ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ VUI
TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ VUI
TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGÔ THỊ THANH QUÝ
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
trình bày trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đó.
Nội dung luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tạp
chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn Nguyễn Thị Vui
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Ngô Thị
Thanh Quý - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em về tri thức, phương
pháp và kinh nghiệm nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Quý Thầy Cô giáo khoa Ngữ
văn, phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo
điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Em cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới người thân, đồng
nghiệp, bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp đỡ em
hoàn thành tốt luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Vui
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
MỤC LỤC .......................................................................................................iii
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. ............................................................................ 2
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về truyện thơ……………………….2
2.2. Những công trình nghiên cứu về văn học dân gian Sán Dìu……………..3
2.2.1. Các cuộc phỏng vấn với nhà văn Ôn Thái Trần ...................................... 3
2.2.2. Về các bài báo .......................................................................................... 3
2.2.3. Về các luận văn, đề tài, công trình nghiên cứu khoa học ........................ 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 6
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 6
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
8. Cấu trúc của luận văn……………………………………………………….8
Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA - VĂN HỌC VÀ TRUYỆN THƠ
MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT .................................................................................... 9
1.1. Tìm hiểu chung về văn hóa và văn học ...................................................... 9
1.1.1. Định nghĩa về văn hóa ............................................................................. 9
1.1.2. Văn học .................................................................................................. 12
1.2. Vai trò, vị trí của văn hóa và văn học ....................................................... 14
iii
1.2.1. Văn học phản ánh, soi chiếu văn hóa .................................................... 14
1.2.2. Văn học góp phần lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa ....................... 16
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa .................... 18
1.3. Tiếp cận văn hóa với truyện thơ Mở trời dựng đất .................................. 20
1.3.1 Khái niệm truyện Nôm ........................................................................... 22
1.3.2. Vài nét về dân tộc Sán Dìu .................................................................... 22
1.3.3. Truyện thơ Mở trời dựng đất ................................................................. 26
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................ 28
Chương 2 N I DUNG TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT DƯỚI GÓC
NHÌN VĂN HÓA ........................................................................................... 29
2.1. Văn hóa giáo dục đạo lý trong truyện thơ Mở trời dựng đất ................... 29
2.1.1. Triết lý giáo dục đạo đức của dân tộc Sán Dìu...................................... 30
2.1.2. Giáo dục gắn với thực tiễn trong truyện thơ Mở trời dựng đất ............. 35
2.1.3. Mười điều khuyên về mối quan hệ trong gia đình. ............................... 39
2.2. Văn hóa ứng xử trong truyện thơ Mở trời dựng đất ................................. 45
2.2.1. Văn hóa ứng xử trong gia đình .............................................................. 46
2.2.2. Văn hóa ửng xử ngoài xã hội ................................................................. 48
2.3. Bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu trong truyện thơ Mở trời dựng đất ..... 50
2.3.1. Tín ngưỡng dân gian trong truyện thơ Mở trời dựng đất ...................... 50
2.3.2. Phong tục, tập quán trong truyện thơ Mở trời dựng đất ........................ 54
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................ 57
Chương 3 NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA ..................................................................... 58
3.1. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện thơ
Mở trời dựng đất .............................................................................................. 58
3.1.1. Khái niệm............................................................................................... 58
iv
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thơ Mở trời dựng đất…....60
3.2. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong ngôn ngữ, hình ảnh và giọng điệu truyện
thơ Mở trời dựng đất ....................................................................................... 68
3.2.1. Hệ thống ngôn ngữ, hình ảnh mang đậm dấu ấn văn hóa Sán Dìu ....... 69
3.2.2. Dấu ấn văn hóa trong giọng điệu truyện thơ Mở trời dựng đất ............ 74
3.3. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong kết cấu truyện thơ Mở trời dựng đất ....... 78
3.3.1. Khái niệm............................................................................................... 78
3.3.2. Kết cấu truyện thơ Mở trời dựng đất ..................................................... 79
3.3.3. Sự kết hợp kết cấu tự sự - trữ tình ......................................................... 83
3.4. Không gian thời gian nghệ thuật truyện thơ Mở trời dựng đất ................ 87
3.4.1. Khái niệm không gian, thời gian nghệ thuật ......................................... 87
3.4.2. Không gian nghệ thuật trong truyện thơ Mở trời dựng đất ................... 88
3.4.3. Thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Mở trời dựng đất ...................... 92
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................ 96
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 99
v
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc sinh sống trên cùng một lãnh thổ.
Cộng đồng các dân tộc chung sống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau như
anh em ruột thịt, trong đó có dân tộc Sán Dìu. Người Sán Dìu ở Việt Nam có
dân số 146.821 người, có mặt tại 59 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Dân tộc
Sán Dìu có nền văn hóa dân gian rất phong phú và độc đáo, đó là làn điệu hát ví
Soọng cô, truyện thơ, ca dao, tục ngữ… mang dấu ấn bản sắc văn hóa Sán Dìu.
Đặc trưng mang tính truyền thống đó là một trong những điểm nổi bật của văn
học và văn hóa dân gian.
Văn học dân gian là một trong các bộ phận hợp thành của văn học Việt
Nam, và đặt nền móng quan trọng cho văn học viết sau này. VHDG như một
bức tranh đa sắc màu, mỗi câu ca dao, mỗi lời vè, câu hát dân ca đều mang đậm
màu sắc truyền thống văn hóa, cùng với đó là sự đa dạng về thể loại như: Thần
thoại, sử thi, truyền thuyết… hàm chứa trong tác phẩm là kho tàng tri thức quý
báu của ông cha để lại, luôn được thế hệ sau gìn giữ phát huy những giá trị tốt
đẹp. Truyện thơ dân gian là một trong những thể loại chính của VHDG, người
Thái có truyện thơ Tiễn dặn người yêu, người H’Mông có truyện thơ Tiếng hát
làm dâu, người Mường có truyện thơ Nàng Nga hai mối và tô điểm thêm vẻ
đẹp bức tranh đa sắc màu đấy là văn học Sán Dìu với truyện thơ dân gian đặc
sắc, tiêu biểu tác phẩm Mở trời dựng đất được nhà văn Ôn Thái Trần sưu tầm
và dịch, tác phẩm là sự hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc Sán Dìu.
Từ trước đến nay có khá nhiều công trình hoặc bài viết nghiên cứu về văn
hóa, văn học dân tộc Sán Dìu. Những nghiên cứu đấy cho chúng ta biết nguồn
gốc, đời sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng văn hóa truyền thống cho đến sự
phát triển kinh tế xã hội của người Sán Dìu. Về mảng văn học dân gian chưa có
công trình nào đi sâu vào tìm hiểu truyện thơ dân tộc Sán Dìu. Vì vậy chúng tôi
lựa chọn đề tài Truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa để có cái
1
nhìn toàn diện về giá trị văn hóa, văn học cũng như nội dung và nghệ thuật
truyện thơ Sán Dìu.
Bản thân tôi là người dân tộc Sán Dìu sống tại địa phương có nhiều người
Sán Dìu sinh sống với mong muốn bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong thời kỳ đất nước hội nhập và phát triển. Chúng tôi muốn gìn giữ những
nét đẹp truyền thống văn học, văn hóa dân gian để không bị thời gian làm cho
mai một lãng quên. Với những kết quả cũng như kiến thức thu nhận được, sau
khi nghiên cứu và thực hiện đề tài, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp nguồn tư
liệu bổ ích phục vụ cho quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy chương trình
Ngữ văn địa phương tỉnh Thái Nguyên và truyền thụ đến thế hệ bạn trẻ sự hiểu
biết và tình yêu, lòng tự hào về văn học, văn hóa dân tộc mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về truyện thơ.
Tác giả Võ Quang Nhơn trong cuốn Văn học dân gian các dân tộc ít
người ở Việt Nam (1983) [27], đánh giá cao vị trí của truyện thơ Nôm trong
văn học dân tộc các dân tộc ít người ở Việt Nam. Sách gồm bảy chương, trong
đó ông dành một chương để viết về truyện thơ. Về đề tài của truyện thơ, tác giả
cho rằng chúng rất phong phú, “chúng đề cập đến nhiều mặt trong hiện thực xã
hội của các dân tộc anh em... Đặc biệt là đề tài về cuộc đấu tranh cho tự do yêu
đương, cho quyền sống của người phụ nữ trong lòng xã hội cũ là một đề tài khá
phổ biến. Đó là khát vọng dân chủ thiết tha, mãnh liệt của quần chúng trong
lòng xã hội phong kiến mà quyền sống con người bị chà đạp, bóp nghẹt nặng
nề, được phản ánh vào trong nền văn học truyền thống các dân tộc anh em”
[27, tr.395-396].
Trên Tạp chí văn học năm 1997, số 7, Lê Trường Phát có bài viết “Về mô
hình cốt truyện của truyện thơ các dân tộc thiểu số” [28]. Tác giả nhận xét: Ở
truyện thơ Nôm của người Việt “mọi người hầu như đã nhất trí rằng phần lớn
cốt truyện của thể loại này được xây dựng theo mô hình “kết thúc có hậu”[28,
2
tr.52]. Tác giả Phan Đăng Nhật, năm 2004 có bài Truyện thơ, in trong cuốn
sách Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại của
Vũ Anh Tuấn [35].
Về vấn đề hình thành truyện thơ, Phan Đăng Nhật cho rằng “truyện thơ ra
đời do nhu cầu lịch sử - xã hội của thời đại của nó. Lúc bấy giờ trong xã hội các
dân tộc thiểu số đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa tình yêu chân
chính của đôi lứa với đòi hỏi khắt khe, lạnh lùng nhiều khi tàn bạo của gia đình
và xã hội; mâu thuẫn giữa kẻ nghèo khó và kẻ giàu sang; mâu thuẫn giữa chính
nghĩa và phi nghĩa. Lúc này vấn đề thân phận của con người được đặt ra và đòi
hỏi phải đáp ứng thoả đáng” [57, tr.401].
2.2. Những công trình nghiên cứu về văn học dân gian Sán Dìu.
2.2.1. Các cuộc phỏng vấn với nhà văn Ôn Thái Trần
Trên các phương tiện báo chí và truyền thông, đã có một số cuộc trả lời,
trò chuyện văn chương của nhà văn Ôn Thái Trần về văn học dân tộc Sán Dìu.
Báo Điện tử Tổ quốc: “Tôi hòa mình vào dân tộc và dân tộc đã đi vào thơ tôi”
[41], tác giả đã giới thiệu về một số tác phẩm văn học dân gian ông đã sưu tầm,
dịch cả từ truyền miệng dân gian và kể cả theo sách ghi lại như: Kinh sách dạy
con (Cạo chấy loang kênh), Vua Bàn Cổ (Phòn Cú Vòng), Mở trời dựng đất
(Hoi then dip thi), Văn khuyên đời (Hoẹn Gạy Mòn)…
Những ý kiến, quan điểm mà nhà văn Ôn Thái Trần đưa ra trong những
cuộc trả lời phỏng vấn, trò chuyện văn chương đều là những tư liệu tham khảo
hữu ích, giúp chúng ta hiểu và yêu quý thêm giá trị của truyện thơ dân gian
người Sán Dìu.
2.2.2. Về các bài báo
Một số nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà văn, đã có những bài báo khoa học
đề cập đến văn hóa dân gian Sán Dìu. Báo Quảng Ninh với bài viết: “Người
Sán Dìu có vốn văn nghệ dân gian, phong tục tập quán v.v.. rất phong phú,
trong đó nổi bật nhất là mảng văn học dân gian. Đặc sắc nhất trong văn học dân
3
gian của người Sán Dìu Quảng Ninh là những truyện thơ như: Mở trời dựng
đất, Vua cóc ở Man Cay Coóc, Dì ghẻ con chồng …”[42].
Tạp chí điện tử Văn Hiến khẳng định: “Văn hóa: Thơ ca dân gian của
người Sán Dìu phong phú, dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ (Soọng
cô) rất phổ biến. Truyện kể - chủ yếu truyện thơ khá đặc sắc. Các điệu nhảy
múa thường xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống, sáo, thanh
la, não bạt cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo. Nhiều trò chơi dân tộc được họ ưa
thích là: đi cà kheo, đánh khăng, đánh cầu lông kiểu Sán Dìu, kéo co...”[43].
Tạp chí điện tử Văn hóa nghệ thuật nói về: “Sự đa dạng về tài nguyên hóa,
người Sán Dìu có vốn văn học dân gian phong phú, tác giả nhấn mạnh về
những truyện thơ đặc sắc như Mở trời dựng đất, Vua Bàn Cổ…”[44].
Những nhận định, đánh giá của các bài báo trên đã nêu ra một số vấn đề
đáng lưu ý đến văn học Sán Dìu. Nhưng theo sưu tầm khảo sát của chúng tôi,
hiện nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu toàn diện, tìm
hiểu, đánh giá về truyện thơ đồng bào dân tộc Sán Dìu nói chung, và truyện thơ
Mở trời dựng đất nói riêng, đây là lý do chúng tôi chọn đề tài “Truyện thơ Mở
trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa” để thực hiện luận văn.
2.2.3. Về các luận văn, đề tài, công trình nghiên cứu khoa học
Đã có nhiều công trình, bài viết, nghiên cứu, đề cập trực tiếp hoặc gián
tiếp đến các khía cạnh văn học, văn hóa Sán dìu. Điều đó, cho thấy sức thu hút
và giá trị cần quan tâm ở lĩnh vực này, cụ thể như sau:
Bàn về bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu, phải kể đến cuốn Người Sán
Dìu ở Việt Nam của Ma Khánh Bằng [13]. Tác giả đã giới thiệu khái quát về
dân tộc Sán Dìu, các hoạt động kinh tế, sinh hoạt vật chất và một số tục lệ trong
đời sống hàng ngày của đồng bào.
Bên cạnh đó là cuốn Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người của người Sán
Dìu ở Việt Nam của Diệp Trung Bình [14]. Tác giả làm rõ đặc điểm văn hóa của
người Sán Dìu ở Việt Nam, đưa ra so sánh và khẳng định những giá trị truyền
4
thống, hiện đại, có sự biến đổi lớn trong bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc Sán
Dìu ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, còn có công trình nghiên cứu: Dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc
của Lâm Quang Hùng [23]. Tác giả nghiên cứu, tìm hiểu về giá trị văn hóa của
đồng bào Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Tiếp đến là cuốn Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang của Ngô Văn Trụ, Nguyễn
Xuân Cần [20]. Tác giả khái quát về dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Bắc Giang. Tìm
hiểu về kinh tế truyền thống và quá trình đổi mới kinh tế của dân tộc Sán Dìu.
Giới thiệu văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể, ngôn ngữ và văn tự của người
Sán Dìu ở Bắc Giang.
Cùng với đó là các luận văn thạc sĩ nghiên cứu đời sống, văn hóa dân
gian Sán Dìu. Tôn giáo, tín ngưỡng của người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên, tác giả Kiều Mỹ Hạnh [24], luận văn nghiên cứu về văn hóa tinh
thần của dân tộc Sán Dìu.
Khảo sát loại hình hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang, Nguyễn Thị Mai Phương [30]. Tác giả đã khảo sát và nghiên
cứu về loại hình hát Soọng cô trên phương diện nội dung và nghệ thuật...
Tổ chức xã hội và văn hóa của người Sán Dìu ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên (1945- 2010), Nguyễn Xuân Chiến [15]. Chu Thị Hường với Bản sắc
văn hóa của người Sán Dìu ở tỉnh Thái Nguyên [22]. Hoàng Thị Liên Gấm
Văn hóa tinh thần của người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên
(1945- 2010) [21], ở đây các tác giả nghiên cứu lĩnh vực đời sống vật chất, tinh
thần cũng như đặc điểm và tổ chức xã hội của người Sán Dìu, tìm hiểu những
giá trị văn hóa cổ truyền.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc
trong bối cảnh hiện nay, Lý Thị Phương [29], tác giả đề cập đến tầm quan
trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc
trong bối cảnh hiện nay.
5
Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên, Trần Thị Thanh Tâm
[36], tác giả tìm hiểu và nghiên cứu về truyện cổ tích, hát Soọng cô của dân tộc
Sán Dìu đây là loại hình nghệ thuật dân gian, văn học đặc sắc của người Sán
Dìu…
Như vậy, chúng ta có thể thấy nghiên cứu truyện thơ dân gian dân tộc Sán
Dìu còn rất khiêm tốn.Và hướng nghiên cứu các truyện thơ dân gian dưới góc
nhìn văn hóa chưa thực sự được quan tâm của các nhà nghiên cứu... nhưng các
công trình nghiên cứu trên là những gợi mở, tiền đề khoa học có giá trị cho việc
nghiên cứu đề tài luận văn của chúng tôi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện thơ Mở
trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu truyện thơ Mở trời dựng đất của dân tộc Sán Dìu.
Phạm vi tư liệu là tác phẩm: Mở trời dựng đất (Hoi then dip thi) được nhà
văn Ôn Thái Trần sưu tầm, biên soạn, dịch [37].
4. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi hướng đến mục đích nghiên cứu:
Thứ nhất: Khảo sát truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa,
tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. chúng tôi mong muốn
đóng góp nhỏ bé để đánh giá và khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu.
Từ đó góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống trước nguy cơ mai một
dần bởi mặt trái của cơ chế thị trường và quá trình đô thị hóa.
Thứ hai: Từ quá trình nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn đóng góp
thêm tiếng nói khoa học để tôn vinh sự phong phú giàu có đẹp đẽ của bản sắc
văn hóa dân tộc Sán Dìu nói riêng và bản sắc văn hóa đồng bào các dân tộc
thiểu số nói chung.
Thứ ba: Với kết quả nghiên cứu đề tài này, chúng tôi góp thêm một tư
liệu bổ ích trong công tác dạy và học, học phần Văn học thiểu số Việt Nam
6
hiện đại của trường ĐHSPTN, cung cấp một tài liệu giảng dạy học tập bổ
ích cho chương trình Văn học địa phương tỉnh Thái Nguyên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu, chúng tôi thực hiện các
nhiệm vụ sau: Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tế liên quan đến đề tài,
khái niệm văn hóa, văn học dưới góc nhìn văn hóa, tìm hiểu phong tục tập
quán, tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa ứng xử cùng một số phương diện nghệ thuật
đặc sắc để thấy được giá trị của tác phẩm truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc
nhìn văn hóa.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp liên ngành: Văn hóa luôn có mối quan hệ với các lĩnh vực
khác trong đời sống: văn học, ngôn ngữ, xã hội, lịch sử,… Phương pháp liên
ngành được thể hiện thông qua việc chúng tôi kết hợp nhìn nhận, đánh giá vấn
đề văn hóa học dưới góc nhìn của nhiều lĩnh vực có liên quan: Ngôn ngữ học,
xã hội học, lịch sử học, dân tộc học…
- Phương pháp phân tích: Sử dụng phương pháp phân tích nhằm phát
hiện, khai thác, phân tích một số tài liệu liên quan đến tác phẩm. Qua đó,
chúng tôi chọn lọc những thông tin, tri thức cần thiết phục vụ việc nghiên
cứu. Phương pháp phân tích bao gồm phân tích nguồn tài liệu, phân tích tác
giả và phân tích nội dung tác phẩm.
- Phương pháp so sánh: Nếu chỉ nhìn nhận ở một phương diện thì không
thể đưa ra kết luận về vấn đề một cách chính xác. Chính vì vậy, khi nghiên cứu
về văn hóa - văn học, chúng ta cần đặt đối tượng trong mối tương quan với các
đối tượng khác để có cái nhìn khái quát nhất. Mục đích của phương pháp so
sánh là làm rõ sự khác biệt hay những đặc trưng riêng của đối tượng nghiên
cứu, giúp cho các đối tượng quan tâm có căn cứ để đưa ra lựa chọn.
- Phương pháp tổng hợp: Là phương pháp được sử dụng nhằm liên kết các
bộ phận, khía cạnh liên quan đến đối tượng thành một chỉnh thể đầy đủ và sâu
sắc gắn với chủ đề nghiên cứu. Từ quá trình phân tích, chúng tôi đưa ra những
7
kết luận về vấn đề: Biểu hiện của văn hóa trong tác phẩm, ý nghĩa và giá trị của
các khía cạnh văn hóa được phản ánh qua tác phẩm.
7. Đóng góp của luận văn
Là đề tài đầu tiên nghiên cứu, khảo sát về truyện thơ Mở trời dựng đất
dưới góc nhìn văn hóa.
Nghiên cứu dưới góc nhìn văn hóa chúng tôi muốn góp tiếng nói khẳng
định giá trị độc đáo của truyện thơ dân gian Sán Dìu, đóng góp của truyện thơ
dân gian nói riêng và văn học dân gian Sán Dìu nói chung cho nền văn học dân
gian Việt Nam.
Luận văn là một trong những tư liệu có giá trị dùng để tham khảo cho các
công trình nghiên cứu tiếp theo về văn học dân tộc Sán Dìu.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo
và Mục lục, phần Nội dung được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Khái quát về văn hóa - văn học và truyện thơ Mở trời dựng đất.
Chương 2: Nội dung truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa.
Chương 3: Nghệ thuật của truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn văn hóa.
8
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA - VĂN HỌC
VÀ TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT
1.1. Tìm hiểu chung về văn hóa và văn học
1.1.1. Định nghĩa về văn hóa
Từ trước đến nay, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Theo mỗi quan
điểm mà người ta có những định nghĩa khác nhau, ở mỗi định nghĩa đều phản
ánh một cách nhìn nhận và đánh giá riêng về văn hóa. Từ năm 1952, hai nhà
nhân mỹ học nổi tiếng là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn từng thống kê có
tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng trên thế
giới. Văn hóa được đề cập đến nhiều lĩnh vực trong các công trình nghiên cứu
như: địa văn hóa, văn hóa học, dân tộc học, dân gian học, xã hội học… Ở mỗi
lĩnh vực nghiên cứu thì định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau.
Từ điển bách khoa toàn thư đã tổng hợp và phân loại các định nghĩa về
văn hóa như sau:
“Về mặt thuật ngữ khoa học: văn hóa bắt nguồn từ chữ Latinh “Cultus”
mà theo nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là “gieo
trồng ruộng đất” và Cultus Animi là “gieo trồng tinh thần” tức là “sự giáo dục
bồi dưỡng cho tâm hồn con người”[45].
“Các định nghĩa miêu tả: định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa bao
hàm, chặng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnent Tylor (1832 -
1917) đã đưa ra định nghĩa văn hóa: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng
trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con
người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội”[45].
“Các định nghĩa lịch sử: nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền
thống dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định
nghĩa đó là của Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học
9
người Mỹ: văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang
dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập
quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống”[45].
“Cách định chuẩn mực: nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị, chẳng
hạn William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi văn hóa
là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập
tục, phản ứng cư xử..)”[45].
“Các định nghĩa tâm lý học: nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi
trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một
trong những cách định nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 -
1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và
cộng sự của ông là: Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện
sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh…Những sự thích nghi này
được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc
và truyền đạt bằng kế thừa”[45].
“Các định nghĩa cấu trúc: chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn hóa,
ví dụ Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa: Văn
hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên
xã hội; Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó được các
thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa”[45].
“Các định nghĩa nguồn gốc: định nghĩa văn hóa từ góc độ của nó, ví dụ
định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968), nhà xã hội học
người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa xã hội học của Đại học Harvard; với
nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến
bởi hoạt động ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau
và tác động đến lối ứng xử của nhau”[45].
Theo Trần Ngọc Thêm, từ “văn hoá” có nhiều nghĩa, được dùng để chỉ
những khái niệm khác nhau. Tuy nhiên được dùng theo nhiều nghĩa, nhưng
10
khái niệm “văn hoá” có thể quy về hai cách hiểu chính: đó là theo nghĩa hẹp và
nghĩa rộng.
Trước tiên, theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo các chiều như:
chiều sâu, chiều rộng, không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều
sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị trong đời sống của con người bao gồm
(nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn
hoá được dùng chỉ nói đến giá trị ở trong từng lĩnh vực khác nhau như: văn hoá
giao tiếp, văn hoá kinh doanh… Giới hạn theo không gian, văn hoá dùng để
nói về các giá trị đặc thù riêng ở từng vùng miền (văn hoá Tây Nguyên, văn
hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá dùng để chỉ ra giá trị trong
từng giai đoạn lịch sử của đất nước (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…).
Theo nghĩa rộng, văn hoá bao gồm tất cả sản phẩm do con người sáng tạo
ra. Vào năm 1940, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”, (Dẫn theo Trần Quốc Vượng)
[39.tr21].
Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, đã phát biểu: “Đối với một số
người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy
và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm
cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất
cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ
hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về
các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise”[46].
Trong Từ điển tiếng Việt do nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển
học xuất bản năm 1995, Hoàng Phê chủ biên đã đưa ra một loạt quan niệm về
văn hóa:
11
“Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội”.
“Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời
sống tinh thần (nói tổng quát)”.
“Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát)”.
“Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh”.
“Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ
xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm
giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn”[31,tr1062].
Tóm lại, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa qua đó chúng ta hiểu văn hóa
là sản phẩm của con người, bao gồm một hệ thống các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo, tích lũy. Văn hóa được tạo ra và phát triển trong
quan hệ giữ con người và xã hội. Nhưng chính văn hóa đã tham gia vào việc
tạo nên con người, duy trì sự bền vững quá đó làm ổn định trật tự xã hội. Văn
hóa được lưu truyền qua nhiều thế hệ thông qua quá trình xã hội hóa.
Trong văn chương nghệ thuật, văn hóa thể hiện rất phong phú và đa dạng
trên nhiều cấp độ khác nhau, điều này được thấy rõ ở sự trải nghiệm và độ thẩm
thấu văn hóa của người nghệ sĩ. Nhưng có thể khẳng định văn hóa dân tộc là
một phẩm tính quan trọng trong việc làm nên giá trị các tác phẩm văn học.
1.1.2. Văn học
“Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã
hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu,
cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ…Tuy nhiên, về
mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn
chương, văn chương thường chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của
12
văn học về phương diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn
từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống”[47].
Văn học không giống như các loại hình nghệ thuật khác, nhưng giá trị nó
mang đến giống một vẻ đẹp không bao giờ bị thời gian làm cho mai một. Văn
học thể hiện sự sáng tạo của mình bằng phương diện nghệ thuật ngôn từ. Để
cảm nhận văn học phải bằng tâm hồn, con người phải dùng trí tưởng tượng, sự
liên tưởng, suy luận cảm xúc cùng với tất cả các giác quan thì mới có thể hình
dung được những sự vật, hiện tượng, vẻ đẹp trong đời sống văn học mang đến,
điều đó cho thấy ngôn từ mang tính chất phi vật thể. Nhờ đó văn học mới diễn
tả được những sự vật, sự việc theo dòng chảy lịch sử hàng ngàn năm, vạn năm
trên một không gian hữu hạn hoặc vô hạn. Văn học phản ánh hiện thực mang
lại cho người đọc một thế giới tri thức rộng lớn về đời sống vật chất, tinh thần
của nhân loại từ xưa đến nay. Văn học giúp hình thành nhân cách, giáo dục con
người, biết yêu cái tốt, ghét cái xấu, dám xả thân vì nghĩa và sống đúng đạo lí
con người. Đặc điểm của văn học là thông qua sự kiện, hình tượng trong tác
phẩm để khơi gợi, kích thích người đọc về mặt tình cảm, từ đó độc giả bày tỏ
thái độ và suy nghĩ để có hành động đúng đắn. Mặt khác, văn học giúp con
người tự giáo đục, tự hoàn thiện để có cuộc sống tốt đẹp và hữu ích xã hội.
Văn học là “bách khoa toàn thư” về cuộc sống, khi nghiên cứu văn học
dân gian chúng ta có cái nhìn toàn cảnh về văn hóa lịch sử các dân tộc trải qua
từng thời kỳ cụ thể. Như trong sử thi Đam - San tác giả dân gian miêu tả bức
tranh về con người, phong tục, tín ngưỡng, cảnh vật, văn hóa cồng chiêng, hình
thức diễn xướng Khan của dân tộc Ê-đê. Truyện thơ Tiễn dặn người yêu của
dân tộc Thái đưa ta đến vùng đất Tây Bắc của tổ quốc. Nếu vùng đất Tây
Nguyên chịu ảnh hưởng từ văn hóa Chămpa thì người Thái, người Sán Dìu
chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cổ đại.
Truyện thơ Mở trời dựng đất là một trong số đó. Tác phẩm thể hiện cái
nhìn toàn cảnh về văn hóa - văn học dân tộc Sán Dìu. Văn hóa đồng bào Sán
13
Dìu rất phong phú, thể hiện ở các phong tục, tập quán, lễ nghi như: Lễ hội Đại
phan, lễ Cầu mùa, Tết Mười Tư (14/7 âm lịch), lễ Rửa cày bừa...Nét độc đáo về
văn hóa âm thực của người Sán Dìu được thể hiện qua nghệ thuật chế biến các
món ăn như: món bánh bạc đầu, bánh tài nồng ệp, canh gà bản địa nấu với rượu
và lá ngải cứu, thịt muối, cháo khoai, sắn. Tất cả được đều chế biến từ nguyên
liệu sẵn có trong đời sống của đồng bào. Nhiều món ăn trở thành đặc sản không
thể thiếu khi tiếp đón khách quý trong mỗi dịp lễ, Tết của người Sán Dìu.
Văn hóa dân gian của dân tộc Sán Dìu rất phong phú, nổi bật nhất là mảng
văn học dân gian. Một trong những thể loại đặc sắc phải kể đến truyện thơ, với
các tác phẩm như: Mở trời dựng đất, Kinh sách dạy con, Dì ghẻ con chồng
…Về loại hình diễn xướng dân gian, độc đáo nhất là hát Soọng cô, Soọng cô
thực chất là loại hình hát đối đáp giao duyên, không gian diễn xướng chủ yếu là
ở các lễ hội. Hát Soọng cô luôn có trong lễ Đại Phan (mừng cơm mới), lễ hội
lớn nhất trong năm của đồng bào. Vì việc giữ gìn và phát huy giá trị nghệ thuật
dân gian là một việc rất cần thiết trong thời đại hiện nay.
1.2. Vai trò, vị trí của văn hóa và văn học
1.2.1. Văn học phản ánh, soi chiếu văn hóa
Thuật ngữ quốc tế folklore (phôn-clo) Văn hóa dân gian, được W J.Thom
sử dụng đầu tiên vào năm 1846 để chỉ phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín,
ca dao, tục ngữ... của người thời trước. Ở Việt Nam, thuật ngữ “phôn-clo”
được sử dụng từ lâu và được dịch ra tiếng Việt là “văn học dân gian”, “văn
nghệ dân gian”, hay “văn hóa dân gian”.
Văn học là tấm gương phản chiếu của văn hóa, đó là bức tranh văn hóa
dân gian trong sử thi người Ê-đê, ca ngợi người anh hùng, chàng dũng sĩ đánh
thắng mọi kẻ thù hung ác, bảo vệ cuộc sống bình yên cho cộng đồng. Qua các
thiên sử thi nổi tiếng của dân tộc Ê Đê như: Đam San, Xinh Nhã, Mhieng,
ĐămtéMlan, Khinh Du…. các tác phẩm được xem như bản trường ca anh hùng
của người Ê-đê.
14
Văn hóa tín ngưỡng dân gian được phản ánh trong cao dao, tục ngữ…của
người Việt. Thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp văn hóa tín ngưỡng của các dân
tộc, hằng năm vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch) cả dân tộc tổ chức quốc giỗ, tưởng
nhớ các vị vua Hùng khai quốc:
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba.
Tiếp đến là tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt: truyền thuyết Lạc Long
Quân và Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở thành trăm con đó là cội nguồn của dân
tộc Việt. Để rồi ta có: “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, chúng ta thấy văn
học bắt nguồn từ văn hóa và là tấm gương phản chiếu văn hóa. Trong ca dao,
tục ngữ… thể hiện tình yêu gia đình, quê hương, mở rộng ra cả dân tộc, đất
nước, đó là nội dung độc đáo và đặc sắc của văn hóa học dân gian.
Một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt là trọng tình thương,
giàu đức hy sinh, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Biểu hiện của bản sắc văn hóa này
với vô vàn sắc thái văn hóa khác nhau, như trong nguyên tắc sống “một con
ngựa đau cả tàu bỏ ăn cỏ”, “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống như
chung một giàn”. Trọng đạo lý: “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”, “công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Trong chuẩn mực ứng xử của cộng đồng gia tộc, “anh em như thể chân tay”,
văn hóa cộng đồng: “tối lửa tắt đèn có nhau”, “lá lành đùm lá rách”. Trong
cung cách xưng hô mang tính thân tộc đối với toàn xã hội: “cha, mẹ, chú, bác,
anh, em, cháu”... làm cho làng xóm, thậm chí toàn dân tộc như một gia tộc mở
rộng. Văn học phản ánh toàn diện cuộc sống của con người, vì thế văn hóa luôn
gắn bó mật thiết trong mỗi tác phẩm. Ở đó không chỉ là những quan niệm về
con người được thể hiện qua nghệ thuật ngôn từ, còn là những chuẩn mực ứng
xử của cộng đồng, dân tộc trong mỗi thời kỳ lịch sử. Tác phẩm văn học tái hiện
đời sống tinh thần các dân tộc, như một sản phẩm kết tính của văn hóa. Tính
văn hóa trong văn chương cho chúng ta cái nhìn sâu rộng hơn về giá trị tác
15
phẩm qua hệ thống hình tượng nghệ thuật, từ đó tạo ra mối liên hệ với các loại
hình nghệ thuật khác cũng như với nền văn hóa khác.
Tóm lại, văn học là tấm gương phản chiếu của văn hóa, là “gương mặt của
văn hóa”. Văn hóa của một dân tộc phong phú, đa dạng thì văn học dân tộc đó
cũng phát triển và để lại nhiều dấu ấn. Tìm hiểu văn học Sán Dìu, chúng tôi có
cái nhìn sâu rộng về truyền thống văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc, từ đó tự hào, quý trọng những tri thức quý giá mà thế hệ đi trước
đã dày công vun đắp để lại cho hậu thế .
1.2.2. Văn học góp phần lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa
Bản sắc văn hóa dân tộc đã làm nên sức sống, sức mạnh để người Sán
Dìu vượt qua biết bao sóng gió, thác ghềnh và không ngừng phát triển, lớn
mạnh. Từ đó văn hóa là điểm tựa, cầu nối để đồng bào Sán Dìu hội nhập, giao
lưu với các nền văn hóa tiến bộ trong và ngoài nước. Văn học lưu giữ tinh hoa
cộng đồng văn hóa Sán Dìu và các dân tộc anh em. Ta có thể nhận ra điều đấy
trong nếp sống, phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, kho tàng văn hóa học
dân gian.
Quá trình hội nhập quốc tế đã có tác động nhất định, làm thay đổi phương
thức tư duy nên việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là điều quan trọng
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Văn hóa truyền thống là tiền đề để chúng ta
có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu và làm chủ các tiến bộ khoa học - kỹ thuật
hiện đại, tri thức mới.
Bản sắc văn hóa dân tộc được vun đắp trong lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước, hình thành qua nhiều thế hệ. Vì thế, nó kết tinh
những gì đặc sắc nhất của dân tộc Việt Nam, nó có giá trị bền vững, trường tồn
cùng thời gian, như chất keo kết nối cộng đồng người gắn bó với nhau, để cùng
tồn tại và phát triển. Thông qua văn học, chúng ta tìm thấy những giá trị văn
hóa: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan
16
dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh
tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…
Văn hóa - văn học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau vì thế tác phẩm phản
ánh lịch sử hình thành và phát triển của các dân tộc, phản ánh lịch sử kỳ vĩ của
đất nước được hình thành trong thần thoại, truyền thuyết. Ðề cập đến nguồn
gốc vũ trụ, cộng đồng người, tạo lập bản mường, thành tựu về sinh hoạt văn
hóa vật chất và tinh thần... trên một không khí có tính chất huyền thoại. Như
trong truyện thơ Mở trời dựng đất, người Sán Dìu đã khắc họa hình tượng các
vị thần như Vua Bàn Cổ khai thiên lập địa, Nữ Oa tạo ra người Sán Dìu, đó là
sự lý giải về các hiện tượng tự nhiên, và phản ánh quá trình đấu tranh, xây
dựng, phát triển dân tộc Sán Dìu.
Khi phản ánh hiện thực xã hội, văn học thể hiện tinh thần đấu tranh chống
áp bức, là tiếng nói đòi quyền sống, khát vọng hạnh phúc cho con người. Bên
cạnh đó, văn học thể hiện tình yêu thương, cảm thông, trân trọng đối với những
người bị áp bức, cùng khổ, những người có đức tính, phẩm hạnh tốt đẹp mà trải
qua những thử thách cam go, làm cho phẩm chất ấy càng toả sáng. Ðó là tấm
lòng bác ái, đức hy sinh, lòng hiếu thảo, phẩm chất trong sạch, lòng dũng cảm...
Ðặc biệt là hình tượng người phụ nữ được miêu tả trong tác phẩm văn học,
chính là những tấm gương sáng về đạo đức, phẩm hạnh mà nhà văn muốn gửi
gắm đến độc giả.
Qua đó, chúng ta thấy sự tác động từ văn hóa đến văn học, vì vậy đề tài
của văn học thường tìm đến văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, trở
thành nguồn cảm hứng bất tận cho nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Văn hóa được coi là bầu khí quyển để cho cây văn học sinh sôi, nảy nở. Nền
văn học bắt rễ sâu vào bản sắc văn hóa dân tộc sẽ là điều kiện tiền đề để nó
phát triển và đơm hoa kết trái. Người nghệ sĩ am hiểu sâu sắc nguồn cội, tinh
hoa văn hóa dân tộc mình thì tác phẩm sẽ trở thành một bức tranh đặc sắc lột tả
được các khía cạnh đời sống dân tộc.
17
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa
Từ trước đến nay có rất nhiều hướng tiếp cận văn học từ văn hóa khác
nhau, điều này cho thấy sự đa dạng, phức tạp trong nghiên cứu văn học - văn
hóa. Nhưng trong các hướng nghiên cứu đấy chúng ta vẫn thấy nổi lên những
vấn đề như sau:
Văn học và văn hóa có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời
nhau. Văn hóa chi phối đến sự hình thành, phát triển của văn học, mỗi quốc gia
sẽ có một nền văn học mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc mình và chịu sự
tác động mạnh mẽ từ văn hóa - tinh thần dân tộc ấy. Nói cách khác văn học là
tấm gương phản ánh chân thật đời sống văn hóa - tinh thần của con người. Bàn
về mối liên hệ này trong bài viết của Lê Nguyên Cẩn tác giả đã khái quát về
mối tương quan giữa văn học và văn hóa như sau:
“Trong tương quan giữa văn học và văn hóa, thì văn học là một trong
những kết tinh cao nhất của văn hóa cộng đồng, dân tộc. Tác phẩm văn học nào
cũng mang trong nó tính văn hóa, dấu ấn văn hóa ở các mức độ khác nhau.
Tính văn hóa biểu hiện qua các mã của nó, tạo thành trong tác phẩm văn học,
một chỉnh thể nghệ thuật, mang tính nghệ thuật, có tính nghệ thuật, có khả năng
biểu đạt và phản ánh văn hóa của cộng đồng, dân tộc”[16,tr.19].
Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương lại viết về vấn đề này:
“Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức,
phong tục… Để có được những thành quả đó, văn hóa của một dân tộc cũng
như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa,
đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể
hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã thành. Cũng
có thể nói văn học là văn hóa lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật”[48].
Tác giả Huỳnh Như Phương đã đi sâu vào phân tích về sự tác động giữa
văn hóa và văn học và đi đến kết luận: “Văn học là thước đo, là nhiệt kế vừa
18
lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hóa của một xã hội
trong một thời điểm lịch sử nhất định”[48].
Nhà nghiên cứu văn học D.C.Likhachop đã khẳng định: “Trong khi kiếm
tìm những đặc điểm của nền văn hóa, trước hết, chúng ta cần phải tìm hiểu sự
trả lời ở văn học và chữ viết. Văn học nói thay cho văn hóa dân tộc giống như
con người nói thay cho tất cả những gì trong trời đất. Vì vậy, những biến động,
những thay đổi, tiến triển trong đời sống văn hóa dân tộc cũng sẽ kéo theo sự
chuyển đổi, phát triển của lịch sử văn học dân tộc”[49].
Đi sâu vào tìm hiểu từng nền văn học chúng ta sẽ có cái nhìn cụ thể hóa về
hướng tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa. Như chúng ta đã biết, Ấn Độ là
một trong những trung tâm văn minh của nhân loại. Văn hóa Ấn Độ có vai trò
quan trọng trong văn hóa của một số nước ở khu vực Đông Nam Á. Nói đến
ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với khu vực này chúng ta không thể không
nói tới ảnh hưởng của sử thi Ramayana, Mahabranata….
Sử thi Ramayana đã đi vào đời sống của nhân dân Đông Nam Á, tác phẩm
trở thành nguồn cảm hứng cho thi nhân, nghệ sĩ sáng tác về văn thơ, nhạc, họa,
công trình, điêu khắc. Văn học – nghệ thuật Ấn Độ có ảnh hưởng sâu rộng đến
các nước trong đó có Việt Nam, điều này được thể hiện sinh động, cụ thể trong
văn học, tín ngưỡng tôn giáo, kiến trúc, hội họa, điêu khắc…và các loại hình
nghệ thuật khác. Trong kho tàng văn học dân gian nước ta, bên cạnh những tác
phẩm ảnh hưởng từ phương Bắc, ngoài ra còn nhiều tác phẩm có nguồn gốc,
hoặc ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ, như truyện Dạ Thoa Vương trong Lĩnh
Nam chích quái ảnh hưởng từ sử thi Ramayana.
Thần thoại Hi Lạp là thành tựu về trí tuệ xuất sắc đầu tiên và đặt nền móng
vững chãi cho văn minh phương Tây. Thần thoại Hi Lạp ảnh hướng sâu rộng
đến văn hóa - văn học của Châu Âu. Ở Việt Nam thần thoại được tái hiện là câu
chuyện viết về các vị thần như: Thần vũ trụ, thiên nhiên, sấm, sét…. Nhằm giải
thích, phản ánh các hiện tượng tự nhiên, nhân vật trong thần thoại là sản phẩm
19
của niềm tin và sự sùng bái tự nhiên, qua đấy chúng ta thấy được những suy
nghĩ, tư duy của người Việt cổ.
Tóm lại tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa góp phần giải thích các
hiện tượng trong văn hóa, hướng tiếp cận này còn giúp chúng ta chuyển tải, lưu
giữ được những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc từ thời đại trước. Và góp
phần vào việc tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm văn học với văn hóa thời đại.
Văn học sẽ trở nên gần gũi và dễ tiếp nhận hơn nếu dấu ấn văn hóa trong tác
phẩm văn học được quan tâm giải mã.
1.3. Ti p cận văn hóa với truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Tiếp cận văn hóa trong văn học là phương pháp phổ biến có nhiều ưu thế
và được các nhà nghiên cứu thường dùng để tiếp cận văn học, nhờ cách tiếp
cận này mà chúng ta có cái nhìn đa chiều khi phân tích tác phẩm trong tiến
trình văn học các thời kì. Văn hóa tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà
còn chi phối đến toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn bởi tác phẩm nghệ
thuật là sản phẩm của văn hóa. Nguồn gốc dân tộc Sán Dìu từ Trung Hoa vì thế
văn hóa trong truyện thơ Mở Trời dựng đất có ảnh hưởng và tiếp thu chọn lọc,
sáng tạo từ văn học dân gian Trung Hoa. Trong quá trình sáng tác với sự giao
thoa văn hóa đã mang đến cho tác phẩm nét đặc sặc riêng, điều đó được thể
hiện qua các giá trị văn hóa như: tín ngưỡng, phong tục, tập quán, giáo dục
trong gia đình và ngoài xã hội của đồng bào Sán Dìu.
Hệ thống văn hoá trong truyện thơ bao gồm tín ngưỡng dân gian, phong
tục - tập quán, văn hóa ứng xử, truyền thống đạo lí của dân tộc Sán Dìu. Trong
tác phẩm, văn hóa mang đầy đủ những đặc trưng: tính nhân sinh, tính hệ thống,
tính lịch sử... Đồng thời, văn hóa phản ánh một cách đúng đắn, toàn vẹn, sâu
sắc đời sống xã hội đương thời của người Sán Dìu.
Văn hóa tái hiện qua lời kể của tác giả dân gian trong truyện thơ, đó là sự
lí giải về các hiện tượng tự nhiên, đời sống xã hội, con người được hình thành
như thế nào, tất cả đều đã được tô vẽ, và ghi chép lại bằng trí tưởng tượng của
20
nhân dân. Khi nạn “Đại Hồng Thủy diệt vong muôn loài chỉ còn lại anh em
Phục Nghĩa sống sót”, “hai người đã kết duyên và sinh ra loài người”. Người
Sán Dìu miêu tả về nạn Đại Hồng thủy, giống như dân tộc Khơ - mú trong
truyện dân gian Quả bầu. Cả hai tác phẩm đều lấy sự kiện hai anh em chui vào
quả bầu và sống sót, nhưng cách lý giải về sự ra đời của loài người là khác
nhau. Với người Khơ - mú sau khi thoát nạn mỗi người một ngả, họ chia nhau
đi tìm vợ chồng, cuối cùng không tìm được ai họ gặp lại nhau kết duyên. Người
em mang thai đến 7 năm, 7 tháng, 7 ngày, sinh ra dân tộc Khơ - mú… đó là sự
lý giải về nguồn gốc dân tộc Khơ - mú. Trong Mở trời dựng đất, đại nạn đi qua
chỉ còn hai vị thần là anh em Phục Nghĩa, Nữ Oa cả hai thông hôn, nàng mang
thai 9 tháng… được Cửu Thiên Huyền Nữ tạo ra “lớp người có mắt thẳng”. Có
thể thấy mỗi dân tộc có một cách kể về nguồn gốc dân tộc mình khác nhau. Với
người Sán Dìu đó là sự lý giải mang màu sắc huyền bí của thần thoại:
Sinh hạ cục huyết không mắt mặt
Cửu Thiên Huyền Nữ cầm dao phân
Phân thành ba trăm sáu mươi phần
Tạo thành lớp người có mắt thẳng
Từ đó, người Sán Dìu ra đời, hình thành làng bản, gia đình, họ hàng và trở
thành dân tộc Sán Dìu. Tiếp đến, người Sán Dìu tạo ra các quy định về văn hóa
ứng xử, chuẩn mực ứng xử, được các thành viên trong cộng đồng thừa nhận,
duy trì trong đời sống.
Khi tìm hiểu truyện thơ theo hướng tiếp cận văn hóa, chúng tôi quan tâm
tìm hiểu và khai thác các giá trị văn hóa như những bài học triết lý nhân sinh,
cách hình tượng nghệ thuật được đúc kết trong những lời thơ răn dạy về: giáo
dục đạo đức con người, văn hóa ứng xử… đó là giá trị truyền thống tốt đẹp đã
được lưu truyền và phát huy hàng trăm năm qua. Tất cả những vấn đề đó đều
nằm trong cấu trúc văn hóa, đạo đức là những quy luật tinh thần hướng con
người đến điều thiện, bao gồm những nguyên tắc ứng xử, những chuẩn mực và
21
quy phạm trong đời sống xã hội, quan hệ giữa văn học và đạo đức chính là
quan hệ giữa cái đẹp và cái thiện.
1.3.1. Khái niệm truyện Nôm.
Truyện Nôm là thể loại tự sự bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn học cổ
điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thể kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, do viết bằng tiếng
Việt, ghi bằng chữ Nôm nên được gọi là Truyện Nôm.
“Truyện Nôm có tác phẩm được viết bằng thể thơ Đường luật như Vương
Tường, Tô Công phụng sứ,… nhưng phổ biến nhất là viết bằng thể thơ lục bát.
Có hai loại truyện Nôm. Truyện Nôm bình dân viết trên cơ sở truyện dân gian
như Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Thạch Sanh… Truyện Nôm bác
học có loại viết trên cơ sở cốt truyện có sẵn ở Trung Quốc như Phan Trần, Hoa
Tiên, Nhị độ mai, Truyện Kiều,… có loại xây dựng theo cốt truyện sáng tạo
bằng hư cấu như Hoàng Trừu, Trê Cóc, Sơ kính tân trang, Lục Vân Tiên,…
Truyện Nôm bình dân hầu hết không có tên tác giả, được lưu truyền
trong dân gian, ngôn ngữ bình dị giản dị, mộc mạc. Truyện Nôm bác học có
ngôn ngữ trau chuốt, điêu luyện, dùng nhiều từ Hán Việt, điển tích, tiêu biểu
cho trình độ diễn đạt của văn học viết dân tộc, trong đó có những tác phẩm đạt
tới mức độ cổ điển, mẫu mực, bất hủ như truyện Kiều của Nguyễn
Du”[25,tr372].
1.3.2. Vài nét về dân tộc Sán Dìu
Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục, “nhà bác học Lê Quý Đôn (1723 -
1782) nhắc tới giống người ở xứ Tuyên Quang (Tuyên Quang xưa rộng hơn
tỉnh Tuyên Quang hiện nay). Có 07 chủng tộc người Man, trong ấy có 03 chủng
tộc Sơn Man, Sơn Tử và Cao Lan, mặc áo chàm xanh, tay áo rộng, hoặc áo
màu trắng, để tóc dài, búi tóc nhọn; 03 chủng tộc Sơn Man, Sơn Bán và Sơn
Miếu cũng thế; 02 chủng tộc Hán Văn và Bảo Toàn cắt tóc, chít khăn vải hoa,
áo xanh, quần vắn…”[17.tr.335].
22
Còn theo tác giả Ma Khánh Bằng: “Tên Sán Dìu từ Sơn Dao, thì người
Sán Dìu vốn có nguồn gốc từ người Dao (?). Từ đó ta có thể suy đoán rằng: từ
rất xa xưa, khối Dao bị bọn phương Bắc thống trị đã “bóp vụn” thành nhiều
nhóm nhỏ, khiến cho mỗi nhóm phiêu bạt một nơi. Người Sán Dìu có thể là
một trong những nhóm đó, nhưng đã sống lâu ngày bên cạnh người Hán
(phương Nam) nên dần dần mất dần tiếng mẹ đẻ (tiếng Dao), tiếp thu một thổ
ngữ Quảng Đông… Họ tiếp thu tiếng Hán trước khi di cư vào Việt Nam. Năm
tháng đã làm nhạt nhòa những kí ức xa xăm, người Sán Dìu không nhận mình
là người Hán, mà vẫn tự nhận mình là một tộc người riêng biệt. Đó chỉ là giả
thiết và chủ yếu dựa vào tên tự gọi của họ. Còn nay, ta khó nhận thấy ở người
Sán Dìu có những văn hóa Dao… Các nhà bác học Liên Xô (cũ) lại xếp Sán
Dìu vào nhóm trong ngữ hệ Hán - Tạng”[13.tr.15 - 17].
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009: “Người Sán Dìu ở Việt
Nam có dân số 146.821 người, có mặt tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.
Người Sán Dìu cư trú tập trung tại các tỉnh: Thái Nguyên (44.131 người, chiếm
30,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam), Vĩnh Phúc (36.821 người, chiếm
25,1% tổng số người Sán Dìu tại Việt Nam), Bắc Giang (27.283 người)...”.
“Dân tộc Sán Dìu chủ yếu sống ở miền trung du các tỉnh Thái
Nguyên,Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hải Dương (tổng
cộng khoảng 97%). Một số di cư vào Tây Nguyên lập nghiệp, thành các làng
hay sống rải rác tại các tỉnh thành khác…”[50].
Ở tỉnh Thái Nguyên người Sán Dìu chủ yếu sống ở các huyện, thị xã, xã
như: Huyện Đồng Hỷ, Thị xã Trại Cau, xã Phúc Trìu, xã Phúc Hà… Người Sán
Dìu có các tên gọi như: San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân), Mán Quần cộc, Mán
Váy xẻ... tổ tiên của người Sán Dìu đã đến các vùng núi “lập trại” khai hoang
lập nghiệp hàng trăm năm nay chính bởi đặc trưng về văn hóa, đời sống nên
người Sán Dìu còn các tên gọi khác như Trại, Trại Ðất. Với các tên gọi khác
23
nhau như vậy cho chúng ta thấy dân tộc Sán Dìu có vốn văn hóa vô cùng phong
phú, đó là sự hòa quyện của văn hóa Trung Hoa với văn hóa Việt Nam.
Người Sán Dìu nói tiếng thổ ngữ Hán Quảng Ðông (ngữ hệ Hán - Tạng),
theo Nhà nghiên cứu Diệp Trung Bình cho biết: “Người Sán Dìu không như
một số tộc người khác là ở mỗi vùng có tiếng nói khác nhau. Người Sán Dìu
đồng nhất về mặt ngôn ngữ. Tuy nặng nhẹ một chút nhưng nói hiểu nhau hết,
hát giao duyên cùng với nhau được. Ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Hán - Tạng.
Chia nhỏ ra là nhóm Hán. Tiếng này là thổ ngữ Quảng Đông, gần với tiếng dân
tộc Sán Chay. Nó không giống tiếng Dao nhưng lại thuộc ngôn ngữ Quảng
Đông”[51]. Dân tộc Sán Dìu ở các tỉnh như: Quảng Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh
Phúc… đều nói ngôn ngữ giống nhau. Tuy nhiên, ở Thái Nguyên tiếng Sán Dìu
phát âm nhẹ hơn, dễ nghe hơn. Bởi vì khi người Sán Dìu di cư sang Việt Nam
họ có sự hòa nhập về văn hóa nên ngôn ngữ cũng một phần nào bị Việt hoá.
Cũng giống như các dân tộc anh em khác, họ có đời sống văn hóa tinh thần vô
cùng phong phú.
Về mặt văn hóa tín ngưỡng đồng bào theo thuyết “vạn vật hữu linh”, tam
giáo đồng nguyên (Nho - Phật - Đạo)... Họ quan niệm: con người có hai phần
đó là linh hồn và thể xác, thể xác chỉ là cái tạm thời, lúc mất đi, chỉ còn linh
hồn tồn tại vĩnh cửu. Bởi thế, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được đồng bào coi
trọng và đặt lên hàng đầu. Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Sán Dìu còn
thờ các thần: thần cửa, thổ công, vua bếp... Đây được coi là các vị thần bảo hộ,
không cho ma quỷ vào trong nhà, phù trợ cho mọi thành viên trong gia đình
luôn mạnh khoẻ. Những gia đình có con nhỏ hay người trong thời kỳ sinh nở
đều có bàn thờ mụ (Pha công, pha mủ). Mặt khác của tín ngưỡng dân tộc Sán
Dìu còn có khái niệm “cúi” (ma). Khái niệm này dùng để chỉ chung các thần,
thánh, tổ tiên và ma quỷ dữ, nhưng cũng có sự phân biệt rõ ma lành (hén cúi) là
thần thánh, Phật, tổ tiên... và ma dữ (thoọc cúi) là cô hồn, người chết không nơi
thờ phụng.
24
Đối với lễ tết của đồng bào Sán Dìu ngoài ăn tết âm lịch chung còn thể
hiện nét rất riêng, một năm họ có hai cái tết lớn, thứ nhất là tết Thanh Minh vào
tháng 3 âm lịch hàng năm, ngày này con cháu sẽ đến nhà trưởng họ và mọi
người cùng đi tảo mộ và cầu một năm mùa màng bội thu, con cháu mạnh khỏe.
Tết thứ hai là Đông Chí thường hay gọi lễ cúng cơm mới, đây là ngày để tổng
kết một năm làm việc vất vả và cầu những điều may nắm cho năm sắp tới.
Ngoài ra tết Đông Chí còn mang thêm ý nghĩa cầu mong có con đàn, cháu
đống. Những người đã lấy nhau lâu mà vẫn chưa có con thì sau khi ăn tết xong
người vợ về nhà bố mẹ đẻ ở. Người chồng cho ông mối đến hỏi và sau đó tổ
chức cưới lại như là cưới vợ mới.
Bên cạnh đó, loại hình diễn xướng dân gian của đồng bào rất phong phú
và độc đáo, tiêu biểu phải kể đến hát Soọng cô, nói cách khác đây là loại hình
hát giao duyên nam nữ, Soọng cô thường được hát về đêm, có những cuộc hát
kéo dài suốt nhiều đêm để kết tóc xe duyên các đôi trai gái thương mến nhau
nên vợ chồng. Về tục lệ Cưới xin, người Sán Dìu quan niệm nam nữ được tự do
yêu đương nhưng có thành vợ thành chồng hay không họ lại tuỳ thuộc vào “số
mệnh” và sự quyết định của bố mẹ. Ðám cưới gồm nhiều nghi lễ, điểm nổi bật
nhất là lễ Khai hoa tửu diễn ra tại nhà gái, trước hôm cô dâu về nhà chồng.
Người ta lấy một bình rượu và một cái đĩa, trên đĩa lót hai miếng giấy cắt hoa,
miếng trắng để dưới, miếng đỏ để trên, đặt lên trên đĩa hai quả trứng luộc có
xâu chỉ đỏ và buộc ở mỗi bên trứng hai đồng xu. Sau khi cúng thì bóc trứng lấy
lòng đỏ hoà với rượu để mọi người uống mừng hạnh phúc của cô dâu, chú rể.
Về văn hóa vật chất, dân tộc Sán Dìu hay xây dựng làng bản của mình ở
sườn đồi hay chân đồi, mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà. Nơi ở lý tưởng là
trước cánh đồng, sau lưng là đồi rừng, sông suối bởi vì những nơi đó thích hợp
cho việc canh tác và trồng trọt chăn nuôi của người Sán Dìu. Đối với kiến trúc
nhà cửa họ gọi nhà là “ộc”, nhà ba gian hai chái. Mái nhà thường được lợp
bằng rơm rạ, cỏ tranh... xung quanh nhà được dựng nan tre rồi vắt rơm trộn bùn
25
thành tường vách nhà. Làm xong nhà, gia chủ thường hay tổ chức ăn mừng nhà
mới gọi là (Dịp sin ộc). Đây cũng là dịp để trai gái trong làng hát Soọng cô
mừng tân gia.
Về trang phục truyền thống nam giới mặc hai chiếc áo, áo trong màu
trắng, áo ngoài có màu nâu hoặc đen. Hình dáng của áo năm thân, cổ cao, có
cài khuy, áo không quá dài chỉ đến đầu gối. Quần màu nâu hay đen được thắt
dây lưng màu chàm. Bộ nữ trang phục của đồng bào gồm có khăn đội đầu, áo
trong, áo ngoài, dây lưng, váy, dây lưng, và xà cạp. Phụ nữ Sán Dìu vấn tóc,
đội khăn hình mỏ quạ giống người miền xuôi. Ngoài ra cách ăn mặc còn có sự
phân biệt về tuổi tác, người trẻ mặc áo vạt bên phải vắt phủ lên vạt áo bên trái.
Người già mặc áo vạt trái vắt phủ lên vạt bên phải rồi dùng thắt lưng hoa lý,
tím hay đỏ thắt lại. Phối hợp với các loại trang sắc vòng kiềng, khuyên tai, nhẫn
được làm bằng bạc. Đặc biệt phụ nữ Sán Dìu có chiếc túi trầu (loi thoi), hình
múi bưởi, được may và thêu thùa rất công phu.
Kể từ khi đồng bào Sán Dìu di cư vào Việt Nam cho đến nay họ đã trải
qua hàng trăm năm sinh sống, nhưng người Sán Dìu vẫn lưu giữ được những
nét văn hóa riêng của dân tộc mình, và đã có nhiều đóng góp vào việc xây
dựng, bảo vệ, phát triển kinh tế, văn hóa của nước Việt Nam.
1.3.3. Truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Mở trời dựng đất là một trong những truyện thơ đặc sắc của dân tộc Sán
Dìu, tác phẩm là sự kế thừa chọn lọc sáng tạo giữa hai nền văn hóa, văn học
dân gian Trung Hoa và Việt Nam. Vì thế tác phẩm mang một màu sắc riêng
trong dòng chảy truyện thơ dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Truyện thơ kể lại thủa xưa khi trời đất còn gần nhau, Vua Bàn Cổ là người
phân định trời đất. Bỗng một hôm ông trời nổi giận cho nước sông dâng cao
làm chết muôn loài. Chỉ có hai chị em Phục Nghĩa họ nhanh chân chui vào quả
bầu khô, nổi lên theo dòng nước nên sống sót. Khi nước rút vì trong vùng
không còn ai nên họ đành lấy nhau sinh nhiều con cháu làm cho người Sán
26
Dìu hồi sinh trở lại. Tác phẩm Mở trời dựng đất có hai phần và mỗi phần đều
có ý nghĩa riêng, ở phần thứ nhất từ câu 1 - 74 tác giả viết về sự hình thành
của vạn vật. Sự giao thoa giữa hai nền văn học Trung Hoa và Việt Nam được
thể hiện khá rõ trong phần một này, tác giả chủ yếu nhắc tới các nhân vật dân
gian như: Vua Bàn Cổ, Nữ Oa, núi Côn Lôn, Cửa thiên Huyền Nữ, các hiện
tượng tự nhiên từ xa xưa như nạn Đại hồng thủy… Vua Bàn Cổ là nhân vật
trong thần thoại Trung Hoa, ông được coi là vị thần khai thiên lập địa, sáng
tạo ra vũ trụ. Theo đó, vào lúc trời đất còn chưa hình thành, tất cả đều là một
khối hỗn độn, chưa có trên dưới, phải trái, đông tây nam bắc, không có ánh
sáng cũng chẳng có thanh âm, tất cả chỉ là một không gian hoàn toàn không
có sự sống. Ở trung tâm của khối hỗn độn đó Bàn Cổ đã tạo ra trời đất, sáng
tối. Lúc này giữa Trời và Đất chỉ có một con người là Bàn Cổ, nên mọi nỗi
buồn vui của Ngài đều ảnh hưởng trực tiếp đến tự nhiên. Khi Ngài vui vẻ, bầu
trời trong xanh; khi Ngài tức giận, trời sinh u ám; khi Ngài khóc, nước mắt
thành mưa và tuyết; khi Ngài thở dài, thành gió và mây. Cùng với vua Bàn Cổ
là hoàng đế Phục Nghĩa, Nữ Oa và Cửu Thiên Huyền Nữ đã tạo ra loài người.
Đây đều là những vị thần nổi tiếng trong văn hóa dân gian của Trung Quốc.
Phần hai từ câu 75 - 450 là mười điều khuyên về triết lý nhân sinh dành
cho hậu thế, những lời giáo huấn được ví như “Kinh sách dạy con” của đồng
bào Sán Dìu. Người Sán Dìu rất chú trọng các mối quan hệ như gia đình và xã
hội, bởi vậy lời răn dạy trong tác phẩm là sự kết tinh của trí tuệ, văn hóa, hàng
trăm năm sinh sống của đồng bào Sán Dìu. Mỗi lời khuyên đều mang đậm triết
lý giáo huấn sâu sắc, tác phẩm như một cuốn sách về sự chiêm nghiệm của
cuộc đời để lại nhiều bài học cho thế hệ sau. Truyện thơ Mở trời dựng đất
không chỉ chứa đựng các lời khuyên răn dạy còn là sự lắng đọng của truyền
thống văn hóa, đạo lí tốt đẹp, qua đó phản ánh những tri thức, kinh nghiệm
sống của dân tộc mình trong lịch sử.
27
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương một của đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu một số vấn đề chung
liên quan đến văn học, văn hóa và mối quan hệ của chúng. Văn hóa - văn học là
những lĩnh vực hình thành, tồn tại và phát triển theo quy luật riêng nhưng có
mối quan hệ gắn bó mật thiết. Mỗi lĩnh vực đều có những cách hiểu khác nhau
nhưng đều có cùng sứ mệnh: Hướng đến con người, đề cao tư tưởng nhân văn,
hướng đến chân - thiện - mĩ.
Tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa là một trong những phương
pháp có nhiều ưu thế, sử dụng phương pháp để có được những thuận lợi cho
việc nghiên cứu, mở rộng phạm vi phản ánh tác phẩm văn học. Từ đó chúng ta
có cái nhìn đa chiều, sâu sắc hơn về tác phẩm văn học, góp phần giúp văn học
gần gũi hơn trong đời sống con người.
Vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc được nhà nước ta phát động trong nhiều
năm nay. Nghiên cứu văn hóa trong văn học là một trong những biện pháp giúp
bảo tồn nét đặc sắc của dân tộc. Dân tộc Sán Dìu là một trong những dân tộc
lớn ở nước ta, dân tộc này đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn hóa và văn
học với những phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt. Thành tựu to lớn mà
người Sán Dìu để lại là những trang truyện thơ có giá trị nghệ thuật cao. Đề tài
sẽ tập trung tìm hiểu tác phẩm này dưới góc nhìn văn hóa ở những chương sau.
28
CHƯƠNG 2
N I DUNG TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
2.1. Văn hóa giáo dục đạo lý trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Dân tộc Sán Dìu đã trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, tất cả những
điều đó đều được phản ánh qua văn học. Mở trời dựng đất như một bức tranh
thu nhỏ về cuộc sống lao động sinh hoạt của đồng bào. Những lời khuyên răn
dạy về giáo dục đạo lý như một di sản tinh thần vô cùng quý giá đối với người
Sán Dìu. Ở đó tác giả dân gian ngợi ca điều tốt đẹp, phê phán lối sống, cách
ứng xử không phù hợp trong gian đình, cộng đồng. Truyện thơ còn thể hiện nét
đẹp về đạo đức truyền thống của người Sán Dìu. Đó là tình yêu thương đùm
bọc, che chở lẫn nhau trong cuộc sống. Những câu thơ thể hiện lối giáo dục
chân thực, đã tạo nên đời sống văn hóa vật chất và tinh thần phong phú của
người miền núi, mà trong đời sống hàng ngày dân tộc Sán Dìu vẫn luôn truyền
tụng, khuyên răn con cháu. Lời thơ ý nghĩa, sâu sắc này như một nguồn nhựa
sống để nuôi dưỡng tâm hồn cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Văn hóa giáo dục đạo lý là sự tổng hòa các nhiều yếu tố như: gia đình,
môi trường, xã hội, được người Sán Dìu đúc kết qua hàng trăm năm sinh sống
trên đất nước Việt Nam. Truyện thơ Mở trời dựng đất phản ánh những bài học
nhân sinh trong cuộc sống của dân tộc Sán Dìu, từ đối nhân xử thế trong các
mối quan hệ, đến bài học về đạo làm người. Những yếu tố đó có sự kết hợp của
Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo trở thành những lời khuyên răn dạy “khuân vàng
thước ngọc” để các thế hệ học tập, tu dưỡng, rèn luyện bản thân và tiếp nối
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
Theo Bách khoa toàn thư mở:
“Giáo dục là một quá trình mà trong đó kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
của một người hay một nhóm người này được truyền tải một cách tự nhiên mà
không hề áp đặt sang một nhóm người khác… qua đó đóng góp được tối đa
29
năng lực cho xã hội trong khi vẫn thỏa mãn được quan điểm, sở thích và thế
mạnh của bản thân”[49].
“Đạo đức là một từ Hán Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố
trong tính cách và giá trị của một con người… đức là tính tốt hoặc những công
trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn luyện
thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét đẹp trong đời
sống và tâm hồn”[50].
“Giáo dục đạo đức, lối sống là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, lối
sống từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội thành những đòi hỏi bên trong của
mỗi cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”[50].
Giáo dục đạo đức luôn là việc quan trọng được mọi thời đại đề cập đến.
Giáo dục là nền tảng hình thành nên nhân cách của con người, qua đó sẽ giúp
thế hệ trẻ giữ được nền nếp gia phong, phấn đấu tu dưỡng và phát triển bản
thân, làm rạng danh gia đình, dòng họ và góp phần vào sự ổn định và phát triển
của xã hội.
Dân tộc Sán Dìu luôn chú trọng đến truyền thống văn hóa dân tộc để giáo
dục thế hệ sau. Đó là tư tưởng đề cao lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông
bà cha mẹ, bài học hoàn thiện nhân cách trở thành một người tốt, bên cạnh đó
đồng bào còn phê phán những thói hư tật xấu còn tồn tại trong đời sống xã hội.
2.1.1. Triết lý giáo dục đạo đức của dân tộc Sán Dìu
Trong truyện thơ Mở trời dựng đất, tác giả dân gian đã khái quát về triết
lý giáo dục đạo đức của đồng bào Sán Dìu. Tác phẩm như sự tổng kết những
lời khuyên dạy và kinh nghiệm trong giáo dục ứng xử của con người. Tìm hiểu
triết lý giáo dục trong tác phẩm là điều rất quan trọng và cần thiết, vì đúc kết
trong đó là những bài học làm người mà ông cha đã để lại cho thế hệ trẻ học tập
tu dưỡng rèn luyện đạo đức.
Cũng giống như người Việt, dân tộc Sán Dìu rất coi trọng việc học. Với
người Kinh tư tưởng trọng kiến thức, trọng việc học được hình thành từ rất lâu
30
đời và đã trở thành nét đẹp văn hóa của dân tộc. Ngay từ rất sớm, cha ông đã
nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc học. “Có học mới hay, có cày
mới biết”, “Dao có mài mới sắc, người có học mới nên”, “Muốn lành nghề, chớ
nề học hỏi”. Để có thể tồn tại, phát triển được, con người cần được học tập, trau
dồi để hoàn thiện bản thân bởi kiến thức không phải là cái có sẵn, không phải là
cái “tiềm tàng” trong mỗi con người mà phải thông qua học tập, giáo dục, tự rèn
luyện thì mới có được. Như vậy, phải thông qua việc học mới giúp con người có
hiểu biết, hoàn thiện bản thân, từ đó hình thành nhân cách. Việc học có vai trò
rất quan trọng đối với cuộc đời con người, học để lập thân lập nghiệp, để hướng
tới một cuộc sống tốt đẹp hơn: “Hay học thì sang, hay làm thì có”, “Học hành
vất vả, kết quả ngọt bùi”, “Học thành, danh lập” và hơn thế nữa, mục đích cao
nhất của việc học chính là “Học để làm người”.
Người Sán Dìu cho rằng giáo dục có vai trò quan trọng đối với việc hình
thành nhân cách con người, đây là một quan niệm rất tiến bộ của đồng bào,
quan niệm đó vừa khẳng định bản chất con người không phải tự nhiên mà có,
không phải do tiền định, vừa thấy được quy luật của sự ảnh hưởng, chi phối các
yếu tố môi trường xã hội, sự tác động có ý thức của thế hệ đi trước đối với các
thế hệ đi sau bằng con đường giáo dục:
Người dùng thư sách dạy cái đức
Người ngu đọc sách sửa cái tâm
Người hiền đọc sách được thành người
Lớn lên ngang ngạnh không nghe dạy
Vận số khó sáng như vàng ngọc
Do ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo, nên người Sán Dìu lấy việc đọc
“sách thánh hiền”, trau dồi kiến thức là điều căn bản trong quá trình giáo dục
nhân cách con người. Ở đây chữ “đức” được đặt nên hàng đầu cho thấy dân tộc
Sán Dìu cũng như người Việt coi đạo đức là điều cốt lõi mà mỗi cá nhân cần tu
dưỡng rèn luyện. Với người “ngu” đọc sách để sửa cái “tâm” cho sáng, “người
31
hiền” đọc sách để “thành người”. Đồng bào cho rằng mục đích quan trọng của
việc học trước hết là để làm người, “Làm người” là phải có phẩm chất đạo đức,
không vì những nhu cầu tầm thường, mà ta đánh mất mình, hạ thấp tư cách,
phẩm chất của mỗi người. Con người cần phải biết giữ mình trong sạch, đàng
hoàng, ngay thẳng trong mọi hoàn cảnh. Sau đó mới làm việc đời, giúp nước,
làm rạng danh dân tộc đó là những điều thế hệ ông cha muốn răn dạy con cháu.
Tác giả dân gian còn cho rằng “tâm - tài - đức” là một trong những yếu tố quan
trọng nhất để hoàn thiện bản thân. Nếu bản thân không chịu nghe lời giáo dục
lớn lên ngang ngạnh, vận số không tốt “khó sáng như vàng ngọc”.
Người Sán Dìu quan niệm rằng dạy con mà không dạy “đạo” khác nào
ngọc đặt trong tối. Cổ nhân có câu: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học
bất tri đạo”, ngọc không được mài giũa, đẽo gọt thì không thể làm cho nó thể
hiện được vẻ đẹp và giá trị của nó; con người không được dạy dỗ thì không biết
đến đạo lí, không thể hoàn thiện về nhân cách. Tục ngữ Việt có câu “Người ta
là hoa đất”, khẳng định con người là sản phẩm tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của
trời đất. Nhưng cuộc sống của con người để trở nên có ý nghĩa, để vượt trên
muôn vật thì không có cách nào khác là phải học tập, rèn luyện. Cho nên đã là
“ngọc” thì phải mài giũa, đã là người thì phải học tập, phải trải qua khó khăn,
gian khổ thì mới thành người. Nếu không khác nào “ngọc” đặt trong “tối”, như
thế làm sao có thể thấy hết được giá trị của viên ngọc. Tác giả dân gian đã so
sánh hình ảnh “ngọc” với đạo đức con người, “ngọc” là những sự vật hiện
tượng quen thuộc với đồng bào dân tộc Sán Dìu nói riêng và đồng bào các dân
tộc thiểu số miền núi nói chung. Việc so sánh này cho thấy giáo dục con người
không phải là những gì sâu rộng mà bắt đầu từ điều thân thuộc nhất. Bài học
đạo lí đấy tuy quen thuộc nhưng giá trị lại quý báu như “ngọc”:
Có con nếu mà không dạy đạo
Khác nào ngọc sáng đặt nơi tối
Không biết nên thuộc thân đắng cay
32
Mở mồm cầu người thật khó thay
Việc mình ập đến thân phải chịu
Đạo làm người là triết lí nhân sinh, thể hiện thái độ, hành vi mỗi người
cần phải thực hiện trong quan hệ ứng xử với người khác. Việc ứng xử giữa các
mối quan hệ gia đình, xã hội là điều rất quan trọng, nếu sống không có “đức”
khi gặp việc khó khăn hay tai họa sẽ không có người giúp đỡ, gặp nhiều trắc trở
gian truân trong cuộc đời. Trong gia đình chữ “đạo” được thể hiện ở các mặt
như: đạo cha con yêu cầu cha phải thương con, con phải hiếu với cha; đạo vợ
chồng yêu cầu vợ chồng phải thuận hòa, chung thủy. Trong bất kì chế độ xã hội
nào, từ gia đình truyền thống đến gia đình hiện đại, việc giáo dục cho con cháu
về chữ “đạo” luôn được xác định là nết đầu trong trăm nết, là giá trị hàng đầu
của đạo làm người.
Mỗi người đều được sinh ra bởi cha mẹ, được cha mẹ nuôi dưỡng lớn khôn,
dạy dỗ nên người. Bởi thế, mỗi người con, từ trong tâm khảm đều yêu kính, biết
ơn và mong muốn được đền đáp công ơn mẹ cha. Trong ca dao người Việt quan
niệm Công cha, nghĩa mẹ được ví như “núi Thái Sơn”, “nước trong nguồn”.
Người Sán Dìu cũng tiếp nối truyền thống đạo lí đó, theo đồng bào con cái phải
“thờ mẹ”, “kính cha” mới giữ trọn đạo làm con, mới “tròn chữ hiếu”:
Nhà có vàng quý ngàn vạn lạng
Có tiền khó mua cháu con hiền
Đi học là lúc kính thánh sư
Về nhà là lúc kính mẹ cha
…
Làm người phải biết lễ nghĩa cao
Về sau người quý truyền biết tiếng
Đồng bào đã lấy những vật chất rất giá trị như vàng, ngọc để so sánh với
kiến thức mà con cháu học được, dù nhà có vàng quý ngàn vạn lạng cũng
không bằng ‘‘con cháu hiền’’ có chữ, có kiến thức còn quý hơn có cả kho vàng.
33
Giống với quan niệm người Việt ‘‘Cho con một thúng vàng không bằng cho
con một quyển sách’’. Tục ngữ Việt có câu “không thầy đố mày làm nên”,
người Sán Dìu cũng lấy việc “tôn sư trọng đạo” là đạo lí tốt đẹp cần gìn giữ và
phát huy cho các thế hệ. Tác giả dân gian cho rằng cho con đi học phải biết dạy
con tôn trọng, kính trọng người thầy vì người thầy đã giảng dạy, truyền dạy cho
chúng ta biết thế nào là đạo nghĩa, đạo đức, đạo học làm người và những tri
thức khác về mọi mặt của đời sống tự nhiên, đời sống xã hội...
Cũng như người Kinh, đồng bào Sán Dìu quan niệm về “kẻ sĩ” (người
thông hiểu chữ Thánh hiền, người có trí tuệ uyên bác) được xếp vào bậc cao trong
bậc thang giá trị xã hội và là mơ ước của bao người. Một người đỗ đạt là niềm
hạnh phúc, tự hào không chỉ của một gia đình, dòng tộc, mà còn của cả làng, cả
nước. Một dân tộc coi trọng trí tuệ, giáo dục như thế là một dân tộc văn hiến:
Tuy nhà sinh được người con tốt
Truyện cổ là sách gốc đời xưa
Về sau của báu ấy trong nhà
Khuyên người ghi lòng mà nhớ lấy
Có con nghìn vạn chăm đọc sách
Tác giả dân gian so sánh việc dạy con không đúng cách dẫn đến “lễ nghĩa
không biết”, như “nước lũ”, “tre già uốn không thẳng” đây là những hình ảnh
quen thuộc với cuộc sống lao động của dân tộc Sán Dìu ở miền núi:
Lễ nghĩa không biết muốn làm cao
Lời nói sai như con nước lũ
Làm bản làng mắc họa và thân
Lâu năm tre già uốn không thẳng
Phá hỏng cửa nhà thật ác nhân
Người Kinh và dân tộc Sán Dìu đều có nét tương đồng trong cách dạy
con, đồng bào cho rằng giáo dục con người phải từ khi còn trẻ thơ. Trong thành
ngữ Việt có câu ‘‘dạy con từ thửa còn thơ’’, nghĩa là phải giáo dục trẻ con ngay
34
từ khi đứa bé còn thơ dại, non nớt, vì ‘‘tre non dễ uốn’’, ‘‘non chẳng uốn, già
nổ đốt’’, ‘‘bé chẳng vin, cả gãy cành’’. Giáo dục con cháu cũng như ‘‘uốn tre’’,
tre để già uốn không thẳng như tính cách con người lớn lên ngang ngạnh khó
bảo, không biết lễ nghĩa, làm điều sai trái ‘‘tan cửa nát nhà’’.
Với người H’Mông và dân tộc Tày cũng cùng quan điểm giáo dục người
trẻ như vậy, họ cho rằng muốn con được thông minh cần phải trải qua quá trình
rèn luyện, trong tục ngữ Mông đã khái quát triết lý giáo dục nhân sinh rất sâu
sắc: “Muốn vợ khôn phải bảo/ Muốn con khôn phải rèn”. “Khéo nhủ khuyên vợ
con, xứng là trụ/ Hiếu với cha mẹ con có hậu”. Tục ngữ Tày “Thương con tập
cho con ăn đắng ăn khổ/ Hại con cho ăn mật ăn đường”. Tục ngữ dân tộc Dao:
“Cây bé uốn thẳng/ Cây cao uốn gẫy”.
Như vậy, chúng ta có thể thấy người Sán Dìu nói riêng và các dân tộc
anh em đều có chung những bài học giáo dục đạo lý cho các thành viên trong
gia đình. Xuất phát từ chính bản sắc dân tộc mình ông cha luôn muốn thế hệ
sau tiếp nối những truyền thống quý báu của dân tộc mình.
2.1.2. Giáo dục gắn với thực tiễn trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Dân tộc Sán Dìu coi trọng việc giáo dục phải gắn với thực tiễn, xuất phát
từ những điều đơn giản ‘‘mình đi đường gặp người hay, cúi đầu làm lễ kết
bạn’’, để có tri thức con người cần có quan hệ với môi trường xã hội xung
quanh. Từ đó chúng ta tiếp thu được những điều hay, lẽ phải tri thức tiến bộ
của cộng đồng. Với việc sử dụng phép điệp cấu trúc ở đầu các câu thơ, tác giả
dân gian như muốn nhấn mạnh đến giá trị đạo đức cho thế hệ trẻ. Trong việc
giáo dục cha mẹ cần nghiêm khắc không được nuông chiều con, người Việt có
câu ‘‘con hư tại mẹ, cháu hư tại bà’’, tác giả dân gian nhấn mạnh đến yếu tố gia
đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người:
Bần cùng không được nuông chiều con
Bần cùng nuông chiều không áo mặc
Nhà giàu không nên nuông chiều con
35
Nhà giàu nuông chiều rước lấy hận
Ngồi chiếu không biết chỗ mình ngồi.
Tác giả dân gian lấy việc ‘‘Ngồi chiếu’’ để nói về tính cách của con người,
“ngồi chiếu” là hình ảnh quen thuộc trong văn hóa sinh hoạt hàng ngày của
người Sán Dìu, tục này có sự phân biệt cao thấp, trên dưới, thứ tự trong các vai
vế và dòng họ trong gia đình. Với người lớn tuổi thường được xếp chỗ ngồi trên
giường và giữa nhà, xung quanh là thứ tự chỗ ngồi phù hợp độ tuổi các thành
viên khác. Xuất phát từ bản tính mộc mạc, giản dị của mình, người Sán Dìu dạy
con trẻ từ những điều nhỏ nhất trong cuộc sống. Dù thể hiện bằng hình thức nào,
đây là phong tục mang đậm bản sắc văn hóa của người Sán Dìu trong việc giữ
gìn và phát huy những nét đẹp truyền thống dân tộc mình.
Văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người Sán Dìu,
họ cho rằng con người phải biết giữ mình trong sạch, ngay thẳng trong mọi
hoàn cảnh, nhất là đối với người làm quan cần phải ‘‘tu nhân quả’’, thanh liêm
chính trực, luôn là tấm gương “tôi trung, con hiếu’’. Đồng bào cho rằng làm
quan là ‘‘dân chi phụ mẫu’’ phải có tấm lòng và yêu thương dân như con. Với
một vị quan phải có khí phách trong cuộc đấu tranh tìm ra lẽ phải, không vì ‘‘tư
tình’’ của bản thân mà xử án oan sai cho mọi người. Dân tộc Sán Dìu đề cao
chữ “đạo” trong mọi hoàn cảnh, trong gia đình ông bà vợ chồng con cái phải
sống đúng đạo nghĩa, đạo hiếu, giữa cộng đồng, xã hội sống hòa hợp theo đạo
lý. Với người làm quan đem lại sự công bằng cho mọi người nên “chọn việc”
làm tâm đạo, để không bị chi phối bởi những mối quan hệ bên ngoài làm ảnh
hưởng đến công việc, làm được như vậy trên dưới hợp lòng dân đất nước thịnh
trị, nhân dân no ấm, cửa nhà an vui:
Mười khuyên: Làm quan tu nhân quả
Pháp luật răn dạy không tương đồng
Tư tình lót mệnh đầu người rơi
Mới hay chân tình không thể dung
36
Mới lấy chọn việc làm tâm đạo
Tự có nhân quả sáng muôn nơi
Dân tộc Sán Dìu với bản tính mộc mạc, giản dị trong văn hóa xã hội mọi
người luôn yêu thương, đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn.
Vì thế trong các mối quan hệ họ thường tránh những xích mích với hàng xóm,
anh em, bạn bè ‘‘khuyên người đừng tranh việc đã qua, nhẫn được một thời
người không biết’’.
Phật giáo là một trong những tôn giáo ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống
văn hóa của người Sán Dìu, vì thế trong những câu thơ răn dạy về bài học nhân
sinh, đồng bào luôn khuyên bảo con cháu đạo làm người theo triết lí nhà Phật
không ‘‘Tham - sân - si’’, không tranh chấp, chiếm đoạt tài sản của nhau:
Chiếm ruộng đất người liền kế nhà
Xưa nay giết người oan đời sau
Đông Nhạc ngày trước khuyên Hoàng Đế
Âm phủ chẳng tha người có tội
Tác giả dân gian lấy điển tích về vị thần nổi tiếng trong văn hóa dân gian
Trung hoa là Đông Nhạc ‘‘thần cai quản Hoa Sơn (Thái Sơn), còn được gọi là
Đông Nhạc Đế Quan, Thái Sơn phủ Quân, hoặc Nhạc Đế. Vị này chưởng quản
ngũ nhạc và tất cả danh sơn của Trung Hoa. Dân gian Trung Quốc tin vị thần
này cai quản những người vừa mới chết, chưa tới chỗ Diêm Vương phán án,
hoặc đã phán án, nhưng chưa đi đầu thai. Theo Đạo Giáo, vị này quản nhiệm cả
mười vị Diêm Vương (trong Đạo Giáo còn có một vị thần là Phong Đô Đế Quân
cũng cai quản Thập Điện Diêm Vương), chủ trì họa phước của nhân gian’’[51].
Người xưa tin rằng khi còn sống làm những điều sai trái lúc chết xuống âm phủ
sẽ chịu tội, vì thế “làm người mới hay phải lẽ đạo”.
Bên cạnh sự giao thoa của các tôn giáo khác thì Phật giáo vẫn là tôn giáo
chi phối chủ yếu trong đời sống văn hóa người Sán Dìu, những bài học giáo dục
đạo đức luôn mang đậm màu sắc giáo lý nhà Phật. Vì thế người xưa khuyên dạy
37
con cháu chọn cho mình một lối sốngchính trực. Ứng xử với cộng đồng cần xuất
phát từ chữ tâm và tình, với một lối sống đúng với thuần phong mỹ tục của dân
tộc đó là những nét đẹp giá trị văn hóa tinh thần trải qua hàng trăm năm của dân
tộc Sán Dìu. Qua đó còn thể hiện quan niệm “Nhân quả báo ứng” trong Đạo phật:
Sớm sớm đãi khách có nghèo đâu
Mưu tối hại người trời có mắt
Ngày tháng soi sáng làm minh chứng
Có vậy lòng người mới ngay thẳng
Công bình chính trực được phân minh
Nếu làm những việc xấu hại nước, hại dân sẽ bị “báo ứng”, cuộc sống
không được tốt đẹp:
Bần cùng nghìn vạn đừng làm giặc
Hay đi làm giặc tan nát nhà
Làm giặc một ngày người bắt được
Vợ con bị giữ cùng bị trói
Từ xưa đường giặc người không giàu
Tác giả dân gian phê phán lối sống tầm thường của người đàn ông trong
gia đình:
Hay cùng người ngoài chàm đánh bạc
Đánh bạc uống rượu chẳng dừng tay
Hôm nay bạc đến mai lại đi
Tiền của đánh hết tan cửa nhà
Cho dù cuộc sống có vinh hoa phú quý không nên coi thường nhau, làm
người cần cư xử theo lẽ phải, tôn trọng và yêu thương nhau:
Phú quý vinh hoa được mấy năm
Bất luận lúc sống hay khi chết
Cũng nên hành xử theo lẽ phải
Làm người cùng nhau kết lễ nghĩa
38
Trong lòng mến khách người tốt hiểu
“Mến khách” là một trong những đức tính đáng quý của đồng bào, người
Sán Dìu quan niệm nếu gặp nhau quý mến kết nghĩa được coi như người anh
em, con cháu trong gia đình.
Đồng bào chú trọng việc giáo dục những đức tính chăm chỉ, cần kiệm
cho mỗi người và ứng xử với môi trường tự nhiên hài hòa. Bởi vì người Sán
Dìu canh tác nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên nên đồng bào
cần tích lũy những tri thức về thời tiết, khí hậu để gieo trồng đúng thời vụ, cho
năng suất cao nhất:
Cày cấy kịp thời thân đủ no
Vợ chồng con cái được sum vầy
Đừng nên học kẻ lười lao động.
Bối cảnh xã hội hôm nay có sự tác động cả yếu tố tích cực và tiêu cực từ
văn hóa ngoại lai. Văn hóa hiện đại và truyền thống có sự đan xen lẫn nhau,
song đồng bào vẫn lưu giữ được nhiều nét văn hóa cổ truyền để dạy bảo các thế
hệ con cháu của dân tộc mình. Việc bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa
dân gian trong bối cảnh xã hội hiện đại là điều cần thiết, bởi con người cần biết
và trân trọng cội nguồn của dân tộc mình.
2.1.3. Mười điều khuyên về mối quan hệ trong gia đình.
Trong văn học dân gian Sán Dìu có rất nhiều những câu thơ, ca dao nói
về đạo đức, lối sống và đúc kết ở trong đó phải kể đến truyện thơ Mở trời dựng
đất. Là những câu thơ đưa ra những kinh nghiệm sống, những lời răn dạy, bài
học giáo dục cho các thế hệ đây cũng là nơi thể hiện những phẩm chất đẹp đẽ
của người Sán Dìu về lẽ sống, lối sống, về những phẩm chất cao quý của con
người, đưa ra những lời khuyên bổ ích về mọi lĩnh vực của cuộc sống. Mỗi câu
thơ là những lời khuyên đúng đắn, được đúc rút từ cuộc sống thực tế nên có ý
nghĩa giáo dục sâu sắc.
39
Lòng hiếu thảo là đức tính tốt đẹp của người Việt Nam, điều đó được thể
hiện đầy đủ, sinh động trong ca dao, lời ca về công cha nghĩa mẹ, về chữ hiếu
và chữ đạo đối với các con như:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
(Ca dao người Việt)
Dân tộc Sán Dìu quan niệm đạo hiếu là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn
và lòng mong muốn làm những việc tốt đẹp đối với ông bà, cha mẹ. Vì vậy, giáo
dục chữ hiếu từ chính gia đình là có vai trò rất quan trọng giúp mỗi con người có
nền tảng đạo đức để trở thành một công dân tốt. Bầu không khí của gia đình,
cách ứng xử của mỗi thành viên có ảnh hưởng trực tiếp tới tâm lí, tình cảm của
mỗi người. Vì vậy, cần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp từ mỗi thành viên trong
gia đình, các bậc lớn tuổi sống mẫu mực để con cháu noi theo, vợ chồng hạnh
phúc, thương yêu con cái. Đó là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng sâu sắc nhất
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Từ đây, chữ “Hiếu”
được hình thành thông qua quan hệ huyết thống bền chặt.
Mở đầu tác phẩm là lời răn dạy về công ơn cha mẹ và bổn phận của con
cái. Để làm tròn bổn phận, khi cha mẹ còn sống, con cái phải vâng theo lời dạy
bảo của người, yêu mến, tôn kính và chăm sóc, phụng dưỡng hai thân; với tổ
tiên thể hiện lòng tôn kính, biết ơn đối với tiền nhân thông qua thực hành nghi
lễ thờ cúng:
Một khuyên noi theo nhớ điều xưa
Hãy nhớ cha mẹ sinh thời nuôi
Nhà có vàng quý nghìn vạn lạng
Có tiền khó mua thân bố mẹ
40
Tác giả sử dụng hình ảnh “vàng, bạc” là những vất chật quen thuộc
nhưng có giá trị trong cuộc sống để so sánh với “cha mẹ” cho ta thấy “công
cha, nghĩa mẹ” lớn lao vô tận đến nhường nào. Những lời thơ giản dị nhưng
chứa đựng trong đó là một triết lí nhân sinh cao đẹp “có cha mẹ còn quý hơn
nghìn vạn lạng vàng”. Đây là bài học làm người đầu tiên mà mỗi người con cần
biết và hiểu về cội nguồn của mình. Cha mẹ sinh con ra nuôi con mau lớn thành
người, tình yêu thương và tấm lòng cha mẹ dành cho con là vô tận, công ơn đó
là có nghìn lạng vàng cũng không thể mua được, tiền vàng không phải là thứ
tồn tại vĩnh cửu nó có giá trị nhất định, còn đối với cha mẹ là công lao trời biển
và như trong ca dao Việt Nam đã dùng sự so sánh kỳ vĩ của vũ trụ, đất trời để
nói về “công cha nghĩa mẹ”.
Không chỉ riêng người Sán Dìu, người Tày quan niệm đạo làm con phải
biết nhớ ơn công lao cha mẹ đã sinh thành và nuôi dưỡng ta nên người. Trong
tục ngữ người Tày đã dùng hình ảnh hùng vĩ về núi sông để nói về công lao to
lớn của cha mẹ: “Khúy mạ khửn keng chắng chắc công pèng pò mè/ Cười ngựa
lên đèo cao mới biết công lao cha mạ” (tục ngữ Tày).
Bên những trang thơ còn thấm đẫm nỗi vất vả vị mặn mồ hôi, những giọt
sữa nóng mẹ nuôi dưỡng con nên người đó còn là những hy sinh thầm lặng, cơ
cực, đắng cay nhọc nhằn mẹ đã trải qua đều vì các con được miêu tả trong ca
dao người Việt: “Nhớ ơn chín chữ cù lao/ Ba năm bú mớm biết bao thân tình”.
Trong truyện thơ Mở trời dựng đất tác giả dân gian đã khắc họa người mẹ với
những hình ảnh chân thực của cuộc sống đời thường với bao nhọc nhằn, lam lũ,
vất vả để nuôi con khôn lớn trưởng thành:
Thấy con mắc bệnh lòng mẹ sầu
Ba ngày cơm nước không nghĩ đến
Người mẹ thấy con bệnh được khỏi
Gọi con đến gần lòng vui sướng.
41
Đối với mẹ niềm hạnh phúc là được nhìn con ngủ ngon giấc trong vòng
tay ấm áp của mình và những tháng ngày mẹ dõi theo con khôn lớn lên người:
Tay trái bế con đặt xuống ngủ
Bên phải bị ướt phần mẹ nằm
Trái phải hai bên cùng ướt hết
Hai tay nâng con đặt vào lòng.
Văn học là tấm gương phản ánh sinh động về đời sống, “người mẹ” là
một trong những nguồn cảm hứng vô tận trong sáng tác văn chương. Trong ca
dao Việt “nghĩa mẹ” được khắc họa một cách mộc mạc giản dị và chân thực về
những vất vả mẹ đã trải qua để nuôi con khôn lớn: “Nuôi con chẳng quản chi
thân/ Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn” (Ca dao - người Việt).
Công lao trởi biển của cha mẹ sao có thể kể hết bằng lời, tác phẩm đã viết
lên những dòng thơ hàm súc ẩn chứa trong đấy là triết lý đạo làm con phải tròn
chữ hiếu. Hiếu là hiếu thuận, hiếu nghĩa, cách cư xử sao cho kính trọng, yêu
thương, thấu tình đạt lý. Đây cũng là cách sống, cách thức làm người hợp đạo
lý mà người Sán Dìu muốn răn dạy thế hệ con cháu của mình.
Người Sán Dìu gửi gắm những điều khuyên này vào trong từng trang thơ
để nhắc nhở, bảo ban con cháu sống đôn hậu, kính trên nhường dưới, đối với
cha mẹ nuôi con bao thân khổ khôn lớn thành người biết ơn sâu:
Bố mẹ không thân người ngoài thân
Không kính cha mẹ còn kính ai
Từ thấu hiểu cuộc sống, đúc kết thành những bài học sâu sắc cho thế hệ
con cháu về kính trọng tổ tiên, ông bà, cha mẹ. khi còn sống không hết lòng
phụng dưỡng, sau khi cha mẹ qua đời lại làm đáng tang thật to, nhằm khoe
khoang sự giàu có và hiếu thảo của mình: “Sống thì con chẳng cho ăn/ Chết thì
xôi thịt làm văn tế ruồi” (Cao dao - người Việt). Những tiếng khóc khi ấy chỉ
để “quỷ thần nghe” vì thế nhớ về tổ tiên, thảo kính cha mẹ, biết ơn về cội
nguồn là những điều đáng trân trọng con cháu sẽ đức vẹn hiền:
42
Bố mẹ còn sống không qua lại
Chớ nên đi rồi sớm quay đầu
Kính phụng còn sống mẹ cùng cha
Sẽ thấy con cháu đức vẹn hiền
Bố mẹ sống được trăm năm hiếm
Sinh thời không kính chết rồi thương.
Người Sán Dìu răn dạy khuyên bảo con cháu mình về nguyên tắc sống
ngàn đời chẳng bao giờ phai, cây muốn có trái ngọt thì không thể không có
người trồng, chăm sóc, cũng giống như chúng ta không thể sinh ra nếu không
có tổ tiên. Mỗi con người lớn lên đều được cha mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc yêu
thương dạy bảo cách sống nên người. Với mỗi người con sống tròn đạo hiếu,
với tổ tiên thắp nén tâm hương, nhớ về nguồn cội, tri ân tổ tiên với tất cả tấm
lòng thành kính của mình.
Văn hóa gia đình là giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam,
mối quan hệ giữa các thành viên trong ra gia đình tạo nên sức mạnh, đoàn kết,
lòng dũng cảm, tinh thần tự lực, biết chịu đựng và kiên nhẫn. Tất cả những bản
chất này đã được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài trong đời sống gia
đình. Văn học là tấm gương phản chiếu những nét đẹp truyền thống văn hóa gia
đình như trong văn học dân gian với các thể loại ca dao, tục ngữ, thành ngữ,
truyện thơ, phản ánh đầy đủ các mối quan hệ giữa các thành viên. Người Sán
Dìu luôn coi trọng các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ vợ chồng, điều này
phản ánh sinh động trong truyện thơ Mở trời dựng đất. Tác phẩm miêu tả đầy
đủ và sâu sắc về các mối quan hệ gia đình, xã hội của dân tộc Sán Dìu.
Mối quan hệ giữa vợ chồng được thể hiện qua truyện thơ ở các lời
khuyên răn dạy như đối nhân xử thế cho phải đạo. Nhân duyên vợ chồng là do
trời chủ định gắn kết giữa hai người cùng chung sống và xây dựng hạnh phúc
gia đình. Tác giả dân gian luôn khuyên dạy dù tốt xấu phải nhường nhịn, người
43
vợ giống như người giữ lửa trong gia đình, vợ chồng hiếu thuận trong nhà sinh
quý tử, của nhà ngăn nắp, gia đình hạnh phúc:
Nhân duyên vợ chồng do trời định
Tốt xấu biết nhịn lấy nhân duyên
Hiếu thuận trong nhà sinh quý tử
Mệnh tốt được vậy nhờ phúc tổ
Vợ tốt tự nhiên chồng được sang
Con hay là thứ cha mẹ nhờ
Cửa nhà ngăn nắp ấy vợ hiền.
Từ những lời răn dạy trong mối quan hệ gia đình, tác giả mở rộng về
việc cai trị đất nước, một nước có quân vương tốt thì đất nước sẽ thái bình
thịnh trị, mọi việc tự sẽ an:
Trị quốc tận gốc quân vương tốt
Nước có quân tốt nước tự an
Cùng với đó là những lời răn đe trong các mối quan hệ, tranh vợ, tranh
chồng, chiếm đoạt ruộng đất, phú quý vinh hoa tự lụi. Bất luận ở mọi hoàn cảnh
phải hành xử theo lẽ phải, hành xử theo lễ nghĩa, làm tròn bổn phận của mỗi người:
Tranh vợ người, chiếm ruộng người ta
Phúc quý vinh hoa được mấy năm
Bất luận lúc sống hay khi chết
Cũng nên hành xử theo lẽ phải
Văn hóa gia đình người Sán Dìu rất coi trọng tình nghĩa, tình cảm. Với
gia đình tình yêu thương của vợ chồng là sợi dây gắn kết thiêng liêng, bền chặt
giữa các mối quan hệ, trong nhà có vợ hiền lo cơm canh khách trông thấy cũng
mát dạ, vợ tốt tự nhiên chồng được sang:
Trong nhà vợ hiền lo cơm canh
Phàm gì làm lễ nên giản dị
Đừng nên tiếp đón nói dài ngắn
44
Khách thấy chủ nhà lòng vui mừng
Lấy làm thức uống lòng mát dạ
Từ mối quan hệ trong gia đình đến quan hệ với xã hội giữa các thành viên
trong làng xã luôn coi trọng tình đoàn kết, họ lấy đó làm gốc, bởi vậy khi xảy ra
những hiềm khích nhỏ họ dễ dàng xuê xoa bỏ qua. Vì thế trong tác phẩm có rất
nhiều câu thơ răn dạy con người phải sống theo đạo lý, người giàu đừng khinh
người nghèo, anh em láng giềng sống hòa thuận, từ đó để phát triển cộng đồng
dân tộc tương thân tương ái giúp đỡ đùm bọc nhau vượt qua mọi khó khăn để
xây dựng một tập thể vững mạnh. Thế hệ đi trước luôn là những tấm gương sáng
để con cháu noi theo phát huy những giá trị tốt đẹp truyền thống dân tộc mình:
Khuyên người phú quý đừng kinh nhau
Ngày tháng luân hồi khó đoán được
…
Làm người cần nhớ đừng khinh thường
Đọc tận cân nhắc biết nông sâu
Những lời khuyên về mối quan hệ vợ chồng trong tác phẩm cho ta thấy
một hình ảnh dân tộc Sán Dìu giàu truyền thống gia đình, văn hóa, lòng mến
khách với tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giúp đỡ nhau cùng chung tay
xây dựng một dân tộc vững mạnh.
2.2. Văn hóa ứng xử trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Đã trải qua hơn 300 năm người Sán Dìu có mặt và xây dựng phát triển ở
đất nước Việt Nam. Từ đó văn hóa ứng xử của người Sán Dìu được hình thành
trong quá trình giao với văn hóa người Việt. Nét đẹp trong văn hóa ứng xử
được đồng bào lưu giữ, truyền lại từ đời này sang đời khác. Ở thời đại nào thì
việc giao tiếp ứng xử là rất quan trọng. Bởi qua đó tạo nên các mối quan hệ đẹp
có đạo đức, văn hóa, giữa cộng đồng dân cư, gia đình, tình bạn, tình yêu và
trong công việc…
45
Truyện thơ Mở trời dựng đất tác giả dân gian không chỉ nói về nét đẹp
văn hóa ứng xử trong gia đình mà mở rộng ra là cả xã hội. Và đó như một sợi
dây gắn kết cả dân tộc yêu thương để chùng tay xây dựng phát huy những giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
2.2.1. Văn hóa ứng xử trong gia đình
Dân tộc Sán Dìu canh tác nông nghiệp là chính, trong quá trình tiếp xúc
và giao lưu với nền văn hóa lúa nước của người Việt cùng các dân tộc anh em
khác, từ đó đồng bào đã hình thành và bảo tồn những nét văn hóa riêng cho dân
tộc mình, cũng giống như văn hóa Việt, người Sán Dìu lấy gia đình làm gốc rễ
cho mọi mối quan hệ. Với đồng bào gia đình có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng.
Bởi đó là nơi nuôi dưỡng các thành viên khôn lớn, trưởng thành.
Trong mối quan hệ ứng xử gia đình người Sán Dìu có những cấm kỵ nhất
định như “giữa bố chồng và con dâu, giữa anh chồng và em dâu có sự cấm kỵ
rất nghiêm ngặt. Con dâu không được ngồi ăn cùng mâm với bố chồng và anh
chồng, thậm chí không được dùng chung một chậu rửa mặt, không được uống
chung một ấm nước. Con dâu muốn đưa con cho bố chồng hoặc anh chồng bế
hộ cũng không được đưa trực tiếp, mà phải đặt đứa bé xuống đâu đó rồi bố
hoặc anh chồng mới bế. Bố chồng và anh chồng cũng không bao giờ được vào
phòng con dâu, kể cả khi con dâu không có mặt ở trong phòng”[13,tr.83].
Trong tác phẩm xuất hiện nhiều lời khuyên răn dạy cho nữ giới để làm
tròn trách nhiệm và vai trò của người phụ nữ trong gia đình:
Hai khuyên: thế gian gái, dâu, vợ
Kính phụng cha mẹ cùng bề trên
Sớm chiều chậu nước đến rửa mặt
Một chiếc khăn để trước cửa nhà
Cha mẹ rửa xong ngồi trên phản
Pha trà hai chén đến rót mời
46
Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Khổng giáo, nhưng người
Sán Dìu rất coi trọng mối quan hệ anh chị em trong gia đình, họ lấy anh em hòa
hợp, hiếu thuận là cái gốc cho mọi mối quan hệ ứng xử trong gia đình, nó như
sợi dây gắn kết gia đình trở nên bền chặt:
Anh em thời hòa nhà chẳng suy
Chị em thời hòa nhà chẳng phân
…
Anh em sinh cùng bào thai mẹ
Anh em cốt nhục hòa thuận tốt
Cũng như văn hóa người Việt trong mối quan hệ gia đình “anh em thuận
hòa là nhà có phúc”, với người Sán Dìu anh em trong gia đình luôn được cha
mẹ dạy bảo luôn yêu thương đùm bọc lẫn nhau để cùng vượt qua khó khăn gian
khổ trong cuộc đời:
Anh em có việc qua lại giúp nhau
Có sự đừng nên nói người ngoài
Người Sán Dìu rất kiêng kị việc anh em xảy ra mâu thuẫn, anh em hòa
hiếu luôn là tấm gương sáng để các thế hệ con cháu noi theo và phát huy truyền
thống gia đình:
Nghĩ lại đều là cùng mẹ sinh
Người mạnh đừng nên khinh người yếu
Người yếu đừng nên thách người mạnh
Thân có anh em cùng nghênh tiếp
Lấy đuốc mà soi sáng trước mặt.
Ông, cha luôn khuyên răn anh em hòa thuận, với tất cả các mối quan hệ
thì gia đình là quan trọng nhất, người ngoài khi có nhiều rượu thịt lắm anh em,
còn khi hoạn nạn không thấy mặt một người: “Có rượu thịt nhiều anh em/ Cấp
nạn sao thấy mặt một người”. Giống như trong ca dao người Việt: “Lúc khó thì
chẳng ai nhìn/ Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em”. Tục ngữ người Mông:
47
“Bạn tốt tráng một quả trứng ăn không hết/ Bạn xấu mổ trâu ăn không đủ”. Có
thể thấy không chỉ riêng người Sán Dìu mà các dân tộc anh em đều coi trọng
lối văn hóa ứng xử “thấu tình đạt lí”. Bởi vì xuất phát từ sự chi phối trong Phật
giáo con người đối xử với nhau dựa trên chữ “tâm” và “tình”.
Qua đó chúng ta có thể thấy dân tộc Sán Dìu trong văn hóa ứng xử gia
đình đều được xây dựng bằng tình yêu thương, sẻ chia, giúp đỡ nhau vượt qua
gian khổ. Chính vì thế tác giả dân gian khuyên dạy các thành viên trong gia
đình phải sống làm sao có đạo đức, phải biết tha thứ, khoan dung đó là quan
niệm ứng xử rất nhân văn của người Sán Dìu.
2.2.2. Văn hóa ửng xử ngoài xã hội
Dân tộc Sán Dìu gia nhập vào đại gia đình các dân tộc Việt Nam trong
những thế kỷ muộn gần đây, và đã chịu chung sự chi phối của hoàn cảnh chính
trị - xã hội như các dân tộc khác trên đất nước này. Đồng bào cùng các dân tộc
anh em luôn đoàn kết để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước.
Không gian cư trú của dân tộc Sán Dìu gắn liền với không gian văn hóa
làng. Trong không gian một làng xã, các thành viên trong cộng đồng đều có họ
hàng với nhau, hay ít ra cũng có quan hệ hôn nhân. Do vậy, người cách xa
nhiều đời nếu gặp lại nhau chỉ cần hỏi tên đệm là nhận ra người trên kẻ dưới
theo thứ bậc chữ đệm trong dòng họ. Người Sán Dìu quan niệm chỉ cần đồng
tộc cũng đủ để quý mến nhau và thiết đãi như người anh em bằng cả tấm chân
tình, cho nên có câu “San déo lỏng si” với ý nghĩa người Sán Dìu ít ỏi, nên phải
yêu thương, đùm bọc, che chở lẫn nhau:
Sáu khuyên: láng giềng lân gần xã
Đừng nên ngoảnh mặt đấu lưng nhau
Người đi người nhà nói chuyện mình
Mình đi người nhà nói chuyện vui
Cũng giống như quan niệm của người Việt về tình làng, nghĩa xóm ‘‘Họ
hàng xa, không bằng láng giềng gần’’. Người Sán Dìu rất coi trọng tinh thần
48
tương thân, tương ái giữa các thành viên trong làng, xã, họ coi nhau giống như
anh em và ứng xử như những người thân trong gia đình. Đồng bào luôn trợ
giúp lẫn nhau trong mọi công việc của cộng đồng cũng như công việc lớn của
từng thành viên trong làng:
Cứu hỏa trông cậy đến láng giêng
Gọi thuyền trông cậy người đi sông
Láng giềng như thể cốt nhục thân
Đừng nên to tiếng mắc tội người
Lấy tình thân ‘‘cốt nhục’’ làm cơ sở để xây dựng các mối quan hệ trong
cộng đồng, vì vậy văn hóa ứng xử xã hội đồng bào thường tránh xảy ra những
mâu thuẫn, cãi cọ, xích mích, họ luôn nhường nhịn, yêu thương và kính trọng
lẫn nhau. Trong đó người Sán Dìu đã vận dụng khéo lẽo chữ “nhẫn” của Phật
giáo ở các mối quan hệ xã hội:
Ít nhiều phải trái nên nhường nhịn
Nhẫn được một giờ sau khỏi lo
Truyện thơ Mở trời dựng đất tác giả dân gian đã khái quát lên những câu
thơ răn dạy mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối
nhân xử thế, lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời:
Mua quần áo tốt mặc lên người
Trên đời bây giờ nhiều người thiển cận
Nhìn vào quần áo không nhìn người
Có tiền có rượu nhiều anh em
Quân tử không lấy tiền làm thân.
Mỗi dân tộc đều có những văn hóa ửng xử với gia đình và cộng đồng
khác nhau. Với người Sán Dìu là mối quan hệ trọng tình nghĩa, xuất phát từ bản
chất mộc mạc giản dị của đồng bào. Người Sán Dìu luôn chú trọng đến việc
bảo tồn và phát huy nét đẹp bản sắc văn hóa mình. Vì vậy lời khuyên dạy về lối
49
ứng xử trong truyện thơ Mở trời dựng đất như là một tấm gương sáng trong
việc giữ gìn đạo đức, phong tục người Sán Dìu.
2.3. Bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Bản sắc văn hóa Sán Dìu được thể hiện một cách sinh động qua việc
phản ánh các phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa tinh thần của đồng bào
đồng bào dân tộc thiểu số miền núi nói chung và đồng bào dân tộc Sán Dìu nói
riêng. Bản làng đồng bào Sán Dìu hiện lên với khung cảnh mùa xuân tươi đẹp,
những ngày trong tiết trời tháng ba tết Thanh minh cả gia đình sum họp bên
nhau, trò chuyện bên bếp lửa, có những người con xa quê luôn tưởng nhớ về
cội nguồn của mình… Không những thế, mùa xuân trên miền núi xanh tươi còn
được khắc họa với các lễ hội điều đó cho thấy đời sống văn hóa tinh thần vô
cùng phong phú và độc đáo của người Sán Dìu.
Có thể nói rằng, truyện thơ Mở trời dựng đất là sự hội tụ đầy đủ và tươi
đẹp nhất các phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa, tinh thần của đồng bào dân
tộc Sán Dìu. Đi sâu vào tìm hiểu bản sắc hóa chúng ta sẽ thấy những lớp trầm
tích về lịch sử, về văn hóa được bảo lưu qua lời ăn tiếng nói, qua phong tục tập
quán và văn hóa ứng xử. Mỗi dân tộc đều có những nét riêng, đó là nét đặc thù
mang dấu ấn văn hóa Sán Dìu.
2.3.1. Tín ngưỡng dân gian trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Do tiếp xúc giữa văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, dân tộc Sán Dìu chịu
ảnh hưởng các tôn giáo lớn như Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo. Đây là những
tôn giáo đã trộn hòa thành tín ngưỡng dân gian của người Sán Dìu. Vì thế dân
tộc Sán Dìu cũng như người Việt, đều lấy việc thờ cúng tổ tiên là chính, bên
cạnh đó người Sán Dìu còn thờ một số vị thần và ma khác nữa. Vì vậy trong
vạn thần miếu của đồng bào còn thờ một số vị thần của Phật giáo, Lão giáo và
Khổng giáo.
“Tín ngưỡng là một hình thái biểu thị đức tin - niềm tin của con người và
của cộng đồng người ở một trình độ phát triển xã hội và nhận thức nhất định vào
50
một sự vật thiêng liêng, cao cả, cái đáng sùng kính trong thế giới người hoặc thế
giới siêu nhiên nào đó…Mỗi dân tộc có những tín ngưỡng riêng thể hiện bản sắc,
tập tục của dân tộc mình. Nhìn chung, các tín ngưỡng đều mang tính chất cộng
đồng, hướng thiện và có sức sống lâu bền”[52].
Việc giao thoa giữa các nền văn hóa tạo nên những yếu tố tín ngưỡng dân
gian độc đáo cho dân tộc Sán Dìu. Ảnh hưởng sâu đậm nhất là Đạo giáo, Khổng
giáo, Phật giáo, người Sán Dìu không có chùa chiền, nhưng cũng có một số
người thờ Phật Bà Quan Âm trong nhà và coi Phật là một thứ linh thiêng và có
nhiều phép lạ. Khổng giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và
quan hệ xã hội của người Sán Dìu. Bởi thế người Sán Dìu đề cao quan hệ vua -
tôi, cha - con, vợ - chồng, hiếu với cha mẹ, tam tòng tứ đức.
Trong truyện thơ Mở trời dựng đất ảnh hưởng của Phật giáo được thể
hiện rất rõ trước hết là ở tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đây là một nét đẹp trong
tôn giáo tín ngưỡng có giá trị giáo dục sâu sắc cho mọi thế hệ, và thể hiện
truyền thống “uống nước nhớ nguồn” trong văn hóa người Việt.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian, gắn
liền với tập tục văn hoá, đạo đức trên cơ sở của niềm tin cho rằng, tổ tiên đã
chết sẽ che chở, phù hộ cho con cháu, được thể hiện thông qua nghi lễ thờ cúng
theo quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi con người, của từng gia đình và
cộng đồng xã hội. Tục thờ cúng tổ tiên của người Sán Dìu thể hiện nghĩa cử
cao đẹp, tính nhân văn sâu sắc đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh
của dân tộc Sán Dìu.
Thờ cúng tổ tiên không chỉ là nghi lễ thờ cúng, mà qua đó còn nói về một
“mối liên hệ” giữa người ở thế giới hiện tại và linh hồn của tổ tiên thế giới bên
kia. Người Sán Dìu quan niệm khi người mất sẽ chia ra làm hai phần là hồn và
xác, phần hồn ma sẽ được thờ cúng trên bàn thờ tổ tiên. Người Sán Dìu rất coi
trọng việc thờ cúng, một trong những biểu hiện của việc chăm sóc mồ mả tổ
tiên đó chính là lễ tảo mộ trong tết Thanh minh. Ngày lễ được diễn ra vào 3/3
51
âm lịch hàng năm, người Sán Dìu thường cắm cờ trắng lên các ngôi mộ, dọn
dẹp sạch cỏ và đắp thêm đất mới cho ngôi mộ. Sau đó các gia đình dòng họ sẽ
tập trung tại nhà trưởng tộc để làm lễ vật dâng lên tảo mộ và chủ trì bữa cơm
cúng tổ tiên khi đã tảo mộ xong:
Còn đó mộ mới cùng mộ cũ
Mộ mới trên đỉnh thêm đất mới
Mộ cũ trên mồ cỏ lên xanh.
Ngoài ra người Sán Dìu còn thờ một số vị thần như thờ Tam Thanh, thờ
Tổ sư, những người làm thầy cúng hay thờ những nhân vật này. Bàn thờ Tam
thanh đặt ở một nơi riêng và cao hơn bàn thờ tổ tiên, bàn thờ Tổ sư được làm
đơn giản hơn và đặt ngang hàng với ma tổ tiên và ông Táo. Cùng với đó là một
số ma được thờ trong nhà như ma Mụ để xin bảo hộ cho trẻ con không bị sài
đẹn, đau yếu.
Do ảnh hưởng của Đạo phật nên người Sán Dìu rất tin ở thuyết Luân hồi,
tác giả dân gian sử dụng những hình ảnh quen thuộc trong tự nhiên và cuộc
sống lao động của đồng bào để so sánh về quy luật “Sinh - Lão - Bệnh - Tử”,
“người không già - hoa chẳng tàn”, “người không sinh tử - trăng không sáng”,
“lá ngô đồng rụng - rễ vẫn còn ở lại”:
Người không già thời hoa chẳng tàn
Người không sinh tử trăng không sáng
Trăng qua năm sáng sủa ít
Người đến trong năm vạn ngừng thôi
Ngô đồng rụng lá rễ ở lại
Người sống một thời mất dấu tích
Trong rừng trúc mọc sinh măng non
Trong rừng cây cối cành tái sinh.
“Sinh - Lão - Bệnh - Tử” theo triết lí nhà Phật đây là những quy luật ngàn
đời của tạo hóa, mà trong cuộc đời mỗi con người đều trải qua, đó như một lẽ tự
52
nhiên. Mỗi người đều sinh ra, lớn lên và trưởng thành khi về già ốm đau bệnh tật,
rồi qua đời. Sau khi kết thúc thì nó lại tiếp tục quay lại một vòng “Sinh - Lão -
Bệnh - Tử mới”, “trúc già - sinh măng non”, “cây cối - cành tái sinh”.
Người Sán Dìu còn tin vào luật “nhân quả” trong Đạo phật, họ quan niệm
rằng “nhân quả báo ứng” nếu làm được những việc thiện sẽ có quả báo tốt đẹp,
còn làm điều xấu xa tội lỗi sẽ phải chịu nhiều quả báo đau khổ. Dân tộc Sán
Dìu rất coi trọng gia đình với họ nếu bất hiếu là tội lớn đời sau con cháu không
trả đủ nghiệp nợ. Vì thế hiếu thuận với ông bà, cha mẹ là cái gốc của sự lương
thiện là điều cốt lõi để xây dựng mối quan hệ gia đình bền vững:
Bố mẹ sinh thời không tôn kính
Đời sau con cháu kính ba sông
Theo quan niệm của dân tộc Sán Dìu, thế giới có ba cõi (tầng): ‘‘thiên -
địa - nhân’’. Cõi thứ nhất, thiên là cõi trời, nơi ngọc hoàng và các vị thần thánh.
Cõi thứ hai là cõi nhân hay cõi trần gian, cõi của con người và muôn vật. Theo
thuyết luân hồi nhà Phật, tùy theo mức độ công, tội, tu nhân, tích đức khi còn
sống ở kiếp trước, sau khi chết con người được đầu thai thành người hay muôn
vật ở cõi trần gian. Vì thế trong mối quan hệ xã hội, họ tin rằng nếu người phú
quý khinh thường người nghèo khổ, ngày tháng luân hồi đời sau sẽ phải chịu
nhiều khổ cực:
Khuyên người phú quý đừng khinh nhau.
Ngày tháng luân hồi khó đoán được
Trên rừng cây cối có dài ngắn,
Nguồn nước chảy ra có thấp cao.
Như vậy, ta có thể thấy tín ngưỡng dân gian của người Sán Dìu chịu ảnh
hưởng của các tôn giáo khác nhau nhưng đồng bào biết chọn lọc tinh hoa của
các tôn giáo đó để làm giàu cho tín ngưỡng văn hóa dân tộc mình.
53
2.3.2. Phong tục, tập quán trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Với mỗi dân tộc có một phong tục tập quán khác nhau, điều đó làm nên
bản sắc văn hóa riêng cho mỗi dân tộc. Tìm hiểu những giá trị truyền thống đó
cho chúng ta cái nhìn bao quát về lịch sử văn hóa của các dân tộc. Người Sán
Dìu làm nông nghiệp đã từ rất lâu đời, do đó đồng bào đã tích lũy được nhiều
kinh nghiệm lao động và sản xuất. Dân tộc Sán Dìu cũng như người Việt quan
sát các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên để biết thời tiết phục vụ cho canh tác
nông nghiệp.
“Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình
thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa
nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố
định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt
động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững
và tương đối thống nhất”[40].
“Tập quán được hiểu là lối sống của một tập thể, tổ chức hoặc quần thể
sinh vật lớn được hình thành như một thói quen trong đời sống, sản xuất, sinh
hoạt được công nhận và coi như một quy ước chung của tất cả mọi cá nhân
sống trong tổ chức, quần thế đó”[41].
Như đã biết, người Sán Dìu sống tập trung chủ yếu ở vùng trung du, phía
Bắc châu thổ sông Hồng. Nơi đó rất thuận tiện cho việc canh tác nông nghiệp
của đồng bào. Trải qua nhiều năm sinh sống trên mảnh đất hình chữ S, đồng
bào đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất. Điều thể hiện trong chu
kỳ sản xuất và tái hiện dưới các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian của người
Sán Dìu.
Dân tộc Sán Dìu có vốn văn hóa dân gian khá phong phú, thể hiện ở các
phong tục, tập quán, lễ nghi của họ đã có từ rất lâu đời. Trong truyện thơ Mở
trời dựng đất ở lời khuyên thứ năm tác giả dân gian thể hiện nét độc đáo về
phong tục canh tác nông nghiệp của dân tộc mình:
54
Năm khuyên: Đời sau chăm cày cấy
Giản dị cần kiệm cửa nhà vinh
Có tiền khó mua cánh đồng ruộng
Cũng như nhiều dân tộc khác ở nước ta, sau khi ăn tết Nguyên đán đồng
bào bắt tay vào công việc trồng trọt và thu hoạch mới. Để bắt đầu một vụ mùa
mới người Sán Dìu thường có phong tục làm lễ Ra đồng, nghi lễ này được tổ
chức vào đầu tháng giêng trong khoảng từ mùng 5 - 8 tết:
Năm canh gà gáy năng dậy sớm
Trời xuân tiết đến sớm cày ruộng
Sau những ngày đón tết vui vẻ, để bắt đầu mọi công việc, đặc biệt là công
việc đồng áng trong năm mới, người Sán Dìu tiến hành tổ chức lễ cúng các vị
Thành hoàng tại đình làng với mục đích làm vừa lòng mong tiếp tục được các
lực lượng siêu nhiên phù hộ. Các hộ dân trong làng hàng năm thay phiên nhau
đứng ra lo liệu lễ vật. Sau khi mâm lễ được đặt lên, ông chủ nhang thực hiện
các nghi thức cúng thần như: đọc sách cúng để tạ các Sơn thần, Thổ địa cai
quản dân làng, mời các thần về hưởng lễ và báo cáo ngày tết đã hết nay dân
làng làm lễ cúng cầu mong các vị thần tiếp tục phù hộ cho dân làng khỏe mạnh,
mùa màng bội thu:
Trên trời hợp thời mưa gió thuận
Dưới đất hài hòa trăm cỏ mọc
Kết thúc buổi lễ đại diện các hộ gia đình trong thôn cùng ăn bữa cơm
cộng cảm đầu xuân năm mới, và từ nay dân làng được phép ra đồng tiến hành
sản xuất. Theo quy định của người Sán Dìu không ai được phép xuống đồng
trước khi làm lễ tại đình bởi họ cho rằng làm như vậy là động thổ, ảnh hưởng
đến các vị thần thánh dẫn đến các hiện tượng mất mùa, sâu bệnh, dân làng gặp
những điều tai ương... Sau khi các nghi lễ hoàn thành, mọi người trong làng
thường mang theo lễ vật ra đình thắp hương để xin lộc đầu xuân năm mới. Lễ
Ra đồng thực chất là nghi lễ mở cửa đình đầu năm mới nhằm cầu mong các vị
55
thần thánh phù hộ cho một năm an lành, tránh được những tai họa, dân làng
khỏe mạnh... đặc biệt mong ước lớn lao nhất của họ là mùa màng không bị
thiên tai, sâu bệnh.
Dân tộc Sán Dìu có tập quán gieo trồng cấy lúa trong tháng sáu, họ quan
niệm đấy là thời điểm tốt nhất trong năm để tiến hành canh tác vụ mùa thứ hai
trong năm, khi lúa đang lên, đồng bào có tục làm lễ cúng thần Lúa, thành
Hoàng, để cầu mong mưa thuận gió hòa, dưới ruộng lúa nhiều bông mẩy, trên
nương cây trái, hoa màu kết trái, nhiều củ:
Mùa hạ đến gần tiện ngâm thóc
Lúa sớm đừng để quá mùa hè
Phú quý đến sớm phần do mình
Bần cùng chịu khó yêu cày cấy.
Có thể thấy không chỉ riêng đồng bào Sán Dìu, trong lao động sản xuất
bằng kinh nghiệm quan sát đời sống dân tộc Mông cũng đúc kết được nhiều tri
thức dân gian trong tục ngữ Mông: “Trời xanh thì nắng/ Mây đen thì mưa”.
Trong trồng trọt, đồng bào Mông đã để lại những kinh nghiệm quý báu thiết
thực: “Trồng ngô chọn chân đồi/ Trồng lúa chọn cuối khe”. Tục ngữ phản ánh
khá đầy đủ những đức tính người dân lao động như cần cù, kiên trì, tinh thần lạc
quan, óc thực tế, tình yêu thương, ý thức đề cao về cái đẹp tâm hồn, về danh dự,
lòng chung thủy, từ đó làm phong phú, sinh động và tô đậm bản sắc văn hoá
Mông.
Tết Đông chí là một tục lệ quan trọng không thể thiếu của người Sán Dìu,
đồng bào coi tết Đông chí như buổi tổng kết cuối năm trong gia đình. Mọi
người tụ họp sau một thời gian dài vất vả, họ cùng nhau hát làn điệu Soọng cô
và chuẩn bị đón tết Nguyên đán. Ngày này các gia đình làm mâm lễ để thỉnh
gia tiên về thành quả lao động một năm và phù hộ độ trì cho con cháu một vụ
xuân mới thời tiết thuận lợi cho việc gieo trồng, cày cấy:
56
Cấy cày làm ruộng cần cần kiệm
Ruộng đất làm ra nhiều vàng quý
Ngày nay trước sự giao thoa giữa văn hóa hiện đại và văn hóa truyền
thống ít nhiều các phong tục, tập quán, tín ngưỡng đang dần mai một. Dân tộc
Sán Dìu luôn chú trọng lưu giữ bảo tồn di sản văn hóa và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc mình trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong chương hai của đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu về quan
niệm triết lý nhân sinh, tín ngưỡng dân gian, phong tục, tập quán và văn hóa
ứng xử trong truyện thơ Mở trời dựng đất. Đây là những giá trị văn hoá tiêu
biểu, nổi bật được phản ánh trong truyện thơ. Có thể thấy, bài học giáo dục đạo
lý của người Sán Dìu là sự tổng hòa của nhiều yếu tố từ văn hóa đến tín
ngưỡng, phong tục, tập quán… tất cả hòa quyện vào nhau và tạo nên quan niệm
nhân sinh vừa độc đáo, riêng biệt của đồng bào Sán Dìu.
Tín ngưỡng dân gian trong truyện thơ mang đậm tính cộng đồng, có sự
giao lưu giữa văn hóa Sán Dìu với văn hóa Trung Hoa. Bức tranh phong tục,
tập quán từ nếp ăn, nếp nghĩ, đến lễ nghi của người Sán Dìu được phản ánh
sinh động và rõ nét qua lời kể giản dị, tự nhiên của nhân vật trữ tình. Những
phong tục, tập quán ấy đã ăn sâu và trở thành thói quen không thể thiếu trong
mỗi người Sán Dìu.
Các mối quan hệ, ứng xử khác nhau của mỗi người được tác giả dân gian
phản ánh trong truyện thơ như một bài học triết lý giáo huấn trong các mối
quan hệ, ứng xử, từ gia đình đến xã hội tất cả những yếu tố trên góp phần làm
tăng giá trị của tác phẩm, để Mở trời dựng đất xứng đáng trở thành một trong
những truyện thơ hay nhất của dân tộc Sán Dìu.
57
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ MỞ TRỜI DỰNG ĐẤT
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
3.1. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện
thơ “Mở trời dựng đất”.
3.1.1. Khái niệm
Văn học không thể thiếu vắng nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để
văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nhân
vật văn học là đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ không thể đồng nhất với
con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với
nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của
nhà văn về con người, nó có thể được xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm ấy”
[40,tr.78]. Nhân vật văn học là phương tiện giao tiếp của nhà văn, nó mang tình
cảm, thể hiện chiều sâu tư tưởng, là thế giới quan, lý tưởng chính trị và lý
tưởng thẩm mĩ, nhận thức, trình độ, quan niệm… của nhà văn. Hình thức miêu
tả, nhận thức, khám phá con người được khắc họa một cách tập trung nhất qua
nhân vật văn học. Tác giả tạo ra nhân vật để bộc lộ cái nhìn nghệ thuật của
mình với hiện thực và con người, thể hiện tư tưởng của mình đối với cuộc
sống. Phân tích nhân vật là khai thác giá trị thẩm mỹ của hình tượng nhân vật,
khám phá tư tưởng thẩm mỹ của nhà văn “bằng con đường mà nghệ sĩ làm cho
nhân vật có được giá trị thẩm mỹ”. Nếu “bỏ qua quan niệm nghệ thuật về con
người sẽ dẫn đến một cách hiểu đơn giản bản chất phản ánh của văn nghệ.
Hoặc đồng nhất tư tưởng sáng tác của thế giới quan, hạ thấp yêu cầu sáng tạo
tư tưởng - nghệ thuật, thẩm mỹ của tác giả”[33.tr90].
Như vậy, tìm hiểu nhân vật chính là tìm hiểu về con người, tư tưởng, tình
cảm của tác giả đối với con người và xã hội trong hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Bởi vì, nhân vật văn học là khái quát những quy luật cuộc sống, thể hiện sự
58
hiểu biết, ước mơ và kì vọng về con người. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật văn
học để thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình về con người, xã hội.
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện thơ Mở trời dựng đất mang nét độc
đáo và mới lạ trong dòng chảy văn học dân gian nói riêng và văn học Việt Nam
nói chung. Ở truyện thơ các dân tộc anh em như: Nam Kim - Thị Đan (dân tộc
Tày), Út Lót - Vi Điêu (dân tộc Mường), Hùy Nga - Hai Mối (dân tộc
Mường), Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu, dân tộc Thái), Khun Lú -
náng Ủa (Chàng Lú - nàng Ủa, dân tộc Thái), Lưu Tương (Lưu Tương - dân tộc
Tày). Tất cả được xây dựng với hệ thống nhân vật phong phú, đa dạng bao gồm
nhiều tuyến nhân vật đại diện cho nhiều kiểu người trong xã hội như: Đó là
kiểu nhân vật người mồ côi như Lưu Đài trong truyện thơ Lưu Đài - Hán Xuân,
Nhân Lăng trong truyện thơ Nhân Lăng. Đó là kiểu nhân vật người lao động
hiền lành tốt bụng hoặc nhân vật dũng sĩ như Nhân Lăng trong truyện Nhân
Lăng, Đính Quân trong truyện thơ Đính Quân. Hay các kiểu nhân vật phụ nữ
có đức, có tài, thủy chung, gan dạ như Hán Xuân trong truyện Lưu Đài - Hán
Xuân, nhân vật Thị Trinh trong truyện Kim Nữ - Chiêu Đức.
Tác phẩm Mở trời dựng đất người Sán Dìu không xây dựng nhiều tuyến
nhân vật như vậy, truyện thơ được chia làm hai phần và mỗi phần có một cách
xây dựng nhân vật khác nhau. Phần đầu truyện thơ từ câu 1 - 74 là sự xuất hiện
các nhân vật trong thần thoại cổ Trung Hoa như: Vua Bàn Cổ, Phục Nghĩa
hoàng đế, Phục Hy, Nữ Oa, Cửu Thiên Huyền Nữ, tác giả dân gian viết về
những nhân vật này với vai trò là các vị thần hình thành nên vũ trụ, trời đất sinh
ra con người và muôn loài. Phần hai từ câu 75 - 450 tác giả xây dựng hình
tượng nhân vật chung như: Cha mẹ, anh em, người nam, nữ… những nhân vật
này không có tên tuổi, cuộc đời, tính cách, số phận riêng mà chỉ để tác giả dân
gian thể hiện tình cảm, ý nghĩ, thái độ với cuộc sống và là nơi người Sán Dìu
gửi gắm suy nghĩ, tư tưởng của mình về thế giới nhân sinh từ đó khái quát
59
thành những triết lý khuyên dạy con cháu đời sau. Đây là điểm mới lạ và sáng
tạo trong xây dựng hình tượng nhân vật truyện thơ Sán Díu. Ngoài ra, tác giả
còn sử dụng một số nhân vật trong văn hóa dân gian Trung Hoa như Thạch
Sùng, Đông Nhạc… để truyền tải bài học có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc sống
đồng bào Sán Dìu.
Vua Bàn Cổ là nhân vật nổi tiếng trong thần thoại và văn hóa dân gian
Trung Hoa. Đây được coi là vị thần khai thiên lập địa cùng với Nữ Oa tạo ra
trời đất và con người. Theo cổ thư Trung Hoa viết Bàn Cổ được sinh ra ở thời
kỳ Hỗn Độn, vũ trụ giống như một quả trứng gà, trời đất chưa hề có. Từ trái
trứng này sinh ra ông Bàn Cổ. “Bàn Cổ theo thời gian mà lớn lên và cao lên.
Bàn Cổ dùng hết sức mình để tách hai mãnh vỏ trứng ngày một xa nhau. Nửa
phần vỏ trứng khổng lồ nơi đôi tay của Bàn Cổ ngày một dầy và ngày một xa
nửa phần kia theo thời gian, vì thế Trời Đất được hình thành. Một ngày nọ, Bàn
Cổ kiệt sức và đã ngã xuống. Đôi mắt của Bàn Cổ đã thành Mặt trời và Mặt
trăng. Hàng vạn sợi tóc của Bàn Cổ đã thành vô số các vì sao. Lông tay, lông
chân đã trở thành thảo nguyên. Thịt của Bàn Cổ đã trở thành đồi núi cao thấp,
máu của Bàn Cổ đã trở thành giang hồ, đại dương, răng của Bàn Cổ đã trở
thành san hô, xương của Bàn Cổ đã trở thành rừng cây, hơi thở sau cùng của
Bàn Cổ đã trở thành gió. Bàn Cổ qua đời nhưng Bàn Cổ đã để lại thế giới tự
nhiên cho con người”[58]. Ở nhân vật Bàn Cổ có một điểm trùng khớp với thần
thoại Hy Lạp là mọi thứ bắt đầu từ Hỗn Độn. Trong thần thoại Hy Lạp, vị thần
khởi thủy là thần hỗn độn Chaos.
Trong truyện thơ Mở trời dựng đất, tác giả dân gian miêu tả Vua Bàn Cổ
là người “phân trời đất”, sau đó là sự ra đời của Phục nghĩa Hoàng Đế ( Phục
Hy) và Nữ Oa, hai vị thần này đều được tự nhiên mà sinh ra:
Phục nghĩa Hoàng Đế giáng xuống sinh
Ra đời giữa thời người mắt thẳng
Liền sau trùng sinh một người nữ.
60
Theo truyền thuyết và thần thoại, đây là các vị thần, vua ở thời kì thời
Công xã nguyên thủy Trung Hoa “Tam Hoàng Ngũ Đế” (Phục Hy, Nữ
Oa, Thần Nông và Hoàng đế, Cao Dương đế, Cốc đế, Nghiêu đế, Thuấn đế).
Phục Hy và Nữ Oa là hai nhân vật quan trọng trong việc lý giải người Sán
Dìu về nguồn gốc con người:
Sáu châu muôn người đều chết sạch
Còn lại hai người kết nhân duyên
Kết duyên vợ chồng chừng chín tháng
Thấy nàng thân thể nặng rành rành
Lục giáp hoàn thai con lớn dần
Đưa đến chân núi Côn Lôn ở.
Sau khi ông Bàn Cổ khai thiên lập địa thì “bất ngờ hồng thủy ngập trời
đất”, Hồng thủy ở đây là một trận lụt cực lớn còn gọi là “Đại hồng thủy” hay
đại thảm họa thiên nhiên khủng khiếp được nhắc đến trong truyền thuyết của
nhiều tôn giáo và nhiều dân tộc trên thế giới. Chuyện kể rằng, Phục Hy và Nữ
Oa là hai anh em. Trong nạn đại hồng thủy loài người chết hết chỉ còn hai anh
em “chạy vào bụng bầu mà ẩn nấp”, nhờ một quả bầu khổng lồ mà họ thoát
nạn. Cuối cùng “muôn người mắt thẳng tận diệt vong”, “còn lại hai người kết
nhân duyên”. Sau đó họ kết hôn với nhau theo truyền thuyết người Trung Hoa
hai nhân vật này thông hôn, loài người hiện nay chính đều là con cháu đời sau
của họ. Chuyện này cũng có rất nhiều ghi chép trong lịch sử. “Độc dị chí” của
Lý Nguyên đời Đường đã ghi: “Thời hỗn độn sơ khai, anh em Oa thị ở núi Côn
Lôn thắp hương cầu xin: hai anh em nếu được làm vợ chồng, khói tụ lại, không
được thì khói sẽ tản ra. Khi thấy khói tụ lại, họ chung sống với nhau”[59].
Tác phẩm được xuất phát từ trong quá trình lao động sản xuất của đồng
bào, họ sáng tác những câu chuyện để vừa gửi gắm quan niệm về sự hình thành
vũ trụ, loài người vừa bày tỏ tinh thần lạc quan trong đời sống. Tiềm ẩn trong
truyện thơ là về sức sống mãnh liệt, tinh thần không biết mệt mỏi, phản ánh nội
61
dung ấy bằng hình thức nghệ thuật kì thú và hấp dẫn. Qua cái nhìn kì ảo, tác giả
dân gian lý giải từ một không gian hỗn độn lại trở thành một bầu trời tươi sáng,
có sự sống của động vật, cây cỏ và cao hơn chính là con người:
Tay trái cầm trời tay phải cầm trăng
Trời đất đang tối tự bừng sáng.
Nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm là lời giải thích các hiện
tượng tự nhiên, giải thích nguồn gốc loài người và phản ánh quá trình chinh phục
thiên nhiên của đồng bào. Bàn Cổ khai thông vũ trụ, lập nên trời đất, con người
ra đời bằng bàn tay của Nữ Oa, bầu trời không còn tăm tối là phát minh của Toại
Nhân về lửa. Hình tượng các vị thần trong Mở trời dựng đất còn mang ý nghĩa
riêng đối với đồng bào Sán Dìu, sức mạnh, tài năng của các vị thần tượng trưng
cho một cuộc sống luôn hướng về phía trước, không ngừng đấu tranh, ước mơ
vươn lên những điều tốt đẹp của dân tộc Sán Dìu. Vua Bàn Cổ, Phục Hy, Nữ Oa,
đều được tác giả dân gian vẽ nên với chân dung cao quý có sức mạnh phi
thường. Vì thế, trong văn hóa tín ngưỡng, đồng bào tôn thờ một số vị thần, vì họ
cho rằng điều ấy mang lại may mắn, bình yên cho dân tộc mình.
Mở trời dựng đất không đi sâu vào giảng giải những nội dung triết học mà
chủ yếu tập trung vào miêu tả, phản ánh, khái quát triết lý nhân sinh của người
Sán Dìu. Do vậy nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố cũng mang đặc trưng
riêng biệt. Đặc trưng ấy xuất phát từ việc tác giả dân gian muốn văn học trở nên
gần gũi với con người, vì đối tượng tiếp nhận đương thời phần nhiều là nhân dân
lao động không được học hành nhiều, cần một phương thức truyền đạt dễ hiểu và
dễ nhớ nhất. Bởi thế, các điển tích điển cố trong Mở trời dựng đất thường gắn
với các nhân vật quen thuộc trong dân gian. Nhưng có khi lại có ý nghĩa uyên
thâm và trở thành những quan niệm nhân sinh mang tính giáo dục cao.
Đoàn Ánh Loan, trên cơ sở tiếp thu các kết quả nghiên cứu đi trước, đã
đưa ra định nghĩa: “Điển cố là những từ ngữ về chuyện xưa, tích cũ, về tư
62
tưởng, hình tượng, hình thượng trong sách xưa được tác giả dùng làm phương
tiện để diễn đạt ý tưởng một cách ngắn gọn, hàm súc. Điển cố bao gồm:
1. Từ hay nhóm từ được lấy ra từ những câu chuyện trong kinh, sử,
truyện, các sách ngoại thư… về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, địa danh,
những quan niệm trong cuộc sống.
2. Từ hay nhóm từ mượn ý, lời từ câu thơ hoặc bài thơ của người trước,
hay được trích từ thành ngữ,tục ngữ, ca dao có tích truyện được lưu truyền
hoặc đã nổi tiếng”[60].
Về phương diện điện tích, điển cố, tiêu biểu trong truyện thơ phải kể đến
nhân vật Thạch Sùng và Đông Nhạc của văn hóa dân gian Trung Hoa:
Ngày xưa Thạch Sùng nhà đại phú
Vạn lạng vàng quý làm nên giàu
Vĩnh trinh nhị niên trời đại hạn
Gốc cây phát hỏa nước giếng cạn
Vạn họ muôn dân đành bó tay
Là gạo đổi được ba lạng vàng.
“Vĩnh Trinh nhị niên” chỉ triều đại nhà Tây Tấn (266 - 420) của Trung
Hoa, Thạch Sùng là tên vị quan nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, nổi
tiếng là người xa hoa giàu có đương thời. Giữa Thạch Sùng và Vương Khải
từng có cuộc thi xem nhà ai giàu có hơn. Cũng vì gia sản khổng lồ ấy mà ông
gặp tai họa, bị triều thần chém chết năm 52 tuổi.
Trong kho tàng cổ tích người Việt có truyện Thạch Sùng còn thiếu mẻ
kho, theo đó Thạch Sùng là một phú hộ giàu có tự đắc rằng nhà mình không
thiếu thứ gì. Vương Khải cược với Thạch Sùng toàn bộ gia tài, cuối cùng khi
đòi đến mẻ kho thì Thạch Sùng không có, đành chịu mất hết cơ nghiệp. Ông
chết hóa thành con Thạch Sùng, suốt ngày chắc lưỡi tiếc của.
Theo truyện kể dân gian lưu truyền của người Sán Dìu “Có hai vợ chồng
một người nghèo khó tên là Thạch Sùng, sống bằng nghề ăn xin và góp nhặt
63
được một số vốn. Một hôm Thạch Sùng nhìn điềm trời đoán biết sẽ mưa lụt to,
nên đem tiền lên đong gạo tất cả. Tháng Tám năm ấy trời làm một trận lụt lớn,
làm giá gạo tăng vọt. Thạch Sùng đem số gạo tích trữ của mình ra bán, trở nên
giàu có và thôi nghề ăn xin. Thạch Sùng trở thành một phú ông, lại nhờ tài
buôn bán và cho vay lãi, gia tài của ông ngày càng lớn, và mua được địa vị, vua
phong tước cho ông tước quận công…”[61]. Với ngụ ý của câu chuyện người
Sán Dìu luôn mong muốn con cháu mình cần chăm chỉ chịu khó trong lao động
sản xuất, có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết quan sát và nắm bắt cơ hội:
Trên đời người lười đất không lười
Kịp thời cày cấy kịp thời sống
Phú quý trong nhà mang sung túc
Người lười không gạo chịu đói khổ
Như trong tục ngữ người Việt có câu “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng
trễ”, cuộc sống lao động khó khăn gian khổ đồng bào răn dạy con cháu để có
được mùa màng bội thu phải biết chăm chỉ cuốc đất, trồng cây, cày cấy. Sự cần
cù đấy không tính bằng ngày, tháng mà tính bằng năm, có khi còn là cả cuộc
đời. Đó là những lời khuyên bảo mộc mạc, giản dị như lời ăn tiếng nói hàng
ngày của người Sán Dìu, “Có làm thì mới có ăn”, đây như một thực tế hiển
nhiên ai cũng thấy rõ. Có lao động mới làm ra của cải vật chất để phục vụ cho
đời sống con người. Đó là những lời răn dạy chân tình những kinh nghiệm sống
quý báu mà họ dành cho con cháu mình:
Thạch Sùng giàu có nhất thiên hạ
Không dùng cửa nhà như người nghèo.
Cửa nhà được làm bằng vàng bạc.
“Vàng, bạc” là những thứ cao quý và gắn với đời sống theo quan niệm
ngàn đời của mọi dân tộc, đồng bào muốn nhắn nhủ đến con cháu để có của cải
vật chất cần phải biết lao động chăm chỉ, siêng năng, không được lười biếng.
Có thể thấy, nhân vật Thạch Sùng được tác giả dân gian nhắc đến khá nhiều
64
trong tác phẩm. Do nguồn gốc và sự ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa nên việc
lấy điển tích điển cố trong văn học dân gian Trung Hoa vào trong tác phẩm là
điều dễ hiểu. Đây cũng là điển tích quen thuộc xuất hiện trong tục ngữ người
Việt “Thạch sùng còn thiếu mẻ kho”. Qua câu chuyện cổ về nhân vật Thạch
Sùng, ngoài việc răn dạy con cháu cần cù, chịu khó, người Sán Dìu còn ngụ ý
muốn nhắn nhủ trong cuộc sống mỗi người không ai là có được đầy đủ trọn vẹn
mọi thứ, không nên vì thiếu hiểu biết mà gây đến những hậu quả nặng nề như
kết cục của nhân vật Thạch Sùng.
Những lời thơ răn dạy trong Mở trời dựng đất với những vần điệu trữ tình,
sâu lắng, không biết tự bao giờ đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời
sống văn hóa tinh thần của người Sán Dìu. Nó không chỉ tái hiện cuộc sống của
đồng bào mà còn là những bức tranh làng quê bình dị với khúc hát Soọng cô
tâm tình, Hình ảnh người dân lao động hiền lành, chất phác. Truyện thơ như
một chuyến đò ân tình chuyên chở biết bao tình cảm của người Sán Dìu từ xưa
đến nay. Và những câu thơ đó là sự hội tụ tinh hoa văn hóa Sán Dìu.
Nhân vật “cha mẹ” trong truyện thơ đã được tác giả khắc họa bằng chất
liệu văn hóa dân gian người Sán Dìu đến từng chi tiết, đầy tính nhân văn, giàu
tình thương và lòng nhân ái, dễ gần dễ mến. Khác với việc xây dựng hình
tượng nhân vật trong văn học các dân tộc, người cha, mẹ ở Mở trời dựng đất
không mang màu sắc mệnh phụ hay phi thường vĩ đại. Đây đều là những con
người mộc mạc, giản dị trong cuộc sống lao động, ẩn chứa trong họ là những
bài học triết lý nhân sinh mà đồng bào muốn truyền tải đến thế hệ người đọc.
Hình ảnh người mẹ được miêu tả trong tác phẩm thật bình dị, thân
thương và cũng hết sức độc đáo, tiêu biểu cho hình ảnh của những người phụ
nữ đồng bào miền núi. Làm con phải “noi theo nhớ điều xưa” cha mẹ sinh
thời nuôi con khôn lớn với bao vất vả, ghi nhớ công ơn cha mẹ, đây là bài học
đạo đức đầu tiên mà người Sán Dìu muốn răn dạy con cháu của mình. Nếu
như trong ca dao người Việt, họ sử dụng hình ảnh núi sông kì vĩ để nói về
65
công ơn cha mẹ thì trong truyện thơ đồng bào sử dụng hình ảnh thân thuộc
trong cuộc sống hàng ngày:
Ngày ngày mẹ cho ba lần sữa
Ba ngày mẹ cho chín bụng sữa
Sữa mẹ đâu phải nước sông chảy
Sữa mẹ đâu phải nước giếng khơi
“Ngày ngày” số từ không đếm được cũng như công lao cha mẹ không bao
giờ có thể kể hết bằng lời. Hình ảnh “sữa mẹ” là thứ vô cùng quý giá và thiêng
liêng, để nuôi dưỡng con trưởng thành, tất cả đều chỉ có hạn chứ không vô hạn
như “sông chảy”, “nước giếng khơi”, từ hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống
sinh hoạt mà lại đi vào thơ văn nhẹ nhàng sâu lắng. Giống như người Kinh có
câu “Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ” thì người Sán Dìu cũng dạy: “Sang
chấy chăng ty hu mù en/ Khi người ta sinh con nuôi con mới biết cha mẹ khó
nhọc” (Tục ngữ Sán Dìu). Khi nói về công lao sinh thành dưỡng dục, người
Sán Dìu thường hay nhấn mạnh và nói đến mẹ nhiều hơn cha. Có lẽ cha là trụ
cột gia đình, luôn phải bươn chải mưu sinh vất vả không có nhiều thời gian gần
gũi bên các con. Công cha “có vàng quý nghìn lạng” cũng không sánh được,
nhưng cha lại hay khó tính, nghiêm khắc, dùng nhiều hình phạt để giáo dục
con. Còn với mẹ là người “giữ lửa” trong gia đình, luôn chăm lo cho các con từ
miếng ăn giấc ngủ, manh quần tấm áo. Khi con mới biết ăn, răng mọc chưa
đều, mẹ phải nhai nhuyễn từng miếng cơm, lừa từng cọng xương nhỏ cho con
không bị mắc nghẹn, hóc xương.
Hình ảnh đó không bao giờ nhạt phai trong lòng những người con có
hiếu: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/ Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương”
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - Nguyễn Duy). Người Mẹ dạy con từ “thủa còn
thơ” với những câu răn dạy ngọt ngào mà sâu lắng, bảo vệ che chở cho con khi
bệnh tật, không bị tai ương trước thiên tai nhân họa… Vì thế tình mẫu tử thiêng
liêng xuất phát từ đó, những việc tưởng nhỏ nhưng lại rất cảm động có ý nghĩa
66
lớn lao. Bởi vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi hình ảnh của mẹ mộc mạc quê
mùa, thuần lương chất phác, nhân từ đôn hậu được người Sán Dìu đưa vào
trong tác phẩm văn học với tần suất cao và thật đẹp đẽ, xúc động lòng người.
Bên cạnh đó là những bài học đạo lý làm người, được đồng bào gửi gắm
trong hình tượng các nhân vật trữ tình chung ‘‘thế gian gái, dâu, vợ”, “thế gian
cùng anh em”, “láng giềng gần xa”, “thế gian nam cùng nữ”. Các nhân vật trữ
tình trong tác phẩm không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể như
nhân vật các truyện thơ dân tộc khác. Nhưng họ lại được cụ thể hóa trong giọng
điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách suy nghĩ và đây cũng là quan niệm nghệ
thuật mới mẻ trong cách xây dựng nhân vật truyện thơ. Đối với, nhân vật “gái,
dâu, vợ” cần phải làm tròn bổn phận và nghĩa vụ của một người con và người
vợ trong gia đình:
Ở nhà nghiêng tai mà lắng nghe
Ngủ đến năm canh năng dậy sớm
Canh năm sớm dậy đừng ngủ nhiều
Sớm dậy trải đầu tiện rửa mặt
Sắp sẵn trà cơm đến trước của
Chăm chỉ là một đức tính quý báu của con người và với phụ nữ điều đấy
càng quan trọng ý nghĩa hơn. Người Sán Dìu dạy con mình từ những việc nhỏ
nhất, họ quan niệm muốn làm được việc lớn trước hết phải làm tốt những việc
nhỏ. Và giáo dục đâu phải là những bài học xa vời, đấy đều là những việc thực
tế trong đời sống sinh hoạt. Do ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo nên đồng
bào quan niệm và mong ước người phụ nữ hội tụ đủ phẩm chất “công, dung,
ngôn, hạnh”, đây là các tiêu chuẩn cơ bản của phụ nữ, mỗi người cần rèn giũa,
hoàn thiện mình.
Anh em trong gia đình cùng chung cha mẹ, chung huyết thống, khác với
người dưng: “Anh trưởng sinh đầu đáng như cha/ Chị cả lấy đầu đáng như mẹ”.
Người “anh trưởng” và “chị cả” có vị trí đặc biệt quan trọng trong gia đình và
67
văn hóa của dân tộc Sán Dìu. Họ được coi như trụ cột của gia đình, là người có
vị thệ sau khi cha mẹ mất đi. Vì thế trong tác phẩm, người Sán Dìu nhấn mạnh
vào tình cảm gia đình, huyết thống “anh em cùng mẹ cùng sống chết”. Trong
anh và em có thể có kẻ giàu người nghèo, kẻ sang người hèn... Nhưng dẫu thế
nào anh em vẫn phải yêu thương, chia sẻ, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau lúc hoạn
nạn. Có như vậy mới giữ gìn được đạo lý truyền thống ông cha răn dạy.
Bài học triết lý nhân sinh được người Sán Dìu tổng hòa ở nhiều phương
diện của tác phẩm. Xây dựng các hình tượng nhân vật trong Mở trời dựng đất
chính là thông điệp về cuộc đời và hiện thực mà người Sán Dìu muốn gửi đến
các thế hệ người đọc. Đó là tiếng nói riêng in đậm bản sắc văn hóa, văn học,
của người dân tộc Sán Dìu.
3.2. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong ngôn ngữ, hình ảnh và giọng điệu
truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Mỗi ngành nghệ thuật đều có những chất liệu riêng để xây dựng nên
một tác phẩm. Với hội họa là chất liệu màu sắc, các mảng màu đa dạng như
tượng trưng cho nét đa sắc màu trong cuộc sống. Đến với âm nhạc là chất liệu
giai điệu, âm thanh lúc trầm khi bổng, điêu khắc là những đường nét tinh tế,
còn với văn chương là chất liệu ngôn từ. Trong thơ ca, ngôn ngữ được chưng
cất công phu, chặt chẽ, tinh thế vì thơ là tổ chức ở trình độ cao của ngôn ngữ.
So với các ngành nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc thì ngôn ngữ văn
chương mang tính phi vật thể. Nó vừa là phương tiện miêu tả, vừa là chất liệu
để nhà văn xây dựng hình tượng văn học. Qua đó, ngôn ngữ còn là phương
tiện để là văn tái hiện và sáng tạo nghệ thuật riêng của mình thông qua tác
phẩm văn học.
Theo Từ điển Thuật ngữ văn học: “Ngôn ngữ là công cụ, chất liệu cơ
bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ”.
M.Gokir khẳng định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học ... Trong tác
phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính
68
sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là
tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động
để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác”[25,tr.215]. Khái niệm ngôn ngữ
nghệ thuật: (với nghĩa chuyên môn) ngôn ngữ dùng trong tác phẩm văn
chương, không chỉ có chức năng thông tin mà quan trọng hơn là có chức năng
thẩm mĩ. Ngôn ngữ nghệ thuật bao gồm ngôn ngữ trong các tác phẩm tự sự,
trữ tình và tác phẩm sân khấu.
Ngôn ngữ thơ là một phương diện hình thức luôn chứa đựng nhiều sự
sáng tạo, vì thơ là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ, ở đó các tác giả đã lựa
chọn, gọt giũa để xây dựng nên tác phẩm mang dấu ấn cá nhân, cộng đồng
riêng. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc
phong phú, giàu hình ảnh, sắc màu, nhạc điệu và biểu cảm của thơ. Các đặc
điểm trên hòa quyện với nhau tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa.
Về phương diện ngôn ngữ truyện thơ Mở trời dựng đất, tác giả dân gian
đã sử dụng lớp từ quen thuộc trong cuộc sống sinh hoạt, lao động của đồng bào.
Với các từ ngữ đa dạng, lớp từ giàu sắc thái biểu cảm mang đậm tâm hồn Sán
Dìu. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng nhiều biện pháp tu từ truyền thống trong
thơ ca dân tộc Việt như sự xuất hiện dày đặc các thủ pháp so sánh, ẩn dụ, phép
điệp, từ láy….Khiến cho thơ người Sán Dìu giản dị, tự nhiên, như chính bản
tính mộc mạc của đồng bảo. Bởi vậy, những lời thơ trong tác phẩm luôn được
mọi thế hệ của người Sán Dìu coi đó như “Kinh sách dạy con” của đồng bào.
3.2.1. Hệ thống ngôn ngữ, hình ảnh mang đậm dấu ấn văn hóa Sán Dìu
Đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong truyện thơ Mở trời dựng đất là tác giả
dân gian đã sử dụng ngôn ngữ của chính dân tộc mình vào quá trình sáng tác.
Chính yếu tố ngôn ngữ này đã khẳng định bản sắc văn hóa Sán Dìu, phong
cách văn hóa Sán Dìu thấm đẫm trong từng trang thơ. Thứ hai tác giả kế thừa,
tiếp thu tinh hoa thơ ca cổ, truyện cổ dân gian Trung Hoa, vận dụng linh hoạt
thành ngữ, tục ngữ Sán Dìu... một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn trong quá trình
69
sáng tác. Điều này đã tạo nên sự mới lạ, hấp dẫn riêng mà lại vẫn có một cái gì
đó quen thuộc, thân thương, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc miền núi.
Việc sử dụng từ ngữ mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc Sán Dìu là một
biện pháp đặc thù để thể hiện tư tưởng tình cảm, cũng như hình tượng nghệ
thuật trong tác phẩm. Xuyên suốt truyện thơ Mở trời dựng đất là những bài học
nhân sinh của đồng bào Sán Dìu. Khác với các truyện thơ các dân tộc, tác phẩm
không phải kể về cuộc đời, số phận của nhân vật… mà truyện thơ là những lời
khuyên răn dạy bảo của ông cha cho các thế hệ sau. Tác giả dân gian sử dụng
ngôn ngữ đời thường gắn với cuộc sống sinh hoạt của đồng bào, cùng với đó
ngôn ngữ đậm chất dân gian khi lấy những nhân vật trong văn hóa học dân gian
để làm gương hoặc bài học răn dạy cho con cháu.
Mỗi một dân tộc có một cách lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình, với
người Kinh là truyền thuyết Cong rồng cháu tiên, mẹ “Âu Cơ sinh ra một cái
bọc trăm trứng…”[55], đó là sự lí giải nguồn gốc giống nòi của người Việt.
Với người Sán Dìu khi nói về cội nguồn của dân tộc mình:
Thủa xưa Bàn Cổ phân trời đất
Đặt ra trời đất chín vạn dặm
…
Thiên ý dục cầu Bàn Cổ Vương
Tay trái cầm trời phải cầm trăng
Trời đất đang tối tự bừng sáng
Với bản tính mộc mạc, giản dị, vì thế trong quá trình sáng tạo nghệ
thuật, tác giả dân gian đã lựa chọn ngôn ngữ đời thường gắn với bối cảnh xã
hội để thể hiện trong tác phẩm, với hình ảnh quen thuộc “tay trái, tay phải,
cầm, tự bừng sáng”, ngôn ngữ bình dị, giàu hình ảnh, họ đã hình tượng hóa
sức mạnh của Vua Bàn Cổ trong quá trình “hình thành trời đất”. Sự lý giải đó
còn được tác giả sử dụng ngôn ngữ chứa nhiều điển tích trong văn hóa dân
gian Trung Hoa về các nhân vật vị thần hình thành nên trời đất, con người đó
70
là “Bàn cổ vương, Phục nghĩa hoàng đế, Cửu thiên huyền nữ”. Bàn cổ vương
là vị thần khai thiên lập địa, sáng tạo ra vũ trụ trong thần thoại Trung Hoa, và
đến Nữ Oa, Cửu thiên huyền nữ “tạo ra” con người:
Cửu Thiên Huyền Nữ cầm dao phân
Phân thành ba trăm sáu mươi phần
Tạo thành lớp người lớp người có mắt thẳng
Sự này thế gian muôn đời truyền
Khi nói về nguồn gốc của dân tộc, người Sán Dìu đã đưa ngôn ngữ dân
tộc mình vào trong tác phẩm và hình ảnh giản dị, cùng với đó là sự xen kẽ lẫn
các yếu tố kì ảo trong thần thoại. Với cuộc sống lao động của mọi người “dao”
là một vật dụng quen thuộc không thể thiếu, dao thắt lưng bụng, cào được làm
bằng con dao mòn vẹt uốn cong. Nhưng với đồng bào hình ảnh “dao” không
còn là dụng cụ lao động, nó là sự sáng tạo nghệ thuật khi tác giả dân gian lí
giải về nguồn gốc ra đời của dân tộc mình, “Sự này thế gian muôn đời còn
truyền”. Hình ảnh gần gũi, mộc mạc, diễn tả đúng kiểu tư duy cụ thể hóa của
người miền núi. Đây là nét tiêu biểu cho tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ, cách
thể hiện riêng của dân tộc Sán Dìu.
Cũng như các tộc người khác ở trung du miền núi phía Bắc, lao động
nông nghiệp, trồng trọt là sinh kế chính của người Sán Dìu. Quá trình định cư
và phát triển, tương tác với môi trường tự nhiên đã tạo nên một diện mạo văn
học dân tộc Sán Dìu mang đậm dấu ấn vùng đất trung du và miền núi. Truyện
thơ Mở trời dựng đất là những bài học nhân sinh được đúc kết từ kinh nghiệm
trong đời sống hàng ngày, tác phẩm đã tái hiện cuộc sống hiện thực của người
Sán Dìu. Khi di cư sang nước Việt với nền văn hóa lúa nước, đồng bào đã
thích nghi và tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm quý báu về hoạt động lao
động sản xuất để truyền lại cho thế hệ sau “Mùa hạ ngâm thóc”, muốn cấy lúa
sớm “đừng để quá hè”. Tác giả miêu tả cuộc sống bằng ngôn ngữ giàu hình
ảnh bình dị, đời thường trong tác phẩm.
71
Ngôn ngữ trong tác phẩm thường giản dị, mộc mạc, chân thực và có tính
tạo hình cao. Do đó, tác giả dân gian đã khắc họa thành công hình ảnh con
người và cuộc sống theo quan niệm của người Sán Dìu. Hình ảnh thơ độc đáo,
mới lạ, thể hiện sức tưởng tượng và sự sáng tạo trong thể loại truyện thơ của
đồng bào. Điều đấy được thể hiện ở những câu thơ khuyên dạy con cháu về
đối nhân xử thể trong đời sống gia đình và xã hội:
Cha mẹ có lời đến dạy đạo
Nam nữ vợ chồng nghe lời cha
Không nên quay đầu mồm đấu khẩu
Ba câu thơ trên như một lời dăn dạy ứng xử trong cuộc sống thường ngày
của người Sán Dìu. Đồng bào rất coi trọng yếu tố gia đình, vì vậy xuyên suốt
truyện thơ tác giả luôn đề cao vai trò của gia đình với giáo dục con trẻ trong
việc giữ gin và phát huy truyền thống dân tộc Sán Dìu. Chỉ có những lời dạy
bảo thông thường, chân tình, mộc mạc như bản tính vốn có của người Sán Dìu
mà biến thành thơ. Như vậy, thơ đâu phải là cái gì xa vời, khuân sáo, mà thơ là
những lời nói chân tình, giản dị được cất lên từ sâu thẳm trong tấm lòng của
con người:
Ngoài đạo người dạy vô nhân nghĩa
Mười tuổi đến thời hết nhi đồng
Mười năm tiện học lễ tình nghĩa
Mười tám đến thời tìm vợ chồng
Ở nhà nghe cha xuất theo chồng.
Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ khách quan, yên tĩnh của tác
phẩm tự sự. Lời thơ thường là lời đánh giá trực tiếp của chủ thể đối với cuộc
đời. Mỗi một dân tộc đều có truyền thống giáo dục con cháu khác nhau, với
người Sán Dìu họ quan niệm “Mười tuổi, mười năm, mười tám” đây là những
độ tuổi quan trọng trong việc dạy bảo con cháu. Theo họ, mỗi lứa tuổi cha mẹ
có cách giáo dục khác nhau. Vì thế từ lúc con trẻ đến người trưởng thành bài
72
học đầu tiên và quan trọng nhất là “học lễ tình nghĩa” đây là bài học sẽ đi theo
bước chân của mỗi người trong cuộc đời.
Ngôn ngữ trong Mở trời dựng đất là những câu thơ dạy bảo mộc mạc
chân tình, đời thường, như “lời cha mẹ” hàng ngày vẫn nói với con cháu mình.
“Nghe cha” câu thơ như hàm chứa tất cả sức nặng tình cảm của cha mẹ dành
cho các con. Câu từ gần gũi mà chúng ta vẫn thường được nghe, không phải là
câu nói bóng bẩy hào nhoáng, đó là lời nói giản dị hàng ngày nhưng chứa đầy
ấm áp, lo lắng, quan tâm yêu thương của cha mẹ dành cho các con. Ngôn ngữ
như được bật ra từ những suy nghĩ đời thường, chan chứa tình thân ái biết bao:
Lời tốt lắng nghe cha mẹ dạy
Hoàng liên ngọn đắng rễ cũng đắng
Cam ngọt gốc ngọt ngọn cũng ngọt
Tất cả những hình ảnh tả thức ấy thật gần gũi, quen thuộc và thân
thương, đã phác họa thành công vẻ đẹp mộc mạc giản dị của đồng bào Sán
Dìu. Ngoài ra, hệ thống ngôn ngữ đời thường này được tác giả dân gian sử
dụng rất thành thạo và linh hoạt khi viết về những lời khuyên dạy trong cuộc
sống người Sán Dìu:
Chín khuyên: Trên đời cần kế hay
Làm người công bình đừng lòng tham
Với bản tính mộc mạc giản dị vốn có của dân tộc mình, người Sán Dìu
luôn muốn hướng con cháu đến cuộc sống theo triết lí Phật giáo không “tham -
sân - si”, quan niệm “thiện - ác” trong cuộc sống. Bởi vậy, trong những lời răn
dạy ngôn ngữ truyện thơ luôn thấm nhuần tư tưởng Phật giáo. Tác phẩm đã
truyền tải những nội dung, tâm tư, tình cảm, ước nguyện của cả dân tộc, vì thế
Mở trời dựng đất đã mang trong mình dấu ấn văn hóa người Sán Dìu. Ngôn
ngữ đời thường, tự nhiên, nhạy bén cứ thế đi vào tác phẩm và mang đến bài
học triết lí nhân sinh quý báu đối với đồng bào Sán Dìu:
Đi khắp vương quốc đường thiên hạ
73
Thấy tận bao nhiêu người thiện ác
Hôm nay không biết hết ngày mai
Ngừng tranh bỏ được một nỗi sầu
Những đặc điểm về ngôn ngữ, hình ảnh trong truyện thơ Mở trời dựng
đất đã thể hiện rất sinh động những nét độc đáo của bản sắc dân tộc. Nó đã
phản ánh một cách cụ thể: cách cảm, cách tư duy, cách diễn đạt… của người
miền núi. Đó là “…bình dị, thật thà của câu chữ, bộc lộ cách cảm, cách nghĩ
chất phác… những câu thơ nhìn bề ngoài ngỡ như là viết theo kiểu ứng tác,
khá dễ dàng, không màu mè, rào đón, bọc giấu mà cứ trần trụi, thật thà như
đếm và thẳng như cây bương” (Nguyễn Ngọc Thiện) [62].
Lối sống bình dị của người Sán Dìu đã đi trực tiếp vào tư duy văn học và
trong sáng tạo các hình tượng nghệ thuật. Vì thế, chúng ta thấy trong Mở trời
dựng đất ngôn ngữ đời thường được tác giả dân gian sử dụng một cách tự
nhiên, thấm thía và cũng được gọt giũa công phu. Nó phản ánh trung thực mọi
khía cạnh về con người và đời sống thực của đồng bào. Mỗi một câu thơ là một
lời dạy bảo chân tình, và cả tác phẩm đã cho ta thấy được phẩm chất người Sán
Dìu cần cù, chịu khó, thẳng thắn, bộc trực trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, đến
cách nhìn nhận giải quyết và đưa ra những lời khuyên răn dạy cho các thế hệ.
Trong cuộc đời mỗi người sẽ không ít gặp những khó khăn, gian truân, vất vả.
Tuy vậy, đồng bào luôn biết vượt khó vươn lên. Họ tin vào một tương lai tốt
đẹp, đó là tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống của người Sán Dìu.
3.2.2. Dấu ấn văn hóa trong giọng điệu truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học hay thời đại văn học chúng ta không
thể không quan tâm đến giọng điệu, đây là một trong những yếu tố then chốt
làm nên sự độc đáo trong văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì giọng
điệu là: “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với
hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên,
dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, kính hay suồng, ngợi
74
ca hay châm biếm”[25,tr.111]. Và “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái
độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách của nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc”[25,tr.134]. Chính
vì vậy, giọng điệu có thể được hiểu là “Giọng nói hay lối nói biểu thị một thái
độ nhất định (giọng mỉa mai, chán chường) hay như ngữ điệu (giọng lên xuống,
lúc trầm lúc bổng)”[25,tr.503].
Trần Đình Sử trong cuốn Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại cũng
cho rằng: “Phân tích tác phẩm mà bỏ qua giọng điệu tức là tước đi cái phần
quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của nhà văn”[34,tr.27]. Qua đó, chúng ta
thấy giọng điệu là yếu tố cơ bản trong việc xây dựng hình tượng văn học và nó
còn mang đậm dấu tác giả khi sáng tạo nghệ thuật. Nhờ có giọng điệu mà khi ta
đọc một tác phẩm giúp ta nhận ra tác giả và phân biệt họ với các tác giả khác.
Đây chính là phong cách của mỗi nhà văn.
Mỗi tác phẩm văn học bao giờ cũng có một giọng điệu đặc sắc. Nhà
nghiên cứu văn học Nga M.Khrapchenco từng khẳng định: “Đề tài, tư tưởng,
hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong
phạm vi của thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với
những mặt khác nhau của nó” [34,tr.167 - 168]. Thực tế cho thấy, giọng điệu
là một thành tố không thể thiếu trong việc xây dựng và triển khai tư tưởng,
cảm xúc của nhà văn, nhà thơ.
Truyện thơ Mở trời dựng đất tác giả muốn chuyền tải đến người đọc
những tình cảm sâu sắc qua sự sáng tạo nghệ thuật ở nội dung và hình thức
của tác phẩm. Về mặt hình thức với hệ thống giọng điệu trữ tình đạo đức và
giọng điệu dân dã, gần gũi mang đậm bản sắc văn hóa Sán Dìu. Giọng điệu
xuất phát từ chính tâm tư, tình cảm của tác giả dân gian khi viết về quê hương,
đất nước và con người dân tộc mình.
Giọng điệu là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để tạo ra nét
riêng biệt của mỗi tác phẩm. Mở trời dựng đất không phải là câu chuyện kể về
75
tình yêu, mà tác phẩm là những bài học triết lí nhân sinh của người Sán Dìu.
Vì thế, ngôn từ được chắt lọc từ lời ăn tiếng nói hàng ngày trong đời sống của
đồng bào, đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên giọng điệu dân
dã và giọng điệu trữ tình giáo huấn mang dấu ấn văn hóa dân tộc mình.
Trong tác phẩm giọng điệu mộc mạc dân dã, gần gũi được thể hiện nhiều
ở mười lời khuyên của đồng bào dành cho thế hệ sau. Bên cạnh, những câu nói
gần gũi được chuyển thể thành thơ đó là sự đan xen những lời răn dạy về đạo
đức mà dân tộc Sán Dìu gửi gắm trong truyện thơ. Bằng những hình ảnh thân
thuộc, chân thực trong đời sống sinh hoạt làng bản của người Sán Dìu:
Trong ruộng khô nước mong tiếng sớm
Trong lòng dụng tâm hành hiếu thuận
Đêm tối giặc đạo lòng chẳng sợ
Cả nhà hiếu thuận thời chẳng lo
Nên biết theo người trăm năm tuổi
Từ những câu nói đơn giản, dân dã đời thường mà lại trở thành thơ có sức
gợi đặc biệt. “Trong ruộng khô nước” là lời nhắc nhở của ông cha cho con
cháu khi lao động sản xuất cần phải biết cần cù chăm chỉ chịu khó cày cấy,
cũng giống như con người hiếu thuận với cha mẹ cần phải từ “trong tâm”
không phải là những tình cảm, đạo đức giả tạo. Mọi người cùng đồng lòng thì
mọi khó khăn đều vượt qua. Ở đây chữ “tâm” và “hiếu” luôn được tác giả dân
gian coi trọng và đặt nên hàng đầu. Có thể thấy khi viết về cuộc sống sinh hoạt
đời thường của người Sán Dìu, ngoài việc truyền đạt lại cho con cháu những
bài học về kinh nghiệm lao động sản xuất, đồng bào đã khéo léo đưa vào đó là
những bài học giáo dục đạo đức từ những việc nhỏ nhất, và cứ thế giọng điệu
mộc mạc, giản dị tự nhiên đi vào trong thơ. Tạo thành bản sắc riêng mang đậm
dấu ấn văn hóa người Sán Dìu ở trong đó.
Phải chăng trong hành trình di cư từ đất nước Trung Hoa rộng lớn sang
đất Việt, người Sán Dìu đã phải trải qua cuộc sống lo toan mưu sinh vất vả, vì
76
thế trong truyện thơ những hình ảnh lam lũ, khổ cực hiện nên trong thơ một
cách tự nhiên, mộc mạc, giản dị mà không cần phải tô vẽ. Mỗi câu thơ là một
lời tâm tình, chứa đựng trong đó là những lời khuyên dạy con cháu của tác giả
dân gian. Có lẽ, vì những gian khổ mà đồng bào đã trải qua, người Sán Dìu
luôn nhắc nhở con cháu mình cần phải cần cù, chăm chỉ chịu khó:
Năm nay tính được lúa nhiều năm
Mùa nóng liền đến mùa giá rét
Tìm chợ mua bán đừng chơi bời
Đi con đường đời thật gian nan
Giỏi giang trong nhà cần chăm chỉ
Hình ảnh “lúa”, “chợ” đây là những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống
sinh hoạt của đồng bào. Người Sán Dìu luôn ngợi ca việc đồng áng, cuộc sống
thuần nông gắn bó với lũy tre, làng bản: ‘‘Mai tông mai say mạo cộ số thén
coóc/ Buôn đông bán tây không bằng cuốc góc ruộng’’ (Tục ngữ Sán Dìu).
Xuân, hạ, thu, đông bốn mùa trôi qua với bao “gian nan” trên “con đường đời”
đó là cách nói dân dã của đồng bào, họ luôn muốn dân tộc mình biết trân trọng
cuộc sống này, vì tất cả đều rất quý giá dù là những điều nhỏ nhất, bình
thường nhất.
Ngoài ra, giọng điệu trữ tình giáo huấn được tác giả dân gian sử dựng rất
nhiều trong tác phẩm. Với những lời khuyên răn dạy trong cuộc sống thì đạo
đức luôn là yếu tố quan trọng thế hệ ông cha luôn muốn con cháu mình phải
học tập và rèn luyện:
Phú quý vinh hoa được mấy năm
Bất luận lúc sống hay lúc chết
Cũng nên hành xử theo lẽ phải
Làm người cùng nhau kết lễ nghĩa
Trong lòng mến khách người tốt hiểu
77
Cuộc sống vinh hoa phú quý không tồn tại mãi, giống như người Việt
quan niệm “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Với dân tộc Sán Dìu,
việc dạy bảo con trẻ về luật nhân quả ở đời rất được coi trọng, “lúc sống hay
chết”, “hành xử theo lẽ phải”, đây là đạo lý tu thân, tích đức hành thiện trong
Phật giáo. Người Sán Dìu quan niệm muốn gia tộc hưng thịnh cần phải giáo
dục con cái thật nghiêm khắc. Khuyên dạy con cháu biết coi trọng đạo đức
hành thiện “Làm người cùng nhau kết lễ nghĩa”.
Giọng điệu trữ tình giáo huấn không chỉ giúp cho tác giả dân gian
truyền tải những bài học nhân sinh vào trong truyện thơ một cách tự nhiên,
chân thực, gần gũi nhất mà còn giúp người đọc hiểu được đồng bào Sán Dìu,
cuộc sống của họ, và những tâm tư tình cảm, nét đẹp trong văn học và tâm
hồn người Sán Dìu.
3.3. Dấu ấn văn hóa Sán Dìu trong k t cấu truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
3.3.1. Khái niệm
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về kết cấu trong Từ điển Thuật
ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)
viết: ‘‘toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu thể
hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp hơn bố cục... Kết cấu bao gồm bố cục, tổ
chức tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ
thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình
bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở
thành một chỉnh thể nghệ thuật’’[25.tr156-157].
Do đó có thể thấy kết cấu là một phương diện cơ bản và quan trọng của
sáng tác nghệ thuật. Khái niệm kết cấu được hiểu là toàn bộ tổ chức phức tạp và
sinh động của tác phẩm. Nó ‘‘bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng các tác phẩm: triển
khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện ;cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức
điểm nhìn trần thuật của tác giả: tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một
hiện tượng thẩm mĩ’’[25.tr157]. Kết cấu ra đời cùng một lúc với ý đồ nghệ thuật
78
của tác phẩm, cụ thể hóa cùng với sự phát triển của hình tượng. Không phải là
sáng tạo ra hình tượng sẵn rồi, sau mới tạo ra kết cấu, mà kết cấu xuất hiện như
một mặt của bản thân hình tượng nghệ thuật được sáng tạo. Do đó, không có kết
cấu, những yếu tố, những thành phần chỉ là những mảnh vụn rời rạc.
Truyện thơ là một trong những thể loại của văn học dân gian. Đó là thể
loại tự sự được viết bằng thơ có dung lượng tương đối lớn. Sự mới mẻ và ưu
điểm của thể loại này là ở chỗ nó vừa có phần tự sự và vừa có phần thơ (trữ
tình), từ đó trở thành phương tiện để con người bộc lộ tình cảm, cảm xúc và
phản ánh ước mơ, khát vọng của họ. Truyện thơ được chia thành hai loại:
truyện thơ bình dân và truyện thơ bác học. Có thể thấy truyện thơ là sự tổng
hợp của những điểm gần gũi, dân dã, nhẹ nhàng, như lời ca tiếng hát dân gian,
như câu chuyện cổ tích, ở đó là sự sâu sắc, tinh xảo, của sáng tạo nghệ thuật,
điều này làm cho kết cấu truyện thơ rất đa dạng. Truyện thơ Mở trời dựng đất
thể hiện sinh động đầy đủ kết cấu của truyện thơ Nôm bình dân, kết cấu tự sự
và kết cấu trữ tình. Kết cấu tự sự trong tác phẩm là hình thức tổ chức của cốt
truyện nhân vật trữ tình, kết cấu trữ tình là kết cấu tâm trạng của nhân vật trữ
tình được phản ánh trong truyện thơ.
3.3.2. Kết cấu truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Xét về mặt kết cấu, trong Mở trời dựng đất tác phẩm vẫn là kiểu kết cấu
tự sự quen thuộc gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ, tính sự kiện, tình tiết, sự kết hợp
giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong tác phẩm. Kiểu kết cấu “truyện lồng
truyện”, tăng chất tự sự cho cốt truyện, kiểu kết cấu truyện trong thơ và thơ
trong truyện, xu hướng trữ tình hóa tác phẩm tự sự. Trong tác phẩm ngoài
phần đầu là có sự xuất hiện các tuyến nhân vật, sự kiện, tình tiết thì ở phần sau
là những câu chuyện trong cuộc sống của đồng bào. Từ những câu chuyện
thường ngày trở thành thơ, và từ đó trở thành bài học triết lý nhân sinh, mang
tính giáo dục cho mọi thế hệ.
79
Tác phẩm không thể hiện cảnh đoàn tụ viên mãn ở các câu chuyện tình
yêu như: Tiễn dặn người yêu, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống chân - Cúc Hoa...
Xu hướng tự sự hóa tác phẩm làm cho nội dung truyện thơ ghi dấu ấn thành
công nghệ thuật cho văn học Sán Dìu. Xu hướng này thấy sự giao thoa, tiếp
nhận giữa các nền văn hóa của người Sán Dìu, giữa dân tộc Sán Dìu với người
Việt và văn hóa, văn học Trung Hoa. Thành công về nghệ thuật mang đậm dấu
ấn bản sắc văn hóa Sán Dìu là minh chứng cho quá trình giao lưu văn hóa giữ
các dân tộc và văn hóa cội nguồn người Sán Dìu.
Cũng như các truyện Nôm khác, truyện thơ Mở trời dựng đất cũng có kết
cấu tuyến tính, các nhân vật, sự kiện được tả, kể theo trình tự thời gian. Mở
đầu tác phẩm là sự xuất hiện của Vua Bàn Cổ, nhân vật này được tác giả dân
gian miêu tả là người “phân trời đất”. Tiếp đến tác giả dân gian miêu tả cuộc
gặp gỡ giữa các nhân vật Phục Hy và Nữ Oa. Sau đó là biến cố nạn Đại Hồng
thủy “muôn người mắt thẳng tận diệt vong”. Cuối cùng “còn lại hai người kết
nhân duyên” và từ đó nguồn gốc loài người được hình thành. Các nhân vật
trong tác phẩm đều được miêu tả là những vị thần có sức mạnh phi thường, tài
năng xuất chúng:
Thiên ý dục cầu Bàn Cổ Vương
Tay trái cầm trời tay phải cầm trăng
Trời đất đang tối tự bừng sáng
Vua Bàn Cổ là người khai thiên lập địa, Nữ Oa người tạo ra con người.
Qua các nhân vật trong tác phẩm người Sán Dìu đã phần nào phản ánh được
môi trường sống, mối quan hệ tự nhiên và xã hội, tư tưởng và tâm hồn của
đồng bào dân tộc miền núi. Tác phẩm còn chứa đựng trí tưởng tượng phong
phú về đời sống tinh thần của con người. Họ đã dùng trí tưởng tượng của mình
để giải thích thế giới tự nhiên, chinh phục tự nhiên và cải tạo bản thân mình.
Với ước muốn trong xã hội cổ đại chiến thắng thiên nhiên, chiến thắng mọi kẻ
80
thù, giải thích các hiện tượng xã hội tự nhiên bằng sự tưởng tượng và hư cấu ở
các vị thần.
Kết cấu kiểu “truyện lồng truyện” trong truyện thơ Mở trời dựng đất.
Nếu như trong truyện thơ các dân tộc, chúng ta thấy tác giả chủ yếu tập trung
kể về một câu chuyện như: chuyện tình yêu đẹp hay chuyện chiến trận… và từ
đầu đến cuối truyện, người đọc sẽ cảm nhận được duy nhất là một tình yêu
đẹp, thủy chung. Đó là truyện Phạm Tải - Ngọc Hoa, Lưu Đài - Hán Xuân…
hay cả thiên truyện “tuyệt bút” Truyện Kiều – Nguyễn Du.
Đọc Mở trời dựng đất chúng ta thấy các câu chuyện hàng ngày được kể
xen lồng vào nhau thông qua các nhân vật trữ tình trong truyện, đó là điểm
mới trong kết cấu “truyện lồng truyện”. Từ những lời thơ ấy trở thành bài học
triết lý nhân sinh của đồng bào Sán Dìu:
Đừng để gian kế giữ của nhà
Năm qua lại trộm về phương bắc.
Lúc cấp cũng đừng mưu kế xấu
Sớm chiều bị đánh tối về đau
Mới hay sớm cày được ăn no
Đó là câu chuyện về cuộc sống sinh hoạt của người Sán Dìu, đồng bào
luôn muốn răn dạy con cháu mình phải sống ngay thẳng không được làm
những việc trái với đạo đức con người. “Lúc cấp cũng đừng mưu kế xấu” dù
cho mọi hoàn cảnh cần giữ được lòng ngay thẳng, không nên mưu toan tính
hại người. Do ảnh hưởng của Đạo phật nên quan niệm về “nhân, quả, báo
ứng” thể hiện rất rõ trong đời sống của đồng bào: “Người ác - người sợ, trời
không sợ/ Người lành - người khinh, trời không khinh” (Tục ngữ Sán Dìu). Họ
cho rằng khi còn sống làm điều xấu hại người khi mất đi sẽ bị Diêm vương trị
tội. Dù có “nghìn vàng lạng quý” cũng không quý giá bằng nhân cách, phẩm
chất đạo đức, tấm lòng của con người:
81
Diêm vương ra lệnh về âm phủ
Vàng quý đắp đống mang được đâu
Thịt rượu khuyên người đừng tham uống
Thì giờ mau qua không trở lại
Nghìn vàng lạng quý đều tiêu tan
Bao quát hơn là câu chuyện về cuộc đời, số phận con người được truyền
tải trong các lời khuyên. Từ đó, tạo nên sự khác biệt so với nội dung một số
truyện thơ Nôm khác:
Một dạng cơm trà bao dạng người?
Cùng thời trời sáng cùng giờ đêm
Bao người giàu nghèo có bao người
Có tiền nói năng như tiếng sấm
Không tiền nói năng tiếng vịt đực
Người Sán Dìu có quan niệm về cuộc đời “Một hạt gạo ăn ra nhiều loại
người”, mỗi người sinh ra không ai giống ai, họ đều có tính cách, số phận
riêng nhưng không nên vì của cải trước mắt mà đánh giá người khác. “Tiếng
sấm” đây là một hiện tượng tự nhiên diễn ra khi trời mưa, sấm tạo ra âm vang
lớn vạn vật đều nghe thấy. Lối so sánh quen thuộc với hình ảnh trong cuộc
sống, tác giả dân gian ví “có tiền nói năng như tiếng sấm”, “không tiền nói
năng tiếng vịt đực”, tác giả dân gian đã khéo léo khắc họa phong cách ứng xử
của hai loại qua ngôn ngữ của họ.
Kiểu kết cấu “truyện lồng truyện” này chúng ta cũng hay bắt gặp, như
trong truyện Lưu Tương của dân tộc Tày, tác phẩm kể về nhân vật Lưu Tương
chàng trai anh dũng tài giỏi được vua gả công chúa cho, sau đó trải qua nhiều
sóng gió và biến cố cuối cùng gia đình đoàn tụ sống trong sung túc, bình an.
Còn với Mở trời dựng đất cũng là “truyện lồng truyện” nhưng đó là những câu
chuyện của cuộc sống lao động thường ngày của đồng bào. Không có biến cố
hay đoàn tụ mà các nhân vật trữ tình thể hiện quan điểm cách nhìn nhận cuộc
82
sống theo tư tưởng Nho, Phật, Đạo… tất cả các yếu tố đó là sự tổng hòa thành
bài học triết lý nhân sinh của dân tộc Sán Dìu.
3.3.3. Sự kết hợp kết cấu tự sự - trữ tình
Mở trời dựng đất là câu chuyện về đời sống đồng bào dân tộc miền núi
phía Bắc. Tác phẩm là truyện nhưng truyện lại ở trong thơ, và thơ ở trong
truyện. Mở trời dựng đất đã được người Sán Dìu xây dựng và kết hợp từ nhiều
câu chuyện khác nhau trong đời sống để tạo thành tác phẩm. Đã là truyện tác
phẩm này cũng không nằm ngoài quỹ đạo loại hình tự sự. Đó là những câu
chuyện xoay quanh chủ đề về gia đình và xã hội. Đối với gia đình, cha mẹ dạy
bảo con cháu chữ “đạo”, với các con phải biết làm tròn chữ “hiếu”. Đan xen
vào đó là chất trữ tình, biến những lời dạy bảo khô cứng hàng ngày trở thành
thơ. Có thể nói “Sự” là thể xác mà “Tình” được coi là linh hồn của tác phẩm.
Với kết cấu truyện trong thơ và thơ trong truyện thì “Sự” xuất hiện trước để
làm điểm tựa cho “Tình”. Thế nhưng cũng có đoạn thơ “Tình” xuất hiện trước
để chi phối sự lựa chọn các tình tiết, sự kiện, nhân vật để thực hiện ý đồ của tác
giả là làm cho “Sự” được rõ ràng, rành mạch hơn. Sự kết hợp giữa tự sự và trữ
tình đã làm cho tác phẩm trở nên thống nhất và thành một chỉnh thể trọn vẹn,
có khi lại bổ sung tôn nhau lên. Đôi lúc ranh giới giữa tự sự và trữ tình tạm thời
bị xoá nhoà, che lấp. Thế nhưng có những lúc hai yếu tố này giao thoa hòa
quyện với nhau. Tự sự xuất hiện như hòa vào cái dàn trải mênh mông của cảm
xúc trữ tình. Mỗi chi tiết, hành động của nhân vật đều gắn với những trạng thái
tình cảm con người.
Chất thơ đã làm cho câu văn răn dạy trở nên ý nghĩa và đi lòng người đọc
một cách nhẹ nhàng và tinh tế. Chẳng hạn, như ở lời khuyên thứ hai dành cho
“gái, dâu, vợ’”, đồng bào dạy bảo công việc sinh hoạt hàng ngày của người
phụ nữ trong gia đình, sớm chiều bưng chậu nước đến để cha mẹ rửa mặt, khi
cha mẹ rửa mặt xong pha trà giót mời cha mẹ uống. Đồng bào cho rằng nếu
khi còn sống hiếu thuận sẽ sinh ra con hiếu thuận, còn “ngỗ ngược” lại “hoàn
83
sinh con ngỗ ngược”, quan niệm đó do ảnh hưởng từ Đạo phật “nhân, quả, báo
ứng”. Còn chất trữ tình chính là tâm trạng, suy ngẫm của tác giả dân gian:
Lời tốt lắng nghe cha mẹ dạy
Giả ngôn giả ngữ hướng sau đầu
Không tin hãy nhìn nước dưới thềm
Giọt giọt xuống đất thấm nơi nơi.
Nước rơi dưới thềm nước ngấm xuống đất, cũng như những lời dạy bảo
chân tình của cha mẹ, làm phận con nên nghe theo không nên cãi lại lời cha mẹ.
Bởi đó, không chỉ là lời dạy bảo trong cuộc sống hàng ngày, đó là lời dạy về
cuộc đời, dạy về số phận cho mỗi con người. những vần thơ trên làm cho chúng
ta liên tưởng đến ca dao người Việt, mỗi câu ca là một lời dạy bảo ân tình:
Con ơi! Mẹ bảo con này,
Học buôn, học bán cho tày người ta.
Con đừng học thói chua ngoa,
…
Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng.
Trước là đẹp mặt cho chồng,
Sau là họ mạc cũng không chê cười.
(Ca dao người Việt)
Đó là chất trữ tình sâu lắng ở trong tác phẩm, giờ đây câu nói hàng ngày
đã trở thành câu thơ ý nghĩa. Tác phẩm đã miêu tả nhiều mặt trong đời sống
hiện thực, thể hiện sự cảm nhận đối với đời sống hiện thực của người Sán Dìu.
Như vậy, nội dung của tác phẩm bao giờ cũng được phản ánh thông qua hình
thức nghệ thuật. Truyện thơ là thể loại mang trong mình đầy đủ cả hai đặc tính
của văn học là tự sự và trữ tình. Nó hòa quyện vào nhau làm cho câu chuyện
thuyết phục, chính xác, lời văn thêm sinh động, lãng mạn trữ tình. Trong Mở
trời dựng đất câu răn dạy hàng ngày được thể hiện bằng lời thơ tự sự, kết hợp
84
chất trữ tình giàu hình ảnh, cảm xúc, nhờ đó các câu chuyện được nổi bật, hai
yếu tố này giữ vai trò chủ chốt trong tác phẩm.
Nếu như ở các truyện Nôm khác chất trữ tình thường được bộc lộ qua tâm
trạng của nhân vật như trong Tiễn dặn người yêu, hay Lưu Tương đó là cuộc
gặp gỡ giữa công chúa Long vương và Lưu Tương. Khi công chúa kén rể đã 10
ngày trôi qua mà nàng không tìm được “ý trung nhân”, nàng quyết định lên
dương gian mong tìm gặp được “ý trung nhân”. Ngay giây phút ban đầu gặp gỡ
cả hai người đã nảy nở tình yêu. Cả hai đã thề hẹn và trao nhau vật làm tin, khi
xa nhau họ không hề chán nản bi thương, không oán hận sầu đau, có hay chăng
chỉ là lời trách móc nhẹ nhàng:
Ai ngờ bạn bội ước lòng gian
Lại lấy gái dương gian làm vợ.
(Truyện thơ Lưu Tương – dân tộc Tày)
Điểm khác biệt trong Mở trời dựng đất là chất trữ tình được bộc lộ qua
lời kể của tác giả dân gian. Vì ở phần sau của truyện không có nhân vật cụ thể,
đó là những lời dạy, bài học triết lý nhân sinh của đồng bào. Do đó, chất tự sự
được tăng lên, nhưng những câu chuyện vẫn không gây nhàm chán mà ngược
lại nhờ có chất trữ tình, ý nghĩa câu chuyện được nổi bật, làm tăng chất thơ
trong tác phẩm:
Có người cùng tuổi ở nhà ngói
Có người cùng tuổi ở nhà sáng
Có người cùng tuổi đi muôn nơi
Có người cùng tuổi không ra ngõ
Có người cùng tuổi ngồi trên ngựa
Có người cùng tuổi làm quan chức
Có người cùng tuổi thân đắng cay
Có người cùng tuổi không con cái
Có người cùng tuổi không vợ chồng.
85
Đó là lời thơ thể hiện tâm tình con người miền núi, việc sử dụng dày đặc
biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, cụm từ “có người cùng tuổi” được nhấn mạnh,
họ muốn nói đến mỗi người trong cuộc đời đều có số phận, cuộc đời, tính cách
riêng, không ai giống ai. Chúng ta cần hiểu và thông cảm cho những số phận
bất hạnh, bé nhỏ, và lên án để loại bỏ những điều xấu trong xã hội. Đó là bài
học nhân sinh mà đồng bào Sán Dìu muốn gửi đến các thế hệ lời khuyên
“Dừng bút trở đầu nghĩ làm theo”. Nhờ có chất trữ tình mà những lời dạy bảo
đã trở thành lời thơ giàu hình ảnh và mang nhiều cảm xúc, sắc thái khác nhau.
Bên cạnh đó chất trữ tình còn được bộc lộ qua khung cảnh thiên nhiên
tươi đẹp, thơ mộng đậm chất văn hóa Sán Dìu. Thiên nhiên xuất hiện trong
truyện thơ gắn với tâm lý của nhân vật. Đó là tâm lý của nhân vật Phục Nghĩa
khi trời đất chuẩn bị xảy ra nạn đại hồng thủy:
Phục Nghĩa thấy hoa nhiều linh cảm
Liền lấy mầm hoa trồng trong vườn
Mầm hoa trải qua ba ngày tháng
Sinh ra hoa to dài ba trượng
Phục Nghĩa thấy hoa mà không hái
Tiện để hoa nở làm cái bầu
Lá rụng để lại hoa tự chín
Xem chừng bầu già liền hái về
Nhờ có chất trữ tình mà khung cảnh thiên nhiên miền núi được hiện lên
chân thực và sinh động. Với màu sắc rực rỡ và âm thanh vang dội, đó là âm
thanh chim kêu, gió thổi, rừng cây xào xạc, của sông, suối, trời đất. Bên cạnh
những âm thanh diệu kì trong thần thoại đó là gam màu sặc sỡ của cây hoa lá,
là ánh sáng lúc bình minh, khi chiều tà, lúc trăng xế, khi sao khuay. Sự thay
đổi của cảnh sắc thiên nhiên được thể hiện rất rõ qua tâm trạng nhân vật “Phục
Nghĩa thấy hoa nhiều linh cảm”. Thiên nhiên trong tác phẩm hiện lên với dáng
vẻ hoang vu, kì ảo, in đậm màu sắc bí hiểm của miền sơn cước.
86
3.4. Không gian thời gian nghệ thuật truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
3.4.1. Khái niệm không gian, thời gian nghệ thuật
Ngoài các yếu tố tạo nên hình thức nghệ thuật, trong văn bản tác phẩm cụ
thể bao giờ cũng có yếu tố không gian. Không gian chính là môi trường sống,
hay nói cách khác là môi trường hoạt động của nhân vật. Có không gian thì
nhân vật mới bộc lộ rõ hành động của mình, hành động của nhân vật cành
nhiều thì không gian càng lớn. Do đó, không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng
tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một phương diện
nhất định của cuộc sống.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học “không gian nghệ thuật là hình thức bên
trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”[25,tr160].
Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học GS.Trần Đình Sửu viết: “Không gian
trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật”. Ông còn khẳng định “không có
hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào
không có một nền cảnh nào đó, và không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo
của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất
định về cuộc sống, do đó không thể quy nó như là sự phản ánh giản đơn không
gian địa lý hay không gian vật lý, vật chất”[33.tr.88-89]. Chúng ta thấy rằng
không gian nghệ thuật là một hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, không
có hình tượng nghệ thuật nào có thể tồn tại ngoài không gian. Mỗi không gian
nghệ thuật đều có đặc trưng riêng, do phản ánh thế giới nghệ thuật mang tính
chủ quan của tác giả. Nghiên cứu tìm hiểu không gian nghệ thuật chính là việc
khám phá, phát hiện những quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người.
Cùng với không gian nghệ thuật thì thời gian nghệ thuật cũng là hình thức
tồn tại của tác phẩm. Thời gian nghệ thuật được hiểu là: “Là hình thức nội tại
của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó…Thời gian nghệ
thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các
hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ. Chia tay, mùa này,
87
mùa khác,… tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm. Như vậy, thời gian nghệ thuật
gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật”[25,tr.322]. Qua đó,
chúng ta thấy thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sỹ, là
hình tượng nghệ thuật, mang tính biểu tượng quan niệm của nhà văn về cuộc
sống và con người.
Tóm lại, không gian, thời gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức
nghệ thuật và là một phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Không gian
nghệ thuật, thời gian cho chúng ta thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm, các tầng
ngữ nghĩa ngôn từ, quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả trong
tác phẩm văn học.
3.4.2. Không gian nghệ thuật trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Bất kỳ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng có không gian để hình tượng
nghệ thuật tồn tại và bộc lộ mình. Và con người trong truyện thơ Mở trời dựng
đất cũng không tồn tại ngoài không gian. Đọc tác phẩm ta thấy nổi bật lên là
không gian vũ trụ với sự hiện thân của hình tượng “ông trời” và không gian xã
hội bản mường, làng quê, gia đình. Đồng thời ta còn thấy được một không gian
thiên nhiên tươi đẹp giàu sức sống của đồng bào Sán Dìu.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học được thể hiện ở thế giới
tinh thần mà người nghệ sĩ muốn biểu đạt, muốn phô diễn. Không gian nghệ
thuật là một sản phẩm của một quan niệm, cho nên nó là hình tượng không gian
có tính chủ quan, tượng trưng nó gắn với điểm nhìn, trường nhìn và tầm nhìn
của tác giả. Do đó, mỗi tác giả thể hiện cái nhìn riêng của mình về cuộc sống,
cuộc đời trong tác phẩm. Vì thế, mỗi tác phẩm mang nét sáng tạo, mởi mẻ, độc
đáo khác nhau tạo cho kho tàng văn học càng thêm phong phú và đồ sộ. Với
truyện thơ Mở trời dựng đất, không gian nghệ thuật đươc thể hiện qua cái nhìn
trực diện của tác giả dân gian. Và qua tầm nhìn, hành động, suy nghĩ của nhân
vật. Do đó, chúng ta thấy không gian trong tác phẩm hiện lên thật đa chiều.
88
Truyện thơ Mở trời dựng đất không gian vũ trụ - ông trời được tác giả
dân gian miêu tả khá nhiều. Ông trời không chỉ được vẽ lên như một thực thể
tự nhiên, khách quan của thế giới vũ trụ, mà hình tượng ấy còn được biểu hiện
như một đấng siêu nhiên, một thế lực vô cùng huyền bí có sức mạnh chi phối
mọi hoạt động của con người.
Trong phần đầu của tác phẩm không gian vũ trụ - ông trời được được tác
giả dân miêu tả với một không gian rộng lớn đa chiều:
…Trời đất chín vạn dặm
…Trời đất tối mông lung,
Vạn dặm sông hồ…
Người Sán Dìu chủ yếu nói về các hiện tượng thiên nhiên trên bầu trời và
không gian dưới mặt đất trải dài và rộng khắp. Hình tượng ông trời ẩn chứa
trong mình một sức mạnh vô hình, bí hiểm. Ông trời như nói với Phục Nghĩa
về một điều hệ trọng sắp xảy ra đó chính là nạn đại hồng thủy, một sự kiện về
hiện tượng tự nhiên khủng khiếp khiến muôn loài bị diệt vong:
Trời cử chim én bay cùng gà,
lấy miệng ngậm hoa và thả xuống,
Trước sự kiện khác thường như vậy, Phục Nghĩa đã có nhiều linh cảm
chẳng lành về tương lai phía trước. Sau đó, ông trời thể hiện sức mạnh và
quyền năng của mình: “đầy trời hồng thủy nóng như canh” cũng chính ông trời
là người đã cứu chị em Phục Nghĩa và gián tiếp tạo ra loài người.
Trong phần sau của tác phẩm là những lời khuyên của đồng bào dành cho
thế hệ sau. Ông trời được tác giả dân gian miêu tả là người nhìn thấu mọi sự
vật, hiện tượng, hoạt động của con người. Nếu làm những việc trái với đạo đức
lương tâm sẽ bị trừng phạt. Con cháu sống không có hiếu với cha mẹ:
Đời sau phải kính ba sông.
89
Anh em trong gia đình sống hòa thuận, yêu thương, giúp đỡ, che chở bảo
vệ lẫn nhau cuộc sống sẽ gặp nhiều may mắn và thuận lợi. Cũng giống như trời
đất mưa thuận gió hòa thì dưới đất vạn vật sẽ sinh sôi nảy nở:
Trên trời hợp thời mưa gió thuận,
Dưới đất hòa thời trăm cỏ mọc.
Không gian lúc này không còn là vũ trụ bao la nữa mà đã mở rộng theo
điểm nhìn của tác giả dân gian. Đó là dòng sông rộng mênh mông muôn vàn,
vạn dặm, với những trắc trở gập gềnh mà “đời sau” phải gánh chịu nếu đắc tội
với chữ hiếu. Hay vẫn là không gian vũ trụ - ông trời thế nhưng có lúc lại thơ
mộng như ánh hoàng hôn dưới chân núi, lại vừa chứ đựng những bài học nhân
sinh sâu sắc:
Mặt trời xuống núi có hoàng hôn
Người hiền xử thế biết ngừng thôi
Người ngu nói ra không định trước
Nói trước lường sau người quân tử
Có thể thấy, khi tiếp xúc với không gian vũ trụ trong Mở trời dựng đất,
chúng ta đã tiếp nhận được tư duy của Sán Dìu về quan niệm cuộc sống, tôn
giáo, tín ngưỡng. Qua việc khảo sát không gian vũ trụ trong tác phẩm, chúng ta
nhận thấy cái nhìn của tác giả trong truyện thơ Mở trời dựng đất về không gian
vũ trụ - ông trời là một đấng quyền năng siêu nhiên, bí hiểm luôn bám sát, điều
khiển, nhìn rõ mọi hoạt động của con người. Hình ảnh ấy như lý giải hiện
tượng tự nhiên và phản ánh đời sống xã hội, tư tưởng và tâm hồn của đồng bào
dân tộc miền núi. Chính những nét sáng tạo độc đáo về không gian nghệ thuật
đã tạo dấu ấn riêng cho văn học dân gian Sán Dìu trong dòng chảy văn học dân
gian Việt Nam.
Không gian thiên nhiên hòa quyện cùng không gian vũ trụ tạo nên những
ngọn núi cao, vực sâu. Nhưng dưới ngòi bút tài hoa của người Sán Dìu, hình
ảnh thiên nhiên đấy mang một vẻ đẹp độc đáo. Đó là tình yêu thiên nhiên, niềm
90
tự hào, đối với quê hương miền núi yêu dấu của đồng bào. Hình ảnh núi rừng
là khung cảnh thiên nhiên gần gũi, bình dị của làng bản đồng bào miền núi.
Mọi cảm xúc của tác giả đều in đậm dấu ấn bản sắc sắc văn hóa dân tộc mình.
Ẩn chứa đừng sau vẻ đẹp bình dị bức tranh làng quê đó là lời khuyên về “đối
nhân xử thế” trong đời sống hàng ngày của người Sán Dìu:
Ngô đồng lá rụng dễ ở lại
…
Trong già trúc rừng sinh măng non
Thế giới thiên nhiên miền núi hiện ra với muôn màu muôn vẻ, thiên nhiên
ấy không hoàn toàn hoang vu, huyền bí, càng không phải là “rừng thiêng nước
độc”, mà đó là thế giới của thiên nhiên tươi đẹp, bình dị nơi thôn quê, giàu chất
chữ tình. Dân tộc Sán Dìu đã lựa chọn những hình ảnh đặc trưng cho cuộc sống
đồng bào mình vào trong thơ văn. Vì thế, lời văn vừa giản dị, mộc mạc, chất
phát nhưng truyền tải nhiều thông điệp ý nghĩa đến thế hệ bạn đọc.
Không gian gia đình, làng bản là không gian sinh hoạt luôn gần gũi với
cuộc sống của con người. Các hình ảnh về không gian gia đình, làng bản, được
thể hiện trong tác phẩm rất phong phú và đa dạng. Những hình ảnh quen thuộc
trong đời sống sinh hoạt của người Sán Dìu đều đi vào tác phẩm và trở thành
không gian nghệ thuật. Gia đình là mái che chở cho con người, là nơi trú ngụ
cho tâm hồn yên tĩnh. Nó là trụ cột vững chãi nhất cho con người dựa vào mỗi
khi mệt mỏi. Vòng tay cha mẹ là cái nôi nuôi ta khôn lớn và trưởng thành. Quê
hương là nơi dù đi xa luôn khiến lòng ta nhớ về. Sau mỗi lời thơ đồng bào đều
gửi gắm vào đó những bài học nhân sinh cho mọi thế hệ. Đó là truyền thống
văn hóa của người Sán Dìu. Và thể hiện cách tổ chức nghệ thuật khác biệt với
thể loại truyện thơ của các dân tộc anh em:
Cửa nhà hiếu thuận thời chẳng lo
…
Trượng phu tiếp khách ngồi trên phản
91
Trong nhà vợ hiền lo cơm canh.
Từ không gian bầu trời, tới không gian bản làng, đến không gian gia đình
tất cả đều thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc của người Sán Dìu. Ngoài ra việc
xây dựng không gian nghệ thuật độc đáo tác giả dân gian đã vẽ nên một bức
tranh toàn cảnh về cuộc sống sinh hoạt, phong cảnh, con người của đồng bào
miền núi. Qua bức tranh cho chúng ta hiểu về phong tục tập quán, đời sống tâm
hồn của người Sán Dìu. Nhờ có không gian ấy mà khi đọc tác phẩm chúng ta
thấy những lời khuyên như đi vào cuộc sống hiện thực. Chính sự sáng tạo nghệ
thuật đó đã làm cho Mở trời dựng đất có sức sống mãnh liệt trong đời sống tinh
thần của dân tộc Sán Dìu, và sự trường tồn cùng thời gian. Đồng bào luôn coi
những lời khuyên răn dạy bảo trong Mở trời dựng đất như “Kinh sách dạy con”
mà mỗi thế hệ cần học tập, trau dồi để hoàn thiện bản thân.
3.4.3. Thời gian nghệ thuật trong truyện thơ “Mở trời dựng đất”.
Thời gian trong Mở trời dựng đất được hiện hình khá phong phú: có xưa
nay, có quá khứ, hiện tại, tương lai, có tháng năm. Sự hiện hình của thời gian
trong Mở trời dựng đất được bộc lộ ở nhiều hình thức: có khi là sự vận động
của vũ trụ, có khi là sự biến đổi của cảnh sắc thiên nhiên, hay cũng có khi là sự
biển đổi của suy nghĩ, tâm trạng nhân vật. Dù có biểu hiện dưới muôn hình
muôn vẻ nhưng thời gian trong tác phẩm vẫn luôn có xu hướng là truyền tải
đến mọi thế hệ những bài học nhân sinh ý nghĩa. Đó là quan niệm thời gian
trong Mở trời dựng đất.
Thời gian hiện thực trong tác phẩm được đo bằng tháng năm cụ thể.
Tháng năm ở đây không phải là thời để đôi lứa tỏ tình, hay bộc lộ cảm xúc của
một nhân vật trữ tình cụ thể về một sự kiện nào đó. Mà tháng năm ở đây dùng
để tác giả truyền tải đến con cháu kinh nghiệm cuộc sống, sinh hoạt, lao động
sản xuất. Nhất là đối với đồng bào Sán Dìu khi di cư sang nước Việt đã kế thừa
truyền thống văn hóa lúa nước. Bởi thế, trong những lời răn dạy người Sán Dìu
đã truyền lại cho con cháu nhiều bài học quý giá về lao động sản xuất. Ngày
92
xuân cây cối tươi tốt, vạn vật sinh sôi nảy nở, mọi người dân trên đất Việt đều
xuống đồng để tham gia lao động sản xuất. Điều đó, được thể hiện bằng những
lễ hội lớn khi xuống đồng như lễ hội Cày tịnh điền, lễ hội Lồng Tồng… đồng
bào cũng luôn nhắc nhở con cháu “đừng để xuân đến lười cày cấy”, “trời xuân
tiết đến sớm cày ruộng”. khi đến mùa vụ thu hoạch “lúa sớm đừng để quá hè”.
Qua thời gian người tiếp nhận như hiểu rõ hơn về nếp sống, nếp sinh hoạt của
đồng bào dân tộc miền núi.
Cũng giống như trong các truyện thơ Nôm khác, thời gian tâm lý được thể
hiện khá rõ trong tác phẩm thông qua lời kể của nhân vật trữ tình. Nếu như
trong ở trong Tiễn dặn người yêu của dân tộc Thái, thời gian tâm lý dùng để
bộc lộ cảm xúc tình yêu của cặp đôi nhân vật Anh yêu và Em yêu, đó là tình
yêu của tuổi trẻ, hạnh phúc lứa đôi, giây phút tình tự trong đời người trôi nhanh
vùn vụt:
Đôi ta gặp nhau nơi sàn hoa
Tâm tình bên bếp lửa
Chuyện nối chuyện qua mau
…
Ngón tay thon lá lành
Đôi mắt đẹp dài như lá trầu không
(Truyện thơ Tiễn dặn người yêu – dân tộc Thái)
Thì trong Mở trời dựng đất thời gian tâm lý dùng để bộc lộ cảm xúc của
nhân vật trữ tình. Tác giả dân gian bày tỏ thái độ phê phán trước lối sống lười
biếng của con cháu. Với bản tính mộc mạc, giản dị, chất phác họ đã trực tiếp
bộc lộ cách nghĩ, cách cảm, về những vấn đề cuộc sống thường ngày. Lối diễn
đạt mang đậm phong cách người miền núi, đã cho người đọc cảm nhận được
cuộc sống hàng ngày của quê hương, dân tộc mình :
Đừng nên học kẻ lười lao động
Kẻ lười không gạo bụng đói khổ
93
Vợ con muốn mặc không quần áo
Con cái muốn ăn không gì ăn
Vạn khoảnh thửa ruộng không cày cấy
Làm người uổng phí ở trần gian
Bên cạnh thời gian tâm lý, trong truyện thơ còn xuất hiện nhiều yếu tố của
thời gian huyền ảo siêu thực. Kiểu thời gian này được sử dụng nhiều trong thần
thoại, truyền thuyết. Thời gian huyền ảo là thời gian của quá khứ, hiện tại được
đan cài với nhau tạo nên tính chất hư ảo. Và theo đó, việc ảo hóa thời gian có
vai trò nới rộng biên độ thời gian trần thuật.
Trong truyện thơ Mở trời dựng đất loại thời gian này được tác giả sử dụng
với hai điểm nổi bật sau. Thứ nhất là đặc điểm thời gian không xác định, không
vận động. Truyền thuyết Con rồng cháu tiên, khi tác giả dân gian giới thiệu về
nhân vật Lạc Long Quân có viết “ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây
giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ,
tên là Lạc Long Quân…”[63]. Tác giả đã vận dụng kiểu thời gian huyền ảo khi
giới thiệu về nhân vật, sự pha trộn giữa quá khứ và hiện tại. Còn trong Mở trời
dựng đất, thời gian không xác định được thể hiện ở phần đầu tác phẩm, khi họ
miêu tả lại quá trình Vua Bàn Cổ khai thiên lập địa, tạo ra vũ trụ trời đất:
Thủa xưa Bàn Cổ phân trời đất
Đặt ra trời đất chín vạn dặm
Đương xưa trời đất chưa từng có
…
Đương xưa trời đất tối mông lung
“Thủa xưa, đương xưa”, đây là kiểu thời gian không xác định, không vận
động, vì tác giả không nói cụ thể ngày tháng năm, họ chỉ viết chung về quá khứ
sự ra đời của dân tộc mình. Việc sử dụng kiểu thời gian huyền ảo này cho
chúng ta thấy, người Sán Dìu như ngầm định rằng chính Vua Bàn Cổ mới là
“Thủy tổ” của trời đất, vũ trụ, con người. Có thể thấy, mặc dù tác phẩm là
94
truyện thơ nhưng lại mang màu sắc nghệ thuật thần thoại, điều đó thể hiện nét
đặc sắc, sáng tạo trong việc xây dựng nghệ thuật truyện thơ dân tộc Sán Dìu.
Thứ hai là kiểu thời gian gắn với hiện tượng kì ảo mang tầm vóc phi
thường. Tiêu biểu ở các nhân vật như Vua Bàn Cổ, Phục Hy, Phục Nghĩa, Nữ
Oa… Như trong nhân vật Vua Bàn Cổ, Nữ Oa, Phục Nghĩa, kiểu thời gian này
được tác giả miêu tả họ có sức mạnh, tài năng phi thường, tạo ra trời đất và con
người. Đó là “Đôi mắt của Bàn Cổ đã thành Mặt trời và Mặt trăng. Hàng vạn
sợi tóc của Bàn Cổ đã thành vô số các vì sao. Lông tay, lông chân đã trở thành
thảo nguyên. Thịt của Bàn Cổ đã trở thành đồi núi cao thấp, máu của Bàn Cổ
đã trở thành giang hồ, đại dương, răng của Bàn Cổ đã trở thành san hô, xương
của Bàn Cổ đã trở thành rừng cây, hơi thở sau cùng của Bàn Cổ đã trở thành
gió. Bàn Cổ qua đời nhưng Bàn Cổ đã để lại thế giới tự nhiên cho con người”
[58], và cuối cùng là sự ra đời của con người:
Tạo ra lớp người có mắt thẳng
Sự này thế gian truyền muôn đời
Lưu truyền đời sau biết tiền nhân
Như vậy, việc sử dụng thời gian huyền ảo siêu thực trong tác phẩm đã cho
thấy sự sáng tạo mới mẻ của thể loại truyện thơ Sán Dìu. Không gian, thời gian
là yếu tố không thể thiếu trong tác phẩm văn học. Các nhân vật không thể tồn
tại ngoài không gian thời gian. Mối quan hệ giữa con người với không gian thời
gian là một mối quan hệ gắn bó, mật thiết. Không gian làm nổi bật con người,
thấu hiểu được đời sống, tâm tư tình cảm của người Sán Dìu. Thời gian trong
Mở trời dựng đất, không chỉ là thời gian hiện thực, mà nó còn thể hiện tầm
nhìn, quan niệm của nhân vật.
Qua việc tìm hiểu không gian, thời gian nghệ thuật trong tác phẩm chúng
ta thấy được nét đẹp trong văn hóa, văn học dân tộc Sán Dìu, khẳng định giá trị
của truyện thơ Mở trời dựng đất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
95
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong chương ba của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu về
phương diện nghệ thuật truyện thơ, đặc điểm nghệ thuật xây xựng nhân vật,
ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu, không gian, thời gian trong truyện thơ Mở trời
dựng đất dưới góc nhìn văn hóa.
Yếu tố không thể thiếu để khẳng định giá trị tác phẩm là nghệ thuật xây
dựng nhân vật. Khi tiếp cận văn hóa trong văn học, điều không thể bỏ qua đó là
lấy con người làm trung tâm. Mỗi nhân vật được khắc họa rõ nét qua lời ăn
tiếng nói, suy nghĩ cử chỉ, hành động. Từ đó nhấn mạnh, xoáy sâu vào quan
niệm triết lý nhân sinh của người Sán Dìu trong tác phẩm. Thông qua lời ăn,
tiếng nói, suy nghĩ, hành động của nhân vật đồng bào đã khái quát giá trị về
văn hóa, văn học của dân tộc Sán Dìu.
Về kết cấu, truyện thơ Mở trời dựng đất có sự sáng tạo ở kiểu kết cấu
“truyện lồng truyện”, tăng chất tự sự cho cốt truyện, xu hướng trữ tình hóa tác
phẩm... Với kiểu kết cấu này tác giả dân gian đã giúp cho người đọc, người
nghe hình dung ra nội dung, sự kiện, nhân vật sẽ được kể ở trong truyện. Bên
cạnh đó tác giả đã đưa ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày vào tác phẩm, và
nhào nặn những lời dạy bảo thô cứng trở thành thơ mang đậm dấu ấn văn hóa
Sán Dìu. Tiếp đến là sự kết hợp giữa giọng điệu và không gian, thời gian trong
tác phẩm. Sự kết hợp này cho chúng ta thấy truyện thơ Sán Dìu vừa độc đáo
vừa gần gũi với bạn đọc các thế hệ và thuộc các dân tộc khác nhau. Từ việc
nghiên cứu giá trị nghệ thuật của thiên truyện, chúng ta có thêm sự hiểu biết về
văn hóa Sán Dìu được gửi gắm qua các sáng tác nghệ thuật. Từ đó, góp
thêm tiếng nói tự hào về truyền thống, mạch nguồn văn hóa của các dân tộc
thiểu số Việt Nam.
96
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập quốc
tế là một việc làm cần thiết nhằm bảo tồn và phát huy sự đa dạng văn hóa góp
phần phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam. Nghiên
cứu và giới thiệu các tác phẩm cụ thể như truyện thơ Mở trời dựng đất có ý
nghĩa không nhỏ, qua đó thể hiện ý thức tộc người và trách nhiệm của mỗi
người Sán Dìu nói riêng, người Việt Nam nói chung trong việc gìn giữ bản sắc
văn hóa truyền thống trong thời kỳ đất nước hội nhập và phát triển.
2. Có thể khẳng định rằng, nghiên cứu truyện thơ Mở trời dựng đất là
một vấn đề phức tạp, khó khăn khi chúng ta nghiên cứu nó chủ yếu dựa vào các
văn bản tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt. Để tìm hiểu sâu kỹ được tác phẩm
và các truyện thơ dân gian Sán Dìu, mỗi chúng ta cần phải trang bị kiến thức
nhất định về văn hóa tộc người và văn hóa của tộc người Sán Dìu. Đó là việc
cần phải biết khai thác triệt để những giá trị xuất sắc nhất trên văn bản dịch có
đối chiếu với nguyên bản trong những trường hợp cụ thể và cần thiết.
3. Về nội dung, truyện thơ Mở trời dựng đất đã góp phần lưu giữ nhiều
giá trị văn hóa quý báu của người Sán Dìu như: lưu giữ giá trị văn hóa tinh
thần, truyền thống tương thân, tương ái... hay quan niệm về bài học triết lý
nhân sinh đã được người Sán Dìu đúc kết qua hàng trăm năm sinh sống trên
nước Việt. Lời thơ dạy bảo mộc mạc, chân tình những giá trị này rất nên và rất
cần được trao truyền cho thế hệ sau để mỗi người Sán Dìu nói riêng, mỗi người
con đất Việt nói chung hiểu hơn và biết tiếp thu, kế thừa những truyền thống
quý báu đó.
4. Về nghệ thuật, truyện thơ Mở trời dựng đất bên cạnh việc kế thừa các
đặc điểm cơ bản của kho tàng truyện cổ dân gian Trung Hoa còn có những
điểm mới như: kết cấu với sự sáng tạo kết cấu “truyện lồng truyện”, sự kết
hợp hài hòa, khéo léo giữa “sự” và “tình”; đặc biệt việc sử dụng hệ thống từ
ngữ mang đậm bản sắc Sán Dìu, sử dụng các điển tích, điển cố trong ngụ ý mỗi
97
câu chuyện, từ đó đã tạo nên sức cuốn hút nhất định đối với độc giả, đặc biệt là
độc giả người Sán Dìu có lòng tự hào về văn hóa truyền thống dân tộc. Thêm
vào đó tác giả dân gian còn vận dụng một cách khéo léo, hài hòa các biện pháp
tu từ quen thuộc như ẩn dụ, so sánh, phép điệp... và một số biện pháp tu từ khác
tạo hiệu quả nghệ thuật cao để truyền tải những nội dung quý giá trong truyện
thơ. Về phương diện giọng điệu, tác phẩm mang giọng điệu trữ tình đạo đức và
giọng điệu dân dã, gần gũi mang đậm bản sắc văn hóa Sán Dìu. Giọng điệu
xuất phát từ chính tâm tư, tình cảm của đồng bào khi viết về cội nguồn, quê
hương, đất nước và con người dân tộc mình.
5. Qua việc nghiên cứu đề tài “Truyện thơ Mở trời dựng đất dưới góc nhìn
văn hóa”, chúng tôi mong muốn tác phẩm sẽ được vận dụng đưa vào giảng dạy
trong phần văn học địa phương ở trường phổ thông tỉnh Thái Nguyên. Qua đây,
Chúng tôi hy vọng, kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ tạo cơ sở cần thiết cho
những đánh giá tiếp theo về truyện thơ Mở trời dựng đất nói riêng và văn học
dân gian Sán Dìu nói chung. Đây sẽ là cầu nối để tác phẩm thực sự đến gần hơn
với những người say mê và trân trọng văn học cổ, trân trọng những giá trị
truyền thống rất đỗi tự hào của cha ông, nhất là trong hoàn cảnh đất nước đang
hội nhập ngày một sâu rộng như hiện nay.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin.
2. Triều Ân (chủ biên) (1994), Truyện thơ Nôm Tày, Tập 1, Nxb Văn hóa dân
3. tộc.
4. Triều Ân (chủ biên) (1994), Ca dao Tày - Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc.
5. Triều Ân (chủ biên) (1995), Truyện thơ Nôm Tày, Tập 2, giải ba công trình
nghiên cứu năm 1995 của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
6. Triều Ân (chủ biên) (2003), Chữ Nôm Tày và truyện thơ, Nxb Văn học.
7. Triều Ân (2004), Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại, Nxb Văn học.
8. Hoàng Triều Ân (2008), Văn học Hán Nôm dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân
tộc.
9. Triều Ân (2011), Ba truyện thơ Nôm Tày từ truyện Nôm khuyết danh
Việt Nam, Nxb VHTT.
10. Nông Quốc Chấn (chủ biên) (1964), Truyện thơ Tày - Nùng, Tập 1,
Nxb Văn học.
11. Nông Quốc Chấn (chủ biên) (1964), Truyện thơ Tày - Nùng, Tập 2, Nxb
Văn học.
12. Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Mạc Phi, Hoàng Thao, Hà Văn
Thư (1975), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam - Văn học dân tộc thiểu số,
Nxb Văn hóa Viện văn học.
13. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
14. Diệp Trung Bình (2011), Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người của người
Sán Dìu ở Việt Nam , Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
15. Nguyễn Xuân Chiến (2012), Tổ chức xã hội và văn hóa của người Sán Dìu
ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (1945- 2010),ĐHSPTN
16. Lê Nguyên Cẩn (2013), Tiếp cận văn hóa học từ góc nhìn văn hóa, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
17. Lê Quý Đôn (1977), Kiến Văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
99
18. Hà Minh Đức (chủ biên), Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Phạm Thành
Hưng, Nguyễn Văn Nam, Đoàn Đức Phương, Trần Khánh Thành, Lý Hoài
Thu (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Ngô Văn Trụ, Nguyễn Xuân Cần (2012), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc
Giang,Nxb Thời đại, Hà Nội.
21. Hoàng Thị Liên Gấm(2012), Văn hóa tinh thần của người Sán Dìu ở huyện
Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên (1945- 2010), ĐHSPTN.
22. Chu Thị Hường (2012), Bản sắc văn hóa của người Sán Dìu ở tỉnh Thái
Nguyên, ĐHSPTN.
23. Lâm Quang Hùng (2011), Dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc,Nxb. Khoa học
và Công nghệ, Hà Nội.
24. Kiều Mỹ Hạnh (2007), Tôn giáo, tín ngưỡng của người Sán Dìu ở huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, ĐHSPTN.
25. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (2011), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
26. M.B.Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, Nxb Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), Hà Nội.
27. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người, Nxb ĐH và
THCN.`
28. Lê Trường Phát (1997), Về mô hình cốt truyện của truyện thơ các dân
tộc thiểu số, Tạp chí Văn học (số 7).
29. Lý Thị Phương (2014),Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sán
Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện nay, ĐHQGHN.
30. Nguyễn Thị Mai Phương (2011), ,Khảo sát loại hình hát sọng cô của dân
tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang, ĐHSPTN
31. Hoàng Phê (1995), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và TT Từ điển học,
Đà Nẵng.
32. Mạc Phi sưu tầm và biên soạn (1984), Xống chụ xon xao in lần thứ 2, Nhà
xuất bản Văn hóa, Hà Nội.
100
33. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb giáo dục.
34. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GD & ĐT,
Vụ giáo viên.
35. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và
thi pháp thể loại, Nxb Đại học Quốc gia.
36. Trần Thị Thanh Tâm (2016), Văn học dân gian dân tộc Sán Dìu ở Thái
Nguyên, ĐHKHTN.
37. Ôn Thái Trần (2001), Mở trời dựng đất (Hoi then dip thi), Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
38. Hồ Sĩ Vịnh (1998), Văn hóa văn học một hướng tiếp cận, Nxb văn học,
văn hóa, Hà Nội.
39. Trần Quốc Vượng (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt , Nxb Đà Nẵng và TT Từ
điển học, Việt Nam.
Website
41. Theo ĐĐK (20/4/2011), “Nhà văn Ôn Thái Trần: Tôi hòa mình vào dân tộc
và dân tộc đã đi vào thơ tôi”, nguồn: http://toquoc.vn/nha-van-on-thai-tran-
toi-hoa-minh-vao-dan-toc-va-dan-toc-da-di-vao-tho-toi-99219809.htm
(ngày truy cập 28/4/2019).
42. Huỳnh Đăng (10/8/2014) , “Ca dao, dân ca dân tộc Sán Dìu ở Quảng Ninh:
Khoảng trống chưa được khai thác”, nguồn:
http://baoquangninh.com.vn/van-hoa/201408/ca-dao-dan-ca-dan-toc-san-
diu-o-quang-ninh-khoang-trong-chua-duoc-khai-thac-2238115/ (ngày truy
cập 28/04/2019).
43. Thùy Linh (9/8/2016), “Người Sán Dìu tham gia nghiên cứu bảo tồn và
phát huy văn hóa dân tộc”, Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam, nguồn:
http://vanhien.vn/news/nguoi-san-diu-tham-gia-nghien-cuu-bao-ton-va-
phat-huy-van-hoa-dan-toc-46514 (ngày truy cập 28/04/2019).
44. Đặng Thị Kim Dung - Dương Thùy Linh (21/2/2018), “Du lịch cộng đồng
trong phát triển sinh kế người Sán Dìu ở Thái Nguyên”, Tạp chí điện tử
101
Văn hóa nghệ thuật, nguồn: http://vhnt.org.vn/tin-tuc/van-hoa-du-
lich/30735/du-lich-cong-dong-trong-phat-trien-sinh-ke-nguoi-san-diu-o-
thai-nguyen (ngày truy cập 28/04/2019).
45. Từ điển bách khoa Toàn thư, “Văn hóa”,
nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a (ngày truy
cập 28/04/2019).
46. Nguyễn Thị Thúy Vy (2/4/2014), “Khái luận về văn hóa GS. TSKH Trần
Ngọc Thêm”, nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-
hoa-hoc/llvhh-nhung-van-de-chung/2569-tran-ngoc-them-khai-luan-ve-
van-hoa.html (ngày truy cập 03/05/2019).
47. Admin Hội yêu thích văn học (23/3/2013), “Văn học là gì?”,
nguồn: https://www.facebook.com/notes/h%E1%BB%99i-y%C3%AAu-
th%C3%ADch-v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc/v%C4%83n-ho%CC%A3c-
la%CC%80-gi%CC%80/500046153386187/
(ngày 28/04/2019).
48. TT VHH (20/6/2011), “Văn học và văn hóa truyền thống PSG. TSKH
Huỳnh Như Phương Trường ĐHKHXH & NV- TPHCM”,
nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-
nhung-van-de-chung/2022-huynh-nhu-phuong-van-hoc-va-van-hoa-truyen-
thong.html (ngày truy cập 28/04/2019).
49. Phong Lê - Phan Thắng (19/5/2015), “GS Phong Lê: Với người trí thức
điều cần nhất là tự do tư tưởng, tự do sáng tạo ý tưởng”, nguồn:
http://lienhiephoikhkt.hatinh.gov.vn/vi/news/Van-hoa-van-nghe/GS-Phong-
Le-Voi-nguoi-tri-thuc-dieu-can-nhat-la-tu-do-tu-tuong-la-tu-do-trong-sang-
tao-cac-y-tuong-1080/ (ngày truy cập 28/04/2019).
50. Bách khoa toàn thư mở, “Người Sán Dìu”, nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_S%C3%A1n_D
%C3%ACu (ngày truy cập 20/4/2019).
51. Hà Thảo (14/12/2016), “Người Sán Dìu sáng tạo chữ viết cho mình”,
nguồn: http://vov4.vov.vn/TV/chuyen-muc/nguoi-san-diu-sang-tao-chu-
viet-cho-minh-c1257-116764.aspx (ngày truy cập 20/4/2019).
102
52. Theo Bách khoa toàn thư mở, “Giáo dục”, nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c (ngày truy
cập 15/4/2019).
53. HV, LT ( 19/12/2016), “ Giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên
trong tỉnh Hưng Yên thời kì đổi mới”, nguồn:
http://tuyengiaohungyen.vn/bai-viet/giao-duc-dao-duc-loi-song-cho-hoc-
sinh-sinh-vien-tinh-hung-yen-trong-thoi-ky-moi.aspx (ngày truy cập
15/4/2019).
54. Admin Pháp Thí Hội, “Đông Nhạc đại đế”, nguồn:
https://phapthihoi.org/blog/tu-dien-phat-giao/dong-nhac-dai-de/ (ngày truy
cập 28/4/2019).
55. TT VHH ( 29/4/2019), “Văn hóa là hệ thống các biểu tượng thông tin xã
hội”, nguồn: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-
hoc/llvhh-nhung-van-de-chung/1188-nguyen-van-hau-van-hoa-la-he-thong-
cac-bieu-tuong-thong-tin-xa-hoi.html (ngày truy caapj28/4/2019).
56. Bách khoa toàn thư mở, “Phong tục”, nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_t%E1%BB%A5c (ngày truy cập
3/5/2019).
57. Hoàng Nhật (21/6/2018), “Phong tục tập quán là gì?”, nguồn :
https://cphaco.vn/tin-tuc/phong-tuc-tap-quan-la-gi/ (ngày truy cập
3/5/2019).
58. Xuy Vuu (2/4/2008), ‘‘Truyền thuyết & Thần thoại các vị tiên”, nguồn:
http://4vn.eu/forum/showthread.php?2463-Truyen-thuyet-than-thoai-cac-vi-
tien (ngày truy cập 28/4/2019).
59. Dương Đình Giao (16/5/2017), “Phục Hy và Nữ Oa hai anh em thông
hôn?’’, nguồn: https://onggiaolang.com/21-phuc-hy-va-nu-oa-la-anh-em-
thong-hon/ (ngày truy cập 3/5/2019).
60. TS. Nguyễn Thị Việt Hằng (18/10/2018), “Nghệ thuật sử dụng điển cố
trong văn học Phật giáo Việt Nam thế kỉ XVII - XIX”, nguồn:
http://www.hpu2.edu.vn/vi/khoa-ngu-van/nghien-cuu-khoa-hoc/nghe-thuat-
103
su-dung-dien-co-trong-van-hoc-phat-giao-viet-nam-the-ki-xvii-xix-
143.html (ngày truy cập 28/4/2019).
61. Bách khoa toàn thư mở, “Sự tích con Thạch Sùng”, nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_t%C3%ADch_con_th%E1%
BA%A1ch_s%C3%B9ng (ngày truy cập 28/4/2019).
62. Đỗ Ngọc Yên (4/11/2016), “Người giữ hồn dân tộc Tày”, nguồn:
http://tonvinhvanhoadoc.vn/nguoi-giu-hon-van-hoa-tay.html/ (ngày truy
cập 3/5/2019).
63. Vàng Anh (2/8/2018), “Con rồng cháu tiên”, nguồn:
https://baiviet.com/giai-cau-sgkbt/doc-truyen-con-rong-chau-tien-va-tra-loi-
cac-cau-hoi-sau-day/ (3/5/2019).
104