intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Sự đổi mới cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê của Phan Tứ

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:140

53
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Sự đổi mới cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê của Phan Tứ bao gồm những nội dung về nhà văn Phan Tứ và hoàn cảnh sáng tác tiểu thuyết Người cùng quê; sự đổi mới cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê từ phương diện nội dung và nghệ thuật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Sự đổi mới cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê của Phan Tứ

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Minh Phượng SỰ ĐỔI MỚI CÁCH NHÌN VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỜI CÙNG QUÊ CỦA PHAN TỨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN KHA Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn, biết ơn chân thành đến: TS. Nguyễn Văn Kha, Thầy đã tận tình định hướng, dẫn dắt, giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô phòng Sau đại học, khoa Ngữ Văn trường ĐH Sư phạm Tp. HCM và các thầy cô giảng viên đã tạo điều kiện và giảng dạy tôi trong suốt khóa học. Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình của cố nhà văn Phan Tứ đã tạo điều kiện và cung cấp cho tôi nhiều tư liệu quý giá về cuộc đời của nhà văn. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tổ bộ môn Ngữ Văn trường THPT Long Thới – Tp.HCM, cùng đồng nghiệp và bạn bè học viên lớp Cao học Văn học Việt Nam khóa 21 đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học. Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới gia đình, những người luôn động viên, cổ vũ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành khóa học này. Học viên Nguyễn Thị Minh Phượng
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Kha. Những kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng được công bố trong công trình nghiên cứu nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Học viên Nguyễn Thị Minh Phượng
  4. MỤC LỤC DẪN NHẬP ................................................................................................................1 1. Lý do, mục đích nghiên cứu của đề tài ...............................................................1 2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................3 3. Giới hạn, phạm vi đề tài ......................................................................................7 4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................8 5. Đóng góp mới của luận văn ................................................................................9 6.Cấu trúc của luận văn ...........................................................................................9 Chương 1 NHÀ VĂN PHAN TỨ VÀ HOÀN CẢNH SÁNG TÁC TIỂU THUYẾT NGƯỜI CÙNG QUÊ.............................................................................11 1.1. Cuộc đời nhà văn Phan Tứ .............................................................................11 1.2. Sự nghiệp văn chương ....................................................................................16 1.2.1. Quá trình sáng tác....................................................................................16 1.2.2. Các tác phẩm đã xuất bản: ......................................................................23 1.2.3. Những trăn trở của Phan Tứ về vấn đề con người trong sáng tác văn học ...........................................................................................................................24 1.3. Hoàn cảnh sáng tác tiểu thuyết Người cùng quê ............................................32 1.3.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam sau 1975 ...........................................32 1.3.2. Sự vận động đổi mới văn học sau 1975 qua một số tác phẩm tiêu biểu (trong phạm vi tiểu thuyết) ................................................................................34 Chương 2 SỰ ĐỔI MỚI CÁCH NHÌN VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỜI CÙNG QUÊ TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ..................41 2.1. Con người cá nhân .........................................................................................41 2.2. Con người trong mối quan hệ đan xen, phức tạp ..........................................53 2.3. Con người khát khao tận hưởng tình yêu và hạnh phúc ...............................57
  5. Chương 3 SỰ ĐỔI MỚI CÁCH NHÌN VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỜI CÙNG QUÊ TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ............67 3.1.Sự dịch chuyển không – thời gian gắn với hành trình đời tư nhân vật ...........67 3.1.1. Nhà văn đặt nhân vật trong nhiều loại không gian khác nhau, theo sự vận động của nhân vật..............................................................................................67 3.1.2. Thời gian không theo logic tuyến tính, có thể đảo chiều một cách tự do ...........................................................................................................................77 3.2. Kết cấu đa tuyến .............................................................................................84 3.2.1.Tuyến nhân vật và tuyến sự kiện đan chéo vào nhau...............................84 3.2.2. Sự kiện lịch sử, xã hội chi phối đời sống, số phận nhân vật ...................90 3.3. Cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật ........................................................................95 3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại..................................................................................95 3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại ...............................................................................102 KẾT LUẬN ............................................................................................................107 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................111 MỤC LỤC .............................................................................................................. 122
  6. 1 DẪN NHẬP 1. Lý do, mục đích nghiên cứu của đề tài Từ sau cách mạng tháng Tám đến 1975, dân tộc Việt Nam tiến hành hai cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước. Văn học trong giai đoạn này phản ánh bức tranh hiện thực “một cách chân thực và hùng hồn” nhằm mục đích cổ vũ, động viên khí thế đấu tranh của dân tộc. Đội ngũ nhà văn không chỉ cầm bút mà còn cầm súng với chủ trương sáng tác: “người viết không được tuyên truyền một chủ nghĩa lạc quan rẻ giá, nhưng người nào cũng phải có trách nhiệm không được làm nản chí tất cả những ai đang trên đường ra trận, đang giáp mặt với kẻ thù” [51, tr.102]. Hiện thực cách mạng, hiện thực cuộc sống được giới văn nghệ sĩ phản ánh qua thể loại tiểu thuyết đặc biệt là tiểu thuyết sử thi đã gặt hái thành công lớn, bởi nó là “thể loại văn chương duy nhất luôn biến đổi, do đó nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy bén trước sự chuyển biến của hiện thực” [2, tr.27]. Trong giai đoạn văn học này, độc giả biết đến tên tuổi của các nhà văn như: Hữu Mai, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Phan Tứ, Nguyên Ngọc, Anh Đức,… Họ đã xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm của tác phẩm là người anh hùng cách mạng, quần chúng cách mạng với vẻ đẹp hào hùng, tràn đầy lí tưởng. Sau đại thắng mùa xuân 1975, dân tộc Việt Nam bước vào cuộc sống mới với nhiều biến động trên các phương diện của đời sống. Văn học nghệ thuật cần có bước tìm tòi, sáng tạo mới đáp ứng yêu cầu của thời đại. Cái mới ở đây thể hiện ở việc khai thác, nhìn nhận những vấn đề của đời sống đặt ra từ hiện thực. Vẫn là sự tiếp nối đề tài truyền thống về chiến tranh, nhưng sau 1975, nhà văn có cách nhìn về hiện thực chiến tranh, trong đó trọng tâm là vấn đề con người có nhiều tìm tòi, đổi mới. Sự đổi mới quan niệm về con người diễn
  7. 2 ra mạnh mẽ ở mảng truyện đặc biệt là thể loại tiểu thuyết. Góp phần thay đổi diện mạo của văn học sau năm 1975 là những sáng tác của nhà văn viết về con người trong quá trình lao động, sản xuất và con người thế sự, đời tư như: Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Triệu Xuân, …; con người trong cái nhìn phong tục – lịch sử: Tô Hoài, Ma Văn Kháng,…và một loạt nhà văn với những tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh như: Hữu Mai, Nguyễn Trọng Oánh, Nam Hà, Phan Tứ, Nguyễn Quang Sáng,… Tìm hiểu sự đổi mới về cách nhìn con người trong văn học sau năm 1975, luận văn của chúng tôi tập trung khảo sát bộ tiểu thuyết sử thi Người cùng quê của Phan Tứ với mục đích sau đây: 1. Phan Tứ đã đóng góp không nhỏ tạo nên thành tựu chung của nền văn học cách mạng Việt Nam. Bước vào nghề văn, Phan Tứ thử ngòi bút trên nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, hồi ký và đạt được thành công nhất định ở mỗi thể loại. Gặt hái được nhiều thành công nhất phải kể đến tiểu thuyết của nhà văn. Ông là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, vừa viết văn vừa trực tiếp cầm súng đánh giặc nên ông có vốn sống phong phú về hiện thực xã hội, về con người trong chiến tranh. Hiện thực con người trong tác phẩm của Phan Tứ là con người miền Trung – quê hương của nhà văn. Vấn đề “ số phận con người” trước năm 1975 được nhà văn quan tâm và xây dựng thành công gắn liền với số phận dân tộc. Ông còn đi sâu lí giải và biểu dương sự biến chuyển tư tưởng của người nông dân bình thường qua hoàn cảnh thử thách đã trở thành người anh hùng cách mạng. Phan Tứ cũng như nhiều nhà văn khác trước 1975 đã góp phần làm phong phú kho tàng văn học cách mạng bằng việc xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật mang tầm vóc sử thi đẹp đẽ, lôi cuốn công chúng văn học một thời. Sau năm 1975, sáng tác của Phan Tứ càng chứng tỏ ông là nhà văn
  8. 3 đi hết cuộc đời với niềm đam mê văn chương, lao động nghệ thuật bền bỉ, giàu sức sáng tạo. 2. Sau 1975, trong xu thế vận động đổi mới của nền văn học, tư duy sử thi đang có sự chuyển dịch sang tư duy tiểu thuyết, các nhà văn đều nhận thức được sự đổi mới quan niệm nghệ thuật, trong đó cốt lõi là quan niệm nghệ thuật về con người là hợp với xu thế khách quan. Phan Tứ là một trong số các nhà văn nhạy bén trước yêu cầu đổi mới văn học. Là nhà văn trực tiếp sống và sáng tác gắn bó với hai cuộc kháng chiến, với tham vọng kế tiếp truyền thống của khuynh hướng văn học mang tính chất sử thi với yêu cầu cách tân, đổi mới xuất phát từ hiện thực đời sống rộng lớn và phức tạp của đất nước sau 1975, Phan Tứ ôm ấp, nghiền ngẫm và cho ra đời bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ Người cùng quê. Tác phẩm ra đời trước khi cả một nền văn học bước vào thời kỳ đổi mới thật sự và sâu rộng từ năm 1986. Có thể coi Người cùng quê như một trong những sáng tác có ý nghĩa “dò đường” góp phần cho sự đổi mới mạnh mẽ về sau. Vì vậy, việc nghiên cứu đổi mới cách nhìn con người trong bộ tiểu thuyết này sẽ giúp chúng ta thấy được quan điểm thẩm mĩ của nhà văn Phan Tứ trong dòng vận động đổi mới của văn học dân tộc. Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài: “Sự đổi mới cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê của Phan Tứ” để tìm hiểu và nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề Phan Tứ đã gặt hái được nhiều thành công lớn trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Trước 1975, tên tuổi của nhà văn gắn liền với tiểu thuyết sử thi gây tiếng vang lớn trong dư luận. Khác với nhiều nhà văn cùng thời, Phan Tứ không “tô hồng” hiện thực chiến tranh. Trong sáng tác của nhà văn, hiện thực cuộc sống con người Việt Nam luôn sống động, chân thực. Bàn về vấn đề con người trong sáng tác của Phan Tứ đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu:
  9. 4 2.1. Những công trình, bài viết liên quan đến vấn đề con người trong sáng tác của nhà văn Phan Tứ trước 1975 Trong bài viết của Trần Đăng Suyền (1983) nhan đề: Phan Tứ với những tiểu thuyết viết về chiến tranh (Văn nghệ Quân đội, số 9), tác giả cho rằng: “Phan Tứ không tìm đến những điển hình nguyên mẫu anh hùng có sẵn ngoài đời mà chú ý nhiều hơn tới những con người bình thường trong cuộc sống” [92, tr.988], nhà văn chú ý “quá trình vươn tới chủ nghĩa anh hùng cách mạng của những con người bình thường và cả những người lạc hậu nữa” [92, tr.987]. Tác giả bài viết cũng nhận thấy hướng khai thác trong tiểu thuyết của Phan Tứ là toàn bộ đời sống xã hội, đạo đức, tâm lý, tính cách của con người chịu ảnh hưởng nhiều bởi chiến tranh. Chiến tranh chính là môi trường để sàng lọc, phân hóa con người trong sáng tác của Phan Tứ. Bên cạnh đó, Phan Tứ không chỉ miêu tả mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp đối kháng mà còn chú ý tới thế giới bên trong của từng cá nhân, sự “giằng xé trong mỗi con người”. Đánh giá về nhân vật trong tác phẩm của Phan Tứ, tác giả Hoàng Mạnh Hùng (2004) trong Tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945- 1975 (Luận án Tiến sĩ, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội), nhận định rằng: những sáng tác của Phan Tứ như Gia đình má Bảy, Mẫn và Tôi đã quan tâm đến số phận con người và “là con người mang vẻ đẹp văn hóa, đã tiến gần tới những nhân cách trong văn học” [43, tr.60]. Phạm Ngọc Hiền (2007) trong Thi pháp tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945- 1975 (Luận án Tiến sĩ, Đại học KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội), khi trình bày quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác văn học trước 1975, trong đó có tác phẩm của Phan Tứ, tác giả phân loại quan niệm về con người gồm: con người đa diện và con người anh hùng. Tác giả nhấn mạnh: “Phan Tứ quan niệm về con người không đơn giản, phiến diện như hàng loạt nhà văn cùng thời” [37, tr.132]. Tức là con người vừa có mặt tốt vừa có mặt xấu. Tào Thị Hải (2006) trong công trình Yếu tố sử thi
  10. 5 trong sáng tác của Phan Tứ (Luận văn tốt nghiệp, ĐH Vinh), chỉ ra nhân vật của Phan Tứ “thường có lai lịch, có quá trình và phát triển trong sự tác động, chi phối nhiều chiều của hoàn cảnh và những mối quan hệ đa dạng, đa chiều, nhiều khi phức tạp” [28, tr.33]. 2.2. Những công trình, bài viết liên quan đến vấn đề con người trong tiểu thuyết Người cùng quê của Phan Tứ Với Phan Tứ, con người luôn là đối tượng trung tâm của sự phản ánh thông qua các sự kiện lịch sử, đời sống xã hội. Điều đó được nhà văn gửi gắm nhiều vào bộ tiểu thuyết sử thi trường thiên Người cùng quê của đời mình. Tác phẩm ra đời vào những ngày tháng cuối đời của nhà văn, trong thời kỳ đất nước hòa bình nên điểm nhìn về con người của nhà văn có sự thay đổi. Nhà nghiên cứu Đoàn Xoa (1985) trong Hội thảo về bộ tiểu thuyết “Người cùng quê” của nhà văn Phan Tứ (đăng trên báo Quảng Nam – Đà Nẵng), nhận xét rằng, trong Người cùng quê: “các nhân vật có cùng một quê hương, mất nước và đói nghèo do bị áp bức bóc lột dã man, họ có những tâm trạng khác nhau và cùng đi làm cách mạng. Họ đã đạt được mục đích trên con đường đi là giải phóng cuộc đời họ khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến”. Theo tác giả, độc giả ở Quảng Nam – Đà Nẵng đã thấy được Người cùng quê phản ánh hiện thực không khí cách mạng sục sôi thời kỳ tiền khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám ở miền Trung lúc ấy cùng với những con người chung một lí tưởng cách mạng. Họ đã trở thành những người làm chủ lịch sử, làm chủ số phận của mình. Lê Thị Đức Hạnh trong Lê Khâm – Phan Tứ…(in lại trong sách Mấy vấn đề trong văn học Việt Nam hiện đại, Nxb KHXH Hà Nội, 1999) có nhận xét tinh tế về Người cùng quê: “Truyện được viết công phu, đề cập nhiều vấn đề thông qua nhiều loại nhân vật: tốt có, xấu có, trung gian có” [34,
  11. 6 tr.331]. Tức là Phan Tứ xây dựng nhiều loại nhân vật khác nhau trong tính phức tạp, đa dạng như hiện thực đời sống đang diễn ra. Nhà nghiên cứu Đặng Tiến (Việt kiều Pháp) lại quan tâm đến khía cạnh khác của Người cùng quê. Đó là tính chân thật của tác phẩm: “nhân vật của anh, từ chính diện đến phản diện đều có thể là bà con, cô bác hay bạn bè tôi” [34, tr.333]. Đó là những con người của cuộc sống đời thường mà quanh ta đều bắt gặp. Cũng đề cập tới tính chân thật trong xây dựng hình tượng nhân vật của Người cùng quê, nhà văn Thanh Quế (1994) trong bài Lang thang với Phan Tứ (báo Đà Nẵng), cho rằng: “Viết đúng sự thật, đã chứng minh người cộng sản như những người khác, chỉ khác lý tưởng. Anh không hạ thấp nhân vật hoặc đề cao nhân vật, anh viết đúng như nhân vật” [88]. Nhận định của Thanh Quế cho người đọc thấy được sự khác biệt của Phan Tứ so với nhiều nhà văn khác cùng thời. Trong khi đa số nhà văn miêu tả người cộng sản là những anh hùng sử thi đẹp toàn diện thì Phan Tứ miêu tả cả cái bình thường, đời thường trong những con người ấy. Nhân vật của Phan Tứ phát triển tính cách như nó vốn có, có mặt tích cực, có mặt tiêu cực. Mai Hương (2002) trong Lê Khâm – Phan Tứ – Nhà văn chiến sĩ (Phan Tứ toàn tập, T.1, tr.13, Nxb Văn học) nhấn mạnh tính chất cách mạng trong Người cùng quê: “phản ánh sự trưởng thành của nhiều tầng lớp quần chúng cách mạng trong suốt cả chặng đường dài lịch sử dân tộc từ trước và sau cách mạng tháng Tám” [45, tr.24]. Trong bão táp cách mạng, nhân vật của Phan Tứ thuộc mọi thành phần, mọi lứa tuổi đều trải qua những thử thách và trưởng thành nhanh chóng. Nguyễn Văn Kha (2006) trong cuốn Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975- 2000 (Nxb ĐHQG Tp.HCM) đã chú ý tới cách xây dựng mối quan hệ con người của Phan Tứ: “Trong Người cùng quê…các nhân vật có quan hệ không xuôi chiều, khó phân biệt thành hai tuyến địch – ta, tốt – xấu, thiện – ác” [50, tr.57], con
  12. 7 người được đặt trong mối quan hệ đan xen. Tác giả khẳng định con người trong tác phẩm không chỉ là “con người trong lịch sử bị phong trào sự kiện lịch sử cuốn hút mà con người được nhìn nhận là chủ thể của lịch sử” [50, tr.27], quan tâm tới yếu tố cách mạng trong mỗi con người. Chính ý thức lịch sử trong bản thân con người đã tạo nên đời sống tự nhiên của các nhân vật trong Người cùng quê. Từ các công trình nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Phan Tứ, chúng tôi nhận thấy rằng, các tác giả đều có chung nhận xét: nhà văn nhìn con người không phiến diện, tránh được sự dễ dãi trong xây dựng nhân vật. Trong tác phẩm Người cùng quê, các tác giả tiếp cận ở khía cạnh con người cách mạng và sự trưởng thành của con người qua các thời kì lịch sử một cách khái quát nhất, đề cập đến tính chân thật trong cách xây dựng nhân vật, mặt phức tạp – sự đan xen các mối quan hệ trong đời sống con người. Trên cơ sở tiếp thu thành tựu nghiên cứu của người đi trước, người viết tập trung nghiên cứu sự đổi mới cách nhìn về con người của nhà văn trong tiểu thuyết Người cùng quê. 3. Giới hạn, phạm vi đề tài Do tính chất của đề tài, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ nghiên cứu cách nhìn mới về con người trong tác phẩm Người cùng quê sau 1975 của Phan Tứ để thấy được sự đổi mới cách nhìn về con người của nhà văn so với giai đoạn trước 1975. Luận văn giới hạn tập trung nghiên cứu tiểu thuyết Người cùng quê của Phan Tứ. Tuy nhiên, chúng tôi mở rộng sự khảo sát đến một số tiểu thuyết như Ván bài lật ngửa, Hạt mùa sau, Giấy trắng để người đọc thấy được không khí văn học đang có sự vận động đổi mới. Mặt khác, để có cái nhìn đối
  13. 8 sánh về con người trong sáng tác trước và sau năm 1975 của Phan Tứ, chúng tôi mở rộng, tìm hiểu các tiểu thuyết của nhà văn trước 1975 như: Trước giờ nổ súng, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi. Ngoài ra, trong quá trình triển khai đề tài, luận văn còn có tham khảo một số tác phẩm khác của các nhà văn tiêu biểu, với mong muốn làm sáng tỏ hơn sự đổi mới về cách nhìn con người của Phan Tứ. 4. Phương pháp nghiên cứu Căn cứ vào mục đích của đề tài, yêu cầu của đối tượng nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 4.1. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Đặt tiểu thuyết Người cùng quê trong hệ thống sáng tác của Phan Tứ, hệ thống tác phẩm tiểu thuyết cùng thời, trong bối cảnh lịch sử xã hội, luận văn làm sáng tỏ hơn điểm riêng biệt trong cách nhìn về con người của Phan Tứ. 4.2. Phương pháp lịch sử: Nhân vật trong tiểu thuyết sử thi là sản phẩm của lịch sử. Hoàn cảnh chiến tranh chuyển sang thời hòa bình, những biến động về kinh tế - xã hội, qua lăng kính cảm thụ hiện thực của nhà văn đều để lại dấu ấn trong tác phẩm và nhân vật. Vì vậy, khi nghiên cứu sự đổi mới cách nhìn về con người của Phan Tứ trong Người cùng quê cần sử dụng phương pháp lịch sử để tìm hiểu. 4.3. Phương pháp so sánh: Mỗi giai đoạn sáng tác, nhà văn có thẩm mĩ nghệ thuật riêng. Bằng việc so sánh với tư duy nghệ thuật của nhà văn trước 1975, sẽ giúp chúng ta thấy được sự đổi mới cách nhìn của nhà văn về hiện thực cuộc sống, nhất là hiện thực con người. Sử dụng phương pháp này, người đọc thấy sự khác biệt thẩm mĩ nghệ thuật giữa Phan Tứ và các nhà văn cùng thời, thấy được nét riêng của Phan Tứ về cách nhìn con người.
  14. 9 4.4. Hướng tiếp cận thi pháp học: Luận văn sử dụng các kiến thức về thi pháp học để phân tích các yếu tố hình thức của tác phẩm như thời gian – không gian, kết cấu – cốt truyện, ngôn ngữ cũng như cách xây dựng nhân vật của Phan Tứ, qua đó làm sáng tỏ hơn cái nhìn đổi mới về con người sau năm 1975 trong tiểu thuyết Người cùng quê của nhà văn. 5. Đóng góp mới của luận văn 5.1. Trong những năm qua, nhiều bài viết, bài nghiên cứu về Phan Tứ đánh giá vị trí cũng như đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà. Với đề tài này, luận văn của chúng tôi mong muốn cung cấp cho độc giả một cái nhìn mới của nhà văn Phan Tứ về con người sau 1975. 5.2. Thông qua việc phân tích các biểu hiện của sự đổi mới trong cách nhìn con người của nhà văn, chúng tôi khẳng định sự đổi mới cách nhìn con người trong bộ tiểu thuyết này là phù hợp với xu hướng vận động đổi mới về quan niệm con người trong văn học thời kỳ mới. Từ đó góp tiếng nói khẳng định sự đóng góp của Phan Tứ cho sự vận động đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975. 6.Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Dẫn nhập (10 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (gồm 141 mục), Phụ lục (14 trang), luận văn gồm ba chương chính: Chương 1: Nhà văn Phan Tứ và hoàn cảnh sáng tác tiểu thuyết Người cùng quê Ở chương này, chúng tôi trình bày cuộc đời cũng như đóng góp trong sự nghiệp văn chương của Phan Tứ; sự ra đời của bộ tiểu thuyết Người cùng quê trong bối cảnh xã hội Việt Nam sau 1975 có nhiều thay đổi và không khí văn học sau 1975 (trong phạm vi tiểu thuyết) đang có sự vận động đổi mới.
  15. 10 Chương 2: Sự đổi mới cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê từ phương diện nội dung Tiếp tục cảm hứng sử thi trong tiểu thuyết trước 1975, tiểu thuyết Người cùng quê khám phá những chiều kích của đời sống con người Việt Nam, thể hiện cái nhìn nhân văn của Phan Tứ. Con người được nhìn nhận từ bình diện cá nhân, đặt trong những mối quan hệ đan xen, có niềm khát khao tận hưởng về tình yêu và hạnh phúc. Chương 3: Sự đổi mới cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê từ phương diện nghệ thuật Cùng với sự đổi mới cách nhìn về con người, trong tiểu thuyết Người cùng quê nhà văn Phan Tứ sử dụng những biện pháp nghệ thuật miêu tả thời gian, không gian gắn với sự vận động của con người; xây dựng kết cấu đa tuyến; ngôn ngữ mang tính cá thể.
  16. 11 Chương 1 NHÀ VĂN PHAN TỨ VÀ HOÀN CẢNH SÁNG TÁC TIỂU THUYẾT NGƯỜI CÙNG QUÊ 1.1. Cuộc đời nhà văn Phan Tứ Phan Tứ là một trong những nhà văn có quan niệm sống và làm việc hết sức nghiêm khắc, thẳng thắn, trung thực. Đó là đức tính mà ông được thừa hưởng từ người cha của mình. Cả cuộc đời ông gắn bó với đề tài chiến tranh bằng nhiệt huyết: “Cuộc đời tôi từ hồi 14 tuổi cho đến nay 64 tuổi hoàn toàn là sống trong chiến tranh, cho nên tôi rất tha thiết viết về chiến tranh. Viết ra, hay dở còn tùy bạn đọc. Tôi chỉ muốn nói một điều thôi: Không ai ép mình đi theo kháng chiến chống Pháp, không ai ép mình đi theo kháng chiến chống Mỹ thì bây giờ cũng không ai ép mình viết cả... Chỉ ân hận là đã không kịp làm trọn công việc...” [136]. Phan Tứ tên thật là Lê Khâm, con thứ 4 trong gia đình, nguyên quán xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Ông sinh ra trong một gia đình trí thức yêu nước: cha là Lê Ấm (1897-1976), từng làm Đốc học ở trường Quốc học Huế, mẹ là bà Phan Thị Châu Liên - con gái đầu của nhà Chí sĩ Phan Châu Trinh. Tuy sinh ở Bình Định nhưng suốt thời niên thiếu, Phan Tứ lại sống ở quê cha, xã Quế Phong, Quế Sơn, Quảng Nam. Bản thân ông từ nhỏ đã giỏi về môn văn và tiếng Pháp. Năm 15 tuổi, ông tham gia hoạt động trong đội tuyên truyền xung phong của tỉnh Quảng Nam, làm liên lạc chuyển tài liệu, báo chí bí mật và tham gia cướp chính quyền ở địa phương trong Cách mạng tháng Tám. Năm 1950, ông nhập ngũ, được kết nạp vào Đảng (20/3/1950), theo học Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, phân hiệu Trung Bộ, học tập huấn
  17. 12 luyện ở vùng Cồn Kênh - Thanh Hóa. Cùng với cặp kính cận luôn “ngự” trên đôi mắt tươi cười, Phan Tứ là một con người nhiều tài năng, hát hay, đàn giỏi, viết báo tường cho đơn vị rất hấp dẫn và luôn chan hòa với mọi người, đặc biệt với nhân dân vùng đóng quân. Cuối năm 1951, ông được phân công theo đội quân tình nguyện Việt Nam sang chiến đấu ở chiến trường Hạ Lào. Năm 1954, ông từ Hạ Lào hành quân về Cảng Quy Nhơn tập kết ra Bắc, nén lòng không ghé thăm gia đình đang sống ở miền Tây Quảng Nam. Những tháng ngày gian khổ ở Lào được nhà văn ghi lại qua dòng hồi tưởng trong nhật ký chiến trường về những trải nghiệm của ông: “Những cuộc hành quân dưới nắng trời gay gắt, trong những cơn khát ghê gớm, đi trên những đường mòn đầy sỏi đá làm trầy da chân, làm phồng dộp và sưng húp chân. Uống nước thì là nước ao, phải rẽ lăng quăng và nòng nọc để múc. Các cuộc hành quân trên cao nguyên Bôlôvên: lạnh đến rung cả rừng núi…đỉa và vắt vô kể, thiếu thuốc hút, cháo nấu với măng rừng cho qua bữa” [53, tr.62]. Ba năm ở Lào, nhà văn đã tích lũy cho bản thân vốn sống từ thực tiễn đấu tranh đầy khó khăn gian khổ. Thực tế đó giúp ông sáng tác thành công hai tiểu thuyết lớn Bên kia biên giới, Trước giờ nổ súng. Phan Tứ chính thức bước vào sự nghiệp văn học với hai tác phẩm viết về chiến trường Lào, đặc biệt Trước giờ nổ súng dịch ra tiếng Lào và xây dựng kịch bản phim “Bản anh hùng ca số 5” được bạn Lào đánh giá tốt. Năm 1958, ông theo học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Kể từ đây, trong con người của Phan Tứ có sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa nhà văn và chiến sĩ cách mạng. Lớp học có 25 sinh viên và 6 lưu học sinh, duy nhất Phan Tứ là người có tác phẩm đã xuất bản (Bên kia biên giới). Phan Tứ được bầu làm tổ trưởng tổ sáng tác. Phan Tứ nổi tiếng: “Khắc khổ. Điều độ. Mực thước”. Trong thời gian này, ông vừa học vừa viết tiểu thuyết Trước giờ nổ
  18. 13 súng. Đặc biệt khả năng ghi chép của nhà văn được anh Nùng – bạn học cùng lớp cam đoan chưa có nhà văn nào ghi nhiều, bền bỉ như Phan Tứ bất kể lúc nào (giờ nghỉ, xem diễn văn nghệ…), thời gian biểu chặt chẽ thực thi như kỉ luật quân sự, học tập chăm chỉ, nghiêm túc và học đều các môn kể cả môn khó nuốt như ngôn ngữ, tiếng Nga. Sau khi tốt nghiệp năm 1961, hiện thực cách mạng miền Nam luôn giục giã thôi thúc ông “trở về”, “vào trong kia”, “lên chiến khu”, Phan Tứ đã trở lại công tác tại chiến trường miền Nam, làm phái viên tuyên truyền khu ủy Liên khu V, ủy viên đảng đoàn Văn nghệ Khu 5 và viết văn dưới bút danh Phan Tứ. Tuy được cấp chế độ sinh hoạt của cán bộ nhưng thiếu thốn quá nhiều, Phan Tứ phải tự xoay sở tìm chỗ sáng tác (nóc ông Bền – làng Thượng), tìm kiếm lương thực. Vừa chống chọi với khó khăn trong thời chiến tranh (sốt rét, thiếu lương thực, bom đạn..), ông vừa sáng tác với khát khao: “viết được một tiểu thuyết về miền Nam chiến tranh”. Từ thực tiễn sáng tác, nhà văn tự rút ra nhược điểm của bản thân: “tìm cảm hứng trong những tình huống đặc biệt và nhân vật kiệt xuất và không đi sâu vào những mâu thuẫn giữa người và người với những tình tiết tế nhị hoặc thô thiển” [53, tr.95]. Để có cái nhìn hoàn thiện hơn, Phan Tứ quyết định đi thực tế ở Kỳ Liên. Sống bên cạnh đồng bào, đồng chí của mình, Phan Tứ luôn tâm niệm rằng phải: “tắm mình trong cuộc sống, vừa chung tay xây dựng nó, vừa rèn giũa mình, chắt chiu gạn lọc mỗi ngày đêm lấy vài nét độc đáo của nó, không ngừng suy nghĩ và cảm xúc về nó, nghiền ngẫm tìm cách tái hiện nó” [45, tr.16-17]. Chính ý thức ấy, quan niệm về đời, về nghề ấy đã thúc đẩy Phan Tứ gan góc bám thực tế, bám phong trào “trải đời, trải đạn” và viết văn. Nhà văn “tắm mình trong cuộc sống” bằng cách xông pha, lăn lộn với thực tế chiến trường, tìm hiểu những hoàn cảnh khác nhau và những con người cụ thể cũng như
  19. 14 chia sẻ đau thương mất mát với họ. Vì thế, ông có điều kiện hiểu về con người cách mạng hơn. Năm 1962, thời kỳ đau khổ tột cùng của nhân dân miền Nam chống càn của Mỹ – Diệm, Phan Tứ tham gia tổ chức đấu tranh du kích, tiếp xúc với những con người, những cuộc đời trong những tình huống cụ thể, khốc liệt. Những khó khăn liên tiếp xảy ra, đấu tranh chính trị ở Kỳ Khương, chống khủng bố trắng, chống càn ở Kỳ Thanh, tham gia võ trang tuyên truyền… Phan Tứ đã thanh thản sống và vượt qua tất cả mọi thử thách. Ông đã ghi lại một cách cảm động tâm sự của ông trong những ngày thật đáng nhớ: “Tôi không băn khoăn gì trước những khó khăn ấy, bởi thực tế cách mạng miền Nam cuốn hút tôi rất dữ dội. Tôi đã sống lại những năm tháng vừa chiến đấu vừa xây dựng cơ sở hạ Lào hồi chống Pháp, nhưng sung sướng hơn trước nhiều là tôi đang hoạt động trên đất quê hương mà tôi luôn thương nhớ” [120, tr.82]. Sau đó, ông tiếp tục cuộc hành trình đi trường Tân binh 27, tổ chức lớp học của cán bộ tuyên truyền xã. Trên đường hành quân tới Nóc ông Thiêng, chứng kiến đồn Trà My giặc bị tiêu diệt, Phan Tứ dấy lên suy nghĩ thích chiến đấu trực tiếp hơn là làm công tác chính trị và ông “đã hoàn toàn tự nguyện dấn thân vào những nguy hiểm này”. Nằm trong bệnh viện vì sốt rét tái phát nhưng ông vẫn không ngừng ghi chép và sáng tác. Vì sự thật cuộc sống chiến trường vô cùng khắc nghiệt, chỉ “một mảnh bom, một viên đạn lạc, một cơn sốt biến chứng có thể bẻ gẫy ngòi bút bất cứ lúc nào” [120, tr.82-83]. Chưa có điều kiện viết tác phẩm dài hơi: “cuốn tiểu thuyết dài ông hằng ao ước được viết đang lớn dần lên trong óc”, nhưng ông đã phải gác lại để phục vụ cuộc chiến đấu trước đã. Qua quá trình chiến đấu, học tập, nhà văn cũng phát hiện ra mặt trái của tấm huy chương, mặt trái của con người.
  20. 15 Năm 1963, địch càn trên quy mô lớn và dữ dội. Nhà văn quay trở lại sống ở cơ sở cách mạng, tham gia Đại hội đại biểu Đảng bộ Đảng nhân dân cách mạng Tam Kỳ, Đại hội du kích huyện Tam Kỳ, nghe báo cáo các gương điển hình…Tham gia công tác Mỹ vận, Phan Tứ tự trau dồi vốn tiếng Anh nhưng ông cũng tự thú: những câu chuyện ăn chơi của tên lính Mỹ đã gợi cho ông nhớ lại cuộc sống bình yên ngày trước. Điều đó làm ông trở nên khó tính trước các trở ngại và sự thiếu thốn. Năm 1966 do sức khỏe yếu và chịu ảnh hưởng bởi tác động của chất độc hóa học, ông được đưa ra Bắc để chữa bệnh, công tác tại Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, giữ chức quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Bảy năm ở miền Bắc làm công tác đối ngoại, sáng tác và hoạt động trong Hội nhà văn, ông tiếp tục ghi thêm 15 cuốn sổ nhật ký với 2400 trang về thực tế đời sống và hoạt động chiến tranh phá hoại, viết bằng cả các thứ tiếng Anh, Pháp, Lào và tiếng Nga. Trong nhật ký chiến trường của Phan Tứ, đây đó ta bắt gặp những dòng thể hiện quyết tâm và lối sống luôn đặt ra định mức của ông. Như có chỗ ông ghi hướng phấn đấu: “Ít nhất một năm không sốt rét”, hoặc “Viết một truyện trong ba tháng”. Tháng 12 năm 1974, nhà văn - chiến sĩ Phan Tứ đi B lần hai để sống tiếp, để lấy tài liệu cho cuốn tiểu thuyết mà ông dốc toàn bộ sức lực, tài năng để “chơi một canh bạc lớn trong đời văn nghiệp của mình”; tham gia chiến dịch tổng tiến công 1975 và đi thực tế các tỉnh Nam Bộ. Từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 2 năm 1980, ông về sinh sống và làm việc tại quê hương Quảng Nam. Ông từng là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn, Ủy viên Ban Thư ký (Ban thường vụ) Ban chấp hành Hội Nhà văn khóa III.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2