc của tổ quốc. Nếu vùng đất Tây

Nguyên chịu ảnh hưởng từ văn hóa Chămpa thì người Thái, người Sán Dìu

chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cổ đại.

Truyện thơ Mở trời dựng đất là một trong số đó. Tác phẩm thể hiện cái

nhìn toàn cảnh về văn hóa - văn học dân tộc Sán Dìu. Văn hóa đồng bào Sán

13

Dìu rất phong phú, thể hiện ở các phong tục, tập quán, lễ nghi như: Lễ hội Đại

phan, lễ Cầu mùa, Tết Mười Tư (14/7 âm lịch), lễ Rửa cày bừa...Nét độc đáo về

văn hóa âm thực của người Sán Dìu được thể hiện qua nghệ thuật chế biến các

món ăn như: món bánh bạc đầu, bánh tài nồng ệp, canh gà bản địa nấu với rượu

và lá ngải cứu, thịt muối, cháo khoai, sắn. Tất cả được đều chế biến từ nguyên

liệu sẵn có trong đời sống của đồng bào. Nhiều món ăn trở thành đặc sản không

thể thiếu khi tiếp đón khách quý trong mỗi dịp lễ, Tết của người Sán Dìu.

Văn hóa dân gian của dân tộc Sán Dìu rất phong phú, nổi bật nhất là mảng

văn học dân gian. Một trong những thể loại đặc sắc phải kể đến truyện thơ, với

các tác phẩm như: Mở trời dựng đất, Kinh sách dạy con, Dì ghẻ con chồng

…Về loại hình diễn xướng dân gian, độc đáo nhất là hát Soọng cô, Soọng cô

thực chất là loại hình hát đối đáp giao duyên, không gian diễn xướng chủ yếu là

ở các lễ hội. Hát Soọng cô luôn có trong lễ Đại Phan (mừng cơm mới), lễ hội

lớn nhất trong năm của đồng bào. Vì việc giữ gìn và phát huy giá trị nghệ thuật

dân gian là một việc rất cần thiết trong thời đại hiện nay.

1.2. Vai trò, vị trí của văn hóa và văn học

1.2.1. Văn học phản ánh, soi chiếu văn hóa

Thuật ngữ quốc tế folklore (phôn-clo) Văn hóa dân gian, được W J.Thom

sử dụng đầu tiên vào năm 1846 để chỉ phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín,

ca dao, tục ngữ... của người thời trước. Ở Việt Nam, thuật ngữ “phôn-clo”

được sử dụng từ lâu và được dịch ra tiếng Việt là “văn học dân gian”, “văn

nghệ dân gian”, hay “văn hóa dân gian”.

Văn học là tấm gương phản chiếu của văn hóa, đó là bức tranh văn hóa

dân gian trong sử thi người Ê-đê, ca ngợi người anh hùng, chàng dũng sĩ đánh

thắng mọi kẻ thù hung ác, bảo vệ cuộc sống bình yên cho cộng đồng. Qua các

thiên sử thi nổi tiếng của dân tộc Ê Đê như: Đam San, Xinh Nhã, Mhieng,

ĐămtéMlan, Khinh Du…. các tác phẩm được xem như bản trường ca anh hùng

của người Ê-đê.

14

Văn hóa tín ngưỡng dân gian được phản ánh trong cao dao, tục ngữ…của

người Việt. Thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp văn hóa tín ngưỡng của các dân

tộc, hằng năm vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch) cả dân tộc tổ chức quốc giỗ, tưởng

nhớ các vị vua Hùng khai quốc:

Dù ai đi ngược về xuôi,

Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba.

Tiếp đến là tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt: truyền thuyết Lạc Long

Quân và Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở thành trăm con đó là cội nguồn của dân

tộc Việt. Để rồi ta có: “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, chúng ta thấy văn

học bắt nguồn từ văn hóa và là tấm gương phản chiếu văn hóa. Trong ca dao,

tục ngữ… thể hiện tình yêu gia đình, quê hương, mở rộng ra cả dân tộc, đất

nước, đó là nội dung độc đáo và đặc sắc của văn hóa học dân gian.

Một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt là trọng tình thương,

giàu đức hy sinh, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Biểu hiện của bản sắc văn hóa này

với vô vàn sắc thái văn hóa khác nhau, như trong nguyên tắc sống “một con

ngựa đau cả tàu bỏ ăn cỏ”, “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống như

chung một giàn”. Trọng đạo lý: “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng

cây”, “công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Trong chuẩn mực ứng xử của cộng đồng gia tộc, “anh em như thể chân tay”,

văn hóa cộng đồng: “tối lửa tắt đèn có nhau”, “lá lành đùm lá rách”. Trong

cung cách xưng hô mang tính thân tộc đối với toàn xã hội: “cha, mẹ, chú, bác,

anh, em, cháu”... làm cho làng xóm, thậm chí toàn dân tộc như một gia tộc mở

rộng. Văn học phản ánh toàn diện cuộc sống của con người, vì thế văn hóa luôn

gắn bó mật thiết trong mỗi tác phẩm. Ở đó không chỉ là những quan niệm về

con người được thể hiện qua nghệ thuật ngôn từ, còn là những chuẩn mực ứng

xử của cộng đồng, dân tộc trong mỗi thời kỳ lịch sử. Tác phẩm văn học tái hiện

đời sống tinh thần các dân tộc, như một sản phẩm kết tính của văn hóa. Tính

văn hóa trong văn chương cho chúng ta cái nhìn sâu rộng hơn về giá trị tác

15

phẩm qua hệ thống hình tượng nghệ thuật, từ đó tạo ra mối liên hệ với các loại

hình nghệ thuật khác cũng như với nền văn hóa khác.

Tóm lại, văn học là tấm gương phản chiếu của văn hóa, là “gương mặt của

văn hóa”. Văn hóa của một dân tộc phong phú, đa dạng thì văn học dân tộc đó

cũng phát triển và để lại nhiều dấu ấn. Tìm hiểu văn học Sán Dìu, chúng tôi có

cái nhìn sâu rộng về truyền thống văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số miền

núi phía Bắc, từ đó tự hào, quý trọng những tri thức quý giá mà thế hệ đi trước

đã dày công vun đắp để lại cho hậu thế .

1.2.2. Văn học góp phần lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa

Bản sắc văn hóa dân tộc đã làm nên sức sống, sức mạnh để người Sán

Dìu vượt qua biết bao sóng gió, thác ghềnh và không ngừng phát triển, lớn

mạnh. Từ đó văn hóa là điểm tựa, cầu nối để đồng bào Sán Dìu hội nhập, giao

lưu với các nền văn hóa tiến bộ trong và ngoài nước. Văn học lưu giữ tinh hoa

cộng đồng văn hóa Sán Dìu và các dân tộc anh em. Ta có thể nhận ra điều đấy

trong nếp sống, phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, kho tàng văn hóa học

dân gian.

Quá trình hội nhập quốc tế đã có tác động nhất định, làm thay đổi phương

thức tư duy nên việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là điều quan trọng

trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Văn hóa truyền thống là tiền đề để chúng ta

có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu và làm chủ các tiến bộ khoa học - kỹ thuật

hiện đại, tri thức mới.

Bản sắc văn hóa dân tộc được vun đắp trong lịch sử hàng ngàn năm đấu

tranh dựng nước và giữ nước, hình thành qua nhiều thế hệ. Vì thế, nó kết tinh

những gì đặc sắc nhất của dân tộc Việt Nam, nó có giá trị bền vững, trường tồn

cùng thời gian, như chất keo kết nối cộng đồng người gắn bó với nhau, để cùng

tồn tại và phát triển. Thông qua văn học, chúng ta tìm thấy những giá trị văn

hóa: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức

cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan

16

dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh

tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…

Văn hóa - văn học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau vì thế tác phẩm phản

ánh lịch sử hình thành và phát triển của các dân tộc, phản ánh lịch sử kỳ vĩ của

đất nước được hình thành trong thần thoại, truyền thuyết. Ðề cập đến nguồn

gốc vũ trụ, cộng đồng người, tạo lập bản mường, thành tựu về sinh hoạt văn

hóa vật chất và tinh thần... trên một không khí có tính chất huyền thoại. Như

trong truyện thơ Mở trời dựng đất, người Sán Dìu đã khắc họa hình tượng các

vị thần như Vua Bàn Cổ khai thiên lập địa, Nữ Oa tạo ra người Sán Dìu, đó là

sự lý giải về các hiện tượng tự nhiên, và phản ánh quá trình đấu tranh, xây

dựng, phát triển dân tộc Sán Dìu.

Khi phản ánh hiện thực xã hội, văn học thể hiện tinh thần đấu tranh chống

áp bức, là tiếng nói đòi quyền sống, khát vọng hạnh phúc cho con người. Bên

cạnh đó, văn học thể hiện tình yêu thương, cảm thông, trân trọng đối với những

người bị áp bức, cùng khổ, những người có đức tính, phẩm hạnh tốt đẹp mà trải

qua những thử thách cam go, làm cho phẩm chất ấy càng toả sáng. Ðó là tấm

lòng bác ái, đức hy sinh, lòng hiếu thảo, phẩm chất trong sạch, lòng dũng cảm...

Ðặc biệt là hình tượng người phụ nữ được miêu tả trong tác phẩm văn học,

chính là những tấm gương sáng về đạo đức, phẩm hạnh mà nhà văn muốn gửi

gắm đến độc giả.

Qua đó, chúng ta thấy sự tác động từ văn hóa đến văn học, vì vậy đề tài

của văn học thường tìm đến văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, trở

thành nguồn cảm hứng bất tận cho nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.

Văn hóa được coi là bầu khí quyển để cho cây văn học sinh sôi, nảy nở. Nền

văn học bắt rễ sâu vào bản sắc văn hóa dân tộc sẽ là điều kiện tiền đề để nó

phát triển và đơm hoa kết trái. Người nghệ sĩ am hiểu sâu sắc nguồn cội, tinh

hoa văn hóa dân tộc mình thì tác phẩm sẽ trở thành một bức tranh đặc sắc lột tả

được các khía cạnh đời sống dân tộc.

17

1.2.3. Phương pháp nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa

Từ trước đến nay có rất nhiều hướng tiếp cận văn học từ văn hóa khác

nhau, điều này cho thấy sự đa dạng, phức tạp trong nghiên cứu văn học - văn

hóa. Nhưng trong các hướng nghiên cứu đấy chúng ta vẫn thấy nổi lên những

vấn đề như sau:

Văn học và văn hóa có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời

nhau. Văn hóa chi phối đến sự hình thành, phát triển của văn học, mỗi quốc gia

sẽ có một nền văn học mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc mình và chịu sự

tác động mạnh mẽ từ văn hóa - tinh thần dân tộc ấy. Nói cách khác văn học là

tấm gương phản ánh chân thật đời sống văn hóa - tinh thần của con người. Bàn

về mối liên hệ này trong bài viết của Lê Nguyên Cẩn tác giả đã khái quát về

mối tương quan giữa văn học và văn hóa như sau:

“Trong tương quan giữa văn học và văn hóa, thì văn học là một trong

những kết tinh cao nhất của văn hóa cộng đồng, dân tộc. Tác phẩm văn học nào

cũng mang trong nó tính văn hóa, dấu ấn văn hóa ở các mức độ khác nhau.

Tính văn hóa biểu hiện qua các mã của nó, tạo thành trong tác phẩm văn học,

một chỉnh thể nghệ thuật, mang tính nghệ thuật, có tính nghệ thuật, có khả năng

biểu đạt và phản ánh văn hóa của cộng đồng, dân tộc”[16,tr.19].

Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương lại viết về vấn đề này:

“Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức,

phong tục… Để có được những thành quả đó, văn hóa của một dân tộc cũng

như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa,

đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể

hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã thành. Cũng

có thể nói văn học là văn hóa lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật”[48].

Tác giả Huỳnh Như Phương đã đi sâu vào phân tích về sự tác động giữa

văn hóa và văn học và đi đến kết luận: “Văn học là thước đo, là nhiệt kế vừa

18

lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hóa của một xã hội

trong một thời điểm lịch sử nhất định”[48].

Nhà nghiên cứu văn học D.C.Likhachop đã khẳng định: “Trong khi kiếm

tìm những đặc điểm của nền văn hóa, trước hết, chúng ta cần phải tìm hiểu sự

trả lời ở văn học và chữ viết. Văn học nói thay cho văn hóa dân tộc giống như

con người nói thay cho tất cả những gì trong trời đất. Vì vậy, những biến động,

những thay đổi, tiến triển trong đời sống văn hóa dân tộc cũng sẽ kéo theo sự

chuyển đổi, phát triển của lịch sử văn học dân tộc”[49].

Đi sâu vào tìm hiểu từng nền văn học chúng ta sẽ có cái nhìn cụ thể hóa về

hướng tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa. Như chúng ta đã biết, Ấn Độ là

một trong những trung tâm văn minh của nhân loại. Văn hóa Ấn Độ có vai trò

quan trọng trong văn hóa của một số nước ở khu vực Đông Nam Á. Nói đến

ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với khu vực này chúng ta không thể không

nói tới ảnh hưởng của sử thi Ramayana, Mahabranata….

Sử thi Ramayana đã đi vào đời sống của nhân dân Đông Nam Á, tác phẩm

trở thành nguồn cảm hứng cho thi nhân, nghệ sĩ sáng tác về văn thơ, nhạc, họa,

công trình, điêu khắc. Văn học – nghệ thuật Ấn Độ có ảnh hưởng sâu rộng đến

các nước trong đó có Việt Nam, điều này được thể hiện sinh động, cụ thể trong

văn học, tín ngưỡng tôn giáo, kiến trúc, hội họa, điêu khắc…và các loại hình

nghệ thuật khác. Trong kho tàng văn học dân gian nước ta, bên cạnh những tác

phẩm ảnh hưởng từ phương Bắc, ngoài ra còn nhiều tác phẩm có nguồn gốc,

hoặc ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ, như truyện Dạ Thoa Vương trong Lĩnh

Nam chích quái ảnh hưởng từ sử thi Ramayana.

Thần thoại Hi Lạp là thành tựu về trí tuệ xuất sắc đầu tiên và đặt nền móng

vững chãi cho văn minh phương Tây. Thần thoại Hi Lạp ảnh hướng sâu rộng

đến văn hóa - văn học của Châu Âu. Ở Việt Nam thần thoại được tái hiện là câu

chuyện viết về các vị thần như: Thần vũ trụ, thiên nhiên, sấm, sét…. Nhằm giải

thích, phản ánh các hiện tượng tự nhiên, nhân vật trong thần thoại là sản phẩm

19

của niềm tin và sự sùng bái tự nhiên, qua đấy chúng ta thấy được những suy

nghĩ, tư duy của người Việt cổ.

Tóm lại tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa góp phần giải thích các

hiện tượng trong văn hóa, hướng tiếp cận này còn giúp chúng ta chuyển tải, lưu

giữ được những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc từ thời đại trước. Và góp

phần vào việc tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm văn học với văn hóa thời đại.

Văn học sẽ trở nên gần gũi và dễ tiếp nhận hơn nếu dấu ấn văn hóa trong tác

phẩm văn học được quan tâm giải mã.

1.3. Ti p cận văn hóa với truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Tiếp cận văn hóa trong văn học là phương pháp phổ biến có nhiều ưu thế

và được các nhà nghiên cứu thường dùng để tiếp cận văn học, nhờ cách tiếp

cận này mà chúng ta có cái nhìn đa chiều khi phân tích tác phẩm trong tiến

trình văn học các thời kì. Văn hóa tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà

còn chi phối đến toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn bởi tác phẩm nghệ

thuật là sản phẩm của văn hóa. Nguồn gốc dân tộc Sán Dìu từ Trung Hoa vì thế

văn hóa trong truyện thơ Mở Trời dựng đất có ảnh hưởng và tiếp thu chọn lọc,

sáng tạo từ văn học dân gian Trung Hoa. Trong quá trình sáng tác với sự giao

thoa văn hóa đã mang đến cho tác phẩm nét đặc sặc riêng, điều đó được thể

hiện qua các giá trị văn hóa như: tín ngưỡng, phong tục, tập quán, giáo dục

trong gia đình và ngoài xã hội của đồng bào Sán Dìu.

Hệ thống văn hoá trong truyện thơ bao gồm tín ngưỡng dân gian, phong

tục - tập quán, văn hóa ứng xử, truyền thống đạo lí của dân tộc Sán Dìu. Trong

tác phẩm, văn hóa mang đầy đủ những đặc trưng: tính nhân sinh, tính hệ thống,

tính lịch sử... Đồng thời, văn hóa phản ánh một cách đúng đắn, toàn vẹn, sâu

sắc đời sống xã hội đương thời của người Sán Dìu.

Văn hóa tái hiện qua lời kể của tác giả dân gian trong truyện thơ, đó là sự

lí giải về các hiện tượng tự nhiên, đời sống xã hội, con người được hình thành

như thế nào, tất cả đều đã được tô vẽ, và ghi chép lại bằng trí tưởng tượng của

20

nhân dân. Khi nạn “Đại Hồng Thủy diệt vong muôn loài chỉ còn lại anh em

Phục Nghĩa sống sót”, “hai người đã kết duyên và sinh ra loài người”. Người

Sán Dìu miêu tả về nạn Đại Hồng thủy, giống như dân tộc Khơ - mú trong

truyện dân gian Quả bầu. Cả hai tác phẩm đều lấy sự kiện hai anh em chui vào

quả bầu và sống sót, nhưng cách lý giải về sự ra đời của loài người là khác

nhau. Với người Khơ - mú sau khi thoát nạn mỗi người một ngả, họ chia nhau

đi tìm vợ chồng, cuối cùng không tìm được ai họ gặp lại nhau kết duyên. Người

em mang thai đến 7 năm, 7 tháng, 7 ngày, sinh ra dân tộc Khơ - mú… đó là sự

lý giải về nguồn gốc dân tộc Khơ - mú. Trong Mở trời dựng đất, đại nạn đi qua

chỉ còn hai vị thần là anh em Phục Nghĩa, Nữ Oa cả hai thông hôn, nàng mang

thai 9 tháng… được Cửu Thiên Huyền Nữ tạo ra “lớp người có mắt thẳng”. Có

thể thấy mỗi dân tộc có một cách kể về nguồn gốc dân tộc mình khác nhau. Với

người Sán Dìu đó là sự lý giải mang màu sắc huyền bí của thần thoại:

Sinh hạ cục huyết không mắt mặt

Cửu Thiên Huyền Nữ cầm dao phân

Phân thành ba trăm sáu mươi phần

Tạo thành lớp người có mắt thẳng

Từ đó, người Sán Dìu ra đời, hình thành làng bản, gia đình, họ hàng và trở

thành dân tộc Sán Dìu. Tiếp đến, người Sán Dìu tạo ra các quy định về văn hóa

ứng xử, chuẩn mực ứng xử, được các thành viên trong cộng đồng thừa nhận,

duy trì trong đời sống.

Khi tìm hiểu truyện thơ theo hướng tiếp cận văn hóa, chúng tôi quan tâm

tìm hiểu và khai thác các giá trị văn hóa như những bài học triết lý nhân sinh,

cách hình tượng nghệ thuật được đúc kết trong những lời thơ răn dạy về: giáo

dục đạo đức con người, văn hóa ứng xử… đó là giá trị truyền thống tốt đẹp đã

được lưu truyền và phát huy hàng trăm năm qua. Tất cả những vấn đề đó đều

nằm trong cấu trúc văn hóa, đạo đức là những quy luật tinh thần hướng con

người đến điều thiện, bao gồm những nguyên tắc ứng xử, những chuẩn mực và

21

quy phạm trong đời sống xã hội, quan hệ giữa văn học và đạo đức chính là

quan hệ giữa cái đẹp và cái thiện.

1.3.1. Khái niệm truyện Nôm.

Truyện Nôm là thể loại tự sự bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn học cổ

điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thể kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, do viết bằng tiếng

Việt, ghi bằng chữ Nôm nên được gọi là Truyện Nôm.

“Truyện Nôm có tác phẩm được viết bằng thể thơ Đường luật như Vương

Tường, Tô Công phụng sứ,… nhưng phổ biến nhất là viết bằng thể thơ lục bát.

Có hai loại truyện Nôm. Truyện Nôm bình dân viết trên cơ sở truyện dân gian

như Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Thạch Sanh… Truyện Nôm bác

học có loại viết trên cơ sở cốt truyện có sẵn ở Trung Quốc như Phan Trần, Hoa

Tiên, Nhị độ mai, Truyện Kiều,… có loại xây dựng theo cốt truyện sáng tạo

bằng hư cấu như Hoàng Trừu, Trê Cóc, Sơ kính tân trang, Lục Vân Tiên,…

Truyện Nôm bình dân hầu hết không có tên tác giả, được lưu truyền

trong dân gian, ngôn ngữ bình dị giản dị, mộc mạc. Truyện Nôm bác học có

ngôn ngữ trau chuốt, điêu luyện, dùng nhiều từ Hán Việt, điển tích, tiêu biểu

cho trình độ diễn đạt của văn học viết dân tộc, trong đó có những tác phẩm đạt

tới mức độ cổ điển, mẫu mực, bất hủ như truyện Kiều của Nguyễn

Du”[25,tr372].

1.3.2. Vài nét về dân tộc Sán Dìu

Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục, “nhà bác học Lê Quý Đôn (1723 -

1782) nhắc tới giống người ở xứ Tuyên Quang (Tuyên Quang xưa rộng hơn

tỉnh Tuyên Quang hiện nay). Có 07 chủng tộc người Man, trong ấy có 03 chủng

tộc Sơn Man, Sơn Tử và Cao Lan, mặc áo chàm xanh, tay áo rộng, hoặc áo

màu trắng, để tóc dài, búi tóc nhọn; 03 chủng tộc Sơn Man, Sơn Bán và Sơn

Miếu cũng thế; 02 chủng tộc Hán Văn và Bảo Toàn cắt tóc, chít khăn vải hoa,

áo xanh, quần vắn…”[17.tr.335].

22

Còn theo tác giả Ma Khánh Bằng: “Tên Sán Dìu từ Sơn Dao, thì người

Sán Dìu vốn có nguồn gốc từ người Dao (?). Từ đó ta có thể suy đoán rằng: từ

rất xa xưa, khối Dao bị bọn phương Bắc thống trị đã “bóp vụn” thành nhiều

nhóm nhỏ, khiến cho mỗi nhóm phiêu bạt một nơi. Người Sán Dìu có thể là

một trong những nhóm đó, nhưng đã sống lâu ngày bên cạnh người Hán

(phương Nam) nên dần dần mất dần tiếng mẹ đẻ (tiếng Dao), tiếp thu một thổ

ngữ Quảng Đông… Họ tiếp thu tiếng Hán trước khi di cư vào Việt Nam. Năm

tháng đã làm nhạt nhòa những kí ức xa xăm, người Sán Dìu không nhận mình

là người Hán, mà vẫn tự nhận mình là một tộc người riêng biệt. Đó chỉ là giả

thiết và chủ yếu dựa vào tên tự gọi của họ. Còn nay, ta khó nhận thấy ở người

Sán Dìu có những văn hóa Dao… Các nhà bác học Liên Xô (cũ) lại xếp Sán

Dìu vào nhóm trong ngữ hệ Hán - Tạng”[13.tr.15 - 17].

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009: “Người Sán Dìu ở Việt

Nam có dân số 146.821 người, có mặt tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.

Người Sán Dìu cư trú tập trung tại các tỉnh: Thái Nguyên (44.131 người, chiếm

30,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam), Vĩnh Phúc (36.821 người, chiếm

25,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam), Bắc Giang (27.283 người)...”.

“Dân tộc Sán Dìu chủ yếu sống ở miền trung du các tỉnh Thái

Nguyên,Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hải Dương (tổng

cộng khoảng 97%). Một số di cư vào Tây Nguyên lập nghiệp, thành các làng

hay sống rải rác tại các tỉnh thành khác…”[50].

Ở tỉnh Thái Nguyên người Sán Dìu chủ yếu sống ở các huyện, thị xã, xã

như: Huyện Đồng Hỷ, Thị xã Trại Cau, xã Phúc Trìu, xã Phúc Hà… Người Sán

Dìu có các tên gọi như: San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân), Mán Quần cộc, Mán

Váy xẻ... tổ tiên của người Sán Dìu đã đến các vùng núi “lập trại” khai hoang

lập nghiệp hàng trăm năm nay chính bởi đặc trưng về văn hóa, đời sống nên

người Sán Dìu còn các tên gọi khác như Trại, Trại Ðất. Với các tên gọi khác

23

nhau như vậy cho chúng ta thấy dân tộc Sán Dìu có vốn văn hóa vô cùng phong

phú, đó là sự hòa quyện của văn hóa Trung Hoa với văn hóa Việt Nam.

Người Sán Dìu nói tiếng thổ ngữ Hán Quảng Ðông (ngữ hệ Hán - Tạng),

theo Nhà nghiên cứu Diệp Trung Bình cho biết: “Người Sán Dìu không như

một số tộc người khác là ở mỗi vùng có tiếng nói khác nhau. Người Sán Dìu

đồng nhất về mặt ngôn ngữ. Tuy nặng nhẹ một chút nhưng nói hiểu nhau hết,

hát giao duyên cùng với nhau được. Ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Hán - Tạng.

Chia nhỏ ra là nhóm Hán. Tiếng này là thổ ngữ Quảng Đông, gần với tiếng dân

tộc Sán Chay. Nó không giống tiếng Dao nhưng lại thuộc ngôn ngữ Quảng

Đông”[51]. Dân tộc Sán Dìu ở các tỉnh như: Quảng Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh

Phúc… đều nói ngôn ngữ giống nhau. Tuy nhiên, ở Thái Nguyên tiếng Sán Dìu

phát âm nhẹ hơn, dễ nghe hơn. Bởi vì khi người Sán Dìu di cư sang Việt Nam

họ có sự hòa nhập về văn hóa nên ngôn ngữ cũng một phần nào bị Việt hoá.

Cũng giống như các dân tộc anh em khác, họ có đời sống văn hóa tinh thần vô

cùng phong phú.

Về mặt văn hóa tín ngưỡng đồng bào theo thuyết “vạn vật hữu linh”, tam

giáo đồng nguyên (Nho - Phật - Đạo)... Họ quan niệm: con người có hai phần

đó là linh hồn và thể xác, thể xác chỉ là cái tạm thời, lúc mất đi, chỉ còn linh

hồn tồn tại vĩnh cửu. Bởi thế, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được đồng bào coi

trọng và đặt lên hàng đầu. Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Sán Dìu còn

thờ các thần: thần cửa, thổ công, vua bếp... Đây được coi là các vị thần bảo hộ,

không cho ma quỷ vào trong nhà, phù trợ cho mọi thành viên trong gia đình

luôn mạnh khoẻ. Những gia đình có con nhỏ hay người trong thời kỳ sinh nở

đều có bàn thờ mụ (Pha công, pha mủ). Mặt khác của tín ngưỡng dân tộc Sán

Dìu còn có khái niệm “cúi” (ma). Khái niệm này dùng để chỉ chung các thần,

thánh, tổ tiên và ma quỷ dữ, nhưng cũng có sự phân biệt rõ ma lành (hén cúi) là

thần thánh, Phật, tổ tiên... và ma dữ (thoọc cúi) là cô hồn, người chết không nơi

thờ phụng.

24

Đối với lễ tết của đồng bào Sán Dìu ngoài ăn tết âm lịch chung còn thể

hiện nét rất riêng, một năm họ có hai cái tết lớn, thứ nhất là tết Thanh Minh vào

tháng 3 âm lịch hàng năm, ngày này con cháu sẽ đến nhà trưởng họ và mọi

người cùng đi tảo mộ và cầu một năm mùa màng bội thu, con cháu mạnh khỏe.

Tết thứ hai là Đông Chí thường hay gọi lễ cúng cơm mới, đây là ngày để tổng

kết một năm làm việc vất vả và cầu những điều may nắm cho năm sắp tới.

Ngoài ra tết Đông Chí còn mang thêm ý nghĩa cầu mong có con đàn, cháu

đống. Những người đã lấy nhau lâu mà vẫn chưa có con thì sau khi ăn tết xong

người vợ về nhà bố mẹ đẻ ở. Người chồng cho ông mối đến hỏi và sau đó tổ

chức cưới lại như là cưới vợ mới.

Bên cạnh đó, loại hình diễn xướng dân gian của đồng bào rất phong phú

và độc đáo, tiêu biểu phải kể đến hát Soọng cô, nói cách khác đây là loại hình

hát giao duyên nam nữ, Soọng cô thường được hát về đêm, có những cuộc hát

kéo dài suốt nhiều đêm để kết tóc xe duyên các đôi trai gái thương mến nhau

nên vợ chồng. Về tục lệ Cưới xin, người Sán Dìu quan niệm nam nữ được tự do

yêu đương nhưng có thành vợ thành chồng hay không họ lại tuỳ thuộc vào “số

mệnh” và sự quyết định của bố mẹ. Ðám cưới gồm nhiều nghi lễ, điểm nổi bật

nhất là lễ Khai hoa tửu diễn ra tại nhà gái, trước hôm cô dâu về nhà chồng.

Người ta lấy một bình rượu và một cái đĩa, trên đĩa lót hai miếng giấy cắt hoa,

miếng trắng để dưới, miếng đỏ để trên, đặt lên trên đĩa hai quả trứng luộc có

xâu chỉ đỏ và buộc ở mỗi bên trứng hai đồng xu. Sau khi cúng thì bóc trứng lấy

lòng đỏ hoà với rượu để mọi người uống mừng hạnh phúc của cô dâu, chú rể.

Về văn hóa vật chất, dân tộc Sán Dìu hay xây dựng làng bản của mình ở

sườn đồi hay chân đồi, mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà. Nơi ở lý tưởng là

trước cánh đồng, sau lưng là đồi rừng, sông suối bởi vì những nơi đó thích hợp

cho việc canh tác và trồng trọt chăn nuôi của người Sán Dìu. Đối với kiến trúc

nhà cửa họ gọi nhà là “ộc”, nhà ba gian hai chái. Mái nhà thường được lợp

bằng rơm rạ, cỏ tranh... xung quanh nhà được dựng nan tre rồi vắt rơm trộn bùn

25

thành tường vách nhà. Làm xong nhà, gia chủ thường hay tổ chức ăn mừng nhà

mới gọi là (Dịp sin ộc). Đây cũng là dịp để trai gái trong làng hát Soọng cô

mừng tân gia.

Về trang phục truyền thống nam giới mặc hai chiếc áo, áo trong màu

trắng, áo ngoài có màu nâu hoặc đen. Hình dáng của áo năm thân, cổ cao, có

cài khuy, áo không quá dài chỉ đến đầu gối. Quần màu nâu hay đen được thắt

dây lưng màu chàm. Bộ nữ trang phục của đồng bào gồm có khăn đội đầu, áo

trong, áo ngoài, dây lưng, váy, dây lưng, và xà cạp. Phụ nữ Sán Dìu vấn tóc,

đội khăn hình mỏ quạ giống người miền xuôi. Ngoài ra cách ăn mặc còn có sự

phân biệt về tuổi tác, người trẻ mặc áo vạt bên phải vắt phủ lên vạt áo bên trái.

Người già mặc áo vạt trái vắt phủ lên vạt bên phải rồi dùng thắt lưng hoa lý,

tím hay đỏ thắt lại. Phối hợp với các loại trang sắc vòng kiềng, khuyên tai, nhẫn

được làm bằng bạc. Đặc biệt phụ nữ Sán Dìu có chiếc túi trầu (loi thoi), hình

múi bưởi, được may và thêu thùa rất công phu.

Kể từ khi đồng bào Sán Dìu di cư vào Việt Nam cho đến nay họ đã trải

qua hàng trăm năm sinh sống, nhưng người Sán Dìu vẫn lưu giữ được những

nét văn hóa riêng của dân tộc mình, và đã có nhiều đóng góp vào việc xây

dựng, bảo vệ, phát triển kinh tế, văn hóa của nước Việt Nam.

1.3.3. Truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Mở trời dựng đất là một trong những truyện thơ đặc sắc của dân tộc Sán

Dìu, tác phẩm là sự kế thừa chọn lọc sáng tạo giữa hai nền văn hóa, văn học

dân gian Trung Hoa và Việt Nam. Vì thế tác phẩm mang một màu sắc riêng

trong dòng chảy truyện thơ dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Truyện thơ kể lại thủa xưa khi trời đất còn gần nhau, Vua Bàn Cổ là người

phân định trời đất. Bỗng một hôm ông trời nổi giận cho nước sông dâng cao

làm chết muôn loài. Chỉ có hai chị em Phục Nghĩa họ nhanh chân chui vào quả

bầu khô, nổi lên theo dòng nước nên sống sót. Khi nước rút vì trong vùng

không còn ai nên họ đành lấy nhau sinh nhiều con cháu làm cho người Sán

26

Dìu hồi sinh trở lại. Tác phẩm Mở trời dựng đất có hai phần và mỗi phần đều

có ý nghĩa riêng, ở phần thứ nhất từ câu 1 - 74 tác giả viết về sự hình thành

của vạn vật. Sự giao thoa giữa hai nền văn học Trung Hoa và Việt Nam được

thể hiện khá rõ trong phần một này, tác giả chủ yếu nhắc tới các nhân vật dân

gian như: Vua Bàn Cổ, Nữ Oa, núi Côn Lôn, Cửa thiên Huyền Nữ, các hiện

tượng tự nhiên từ xa xưa như nạn Đại hồng thủy… Vua Bàn Cổ là nhân vật

trong thần thoại Trung Hoa, ông được coi là vị thần khai thiên lập địa, sáng

tạo ra vũ trụ. Theo đó, vào lúc trời đất còn chưa hình thành, tất cả đều là một

khối hỗn độn, chưa có trên dưới, phải trái, đông tây nam bắc, không có ánh

sáng cũng chẳng có thanh âm, tất cả chỉ là một không gian hoàn toàn không

có sự sống. Ở trung tâm của khối hỗn độn đó Bàn Cổ đã tạo ra trời đất, sáng

tối. Lúc này giữa Trời và Đất chỉ có một con người là Bàn Cổ, nên mọi nỗi

buồn vui của Ngài đều ảnh hưởng trực tiếp đến tự nhiên. Khi Ngài vui vẻ, bầu

trời trong xanh; khi Ngài tức giận, trời sinh u ám; khi Ngài khóc, nước mắt

thành mưa và tuyết; khi Ngài thở dài, thành gió và mây. Cùng với vua Bàn Cổ

là hoàng đế Phục Nghĩa, Nữ Oa và Cửu Thiên Huyền Nữ đã tạo ra loài người.

Đây đều là những vị thần nổi tiếng trong văn hóa dân gian của Trung Quốc.

Phần hai từ câu 75 - 450 là mười điều khuyên về triết lý nhân sinh dành

cho hậu thế, những lời giáo huấn được ví như “Kinh sách dạy con” của đồng

bào Sán Dìu. Người Sán Dìu rất chú trọng các mối quan hệ như gia đình và xã

hội, bởi vậy lời răn dạy trong tác phẩm là sự kết tinh của trí tuệ, văn hóa, hàng

trăm năm sinh sống của đồng bào Sán Dìu. Mỗi lời khuyên đều mang đậm triết

lý giáo huấn sâu sắc, tác phẩm như một cuốn sách về sự chiêm nghiệm của

cuộc đời để lại nhiều bài học cho thế hệ sau. Truyện thơ Mở trời dựng đất

không chỉ chứa đựng các lời khuyên răn dạy còn là sự lắng đọng của truyền

thống văn hóa, đạo lí tốt đẹp, qua đó phản ánh những tri thức, kinh nghiệm

sống của dân tộc mình trong lịch sử.

27

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trong chương một của đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu một số vấn đề chung

liên quan đến văn học, văn hóa và mối quan hệ của chúng. Văn hóa - văn học là

những lĩnh vực hình thành, tồn tại và phát triển theo quy luật riêng nhưng có

mối quan hệ gắn bó mật thiết. Mỗi lĩnh vực đều có những cách hiểu khác nhau

nhưng đều có cùng sứ mệnh: Hướng đến con người, đề cao tư tưởng nhân văn,

hướng đến chân - thiện - mĩ.

Tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa là một trong những phương

pháp có nhiều ưu thế, sử dụng phương pháp để có được những thuận lợi cho

việc nghiên cứu, mở rộng phạm vi phản ánh tác phẩm văn học. Từ đó chúng ta

có cái nhìn đa chiều, sâu sắc hơn về tác phẩm văn học, góp phần giúp văn học

gần gũi hơn trong đời sống con người.

Vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc được nhà nước ta phát động trong nhiều

năm nay. Nghiên cứu văn hóa trong văn học là một trong những biện pháp giúp

bảo tồn nét đặc sắc của dân tộc. Dân tộc Sán Dìu là một trong những dân tộc

lớn ở nước ta, dân tộc này đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn hóa và văn

học với những phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt. Thành tựu to lớn mà

người Sán Dìu để lại là những trang truyện thơ có giá trị nghệ thuật cao. Đề tài

sẽ tập trung tìm hiểu tác phẩm này dưới góc nhìn văn hóa ở những chương sau.

28

CHƯƠNG 2

N I DUNG TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT

DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

2.1. Văn hóa giáo dục đạo lý trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Dân tộc Sán Dìu đã trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, tất cả những

điều đó đều được phản ánh qua văn học. Mở trời dựng đất như một bức tranh

thu nhỏ về cuộc sống lao động sinh hoạt của đồng bào. Những lời khuyên răn

dạy về giáo dục đạo lý như một di sản tinh thần vô cùng quý giá đối với người

Sán Dìu. Ở đó tác giả dân gian ngợi ca điều tốt đẹp, phê phán lối sống, cách

ứng xử không phù hợp trong gian đình, cộng đồng. Truyện thơ còn thể hiện nét

đẹp về đạo đức truyền thống của người Sán Dìu. Đó là tình yêu thương đùm

bọc, che chở lẫn nhau trong cuộc sống. Những câu thơ thể hiện lối giáo dục

chân thực, đã tạo nên đời sống văn hóa vật chất và tinh thần phong phú của

người miền núi, mà trong đời sống hàng ngày dân tộc Sán Dìu vẫn luôn truyền

tụng, khuyên răn con cháu. Lời thơ ý nghĩa, sâu sắc này như một nguồn nhựa

sống để nuôi dưỡng tâm hồn cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Văn hóa giáo dục đạo lý là sự tổng hòa các nhiều yếu tố như: gia đình,

môi trường, xã hội, được người Sán Dìu đúc kết qua hàng trăm năm sinh sống

trên đất nước Việt Nam. Truyện thơ Mở trời dựng đất phản ánh những bài học

nhân sinh trong cuộc sống của dân tộc Sán Dìu, từ đối nhân xử thế trong các

mối quan hệ, đến bài học về đạo làm người. Những yếu tố đó có sự kết hợp của

Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo trở thành những lời khuyên răn dạy “khuân vàng

thước ngọc” để các thế hệ học tập, tu dưỡng, rèn luyện bản thân và tiếp nối

những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.

Theo Bách khoa toàn thư mở:

“Giáo dục là một quá trình mà trong đó kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm

của một người hay một nhóm người này được truyền tải một cách tự nhiên mà

không hề áp đặt sang một nhóm người khác… qua đó đóng góp được tối đa

29

năng lực cho xã hội trong khi vẫn thỏa mãn được quan điểm, sở thích và thế

mạnh của bản thân”[49].

“Đạo đức là một từ Hán Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố

trong tính cách và giá trị của một con người… đức là tính tốt hoặc những công

trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn luyện

thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét đẹp trong đời

sống và tâm hồn”[50].

“Giáo dục đạo đức, lối sống là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, lối

sống từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội thành những đòi hỏi bên trong của

mỗi cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”[50].

Giáo dục đạo đức luôn là việc quan trọng được mọi thời đại đề cập đến.

Giáo dục là nền tảng hình thành nên nhân cách của con người, qua đó sẽ giúp

thế hệ trẻ giữ được nền nếp gia phong, phấn đấu tu dưỡng và phát triển bản

thân, làm rạng danh gia đình, dòng họ và góp phần vào sự ổn định và phát triển

của xã hội.

Dân tộc Sán Dìu luôn chú trọng đến truyền thống văn hóa dân tộc để giáo

dục thế hệ sau. Đó là tư tưởng đề cao lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông

bà cha mẹ, bài học hoàn thiện nhân cách trở thành một người tốt, bên cạnh đó

đồng bào còn phê phán những thói hư tật xấu còn tồn tại trong đời sống xã hội.

2.1.1. Triết lý giáo dục đạo đức của dân tộc Sán Dìu

Trong truyện thơ Mở trời dựng đất, tác giả dân gian đã khái quát về triết

lý giáo dục đạo đức của đồng bào Sán Dìu. Tác phẩm như sự tổng kết những

lời khuyên dạy và kinh nghiệm trong giáo dục ứng xử của con người. Tìm hiểu

triết lý giáo dục trong tác phẩm là điều rất quan trọng và cần thiết, vì đúc kết

trong đó là những bài học làm người mà ông cha đã để lại cho thế hệ trẻ học tập

tu dưỡng rèn luyện đạo đức.

Cũng giống như người Việt, dân tộc Sán Dìu rất coi trọng việc học. Với

người Kinh tư tưởng trọng kiến thức, trọng việc học được hình thành từ rất lâu

30

đời và đã trở thành nét đẹp văn hóa của dân tộc. Ngay từ rất sớm, cha ông đã

nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc học. “Có học mới hay, có cày

mới biết”, “Dao có mài mới sắc, người có học mới nên”, “Muốn lành nghề, chớ

nề học hỏi”. Để có thể tồn tại, phát triển được, con người cần được học tập, trau

dồi để hoàn thiện bản thân bởi kiến thức không phải là cái có sẵn, không phải là

cái “tiềm tàng” trong mỗi con người mà phải thông qua học tập, giáo dục, tự rèn

luyện thì mới có được. Như vậy, phải thông qua việc học mới giúp con người có

hiểu biết, hoàn thiện bản thân, từ đó hình thành nhân cách. Việc học có vai trò

rất quan trọng đối với cuộc đời con người, học để lập thân lập nghiệp, để hướng

tới một cuộc sống tốt đẹp hơn: “Hay học thì sang, hay làm thì có”, “Học hành

vất vả, kết quả ngọt bùi”, “Học thành, danh lập” và hơn thế nữa, mục đích cao

nhất của việc học chính là “Học để làm người”.

Người Sán Dìu cho rằng giáo dục có vai trò quan trọng đối với việc hình

thành nhân cách con người, đây là một quan niệm rất tiến bộ của đồng bào,

quan niệm đó vừa khẳng định bản chất con người không phải tự nhiên mà có,

không phải do tiền định, vừa thấy được quy luật của sự ảnh hưởng, chi phối các

yếu tố môi trường xã hội, sự tác động có ý thức của thế hệ đi trước đối với các

thế hệ đi sau bằng con đường giáo dục:

Người dùng thư sách dạy cái đức

Người ngu đọc sách sửa cái tâm

Người hiền đọc sách được thành người

Lớn lên ngang ngạnh không nghe dạy

Vận số khó sáng như vàng ngọc

Do ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo, nên người Sán Dìu lấy việc đọc

“sách thánh hiền”, trau dồi kiến thức là điều căn bản trong quá trình giáo dục

nhân cách con người. Ở đây chữ “đức” được đặt nên hàng đầu cho thấy dân tộc

Sán Dìu cũng như người Việt coi đạo đức là điều cốt lõi mà mỗi cá nhân cần tu

dưỡng rèn luyện. Với người “ngu” đọc sách để sửa cái “tâm” cho sáng, “người

31

hiền” đọc sách để “thành người”. Đồng bào cho rằng mục đích quan trọng của

việc học trước hết là để làm người, “Làm người” là phải có phẩm chất đạo đức,

không vì những nhu cầu tầm thường, mà ta đánh mất mình, hạ thấp tư cách,

phẩm chất của mỗi người. Con người cần phải biết giữ mình trong sạch, đàng

hoàng, ngay thẳng trong mọi hoàn cảnh. Sau đó mới làm việc đời, giúp nước,

làm rạng danh dân tộc đó là những điều thế hệ ông cha muốn răn dạy con cháu.

Tác giả dân gian còn cho rằng “tâm - tài - đức” là một trong những yếu tố quan

trọng nhất để hoàn thiện bản thân. Nếu bản thân không chịu nghe lời giáo dục

lớn lên ngang ngạnh, vận số không tốt “khó sáng như vàng ngọc”.

Người Sán Dìu quan niệm rằng dạy con mà không dạy “đạo” khác nào

ngọc đặt trong tối. Cổ nhân có câu: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học

bất tri đạo”, ngọc không được mài giũa, đẽo gọt thì không thể làm cho nó thể

hiện được vẻ đẹp và giá trị của nó; con người không được dạy dỗ thì không biết

đến đạo lí, không thể hoàn thiện về nhân cách. Tục ngữ Việt có câu “Người ta

là hoa đất”, khẳng định con người là sản phẩm tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của

trời đất. Nhưng cuộc sống của con người để trở nên có ý nghĩa, để vượt trên

muôn vật thì không có cách nào khác là phải học tập, rèn luyện. Cho nên đã là

“ngọc” thì phải mài giũa, đã là người thì phải học tập, phải trải qua khó khăn,

gian khổ thì mới thành người. Nếu không khác nào “ngọc” đặt trong “tối”, như

thế làm sao có thể thấy hết được giá trị của viên ngọc. Tác giả dân gian đã so

sánh hình ảnh “ngọc” với đạo đức con người, “ngọc” là những sự vật hiện

tượng quen thuộc với đồng bào dân tộc Sán Dìu nói riêng và đồng bào các dân

tộc thiểu số miền núi nói chung. Việc so sánh này cho thấy giáo dục con người

không phải là những gì sâu rộng mà bắt đầu từ điều thân thuộc nhất. Bài học

đạo lí đấy tuy quen thuộc nhưng giá trị lại quý báu như “ngọc”:

Có con nếu mà không dạy đạo

Khác nào ngọc sáng đặt nơi tối

Không biết nên thuộc thân đắng cay

32

Mở mồm cầu người thật khó thay

Việc mình ập đến thân phải chịu

Đạo làm người là triết lí nhân sinh, thể hiện thái độ, hành vi mỗi người

cần phải thực hiện trong quan hệ ứng xử với người khác. Việc ứng xử giữa các

mối quan hệ gia đình, xã hội là điều rất quan trọng, nếu sống không có “đức”

khi gặp việc khó khăn hay tai họa sẽ không có người giúp đỡ, gặp nhiều trắc trở

gian truân trong cuộc đời. Trong gia đình chữ “đạo” được thể hiện ở các mặt

như: đạo cha con yêu cầu cha phải thương con, con phải hiếu với cha; đạo vợ

chồng yêu cầu vợ chồng phải thuận hòa, chung thủy. Trong bất kì chế độ xã hội

nào, từ gia đình truyền thống đến gia đình hiện đại, việc giáo dục cho con cháu

về chữ “đạo” luôn được xác định là nết đầu trong trăm nết, là giá trị hàng đầu

của đạo làm người.

Mỗi người đều được sinh ra bởi cha mẹ, được cha mẹ nuôi dưỡng lớn khôn,

dạy dỗ nên người. Bởi thế, mỗi người con, từ trong tâm khảm đều yêu kính, biết

ơn và mong muốn được đền đáp công ơn mẹ cha. Trong ca dao người Việt quan

niệm Công cha, nghĩa mẹ được ví như “núi Thái Sơn”, “nước trong nguồn”.

Người Sán Dìu cũng tiếp nối truyền thống đạo lí đó, theo đồng bào con cái phải

“thờ mẹ”, “kính cha” mới giữ trọn đạo làm con, mới “tròn chữ hiếu”:

Nhà có vàng quý ngàn vạn lạng

Có tiền khó mua cháu con hiền

Đi học là lúc kính thánh sư

Về nhà là lúc kính mẹ cha

Làm người phải biết lễ nghĩa cao

Về sau người quý truyền biết tiếng

Đồng bào đã lấy những vật chất rất giá trị như vàng, ngọc để so sánh với

kiến thức mà con cháu học được, dù nhà có vàng quý ngàn vạn lạng cũng

không bằng ‘‘con cháu hiền’’ có chữ, có kiến thức còn quý hơn có cả kho vàng.

33

Giống với quan niệm người Việt ‘‘Cho con một thúng vàng không bằng cho

con một quyển sách’’. Tục ngữ Việt có câu “không thầy đố mày làm nên”,

người Sán Dìu cũng lấy việc “tôn sư trọng đạo” là đạo lí tốt đẹp cần gìn giữ và

phát huy cho các thế hệ. Tác giả dân gian cho rằng cho con đi học phải biết dạy

con tôn trọng, kính trọng người thầy vì người thầy đã giảng dạy, truyền dạy cho

chúng ta biết thế nào là đạo nghĩa, đạo đức, đạo học làm người và những tri

thức khác về mọi mặt của đời sống tự nhiên, đời sống xã hội...

Cũng như người Kinh, đồng bào Sán Dìu quan niệm về “kẻ sĩ” (người

thông hiểu chữ Thánh hiền, người có trí tuệ uyên bác) được xếp vào bậc cao trong

bậc thang giá trị xã hội và là mơ ước của bao người. Một người đỗ đạt là niềm

hạnh phúc, tự hào không chỉ của một gia đình, dòng tộc, mà còn của cả làng, cả

nước. Một dân tộc coi trọng trí tuệ, giáo dục như thế là một dân tộc văn hiến:

Tuy nhà sinh được người con tốt

Truyện cổ là sách gốc đời xưa

Về sau của báu ấy trong nhà

Khuyên người ghi lòng mà nhớ lấy

Có con nghìn vạn chăm đọc sách

Tác giả dân gian so sánh việc dạy con không đúng cách dẫn đến “lễ nghĩa

không biết”, như “nước lũ”, “tre già uốn không thẳng” đây là những hình ảnh

quen thuộc với cuộc sống lao động của dân tộc Sán Dìu ở miền núi:

Lễ nghĩa không biết muốn làm cao

Lời nói sai như con nước lũ

Làm bản làng mắc họa và thân

Lâu năm tre già uốn không thẳng

Phá hỏng cửa nhà thật ác nhân

Người Kinh và dân tộc Sán Dìu đều có nét tương đồng trong cách dạy

con, đồng bào cho rằng giáo dục con người phải từ khi còn trẻ thơ. Trong thành

ngữ Việt có câu ‘‘dạy con từ thửa còn thơ’’, nghĩa là phải giáo dục trẻ con ngay

34

từ khi đứa bé còn thơ dại, non nớt, vì ‘‘tre non dễ uốn’’, ‘‘non chẳng uốn, già

nổ đốt’’, ‘‘bé chẳng vin, cả gãy cành’’. Giáo dục con cháu cũng như ‘‘uốn tre’’,

tre để già uốn không thẳng như tính cách con người lớn lên ngang ngạnh khó

bảo, không biết lễ nghĩa, làm điều sai trái ‘‘tan cửa nát nhà’’.

Với người H’Mông và dân tộc Tày cũng cùng quan điểm giáo dục người

trẻ như vậy, họ cho rằng muốn con được thông minh cần phải trải qua quá trình

rèn luyện, trong tục ngữ Mông đã khái quát triết lý giáo dục nhân sinh rất sâu

sắc: “Muốn vợ khôn phải bảo/ Muốn con khôn phải rèn”. “Khéo nhủ khuyên vợ

con, xứng là trụ/ Hiếu với cha mẹ con có hậu”. Tục ngữ Tày “Thương con tập

cho con ăn đắng ăn khổ/ Hại con cho ăn mật ăn đường”. Tục ngữ dân tộc Dao:

“Cây bé uốn thẳng/ Cây cao uốn gẫy”.

Như vậy, chúng ta có thể thấy người Sán Dìu nói riêng và các dân tộc

anh em đều có chung những bài học giáo dục đạo lý cho các thành viên trong

gia đình. Xuất phát từ chính bản sắc dân tộc mình ông cha luôn muốn thế hệ

sau tiếp nối những truyền thống quý báu của dân tộc mình.

2.1.2. Giáo dục gắn với thực tiễn trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Dân tộc Sán Dìu coi trọng việc giáo dục phải gắn với thực tiễn, xuất phát

từ những điều đơn giản ‘‘mình đi đường gặp người hay, cúi đầu làm lễ kết

bạn’’, để có tri thức con người cần có quan hệ với môi trường xã hội xung

quanh. Từ đó chúng ta tiếp thu được những điều hay, lẽ phải tri thức tiến bộ

của cộng đồng. Với việc sử dụng phép điệp cấu trúc ở đầu các câu thơ, tác giả

dân gian như muốn nhấn mạnh đến giá trị đạo đức cho thế hệ trẻ. Trong việc

giáo dục cha mẹ cần nghiêm khắc không được nuông chiều con, người Việt có

câu ‘‘con hư tại mẹ, cháu hư tại bà’’, tác giả dân gian nhấn mạnh đến yếu tố gia

đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người:

Bần cùng không được nuông chiều con

Bần cùng nuông chiều không áo mặc

Nhà giàu không nên nuông chiều con

35

Nhà giàu nuông chiều rước lấy hận

Ngồi chiếu không biết chỗ mình ngồi.

Tác giả dân gian lấy việc ‘‘Ngồi chiếu’’ để nói về tính cách của con người,

“ngồi chiếu” là hình ảnh quen thuộc trong văn hóa sinh hoạt hàng ngày của

người Sán Dìu, tục này có sự phân biệt cao thấp, trên dưới, thứ tự trong các vai

vế và dòng họ trong gia đình. Với người lớn tuổi thường được xếp chỗ ngồi trên

giường và giữa nhà, xung quanh là thứ tự chỗ ngồi phù hợp độ tuổi các thành

viên khác. Xuất phát từ bản tính mộc mạc, giản dị của mình, người Sán Dìu dạy

con trẻ từ những điều nhỏ nhất trong cuộc sống. Dù thể hiện bằng hình thức nào,

đây là phong tục mang đậm bản sắc văn hóa của người Sán Dìu trong việc giữ

gìn và phát huy những nét đẹp truyền thống dân tộc mình.

Văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người Sán Dìu,

họ cho rằng con người phải biết giữ mình trong sạch, ngay thẳng trong mọi

hoàn cảnh, nhất là đối với người làm quan cần phải ‘‘tu nhân quả’’, thanh liêm

chính trực, luôn là tấm gương “tôi trung, con hiếu’’. Đồng bào cho rằng làm

quan là ‘‘dân chi phụ mẫu’’ phải có tấm lòng và yêu thương dân như con. Với

một vị quan phải có khí phách trong cuộc đấu tranh tìm ra lẽ phải, không vì ‘‘tư

tình’’ của bản thân mà xử án oan sai cho mọi người. Dân tộc Sán Dìu đề cao

chữ “đạo” trong mọi hoàn cảnh, trong gia đình ông bà vợ chồng con cái phải

sống đúng đạo nghĩa, đạo hiếu, giữa cộng đồng, xã hội sống hòa hợp theo đạo

lý. Với người làm quan đem lại sự công bằng cho mọi người nên “chọn việc”

làm tâm đạo, để không bị chi phối bởi những mối quan hệ bên ngoài làm ảnh

hưởng đến công việc, làm được như vậy trên dưới hợp lòng dân đất nước thịnh

trị, nhân dân no ấm, cửa nhà an vui:

Mười khuyên: Làm quan tu nhân quả

Pháp luật răn dạy không tương đồng

Tư tình lót mệnh đầu người rơi

Mới hay chân tình không thể dung

36

Mới lấy chọn việc làm tâm đạo

Tự có nhân quả sáng muôn nơi

Dân tộc Sán Dìu với bản tính mộc mạc, giản dị trong văn hóa xã hội mọi

người luôn yêu thương, đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn.

Vì thế trong các mối quan hệ họ thường tránh những xích mích với hàng xóm,

anh em, bạn bè ‘‘khuyên người đừng tranh việc đã qua, nhẫn được một thời

người không biết’’.

Phật giáo là một trong những tôn giáo ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống

văn hóa của người Sán Dìu, vì thế trong những câu thơ răn dạy về bài học nhân

sinh, đồng bào luôn khuyên bảo con cháu đạo làm người theo triết lí nhà Phật

không ‘‘Tham - sân - si’’, không tranh chấp, chiếm đoạt tài sản của nhau:

Chiếm ruộng đất người liền kế nhà

Xưa nay giết người oan đời sau

Đông Nhạc ngày trước khuyên Hoàng Đế

Âm phủ chẳng tha người có tội

Tác giả dân gian lấy điển tích về vị thần nổi tiếng trong văn hóa dân gian

Trung hoa là Đông Nhạc ‘‘thần cai quản Hoa Sơn (Thái Sơn), còn được gọi là

Đông Nhạc Đế Quan, Thái Sơn phủ Quân, hoặc Nhạc Đế. Vị này chưởng quản

ngũ nhạc và tất cả danh sơn của Trung Hoa. Dân gian Trung Quốc tin vị thần

này cai quản những người vừa mới chết, chưa tới chỗ Diêm Vương phán án,

hoặc đã phán án, nhưng chưa đi đầu thai. Theo Đạo Giáo, vị này quản nhiệm cả

mười vị Diêm Vương (trong Đạo Giáo còn có một vị thần là Phong Đô Đế Quân

cũng cai quản Thập Điện Diêm Vương), chủ trì họa phước của nhân gian’’[51].

Người xưa tin rằng khi còn sống làm những điều sai trái lúc chết xuống âm phủ

sẽ chịu tội, vì thế “làm người mới hay phải lẽ đạo”.

Bên cạnh sự giao thoa của các tôn giáo khác thì Phật giáo vẫn là tôn giáo

chi phối chủ yếu trong đời sống văn hóa người Sán Dìu, những bài học giáo dục

đạo đức luôn mang đậm màu sắc giáo lý nhà Phật. Vì thế người xưa khuyên dạy

37

con cháu chọn cho mình một lối sốngchính trực. Ứng xử với cộng đồng cần xuất

phát từ chữ tâm và tình, với một lối sống đúng với thuần phong mỹ tục của dân

tộc đó là những nét đẹp giá trị văn hóa tinh thần trải qua hàng trăm năm của dân

tộc Sán Dìu. Qua đó còn thể hiện quan niệm “Nhân quả báo ứng” trong Đạo phật:

Sớm sớm đãi khách có nghèo đâu

Mưu tối hại người trời có mắt

Ngày tháng soi sáng làm minh chứng

Có vậy lòng người mới ngay thẳng

Công bình chính trực được phân minh

Nếu làm những việc xấu hại nước, hại dân sẽ bị “báo ứng”, cuộc sống

không được tốt đẹp:

Bần cùng nghìn vạn đừng làm giặc

Hay đi làm giặc tan nát nhà

Làm giặc một ngày người bắt được

Vợ con bị giữ cùng bị trói

Từ xưa đường giặc người không giàu

Tác giả dân gian phê phán lối sống tầm thường của người đàn ông trong

gia đình:

Hay cùng người ngoài chàm đánh bạc

Đánh bạc uống rượu chẳng dừng tay

Hôm nay bạc đến mai lại đi

Tiền của đánh hết tan cửa nhà

Cho dù cuộc sống có vinh hoa phú quý không nên coi thường nhau, làm

người cần cư xử theo lẽ phải, tôn trọng và yêu thương nhau:

Phú quý vinh hoa được mấy năm

Bất luận lúc sống hay khi chết

Cũng nên hành xử theo lẽ phải

Làm người cùng nhau kết lễ nghĩa

38

Trong lòng mến khách người tốt hiểu

“Mến khách” là một trong những đức tính đáng quý của đồng bào, người

Sán Dìu quan niệm nếu gặp nhau quý mến kết nghĩa được coi như người anh

em, con cháu trong gia đình.

Đồng bào chú trọng việc giáo dục những đức tính chăm chỉ, cần kiệm

cho mỗi người và ứng xử với môi trường tự nhiên hài hòa. Bởi vì người Sán

Dìu canh tác nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên nên đồng bào

cần tích lũy những tri thức về thời tiết, khí hậu để gieo trồng đúng thời vụ, cho

năng suất cao nhất:

Cày cấy kịp thời thân đủ no

Vợ chồng con cái được sum vầy

Đừng nên học kẻ lười lao động.

Bối cảnh xã hội hôm nay có sự tác động cả yếu tố tích cực và tiêu cực từ

văn hóa ngoại lai. Văn hóa hiện đại và truyền thống có sự đan xen lẫn nhau,

song đồng bào vẫn lưu giữ được nhiều nét văn hóa cổ truyền để dạy bảo các thế

hệ con cháu của dân tộc mình. Việc bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa

dân gian trong bối cảnh xã hội hiện đại là điều cần thiết, bởi con người cần biết

và trân trọng cội nguồn của dân tộc mình.

2.1.3. Mười điều khuyên về mối quan hệ trong gia đình.

Trong văn học dân gian Sán Dìu có rất nhiều những câu thơ, ca dao nói

về đạo đức, lối sống và đúc kết ở trong đó phải kể đến truyện thơ Mở trời dựng

đất. Là những câu thơ đưa ra những kinh nghiệm sống, những lời răn dạy, bài

học giáo dục cho các thế hệ đây cũng là nơi thể hiện những phẩm chất đẹp đẽ

của người Sán Dìu về lẽ sống, lối sống, về những phẩm chất cao quý của con

người, đưa ra những lời khuyên bổ ích về mọi lĩnh vực của cuộc sống. Mỗi câu

thơ là những lời khuyên đúng đắn, được đúc rút từ cuộc sống thực tế nên có ý

nghĩa giáo dục sâu sắc.

39

Lòng hiếu thảo là đức tính tốt đẹp của người Việt Nam, điều đó được thể

hiện đầy đủ, sinh động trong ca dao, lời ca về công cha nghĩa mẹ, về chữ hiếu

và chữ đạo đối với các con như:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

(Ca dao người Việt)

Dân tộc Sán Dìu quan niệm đạo hiếu là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn

và lòng mong muốn làm những việc tốt đẹp đối với ông bà, cha mẹ. Vì vậy, giáo

dục chữ hiếu từ chính gia đình là có vai trò rất quan trọng giúp mỗi con người có

nền tảng đạo đức để trở thành một công dân tốt. Bầu không khí của gia đình,

cách ứng xử của mỗi thành viên có ảnh hưởng trực tiếp tới tâm lí, tình cảm của

mỗi người. Vì vậy, cần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp từ mỗi thành viên trong

gia đình, các bậc lớn tuổi sống mẫu mực để con cháu noi theo, vợ chồng hạnh

phúc, thương yêu con cái. Đó là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng sâu sắc nhất

đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Từ đây, chữ “Hiếu”

được hình thành thông qua quan hệ huyết thống bền chặt.

Mở đầu tác phẩm là lời răn dạy về công ơn cha mẹ và bổn phận của con

cái. Để làm tròn bổn phận, khi cha mẹ còn sống, con cái phải vâng theo lời dạy

bảo của người, yêu mến, tôn kính và chăm sóc, phụng dưỡng hai thân; với tổ

tiên thể hiện lòng tôn kính, biết ơn đối với tiền nhân thông qua thực hành nghi

lễ thờ cúng:

Một khuyên noi theo nhớ điều xưa

Hãy nhớ cha mẹ sinh thời nuôi

Nhà có vàng quý nghìn vạn lạng

Có tiền khó mua thân bố mẹ

40

Tác giả sử dụng hình ảnh “vàng, bạc” là những vất chật quen thuộc

nhưng có giá trị trong cuộc sống để so sánh với “cha mẹ” cho ta thấy “công

cha, nghĩa mẹ” lớn lao vô tận đến nhường nào. Những lời thơ giản dị nhưng

chứa đựng trong đó là một triết lí nhân sinh cao đẹp “có cha mẹ còn quý hơn

nghìn vạn lạng vàng”. Đây là bài học làm người đầu tiên mà mỗi người con cần

biết và hiểu về cội nguồn của mình. Cha mẹ sinh con ra nuôi con mau lớn thành

người, tình yêu thương và tấm lòng cha mẹ dành cho con là vô tận, công ơn đó

là có nghìn lạng vàng cũng không thể mua được, tiền vàng không phải là thứ

tồn tại vĩnh cửu nó có giá trị nhất định, còn đối với cha mẹ là công lao trời biển

và như trong ca dao Việt Nam đã dùng sự so sánh kỳ vĩ của vũ trụ, đất trời để

nói về “công cha nghĩa mẹ”.

Không chỉ riêng người Sán Dìu, người Tày quan niệm đạo làm con phải

biết nhớ ơn công lao cha mẹ đã sinh thành và nuôi dưỡng ta nên người. Trong

tục ngữ người Tày đã dùng hình ảnh hùng vĩ về núi sông để nói về công lao to

lớn của cha mẹ: “Khúy mạ khửn keng chắng chắc công pèng pò mè/ Cười ngựa

lên đèo cao mới biết công lao cha mạ” (tục ngữ Tày).

Bên những trang thơ còn thấm đẫm nỗi vất vả vị mặn mồ hôi, những giọt

sữa nóng mẹ nuôi dưỡng con nên người đó còn là những hy sinh thầm lặng, cơ

cực, đắng cay nhọc nhằn mẹ đã trải qua đều vì các con được miêu tả trong ca

dao người Việt: “Nhớ ơn chín chữ cù lao/ Ba năm bú mớm biết bao thân tình”.

Trong truyện thơ Mở trời dựng đất tác giả dân gian đã khắc họa người mẹ với

những hình ảnh chân thực của cuộc sống đời thường với bao nhọc nhằn, lam lũ,

vất vả để nuôi con khôn lớn trưởng thành:

Thấy con mắc bệnh lòng mẹ sầu

Ba ngày cơm nước không nghĩ đến

Người mẹ thấy con bệnh được khỏi

Gọi con đến gần lòng vui sướng.

41

Đối với mẹ niềm hạnh phúc là được nhìn con ngủ ngon giấc trong vòng

tay ấm áp của mình và những tháng ngày mẹ dõi theo con khôn lớn lên người:

Tay trái bế con đặt xuống ngủ

Bên phải bị ướt phần mẹ nằm

Trái phải hai bên cùng ướt hết

Hai tay nâng con đặt vào lòng.

Văn học là tấm gương phản ánh sinh động về đời sống, “người mẹ” là

một trong những nguồn cảm hứng vô tận trong sáng tác văn chương. Trong ca

dao Việt “nghĩa mẹ” được khắc họa một cách mộc mạc giản dị và chân thực về

những vất vả mẹ đã trải qua để nuôi con khôn lớn: “Nuôi con chẳng quản chi

thân/ Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn” (Ca dao - người Việt).

Công lao trởi biển của cha mẹ sao có thể kể hết bằng lời, tác phẩm đã viết

lên những dòng thơ hàm súc ẩn chứa trong đấy là triết lý đạo làm con phải tròn

chữ hiếu. Hiếu là hiếu thuận, hiếu nghĩa, cách cư xử sao cho kính trọng, yêu

thương, thấu tình đạt lý. Đây cũng là cách sống, cách thức làm người hợp đạo

lý mà người Sán Dìu muốn răn dạy thế hệ con cháu của mình.

Người Sán Dìu gửi gắm những điều khuyên này vào trong từng trang thơ

để nhắc nhở, bảo ban con cháu sống đôn hậu, kính trên nhường dưới, đối với

cha mẹ nuôi con bao thân khổ khôn lớn thành người biết ơn sâu:

Bố mẹ không thân người ngoài thân

Không kính cha mẹ còn kính ai

Từ thấu hiểu cuộc sống, đúc kết thành những bài học sâu sắc cho thế hệ

con cháu về kính trọng tổ tiên, ông bà, cha mẹ. khi còn sống không hết lòng

phụng dưỡng, sau khi cha mẹ qua đời lại làm đáng tang thật to, nhằm khoe

khoang sự giàu có và hiếu thảo của mình: “Sống thì con chẳng cho ăn/ Chết thì

xôi thịt làm văn tế ruồi” (Cao dao - người Việt). Những tiếng khóc khi ấy chỉ

để “quỷ thần nghe” vì thế nhớ về tổ tiên, thảo kính cha mẹ, biết ơn về cội

nguồn là những điều đáng trân trọng con cháu sẽ đức vẹn hiền:

42

Bố mẹ còn sống không qua lại

Chớ nên đi rồi sớm quay đầu

Kính phụng còn sống mẹ cùng cha

Sẽ thấy con cháu đức vẹn hiền

Bố mẹ sống được trăm năm hiếm

Sinh thời không kính chết rồi thương.

Người Sán Dìu răn dạy khuyên bảo con cháu mình về nguyên tắc sống

ngàn đời chẳng bao giờ phai, cây muốn có trái ngọt thì không thể không có

người trồng, chăm sóc, cũng giống như chúng ta không thể sinh ra nếu không

có tổ tiên. Mỗi con người lớn lên đều được cha mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc yêu

thương dạy bảo cách sống nên người. Với mỗi người con sống tròn đạo hiếu,

với tổ tiên thắp nén tâm hương, nhớ về nguồn cội, tri ân tổ tiên với tất cả tấm

lòng thành kính của mình.

Văn hóa gia đình là giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam,

mối quan hệ giữa các thành viên trong ra gia đình tạo nên sức mạnh, đoàn kết,

lòng dũng cảm, tinh thần tự lực, biết chịu đựng và kiên nhẫn. Tất cả những bản

chất này đã được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài trong đời sống gia

đình. Văn học là tấm gương phản chiếu những nét đẹp truyền thống văn hóa gia

đình như trong văn học dân gian với các thể loại ca dao, tục ngữ, thành ngữ,

truyện thơ, phản ánh đầy đủ các mối quan hệ giữa các thành viên. Người Sán

Dìu luôn coi trọng các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ vợ chồng, điều này

phản ánh sinh động trong truyện thơ Mở trời dựng đất. Tác phẩm miêu tả đầy

đủ và sâu sắc về các mối quan hệ gia đình, xã hội của dân tộc Sán Dìu.

Mối quan hệ giữa vợ chồng được thể hiện qua truyện thơ ở các lời

khuyên răn dạy như đối nhân xử thế cho phải đạo. Nhân duyên vợ chồng là do

trời chủ định gắn kết giữa hai người cùng chung sống và xây dựng hạnh phúc

gia đình. Tác giả dân gian luôn khuyên dạy dù tốt xấu phải nhường nhịn, người

43

vợ giống như người giữ lửa trong gia đình, vợ chồng hiếu thuận trong nhà sinh

quý tử, của nhà ngăn nắp, gia đình hạnh phúc:

Nhân duyên vợ chồng do trời định

Tốt xấu biết nhịn lấy nhân duyên

Hiếu thuận trong nhà sinh quý tử

Mệnh tốt được vậy nhờ phúc tổ

Vợ tốt tự nhiên chồng được sang

Con hay là thứ cha mẹ nhờ

Cửa nhà ngăn nắp ấy vợ hiền.

Từ những lời răn dạy trong mối quan hệ gia đình, tác giả mở rộng về

việc cai trị đất nước, một nước có quân vương tốt thì đất nước sẽ thái bình

thịnh trị, mọi việc tự sẽ an:

Trị quốc tận gốc quân vương tốt

Nước có quân tốt nước tự an

Cùng với đó là những lời răn đe trong các mối quan hệ, tranh vợ, tranh

chồng, chiếm đoạt ruộng đất, phú quý vinh hoa tự lụi. Bất luận ở mọi hoàn cảnh

phải hành xử theo lẽ phải, hành xử theo lễ nghĩa, làm tròn bổn phận của mỗi người:

Tranh vợ người, chiếm ruộng người ta

Phúc quý vinh hoa được mấy năm

Bất luận lúc sống hay khi chết

Cũng nên hành xử theo lẽ phải

Văn hóa gia đình người Sán Dìu rất coi trọng tình nghĩa, tình cảm. Với

gia đình tình yêu thương của vợ chồng là sợi dây gắn kết thiêng liêng, bền chặt

giữa các mối quan hệ, trong nhà có vợ hiền lo cơm canh khách trông thấy cũng

mát dạ, vợ tốt tự nhiên chồng được sang:

Trong nhà vợ hiền lo cơm canh

Phàm gì làm lễ nên giản dị

Đừng nên tiếp đón nói dài ngắn

44

Khách thấy chủ nhà lòng vui mừng

Lấy làm thức uống lòng mát dạ

Từ mối quan hệ trong gia đình đến quan hệ với xã hội giữa các thành viên

trong làng xã luôn coi trọng tình đoàn kết, họ lấy đó làm gốc, bởi vậy khi xảy ra

những hiềm khích nhỏ họ dễ dàng xuê xoa bỏ qua. Vì thế trong tác phẩm có rất

nhiều câu thơ răn dạy con người phải sống theo đạo lý, người giàu đừng khinh

người nghèo, anh em láng giềng sống hòa thuận, từ đó để phát triển cộng đồng

dân tộc tương thân tương ái giúp đỡ đùm bọc nhau vượt qua mọi khó khăn để

xây dựng một tập thể vững mạnh. Thế hệ đi trước luôn là những tấm gương sáng

để con cháu noi theo phát huy những giá trị tốt đẹp truyền thống dân tộc mình:

Khuyên người phú quý đừng kinh nhau

Ngày tháng luân hồi khó đoán được

Làm người cần nhớ đừng khinh thường

Đọc tận cân nhắc biết nông sâu

Những lời khuyên về mối quan hệ vợ chồng trong tác phẩm cho ta thấy

một hình ảnh dân tộc Sán Dìu giàu truyền thống gia đình, văn hóa, lòng mến

khách với tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giúp đỡ nhau cùng chung tay

xây dựng một dân tộc vững mạnh.

2.2. Văn hóa ứng xử trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Đã trải qua hơn 300 năm người Sán Dìu có mặt và xây dựng phát triển ở

đất nước Việt Nam. Từ đó văn hóa ứng xử của người Sán Dìu được hình thành

trong quá trình giao với văn hóa người Việt. Nét đẹp trong văn hóa ứng xử

được đồng bào lưu giữ, truyền lại từ đời này sang đời khác. Ở thời đại nào thì

việc giao tiếp ứng xử là rất quan trọng. Bởi qua đó tạo nên các mối quan hệ đẹp

có đạo đức, văn hóa, giữa cộng đồng dân cư, gia đình, tình bạn, tình yêu và

trong công việc…

45

Truyện thơ Mở trời dựng đất tác giả dân gian không chỉ nói về nét đẹp

văn hóa ứng xử trong gia đình mà mở rộng ra là cả xã hội. Và đó như một sợi

dây gắn kết cả dân tộc yêu thương để chùng tay xây dựng phát huy những giá

trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.

2.2.1. Văn hóa ứng xử trong gia đình

Dân tộc Sán Dìu canh tác nông nghiệp là chính, trong quá trình tiếp xúc

và giao lưu với nền văn hóa lúa nước của người Việt cùng các dân tộc anh em

khác, từ đó đồng bào đã hình thành và bảo tồn những nét văn hóa riêng cho dân

tộc mình, cũng giống như văn hóa Việt, người Sán Dìu lấy gia đình làm gốc rễ

cho mọi mối quan hệ. Với đồng bào gia đình có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng.

Bởi đó là nơi nuôi dưỡng các thành viên khôn lớn, trưởng thành.

Trong mối quan hệ ứng xử gia đình người Sán Dìu có những cấm kỵ nhất

định như “giữa bố chồng và con dâu, giữa anh chồng và em dâu có sự cấm kỵ

rất nghiêm ngặt. Con dâu không được ngồi ăn cùng mâm với bố chồng và anh

chồng, thậm chí không được dùng chung một chậu rửa mặt, không được uống

chung một ấm nước. Con dâu muốn đưa con cho bố chồng hoặc anh chồng bế

hộ cũng không được đưa trực tiếp, mà phải đặt đứa bé xuống đâu đó rồi bố

hoặc anh chồng mới bế. Bố chồng và anh chồng cũng không bao giờ được vào

phòng con dâu, kể cả khi con dâu không có mặt ở trong phòng”[13,tr.83].

Trong tác phẩm xuất hiện nhiều lời khuyên răn dạy cho nữ giới để làm

tròn trách nhiệm và vai trò của người phụ nữ trong gia đình:

Hai khuyên: thế gian gái, dâu, vợ

Kính phụng cha mẹ cùng bề trên

Sớm chiều chậu nước đến rửa mặt

Một chiếc khăn để trước cửa nhà

Cha mẹ rửa xong ngồi trên phản

Pha trà hai chén đến rót mời

46

Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Khổng giáo, nhưng người

Sán Dìu rất coi trọng mối quan hệ anh chị em trong gia đình, họ lấy anh em hòa

hợp, hiếu thuận là cái gốc cho mọi mối quan hệ ứng xử trong gia đình, nó như

sợi dây gắn kết gia đình trở nên bền chặt:

Anh em thời hòa nhà chẳng suy

Chị em thời hòa nhà chẳng phân

Anh em sinh cùng bào thai mẹ

Anh em cốt nhục hòa thuận tốt

Cũng như văn hóa người Việt trong mối quan hệ gia đình “anh em thuận

hòa là nhà có phúc”, với người Sán Dìu anh em trong gia đình luôn được cha

mẹ dạy bảo luôn yêu thương đùm bọc lẫn nhau để cùng vượt qua khó khăn gian

khổ trong cuộc đời:

Anh em có việc qua lại giúp nhau

Có sự đừng nên nói người ngoài

Người Sán Dìu rất kiêng kị việc anh em xảy ra mâu thuẫn, anh em hòa

hiếu luôn là tấm gương sáng để các thế hệ con cháu noi theo và phát huy truyền

thống gia đình:

Nghĩ lại đều là cùng mẹ sinh

Người mạnh đừng nên khinh người yếu

Người yếu đừng nên thách người mạnh

Thân có anh em cùng nghênh tiếp

Lấy đuốc mà soi sáng trước mặt.

Ông, cha luôn khuyên răn anh em hòa thuận, với tất cả các mối quan hệ

thì gia đình là quan trọng nhất, người ngoài khi có nhiều rượu thịt lắm anh em,

còn khi hoạn nạn không thấy mặt một người: “Có rượu thịt nhiều anh em/ Cấp

nạn sao thấy mặt một người”. Giống như trong ca dao người Việt: “Lúc khó thì

chẳng ai nhìn/ Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em”. Tục ngữ người Mông:

47

“Bạn tốt tráng một quả trứng ăn không hết/ Bạn xấu mổ trâu ăn không đủ”. Có

thể thấy không chỉ riêng người Sán Dìu mà các dân tộc anh em đều coi trọng

lối văn hóa ứng xử “thấu tình đạt lí”. Bởi vì xuất phát từ sự chi phối trong Phật

giáo con người đối xử với nhau dựa trên chữ “tâm” và “tình”.

Qua đó chúng ta có thể thấy dân tộc Sán Dìu trong văn hóa ứng xử gia

đình đều được xây dựng bằng tình yêu thương, sẻ chia, giúp đỡ nhau vượt qua

gian khổ. Chính vì thế tác giả dân gian khuyên dạy các thành viên trong gia

đình phải sống làm sao có đạo đức, phải biết tha thứ, khoan dung đó là quan

niệm ứng xử rất nhân văn của người Sán Dìu.

2.2.2. Văn hóa ửng xử ngoài xã hội

Dân tộc Sán Dìu gia nhập vào đại gia đình các dân tộc Việt Nam trong

những thế kỷ muộn gần đây, và đã chịu chung sự chi phối của hoàn cảnh chính

trị - xã hội như các dân tộc khác trên đất nước này. Đồng bào cùng các dân tộc

anh em luôn đoàn kết để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước.

Không gian cư trú của dân tộc Sán Dìu gắn liền với không gian văn hóa

làng. Trong không gian một làng xã, các thành viên trong cộng đồng đều có họ

hàng với nhau, hay ít ra cũng có quan hệ hôn nhân. Do vậy, người cách xa

nhiều đời nếu gặp lại nhau chỉ cần hỏi tên đệm là nhận ra người trên kẻ dưới

theo thứ bậc chữ đệm trong dòng họ. Người Sán Dìu quan niệm chỉ cần đồng

tộc cũng đủ để quý mến nhau và thiết đãi như người anh em bằng cả tấm chân

tình, cho nên có câu “San déo lỏng si” với ý nghĩa người Sán Dìu ít ỏi, nên phải

yêu thương, đùm bọc, che chở lẫn nhau:

Sáu khuyên: láng giềng lân gần xã

Đừng nên ngoảnh mặt đấu lưng nhau

Người đi người nhà nói chuyện mình

Mình đi người nhà nói chuyện vui

Cũng giống như quan niệm của người Việt về tình làng, nghĩa xóm ‘‘Họ

hàng xa, không bằng láng giềng gần’’. Người Sán Dìu rất coi trọng tinh thần

48

tương thân, tương ái giữa các thành viên trong làng, xã, họ coi nhau giống như

anh em và ứng xử như những người thân trong gia đình. Đồng bào luôn trợ

giúp lẫn nhau trong mọi công việc của cộng đồng cũng như công việc lớn của

từng thành viên trong làng:

Cứu hỏa trông cậy đến láng giêng

Gọi thuyền trông cậy người đi sông

Láng giềng như thể cốt nhục thân

Đừng nên to tiếng mắc tội người

Lấy tình thân ‘‘cốt nhục’’ làm cơ sở để xây dựng các mối quan hệ trong

cộng đồng, vì vậy văn hóa ứng xử xã hội đồng bào thường tránh xảy ra những

mâu thuẫn, cãi cọ, xích mích, họ luôn nhường nhịn, yêu thương và kính trọng

lẫn nhau. Trong đó người Sán Dìu đã vận dụng khéo lẽo chữ “nhẫn” của Phật

giáo ở các mối quan hệ xã hội:

Ít nhiều phải trái nên nhường nhịn

Nhẫn được một giờ sau khỏi lo

Truyện thơ Mở trời dựng đất tác giả dân gian đã khái quát lên những câu

thơ răn dạy mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối

nhân xử thế, lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời:

Mua quần áo tốt mặc lên người

Trên đời bây giờ nhiều người thiển cận

Nhìn vào quần áo không nhìn người

Có tiền có rượu nhiều anh em

Quân tử không lấy tiền làm thân.

Mỗi dân tộc đều có những văn hóa ửng xử với gia đình và cộng đồng

khác nhau. Với người Sán Dìu là mối quan hệ trọng tình nghĩa, xuất phát từ bản

chất mộc mạc giản dị của đồng bào. Người Sán Dìu luôn chú trọng đến việc

bảo tồn và phát huy nét đẹp bản sắc văn hóa mình. Vì vậy lời khuyên dạy về lối

49

ứng xử trong truyện thơ Mở trời dựng đất như là một tấm gương sáng trong

việc giữ gìn đạo đức, phong tục người Sán Dìu.

2.3. Bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Bản sắc văn hóa Sán Dìu được thể hiện một cách sinh động qua việc

phản ánh các phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa tinh thần của đồng bào

đồng bào dân tộc thiểu số miền núi nói chung và đồng bào dân tộc Sán Dìu nói

riêng. Bản làng đồng bào Sán Dìu hiện lên với khung cảnh mùa xuân tươi đẹp,

những ngày trong tiết trời tháng ba tết Thanh minh cả gia đình sum họp bên

nhau, trò chuyện bên bếp lửa, có những người con xa quê luôn tưởng nhớ về

cội nguồn của mình… Không những thế, mùa xuân trên miền núi xanh tươi còn

được khắc họa với các lễ hội điều đó cho thấy đời sống văn hóa tinh thần vô

cùng phong phú và độc đáo của người Sán Dìu.

Có thể nói rằng, truyện thơ Mở trời dựng đất là sự hội tụ đầy đủ và tươi

đẹp nhất các phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa, tinh thần của đồng bào dân

tộc Sán Dìu. Đi sâu vào tìm hiểu bản sắc hóa chúng ta sẽ thấy những lớp trầm

tích về lịch sử, về văn hóa được bảo lưu qua lời ăn tiếng nói, qua phong tục tập

quán và văn hóa ứng xử. Mỗi dân tộc đều có những nét riêng, đó là nét đặc thù

mang dấu ấn văn hóa Sán Dìu.

2.3.1. Tín ngưỡng dân gian trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Do tiếp xúc giữa văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, dân tộc Sán Dìu chịu

ảnh hưởng các tôn giáo lớn như Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo. Đây là những

tôn giáo đã trộn hòa thành tín ngưỡng dân gian của người Sán Dìu. Vì thế dân

tộc Sán Dìu cũng như người Việt, đều lấy việc thờ cúng tổ tiên là chính, bên

cạnh đó người Sán Dìu còn thờ một số vị thần và ma khác nữa. Vì vậy trong

vạn thần miếu của đồng bào còn thờ một số vị thần của Phật giáo, Lão giáo và

Khổng giáo.

“Tín ngưỡng là một hình thái biểu thị đức tin - niềm tin của con người và

của cộng đồng người ở một trình độ phát triển xã hội và nhận thức nhất định vào

50

một sự vật thiêng liêng, cao cả, cái đáng sùng kính trong thế giới người hoặc thế

giới siêu nhiên nào đó…Mỗi dân tộc có những tín ngưỡng riêng thể hiện bản sắc,

tập tục của dân tộc mình. Nhìn chung, các tín ngưỡng đều mang tính chất cộng

đồng, hướng thiện và có sức sống lâu bền”[52].

Việc giao thoa giữa các nền văn hóa tạo nên những yếu tố tín ngưỡng dân

gian độc đáo cho dân tộc Sán Dìu. Ảnh hưởng sâu đậm nhất là Đạo giáo, Khổng

giáo, Phật giáo, người Sán Dìu không có chùa chiền, nhưng cũng có một số

người thờ Phật Bà Quan Âm trong nhà và coi Phật là một thứ linh thiêng và có

nhiều phép lạ. Khổng giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và

quan hệ xã hội của người Sán Dìu. Bởi thế người Sán Dìu đề cao quan hệ vua -

tôi, cha - con, vợ - chồng, hiếu với cha mẹ, tam tòng tứ đức.

Trong truyện thơ Mở trời dựng đất ảnh hưởng của Phật giáo được thể

hiện rất rõ trước hết là ở tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đây là một nét đẹp trong

tôn giáo tín ngưỡng có giá trị giáo dục sâu sắc cho mọi thế hệ, và thể hiện

truyền thống “uống nước nhớ nguồn” trong văn hóa người Việt.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian, gắn

liền với tập tục văn hoá, đạo đức trên cơ sở của niềm tin cho rằng, tổ tiên đã

chết sẽ che chở, phù hộ cho con cháu, được thể hiện thông qua nghi lễ thờ cúng

theo quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi con người, của từng gia đình và

cộng đồng xã hội. Tục thờ cúng tổ tiên của người Sán Dìu thể hiện nghĩa cử

cao đẹp, tính nhân văn sâu sắc đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh

của dân tộc Sán Dìu.

Thờ cúng tổ tiên không chỉ là nghi lễ thờ cúng, mà qua đó còn nói về một

“mối liên hệ” giữa người ở thế giới hiện tại và linh hồn của tổ tiên thế giới bên

kia. Người Sán Dìu quan niệm khi người mất sẽ chia ra làm hai phần là hồn và

xác, phần hồn ma sẽ được thờ cúng trên bàn thờ tổ tiên. Người Sán Dìu rất coi

trọng việc thờ cúng, một trong những biểu hiện của việc chăm sóc mồ mả tổ

tiên đó chính là lễ tảo mộ trong tết Thanh minh. Ngày lễ được diễn ra vào 3/3

51

âm lịch hàng năm, người Sán Dìu thường cắm cờ trắng lên các ngôi mộ, dọn

dẹp sạch cỏ và đắp thêm đất mới cho ngôi mộ. Sau đó các gia đình dòng họ sẽ

tập trung tại nhà trưởng tộc để làm lễ vật dâng lên tảo mộ và chủ trì bữa cơm

cúng tổ tiên khi đã tảo mộ xong:

Còn đó mộ mới cùng mộ cũ

Mộ mới trên đỉnh thêm đất mới

Mộ cũ trên mồ cỏ lên xanh.

Ngoài ra người Sán Dìu còn thờ một số vị thần như thờ Tam Thanh, thờ

Tổ sư, những người làm thầy cúng hay thờ những nhân vật này. Bàn thờ Tam

thanh đặt ở một nơi riêng và cao hơn bàn thờ tổ tiên, bàn thờ Tổ sư được làm

đơn giản hơn và đặt ngang hàng với ma tổ tiên và ông Táo. Cùng với đó là một

số ma được thờ trong nhà như ma Mụ để xin bảo hộ cho trẻ con không bị sài

đẹn, đau yếu.

Do ảnh hưởng của Đạo phật nên người Sán Dìu rất tin ở thuyết Luân hồi,

tác giả dân gian sử dụng những hình ảnh quen thuộc trong tự nhiên và cuộc

sống lao động của đồng bào để so sánh về quy luật “Sinh - Lão - Bệnh - Tử”,

“người không già - hoa chẳng tàn”, “người không sinh tử - trăng không sáng”,

“lá ngô đồng rụng - rễ vẫn còn ở lại”:

Người không già thời hoa chẳng tàn

Người không sinh tử trăng không sáng

Trăng qua năm sáng sủa ít

Người đến trong năm vạn ngừng thôi

Ngô đồng rụng lá rễ ở lại

Người sống một thời mất dấu tích

Trong rừng trúc mọc sinh măng non

Trong rừng cây cối cành tái sinh.

“Sinh - Lão - Bệnh - Tử” theo triết lí nhà Phật đây là những quy luật ngàn

đời của tạo hóa, mà trong cuộc đời mỗi con người đều trải qua, đó như một lẽ tự

52

nhiên. Mỗi người đều sinh ra, lớn lên và trưởng thành khi về già ốm đau bệnh tật,

rồi qua đời. Sau khi kết thúc thì nó lại tiếp tục quay lại một vòng “Sinh - Lão -

Bệnh - Tử mới”, “trúc già - sinh măng non”, “cây cối - cành tái sinh”.

Người Sán Dìu còn tin vào luật “nhân quả” trong Đạo phật, họ quan niệm

rằng “nhân quả báo ứng” nếu làm được những việc thiện sẽ có quả báo tốt đẹp,

còn làm điều xấu xa tội lỗi sẽ phải chịu nhiều quả báo đau khổ. Dân tộc Sán

Dìu rất coi trọng gia đình với họ nếu bất hiếu là tội lớn đời sau con cháu không

trả đủ nghiệp nợ. Vì thế hiếu thuận với ông bà, cha mẹ là cái gốc của sự lương

thiện là điều cốt lõi để xây dựng mối quan hệ gia đình bền vững:

Bố mẹ sinh thời không tôn kính

Đời sau con cháu kính ba sông

Theo quan niệm của dân tộc Sán Dìu, thế giới có ba cõi (tầng): ‘‘thiên -

địa - nhân’’. Cõi thứ nhất, thiên là cõi trời, nơi ngọc hoàng và các vị thần thánh.

Cõi thứ hai là cõi nhân hay cõi trần gian, cõi của con người và muôn vật. Theo

thuyết luân hồi nhà Phật, tùy theo mức độ công, tội, tu nhân, tích đức khi còn

sống ở kiếp trước, sau khi chết con người được đầu thai thành người hay muôn

vật ở cõi trần gian. Vì thế trong mối quan hệ xã hội, họ tin rằng nếu người phú

quý khinh thường người nghèo khổ, ngày tháng luân hồi đời sau sẽ phải chịu

nhiều khổ cực:

Khuyên người phú quý đừng khinh nhau.

Ngày tháng luân hồi khó đoán được

Trên rừng cây cối có dài ngắn,

Nguồn nước chảy ra có thấp cao.

Như vậy, ta có thể thấy tín ngưỡng dân gian của người Sán Dìu chịu ảnh

hưởng của các tôn giáo khác nhau nhưng đồng bào biết chọn lọc tinh hoa của

các tôn giáo đó để làm giàu cho tín ngưỡng văn hóa dân tộc mình.

53

2.3.2. Phong tục, tập quán trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Với mỗi dân tộc có một phong tục tập quán khác nhau, điều đó làm nên

bản sắc văn hóa riêng cho mỗi dân tộc. Tìm hiểu những giá trị truyền thống đó

cho chúng ta cái nhìn bao quát về lịch sử văn hóa của các dân tộc. Người Sán

Dìu làm nông nghiệp đã từ rất lâu đời, do đó đồng bào đã tích lũy được nhiều

kinh nghiệm lao động và sản xuất. Dân tộc Sán Dìu cũng như người Việt quan

sát các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên để biết thời tiết phục vụ cho canh tác

nông nghiệp.

“Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình

thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa

nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố

định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt

động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững

và tương đối thống nhất”[40].

“Tập quán được hiểu là lối sống của một tập thể, tổ chức hoặc quần thể

sinh vật lớn được hình thành như một thói quen trong đời sống, sản xuất, sinh

hoạt được công nhận và coi như một quy ước chung của tất cả mọi cá nhân

sống trong tổ chức, quần thế đó”[41].

Như đã biết, người Sán Dìu sống tập trung chủ yếu ở vùng trung du, phía

Bắc châu thổ sông Hồng. Nơi đó rất thuận tiện cho việc canh tác nông nghiệp

của đồng bào. Trải qua nhiều năm sinh sống trên mảnh đất hình chữ S, đồng

bào đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất. Điều thể hiện trong chu

kỳ sản xuất và tái hiện dưới các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian của người

Sán Dìu.

Dân tộc Sán Dìu có vốn văn hóa dân gian khá phong phú, thể hiện ở các

phong tục, tập quán, lễ nghi của họ đã có từ rất lâu đời. Trong truyện thơ Mở

trời dựng đất ở lời khuyên thứ năm tác giả dân gian thể hiện nét độc đáo về

phong tục canh tác nông nghiệp của dân tộc mình:

54

Năm khuyên: Đời sau chăm cày cấy

Giản dị cần kiệm cửa nhà vinh

Có tiền khó mua cánh đồng ruộng

Cũng như nhiều dân tộc khác ở nước ta, sau khi ăn tết Nguyên đán đồng

bào bắt tay vào công việc trồng trọt và thu hoạch mới. Để bắt đầu một vụ mùa

mới người Sán Dìu thường có phong tục làm lễ Ra đồng, nghi lễ này được tổ

chức vào đầu tháng giêng trong khoảng từ mùng 5 - 8 tết:

Năm canh gà gáy năng dậy sớm

Trời xuân tiết đến sớm cày ruộng

Sau những ngày đón tết vui vẻ, để bắt đầu mọi công việc, đặc biệt là công

việc đồng áng trong năm mới, người Sán Dìu tiến hành tổ chức lễ cúng các vị

Thành hoàng tại đình làng với mục đích làm vừa lòng mong tiếp tục được các

lực lượng siêu nhiên phù hộ. Các hộ dân trong làng hàng năm thay phiên nhau

đứng ra lo liệu lễ vật. Sau khi mâm lễ được đặt lên, ông chủ nhang thực hiện

các nghi thức cúng thần như: đọc sách cúng để tạ các Sơn thần, Thổ địa cai

quản dân làng, mời các thần về hưởng lễ và báo cáo ngày tết đã hết nay dân

làng làm lễ cúng cầu mong các vị thần tiếp tục phù hộ cho dân làng khỏe mạnh,

mùa màng bội thu:

Trên trời hợp thời mưa gió thuận

Dưới đất hài hòa trăm cỏ mọc

Kết thúc buổi lễ đại diện các hộ gia đình trong thôn cùng ăn bữa cơm

cộng cảm đầu xuân năm mới, và từ nay dân làng được phép ra đồng tiến hành

sản xuất. Theo quy định của người Sán Dìu không ai được phép xuống đồng

trước khi làm lễ tại đình bởi họ cho rằng làm như vậy là động thổ, ảnh hưởng

đến các vị thần thánh dẫn đến các hiện tượng mất mùa, sâu bệnh, dân làng gặp

những điều tai ương... Sau khi các nghi lễ hoàn thành, mọi người trong làng

thường mang theo lễ vật ra đình thắp hương để xin lộc đầu xuân năm mới. Lễ

Ra đồng thực chất là nghi lễ mở cửa đình đầu năm mới nhằm cầu mong các vị

55

thần thánh phù hộ cho một năm an lành, tránh được những tai họa, dân làng

khỏe mạnh... đặc biệt mong ước lớn lao nhất của họ là mùa màng không bị

thiên tai, sâu bệnh.

Dân tộc Sán Dìu có tập quán gieo trồng cấy lúa trong tháng sáu, họ quan

niệm đấy là thời điểm tốt nhất trong năm để tiến hành canh tác vụ mùa thứ hai

trong năm, khi lúa đang lên, đồng bào có tục làm lễ cúng thần Lúa, thành

Hoàng, để cầu mong mưa thuận gió hòa, dưới ruộng lúa nhiều bông mẩy, trên

nương cây trái, hoa màu kết trái, nhiều củ:

Mùa hạ đến gần tiện ngâm thóc

Lúa sớm đừng để quá mùa hè

Phú quý đến sớm phần do mình

Bần cùng chịu khó yêu cày cấy.

Có thể thấy không chỉ riêng đồng bào Sán Dìu, trong lao động sản xuất

bằng kinh nghiệm quan sát đời sống dân tộc Mông cũng đúc kết được nhiều tri

thức dân gian trong tục ngữ Mông: “Trời xanh thì nắng/ Mây đen thì mưa”.

Trong trồng trọt, đồng bào Mông đã để lại những kinh nghiệm quý báu thiết

thực: “Trồng ngô chọn chân đồi/ Trồng lúa chọn cuối khe”. Tục ngữ phản ánh

khá đầy đủ những đức tính người dân lao động như cần cù, kiên trì, tinh thần lạc

quan, óc thực tế, tình yêu thương, ý thức đề cao về cái đẹp tâm hồn, về danh dự,

lòng chung thủy, từ đó làm phong phú, sinh động và tô đậm bản sắc văn hoá

Mông.

Tết Đông chí là một tục lệ quan trọng không thể thiếu của người Sán Dìu,

đồng bào coi tết Đông chí như buổi tổng kết cuối năm trong gia đình. Mọi

người tụ họp sau một thời gian dài vất vả, họ cùng nhau hát làn điệu Soọng cô

và chuẩn bị đón tết Nguyên đán. Ngày này các gia đình làm mâm lễ để thỉnh

gia tiên về thành quả lao động một năm và phù hộ độ trì cho con cháu một vụ

xuân mới thời tiết thuận lợi cho việc gieo trồng, cày cấy:

56

Cấy cày làm ruộng cần cần kiệm

Ruộng đất làm ra nhiều vàng quý

Ngày nay trước sự giao thoa giữa văn hóa hiện đại và văn hóa truyền

thống ít nhiều các phong tục, tập quán, tín ngưỡng đang dần mai một. Dân tộc

Sán Dìu luôn chú trọng lưu giữ bảo tồn di sản văn hóa và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc mình trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Trong chương hai của đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu về quan

niệm triết lý nhân sinh, tín ngưỡng dân gian, phong tục, tập quán và văn hóa

ứng xử trong truyện thơ Mở trời dựng đất. Đây là những giá trị văn hoá tiêu

biểu, nổi bật được phản ánh trong truyện thơ. Có thể thấy, bài học giáo dục đạo

lý của người Sán Dìu là sự tổng hòa của nhiều yếu tố từ văn hóa đến tín

ngưỡng, phong tục, tập quán… tất cả hòa quyện vào nhau và tạo nên quan niệm

nhân sinh vừa độc đáo, riêng biệt của đồng bào Sán Dìu.

Tín ngưỡng dân gian trong truyện thơ mang đậm tính cộng đồng, có sự

giao lưu giữa văn hóa Sán Dìu với văn hóa Trung Hoa. Bức tranh phong tục,

tập quán từ nếp ăn, nếp nghĩ, đến lễ nghi của người Sán Dìu được phản ánh

sinh động và rõ nét qua lời kể giản dị, tự nhiên của nhân vật trữ tình. Những

phong tục, tập quán ấy đã ăn sâu và trở thành thói quen không thể thiếu trong

mỗi người Sán Dìu.

Các mối quan hệ, ứng xử khác nhau của mỗi người được tác giả dân gian

phản ánh trong truyện thơ như một bài học triết lý giáo huấn trong các mối

quan hệ, ứng xử, từ gia đình đến xã hội tất cả những yếu tố trên góp phần làm

tăng giá trị của tác phẩm, để Mở trời dựng đất xứng đáng trở thành một trong

những truyện thơ hay nhất của dân tộc Sán Dìu.

57

CHƯƠNG 3

NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT

DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

3.1. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện

thơ “Mở trời dựng đất”.

3.1.1. Khái niệm

Văn học không thể thiếu vắng nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để

văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nhân

vật văn học là đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ không thể đồng nhất với

con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với

nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của

nhà văn về con người, nó có thể được xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm ấy”

[40,tr.78]. Nhân vật văn học là phương tiện giao tiếp của nhà văn, nó mang tình

cảm, thể hiện chiều sâu tư tưởng, là thế giới quan, lý tưởng chính trị và lý

tưởng thẩm mĩ, nhận thức, trình độ, quan niệm… của nhà văn. Hình thức miêu

tả, nhận thức, khám phá con người được khắc họa một cách tập trung nhất qua

nhân vật văn học. Tác giả tạo ra nhân vật để bộc lộ cái nhìn nghệ thuật của

mình với hiện thực và con người, thể hiện tư tưởng của mình đối với cuộc

sống. Phân tích nhân vật là khai thác giá trị thẩm mỹ của hình tượng nhân vật,

khám phá tư tưởng thẩm mỹ của nhà văn “bằng con đường mà nghệ sĩ làm cho

nhân vật có được giá trị thẩm mỹ”. Nếu “bỏ qua quan niệm nghệ thuật về con

người sẽ dẫn đến một cách hiểu đơn giản bản chất phản ánh của văn nghệ.

Hoặc đồng nhất tư tưởng sáng tác của thế giới quan, hạ thấp yêu cầu sáng tạo

tư tưởng - nghệ thuật, thẩm mỹ của tác giả”[33.tr90].

Như vậy, tìm hiểu nhân vật chính là tìm hiểu về con người, tư tưởng, tình

cảm của tác giả đối với con người và xã hội trong hoàn cảnh lịch sử nhất định.

Bởi vì, nhân vật văn học là khái quát những quy luật cuộc sống, thể hiện sự

58

hiểu biết, ước mơ và kì vọng về con người. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật văn

học để thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình về con người, xã hội.

3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện thơ Mở trời dựng đất mang nét độc

đáo và mới lạ trong dòng chảy văn học dân gian nói riêng và văn học Việt Nam

nói chung. Ở truyện thơ các dân tộc anh em như: Nam Kim - Thị Đan (dân tộc

Tày), Út Lót - Vi Điêu (dân tộc Mường), Hùy Nga - Hai Mối (dân tộc

Mường), Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu, dân tộc Thái), Khun Lú -

náng Ủa (Chàng Lú - nàng Ủa, dân tộc Thái), Lưu Tương (Lưu Tương - dân tộc

Tày). Tất cả được xây dựng với hệ thống nhân vật phong phú, đa dạng bao gồm

nhiều tuyến nhân vật đại diện cho nhiều kiểu người trong xã hội như: Đó là

kiểu nhân vật người mồ côi như Lưu Đài trong truyện thơ Lưu Đài - Hán Xuân,

Nhân Lăng trong truyện thơ Nhân Lăng. Đó là kiểu nhân vật người lao động

hiền lành tốt bụng hoặc nhân vật dũng sĩ như Nhân Lăng trong truyện Nhân

Lăng, Đính Quân trong truyện thơ Đính Quân. Hay các kiểu nhân vật phụ nữ

có đức, có tài, thủy chung, gan dạ như Hán Xuân trong truyện Lưu Đài - Hán

Xuân, nhân vật Thị Trinh trong truyện Kim Nữ - Chiêu Đức.

Tác phẩm Mở trời dựng đất người Sán Dìu không xây dựng nhiều tuyến

nhân vật như vậy, truyện thơ được chia làm hai phần và mỗi phần có một cách

xây dựng nhân vật khác nhau. Phần đầu truyện thơ từ câu 1 - 74 là sự xuất hiện

các nhân vật trong thần thoại cổ Trung Hoa như: Vua Bàn Cổ, Phục Nghĩa

hoàng đế, Phục Hy, Nữ Oa, Cửu Thiên Huyền Nữ, tác giả dân gian viết về

những nhân vật này với vai trò là các vị thần hình thành nên vũ trụ, trời đất sinh

ra con người và muôn loài. Phần hai từ câu 75 - 450 tác giả xây dựng hình

tượng nhân vật chung như: Cha mẹ, anh em, người nam, nữ… những nhân vật

này không có tên tuổi, cuộc đời, tính cách, số phận riêng mà chỉ để tác giả dân

gian thể hiện tình cảm, ý nghĩ, thái độ với cuộc sống và là nơi người Sán Dìu

gửi gắm suy nghĩ, tư tưởng của mình về thế giới nhân sinh từ đó khái quát

59

thành những triết lý khuyên dạy con cháu đời sau. Đây là điểm mới lạ và sáng

tạo trong xây dựng hình tượng nhân vật truyện thơ Sán Díu. Ngoài ra, tác giả

còn sử dụng một số nhân vật trong văn hóa dân gian Trung Hoa như Thạch

Sùng, Đông Nhạc… để truyền tải bài học có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc sống

đồng bào Sán Dìu.

Vua Bàn Cổ là nhân vật nổi tiếng trong thần thoại và văn hóa dân gian

Trung Hoa. Đây được coi là vị thần khai thiên lập địa cùng với Nữ Oa tạo ra

trời đất và con người. Theo cổ thư Trung Hoa viết Bàn Cổ được sinh ra ở thời

kỳ Hỗn Độn, vũ trụ giống như một quả trứng gà, trời đất chưa hề có. Từ trái

trứng này sinh ra ông Bàn Cổ. “Bàn Cổ theo thời gian mà lớn lên và cao lên.

Bàn Cổ dùng hết sức mình để tách hai mãnh vỏ trứng ngày một xa nhau. Nửa

phần vỏ trứng khổng lồ nơi đôi tay của Bàn Cổ ngày một dầy và ngày một xa

nửa phần kia theo thời gian, vì thế Trời Đất được hình thành. Một ngày nọ, Bàn

Cổ kiệt sức và đã ngã xuống. Đôi mắt của Bàn Cổ đã thành Mặt trời và Mặt

trăng. Hàng vạn sợi tóc của Bàn Cổ đã thành vô số các vì sao. Lông tay, lông

chân đã trở thành thảo nguyên. Thịt của Bàn Cổ đã trở thành đồi núi cao thấp,

máu của Bàn Cổ đã trở thành giang hồ, đại dương, răng của Bàn Cổ đã trở

thành san hô, xương của Bàn Cổ đã trở thành rừng cây, hơi thở sau cùng của

Bàn Cổ đã trở thành gió. Bàn Cổ qua đời nhưng Bàn Cổ đã để lại thế giới tự

nhiên cho con người”[58]. Ở nhân vật Bàn Cổ có một điểm trùng khớp với thần

thoại Hy Lạp là mọi thứ bắt đầu từ Hỗn Độn. Trong thần thoại Hy Lạp, vị thần

khởi thủy là thần hỗn độn Chaos.

Trong truyện thơ Mở trời dựng đất, tác giả dân gian miêu tả Vua Bàn Cổ

là người “phân trời đất”, sau đó là sự ra đời của Phục nghĩa Hoàng Đế ( Phục

Hy) và Nữ Oa, hai vị thần này đều được tự nhiên mà sinh ra:

Phục nghĩa Hoàng Đế giáng xuống sinh

Ra đời giữa thời người mắt thẳng

Liền sau trùng sinh một người nữ.

60

Theo truyền thuyết và thần thoại, đây là các vị thần, vua ở thời kì thời

Công xã nguyên thủy Trung Hoa “Tam Hoàng Ngũ Đế” (Phục Hy, Nữ

Oa, Thần Nông và Hoàng đế, Cao Dương đế, Cốc đế, Nghiêu đế, Thuấn đế).

Phục Hy và Nữ Oa là hai nhân vật quan trọng trong việc lý giải người Sán

Dìu về nguồn gốc con người:

Sáu châu muôn người đều chết sạch

Còn lại hai người kết nhân duyên

Kết duyên vợ chồng chừng chín tháng

Thấy nàng thân thể nặng rành rành

Lục giáp hoàn thai con lớn dần

Đưa đến chân núi Côn Lôn ở.

Sau khi ông Bàn Cổ khai thiên lập địa thì “bất ngờ hồng thủy ngập trời

đất”, Hồng thủy ở đây là một trận lụt cực lớn còn gọi là “Đại hồng thủy” hay

đại thảm họa thiên nhiên khủng khiếp được nhắc đến trong truyền thuyết của

nhiều tôn giáo và nhiều dân tộc trên thế giới. Chuyện kể rằng, Phục Hy và Nữ

Oa là hai anh em. Trong nạn đại hồng thủy loài người chết hết chỉ còn hai anh

em “chạy vào bụng bầu mà ẩn nấp”, nhờ một quả bầu khổng lồ mà họ thoát

nạn. Cuối cùng “muôn người mắt thẳng tận diệt vong”, “còn lại hai người kết

nhân duyên”. Sau đó họ kết hôn với nhau theo truyền thuyết người Trung Hoa

hai nhân vật này thông hôn, loài người hiện nay chính đều là con cháu đời sau

của họ. Chuyện này cũng có rất nhiều ghi chép trong lịch sử. “Độc dị chí” của

Lý Nguyên đời Đường đã ghi: “Thời hỗn độn sơ khai, anh em Oa thị ở núi Côn

Lôn thắp hương cầu xin: hai anh em nếu được làm vợ chồng, khói tụ lại, không

được thì khói sẽ tản ra. Khi thấy khói tụ lại, họ chung sống với nhau”[59].

Tác phẩm được xuất phát từ trong quá trình lao động sản xuất của đồng

bào, họ sáng tác những câu chuyện để vừa gửi gắm quan niệm về sự hình thành

vũ trụ, loài người vừa bày tỏ tinh thần lạc quan trong đời sống. Tiềm ẩn trong

truyện thơ là về sức sống mãnh liệt, tinh thần không biết mệt mỏi, phản ánh nội

61

dung ấy bằng hình thức nghệ thuật kì thú và hấp dẫn. Qua cái nhìn kì ảo, tác giả

dân gian lý giải từ một không gian hỗn độn lại trở thành một bầu trời tươi sáng,

có sự sống của động vật, cây cỏ và cao hơn chính là con người:

Tay trái cầm trời tay phải cầm trăng

Trời đất đang tối tự bừng sáng.

Nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm là lời giải thích các hiện

tượng tự nhiên, giải thích nguồn gốc loài người và phản ánh quá trình chinh phục

thiên nhiên của đồng bào. Bàn Cổ khai thông vũ trụ, lập nên trời đất, con người

ra đời bằng bàn tay của Nữ Oa, bầu trời không còn tăm tối là phát minh của Toại

Nhân về lửa. Hình tượng các vị thần trong Mở trời dựng đất còn mang ý nghĩa

riêng đối với đồng bào Sán Dìu, sức mạnh, tài năng của các vị thần tượng trưng

cho một cuộc sống luôn hướng về phía trước, không ngừng đấu tranh, ước mơ

vươn lên những điều tốt đẹp của dân tộc Sán Dìu. Vua Bàn Cổ, Phục Hy, Nữ Oa,

đều được tác giả dân gian vẽ nên với chân dung cao quý có sức mạnh phi

thường. Vì thế, trong văn hóa tín ngưỡng, đồng bào tôn thờ một số vị thần, vì họ

cho rằng điều ấy mang lại may mắn, bình yên cho dân tộc mình.

Mở trời dựng đất không đi sâu vào giảng giải những nội dung triết học mà

chủ yếu tập trung vào miêu tả, phản ánh, khái quát triết lý nhân sinh của người

Sán Dìu. Do vậy nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố cũng mang đặc trưng

riêng biệt. Đặc trưng ấy xuất phát từ việc tác giả dân gian muốn văn học trở nên

gần gũi với con người, vì đối tượng tiếp nhận đương thời phần nhiều là nhân dân

lao động không được học hành nhiều, cần một phương thức truyền đạt dễ hiểu và

dễ nhớ nhất. Bởi thế, các điển tích điển cố trong Mở trời dựng đất thường gắn

với các nhân vật quen thuộc trong dân gian. Nhưng có khi lại có ý nghĩa uyên

thâm và trở thành những quan niệm nhân sinh mang tính giáo dục cao.

Đoàn Ánh Loan, trên cơ sở tiếp thu các kết quả nghiên cứu đi trước, đã

đưa ra định nghĩa: “Điển cố là những từ ngữ về chuyện xưa, tích cũ, về tư

62

tưởng, hình tượng, hình thượng trong sách xưa được tác giả dùng làm phương

tiện để diễn đạt ý tưởng một cách ngắn gọn, hàm súc. Điển cố bao gồm:

1. Từ hay nhóm từ được lấy ra từ những câu chuyện trong kinh, sử,

truyện, các sách ngoại thư… về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, địa danh,

những quan niệm trong cuộc sống.

2. Từ hay nhóm từ mượn ý, lời từ câu thơ hoặc bài thơ của người trước,

hay được trích từ thành ngữ,tục ngữ, ca dao có tích truyện được lưu truyền

hoặc đã nổi tiếng”[60].

Về phương diện điện tích, điển cố, tiêu biểu trong truyện thơ phải kể đến

nhân vật Thạch Sùng và Đông Nhạc của văn hóa dân gian Trung Hoa:

Ngày xưa Thạch Sùng nhà đại phú

Vạn lạng vàng quý làm nên giàu

Vĩnh trinh nhị niên trời đại hạn

Gốc cây phát hỏa nước giếng cạn

Vạn họ muôn dân đành bó tay

Là gạo đổi được ba lạng vàng.

“Vĩnh Trinh nhị niên” chỉ triều đại nhà Tây Tấn (266 - 420) của Trung

Hoa, Thạch Sùng là tên vị quan nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, nổi

tiếng là người xa hoa giàu có đương thời. Giữa Thạch Sùng và Vương Khải

từng có cuộc thi xem nhà ai giàu có hơn. Cũng vì gia sản khổng lồ ấy mà ông

gặp tai họa, bị triều thần chém chết năm 52 tuổi.

Trong kho tàng cổ tích người Việt có truyện Thạch Sùng còn thiếu mẻ

kho, theo đó Thạch Sùng là một phú hộ giàu có tự đắc rằng nhà mình không

thiếu thứ gì. Vương Khải cược với Thạch Sùng toàn bộ gia tài, cuối cùng khi

đòi đến mẻ kho thì Thạch Sùng không có, đành chịu mất hết cơ nghiệp. Ông

chết hóa thành con Thạch Sùng, suốt ngày chắc lưỡi tiếc của.

Theo truyện kể dân gian lưu truyền của người Sán Dìu “Có hai vợ chồng

một người nghèo khó tên là Thạch Sùng, sống bằng nghề ăn xin và góp nhặt

63

được một số vốn. Một hôm Thạch Sùng nhìn điềm trời đoán biết sẽ mưa lụt to,

nên đem tiền lên đong gạo tất cả. Tháng Tám năm ấy trời làm một trận lụt lớn,

làm giá gạo tăng vọt. Thạch Sùng đem số gạo tích trữ của mình ra bán, trở nên

giàu có và thôi nghề ăn xin. Thạch Sùng trở thành một phú ông, lại nhờ tài

buôn bán và cho vay lãi, gia tài của ông ngày càng lớn, và mua được địa vị, vua

phong tước cho ông tước quận công…”[61]. Với ngụ ý của câu chuyện người

Sán Dìu luôn mong muốn con cháu mình cần chăm chỉ chịu khó trong lao động

sản xuất, có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết quan sát và nắm bắt cơ hội:

Trên đời người lười đất không lười

Kịp thời cày cấy kịp thời sống

Phú quý trong nhà mang sung túc

Người lười không gạo chịu đói khổ

Như trong tục ngữ người Việt có câu “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng

trễ”, cuộc sống lao động khó khăn gian khổ đồng bào răn dạy con cháu để có

được mùa màng bội thu phải biết chăm chỉ cuốc đất, trồng cây, cày cấy. Sự cần

cù đấy không tính bằng ngày, tháng mà tính bằng năm, có khi còn là cả cuộc

đời. Đó là những lời khuyên bảo mộc mạc, giản dị như lời ăn tiếng nói hàng

ngày của người Sán Dìu, “Có làm thì mới có ăn”, đây như một thực tế hiển

nhiên ai cũng thấy rõ. Có lao động mới làm ra của cải vật chất để phục vụ cho

đời sống con người. Đó là những lời răn dạy chân tình những kinh nghiệm sống

quý báu mà họ dành cho con cháu mình:

Thạch Sùng giàu có nhất thiên hạ

Không dùng cửa nhà như người nghèo.

Cửa nhà được làm bằng vàng bạc.

“Vàng, bạc” là những thứ cao quý và gắn với đời sống theo quan niệm

ngàn đời của mọi dân tộc, đồng bào muốn nhắn nhủ đến con cháu để có của cải

vật chất cần phải biết lao động chăm chỉ, siêng năng, không được lười biếng.

Có thể thấy, nhân vật Thạch Sùng được tác giả dân gian nhắc đến khá nhiều

64

trong tác phẩm. Do nguồn gốc và sự ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa nên việc

lấy điển tích điển cố trong văn học dân gian Trung Hoa vào trong tác phẩm là

điều dễ hiểu. Đây cũng là điển tích quen thuộc xuất hiện trong tục ngữ người

Việt “Thạch sùng còn thiếu mẻ kho”. Qua câu chuyện cổ về nhân vật Thạch

Sùng, ngoài việc răn dạy con cháu cần cù, chịu khó, người Sán Dìu còn ngụ ý

muốn nhắn nhủ trong cuộc sống mỗi người không ai là có được đầy đủ trọn vẹn

mọi thứ, không nên vì thiếu hiểu biết mà gây đến những hậu quả nặng nề như

kết cục của nhân vật Thạch Sùng.

Những lời thơ răn dạy trong Mở trời dựng đất với những vần điệu trữ tình,

sâu lắng, không biết tự bao giờ đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời

sống văn hóa tinh thần của người Sán Dìu. Nó không chỉ tái hiện cuộc sống của

đồng bào mà còn là những bức tranh làng quê bình dị với khúc hát Soọng cô

tâm tình, Hình ảnh người dân lao động hiền lành, chất phác. Truyện thơ như

một chuyến đò ân tình chuyên chở biết bao tình cảm của người Sán Dìu từ xưa

đến nay. Và những câu thơ đó là sự hội tụ tinh hoa văn hóa Sán Dìu.

Nhân vật “cha mẹ” trong truyện thơ đã được tác giả khắc họa bằng chất

liệu văn hóa dân gian người Sán Dìu đến từng chi tiết, đầy tính nhân văn, giàu

tình thương và lòng nhân ái, dễ gần dễ mến. Khác với việc xây dựng hình

tượng nhân vật trong văn học các dân tộc, người cha, mẹ ở Mở trời dựng đất

không mang màu sắc mệnh phụ hay phi thường vĩ đại. Đây đều là những con

người mộc mạc, giản dị trong cuộc sống lao động, ẩn chứa trong họ là những

bài học triết lý nhân sinh mà đồng bào muốn truyền tải đến thế hệ người đọc.

Hình ảnh người mẹ được miêu tả trong tác phẩm thật bình dị, thân

thương và cũng hết sức độc đáo, tiêu biểu cho hình ảnh của những người phụ

nữ đồng bào miền núi. Làm con phải “noi theo nhớ điều xưa” cha mẹ sinh

thời nuôi con khôn lớn với bao vất vả, ghi nhớ công ơn cha mẹ, đây là bài học

đạo đức đầu tiên mà người Sán Dìu muốn răn dạy con cháu của mình. Nếu

như trong ca dao người Việt, họ sử dụng hình ảnh núi sông kì vĩ để nói về

65

công ơn cha mẹ thì trong truyện thơ đồng bào sử dụng hình ảnh thân thuộc

trong cuộc sống hàng ngày:

Ngày ngày mẹ cho ba lần sữa

Ba ngày mẹ cho chín bụng sữa

Sữa mẹ đâu phải nước sông chảy

Sữa mẹ đâu phải nước giếng khơi

“Ngày ngày” số từ không đếm được cũng như công lao cha mẹ không bao

giờ có thể kể hết bằng lời. Hình ảnh “sữa mẹ” là thứ vô cùng quý giá và thiêng

liêng, để nuôi dưỡng con trưởng thành, tất cả đều chỉ có hạn chứ không vô hạn

như “sông chảy”, “nước giếng khơi”, từ hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống

sinh hoạt mà lại đi vào thơ văn nhẹ nhàng sâu lắng. Giống như người Kinh có

câu “Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ” thì người Sán Dìu cũng dạy: “Sang

chấy chăng ty hu mù en/ Khi người ta sinh con nuôi con mới biết cha mẹ khó

nhọc” (Tục ngữ Sán Dìu). Khi nói về công lao sinh thành dưỡng dục, người

Sán Dìu thường hay nhấn mạnh và nói đến mẹ nhiều hơn cha. Có lẽ cha là trụ

cột gia đình, luôn phải bươn chải mưu sinh vất vả không có nhiều thời gian gần

gũi bên các con. Công cha “có vàng quý nghìn lạng” cũng không sánh được,

nhưng cha lại hay khó tính, nghiêm khắc, dùng nhiều hình phạt để giáo dục

con. Còn với mẹ là người “giữ lửa” trong gia đình, luôn chăm lo cho các con từ

miếng ăn giấc ngủ, manh quần tấm áo. Khi con mới biết ăn, răng mọc chưa

đều, mẹ phải nhai nhuyễn từng miếng cơm, lừa từng cọng xương nhỏ cho con

không bị mắc nghẹn, hóc xương.

Hình ảnh đó không bao giờ nhạt phai trong lòng những người con có

hiếu: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/ Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương”

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - Nguyễn Duy). Người Mẹ dạy con từ “thủa còn

thơ” với những câu răn dạy ngọt ngào mà sâu lắng, bảo vệ che chở cho con khi

bệnh tật, không bị tai ương trước thiên tai nhân họa… Vì thế tình mẫu tử thiêng

liêng xuất phát từ đó, những việc tưởng nhỏ nhưng lại rất cảm động có ý nghĩa

66

lớn lao. Bởi vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi hình ảnh của mẹ mộc mạc quê

mùa, thuần lương chất phác, nhân từ đôn hậu được người Sán Dìu đưa vào

trong tác phẩm văn học với tần suất cao và thật đẹp đẽ, xúc động lòng người.

Bên cạnh đó là những bài học đạo lý làm người, được đồng bào gửi gắm

trong hình tượng các nhân vật trữ tình chung ‘‘thế gian gái, dâu, vợ”, “thế gian

cùng anh em”, “láng giềng gần xa”, “thế gian nam cùng nữ”. Các nhân vật trữ

tình trong tác phẩm không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể như

nhân vật các truyện thơ dân tộc khác. Nhưng họ lại được cụ thể hóa trong giọng

điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách suy nghĩ và đây cũng là quan niệm nghệ

thuật mới mẻ trong cách xây dựng nhân vật truyện thơ. Đối với, nhân vật “gái,

dâu, vợ” cần phải làm tròn bổn phận và nghĩa vụ của một người con và người

vợ trong gia đình:

Ở nhà nghiêng tai mà lắng nghe

Ngủ đến năm canh năng dậy sớm

Canh năm sớm dậy đừng ngủ nhiều

Sớm dậy trải đầu tiện rửa mặt

Sắp sẵn trà cơm đến trước của

Chăm chỉ là một đức tính quý báu của con người và với phụ nữ điều đấy

càng quan trọng ý nghĩa hơn. Người Sán Dìu dạy con mình từ những việc nhỏ

nhất, họ quan niệm muốn làm được việc lớn trước hết phải làm tốt những việc

nhỏ. Và giáo dục đâu phải là những bài học xa vời, đấy đều là những việc thực

tế trong đời sống sinh hoạt. Do ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo nên đồng

bào quan niệm và mong ước người phụ nữ hội tụ đủ phẩm chất “công, dung,

ngôn, hạnh”, đây là các tiêu chuẩn cơ bản của phụ nữ, mỗi người cần rèn giũa,

hoàn thiện mình.

Anh em trong gia đình cùng chung cha mẹ, chung huyết thống, khác với

người dưng: “Anh trưởng sinh đầu đáng như cha/ Chị cả lấy đầu đáng như mẹ”.

Người “anh trưởng” và “chị cả” có vị trí đặc biệt quan trọng trong gia đình và

67

văn hóa của dân tộc Sán Dìu. Họ được coi như trụ cột của gia đình, là người có

vị thệ sau khi cha mẹ mất đi. Vì thế trong tác phẩm, người Sán Dìu nhấn mạnh

vào tình cảm gia đình, huyết thống “anh em cùng mẹ cùng sống chết”. Trong

anh và em có thể có kẻ giàu người nghèo, kẻ sang người hèn... Nhưng dẫu thế

nào anh em vẫn phải yêu thương, chia sẻ, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau lúc hoạn

nạn. Có như vậy mới giữ gìn được đạo lý truyền thống ông cha răn dạy.

Bài học triết lý nhân sinh được người Sán Dìu tổng hòa ở nhiều phương

diện của tác phẩm. Xây dựng các hình tượng nhân vật trong Mở trời dựng đất

chính là thông điệp về cuộc đời và hiện thực mà người Sán Dìu muốn gửi đến

các thế hệ người đọc. Đó là tiếng nói riêng in đậm bản sắc văn hóa, văn học,

của người dân tộc Sán Dìu.

3.2. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong ngôn ngữ, hình ảnh và giọng điệu

truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Mỗi ngành nghệ thuật đều có những chất liệu riêng để xây dựng nên

một tác phẩm. Với hội họa là chất liệu màu sắc, các mảng màu đa dạng như

tượng trưng cho nét đa sắc màu trong cuộc sống. Đến với âm nhạc là chất liệu

giai điệu, âm thanh lúc trầm khi bổng, điêu khắc là những đường nét tinh tế,

còn với văn chương là chất liệu ngôn từ. Trong thơ ca, ngôn ngữ được chưng

cất công phu, chặt chẽ, tinh thế vì thơ là tổ chức ở trình độ cao của ngôn ngữ.

So với các ngành nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc thì ngôn ngữ văn

chương mang tính phi vật thể. Nó vừa là phương tiện miêu tả, vừa là chất liệu

để nhà văn xây dựng hình tượng văn học. Qua đó, ngôn ngữ còn là phương

tiện để là văn tái hiện và sáng tạo nghệ thuật riêng của mình thông qua tác

phẩm văn học.

Theo Từ điển Thuật ngữ văn học: “Ngôn ngữ là công cụ, chất liệu cơ

bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ”.

M.Gokir khẳng định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học ... Trong tác

phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính

68

sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là

tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động

để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác”[25,tr.215]. Khái niệm ngôn ngữ

nghệ thuật: (với nghĩa chuyên môn) ngôn ngữ dùng trong tác phẩm văn

chương, không chỉ có chức năng thông tin mà quan trọng hơn là có chức năng

thẩm mĩ. Ngôn ngữ nghệ thuật bao gồm ngôn ngữ trong các tác phẩm tự sự,

trữ tình và tác phẩm sân khấu.

Ngôn ngữ thơ là một phương diện hình thức luôn chứa đựng nhiều sự

sáng tạo, vì thơ là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ, ở đó các tác giả đã lựa

chọn, gọt giũa để xây dựng nên tác phẩm mang dấu ấn cá nhân, cộng đồng

riêng. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc

phong phú, giàu hình ảnh, sắc màu, nhạc điệu và biểu cảm của thơ. Các đặc

điểm trên hòa quyện với nhau tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa.

Về phương diện ngôn ngữ truyện thơ Mở trời dựng đất, tác giả dân gian

đã sử dụng lớp từ quen thuộc trong cuộc sống sinh hoạt, lao động của đồng bào.

Với các từ ngữ đa dạng, lớp từ giàu sắc thái biểu cảm mang đậm tâm hồn Sán

Dìu. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng nhiều biện pháp tu từ truyền thống trong

thơ ca dân tộc Việt như sự xuất hiện dày đặc các thủ pháp so sánh, ẩn dụ, phép

điệp, từ láy….Khiến cho thơ người Sán Dìu giản dị, tự nhiên, như chính bản

tính mộc mạc của đồng bảo. Bởi vậy, những lời thơ trong tác phẩm luôn được

mọi thế hệ của người Sán Dìu coi đó như “Kinh sách dạy con” của đồng bào.

3.2.1. Hệ thống ngôn ngữ, hình ảnh mang đậm dấu ấn văn hóa Sán Dìu

Đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong truyện thơ Mở trời dựng đất là tác giả

dân gian đã sử dụng ngôn ngữ của chính dân tộc mình vào quá trình sáng tác.

Chính yếu tố ngôn ngữ này đã khẳng định bản sắc văn hóa Sán Dìu, phong

cách văn hóa Sán Dìu thấm đẫm trong từng trang thơ. Thứ hai tác giả kế thừa,

tiếp thu tinh hoa thơ ca cổ, truyện cổ dân gian Trung Hoa, vận dụng linh hoạt

thành ngữ, tục ngữ Sán Dìu... một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn trong quá trình

69

sáng tác. Điều này đã tạo nên sự mới lạ, hấp dẫn riêng mà lại vẫn có một cái gì

đó quen thuộc, thân thương, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc miền núi.

Việc sử dụng từ ngữ mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc Sán Dìu là một

biện pháp đặc thù để thể hiện tư tưởng tình cảm, cũng như hình tượng nghệ

thuật trong tác phẩm. Xuyên suốt truyện thơ Mở trời dựng đất là những bài học

nhân sinh của đồng bào Sán Dìu. Khác với các truyện thơ các dân tộc, tác phẩm

không phải kể về cuộc đời, số phận của nhân vật… mà truyện thơ là những lời

khuyên răn dạy bảo của ông cha cho các thế hệ sau. Tác giả dân gian sử dụng

ngôn ngữ đời thường gắn với cuộc sống sinh hoạt của đồng bào, cùng với đó

ngôn ngữ đậm chất dân gian khi lấy những nhân vật trong văn hóa học dân gian

để làm gương hoặc bài học răn dạy cho con cháu.

Mỗi một dân tộc có một cách lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình, với

người Kinh là truyền thuyết Cong rồng cháu tiên, mẹ “Âu Cơ sinh ra một cái

bọc trăm trứng…”[55], đó là sự lí giải nguồn gốc giống nòi của người Việt.

Với người Sán Dìu khi nói về cội nguồn của dân tộc mình:

Thủa xưa Bàn Cổ phân trời đất

Đặt ra trời đất chín vạn dặm

Thiên ý dục cầu Bàn Cổ Vương

Tay trái cầm trời phải cầm trăng

Trời đất đang tối tự bừng sáng

Với bản tính mộc mạc, giản dị, vì thế trong quá trình sáng tạo nghệ

thuật, tác giả dân gian đã lựa chọn ngôn ngữ đời thường gắn với bối cảnh xã

hội để thể hiện trong tác phẩm, với hình ảnh quen thuộc “tay trái, tay phải,

cầm, tự bừng sáng”, ngôn ngữ bình dị, giàu hình ảnh, họ đã hình tượng hóa

sức mạnh của Vua Bàn Cổ trong quá trình “hình thành trời đất”. Sự lý giải đó

còn được tác giả sử dụng ngôn ngữ chứa nhiều điển tích trong văn hóa dân

gian Trung Hoa về các nhân vật vị thần hình thành nên trời đất, con người đó

70

là “Bàn cổ vương, Phục nghĩa hoàng đế, Cửu thiên huyền nữ”. Bàn cổ vương

là vị thần khai thiên lập địa, sáng tạo ra vũ trụ trong thần thoại Trung Hoa, và

đến Nữ Oa, Cửu thiên huyền nữ “tạo ra” con người:

Cửu Thiên Huyền Nữ cầm dao phân

Phân thành ba trăm sáu mươi phần

Tạo thành lớp người lớp người có mắt thẳng

Sự này thế gian muôn đời truyền

Khi nói về nguồn gốc của dân tộc, người Sán Dìu đã đưa ngôn ngữ dân

tộc mình vào trong tác phẩm và hình ảnh giản dị, cùng với đó là sự xen kẽ lẫn

các yếu tố kì ảo trong thần thoại. Với cuộc sống lao động của mọi người “dao”

là một vật dụng quen thuộc không thể thiếu, dao thắt lưng bụng, cào được làm

bằng con dao mòn vẹt uốn cong. Nhưng với đồng bào hình ảnh “dao” không

còn là dụng cụ lao động, nó là sự sáng tạo nghệ thuật khi tác giả dân gian lí

giải về nguồn gốc ra đời của dân tộc mình, “Sự này thế gian muôn đời còn

truyền”. Hình ảnh gần gũi, mộc mạc, diễn tả đúng kiểu tư duy cụ thể hóa của

người miền núi. Đây là nét tiêu biểu cho tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ, cách

thể hiện riêng của dân tộc Sán Dìu.

Cũng như các tộc người khác ở trung du miền núi phía Bắc, lao động

nông nghiệp, trồng trọt là sinh kế chính của người Sán Dìu. Quá trình định cư

và phát triển, tương tác với môi trường tự nhiên đã tạo nên một diện mạo văn

học dân tộc Sán Dìu mang đậm dấu ấn vùng đất trung du và miền núi. Truyện

thơ Mở trời dựng đất là những bài học nhân sinh được đúc kết từ kinh nghiệm

trong đời sống hàng ngày, tác phẩm đã tái hiện cuộc sống hiện thực của người

Sán Dìu. Khi di cư sang nước Việt với nền văn hóa lúa nước, đồng bào đã

thích nghi và tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm quý báu về hoạt động lao

động sản xuất để truyền lại cho thế hệ sau “Mùa hạ ngâm thóc”, muốn cấy lúa

sớm “đừng để quá hè”. Tác giả miêu tả cuộc sống bằng ngôn ngữ giàu hình

ảnh bình dị, đời thường trong tác phẩm.

71

Ngôn ngữ trong tác phẩm thường giản dị, mộc mạc, chân thực và có tính

tạo hình cao. Do đó, tác giả dân gian đã khắc họa thành công hình ảnh con

người và cuộc sống theo quan niệm của người Sán Dìu. Hình ảnh thơ độc đáo,

mới lạ, thể hiện sức tưởng tượng và sự sáng tạo trong thể loại truyện thơ của

đồng bào. Điều đấy được thể hiện ở những câu thơ khuyên dạy con cháu về

đối nhân xử thể trong đời sống gia đình và xã hội:

Cha mẹ có lời đến dạy đạo

Nam nữ vợ chồng nghe lời cha

Không nên quay đầu mồm đấu khẩu

Ba câu thơ trên như một lời dăn dạy ứng xử trong cuộc sống thường ngày

của người Sán Dìu. Đồng bào rất coi trọng yếu tố gia đình, vì vậy xuyên suốt

truyện thơ tác giả luôn đề cao vai trò của gia đình với giáo dục con trẻ trong

việc giữ gin và phát huy truyền thống dân tộc Sán Dìu. Chỉ có những lời dạy

bảo thông thường, chân tình, mộc mạc như bản tính vốn có của người Sán Dìu

mà biến thành thơ. Như vậy, thơ đâu phải là cái gì xa vời, khuân sáo, mà thơ là

những lời nói chân tình, giản dị được cất lên từ sâu thẳm trong tấm lòng của

con người:

Ngoài đạo người dạy vô nhân nghĩa

Mười tuổi đến thời hết nhi đồng

Mười năm tiện học lễ tình nghĩa

Mười tám đến thời tìm vợ chồng

Ở nhà nghe cha xuất theo chồng.

Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ khách quan, yên tĩnh của tác

phẩm tự sự. Lời thơ thường là lời đánh giá trực tiếp của chủ thể đối với cuộc

đời. Mỗi một dân tộc đều có truyền thống giáo dục con cháu khác nhau, với

người Sán Dìu họ quan niệm “Mười tuổi, mười năm, mười tám” đây là những

độ tuổi quan trọng trong việc dạy bảo con cháu. Theo họ, mỗi lứa tuổi cha mẹ

có cách giáo dục khác nhau. Vì thế từ lúc con trẻ đến người trưởng thành bài

72

học đầu tiên và quan trọng nhất là “học lễ tình nghĩa” đây là bài học sẽ đi theo

bước chân của mỗi người trong cuộc đời.

Ngôn ngữ trong Mở trời dựng đất là những câu thơ dạy bảo mộc mạc

chân tình, đời thường, như “lời cha mẹ” hàng ngày vẫn nói với con cháu mình.

“Nghe cha” câu thơ như hàm chứa tất cả sức nặng tình cảm của cha mẹ dành

cho các con. Câu từ gần gũi mà chúng ta vẫn thường được nghe, không phải là

câu nói bóng bẩy hào nhoáng, đó là lời nói giản dị hàng ngày nhưng chứa đầy

ấm áp, lo lắng, quan tâm yêu thương của cha mẹ dành cho các con. Ngôn ngữ

như được bật ra từ những suy nghĩ đời thường, chan chứa tình thân ái biết bao:

Lời tốt lắng nghe cha mẹ dạy

Hoàng liên ngọn đắng rễ cũng đắng

Cam ngọt gốc ngọt ngọn cũng ngọt

Tất cả những hình ảnh tả thức ấy thật gần gũi, quen thuộc và thân

thương, đã phác họa thành công vẻ đẹp mộc mạc giản dị của đồng bào Sán

Dìu. Ngoài ra, hệ thống ngôn ngữ đời thường này được tác giả dân gian sử

dụng rất thành thạo và linh hoạt khi viết về những lời khuyên dạy trong cuộc

sống người Sán Dìu:

Chín khuyên: Trên đời cần kế hay

Làm người công bình đừng lòng tham

Với bản tính mộc mạc giản dị vốn có của dân tộc mình, người Sán Dìu

luôn muốn hướng con cháu đến cuộc sống theo triết lí Phật giáo không “tham -

sân - si”, quan niệm “thiện - ác” trong cuộc sống. Bởi vậy, trong những lời răn

dạy ngôn ngữ truyện thơ luôn thấm nhuần tư tưởng Phật giáo. Tác phẩm đã

truyền tải những nội dung, tâm tư, tình cảm, ước nguyện của cả dân tộc, vì thế

Mở trời dựng đất đã mang trong mình dấu ấn văn hóa người Sán Dìu. Ngôn

ngữ đời thường, tự nhiên, nhạy bén cứ thế đi vào tác phẩm và mang đến bài

học triết lí nhân sinh quý báu đối với đồng bào Sán Dìu:

Đi khắp vương quốc đường thiên hạ

73

Thấy tận bao nhiêu người thiện ác

Hôm nay không biết hết ngày mai

Ngừng tranh bỏ được một nỗi sầu

Những đặc điểm về ngôn ngữ, hình ảnh trong truyện thơ Mở trời dựng

đất đã thể hiện rất sinh động những nét độc đáo của bản sắc dân tộc. Nó đã

phản ánh một cách cụ thể: cách cảm, cách tư duy, cách diễn đạt… của người

miền núi. Đó là “…bình dị, thật thà của câu chữ, bộc lộ cách cảm, cách nghĩ

chất phác… những câu thơ nhìn bề ngoài ngỡ như là viết theo kiểu ứng tác,

khá dễ dàng, không màu mè, rào đón, bọc giấu mà cứ trần trụi, thật thà như

đếm và thẳng như cây bương” (Nguyễn Ngọc Thiện) [62].

Lối sống bình dị của người Sán Dìu đã đi trực tiếp vào tư duy văn học và

trong sáng tạo các hình tượng nghệ thuật. Vì thế, chúng ta thấy trong Mở trời

dựng đất ngôn ngữ đời thường được tác giả dân gian sử dụng một cách tự

nhiên, thấm thía và cũng được gọt giũa công phu. Nó phản ánh trung thực mọi

khía cạnh về con người và đời sống thực của đồng bào. Mỗi một câu thơ là một

lời dạy bảo chân tình, và cả tác phẩm đã cho ta thấy được phẩm chất người Sán

Dìu cần cù, chịu khó, thẳng thắn, bộc trực trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, đến

cách nhìn nhận giải quyết và đưa ra những lời khuyên răn dạy cho các thế hệ.

Trong cuộc đời mỗi người sẽ không ít gặp những khó khăn, gian truân, vất vả.

Tuy vậy, đồng bào luôn biết vượt khó vươn lên. Họ tin vào một tương lai tốt

đẹp, đó là tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống của người Sán Dìu.

3.2.2. Dấu ấn văn hóa trong giọng điệu truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học hay thời đại văn học chúng ta không

thể không quan tâm đến giọng điệu, đây là một trong những yếu tố then chốt

làm nên sự độc đáo trong văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì giọng

điệu là: “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với

hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên,

dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, kính hay suồng, ngợi

74

ca hay châm biếm”[25,tr.111]. Và “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái

độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên

phong cách của nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc”[25,tr.134]. Chính

vì vậy, giọng điệu có thể được hiểu là “Giọng nói hay lối nói biểu thị một thái

độ nhất định (giọng mỉa mai, chán chường) hay như ngữ điệu (giọng lên xuống,

lúc trầm lúc bổng)”[25,tr.503].

Trần Đình Sử trong cuốn Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại cũng

cho rằng: “Phân tích tác phẩm mà bỏ qua giọng điệu tức là tước đi cái phần

quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của nhà văn”[34,tr.27]. Qua đó, chúng ta

thấy giọng điệu là yếu tố cơ bản trong việc xây dựng hình tượng văn học và nó

còn mang đậm dấu tác giả khi sáng tạo nghệ thuật. Nhờ có giọng điệu mà khi ta

đọc một tác phẩm giúp ta nhận ra tác giả và phân biệt họ với các tác giả khác.

Đây chính là phong cách của mỗi nhà văn.

Mỗi tác phẩm văn học bao giờ cũng có một giọng điệu đặc sắc. Nhà

nghiên cứu văn học Nga M.Khrapchenco từng khẳng định: “Đề tài, tư tưởng,

hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong

phạm vi của thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với

những mặt khác nhau của nó” [34,tr.167 - 168]. Thực tế cho thấy, giọng điệu

là một thành tố không thể thiếu trong việc xây dựng và triển khai tư tưởng,

cảm xúc của nhà văn, nhà thơ.

Truyện thơ Mở trời dựng đất tác giả muốn chuyền tải đến người đọc

những tình cảm sâu sắc qua sự sáng tạo nghệ thuật ở nội dung và hình thức

của tác phẩm. Về mặt hình thức với hệ thống giọng điệu trữ tình đạo đức và

giọng điệu dân dã, gần gũi mang đậm bản sắc văn hóa Sán Dìu. Giọng điệu

xuất phát từ chính tâm tư, tình cảm của tác giả dân gian khi viết về quê hương,

đất nước và con người dân tộc mình.

Giọng điệu là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để tạo ra nét

riêng biệt của mỗi tác phẩm. Mở trời dựng đất không phải là câu chuyện kể về

75

tình yêu, mà tác phẩm là những bài học triết lí nhân sinh của người Sán Dìu.

Vì thế, ngôn từ được chắt lọc từ lời ăn tiếng nói hàng ngày trong đời sống của

đồng bào, đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên giọng điệu dân

dã và giọng điệu trữ tình giáo huấn mang dấu ấn văn hóa dân tộc mình.

Trong tác phẩm giọng điệu mộc mạc dân dã, gần gũi được thể hiện nhiều

ở mười lời khuyên của đồng bào dành cho thế hệ sau. Bên cạnh, những câu nói

gần gũi được chuyển thể thành thơ đó là sự đan xen những lời răn dạy về đạo

đức mà dân tộc Sán Dìu gửi gắm trong truyện thơ. Bằng những hình ảnh thân

thuộc, chân thực trong đời sống sinh hoạt làng bản của người Sán Dìu:

Trong ruộng khô nước mong tiếng sớm

Trong lòng dụng tâm hành hiếu thuận

Đêm tối giặc đạo lòng chẳng sợ

Cả nhà hiếu thuận thời chẳng lo

Nên biết theo người trăm năm tuổi

Từ những câu nói đơn giản, dân dã đời thường mà lại trở thành thơ có sức

gợi đặc biệt. “Trong ruộng khô nước” là lời nhắc nhở của ông cha cho con

cháu khi lao động sản xuất cần phải biết cần cù chăm chỉ chịu khó cày cấy,

cũng giống như con người hiếu thuận với cha mẹ cần phải từ “trong tâm”

không phải là những tình cảm, đạo đức giả tạo. Mọi người cùng đồng lòng thì

mọi khó khăn đều vượt qua. Ở đây chữ “tâm” và “hiếu” luôn được tác giả dân

gian coi trọng và đặt nên hàng đầu. Có thể thấy khi viết về cuộc sống sinh hoạt

đời thường của người Sán Dìu, ngoài việc truyền đạt lại cho con cháu những

bài học về kinh nghiệm lao động sản xuất, đồng bào đã khéo léo đưa vào đó là

những bài học giáo dục đạo đức từ những việc nhỏ nhất, và cứ thế giọng điệu

mộc mạc, giản dị tự nhiên đi vào trong thơ. Tạo thành bản sắc riêng mang đậm

dấu ấn văn hóa người Sán Dìu ở trong đó.

Phải chăng trong hành trình di cư từ đất nước Trung Hoa rộng lớn sang

đất Việt, người Sán Dìu đã phải trải qua cuộc sống lo toan mưu sinh vất vả, vì

76

thế trong truyện thơ những hình ảnh lam lũ, khổ cực hiện nên trong thơ một

cách tự nhiên, mộc mạc, giản dị mà không cần phải tô vẽ. Mỗi câu thơ là một

lời tâm tình, chứa đựng trong đó là những lời khuyên dạy con cháu của tác giả

dân gian. Có lẽ, vì những gian khổ mà đồng bào đã trải qua, người Sán Dìu

luôn nhắc nhở con cháu mình cần phải cần cù, chăm chỉ chịu khó:

Năm nay tính được lúa nhiều năm

Mùa nóng liền đến mùa giá rét

Tìm chợ mua bán đừng chơi bời

Đi con đường đời thật gian nan

Giỏi giang trong nhà cần chăm chỉ

Hình ảnh “lúa”, “chợ” đây là những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống

sinh hoạt của đồng bào. Người Sán Dìu luôn ngợi ca việc đồng áng, cuộc sống

thuần nông gắn bó với lũy tre, làng bản: ‘‘Mai tông mai say mạo cộ số thén

coóc/ Buôn đông bán tây không bằng cuốc góc ruộng’’ (Tục ngữ Sán Dìu).

Xuân, hạ, thu, đông bốn mùa trôi qua với bao “gian nan” trên “con đường đời”

đó là cách nói dân dã của đồng bào, họ luôn muốn dân tộc mình biết trân trọng

cuộc sống này, vì tất cả đều rất quý giá dù là những điều nhỏ nhất, bình

thường nhất.

Ngoài ra, giọng điệu trữ tình giáo huấn được tác giả dân gian sử dựng rất

nhiều trong tác phẩm. Với những lời khuyên răn dạy trong cuộc sống thì đạo

đức luôn là yếu tố quan trọng thế hệ ông cha luôn muốn con cháu mình phải

học tập và rèn luyện:

Phú quý vinh hoa được mấy năm

Bất luận lúc sống hay lúc chết

Cũng nên hành xử theo lẽ phải

Làm người cùng nhau kết lễ nghĩa

Trong lòng mến khách người tốt hiểu

77

Cuộc sống vinh hoa phú quý không tồn tại mãi, giống như người Việt

quan niệm “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Với dân tộc Sán Dìu,

việc dạy bảo con trẻ về luật nhân quả ở đời rất được coi trọng, “lúc sống hay

chết”, “hành xử theo lẽ phải”, đây là đạo lý tu thân, tích đức hành thiện trong

Phật giáo. Người Sán Dìu quan niệm muốn gia tộc hưng thịnh cần phải giáo

dục con cái thật nghiêm khắc. Khuyên dạy con cháu biết coi trọng đạo đức

hành thiện “Làm người cùng nhau kết lễ nghĩa”.

Giọng điệu trữ tình giáo huấn không chỉ giúp cho tác giả dân gian

truyền tải những bài học nhân sinh vào trong truyện thơ một cách tự nhiên,

chân thực, gần gũi nhất mà còn giúp người đọc hiểu được đồng bào Sán Dìu,

cuộc sống của họ, và những tâm tư tình cảm, nét đẹp trong văn học và tâm

hồn người Sán Dìu.

3.3. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong k t cấu truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

3.3.1. Khái niệm

Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về kết cấu trong Từ điển Thuật

ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)

viết: ‘‘toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu thể

hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp hơn bố cục... Kết cấu bao gồm bố cục, tổ

chức tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ

thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình

bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở

thành một chỉnh thể nghệ thuật’’[25.tr156-157].

Do đó có thể thấy kết cấu là một phương diện cơ bản và quan trọng của

sáng tác nghệ thuật. Khái niệm kết cấu được hiểu là toàn bộ tổ chức phức tạp và

sinh động của tác phẩm. Nó ‘‘bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng các tác phẩm: triển

khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện ;cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức

điểm nhìn trần thuật của tác giả: tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một

hiện tượng thẩm mĩ’’[25.tr157]. Kết cấu ra đời cùng một lúc với ý đồ nghệ thuật

78

của tác phẩm, cụ thể hóa cùng với sự phát triển của hình tượng. Không phải là

sáng tạo ra hình tượng sẵn rồi, sau mới tạo ra kết cấu, mà kết cấu xuất hiện như

một mặt của bản thân hình tượng nghệ thuật được sáng tạo. Do đó, không có kết

cấu, những yếu tố, những thành phần chỉ là những mảnh vụn rời rạc.

Truyện thơ là một trong những thể loại của văn học dân gian. Đó là thể

loại tự sự được viết bằng thơ có dung lượng tương đối lớn. Sự mới mẻ và ưu

điểm của thể loại này là ở chỗ nó vừa có phần tự sự và vừa có phần thơ (trữ

tình), từ đó trở thành phương tiện để con người bộc lộ tình cảm, cảm xúc và

phản ánh ước mơ, khát vọng của họ. Truyện thơ được chia thành hai loại:

truyện thơ bình dân và truyện thơ bác học. Có thể thấy truyện thơ là sự tổng

hợp của những điểm gần gũi, dân dã, nhẹ nhàng, như lời ca tiếng hát dân gian,

như câu chuyện cổ tích, ở đó là sự sâu sắc, tinh xảo, của sáng tạo nghệ thuật,

điều này làm cho kết cấu truyện thơ rất đa dạng. Truyện thơ Mở trời dựng đất

thể hiện sinh động đầy đủ kết cấu của truyện thơ Nôm bình dân, kết cấu tự sự

và kết cấu trữ tình. Kết cấu tự sự trong tác phẩm là hình thức tổ chức của cốt

truyện nhân vật trữ tình, kết cấu trữ tình là kết cấu tâm trạng của nhân vật trữ

tình được phản ánh trong truyện thơ.

3.3.2. Kết cấu truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Xét về mặt kết cấu, trong Mở trời dựng đất tác phẩm vẫn là kiểu kết cấu

tự sự quen thuộc gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ, tính sự kiện, tình tiết, sự kết hợp

giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong tác phẩm. Kiểu kết cấu “truyện lồng

truyện”, tăng chất tự sự cho cốt truyện, kiểu kết cấu truyện trong thơ và thơ

trong truyện, xu hướng trữ tình hóa tác phẩm tự sự. Trong tác phẩm ngoài

phần đầu là có sự xuất hiện các tuyến nhân vật, sự kiện, tình tiết thì ở phần sau

là những câu chuyện trong cuộc sống của đồng bào. Từ những câu chuyện

thường ngày trở thành thơ, và từ đó trở thành bài học triết lý nhân sinh, mang

tính giáo dục cho mọi thế hệ.

79

Tác phẩm không thể hiện cảnh đoàn tụ viên mãn ở các câu chuyện tình

yêu như: Tiễn dặn người yêu, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống chân - Cúc Hoa...

Xu hướng tự sự hóa tác phẩm làm cho nội dung truyện thơ ghi dấu ấn thành

công nghệ thuật cho văn học Sán Dìu. Xu hướng này thấy sự giao thoa, tiếp

nhận giữa các nền văn hóa của người Sán Dìu, giữa dân tộc Sán Dìu với người

Việt và văn hóa, văn học Trung Hoa. Thành công về nghệ thuật mang đậm dấu

ấn bản sắc văn hóa Sán Dìu là minh chứng cho quá trình giao lưu văn hóa giữ

các dân tộc và văn hóa cội nguồn người Sán Dìu.

Cũng như các truyện Nôm khác, truyện thơ Mở trời dựng đất cũng có kết

cấu tuyến tính, các nhân vật, sự kiện được tả, kể theo trình tự thời gian. Mở

đầu tác phẩm là sự xuất hiện của Vua Bàn Cổ, nhân vật này được tác giả dân

gian miêu tả là người “phân trời đất”. Tiếp đến tác giả dân gian miêu tả cuộc

gặp gỡ giữa các nhân vật Phục Hy và Nữ Oa. Sau đó là biến cố nạn Đại Hồng

thủy “muôn người mắt thẳng tận diệt vong”. Cuối cùng “còn lại hai người kết

nhân duyên” và từ đó nguồn gốc loài người được hình thành. Các nhân vật

trong tác phẩm đều được miêu tả là những vị thần có sức mạnh phi thường, tài

năng xuất chúng:

Thiên ý dục cầu Bàn Cổ Vương

Tay trái cầm trời tay phải cầm trăng

Trời đất đang tối tự bừng sáng

Vua Bàn Cổ là người khai thiên lập địa, Nữ Oa người tạo ra con người.

Qua các nhân vật trong tác phẩm người Sán Dìu đã phần nào phản ánh được

môi trường sống, mối quan hệ tự nhiên và xã hội, tư tưởng và tâm hồn của

đồng bào dân tộc miền núi. Tác phẩm còn chứa đựng trí tưởng tượng phong

phú về đời sống tinh thần của con người. Họ đã dùng trí tưởng tượng của mình

để giải thích thế giới tự nhiên, chinh phục tự nhiên và cải tạo bản thân mình.

Với ước muốn trong xã hội cổ đại chiến thắng thiên nhiên, chiến thắng mọi kẻ

80

thù, giải thích các hiện tượng xã hội tự nhiên bằng sự tưởng tượng và hư cấu ở

các vị thần.

Kết cấu kiểu “truyện lồng truyện” trong truyện thơ Mở trời dựng đất.

Nếu như trong truyện thơ các dân tộc, chúng ta thấy tác giả chủ yếu tập trung

kể về một câu chuyện như: chuyện tình yêu đẹp hay chuyện chiến trận… và từ

đầu đến cuối truyện, người đọc sẽ cảm nhận được duy nhất là một tình yêu

đẹp, thủy chung. Đó là truyện Phạm Tải - Ngọc Hoa, Lưu Đài - Hán Xuân…

hay cả thiên truyện “tuyệt bút” Truyện Kiều – Nguyễn Du.

Đọc Mở trời dựng đất chúng ta thấy các câu chuyện hàng ngày được kể

xen lồng vào nhau thông qua các nhân vật trữ tình trong truyện, đó là điểm

mới trong kết cấu “truyện lồng truyện”. Từ những lời thơ ấy trở thành bài học

triết lý nhân sinh của đồng bào Sán Dìu:

Đừng để gian kế giữ của nhà

Năm qua lại trộm về phương bắc.

Lúc cấp cũng đừng mưu kế xấu

Sớm chiều bị đánh tối về đau

Mới hay sớm cày được ăn no

Đó là câu chuyện về cuộc sống sinh hoạt của người Sán Dìu, đồng bào

luôn muốn răn dạy con cháu mình phải sống ngay thẳng không được làm

những việc trái với đạo đức con người. “Lúc cấp cũng đừng mưu kế xấu” dù

cho mọi hoàn cảnh cần giữ được lòng ngay thẳng, không nên mưu toan tính

hại người. Do ảnh hưởng của Đạo phật nên quan niệm về “nhân, quả, báo

ứng” thể hiện rất rõ trong đời sống của đồng bào: “Người ác - người sợ, trời

không sợ/ Người lành - người khinh, trời không khinh” (Tục ngữ Sán Dìu). Họ

cho rằng khi còn sống làm điều xấu hại người khi mất đi sẽ bị Diêm vương trị

tội. Dù có “nghìn vàng lạng quý” cũng không quý giá bằng nhân cách, phẩm

chất đạo đức, tấm lòng của con người:

81

Diêm vương ra lệnh về âm phủ

Vàng quý đắp đống mang được đâu

Thịt rượu khuyên người đừng tham uống

Thì giờ mau qua không trở lại

Nghìn vàng lạng quý đều tiêu tan

Bao quát hơn là câu chuyện về cuộc đời, số phận con người được truyền

tải trong các lời khuyên. Từ đó, tạo nên sự khác biệt so với nội dung một số

truyện thơ Nôm khác:

Một dạng cơm trà bao dạng người?

Cùng thời trời sáng cùng giờ đêm

Bao người giàu nghèo có bao người

Có tiền nói năng như tiếng sấm

Không tiền nói năng tiếng vịt đực

Người Sán Dìu có quan niệm về cuộc đời “Một hạt gạo ăn ra nhiều loại

người”, mỗi người sinh ra không ai giống ai, họ đều có tính cách, số phận

riêng nhưng không nên vì của cải trước mắt mà đánh giá người khác. “Tiếng

sấm” đây là một hiện tượng tự nhiên diễn ra khi trời mưa, sấm tạo ra âm vang

lớn vạn vật đều nghe thấy. Lối so sánh quen thuộc với hình ảnh trong cuộc

sống, tác giả dân gian ví “có tiền nói năng như tiếng sấm”, “không tiền nói

năng tiếng vịt đực”, tác giả dân gian đã khéo léo khắc họa phong cách ứng xử

của hai loại qua ngôn ngữ của họ.

Kiểu kết cấu “truyện lồng truyện” này chúng ta cũng hay bắt gặp, như

trong truyện Lưu Tương của dân tộc Tày, tác phẩm kể về nhân vật Lưu Tương

chàng trai anh dũng tài giỏi được vua gả công chúa cho, sau đó trải qua nhiều

sóng gió và biến cố cuối cùng gia đình đoàn tụ sống trong sung túc, bình an.

Còn với Mở trời dựng đất cũng là “truyện lồng truyện” nhưng đó là những câu

chuyện của cuộc sống lao động thường ngày của đồng bào. Không có biến cố

hay đoàn tụ mà các nhân vật trữ tình thể hiện quan điểm cách nhìn nhận cuộc

82

sống theo tư tưởng Nho, Phật, Đạo… tất cả các yếu tố đó là sự tổng hòa thành

bài học triết lý nhân sinh của dân tộc Sán Dìu.

3.3.3. Sự kết hợp kết cấu tự sự - trữ tình

Mở trời dựng đất là câu chuyện về đời sống đồng bào dân tộc miền núi

phía Bắc. Tác phẩm là truyện nhưng truyện lại ở trong thơ, và thơ ở trong

truyện. Mở trời dựng đất đã được người Sán Dìu xây dựng và kết hợp từ nhiều

câu chuyện khác nhau trong đời sống để tạo thành tác phẩm. Đã là truyện tác

phẩm này cũng không nằm ngoài quỹ đạo loại hình tự sự. Đó là những câu

chuyện xoay quanh chủ đề về gia đình và xã hội. Đối với gia đình, cha mẹ dạy

bảo con cháu chữ “đạo”, với các con phải biết làm tròn chữ “hiếu”. Đan xen

vào đó là chất trữ tình, biến những lời dạy bảo khô cứng hàng ngày trở thành

thơ. Có thể nói “Sự” là thể xác mà “Tình” được coi là linh hồn của tác phẩm.

Với kết cấu truyện trong thơ và thơ trong truyện thì “Sự” xuất hiện trước để

làm điểm tựa cho “Tình”. Thế nhưng cũng có đoạn thơ “Tình” xuất hiện trước

để chi phối sự lựa chọn các tình tiết, sự kiện, nhân vật để thực hiện ý đồ của tác

giả là làm cho “Sự” được rõ ràng, rành mạch hơn. Sự kết hợp giữa tự sự và trữ

tình đã làm cho tác phẩm trở nên thống nhất và thành một chỉnh thể trọn vẹn,

có khi lại bổ sung tôn nhau lên. Đôi lúc ranh giới giữa tự sự và trữ tình tạm thời

bị xoá nhoà, che lấp. Thế nhưng có những lúc hai yếu tố này giao thoa hòa

quyện với nhau. Tự sự xuất hiện như hòa vào cái dàn trải mênh mông của cảm

xúc trữ tình. Mỗi chi tiết, hành động của nhân vật đều gắn với những trạng thái

tình cảm con người.

Chất thơ đã làm cho câu văn răn dạy trở nên ý nghĩa và đi lòng người đọc

một cách nhẹ nhàng và tinh tế. Chẳng hạn, như ở lời khuyên thứ hai dành cho

“gái, dâu, vợ’”, đồng bào dạy bảo công việc sinh hoạt hàng ngày của người

phụ nữ trong gia đình, sớm chiều bưng chậu nước đến để cha mẹ rửa mặt, khi

cha mẹ rửa mặt xong pha trà giót mời cha mẹ uống. Đồng bào cho rằng nếu

khi còn sống hiếu thuận sẽ sinh ra con hiếu thuận, còn “ngỗ ngược” lại “hoàn

83

sinh con ngỗ ngược”, quan niệm đó do ảnh hưởng từ Đạo phật “nhân, quả, báo

ứng”. Còn chất trữ tình chính là tâm trạng, suy ngẫm của tác giả dân gian:

Lời tốt lắng nghe cha mẹ dạy

Giả ngôn giả ngữ hướng sau đầu

Không tin hãy nhìn nước dưới thềm

Giọt giọt xuống đất thấm nơi nơi.

Nước rơi dưới thềm nước ngấm xuống đất, cũng như những lời dạy bảo

chân tình của cha mẹ, làm phận con nên nghe theo không nên cãi lại lời cha mẹ.

Bởi đó, không chỉ là lời dạy bảo trong cuộc sống hàng ngày, đó là lời dạy về

cuộc đời, dạy về số phận cho mỗi con người. những vần thơ trên làm cho chúng

ta liên tưởng đến ca dao người Việt, mỗi câu ca là một lời dạy bảo ân tình:

Con ơi! Mẹ bảo con này,

Học buôn, học bán cho tày người ta.

Con đừng học thói chua ngoa,

Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng.

Trước là đẹp mặt cho chồng,

Sau là họ mạc cũng không chê cười.

(Ca dao người Việt)

Đó là chất trữ tình sâu lắng ở trong tác phẩm, giờ đây câu nói hàng ngày

đã trở thành câu thơ ý nghĩa. Tác phẩm đã miêu tả nhiều mặt trong đời sống

hiện thực, thể hiện sự cảm nhận đối với đời sống hiện thực của người Sán Dìu.

Như vậy, nội dung của tác phẩm bao giờ cũng được phản ánh thông qua hình

thức nghệ thuật. Truyện thơ là thể loại mang trong mình đầy đủ cả hai đặc tính

của văn học là tự sự và trữ tình. Nó hòa quyện vào nhau làm cho câu chuyện

thuyết phục, chính xác, lời văn thêm sinh động, lãng mạn trữ tình. Trong Mở

trời dựng đất câu răn dạy hàng ngày được thể hiện bằng lời thơ tự sự, kết hợp

84

chất trữ tình giàu hình ảnh, cảm xúc, nhờ đó các câu chuyện được nổi bật, hai

yếu tố này giữ vai trò chủ chốt trong tác phẩm.

Nếu như ở các truyện Nôm khác chất trữ tình thường được bộc lộ qua tâm

trạng của nhân vật như trong Tiễn dặn người yêu, hay Lưu Tương đó là cuộc

gặp gỡ giữa công chúa Long vương và Lưu Tương. Khi công chúa kén rể đã 10

ngày trôi qua mà nàng không tìm được “ý trung nhân”, nàng quyết định lên

dương gian mong tìm gặp được “ý trung nhân”. Ngay giây phút ban đầu gặp gỡ

cả hai người đã nảy nở tình yêu. Cả hai đã thề hẹn và trao nhau vật làm tin, khi

xa nhau họ không hề chán nản bi thương, không oán hận sầu đau, có hay chăng

chỉ là lời trách móc nhẹ nhàng:

Ai ngờ bạn bội ước lòng gian

Lại lấy gái dương gian làm vợ.

(Truyện thơ Lưu Tương – dân tộc Tày)

Điểm khác biệt trong Mở trời dựng đất là chất trữ tình được bộc lộ qua

lời kể của tác giả dân gian. Vì ở phần sau của truyện không có nhân vật cụ thể,

đó là những lời dạy, bài học triết lý nhân sinh của đồng bào. Do đó, chất tự sự

được tăng lên, nhưng những câu chuyện vẫn không gây nhàm chán mà ngược

lại nhờ có chất trữ tình, ý nghĩa câu chuyện được nổi bật, làm tăng chất thơ

trong tác phẩm:

Có người cùng tuổi ở nhà ngói

Có người cùng tuổi ở nhà sáng

Có người cùng tuổi đi muôn nơi

Có người cùng tuổi không ra ngõ

Có người cùng tuổi ngồi trên ngựa

Có người cùng tuổi làm quan chức

Có người cùng tuổi thân đắng cay

Có người cùng tuổi không con cái

Có người cùng tuổi không vợ chồng.

85

Đó là lời thơ thể hiện tâm tình con người miền núi, việc sử dụng dày đặc

biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, cụm từ “có người cùng tuổi” được nhấn mạnh,

họ muốn nói đến mỗi người trong cuộc đời đều có số phận, cuộc đời, tính cách

riêng, không ai giống ai. Chúng ta cần hiểu và thông cảm cho những số phận

bất hạnh, bé nhỏ, và lên án để loại bỏ những điều xấu trong xã hội. Đó là bài

học nhân sinh mà đồng bào Sán Dìu muốn gửi đến các thế hệ lời khuyên

“Dừng bút trở đầu nghĩ làm theo”. Nhờ có chất trữ tình mà những lời dạy bảo

đã trở thành lời thơ giàu hình ảnh và mang nhiều cảm xúc, sắc thái khác nhau.

Bên cạnh đó chất trữ tình còn được bộc lộ qua khung cảnh thiên nhiên

tươi đẹp, thơ mộng đậm chất văn hóa Sán Dìu. Thiên nhiên xuất hiện trong

truyện thơ gắn với tâm lý của nhân vật. Đó là tâm lý của nhân vật Phục Nghĩa

khi trời đất chuẩn bị xảy ra nạn đại hồng thủy:

Phục Nghĩa thấy hoa nhiều linh cảm

Liền lấy mầm hoa trồng trong vườn

Mầm hoa trải qua ba ngày tháng

Sinh ra hoa to dài ba trượng

Phục Nghĩa thấy hoa mà không hái

Tiện để hoa nở làm cái bầu

Lá rụng để lại hoa tự chín

Xem chừng bầu già liền hái về

Nhờ có chất trữ tình mà khung cảnh thiên nhiên miền núi được hiện lên

chân thực và sinh động. Với màu sắc rực rỡ và âm thanh vang dội, đó là âm

thanh chim kêu, gió thổi, rừng cây xào xạc, của sông, suối, trời đất. Bên cạnh

những âm thanh diệu kì trong thần thoại đó là gam màu sặc sỡ của cây hoa lá,

là ánh sáng lúc bình minh, khi chiều tà, lúc trăng xế, khi sao khuay. Sự thay

đổi của cảnh sắc thiên nhiên được thể hiện rất rõ qua tâm trạng nhân vật “Phục

Nghĩa thấy hoa nhiều linh cảm”. Thiên nhiên trong tác phẩm hiện lên với dáng

vẻ hoang vu, kì ảo, in đậm màu sắc bí hiểm của miền sơn cước.

86

3.4. Không gian thời gian nghệ thuật truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

3.4.1. Khái niệm không gian, thời gian nghệ thuật

Ngoài các yếu tố tạo nên hình thức nghệ thuật, trong văn bản tác phẩm cụ

thể bao giờ cũng có yếu tố không gian. Không gian chính là môi trường sống,

hay nói cách khác là môi trường hoạt động của nhân vật. Có không gian thì

nhân vật mới bộc lộ rõ hành động của mình, hành động của nhân vật cành

nhiều thì không gian càng lớn. Do đó, không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng

tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một phương diện

nhất định của cuộc sống.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học “không gian nghệ thuật là hình thức bên

trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”[25,tr160].

Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học GS.Trần Đình Sửu viết: “Không gian

trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật”. Ông còn khẳng định “không có

hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào

không có một nền cảnh nào đó, và không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo

của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất

định về cuộc sống, do đó không thể quy nó như là sự phản ánh giản đơn không

gian địa lý hay không gian vật lý, vật chất”[33.tr.88-89]. Chúng ta thấy rằng

không gian nghệ thuật là một hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, không

có hình tượng nghệ thuật nào có thể tồn tại ngoài không gian. Mỗi không gian

nghệ thuật đều có đặc trưng riêng, do phản ánh thế giới nghệ thuật mang tính

chủ quan của tác giả. Nghiên cứu tìm hiểu không gian nghệ thuật chính là việc

khám phá, phát hiện những quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người.

Cùng với không gian nghệ thuật thì thời gian nghệ thuật cũng là hình thức

tồn tại của tác phẩm. Thời gian nghệ thuật được hiểu là: “Là hình thức nội tại

của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó…Thời gian nghệ

thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các

hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ. Chia tay, mùa này,

87

mùa khác,… tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm. Như vậy, thời gian nghệ thuật

gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật”[25,tr.322]. Qua đó,

chúng ta thấy thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sỹ, là

hình tượng nghệ thuật, mang tính biểu tượng quan niệm của nhà văn về cuộc

sống và con người.

Tóm lại, không gian, thời gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức

nghệ thuật và là một phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Không gian

nghệ thuật, thời gian cho chúng ta thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm, các tầng

ngữ nghĩa ngôn từ, quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả trong

tác phẩm văn học.

3.4.2. Không gian nghệ thuật trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Bất kỳ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng có không gian để hình tượng

nghệ thuật tồn tại và bộc lộ mình. Và con người trong truyện thơ Mở trời dựng

đất cũng không tồn tại ngoài không gian. Đọc tác phẩm ta thấy nổi bật lên là

không gian vũ trụ với sự hiện thân của hình tượng “ông trời” và không gian xã

hội bản mường, làng quê, gia đình. Đồng thời ta còn thấy được một không gian

thiên nhiên tươi đẹp giàu sức sống của đồng bào Sán Dìu.

Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học được thể hiện ở thế giới

tinh thần mà người nghệ sĩ muốn biểu đạt, muốn phô diễn. Không gian nghệ

thuật là một sản phẩm của một quan niệm, cho nên nó là hình tượng không gian

có tính chủ quan, tượng trưng nó gắn với điểm nhìn, trường nhìn và tầm nhìn

của tác giả. Do đó, mỗi tác giả thể hiện cái nhìn riêng của mình về cuộc sống,

cuộc đời trong tác phẩm. Vì thế, mỗi tác phẩm mang nét sáng tạo, mởi mẻ, độc

đáo khác nhau tạo cho kho tàng văn học càng thêm phong phú và đồ sộ. Với

truyện thơ Mở trời dựng đất, không gian nghệ thuật đươc thể hiện qua cái nhìn

trực diện của tác giả dân gian. Và qua tầm nhìn, hành động, suy nghĩ của nhân

vật. Do đó, chúng ta thấy không gian trong tác phẩm hiện lên thật đa chiều.

88

Truyện thơ Mở trời dựng đất không gian vũ trụ - ông trời được tác giả

dân gian miêu tả khá nhiều. Ông trời không chỉ được vẽ lên như một thực thể

tự nhiên, khách quan của thế giới vũ trụ, mà hình tượng ấy còn được biểu hiện

như một đấng siêu nhiên, một thế lực vô cùng huyền bí có sức mạnh chi phối

mọi hoạt động của con người.

Trong phần đầu của tác phẩm không gian vũ trụ - ông trời được được tác

giả dân miêu tả với một không gian rộng lớn đa chiều:

…Trời đất chín vạn dặm

…Trời đất tối mông lung,

Vạn dặm sông hồ…

Người Sán Dìu chủ yếu nói về các hiện tượng thiên nhiên trên bầu trời và

không gian dưới mặt đất trải dài và rộng khắp. Hình tượng ông trời ẩn chứa

trong mình một sức mạnh vô hình, bí hiểm. Ông trời như nói với Phục Nghĩa

về một điều hệ trọng sắp xảy ra đó chính là nạn đại hồng thủy, một sự kiện về

hiện tượng tự nhiên khủng khiếp khiến muôn loài bị diệt vong:

Trời cử chim én bay cùng gà,

lấy miệng ngậm hoa và thả xuống,

Trước sự kiện khác thường như vậy, Phục Nghĩa đã có nhiều linh cảm

chẳng lành về tương lai phía trước. Sau đó, ông trời thể hiện sức mạnh và

quyền năng của mình: “đầy trời hồng thủy nóng như canh” cũng chính ông trời

là người đã cứu chị em Phục Nghĩa và gián tiếp tạo ra loài người.

Trong phần sau của tác phẩm là những lời khuyên của đồng bào dành cho

thế hệ sau. Ông trời được tác giả dân gian miêu tả là người nhìn thấu mọi sự

vật, hiện tượng, hoạt động của con người. Nếu làm những việc trái với đạo đức

lương tâm sẽ bị trừng phạt. Con cháu sống không có hiếu với cha mẹ:

Đời sau phải kính ba sông.

89

Anh em trong gia đình sống hòa thuận, yêu thương, giúp đỡ, che chở bảo

vệ lẫn nhau cuộc sống sẽ gặp nhiều may mắn và thuận lợi. Cũng giống như trời

đất mưa thuận gió hòa thì dưới đất vạn vật sẽ sinh sôi nảy nở:

Trên trời hợp thời mưa gió thuận,

Dưới đất hòa thời trăm cỏ mọc.

Không gian lúc này không còn là vũ trụ bao la nữa mà đã mở rộng theo

điểm nhìn của tác giả dân gian. Đó là dòng sông rộng mênh mông muôn vàn,

vạn dặm, với những trắc trở gập gềnh mà “đời sau” phải gánh chịu nếu đắc tội

với chữ hiếu. Hay vẫn là không gian vũ trụ - ông trời thế nhưng có lúc lại thơ

mộng như ánh hoàng hôn dưới chân núi, lại vừa chứ đựng những bài học nhân

sinh sâu sắc:

Mặt trời xuống núi có hoàng hôn

Người hiền xử thế biết ngừng thôi

Người ngu nói ra không định trước

Nói trước lường sau người quân tử

Có thể thấy, khi tiếp xúc với không gian vũ trụ trong Mở trời dựng đất,

chúng ta đã tiếp nhận được tư duy của Sán Dìu về quan niệm cuộc sống, tôn

giáo, tín ngưỡng. Qua việc khảo sát không gian vũ trụ trong tác phẩm, chúng ta

nhận thấy cái nhìn của tác giả trong truyện thơ Mở trời dựng đất về không gian

vũ trụ - ông trời là một đấng quyền năng siêu nhiên, bí hiểm luôn bám sát, điều

khiển, nhìn rõ mọi hoạt động của con người. Hình ảnh ấy như lý giải hiện

tượng tự nhiên và phản ánh đời sống xã hội, tư tưởng và tâm hồn của đồng bào

dân tộc miền núi. Chính những nét sáng tạo độc đáo về không gian nghệ thuật

đã tạo dấu ấn riêng cho văn học dân gian Sán Dìu trong dòng chảy văn học dân

gian Việt Nam.

Không gian thiên nhiên hòa quyện cùng không gian vũ trụ tạo nên những

ngọn núi cao, vực sâu. Nhưng dưới ngòi bút tài hoa của người Sán Dìu, hình

ảnh thiên nhiên đấy mang một vẻ đẹp độc đáo. Đó là tình yêu thiên nhiên, niềm

90

tự hào, đối với quê hương miền núi yêu dấu của đồng bào. Hình ảnh núi rừng

là khung cảnh thiên nhiên gần gũi, bình dị của làng bản đồng bào miền núi.

Mọi cảm xúc của tác giả đều in đậm dấu ấn bản sắc sắc văn hóa dân tộc mình.

Ẩn chứa đừng sau vẻ đẹp bình dị bức tranh làng quê đó là lời khuyên về “đối

nhân xử thế” trong đời sống hàng ngày của người Sán Dìu:

Ngô đồng lá rụng dễ ở lại

Trong già trúc rừng sinh măng non

Thế giới thiên nhiên miền núi hiện ra với muôn màu muôn vẻ, thiên nhiên

ấy không hoàn toàn hoang vu, huyền bí, càng không phải là “rừng thiêng nước

độc”, mà đó là thế giới của thiên nhiên tươi đẹp, bình dị nơi thôn quê, giàu chất

chữ tình. Dân tộc Sán Dìu đã lựa chọn những hình ảnh đặc trưng cho cuộc sống

đồng bào mình vào trong thơ văn. Vì thế, lời văn vừa giản dị, mộc mạc, chất

phát nhưng truyền tải nhiều thông điệp ý nghĩa đến thế hệ bạn đọc.

Không gian gia đình, làng bản là không gian sinh hoạt luôn gần gũi với

cuộc sống của con người. Các hình ảnh về không gian gia đình, làng bản, được

thể hiện trong tác phẩm rất phong phú và đa dạng. Những hình ảnh quen thuộc

trong đời sống sinh hoạt của người Sán Dìu đều đi vào tác phẩm và trở thành

không gian nghệ thuật. Gia đình là mái che chở cho con người, là nơi trú ngụ

cho tâm hồn yên tĩnh. Nó là trụ cột vững chãi nhất cho con người dựa vào mỗi

khi mệt mỏi. Vòng tay cha mẹ là cái nôi nuôi ta khôn lớn và trưởng thành. Quê

hương là nơi dù đi xa luôn khiến lòng ta nhớ về. Sau mỗi lời thơ đồng bào đều

gửi gắm vào đó những bài học nhân sinh cho mọi thế hệ. Đó là truyền thống

văn hóa của người Sán Dìu. Và thể hiện cách tổ chức nghệ thuật khác biệt với

thể loại truyện thơ của các dân tộc anh em:

Cửa nhà hiếu thuận thời chẳng lo

Trượng phu tiếp khách ngồi trên phản

91

Trong nhà vợ hiền lo cơm canh.

Từ không gian bầu trời, tới không gian bản làng, đến không gian gia đình

tất cả đều thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc của người Sán Dìu. Ngoài ra việc

xây dựng không gian nghệ thuật độc đáo tác giả dân gian đã vẽ nên một bức

tranh toàn cảnh về cuộc sống sinh hoạt, phong cảnh, con người của đồng bào

miền núi. Qua bức tranh cho chúng ta hiểu về phong tục tập quán, đời sống tâm

hồn của người Sán Dìu. Nhờ có không gian ấy mà khi đọc tác phẩm chúng ta

thấy những lời khuyên như đi vào cuộc sống hiện thực. Chính sự sáng tạo nghệ

thuật đó đã làm cho Mở trời dựng đất có sức sống mãnh liệt trong đời sống tinh

thần của dân tộc Sán Dìu, và sự trường tồn cùng thời gian. Đồng bào luôn coi

những lời khuyên răn dạy bảo trong Mở trời dựng đất như “Kinh sách dạy con”

mà mỗi thế hệ cần học tập, trau dồi để hoàn thiện bản thân.

3.4.3. Thời gian nghệ thuật trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.

Thời gian trong Mở trời dựng đất được hiện hình khá phong phú: có xưa

nay, có quá khứ, hiện tại, tương lai, có tháng năm. Sự hiện hình của thời gian

trong Mở trời dựng đất được bộc lộ ở nhiều hình thức: có khi là sự vận động

của vũ trụ, có khi là sự biến đổi của cảnh sắc thiên nhiên, hay cũng có khi là sự

biển đổi của suy nghĩ, tâm trạng nhân vật. Dù có biểu hiện dưới muôn hình

muôn vẻ nhưng thời gian trong tác phẩm vẫn luôn có xu hướng là truyền tải

đến mọi thế hệ những bài học nhân sinh ý nghĩa. Đó là quan niệm thời gian

trong Mở trời dựng đất.

Thời gian hiện thực trong tác phẩm được đo bằng tháng năm cụ thể.

Tháng năm ở đây không phải là thời để đôi lứa tỏ tình, hay bộc lộ cảm xúc của

một nhân vật trữ tình cụ thể về một sự kiện nào đó. Mà tháng năm ở đây dùng

để tác giả truyền tải đến con cháu kinh nghiệm cuộc sống, sinh hoạt, lao động

sản xuất. Nhất là đối với đồng bào Sán Dìu khi di cư sang nước Việt đã kế thừa

truyền thống văn hóa lúa nước. Bởi thế, trong những lời răn dạy người Sán Dìu

đã truyền lại cho con cháu nhiều bài học quý giá về lao động sản xuất. Ngày

92

xuân cây cối tươi tốt, vạn vật sinh sôi nảy nở, mọi người dân trên đất Việt đều

xuống đồng để tham gia lao động sản xuất. Điều đó, được thể hiện bằng những

lễ hội lớn khi xuống đồng như lễ hội Cày tịnh điền, lễ hội Lồng Tồng… đồng

bào cũng luôn nhắc nhở con cháu “đừng để xuân đến lười cày cấy”, “trời xuân

tiết đến sớm cày ruộng”. khi đến mùa vụ thu hoạch “lúa sớm đừng để quá hè”.

Qua thời gian người tiếp nhận như hiểu rõ hơn về nếp sống, nếp sinh hoạt của

đồng bào dân tộc miền núi.

Cũng giống như trong các truyện thơ Nôm khác, thời gian tâm lý được thể

hiện khá rõ trong tác phẩm thông qua lời kể của nhân vật trữ tình. Nếu như

trong ở trong Tiễn dặn người yêu của dân tộc Thái, thời gian tâm lý dùng để

bộc lộ cảm xúc tình yêu của cặp đôi nhân vật Anh yêu và Em yêu, đó là tình

yêu của tuổi trẻ, hạnh phúc lứa đôi, giây phút tình tự trong đời người trôi nhanh

vùn vụt:

Đôi ta gặp nhau nơi sàn hoa

Tâm tình bên bếp lửa

Chuyện nối chuyện qua mau

Ngón tay thon lá lành

Đôi mắt đẹp dài như lá trầu không

(Truyện thơ Tiễn dặn người yêu – dân tộc Thái)

Thì trong Mở trời dựng đất thời gian tâm lý dùng để bộc lộ cảm xúc của

nhân vật trữ tình. Tác giả dân gian bày tỏ thái độ phê phán trước lối sống lười

biếng của con cháu. Với bản tính mộc mạc, giản dị, chất phác họ đã trực tiếp

bộc lộ cách nghĩ, cách cảm, về những vấn đề cuộc sống thường ngày. Lối diễn

đạt mang đậm phong cách người miền núi, đã cho người đọc cảm nhận được

cuộc sống hàng ngày của quê hương, dân tộc mình :

Đừng nên học kẻ lười lao động

Kẻ lười không gạo bụng đói khổ

93

Vợ con muốn mặc không quần áo

Con cái muốn ăn không gì ăn

Vạn khoảnh thửa ruộng không cày cấy

Làm người uổng phí ở trần gian

Bên cạnh thời gian tâm lý, trong truyện thơ còn xuất hiện nhiều yếu tố của

thời gian huyền ảo siêu thực. Kiểu thời gian này được sử dụng nhiều trong thần

thoại, truyền thuyết. Thời gian huyền ảo là thời gian của quá khứ, hiện tại được

đan cài với nhau tạo nên tính chất hư ảo. Và theo đó, việc ảo hóa thời gian có

vai trò nới rộng biên độ thời gian trần thuật.

Trong truyện thơ Mở trời dựng đất loại thời gian này được tác giả sử dụng

với hai điểm nổi bật sau. Thứ nhất là đặc điểm thời gian không xác định, không

vận động. Truyền thuyết Con rồng cháu tiên, khi tác giả dân gian giới thiệu về

nhân vật Lạc Long Quân có viết “ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây

giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ,

tên là Lạc Long Quân…”[63]. Tác giả đã vận dụng kiểu thời gian huyền ảo khi

giới thiệu về nhân vật, sự pha trộn giữa quá khứ và hiện tại. Còn trong Mở trời

dựng đất, thời gian không xác định được thể hiện ở phần đầu tác phẩm, khi họ

miêu tả lại quá trình Vua Bàn Cổ khai thiên lập địa, tạo ra vũ trụ trời đất:

Thủa xưa Bàn Cổ phân trời đất

Đặt ra trời đất chín vạn dặm

Đương xưa trời đất chưa từng có

Đương xưa trời đất tối mông lung

“Thủa xưa, đương xưa”, đây là kiểu thời gian không xác định, không vận

động, vì tác giả không nói cụ thể ngày tháng năm, họ chỉ viết chung về quá khứ

sự ra đời của dân tộc mình. Việc sử dụng kiểu thời gian huyền ảo này cho

chúng ta thấy, người Sán Dìu như ngầm định rằng chính Vua Bàn Cổ mới là

“Thủy tổ” của trời đất, vũ trụ, con người. Có thể thấy, mặc dù tác phẩm là

94

truyện thơ nhưng lại mang màu sắc nghệ thuật thần thoại, điều đó thể hiện nét

đặc sắc, sáng tạo trong việc xây dựng nghệ thuật truyện thơ dân tộc Sán Dìu.

Thứ hai là kiểu thời gian gắn với hiện tượng kì ảo mang tầm vóc phi

thường. Tiêu biểu ở các nhân vật như Vua Bàn Cổ, Phục Hy, Phục Nghĩa, Nữ

Oa… Như trong nhân vật Vua Bàn Cổ, Nữ Oa, Phục Nghĩa, kiểu thời gian này

được tác giả miêu tả họ có sức mạnh, tài năng phi thường, tạo ra trời đất và con

người. Đó là “Đôi mắt của Bàn Cổ đã thành Mặt trời và Mặt trăng. Hàng vạn

sợi tóc của Bàn Cổ đã thành vô số các vì sao. Lông tay, lông chân đã trở thành

thảo nguyên. Thịt của Bàn Cổ đã trở thành đồi núi cao thấp, máu của Bàn Cổ

đã trở thành giang hồ, đại dương, răng của Bàn Cổ đã trở thành san hô, xương

của Bàn Cổ đã trở thành rừng cây, hơi thở sau cùng của Bàn Cổ đã trở thành

gió. Bàn Cổ qua đời nhưng Bàn Cổ đã để lại thế giới tự nhiên cho con người”

[58], và cuối cùng là sự ra đời của con người:

Tạo ra lớp người có mắt thẳng

Sự này thế gian truyền muôn đời

Lưu truyền đời sau biết tiền nhân

Như vậy, việc sử dụng thời gian huyền ảo siêu thực trong tác phẩm đã cho

thấy sự sáng tạo mới mẻ của thể loại truyện thơ Sán Dìu. Không gian, thời gian

là yếu tố không thể thiếu trong tác phẩm văn học. Các nhân vật không thể tồn

tại ngoài không gian thời gian. Mối quan hệ giữa con người với không gian thời

gian là một mối quan hệ gắn bó, mật thiết. Không gian làm nổi bật con người,

thấu hiểu được đời sống, tâm tư tình cảm của người Sán Dìu. Thời gian trong

Mở trời dựng đất, không chỉ là thời gian hiện thực, mà nó còn thể hiện tầm

nhìn, quan niệm của nhân vật.

Qua việc tìm hiểu không gian, thời gian nghệ thuật trong tác phẩm chúng

ta thấy được nét đẹp trong văn hóa, văn học dân tộc Sán Dìu, khẳng định giá trị

của truyện thơ Mở trời dựng đất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.

95

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Trong chương ba của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu về

phương diện nghệ thuật truyện thơ, đặc điểm nghệ thuật xây xựng nhân vật,

ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu, không gian, thời gian trong truyện thơ Mở trời

dựng đất dưới góc nhìn văn hóa.

Yếu tố không thể thiếu để khẳng định giá trị tác phẩm là nghệ thuật xây

dựng nhân vật. Khi tiếp cận văn hóa trong văn học, điều không thể bỏ qua đó là

lấy con người làm trung tâm. Mỗi nhân vật được khắc họa rõ nét qua lời ăn

tiếng nói, suy nghĩ cử chỉ, hành động. Từ đó nhấn mạnh, xoáy sâu vào quan

niệm triết lý nhân sinh của người Sán Dìu trong tác phẩm. Thông qua lời ăn,

tiếng nói, suy nghĩ, hành động của nhân vật đồng bào đã khái quát giá trị về

văn hóa, văn học của dân tộc Sán Dìu.

Về kết cấu, truyện thơ Mở trời dựng đất có sự sáng tạo ở kiểu kết cấu

“truyện lồng truyện”, tăng chất tự sự cho cốt truyện, xu hướng trữ tình hóa tác

phẩm... Với kiểu kết cấu này tác giả dân gian đã giúp cho người đọc, người

nghe hình dung ra nội dung, sự kiện, nhân vật sẽ được kể ở trong truyện. Bên

cạnh đó tác giả đã đưa ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày vào tác phẩm, và

nhào nặn những lời dạy bảo thô cứng trở thành thơ mang đậm dấu ấn văn hóa

Sán Dìu. Tiếp đến là sự kết hợp giữa giọng điệu và không gian, thời gian trong

tác phẩm. Sự kết hợp này cho chúng ta thấy truyện thơ Sán Dìu vừa độc đáo

vừa gần gũi với bạn đọc các thế hệ và thuộc các dân tộc khác nhau. Từ việc

nghiên cứu giá trị nghệ thuật của thiên truyện, chúng ta có thêm sự hiểu biết về

văn hóa Sán Dìu được gửi gắm qua các sáng tác nghệ thuật. Từ đó, góp

thêm tiếng nói tự hào về truyền thống, mạch nguồn văn hóa của các dân tộc

thiểu số Việt Nam.

96

KẾT LUẬN

1. Nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập quốc

tế là một việc làm cần thiết nhằm bảo tồn và phát huy sự đa dạng văn hóa góp

phần phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam. Nghiên

cứu và giới thiệu các tác phẩm cụ thể như truyện thơ Mở trời dựng đất có ý

nghĩa không nhỏ, qua đó thể hiện ý thức tộc người và trách nhiệm của mỗi

người Sán Dìu nói riêng, người Việt Nam nói chung trong việc gìn giữ bản sắc

văn hóa truyền thống trong thời kỳ đất nước hội nhập và phát triển.

2. Có thể khẳng định rằng, nghiên cứu truyện thơ Mở trời dựng đất là

một vấn đề phức tạp, khó khăn khi chúng ta nghiên cứu nó chủ yếu dựa vào các

văn bản tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt. Để tìm hiểu sâu kỹ được tác phẩm

và các truyện thơ dân gian Sán Dìu, mỗi chúng ta cần phải trang bị kiến thức

nhất định về văn hóa tộc người và văn hóa của tộc người Sán Dìu. Đó là việc

cần phải biết khai thác triệt để những giá trị xuất sắc nhất trên văn bản dịch có

đối chiếu với nguyên bản trong những trường hợp cụ thể và cần thiết.

3. Về nội dung, truyện thơ Mở trời dựng đất đã góp phần lưu giữ nhiều

giá trị văn hóa quý báu của người Sán Dìu như: lưu giữ giá trị văn hóa tinh

thần, truyền thống tương thân, tương ái... hay quan niệm về bài học triết lý

nhân sinh đã được người Sán Dìu đúc kết qua hàng trăm năm sinh sống trên

nước Việt. Lời thơ dạy bảo mộc mạc, chân tình những giá trị này rất nên và rất

cần được trao truyền cho thế hệ sau để mỗi người Sán Dìu nói riêng, mỗi người

con đất Việt nói chung hiểu hơn và biết tiếp thu, kế thừa những truyền thống

quý báu đó.

4. Về nghệ thuật, truyện thơ Mở trời dựng đất bên cạnh việc kế thừa các

đặc điểm cơ bản của kho tàng truyện cổ dân gian Trung Hoa còn có những

điểm mới như: kết cấu với sự sáng tạo kết cấu “truyện lồng truyện”, sự kết

hợp hài hòa, khéo léo giữa “sự” và “tình”; đặc biệt việc sử dụng hệ thống từ

ngữ mang đậm bản sắc Sán Dìu, sử dụng các điển tích, điển cố trong ngụ ý mỗi

97

câu chuyện, từ đó đã tạo nên sức cuốn hút nhất định đối với độc giả, đặc biệt là

độc giả người Sán Dìu có lòng tự hào về văn hóa truyền thống dân tộc. Thêm

vào đó tác giả dân gian còn vận dụng một cách khéo léo, hài hòa các biện pháp

tu từ quen thuộc như ẩn dụ, so sánh, phép điệp... và một số biện pháp tu từ khác

tạo hiệu quả nghệ thuật cao để truyền tải những nội dung quý giá trong truyện

thơ. Về phương diện giọng điệu, tác phẩm mang giọng điệu trữ tình đạo đức và

giọng điệu dân dã, gần gũi mang đậm bản sắc văn hóa Sán Dìu. Giọng điệu

xuất phát từ chính tâm tư, tình cảm của đồng bào khi viết về cội nguồn, quê

hương, đất nước và con người dân tộc mình.

5. Qua việc nghiên cứu đề tài “Truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn

văn hóa”, chúng tôi mong muốn tác phẩm sẽ được vận dụng đưa vào giảng dạy

trong phần văn học địa phương ở trường phổ thông tỉnh Thái Nguyên. Qua đây,

Chúng tôi hy vọng, kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ tạo cơ sở cần thiết cho

những đánh giá tiếp theo về truyện thơ Mở trời dựng đất nói riêng và văn học

dân gian Sán Dìu nói chung. Đây sẽ là cầu nối để tác phẩm thực sự đến gần hơn

với những người say mê và trân trọng văn học cổ, trân trọng những giá trị

truyền thống rất đỗi tự hào của cha ông, nhất là trong hoàn cảnh đất nước đang

hội nhập ngày một sâu rộng như hiện nay.

98

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin.

2. Triều Ân (chủ biên) (1994), Truyện thơ Nôm Tày, Tập 1, Nxb Văn hóa dân

3. tộc.

4. Triều Ân (chủ biên) (1994), Ca dao Tày - Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc.

5. Triều Ân (chủ biên) (1995), Truyện thơ Nôm Tày, Tập 2, giải ba công trình

nghiên cứu năm 1995 của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.

6. Triều Ân (chủ biên) (2003), Chữ Nôm Tày và truyện thơ, Nxb Văn học.

7. Triều Ân (2004), Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại, Nxb Văn học.

8. Hoàng Triều Ân (2008), Văn học Hán Nôm dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân

tộc.

9. Triều Ân (2011), Ba truyện thơ Nôm Tày từ truyện Nôm khuyết danh

Việt Nam, Nxb VHTT.

10. Nông Quốc Chấn (chủ biên) (1964), Truyện thơ Tày - Nùng, Tập 1,

Nxb Văn học.

11. Nông Quốc Chấn (chủ biên) (1964), Truyện thơ Tày - Nùng, Tập 2, Nxb

Văn học.

12. Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Mạc Phi, Hoàng Thao, Hà Văn

Thư (1975), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam - Văn học dân tộc thiểu số,

Nxb Văn hóa Viện văn học.

13. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

14. Diệp Trung Bình (2011), Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người của người

Sán Dìu ở Việt Nam , Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

15. Nguyễn Xuân Chiến (2012), Tổ chức xã hội và văn hóa của người Sán Dìu

ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (1945- 2010),ĐHSPTN

16. Lê Nguyên Cẩn (2013), Tiếp cận văn hóa học từ góc nhìn văn hóa, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội.

17. Lê Quý Đôn (1977), Kiến Văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

99

18. Hà Minh Đức (chủ biên), Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Phạm Thành

Hưng, Nguyễn Văn Nam, Đoàn Đức Phương, Trần Khánh Thành, Lý Hoài

Thu (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Hà Minh Đức (1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Ngô Văn Trụ, Nguyễn Xuân Cần (2012), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc

Giang,Nxb Thời đại, Hà Nội.

21. Hoàng Thị Liên Gấm(2012), Văn hóa tinh thần của người Sán Dìu ở huyện

Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên (1945- 2010), ĐHSPTN.

22. Chu Thị Hường (2012), Bản sắc văn hóa của người Sán Dìu ở tỉnh Thái

Nguyên, ĐHSPTN.

23. Lâm Quang Hùng (2011), Dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc,Nxb. Khoa học

và Công nghệ, Hà Nội.

24. Kiều Mỹ Hạnh (2007), Tôn giáo, tín ngưỡng của người Sán Dìu ở huyện

Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, ĐHSPTN.

25. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (2011), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

26. M.B.Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển

của văn học, Nxb Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), Hà Nội.

27. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người, Nxb ĐH và

THCN.`

28. Lê Trường Phát (1997), Về mô hình cốt truyện của truyện thơ các dân

tộc thiểu số, Tạp chí Văn học (số 7).

29. Lý Thị Phương (2014),Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán

Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện nay, ĐHQGHN.

30. Nguyễn Thị Mai Phương (2011), ,Khảo sát loại hình hát sọng cô của dân

tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang, ĐHSPTN

31. Hoàng Phê (1995), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và TT Từ điển học,

Đà Nẵng.

32. Mạc Phi sưu tầm và biên soạn (1984), Xống chụ xon xao in lần thứ 2, Nhà

xuất bản Văn hóa, Hà Nội.

100

33. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb giáo dục.

34. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GD & ĐT,

Vụ giáo viên.

35. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và

thi pháp thể loại, Nxb Đại học Quốc gia.

36. Trần Thị Thanh Tâm (2016), Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái

Nguyên, ĐHKHTN.

37. Ôn Thái Trần (2001), Mở trời dựng đất (Hoi then dip thi), Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

38. Hồ Sĩ Vịnh (1998), Văn hóa văn học một hướng tiếp cận, Nxb văn học,

văn hóa, Hà Nội.

39. Trần Quốc Vượng (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt , Nxb Đà Nẵng và TT Từ

điển học, Việt Nam.

Website

41. Theo ĐĐK (20/4/2011), “Nhà văn Ôn Thái Trần: Tôi hòa mình vào dân tộc

và dân tộc đã đi vào thơ tôi”, nguồn: http://toquoc.vn/nha-van-on-thai-tran-

toi-hoa-minh-vao-dan-toc-va-dan-toc-da-di-vao-tho-toi-99219809.htm

(ngày truy cập 28/4/2019).

42. Huỳnh Đăng (10/8/2014) , “Ca dao, dân ca dân tộc Sán Dìu ở Quảng Ninh:

Khoảng trống chưa được khai thác”, nguồn:

http://baoquangninh.com.vn/van-hoa/201408/ca-dao-dan-ca-dan-toc-san-

diu-o-quang-ninh-khoang-trong-chua-duoc-khai-thac-2238115/ (ngày truy

cập 28/04/2019).

43. Thùy Linh (9/8/2016), “Người Sán Dìu tham gia nghiên cứu bảo tồn và

phát huy văn hóa dân tộc”, Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam, nguồn:

http://vanhien.vn/news/nguoi-san-diu-tham-gia-nghien-cuu-bao-ton-va-

phat-huy-van-hoa-dan-toc-46514 (ngày truy cập 28/04/2019).

44. Đặng Thị Kim Dung - Dương Thùy Linh (21/2/2018), “Du lịch cộng đồng

trong phát triển sinh kế người Sán Dìu ở Thái Nguyên”, Tạp chí điện tử

101

Văn hóa nghệ thuật, nguồn: http://vhnt.org.vn/tin-tuc/van-hoa-du-

lich/30735/du-lich-cong-dong-trong-phat-trien-sinh-ke-nguoi-san-diu-o-

thai-nguyen (ngày truy cập 28/04/2019).

45. Từ điển bách khoa Toàn thư, “Văn hóa”,

nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a (ngày truy

cập 28/04/2019).

46. Nguyễn Thị Thúy Vy (2/4/2014), “Khái luận về văn hóa GS. TSKH Trần

Ngọc Thêm”, nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-

hoa-hoc/llvhh-nhung-van-de-chung/2569-tran-ngoc-them-khai-luan-ve-

van-hoa.html (ngày truy cập 03/05/2019).

47. Admin Hội yêu thích văn học (23/3/2013), “Văn học là gì?”,

nguồn: https://www.facebook.com/notes/h%E1%BB%99i-y%C3%AAu-

th%C3%ADch-v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc/v%C4%83n-ho%CC%A3c-

la%CC%80-gi%CC%80/500046153386187/

(ngày 28/04/2019).

48. TT VHH (20/6/2011), “Văn học và văn hóa truyền thống PSG. TSKH

Huỳnh Như Phương Trường ĐHKHXH & NV- TPHCM”,

nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-

nhung-van-de-chung/2022-huynh-nhu-phuong-van-hoc-va-van-hoa-truyen-

thong.html (ngày truy cập 28/04/2019).

49. Phong Lê - Phan Thắng (19/5/2015), “GS Phong Lê: Với người trí thức

điều cần nhất là tự do tư tưởng, tự do sáng tạo ý tưởng”, nguồn:

http://lienhiephoikhkt.hatinh.gov.vn/vi/news/Van-hoa-van-nghe/GS-Phong-

Le-Voi-nguoi-tri-thuc-dieu-can-nhat-la-tu-do-tu-tuong-la-tu-do-trong-sang-

tao-cac-y-tuong-1080/ (ngày truy cập 28/04/2019).

50. Bách khoa toàn thư mở, “Người Sán Dìu”, nguồn:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_S%C3%A1n_D

%C3%ACu (ngày truy cập 20/4/2019).

51. Hà Thảo (14/12/2016), “Người Sán Dìu sáng tạo chữ viết cho mình”,

nguồn: http://vov4.vov.vn/TV/chuyen-muc/nguoi-san-diu-sang-tao-chu-

viet-cho-minh-c1257-116764.aspx (ngày truy cập 20/4/2019).

102

52. Theo Bách khoa toàn thư mở, “Giáo dục”, nguồn:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c (ngày truy

cập 15/4/2019).

53. HV, LT ( 19/12/2016), “ Giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên

trong tỉnh Hưng Yên thời kì đổi mới”, nguồn:

http://tuyengiaohungyen.vn/bai-viet/giao-duc-dao-duc-loi-song-cho-hoc-

sinh-sinh-vien-tinh-hung-yen-trong-thoi-ky-moi.aspx (ngày truy cập

15/4/2019).

54. Admin Pháp Thí Hội, “Đông Nhạc đại đế”, nguồn:

https://phapthihoi.org/blog/tu-dien-phat-giao/dong-nhac-dai-de/ (ngày truy

cập 28/4/2019).

55. TT VHH ( 29/4/2019), “Văn hóa là hệ thống các biểu tượng thông tin xã

hội”, nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-

hoc/llvhh-nhung-van-de-chung/1188-nguyen-van-hau-van-hoa-la-he-thong-

cac-bieu-tuong-thong-tin-xa-hoi.html (ngày truy caapj28/4/2019).

56. Bách khoa toàn thư mở, “Phong tục”, nguồn:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_t%E1%BB%A5c (ngày truy cập

3/5/2019).

57. Hoàng Nhật (21/6/2018), “Phong tục tập quán là gì?”, nguồn :

https://cphaco.vn/tin-tuc/phong-tuc-tap-quan-la-gi/ (ngày truy cập

3/5/2019).

58. Xuy Vuu (2/4/2008), ‘‘Truyền thuyết & Thần thoại các vị tiên”, nguồn:

http://4vn.eu/forum/showthread.php?2463-Truyen-thuyet-than-thoai-cac-vi-

tien (ngày truy cập 28/4/2019).

59. Dương Đình Giao (16/5/2017), “Phục Hy và Nữ Oa hai anh em thông

hôn?’’, nguồn: https://onggiaolang.com/21-phuc-hy-va-nu-oa-la-anh-em-

thong-hon/ (ngày truy cập 3/5/2019).

60. TS. Nguyễn Thị Việt Hằng (18/10/2018), “Nghệ thuật sử dụng điển cố

trong văn học Phật giáo Việt Nam thế kỉ XVII - XIX”, nguồn:

http://www.hpu2.edu.vn/vi/khoa-ngu-van/nghien-cuu-khoa-hoc/nghe-thuat-

103

su-dung-dien-co-trong-van-hoc-phat-giao-viet-nam-the-ki-xvii-xix-

143.html (ngày truy cập 28/4/2019).

61. Bách khoa toàn thư mở, “Sự tích con Thạch Sùng”, nguồn:

https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_t%C3%ADch_con_th%E1%

BA%A1ch_s%C3%B9ng (ngày truy cập 28/4/2019).

62. Đỗ Ngọc Yên (4/11/2016), “Người giữ hồn dân tộc Tày”, nguồn:

http://tonvinhvanhoadoc.vn/nguoi-giu-hon-van-hoa-tay.html/ (ngày truy

cập 3/5/2019).

63. Vàng Anh (2/8/2018), “Con rồng cháu tiên”, nguồn:

https://baiviet.com/giai-cau-sgkbt/doc-truyen-con-rong-chau-tien-va-tra-loi-

cac-cau-hoi-sau-day/ (3/5/2019).

104