ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------
NGUYỄN THỊ DUNG
TÁC GIẢ ĐẠM PHƯƠNG NỮ SỬ TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI
HÓA ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60220121
Hà Nội - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------
NGUYỄN THỊ DUNG
TÁC GIẢ ĐẠM PHƯƠNG NỮ SỬ TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI
HÓA ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60220121
Hà Nội - 2012
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................... 3
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 9
5. Cấu trúc của luận văn ........................................................................ 10
CHƯƠNG 1: CUỘC ĐỜI VÀ VĂN NGHIỆP CỦA ĐẠM PHƯƠNG NỮ
SỬ ............................................................................................................... 12
1.1. Cuộc đời Đạm Phương nữ sử .......................................................... 12
1.2. Văn nghiệp Đạm Phương nữ sử ...................................................... 17
1.2.1 Thơ và từ ..................................................................................... 17
1.2.2 Tiểu Thuyết .................................................................................. 51
CHƯƠNG 2: ĐẠM PHƯƠNG VÀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ ĐẦU THẾ KỶ XX
.................................................................................................................... 69
2.1. Sơ lược về phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới
................................................................................................................. 69
2.2. Tình hình phụ nữ Việt Nam và “vấn đề phụ nữ” trong xã hội ..... 74
2.3. Tư tưởng của Đạm Phương về vấn đề phụ nữ trong mối tương
quan với các học giả đương thời. ........................................................... 77
2.3.1. Vấn đề công - dung - ngôn - hạnh ............................................. 77
2.3.2. Vấn đề về trinh tiết ..................................................................... 82
2.3.3. Vấn đề tự do kết hôn ................................................................... 86
2.3.4. Vấn đề nữ học............................................................................. 89
CHƯƠNG 3: HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG KHẢO CỨU
.................................................................................................................. 106
3.1. Hoạt động xã hội: .......................................................................... 106
3.1.1. NCHH ....................................................................................... 106
3.1.2. Các hoạt động xã hội khác ....................................................... 113
3.2. Hoạt động khảo cứu ...................................................................... 115
3.2.1. Công trình Giáo dục nhi đồng .................................................. 115
3.2.2. Công trình khảo cứu về Tuồng hát An Nam ............................ 121
KẾT LUẬN .............................................................................................. 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 130
PHỤ LỤC ................................................................................................. 141
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CKV : Chung Kỳ Vinh
HPTT : Hồng phấn tương tri
NCHH : Nữ công Hoc Hội
KTC : Kim Tú Cầu
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Những năm đầu thế kỷ XX, chương trình khai thác thuộc địa của Pháp
đã làm thay đổi xã hội và nền kinh tế Việt Nam. Các tầng lớp, các giai cấp
mới đại diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là giai cấp công
nhân, tầng lớp tư sản, tiểu tư sản thành thị đã xuất hiện. Đây chính là điều
kiện xã hội cần thiết cho việc tiếp thu tư tưởng mới, tư tưởng tự do, dân chủ
và xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Một phần trong tư tưởng tự do, dân chủ, bình
đẳng phương Tây là vấn đề bình đẳng nam nữ, nữ quyền và giải phóng phụ
nữ cũng đã được các tri thức phong kiến Việt Nam biết đến.
Thời gian này, đã có một số phụ nữ không chỉ giới hạn mình nơi cung
cấm, chốn phòng the hay quanh quẩn công việc bếp núc mà đã vươn tới hòa
nhập với sự thay đổi của xã hội bằng cách tham gia vào những công việc mà
trước đó chỉ nam giới mới làm được như: viết văn, dịch thuật, làm báo, diễn
thuyết, hoạt động cách mạng,…Trong đội ngũ nữ trí thức đầu thế kỷ XX, nổi
bật lên một Đồng Canh công nương năng nổ, tháo vát của hoàng tộc nhà
Nguyễn, một Đạm Phương nữ sĩ giàu lòng yêu nước với bút lực dồi dào, tư
tưởng tiến bộ, khả năng tổ chức và hoạt động xã hội xuất sắc. Đặt Đạm
Phương nữ sử trong hoàn cảnh lịch sử, thời đại mà bà sinh sống, ta càng thêm
khâm phục tư tưởng và hành trạng của bà.
Đạm Phương sinh ra trong lòng xã hội phong kiến, chịu ảnh hưởng
nặng nề của tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, sự phân công trong xã hội nông
nghiệp lạc hậu: đàn ông lo việc bên ngoài, đàn bà lo việc nhỏ mọn trong nhà.
Thêm vào đó là cảnh nước mất nhà tan, Pháp đẩy mạnh âm mưu thôn tính
nước ta, biến loạn triều đình rối ren, lần lượt các vua Dục Đức, Hiệp Hoa,
Kiến Phúc bị lật đổ,…văn hóa nghìn năm của dân tộc dần suy thoái. Tâm lý
đắng cay, tủi nhục, bất mãn trĩu nặng trong giới tri thức, đặc biệt là trong
1
hoàng tộc vì họ là những người phải chịu trách nhiệm về cảnh đó. Nhưng
trong cảnh thế ấy, Đạm Phương đã bất chấp trở lực, vượt lên số phận, viết
văn, lập báo, tạo dựng một tổ chức xã hội nuôi dưỡng tinh thần đấu tranh cho
nữ học.
Trong khoảng mười năm (1918 – 1929) bà viết gần hai trăm bài đăng
các báo xuất bản trên toàn quốc, trong đó ba phần tư số bài mang tính chuyên
đề về phụ nữ, nhi đồng, giáo dục. Về văn chương, bà viết nhiều thể loại: Thơ,
từ, câu đối, tiểu thuyết. Bà thông thạo Hán văn, Pháp văn,…do đó bà cũng là
người sớm có tầm nhìn ra thế giới tiếp thu tinh hoa nhân loại như hệ lí luận
tiến bộ về quy trình dưỡng dục trẻ thơ, hệ tư tưởng tiến bộ về nhân quyền:
dân chủ, tự do, bình đẳng. Đạm Phương nữ sử cũng là người tổ chức Hội Nữ
công đầu tiên ở nước ta để mở mang giới chí.
Tuy nhiên, cho đến nay những hoạt động và cống hiến của bà vẫn chưa
được nhiều người biết đến. Thế hệ hiện nay dường như chỉ biết về bà - Công
Nữ Đồng Canh với tư cách là cháu nội của vua Minh Mạng, là người đã sinh
ra và nuôi dưỡng nhà lý luận văn nghệ mác-xít nổi tiếng Hải Triều Nguyễn
Khoa Văn và là bà nội của nhà thơ - Bộ trưởng Nguyễn Khoa Điềm, chứ
chưa được tường tận về bà trong vị trí một nữ trí thức quý tộc có tinh thần
can đảm và yêu nước nồng nàn, có uy tín lớn trong xã hội, có ảnh hưởng sâu
rộng trong quần chúng, đặc biệt trong giới nữ lưu suốt nửa đầu thế kỷ XX.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài : "Tác giả Đạm
Phương nữ sử trong bối cảnh hiện đại hóa đầu thế kỷ XX” với mong muốn
ghi nhận những đóng góp của tác giả trong sự phát triển của văn hóa, văn học
nước nhà đầu thế kỷ XX.
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Về sưu tầm, xuất bản
Tại Thư viện Quốc gia Hà Nội có lưu 5 đầu sách của Đạm Phương nữ
sử xuất bản trước năm 1945. Đó là:
1. Gia đình giáo dục thường đàm, in lần thứ nhất, S. : lmpr. Bảo tồn, 1928
2. KTC, Nơi xuất bản: S. :lmpr. Bảo Tồn, 1928
3. Phụ nữ dự gia đình, Nơi xuất bản :Gò Công: Nữ lưu thư quán, 1929
4. Phụ nữ dự gia đình, in lần thứ 1, Nơi xuất bản: Huế: lmpr. Bảo tồn, 1929
5. Giáo dục nhi đồng, Nơi xuất bản : H. : Lê Cường, 1942
Riêng Công trình Giáo dục nhi đồng của Đạm Phương nữ sử được xuất
bản năm 1942 tại nhà in Lê Cường, Hà Nội, đến năm 1996 Nhà xuất bản
Thanh Hóa tái bản 1000 cuốn.
Sau 1945 có sách Đạm Phương nữ sử của Cửu Thọ và Nguyễn Khoa
Diệu Biên, Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1994 dày
344 trang khái quát giới thiệu gia phong, cuộc đời, sự nghiệp và dẫn 29 bài
thơ và từ, 24 bài báo và một chương trong sách Giáo dục nhi đồng của bà.
Người có nhiều đóng góp trong quá trình sưu tầm trước tác của Đạm
Phương là học giả Lê Thanh Hiền. Từ năm 1983 trong quá trình khảo sát lại
văn bản học nghệ thuật chèo quá khứ tại các thư viện lớn trên đia bàn toàn
quốc, ông khảo sát các báo và tạp chí trước 1945 và thường thấy bút danh Đạm
Phương nữ sử ở một số bài. Từ đó, ông đã chú ý và mỗi khi gặp bút danh Đạm
Phương nữ sử ông thường ghi chép vào sổ tư liệu cá nhân. Đến năm 1997, là
năm ông hoàn thành ba công trình văn bản học nghệ thuật chèo quá khứ, ông
mới dành thời gian thống kê lại những tư liệu đã ghi chép về bút danh Đạm
Phương nữ sử. Bản thân Lê Thanh Hiền cũng thấy bất ngờ khi tính sơ qua đã
có ngót hai trăm bài báo của Đạm Phương viết về các vấn đề xã hội.
3
Năm 1999, Nhà xuất bản Văn học cho xuất bản Tuyển tập Đạm
Phương nữ sử do Lê Thanh Hiền sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu. Sự ra đời
của cuốn sách là cố gắng đáng trân trọng của tác giả Lê Thanh Hiền cũng
như nhà xuất bản Văn học. Nhưng do phương tiện kỹ thuật lúc đó còn hạn
chế, phần lớn việc sưu tầm tác phẩm in trên báo, phải qua bản chụp
microfilm trên bản gốc đã mờ, cũ, nhiều câu nhiều đoạn bị mất,…và còn
hàng trăm bài báo chưa tìm ra.
Từ đó đến nay, công tác sưu tầm trước tác của Đạm Phương nữ sử đã
được hậu duệ của bà cùng bạn bè và giới nghiên cứu thực hiện, bổ sung. Gần
đây, tháng 8 năm 2010 với những nỗ lực tìm kiếm, sưu tầm, nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm đã có bổ sung hàng trăm trang với chú thích rất công phu, sửa
chữa phục hồi những đoạn văn bị sai, bị thiếu trong lần in năm 1999. Tháng
12 năm 2010, Tuyển tập Đạm Phương nữ sử do Lê Thanh Hiền sưu tầm, biên
soạn, giới thiệu và Nguyễn Khoa Điềm bổ sung, sửa chữa được nhà xuất bản
Văn học xuất bản 1000 cuốn.
Gần đây nhất, tháng 1 năm 2011, Nguyễn Khoa Điềm lại sưu tập được
thêm rất nhiều bài viết của Đạm Phương trên tờ “Lục Tỉnh tân văn” (183
trang).
Trong Hội thảo khoa học kỷ niệm 130 năm ngày sinh Đạm Phương nữ
sử được tổ chức tại Huế ngày 18 tháng 06 năm 2011, nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm công bố kết quả tìm kiếm tư liệu về Đạm Phương như sau: “Cho đến
nay con số các tác phẩm của Đạm Phương nữ sử đã sưu tầm được (tính cả
phần đã xuất bản và phần hiện lưu giữ trong tư liệu gia đình) như sau:
- 42 bài thơ kể cả từ khúc, câu đối
- 181 bài báo, gồm cả một số truyện ngắn, bài sưu tầm, dịch thuật
- 3 tiểu thuyết: “Kim Tú Cầu” (Xuất bản thành sách năm 1928);
4
“Hồng phấn tương tri” (Xuất bản thành sách năm 1929) tìm được từ một thư
viện Paris; “Chung Kỳ Vinh”, đăng trên “Lục Tỉnh tân văn” từ đầu tháng 07
năm 1924 đến 19 tháng 01 năm 1925 (kết thúc). Rất tiếc, có 1- 2 số đầu tiên
chúng tôi chưa tìm được.
- 3 tập khảo cứu: “Bàn về vấn đề giáo dục con gái”, “Phụ nữ dự gia
đình”, “Giáo dục nhi đồng”. [103; tr 25]
Sưu tầm được khối lượng tác phẩm như vậy quả là một nỗ lực rất lớn
của gia đình tác giả cũng như các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, đó chưa phải là
toàn bộ những trước tác mà Đạm Phương để lại, vì thế công tác sưu tầm, xuất
bản vẫn sẽ được đẩy mạnh trong thời gian sắp tới.
2.2 Về nghiên cứu
Nhìn chung hoạt động nghiên cứu về tác giả Đạm Phương mới được
tập trung và nở rộ trong khoảng thời gian gần đây, trước đó các bài nghiên
cứu về Đạm Phương rất ít, chưa sâu và chưa hệ thống. Giải thích về điều này,
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và cũng là cháu nội của Đạm Phương cho rằng
việc tiếp cận tư liệu, trước tác của bà gặp khó khăn nên các nhà nghiên cứu
chưa chú ý tới được: “Sở dĩ các nhà làm tư liệu gặp khó khăn vì Đạm
Phương nữ sĩ mặc dầu là tác giả của thế kỷ thứ XX nhưng bà mất sớm – từ
ngay đầu kháng chiến chống Pháp (1947), sách vở thất lạc; phần lớn các
trước tác của bà lại là các bài báo ra đời trước năm 1930 nên ít người có
điều kiện tiếp cận” [103; tr 22]
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, độc giả được biết đến Đạm Phương
nữ sử qua sách Lược truyện các tác giả Việt Nam, do Trần Văn Giáp chủ
biên. Như tên sách, sách ghi chép sơ lược lai lịch các tác giả, tác phẩm xuất
hiện từ thế kỷ thứ XI đến nửa đầu thế kỷ XX. Tác giả Đạm Phương là một
trong 851 tác giả được thống kê trong cuốn sách này. Bà được liệt kê cùng 13
5
tác giả nữ nổi tiếng khác là: Ỷ Lan phu nhân, Ngô Chi Lan, Đoàn Thị Điểm,
Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Huệ Phố (Nguyễn
Tĩnh Hòa), Mai Am (Nguyễn Trinh Thận), Nguyệt Đình (Nguyễn Vĩnh
Trinh), Nguyễn Nhược Thị Bích, Vân Đài, Sương Nguyệt Anh. Do tính chất
“lược truyện” tổng quát của cuốn sách nên tiểu sử của bà được nhắc đến khá
sơ sài chỉ có hai cuốn sách, hai bài báo được nhắc đến.
Như đã nói ở trên, năm 1995, nhà xuất bản Trẻ phát hành cuốn sách
Đạm Phương nữ sử của hai tác giả Nguyễn Khoa Diệu Biên – Nguyễn Cửu
Thọ. Là cháu nội và cháu ngoại, đã từng có thời gian gần gũi với bà Đạm
Phương nên phần viết của hai tác giả khá cụ thể và sinh động. “Các tác giả
có cái nhìn bao quát những hoạt động phong phú của bà gắn với bức tranh
chính trị xã hội đầy biến động của nước ta và của kinh đô Huế những năm
đầu thế kỷ XX” [103, tr 22]
Trong những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, cũng đã có những học
giả quan tâm đến trước tác và hoạt động xã hội của bà nhưng sự quan tâm đó
mới chỉ dừng lại ở dạng những bài viết tiểu luận về một vài khía cạnh tiêu
biểu trong sự nghiệp của bà với những đánh giá chung chung. Những bài viết
nghiên cứu về Đạm Phương nữ sử còn tản mạn và nằm rải rác ở các báo như:
Bài “Với Nữ sĩ Đạm Phương” của tác giả Trần Thị Như Mân in trên
Tạp chí Sông Hương, số 12 tháng 4 năm 1985,
Bài “Đạm Phương Nhà báo nữ đầu thế kỷ” của tác giả Cửu Thọ in
trên Báo Phụ nữ Thủ đô số 22 năm 1996,
Bài “Nhớ Nữ sĩ Đạm Phương” của tác giả Lê Xuân Kỳ in trên báo
Văn hóa, số ra ngày 21 tháng 08 năm 1994,
Bài “Đạm Phương, Người rung tiếng chuông đòi quyền sống của phụ
nữ từ hồi đầu thế kỷ” của tác giả Thế Thanh, trên báo Đại đoàn kết, số xuân
6
năm 1998
Và những bài viết của tác giả Lê Thanh Hiền in trong các tạp chí:
Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 2 năm 1998, Tạp chí Người làm báo Xứ Đông
số 3 năm 1998, Tạp chí Cánh Buồm số 4 năm 1998, Báo Văn hóa ra ngày 21
tháng 06 năm 1998
Những bài viết này đều đề cao tư tưởng tiến bộ trong trước tác của
Đạm Phương nữ sử, các tác giả trên cũng khẳng định vai trò xã hội quan
trọng của bà ở giai đoạn lịch sử đương thời. Đạm Phương là một danh sĩ
kinh đô Huế hồi đầu thế kỷ XX, yêu nước, trọng thị dân tộc. Bà ý thức sâu
sắc về việc dùng báo chí truyền bá những kiến thức văn hóa – xã hội, kiến
thức dưỡng dục thế hệ trẻ Việt Nam, đặc biệt là nỗ lực vận động phát triển
chị em phụ nữ, hướng nghiệp cho họ và phân tích về cách thức tổ chức gia
đình, nuôi dạy con cái để chị em có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thành tựu nghiên cứu về Đạm Phương đạt đến độ chín muồi, rực rỡ và
thành công nhất chính là dịp kỷ niệm 130 năm ngày sinh của bà với một hội
thảo khoa học cấp quốc gia được chuẩn bị hơn một năm, hội tụ hơn 200 nhà
khoa học đầu ngành thuộc các lĩnh vực lịch sử, văn học, giáo dục, sân khấu,
báo chí, Phật học, gia phả, giới,… Ban tổ chức đã lựa chọn được 42 bản báo
cáo khoa học để in kỷ yếu. Hội thảo được chia làm hai tiểu ban: Tiểu ban gia
thế, văn hóa, giáo dục và tiểu ban văn học, báo chí, di sản. Hội thảo công bố
kết quả sưu tầm tài liệu về Đạm Phương, những lưu ý trong gia thế và tiểu sử
của bà. Về hoạt động văn hóa, các nhà nghiên cứu chú ý đến các vấn đề sau:
Đấu tranh nữ quyền và sự tiến bộ của phụ nữ, xây dựng con người mới, gia
đình mới, xã hội mới, thành lập và điều hành NCHH, người khai sinh ra
ngành nghiên cứu tuồng Việt Nam, nghiên cứu Phật học, văn hóa tâm linh,
thông thạo nhiều ngoại ngữ, giao tiếp với nhiều chính khách đương thời, hoạt
động yêu nước và cách mạng,…Về giáo dục, các nhà giáo dục học như
7
PGS.TS Trần Tuấn Lộ, tác giả Hoàng Thị Ái Nhiên khẳng định công lao và
những đóng góp của Đạm Phương về giáo dục phụ nữ, giáo dục nhi đồng. Về
thơ, từ, tiểu thuyết, tuy không tiêu biểu bằng những hoạt động xã hội của bà,
nhưng các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra những nét đặc sắc trong mảng sáng
tác văn chương này. Về báo chí, các nhà nghiên cứu, nhà báo như: PGS- TS
Nguyễn Đăng Điệp, TS. Nguyễn Thu Linh, TS. Tôn Phương Lan, TS. Hoàng
Diệu Minh, Phan Quang, Phạm Phong Phú… đều khẳng định tính chất tiên
phong, bút lực dồi dào và ảnh hưởng sâu rộng của Đạm Phương trong nền
báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Trong hội thảo rất nhiều vấn đề xoay quanh cuộc đời và sự nghiệp của
tác giả Đạm Phương đã được đặt ra bàn bạc, thảo luận. Có nhiều vấn đề có ý
kiến khác nhau, mức độ đánh giá không giống nhau, có vấn đề cần phân tích
rõ hơn, sâu hơn. Chính vì thế quá trình nghiên cứu về Đạm Phương chắc
chắn còn phát triển trong tương lai.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Như tên luận văn : Tác giả Đạm Phương nữ sử trong bối cảnh hiện đại
hóa đầu thế kỷ XX, mục đích của chúng tôi khi thực hiện luận văn này là làm
sáng tỏ về cuộc đời, sự nghiệp, vị trí, vai trò cùng những đóng góp về lĩnh
vực văn hóa, văn học của nữ sĩ Đạm Phương trong giai đoạn chuyển đổi từ xã
hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta vào đầu thế kỷ
XX.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Với khối lượng trước tác đồ sộ đã sưu tầm được về Đạm Phương, giới
nghiên cứu khẳng định bà là một nhân vật lịch sử đa tài. Bà là nhà thơ, nhà
văn, nhà báo, nhà giáo dục, nhà biên khảo, dịch thuật, nhà hoạt động xã hội
8
và là nhà văn hóa của Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ luận văn chuyên ngành văn học, chúng tôi đi sâu nghiên cứu tập
trung vào các mảng nội dung chính sau đây:
- Những sáng tác văn chương: thơ, từ, tiểu thuyết của Đạm Phương
- Những bài báo, bài chuyên khảo thể hiện tư tưởng của Đạm Phương
về vấn đề phụ nữ, giáo dục nhi đồng
- Những bài báo, chuyên luận của những tác giả cùng thời về vấn đề
phụ nữ
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chính sau:
4.1 Phương pháp mô tả
Luận văn nghiên cứu về toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp của tác giả Đạm
Phương nữ sử, là một tác giả có nhiều đóng góp cho nền văn hóa, văn học
nước nhà những năm đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, cuộc đời và sự nghiệp của
bà còn ít được biết đến, hay nói cách khác là chưa phổ biến trong giới học
sinh, sinh viên cũng như giới nghiên cứu văn chương. Chính vì lí do đó,
chúng tôi sử dụng phương pháp mô tả để giới thiệu một cách chân thực và
gần gũi nhất hành trạng, cuộc đời của tác giả Đạm Phương đến với người
theo dõi.
4.2 Phương pháp so sánh
Để thấy được cái chung cũng như nét riêng độc đáo và những đóng
góp của Đạm Phương nữ sử so với các tác giả nữ cùng thời, luận văn sử dụng
phương pháp so sánh, đối chiếu.
4.3 Phương pháp phân loại, thống kê
Với một tác giả có khối lượng trước tác lớn và đa dạng như Đạm
9
Phương thì việc sử dụng phương pháp phân loại, thống kê là hết sức cần
thiết. Phương pháp này giúp chúng tôi xử lý tư liệu trước tác của tác giả một
cách mạch lạc và rõ ràng. Đó là cơ sở, tiền đề để luận văn đưa ra những đánh
giá nhận định khách quan về từng sáng tác của Đạm Phương nữ sử. Ngoài ra,
phương pháp này giúp chúng tôi phân loại ý kiến, tư tưởng của các học giả
cùng thời trong thế so sánh với ý kiến, tư tưởng của Đạm Phương về các vấn
đề có liên quan.
4.4 Phương pháp phân tích- tổng hợp
Từ việc phân tích, mô tả những hoạt động văn hóa, văn học và những
sáng tác của Đạm Phương, chúng tôi đúc kết lại thành một diện mạo mang
tính khái quát về cuộc đời và văn nghiệp của một nữ sĩ tiêu biểu đầu thế kỷ
XX..
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương với các nội
dung như sau:
Chương 1 Cuộc đời và văn nghiệp của Đạm Phương nữ sử
1.1 Cuộc đời Đạm Phương nữ sử
1.2 Văn nghiệp Đạm Phương nữ sử
1.2.1 Thơ và từ
1.2.2 Tiểu Thuyết
Chương 2: Đạm Phương và vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX
2.1 Sơ lược về phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới
2.2 Tình hình phụ nữ Việt Nam và “vấn đề phụ nữ” trong xã hội
2.3 Tư tưởng của Đạm Phương về vấn đề phụ nữ trong mối tương
quan với các học giả đương thời.
10
2.3.1 Vấn đề công - dung - ngôn - hạnh
2.3.2 Vấn đề về trinh tiết
2.3.3 Vấn đề tự do kết hôn
2.3.4 Vấn đề nữ học
Chương 3 Hoạt động xã hội và hoạt động khảo cứu
3.1 Hoạt động xã hội:
3.1.1 Nữ công Học hội
3.1.2 Các hoạt động xã hội khác
3.2 Hoạt động khảo cứu
3.2.1 Công trình Giáo dục nhi đồng
3.2.2 Công trình khảo cứu về Tuồng hát An Nam
11
CHƯƠNG 1:
CUỘC ĐỜI VÀ VĂN NGHIỆP CỦA ĐẠM PHƯƠNG NỮ SỬ
1.1. Cuộc đời Đạm Phương nữ sử
Đạm Phương nữ sử sinh năm Tân Tỵ (1881) tại Phủ Tôn Nhơn, kinh
đô Huế. Bà có tên thật là Công Nữ Đồng Canh, tự là Quý Lương. Sau khi lấy
chồng, có con, bà được vua Thành Thái vời vào cung làm chức nữ sử dạy
cung tần, mỹ nữ trong cung. Nữ sử là một chức quan mà bà từng đảm nhiệm
nên bà lấy bút hiệu là Đạm Phương nữ sử. Ngoài ra bà còn có các bút hiệu
sau: Đạm Phương nữ sĩ, Đạm Phương, Đ.P,…
Đạm Phương là con gái của Hoàng Hóa Quận Vương Nguyễn Miên
Triện, là Quận chúa (cháu nội vua Minh Mạng). Thân phụ Đạm Phương là
hoàng tử thứ 66 của vua Minh Mạng, thụ tước Hoàng Hóa Quận Vương.
Năm 1891 ông phụng chỉ vua Thành Thái dẫn sứ bộ triều đình Huế sang công
vụ tại nước Cộng hòa Pháp. Trong chuyến đi này, ông có dịp mua được một
số sách vở về Lịch sử văn minh văn hóa Pháp, Cách mạng Pháp 1789, các
sách của Jean – Jacques Rousseau (1712 – 1778), Voltaire (1694 – 1778) viết
về tự do, dân chủ, nhân quyền. Ông cũng là người nổi tiếng hay chữ với hai
tập sách: “Ước đình thi sao”,viết bằng chữ Hàn, gồm khoảng 300 bài và một
tập thơ Nôm là “Ất Sửu Như Tây Nhật ký”. Ông mất ngày 4 tháng 4 năm Ất
Tỵ (7/5/1905), thọ 73 tuổi. Ông chỉ có hai người con gái, trong đó có bà Đạm
Phương là thứ nữ, do vậy ông đã dành tình yêu thương và công sức dạy dỗ
cho các bà chẳng khác gì con trai.
Mẹ của Đạm Phương là Tài Nhân Trần Thị Thanh, cho đến nay vẫn
chưa có tư liệu gì về dòng dõi bên ngoại của Đạm Phương nên chưa rõ về
thân thế của bà Trần Thị Thanh.
Là người thông minh, Đạm Phương được mẹ dạy cho chữ Hán từ rất
12
sớm, sau đó gia đình lại mời thầy đồ Nghệ dạy thêm. Tuy sinh ra trong bối
cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm chiếm, cai trị nhưng do xuất thân trong
hoàng tộc nên Công Nữ Đồng Canh được thừa hưởng đặc quyền, đặc lợi, và
được thừa hưởng truyền thống văn học, giáo dục tốt đẹp của hoàng tộc. Vì
thế, ngay từ thời ấu thơ, Công Nữ Đông Canh đã được dưỡng dục quy củ và
đến thời niên thiếu đã được học hành nghiêm túc cả Hán văn, Pháp văn và
quốc ngữ. Bà còn được vào phủ chúa học cầm, kỳ, thi, họa, thêu thùa, cắt
may, nấu nướng. Đó là những kiến thức nền tảng cơ bản đã kết tinh thành
vốn văn hóa vững chắc mà Đạm Phương có được khi trưởng thành.
Năm 1890, bà theo gia đình sống ở “Học bạn tinh xá” (nay ở Phường
Thủy Xuân, Huế) và theo học công chúa Quy Đức tại phủ Vĩnh Trinh. Trong
thời thiếu nữ, bà đã có hai tập thơ chữ Hán là “Đông quán thi tập” và “Tú dư
xích độc”.
Năm 1897, Công Nữ Đồng Canh tròn 16 tuổi và lập thân với ông nghè
tập ấm Nguyễn Khoa Tùng (Hậu duệ thứ 6 của Nguyễn Khoa Chiêm (1659 -
1736), quê gốc Hải Dương, nay thuộc Xã Lê Lợi, Huyện An Hải, Hải Phòng, tác giả Nam triều công nghiệp diễn chí1 – Tiểu thuyết lịch sử đầu tiên của
nước ta). Bà sinh con gái đầu lòng là Nguyễn Khoa Diệu Nhơn. (Chữ Diệu
lót tên con gái trong nhiều gia đình dòng họ Nguyễn Khoa bắt đầu từ bà Diệu
Nhơn.). Trong cuộc sống, hai vợ chồng bà Đạm Phương và ông Nguyễn
Khoa Tùng rất tâm đầu ý hợp, thường cùng nhau xướng họa thơ văn nên có
chung một tập thơ chữ Hán lấy tên là “Hiệp Bích thi cảo”. Năm 1898, bà
sinh người con gái thứ hai là Nguyễn Khoa Diệu Duyên, năm 1900 bà sinh
người con trai đầu là ông Nguyễn Khoa Tú. Năm 20 tuổi bà được mời vào
cung để dạy công chúa và cung nữ học tập. Tên Đạm Phương nữ sử ra đời từ 1 Sách ra đời năm 1720, năm 1984 dịch từ Hán văn sang Việt văn, tới nay tái bản ba lần, 1994 Nxb Hội Nhà văn tái bản sách 632 trang khổ 13 x 19 cm.
13
đó. Năm 1906, bà sinh ông Nguyễn Khoa Văn tức Hải Triều. Năm 1914, bà
sinh người con thứ năm là ông Nguyễn Khoa Châu (Hải Châu). Năm 1918,
bà sinh người con gái út là bà Nguyễn Khoa Diệu Vân.
Tháng 4 năm 1918, bà tiếp kiến ông Phạm Quỳnh, chủ bút báo Nam
Phong đến thăm. Sau chuyến thăm Huế này, Phạm Quỳnh có bài du ký
“Mười ngày ở Huế” có nhắc đến cuộc tiếp xúc đó. Có lẽ Nam Phong là tờ
báo đầu tiên thu hút bà vào con đường báo chí. Tháng 7 năm 1918, bà viết
những bài báo đầu tiên cho Nam Phong (tạp chí xuất bản tại Hà Nội năm
1917), năm 1919, 1920 bà làm trợ bút cho nhật báo Trung Bắc tân văn (Xuất
bản năm 1915 tại Hà Nội), giữ mục “Lời đàn bà” trên tờ Thực nghiệp dân
báo (Xuất bản năm 1920, tại Hà Nội). Năm 1922 bà là biên tập viên nữ giữ
mục “Văn đàn bà” trên tạp chí Hữu Thanh (Hà Nội). Đây là khoảng thời
gian bà thể hiện một bút lực dồi dào với hàng loạt những bài viết trên các báo
lớn ở khắp ba miền Bắc – Trung – Nam. Ngày 25/5/1923, tiểu thuyết KTC
của bà được đăng nhiều kỳ trên Trung Bắc tân văn. Năm 1923, bà cho đăng
trên tạp chí Nam Phong bài viết “Khảo cứu về tuồng hát An Nam”. Ngày
3/2/1926, trên tờ Thực nghiệp dân báo, bà viết bài “Nữ lưu với ông Phan Bội
Châu”. Chính vì những đóng góp về văn hóa văn học đó mà năm 1925, bà
được chính quyền Nam triều thưởng Kim Tiền (một hình thức khen thưởng vì
những đóng góp về văn hóa).
Trong khoảng thời gian này, bà cũng tiếp xúc với các nhà chí sĩ yêu
nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,…Năm
1926, tại lễ truy điệu Phan Chu Trinh ở Huế, bà được ủy nhiệm đọc bài văn tế
do cụ Phan Bội Châu soạn. Năm 1926 đến 1927, cụ Huỳnh Thúc Kháng xúc
tiến việc xin ra báo Tiếng Dân, tờ nhật báo đầu tiên ở Trung kỳ, lấy nhà hai
ông bà Nguyễn Khoa Tùng – Đạm Phương ở Đập Đá, Vỹ Dạ làm địa chỉ liên
lạc với nhà nước bảo hộ.
14
Ngày 15/6/1926, sau nhiều tháng chuẩn bị, NCHH đã ra đời và lễ
khánh thành được tổ chức long trọng tại Huế. Sau đó, Đạm Phương đã dành
thời gian mở rộng giao lưu tiếp xúc với các bậc nhân sỹ trí thức, các giới nữ
lưu ở cả ba miền để tìm hiểu học hỏi. Bà đã đến Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng,
Mỹ Tho, Gò Công, Thanh Hóa… để bàn bạc về giáo dục phụ nữ, liên kết mở
rộng hoạt động nữ công và báo chí xuất bản. Năm 1927, NCHH xuất bản
quyển “Nữ quốc dân tu tri” của Phan Bội Châu do cụ tặng khi còn ở dạng
bản thảo. Năm 1928, bà cho ra mắt công trình khảo cứu “Bàn về giáo dục con
gái”. Trong các năm 1928, 1929, 1931 bà cùng các cô giáo của NCHH cho
xuất bản ba tập “Nữ công thường thức”, ghi lại những bài giảng về nữ công
để phổ biến rông rãi cho nữ giới. Năm 1928, Đạm Phương nữ sử soạn tác
phẩm “Phụ nữ dự gia đình” do Nữ lưu Thư quán Gò Công xuất bản. Năm
1929, bà cũng xuất bản tiểu thuyết “Hồng phấn tương tri” tại Nữ lưu thơ
quán, Gò Công, số lượng 10.000 bản.
Sau 10 năm làm việc rất sôi nổi (1920 – 1930) thì từ năm 1930 đến
1945 hoạt động của bà trầm lắng hơn. Những năm này đã xuất hiện những
tình huống chính trị xã hội và hoàn cảnh gia đình khiến bà không sống và làm
việc như cũ. Về xã hội, sự có mặt những tổ chức chính trị tiền thân và tiếp đó
sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương đã làm cục diện chính trị thay đổi;
thế hệ chống thực dân Pháp bây giờ không còn là những người gần gũi về
học thức và chí hướng với bà như: Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền,
Nguyễn Khắc Hiếu,… mà là một lớp trẻ hơn như Phan Đăng Lưu, Võ
Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Diểu, Trần Huy Liệu và cả con trai bà là Hải Triều
Nguyễn Khoa Văn. Đời sống báo chí vẫn rất sôi nổi nhưng các tờ báo phụ nữ
xuất hiện trước và sau năm 1930 đều nhanh chóng chìm lắng. Đặc biệt, sự
đàn áp của thực dân cũng trở nên khốc liệt hơn. Gia đình bà là đối tượng bị
truy xét. Đầu tháng 8 năm 1929, bà bị bắt, nhà cửa bị lục soát. Mật thám
15
Pháp nghi ngờ bà quan hệ với Đảng Tân Việt. Lúc đầu bà bị giam ở khu
thường phạm, sau đó giam trong khu tù nhân chính trị tại lao Thừa Phủ.
Tháng 9 năm 1929, bà ra tù mà không có án, ngay sau đó bà từ chức Hội
trưởng NCHH. Tuy nhiên bà vẫn cộng tác và thường xuyên lui tới Hội. Sự
kiên năm 1942, Nam Phương hoàng hậu đến thăm NCHH, sau đó bà Đạm
Phương đã vào cung đáp lễ chứng tỏ Đạm Phương vẫn là linh hồn của Hội.
Tháng 1/1930, Hải Triều con trai bà bị bắt ở Đò Trai (Hà Tĩnh), trong
lúc chuẩn bị họp hội nghị toàn quốc của Đảng Tân Việt, sau đó được thả.
Ngày 10/7/1930 bầu nghị viện dân biểu Trung kỳ nhiệm kỳ 1930 – 1934, ông
Nguyễn Khoa Tùng ra ứng cử nhưng không trúng cử. Năm 1931, tại Sài Gòn,
ông Nguyễn Khoa Tú, con trai đầu của bà Đạm Phương bị Pháp bắt và bị tra
khảo đến chết, tiếp đó, Hải Triều cũng bị bắt và giải ra Huế làm án, tháng
7/1932, Hải Triều được thả tự do nhưng vẫn bị quản thúc tại gia.
Năm 1932, ông Nguyễn Khoa Tùng, chồng bà đau buồn vì hoàn cảnh
gia đình cũng ốm chết. Những ràng buộc của hoàn cảnh cộng thêm những
tang tóc trong gia đình làm bà suy sụp về tinh thần. Bà lập một cái am thờ
Phật bằng tranh lấy tên “Quan tâm tịnh thất” gần mộ chồng, hằng ngày đọc
kinh, thắp hương cho ông. Ba năm sau (1935) mộ ông Nguyễn Khoa Tùng
được xây dựng thành lăng, bà mới giảm việc lui tới. Bà cũng dành nhiều thời
gian cho sinh hoạt Phật giáo như một cư sĩ tại gia, thường viếng chùa, đàm
đạo Phật học, dịch kinh sách cho các chùa.
Tuy nhiên, bà vẫn theo dõi sách báo trong chừng mực nhất định và
thỉnh thoảng trả lời phỏng vấn, viết thư trao đổi vấn đề phụ nữ, vận động ủng
hộ đồng bào trong vụ Pháp đàn áp Xô Viết Nghệ Tĩnh, đồng bào các tỉnh bị
lũ lụt,…Thời gian chính, bà dành để nghiên cứu và biên soạn về các sách
giáo dục nhi đồng, giáo dục phụ nữ. Tháng 1/1942, bà cho xuất bản sách
“Giáo dục nhi đồng”, in tại nhà in Lê Cường, Hà Nội, số lượng 4.000 bản.
16
Năm 1943, bản thảo sách “Giáo dục phụ nữ” đã gửi nhà xuất bản nhưng do
khó khăn về giấy in, tiếp đó do biến động chính trị, sách chậm ra, bản thảo
thất lạc. Năm 1944, bản thảo tiểu thuyết “Năm mươi năm về trước” của bà,
phê phán hiện thực hủ bại ở cung đình, bị kiểm duyệt và tiêu hủy sau khi đưa
đến nhà xuất bản.
Ngày 23/8/1945 Cách mạng tháng Tám thắng lợi ở Huế. Bảo Đại vị
vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam trao ấn kiếm cho chính quyền
cách mạng. Tháng 12/1946, bà Đạm Phương tản cư ra Vinh rồi Thanh Hóa.
Trong chuyến đi, bản thảo bộ sách bà thu vén suốt đời là “Đạm Phương thi
văn tập” gồm những tác phẩm đăng báo đã được sửa chữa và nhiều bài thơ
chưa từng xuất bản đã bị mất. Bộ sách của Hoằng Hóa quận vương, thân sinh
của bà, hơn mười tập do bà cất giữ cũng bị cháy.
Ngày 10/12/1947 (tức ngày 28 tháng 10 năm Đinh Hợi) sau nhiều ngày
đau yếu, bà qua đời tại thôn Lạc Lâm, Thanh Hóa, hưởng thọ 66 tuổi. Trong
hoàn cảnh kháng chiến, gia đình, đoàn thể và dân làng đã chăm lo cho lễ tang
và nơi an nghỉ của bà rất chu đáo. Nhưng phải đến 60 năm sau, ngày
3/11/2007 con cháu gia đình bà Đạm Phương mới có điều kiện đưa bà trở về
Huế, đặt bà bên cạnh ông Nguyễn Khoa Tùng tại khu Nội Tán (nghĩa trang
của dòng họ).
1.2. Văn nghiệp Đạm Phương nữ sử
1.2.1 Thơ và từ
Đạm Phương làm thơ từ rất sớm, theo tư liệu của Nguyễn Khoa Diệu
Biên và Nguyễn Cửu Thọ ghi lại: “dáng người mảnh mai, khuôn mặt trái
xoan, đôi mắt to và sáng, sống mũi cao, nước da trắng mịn. Tính tình đoan
trang nhân hậu, yêu thiên nhiên, xót xa trước cảnh mất nước, nhân dân lầm
than, đau khổ, Công Nữ Đồng Canh đã sớm trải lòng mình trong những bài
17
thơ thấm đượm nhân tình thế thái. Khi ở thư phòng cũng như khi rỗi rãi ngồi
đung đưa trên võng, đều là thời gian suy tư và sáng tác. Thời con gái, Đồng
Canh đã thu thập và sắp xếp lại các bài thơ của mình thành hai bộ: Đông
quán thi tập và Tú dư xích độc” [36; tr 23- 24]
Khi lấy chồng, do cuộc sống vợ chồng tâm đầu ý hợp, hai ông bà
Nguyễn Khoa Tùng và Đạm Phương thường cùng nhau xướng họa thơ văn và
có chung một tập thơ chữ Hán lấy tên là Hợp bích thi cảo.
Rất tiếc cho đến nay bản thảo của những tập thơ đó không còn nữa nên
phạm vi tư liệu cho phần nghiên cứu thơ của chúng tôi chỉ bao gồm những
bài thơ đã được đăng báo hoặc còn lưu giữ trong tư liệu gia đình. Bà có thơ
đăng báo từ năm 1918 trên Nam Phong, những bài thơ còn giữ được lại của
bà chủ yếu là những bài thơ được sáng tác khi bà đã thực sự chín chắn và tích
lũy đầy đủ vốn sống cũng như những tri thức văn hóa xã hội.
Nếu so sánh với số lượng các trước tác của Đạm Phương trong sự
nghiệp giáo dục và báo chí thì số lượng thơ từ của bà còn lại cho đến ngày
nay không nhiều. Theo thống kê của Lê Thanh Hiền và Nguyễn Khoa Điềm
trong Tuyển tập Đạm Phương nữ sử xuất bản cuối năm 2010 bà có 37 bài.
Ngoài ra, còn khoảng chục bài in trên báo Lục tỉnh tân văn từ năm 1922 đến
1924 mà gia đình mới sưu tầm được nên không kịp bổ sung vào tuyển tập đã
xuất bản. Thơ Đạm Phương là tiếng nói đa dạng thể hiện nhiều cung bậc tình
cảm cũng như tư tưởng của bà về các vấn đề gắn liền với đời sống đương
thời. Chúng tôi chia thơ bà thành các chủ đề:
Thơ tả cảnh
Thơ vịnh sử
Thơ về tình bạn
Thơ về người phụ nữ
18
Thơ biểu dương gương tốt và sự manh nha ý thức nữ quyền
Không chỉ sáng tác thơ, Đạm Phương còn sáng tác từ, tuy chỉ với 3 bài
từ là: Cảnh mùa thu, Ngày xuân nhớ bạn, Trời thu cảm hoài, Đạm Phương
cũng đã cho thấy nét tài hoa nghệ sỹ của mình so với các tác giả nữ cùng
thời.
Quan niệm sáng tác thơ ca
Đạm Phương đã từng phát biểu về quan niệm sáng tác của bà trên
Trung Bắc tân văn ra ngày 23 tháng 02 năm 1923, qua Đoản thiên thi thoại
như sau:
Than ôi! Làm thơ là khó lắm, cổ nhân đã có câu: “Tác thi nan, bình thi
vưu nan”. Tôi là người chi đây mà dám lạm bàn cách làm thơ. Song lẽ, cách
làm thơ có phải bấy nhiêu là đủ đâu, đây chẳng qua là nói riêng về một lối
thơ tiểu xảo làm chơi đó mà thôi, cho nên tôi xin góp một vài lời thiển cận
giãi bày cũng bạn gái. Tóm lại là ý tôi sở dĩ nói có ba điều: 1. Làm thơ tất
phải có đề và giữ cho khỏi lạc đề. 2. Trùng vận, xuất vận, thất vận, thất luật
là thi gia chi tối kỵ. 3. Làm bài thơ ra, hay dở mặc dầu, nhưng cốt làm sao
phải có nghĩa lý cho đủ, đã là người làm thơ, vẫn biết, điệu làm thơ đối với
ngày nay cũng chẳng có ích gì cho đời, nhưng mà đã muốn cách phong nhã
tiêu khiển thì phải nên biết rằng: nghề chơi cũng lắm công phu” [81].
Quan niệm trên của Đạm Phương cho thấy rằng tuy bà chỉ coi làm thơ
là một thú tiêu khiển tao nhã nhưng bà rất coi trọng thể thức làm thơ theo lối
cổ, với nhiệm vụ “văn dĩ tải đạo”. Điều này cũng thật dễ hiểu. Nhìn lại cây
phả hệ của hoàng tộc nhà Nguyễn, chúng ta thấy có rất nhiều ông hoàng, bà
chúa nổi tiếng hay thơ. Ba người con trai của vua Minh Mạng là Miên Thẩm,
Miên Trịnh, Miên Bửu đã lập nên Tùng Vân thi xã được mệnh danh là Tam
Đường ở kinh thành Huế. Tiếp đến là các công chúa Mai Am, Huệ Phố,
19
Nguyệt Đình nổi tiếng với những tác phẩm Nông phu từ, Vũ vọng, Tiều phu
tử, Điền gia tử, …Nghệ thuật thơ của các bà thanh tao, tự nhiên mà trau
chuốt. Chắc chắn rằng ngay từ nhỏ, Đạm Phương đã chịu ảnh hưởng nặng nề
từ không khí văn chương nghệ thuật thấm đẫm tính truyền thống trong dòng
tộc của mình. Dù bà có học tiếng Pháp và tiếp thu nhiều tư tưởng của tân văn
nhưng quan niệm làm thơ theo lối cổ cũng không thể thay đổi trong một sớm
một chiều. Ra đời trong hoàn cảnh giao thời của thơ Việt từ thơ Hán sang thơ
Nôm, rồi từ thơ Nôm sang Quốc ngữ, nhưng Đạm Phương vẫn đi theo phong
cách cổ điển nên các thể thơ, thi liệu, các hình thức phô diễn vẫn in đậm dấu
vết của thơ cổ, chỉ có nội dung thơ là mang không khí thời đại, đậm đà nghĩa
nước tình nhà.
Thơ của Đạm Phương được đăng liên tiếp trên các báo lớn ở khắp ba
miềm Bắc - Trung - Nam như Nam Phong, Trung Bắc Tân văn, Hữu
Thanh,… Điều ấy chứng tỏ rằng trong giai đoạn giao thời này, vẫn còn tồn
tại một lực lượng khá lớn những độc giả yêu thích thơ ca làm theo lối thơ cổ
điển.
Thơ tả cảnh
Trong bài tản văn Ngày xuân đi chơi núi đăng trên Nam Phong, số 21,
tháng 5 năm 1919, Đạm Phương có tâm sự: “tôi là người đa sầu đa cảm
ngắm phong cảnh chừng nào tôi lại càng nghĩ ngợi bâng khuâng chừng nấy”
[17; tr 59]. Có lẽ vì thế mà Đạm Phương sáng tác khá nhiều thơ ca tả cảnh
ngụ tình. Vẫn trên tinh thần tiếp nối truyền thống thơ vịnh cảnh, xướng họa
của các thi nhân xưa, Đạm Phương đã làm những bài thơ miêu tả phong cảnh
thiên nhiên, đặc biệt là những danh lam thắng cảnh của Huế và đất nước.
Tiêu biểu như các bài: Nhớ cảnh núi, Trời thu cảm hoài, Cảnh mùa thu,
Trùng du Trúc Lâm tự, Qua đèo Ngang tức cảnh, Thược dược mới nở, Trả
lời người hỏi thăm Xuân Thành phong cảnh, Lên chùa tức cảnh, Đề núi Bàn
20
A ở Thanh Hóa, Thu gian cảm hoài. Nhìn chung các bài thơ này đều kín đáo
thể hiện các cung bậc tâm trạng của tác giả, một bậc nữ lưu ưu thời mẫn thế.
Như trên đã nói, vốn là người đa sầu đa cảm nên Đạm Phương rất dễ
rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, dù gần gũi và nhỏ bé như một nhành
hoa thược dược do chính tay bà chăm bón đã nở bông, cũng khiến bà làm
thơ:
Bấy lâu nắng giữ với mưa gìn,
Mừng thấy chồi xuân đã có tin.
Hoa nhuộm vàng non trăm vẻ khéo,
Lá đơm xanh nghít một màu in.
(Thược dược mới nở) [17;tr37]
Hay vẻ hiên ngang, hùng vĩ rợn ngợp của Đèo Ngang cũng là đối
tượng trong thơ bà:
“… Xanh ngắt một màu cây dặc núi
Trắng phau muôn khoảnh nước in trời…”
(Qua đèo Ngang tức cảnh) [17; tr32]
Hai câu thực trong bài thất ngôn bát cú đã vẽ lên một bức tranh sống
động về Đèo Ngang với đặc trưng một bên là núi ngút ngàn, một bên là biển
nước mênh mông. Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật tiểu đối, một bút
pháp nghệ thuật tiêu biểu của thơ thất ngôn bát cú: Xanh ngắt/Trắng phau;
một màu/muôn khoảnh; cây dặc núi/ nước in trời.
Trong mảng thơ tả cảnh thì cảnh chùa cũng được bà ưu tiên miêu tả
trong khá nhiều bài thơ. Cảnh chùa Trúc Lâm hiện lên sinh động bởi những
từ láy tượng thanh, tượng hình dung di mà biểu cảm. Đối diện với cảnh ấy là
tâm trạng hoài cổ của thi nhân. Trước cái êm đềm, tĩnh lặng của núi non, hoa
cỏ nơi cửa thiền, lòng tác giả lại miên man hoài niệm:
21
…Sóng tùng giấp giố mây ngàn liệng
Gió trúc vo ve nước suối chen
Khiến cảnh ưa tình ngâm mấy vận
Trông tre chạnh nhớ dấu tiên hiền
(Trùng du Trúc Lâm tự) [17; tr31]
Cách sử dụng các từ láy tượng hình “giấp giố”, tượng thanh “vo ve”
trong những câu thơ tả cảnh này thật giống với cách tả cảnh Kẽm Trống trong
bài thơ cùng tên của bà chúa thơ Nôm – Hồ Xuân Hương: “Hai bên thì núi
giữa thì sông, /Có phải đây là Kẽm Trống không?/Gió giật sườn non khua lắc
cắc./Sóng dồn mặt nước vỗ long ong”.
Và có lúc Đạm Phương lại hồi cố về khung cảnh mây núi trập trùng
trong quá khứ xa xôi:
Phất phất mành tương gió quạt lầu
Thềm hoa xem đã bóng trăng thâu
Bâng khuâng chạnh nhớ miền lâm hác
Vắng mặt Lư Sơn những mấy lâu
(Nhớ cảnh núi) [17; tr22]
Bài thơ trên dày đặc những hình ảnh sáo mòn, ước lệ thường thấy
trong thơ tả cảnh thời trung đại: mành tương, lầu, thềm hoa, trăng thâu, lâm
hạc, Lư Sơn... Lư Sơn mà Đạm Phương nhắc đến ở đây có thể là núi Lư trong
Vọng Lư sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi Lư) của nhà thơ đời Đường, Trung
Quốc là Lý Bạch. Bài thơ mang nặng cảm xúc hoài cổ, nỗi niềm tiếc nhớ về
những giá trị văn hóa tinh thần đã một đi không trở lại.
Từ đề tài, thi liệu đến cảm xúc trong thơ tả cảnh của Đạm Phương vẫn
nằm hoàn toàn trong quỹ đạo thơ tả cảnh truyền thống. Phong cảnh mùa thu
22
là đề tài được các nhà thơ cổ điển khai thác rất nhiều, nó đã trở nên rất quen
thuộc và đến Đạm Phương bà vẫn tiếp tục khai thác đề tài này. Bức tranh thu
của bà mang hơi hướng Đường thi, nhưng vẫn ẩn chứa một nỗi niềm riêng:
Một rặng bờ che bóng nhặt sưa,
Đọi phen gió cuốn tiếng như mưa.
Thuyền ai đậu bến xem dường mỏi,
Khúc hát bên sông lắng đã vừa.
Mấy lớp rộn ràng con sóng vỗ,
Trăm chiều hiu hắt giọng thu đưa,
Xưa nay mấy kẻ đa sầu cảm,
Bên cảnh bên tình luống ngẩn ngơ.
(Thu gian cảm hoài) [36]
Trong mảng thơ tả cảnh Đạm Phương tôn trọng tuyệt đối lề luật làm
thơ theo lối thơ cổ. Chính vì thế trong tất cả các bài thơ trên thường có đủ cả
cảnh, sự, tình. Đề tài, thể thơ, ngôn ngữ, tứ thơ cũng chưa có sự chuyển đổi
gần theo xu hướng hiện đại, điều này phải đến các cây bút kế tiếp sau mới có
điều kiện thực hiện một cách đầy đủ hơn.
Thơ vịnh sử
Ngay từ nhỏ, Đạm Phương đã chịu ảnh hưởng của truyền thống giáo
dục tốt đẹp trong hoàng tộc. Bản tính thông minh lại chăm chỉ, bà tiếp thu
vốn Hán học sâu sắc, thông thuộc sử sách Trung Hoa và Việt Nam. Có thể
những yếu tố đó là tiền đề cho sự ra đời của một chùm bài thơ vịnh sử: Hai
Bà Trưng, Bà Triệu, Vịnh cờ hoa lau, Bà Mỵ Châu, Bà Mỵ Ê.
Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân thơ vịnh sử là loại thơ ngôn chí, tải
đạo, thể hiện chức năng giáo hối, “thơ vịnh sử là thơ vịnh nhân vật lịch sử
23
hoặc sự kiện di tích có liên quan đến nhân vật lịch sử”, “là loại thơ bình luận
đánh giá suy tư mang phong cách chính luận, chứ không phải thơ trữ tình có
dung mạo nội tâm nhân vật”[129; tr 252]. Những nhà thơ làm thơ vịnh sử
Nam nổi tiếng tiêu biểu như: Đặng Minh Khiêm, Hà Nhậm Đại, Nguyễn
Khuyến, vua Tự Đức,…Thơ vịnh sử của Đạm Phương cũng nằm trong tinh
thần chung của thơ vịnh sử trước đó.
Tuy nhiên đặt trong hoàn cảnh xã hội nước Nam ta hồi đầu thế kỷ XX,
chúng ta sẽ hiểu rõ mục đích sáng tác thơ vịnh sử của tác giả Đạm Phương.
Đầu thế kỷ XX là giai đoạn bản lề, sự tiếp xúc giữa văn hóa phương Đông và
văn hóa phương Tây diễn ra hết sức mạnh mẽ và đồng bộ về mọi mặt. Thời
kỳ này diễn ra sự giao tranh và song song cùng tồn tại của nền văn hóa cũ và
nền văn hóa mới, những giá trị văn hóa mới đã dần hình thành trong khi đó
những giá trị văn hóa cũ chưa thể mất đi. Mặt trái của tình trạng này đã dẫn
đến sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận trong xã hội, các tệ nạn xã hội
cũng nảy sinh và hoành hành đặc biệt là ở các đô thị. Chính trong lúc này, đội
ngũ tri thức ra sức tuyên truyền, giáo dục về đạo lý nhân sinh để thức tỉnh
lòng người. Đạm Phương nữ sử cũng sáng tác thơ vịnh sử để tìm những bài
học, những giá trị đạo đức đã trở thành tấm gương nổi bật trong quá khứ để
giáo dục tư tưởng cho thế hệ trẻ đương thời.
Về thể thơ, bà vẫn tuân theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật truyền
thống với kết cấu đề - thực – luận – kết. Tác giả thấm nhuần quan niệm làm
thơ vịnh sử cổ điển thể hiện ở hai câu “đề”. “Chỉ cần đọc hai câu đề là người
đọc có thể biết được người viết muốn đề cập đến ai/đối tượng nào. Nói như
Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, làm thơ vịnh sử mà đủ nghĩa, đủ tinh thần như thế
thì được người xưa gọi là “khai môn kiến sơn” (mở cửa ra thì trông thấy núi
ngay) và cũng thể hiện hết được đặc trưng của thơ vịnh sử. Đây là một đặc
điểm đáng ghi nhận của thơ Đạm Phương” [129; tr253]. Hai câu đề trong bài
24
Bà Triệu, tác giả viết:
Trong rừng dậy phất ngọn cờ vàng
Lừng lẫy anh thư chốn chiến tràng
Hay như hai câu đề trong bài Hai Bà Trưng:
Dựng cờ nương tử rạng nghìn thu
Nợ nước, thù nhà đáp báo phu. [17;tr30]
Không khí lịch sử trong những câu thơ vịnh sử của Đạm Phương cũng
thật giống với thơ vịnh sử của Lê Thánh Tông trước đó gần bốn trăm năm:
Trợ dân dẹp loạn trả thù mình
Chị rủ cùng em kết nghĩa binh.
(Trưng Vương – Lê Thánh Tông)
Trước đó, không chỉ Lê Thánh Tông mà Đặng Minh Khiêm, Nguyễn
Khuyến… cũng làm thơ vịnh về Hai Bà Trưng. Các tác giả này nhắc đến Hai
Bà Trưng gắn liền với hình ảnh của một nữ anh hùng có công lao lớn đối với
nhân dân đất nước theo quan điểm trung quân ái quốc. Đến thơ vịnh sử của
Đạm Phương và các tác giả đầu thế kỷ XX viết về Hai Bà Trưng thì cảm
hứng ca ngợi chủ yếu là khẳng định giá trị người phụ nữ vẹn toàn đã làm tròn
bổn phận với gia đình và đất nước “Nợ nước, thù nhà đáp báo phu”. Quan
niệm của Đạm Phương khi viết về Hai Bà Trưng vẫn nằm trong khuôn khổ
của quan niệm Nho giáo về người phụ nữ, dù Hai Bà Trưng là anh hùng
nhưng vẫn là phụ nữ nên vẫn được nhìn nhận trong mối quan hệ với người
chồng, vì báo được thù chồng nên càng đáng ngợi ca.
Vẫn đề tài này, nhưng hơn chục năm sau đó, tác giả Ngân Giang đã
thổi một luồng gió mới vào hình tượng nhân vật anh hùng Hai Bà Trưng
trong bài thơ vịnh sử “Trưng Vương Nữ”. Nhìn nhận dưới góc độ nữ tướng
Trưng Vương trong thân phận là một người phụ nữ góa bụa, Ngân Giang
25
không nặng về việc ca ngợi công trạng của nhân vật lịch sử như các tác giả
trước đó mà xoáy sâu vào tâm trạng cá nhân hết sức thấm thía của nhân vật:
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ loi
(Trưng Nữ Vương)
Câu thơ đọc lên nghe tê tái đến nao lòng! Sau khi thắng trận trở về nữ
tướng Trưng Vương phải đối diện với sự cô đơn, lạnh lẽo và trống vắng.
Trong những câu thơ này, nhân vật lịch sử hiện lên hết sức gần gũi và đời
thường. Tác giả không khai thác tính chất oai hùng, phi thường của nữ tướng
Trưng Vương mà thật tinh tế khi phát hiện ra giây phút thực sự yếu đuối
mong manh ẩn chứa trong tâm hồn đầy nữ tính của một nữ tướng vĩ đại trong
lịch sử. Đây chính là biểu hiện nhân văn, biểu hiện tính nữ còn hiếm hoi
trong văn học đương thời. Có lẽ vì thế bài thơ Trưng Vương Nữ của Ngân
Giang đã tạo ra những dư âm mạnh mẽ trên thi đàn văn học ngay sau khi nó
ra đời.
Khác với các tác giả trong những thế kỷ trước, thường làm nhiều thơ
vịnh sử Trung Hoa, Đạm Phương chỉ vịnh sử Nam. Điều này thể hiện ý thức
suy tôn danh nhân lịch sử văn hóa đất nước. Thêm một điều đặc biệt nữa, hầu
hết những bài thơ vịnh sử của Đạm Phương đều viết về người phụ nữ: Mỵ
Châu, Mỵ Ê, Bà Triệu, Hai Bà Trưng. Nếu hình tượng Hai Bà Trưng, Bà
Triệu là để ngợi ca người phụ nữ đã ghi danh sử sách khi làm tròn bổn phận
với gia đình, đất nước thì những bài như Vịnh Mỵ Ê, Mỵ Châu lại là để ca
ngợi, nêu gương những phụ nữ trinh liệt và tiết hạnh. Trên cương vị là một
người phụ nữ, bà tỏ ra hiểu và thông cảm cho những số phận phụ nữ rơi vào
26
hoàn cảnh éo le, không thể tránh khỏi trong một thời khắc lịch sử nhất định
tiêu biểu như nàng Mỵ Châu, nàng Mỵ Ê. Nhân vật Mỵ Châu thường bị coi là
một tội nhân trong sự kiện Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc, nhưng Đạm Phương
vẫn viết về Mỵ Châu với niềm thương cảm và quan điểm đánh giá là đáng
thương hơn đáng trách. Lời thơ không còn lạnh lùng, nghiêm nghị, thay vào
đó là chất trữ tình nồng đượm:
Nam Bắc gây nên cuộc chiến thâu
Cơ trời dâu bể thấy mà đau
Nhà tan nước vỡ đành ra thế
Ngọc nát châu chìm cớ bởi đâu
Lai láng dòng xanh sa giọt tủi
Bơ vơ non bạc kéo mây sầu
Nỏ rùa lông ngỗng mà nên việc
Bởi quá tin nhau hóa hại nhau
(Bà Mỵ Châu)[17; tr28]
Đánh giá về nhân vật Mỵ Châu có nhiều ý kiến khác nhau, có người
cho rằng nàng đáng trách vì không biết suy nghĩ đến vận mệnh đất nước, vì
tình riêng mà hại đến việc chung của toàn dân tộc. Có người lại bênh vực,
thậm chí ca ngợi tình yêu chung thủy, sâu sắc của nàng. Đạm Phương là một
trong số đó. Điều này dễ dàng giải thích vì tác giả đã nhìn nhận Mỵ Châu
theo đúng quan niệm đạo đức phong kiến, và đánh giá Mỵ Châu theo tiêu chí
“tam tòng tứ đức” thì Mị Châu là người vợ rất chung thủy, nàng “nặng phần
đáng thương mà nhẹ phần tội lỗi. Nàng là người con gái hiền thục, trọn đạo
hiếu, vâng lời cha lấy chồng, lấy chồng thì một lòng tin yêu chồng. Sao có thể
trách nàng mất cảnh giác với chồng mình được” [37; tr20]. Trong thơ vịnh
sử thời kỳ này, nàng cũng nhận được sự đồng cảm của phần lớn các tác giả.
27
Còn trong trường hợp của bà Mỵ Ê, vợ vua Chiêm Thành, bị quan
quân nhà Lý bắt, trên đường về Thăng Long đã nhảy xuống sông Hoàng
Giang tự vẫn để bảo toàn danh tiết, Đạm Phương hết mực ngợi ca sự chung
thủy, trinh tiết của bà:
Ơn vua nợ nước trả xong
Dám tiếc làm chi mảnh má hồng
Sau trước vẫn cam bề sống thác
Mất còn nỡ để thẹn non sông
Mây sầu lớp lớp bay về Bắc
Sóng thảm rùng rùng cuộn hướng Đông
Đợi phải chiếu rồng ban triện đến
Đã đành trọn tiết với vương công
(Bà Mỵ Ê) [17; tr29]
Đạm Phương nữ sử đã nhìn nhận cái chết của Mị Ê là tấm gương sáng
bảo toàn trinh tiết giống như hầu hết các tác giả thời kỳ này. Mặc dù bản thân
Đạm Phương là một phụ nữ có tư tưởng tiến bộ về phụ nữ, có nhiều hoạt
động cho sự phát triển nữ học ở nước ta những năm đầu thế kỷ XX nhưng
cũng không tránh khỏi tư tưởng mang tính chất thời đại về người phụ nữ.
Đạm Phương vịnh Mỵ Ê theo quan điểm đạo đức cũ của nhà nho là ca ngợi
liệt nữ để nêu gương sáng cho người đời học tập. Cái chết của Mị Ê là bằng
chứng cho thấy sự trung trinh, tiết nghĩa của nàng, đây chính là đòi hỏi quá
khắc nghiệt và tàn nhẫn đối với người phụ nữ theo quan điểm nam quyền,
phụ nữ phải hi sinh vì nam giới chứ không có điều ngược lại. Trong bài viết
Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói phương pháp luận
vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền, nhà nghiên cứu
Trần Nho Thìn nhìn nhận người phụ nữ với tư cách là thực thể văn hóa và
28
cho rằng: “Nhưng chẳng có tính qui luật tất yếu nào trong việc người vợ
phải/ nên tuẫn tiết theo người chồng đã chết. Đó chỉ là cách tuyên truyền đầy
ích kỷ của đạo đức nam quyền bất công. Không có người đàn ông nào tuẫn
tiết, chết theo người vợ.” [141]. Từ nhận định này, có thể thấy rõ sự hạn chế
và mâu thuẫn trong tư tưởng của Đạm Phương về vấn đề phụ nữ, bà có nhiều
đóng góp về tư tưởng giải phóng phụ nữ nhưng cũng không thoát khỏi sự
cương tỏa về mặt ý thức hệ Nho giáo khi đề cao mẫu người phụ nữ thủ tiết và
tuẫn tiết. Đây chính là vấn đề về tiết trinh và nết trinh mà Phan Khôi đã bàn
đến rất rạch ròi (chúng tôi sẽ trình bày trong chương tiếp theo của Luận văn).
Xét theo nghĩa của “Tiết trinh” thì Mỵ Ê buộc phải chết thì mới gọi là có
danh tiết, nhưng xét về nết trinh thì nếu Mỵ Ê không tự vẫn thì vẫn có thể
được coi là có danh tiết.
Nhân đây, xin nêu ra một phép giả thử của nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại
Trường trong tác phẩm Việt sử đọc một quyển: “Ông (Lý Thái Tông) hấp tấp
không lường được tâm cảm của kẻ thấy cảnh nước mất nhà tan còn sờ sờ
trước mắt, và còn có sông nước thuận tiện bên cạnh tù binh, chứ nếu ông từ
từ đưa về Thăng Long, an trí ở cung Ngân Hán xây xong thì Mị Ê hẳn cũng
như Bà chúa Lẫm, Bà chúa Dệt Lĩnh nào đó được chia phần ruộng của ông
hoàng đế điền chủ, sẽ thu lúa ruộng, trông coi quan nô tì trồng dâu nuôi tằm,
an hưởng phúc mới, không cần phải tạo ra một cái chết bất đắc kì tử làm
hoảng sợ ông vua của một thời lẫn lộn thần người, phải xây miếu đền để cầu
xin tha thứ. Các nho thần về sau cũng chỉ là làm việc phụ hoạ, tán tụng
người chết theo quan điểm của mình học được, vừa tỏ lộ được sự thông thái
vừa để vớt vát uy tín của đấng quân vương vốn chưa từng sống như mình
tưởng.” [144]. Tạ Chí Đại Trường dựng lại hoàn cảnh Mỵ Ê tự vẫn và cho
rằng Mỵ Ê tự vẫn là do tâm lý nhất thời lúc đó chứ không phải vì nghĩ đến
việc bảo toàn danh tiết cho người đời sau ca ngợi, trong khi đó Lí Thái Tông
29
lập miếu thờ vì sợ hãi và muốn xoa dịu cảm giác tội lỗi hơn là để ca ngợi.
Nhưng các nho thần về sau đã đua nhau ca ngợi, tán tụng cái chết của Mỵ Ê
để làm minh chứng cho quan điểm phụ nữ tuẫn tiết, thủ tiết là đáng tôn vinh,
ngợi ca theo Tống Nho mà các nhà nho đã học được. Và cứ như một dòng
chảy không ngừng, vấn đề liệt nữ đã hằn sâu vào thế hệ các nhà nho nối tiếp
và đến đầu thế kỷ XX, những tác giả như Đạm Phương tuy đã được tiếp cận
với những tư tưởng, học thuật mới vẫn không thoát khỏi tư tưởng ca ngợi liệt
nữ theo quan điểm nam quyền phong kiến.
Tiểu kết
Đạm Phương đã đem quan niệm nho giáo về người phụ nữ để bình
luận các nhân vật lịch sử nữ, từ đó đúc rút ra những bài học, những giá trị đạo
đức cho thời đại. Có thể nói, đó cũng chính là dụng ý của Đạm Phương khi
sáng tác chùm bài thơ này. Ngoài ra, bà cũng đã cho thấy một tầm hiểu biết
sâu rộng về các nhân vật lịch sử như Mỵ Châu, Mỵ Ê, Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, Đinh Tiên Hoàng, cũng như những sự kiện, diễn tiến lịch sử xung
quanh những nhân vật đó. Về thể thức và nghệ thuật thơ vịnh sử của Đạm
Phương không có gì mới, bà vẫn tuân theo thể thức của thơ vịnh sử truyền
thống. Về nội dung và cảm hứng, thơ vịnh sử của bà tuy có chú trọng hơn
đến hình tượng người phụ nữ nhưng vẫn không thoát ra khỏi không khí
chung của thơ ca cổ điển viết về người phụ nữ trước đó.
Thơ về tình bạn
Đạm Phương nữ sử là người phụ nữ năng nổ tháo vát và hoạt động trên
nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau hồi đầu thế kỷ XX nên mối quan hệ bằng
hữu của bà cũng khá rộng rãi. Bà thường làm thơ để thể hiện tình cảm với
những người bạn thân thiết nên so với các tác giả cùng thời, số lượng thơ viết
về tình bạn của bà là khá lớn và đa dạng. Hầu hết những bài thơ viết về tình
bạn của bà đều là những bài thơ viết về tình bạn cùng giới nữ. Điều này phản
30
ánh chân thật quá trình hoạt động vì mục tiêu gắn kết các chị em, gây dựng
tinh thần tự chủ trong giới nữ mà Đạm Phương đã suốt đời theo đuổi. Do hoạt
động kết nối chị em của bà được thực hiện trên khắp ba miền Trung – Nam –
Bắc nên bà đi nhiều, gặp gỡ và tiếp xúc nhiều với những phụ nữ tiêu biểu và
có mối quan hệ thân thiết với họ.Thơ tình bạn của bà được sáng tác bằng
nhiều thể khác nhau. Đó là thể tứ tuyệt. Nhân xem các chị em làm việc tại
NCHH, bà tức cảnh làm bốn bài thơ tứ tuyệt với các nhan đề: Coi chị
Đ.X.NH. thêu bức tranh hoa điều, Chị B.T.D. dạy các trò gái học quốc văn,
Chị P.T.Đ chăn tằm, Chị TR.T.L. dệt vải khung máy. Thể thất ngôn với các
bài: nhớ bạn, tiễn bạn. Thể lục bát là bài Viếng người đạo hữu. Ngoài ra bà
còn viết cả từ khúc để thể hiện tình cảm bằng hữu (Ngày xuân nhớ bạn),…
Tất cả cho thấy một Đạm Phương giàu tình nghĩa, nặng lòng với bạn hữu.
Tình bạn được bà nhắc đến đầy trân trọng và thân thương trong bài
“Nhớ bạn”:
Mảnh trăng đêm rọi bóng quanh thềm
Bóng rọi quanh thềm giấc khó êm.
Giấc khó êm vì thương nhớ bạn
Vì thương nhớ bạn mảnh trăng đêm. [17; tr22]
Cũng như những thi nhân xưa, Đạm Phương sử dụng trăng làm hình
tượng biểu cảm trong nhiều bối cảnh khác nhau. Bài thơ kết cấu theo lối liên
hoàn đầu cuối tương ứng khiến cho “mảnh trăng đêm” như hòa quyện cùng
tác giả trong nỗi cô đơn, thương nhớ bạn đến da diết. Cách sắp xếp các câu
thơ gối đầu lên nhau, cụm từ cuối câu này lại được đảo lên vị trí đầu câu tiếp
theo vừa có tác dụng nhấn mạnh sự hòa quyện giữa tâm và cảnh, vừa tạo nên
nhịp điệu thơ vần vè với dư âm ngân xa không dứt. Cung bậc tình cảm và
cảnh sắc trữ tình này khiến độc giả có thể cảm nhận rằng nhân vật “bạn”
31
được nhắc đến trong bài thơ không phải là một người bạn đơn thuần mà
chính là tri âm, tri kỷ với tác giả.
Không chỉ khắc họa nỗi nhớ bạn mà tác giả còn chú ý khai thác những
khía cạnh và trạng huống khác nhau trong tình bạn. Khi chia xa tiễn biệt, đôi
bạn bùi ngùi lưu luyến:
…Nước chảy khéo xui sầu giục giã
Trăng khuya thêm chạnh chén vơi đầy [17;tr23]
Tác giả vẫn sử dụng mô típ dòng nước chảy trong thơ truyền thống khi
dựng lại cảnh chia tay, tiễn biệt giữa hai người bạn. Cặp câu thơ cân xứng
nhịp nhàng với những hình ảnh đối tương hỗ giúp nhấn mạnh tâm trạng sầu
vơi của nhân vật trữ tình khi phải chia xa người bạn thân thiết. Bài thơ thuộc
loại thơ tống biệt, ức hữu (nhớ bạn) là đề tài khá phổ biến trong văn học
trung đại. Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện đây là một tiếng thơ nữ chúng
ta sẽ nhìn nhận ra sự tiến bộ trong hình ảnh nữ nhân vật trữ tình. Trong thơ
cổ, nhân vật trữ tình trong những bài thơ tống biệt, ức hữu hầu hết là nam
giới vì chỉ nam giới mới giao lưu trong môi trường xã hội, nhưng đến Đạm
Phương, hình ảnh người phụ nữ cũng đã bước ra khỏi khung cửa gia đình
chật hẹp để có những mối quan hệ bằng hữu xã giao.
Và trên thực tế, Đạm Phương có mối quan hệ bằng hữu rất đa dạng. Đó
là những người bạn đồng môn, khi xa cách vẫn thường hỏi thăm về nhau,
xướng họa thơ ca với nhau. Đầu thu đến vãng cảnh chùa Trà Am, nơi sư Viên
Thành – vốn là Công Tôn Hoài Trấp, người bạn đồng môn của Công Nữ
Đồng Canh lúc thiếu thời và đã từng cùng xướng họa nhiều bài thơ chữ Hán
về sau, - trụ trì đắc đạo, Bà hỏi thăm:
… Hồ sen nắng hạ đà phai thắm
Nhành cúc rừng thưa tuyết điểm chưa…
(Vịnh cảnh núi chùa) [36; tr59]
32
Hay tin người đạo hữu là bà Trương Cung Nhơn từ trần, bà đã có bài
viếng gồm 44 câu thơ với lời lẽ thống thiết.
…Mai gầy liễu ốm vì sương
Chạnh lòng nhớ bạn xót thương bàng hoàng
Tấc lòng đòi đoạn ngổn ngang
Người đà hạc nội mây ngàn về đâu
…Những là trông tưởng tần ngần
Chiêm bao họa thấy cố nhân chăng là…
(Viếng người đạo hữu) [17; tr 32]
Trương Cung Nhơn là bà Đạm Thanh, Chánh phi của vua Khải Định,
lúc này bà rời cung xuất gia đi tu ở núi Động Sầm (phía nam Huế). Đạm
Phương và Trương Cung Nhơn là hai người bạn thân thiết, vốn cảm mến
thiên tính không màng danh lợi của Trương Cung Nhơn nên Đạm Phương
càng xót xa, bồi hồi trước sự ra đi của bà. Bài thơ được viết theo thể lục bát
với những ngôn từ ước lệ: gió thu, giọt mưa thu, nhành ngô, bóng ác, mai
gầy, liễu ốm, mây ngàn, trăng tà,…rất phổ biến trong thơ viếng bạn, khóc bạn
trước đó. Bài thơ được chia thành ba đoạn. Đoạn đâu tiên phản ánh tâm trạng
của tác giả khi biết tin người bạn thân thiết từ trần, đó là tâm trạng “xót
thương, bàng hoàng”. Đoạn thứ hai, Đạm Phương tập trung khắc họa những
nét tính cách cao đẹp và thuật lại cuộc đời của Trương Cung Nhơn “hiếu tình
đã vẹn, vơi đầy quản chi”, tác giả nhấn mạnh việc rời cung xuất gia đi tu của
bạn mình: “Nợ trần rũ hết tục tình/ Màng chi ở trốn lợi danh bận mình./Sao
bằng cõi tịnh chùa thanh/Non xanh nước biếc thích mình thảnh thơi.”. Đoạn
cuối cùng, cảm xúc thơ lại trở về đối diện với thực tại đau buồn trước sự từ
trần của người bạn. Tác giả sử dụng một tần xuất lớn các từ láy khắc họa tâm
trạng như: ngậm ngùi, tần ngần, thiết tha, xót xa, bồi hồi,…để khẳng định
33
tình cảm yêu dấu, nhớ thương bạn không thể nhạt phai trong tâm khảm mình.
Kết cấu bài thơ “Viếng người đạo hữu” của Đạm Phương khá giống với kết
cấu bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến ở đoạn đầu và đoạn
cuối, nhưng khác nhau ở đoạn giữa. Nếu như ở đoạn giữa Nguyễn Khuyến
tập trung ôn lại kỷ niệm gắn bó thân thiết giữa hai người từ ngày trai trẻ khoa
cử cùng nhau đến khi tuổi già đầu bạc thì Đạm Phương chỉ đơn thuần ca ngợi
và phục dựng lại cuộc đời thanh đạm của bạn mình. Chính sự khác nhau ở
đoạn giữa đã đem lại hai đánh giá khác nhau về hai bài thơ. Bài “Khóc Dương
Khuê” của Nguyễn Khuyến cho thấy quá trình phát triển của cảm xúc thật hơn,
gần gũi hơn cho nên nó đã lay động được lòng người và trở thành bài thơ nổi
tiếng trong mảng thơ viết về tình bạn của Việt Nam. Bài “Viếng người đạo
hữu” của Đạm Phương không được nhiều người chú ý vì nó giống với một bài
phúng điếu chung chung, khi bà tập trung khẳng định cốt cách thanh cao, vẻ
đẹp tâm hồn của người đã khuất theo một giọng điệu rất cổ điển.
Thơ về người phụ nữ
Xưa nay vẻ đẹp của người phụ nữ đã trở thành đề tài khá quen thuộc
trong thơ ca. Bản thân là một người phụ nữ, Đạm Phương ý thức rất rõ về vẻ
đẹp tâm hồn cũng như vẻ đẹp thể chất của người phụ nữ. Hầu hết các trước
tác của bà đều viết về phụ nữ và vì phụ nữ. Riêng trong mảng sáng tác thơ,
Đạm Phương rất chú trọng miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ. Bà
có làm một chùm bốn bài thơ tứ tuyệt xinh xắn để họa lại vẻ đẹp của người
phụ nữ trong những sinh hoạt đời thường nhất: chơi đàn, câu cá, tiễn bạn,
điểm trang. Bốn bài thơ như một bức tranh tứ bình cổ kính và trang trọng:
Người đẹp chơi đàn
Nõn nà tay ngọc lựa lên dây
Tiếng trúc tơ đưa, tiếng gió lay
34
Nào khách tri âm đâu vắng tá
Khúc đàn mình gảy, một mình hay
Người đẹp câu cá
Nõn nà tay ngọc nhẹ buông câu
Lững đững gương nga cá nép chầu
Thử mượn cần dò xem mặt nước
Nước sâu dễ kịp thiếp tình sâu
Người đẹp tiễn bạn
Nõn nà tay ngọc dắt dìu đưa
Trân trọng lời vàng giọng dễ ưa
Kẻ bước lên xe, người tựa cửa
Bốn tròng lưng lẻo khó chào thưa
Người đẹp điểm trang
Lấp lánh trong gương muốn ngắm hoài
Ơ hay! Mình lại ngỡ là ai
Mây in nước tóc xanh mà mượt
Đào tợ môi son tủm tỉm cười [17; tr23-24]
Bên cạnh những sáo ngữ cổ điển như : tay ngọc, lời vàng, gương nga,
khách tri âm,.. Đạm Phương đã khéo léo sử dụng những từ láy thuần Việt
giàu tính tượng hình một cách rất tinh tế như: lững đững, lưng lẻo, lấp lánh,
tủm tỉm,…Kết hợp với đó là sự sáng tạo trong cách sử dụng những cụm từ và
đảo ngữ. Tác giả không nói “tóc mây” mà nói “mây in nước tóc”, không nói
theo cách truyền thống ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm chuẩn
mực “môi đỏ như cánh đào” mà nói “đào tợ môi son”, không phải “xanh
mượt mà”, mà là “xanh mà mượt”.
35
Về mặt nội dung tư tưởng, chùm bài thơ viết về vẻ đẹp người phụ nữ
đặc biệt là vẻ đẹp ngoại hình đã cho thấy một quan niệm mới mẻ của tác giả
so với quan niệm nho gia. Xưa kia khi nói đến sắc đẹp, các nhà nho thường
đánh đồng với cái ác, cái tiêu cực bởi nhà nho vốn trọng đức hơn trọng sắc,
trọng đức hơn trọng tài. Điều này lí giải vì sao những nữ nhân vật được miêu
tả trong những câu chuyện truyền kỳ, Liêu trai chí dị,…có sắc đẹp mê hồn
thường là những ma nữ, yêu quái, còn những nhân vật phụ nữ thực sự mang
tính tích cực chỉ được nhấn mạnh ở vẻ đoan trang, thùy mị, nết na. Hay như
trong Gia huấn ca, khi giáo huấn người phụ nữ cũng luôn nêu cao tiêu chí
trau dồi đức hạnh, không nên chú trọng ngoại hình: “Ăn mặc chớ mỹ miều
chải chuốt, / Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông, / Một vừa hai phải thì
xong, /Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì? /Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng, /
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,”
Với chùm bài thơ trên Đạm Phương đã trực diện ca ngợi vẻ đẹp ngoại
hình của người phụ nữ, và nhân vật nữ trong thơ bà cũng ý thức rất rõ về vẻ
đẹp thân thể của chính mình, chủ động làm đẹp và ngắm dung nhan của mình
trong gương. Có thể thấy, đây là nhận thức và quan niệm tiến bộ theo tư
tưởng Tây phương: trân trọng vẻ đẹp hình thể của con người nói chung và
người phụ nữ nói riêng. Tư tưởng và quan niệm trên của Đạm Phương tuy
không phải là tư tưởng mang tính chất tiên phong, đột phá vì trào lưu viết về
phụ nữ đẹp cũng đã xuất hiện từ thế kỷ XVIII hay trong văn học dân gian (Cổ
tay em trắng như ngà,/ Con mắt em sắc như là dao cau,/ Miệng cười như thể
hoa ngâu, / Cái khăn đội đầu như thể hoa sen…) , nhưng đây cũng là điểm
mới, tiến bộ trong bản thân một con người được đào tạo theo Hán học như
Đạm Phương.
Một thành công quan trọng trong chùm bài thơ về mỹ nhân này là ở tứ
thơ trong mỗi bài. Ẩn chứa sau mỗi nét sinh hoạt đời thường của người đẹp là
36
một tâm trạng thật thấm thía và nữ tính. Đó là nỗi cô đơn khi tiếng đàn không
khách tri âm, một mình đối diện với chính sự trống trải của mình, “khúc đàn
mình gảy, một mình hay”. Nỗi niềm kẻ ở, người đi nước mắt lưng tròng được
thi nhân lột tả trong hình ảnh “bốn tròng lưng lẻo”, đây là hình ảnh sáng tạo
rất tinh tế, cho thấy nét nữ tính thầm lặng, vừa có chút gì đó dấm dứt không
thôi trong phút chia tay, vừa có nét đỏng đảng, ủy mị của người thiếu nữ đầy
tâm trạng. Thú vị hơn là tứ thơ trong bài “Người đẹp điểm trang”, người phụ
nữ thật duyên dáng tự chiêm ngưỡng và ấn tượng trước vẻ đẹp của chính bản
thân mình trong gương. Theo đánh giá của PGS.TS Lưu Khánh Thơ “Việc
tự ngắm mình trong gương là hành động rất đặc trưng của phái nữ nhưng
đưa được nó vào thơ một cách tự nhiên như ở đây là điều không dễ dàng”
[130; tr 270]
Thơ biểu dương gương tốt và sự manh nha ý thức nữ quyền
Song song với thơ về vẻ đẹp người phụ nữ, bà còn viết những bài thơ
về hoạt động cộng đồng của nữ giới. Mảng thơ này đánh dấu một bước
tiến trong quá trình hiện đại hóa trong chính sự nghiệp thơ ca của nữ sĩ
Đạm Phương. Thoạt đầu bà làm thơ theo đúng cách thức truyền thống, lời
thơ tao nhã, đài các, ước lệ,… không khác thơ ca của các nhà nho trước đó.
Nhưng đến mảng thơ này, tác giả đã bắt được không khí thời đại và hướng
ngòi bút của mình đến hiện thực đời sống. Bà theo dõi sát sao và kịp thời
biểu dương những việc làm hữu ích của chị em với mong muốn những điều
tốt đẹp đó được nhân rộng ra toàn xã hội. Trường hợp của bà Trần Thị Thọ ở
Nam Kỳ có lòng tốt hai lần quyên góp tiền bạc giúp dân làng Phương Trung
làm nhà Bảo Anh nuôi dạy trẻ mồ côi cùng hội Khai trí Tiến đức khiến Đạm
Phương rất xúc động. Tấm gương về bà Trần Thị Thọ đã trở thành cảm hứng
để bà chắp bút viết hai bài thơ, một bài trường thiên và một bài đường luật
với tựa đề “Lời tạ ơn bà Trần Thị Thọ ở Nam Kỳ”:
37
Nghìn năm nước cũ dấu chung linh,
Nòi giống thông minh vốn sẵn dành,
Nam Bắc đều nhuần nền đức hóa,
Nghĩa nhơn từng “mắng tiếng” khuê anh.
Phương Trung, Khai Trí đôi nghìn bạc,
Tây cống đông kinh mấy vạn danh.
Nữ giới ai là người hữu trí,
Gương bà Trần Thị đã treo tranh. [130; tr271]
Biểu dương tấm gương hoạt động xã hội của phụ nữ cũng là đề tài mới
so với văn học trước đó. Đến đây lời thơ đã bớt dần tính chất ước lệ, khuôn
sao mà ta thường thấy trong những sáng tác đầu tay của Đạm Phương khi
trước. Bài thơ có tính chất thời sự và thái độ ngợi ca nêu gương rất rõ. Giai
đoạn này, không chỉ Đạm Phương mà các tác giả nữ khác cũng đã bắt đầu
quan tâm đến những hoạt động xã hội, hoạt động chính trị và bộc lộ đánh giá
cá nhân của mình trước những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử. Sầm Phố một
tác giả nữ cùng thời cũng làm những tiếng thơ tương tự thể hiện trực tiếp tình
cảm ngưỡng mộ và lòng tự hào đối với nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu:
Bốn biển anh hùng sá chi đâu
Hai mươi năm lẻ khắp hoàn cầu,
Tấm gan độc lập nung còn nóng
Giọt máu đồng bào thấm đã sâu
Muốn xáo đất trời Nam lẫn Bắc
Toan xây non nước Á liền Âu
Sức hùm nhờ có hơi nanh vuốt
Thiên hạ ai là biết Bội Châu?
(Tặng cụ Phan Bội Châu)
38
Đó đều là những lời thơ của những bậc nữ lưu tiêu biểu đầu thế kỷ XX,
có tinh thần dấn thân và tư tưởng tiến bộ vượt trước thời đại. Những bài thơ
này thể hiện tình cảm ngợi ca khâm phục của tác giả, đồng thời cho thấy
quan niệm “thi dĩ ngôn chí” của các bậc túc nho. Sự quan tâm đến vận mệnh
đất nước, những vấn đề chính trị cũng như khát vọng tham gia hoạt động xã
hội cũng chính là sự manh nha của ý thức nữ quyền trong sáng tác của các tác
giả nữ thời kỳ này.
Đặt vào thời điểm những năm 20 của thế kỷ XX, khi đất nước và xã
hội Việt Nam rơi vào cảnh biến loạn, đau thương ta càng thêm thấu rõ về ý
thức trách nhiệm mà các bậc nữ lưu tiên tiến tự đặt lên vai mình. Tâm sự này
thể hiện rất cụ thể trong lời tiễn biệt của Đạm Phương với chị Trần Thị
Quyên, một người bạn và cũng là một người đồng chí thân thiết với bà:
…Nặng vì xã hội lòng công ích
Gắn bó công trình đã bấy lâu.
Những ước bao giờ gặp lại nhau
Làm xong nghĩa vụ trước như sau
Lòng này đã hẹn cùng sông núi
Bồ liễu khuyên ai chí trượng phu
(Thơ tiễn biệt chị Trần Thị Quyên) [17; tr35]
Ngôn ngữ trong những bài thơ này của Đạm Phương đã tiến dần đến
ngôn ngữ của đời sống thường nhật, không còn trau chuốt, ước lệ như trong
thơ cổ điển mà chính bà đã chịu ảnh hưởng rất lớn khi làm thơ tả cảnh trước
đó. Nội dung cảm hứng thơ cũng rất mới mẻ và đã phản ánh được không khí
thời đại, không khí nhập cuộc, tham gia các hoạt động xã hội của chị em phụ
nữ. Hay như trong bài “Chị B.T.D. dạy các trò gái học quốc văn”, từ không
khí của buổi dạy học, tác giả đã khẳng định bổn phận của người phụ nữ trong
39
thời đại mới:
Vườn xuân vui xới lấy xuân hoa
Rèn đúc tinh thần tiếng nước nhà
Hỡi chị em ai từng đọc sử
Dựng nền độc lập phải đàn bà?
(Chị B.T.D. dạy các trò gái học quốc văn) [17; tr 50]
Không dừng lại ở đó, chúng ta vẫn thấy ẩn hiện trong hai câu cuối của
bài thơ này một giọng điệu bi tráng hiên ngang, tràn trề khí phách không thua
kém gì các bậc nam giới mà theo nữ sĩ Manh Manh là sự mô phỏng tính nam,
mô phỏng con người “bổn phận và trách nhiệm” vốn là đặc thù của đấng nam
nhi thời phong kiến. Ta còn thấy âm hưởng này trong thơ của Cao Ngọc Anh,
Mộng Tuyết sau đó vài năm:
Nghĩ mình lại ngán cho mình,
Chẳng có chi mà lại có danh.
Không thế, không thần, không sự nghiệp,
Dở tiên, dở tục, dở tu hành.
Bầu vơi rượu thánh hồn lai láng,
Túi nhẹ thơ tiên trí quẩn quanh.
Đạo hữu ơ hay đâu vắng nhỉ,
Biết ai đàm đạo mấy câu kinh.
(Tự trào) [128; tr257]
Hay mang sắc thái trong trẻo, thanh thoát và nhuần nhị, dịu dàng hơn:
Hồng Lạc người chung một giống nòi,
Có đâu Nam Bắc đất chia hai.
Xót tình máu mủ cơn nguy biến,
40
Xẻ áo, nhường cơm ai hỡi ai.
Máu chảy ruột mềm đau xót lắm,
Rách lành đùm bọc lấy cho nhau.
Trong nhà đang có người kêu đói,
Xẻ áo nhường cơm mau hỡi mau.
(Xẻ áo nhường cơm – Mộng Tuyết)[128; tr257]
Và với Đạm Phương cũng vậy, tinh thần trách nhiệm với đất nước
không chung chung, mơ hồ hay to lớn mà chính là những việc làm cụ thể,
thiết thực và trực tiếp nhất. Đó là nhiệt huyết khi tổ chức cuộc bán bánh vì
đồng bào bị lụt ở Thanh Hóa. Bài thơ thể hiện tinh thần tương thân tương ái
của chị em trong NCHH. Đặc biệt với ý nghĩa cổ vũ động viên những hoạt
động xã hội của phụ nữ, xây dựng hình ảnh người phụ nữ đẹp trên bình diện
xã hội, vốn chỉ là môi trường hoạt động của nam nhi là một bước chuyển biến
tiến bộ mà Đạm Phương đã mang đến cho thơ ca đầu thế kỷ:
I
Gió mưa một trận khéo vô tình,
Mấy huyện sinh linh hạt tỉnh Thanh.
Chìm nổi đã đành theo vận nước!
Giống nòi cảnh thế dễ làm thinh?
II
Làm thinh không nỡ phải ra tay,
Kẻ của người công giúp hội này.
Bồ liễu theo gương người nghĩa khí,
Nhiễu điều phủ giá mới từ đây.
III
41
Từ đây đã hiểu chữ tương thân,
Công đức chia nhau gánh một phần.
Nghề mọn riêng tay giùm việc nghĩa,
Tiếng oanh gọi bạn khắp xa gần.
IV
Xa gần nô nức cuộc làm lành,
Sắp đặt đều tay bọn gái mình.
Lan xạ thơm tho trường hợp tác,
Nữ công thêm rạng vẻ tinh anh!
(Cuộc tổ chức bán bánh giúp dân bị lụt Thanh Hóa) [17; tr36]
Nhịp thơ hối hả, gấp gáp, tái hiện sinh động không khí buổi bán bánh
cứu đói. Rõ ràng bài thơ đã khẳng định trách nhiệm của nữ giới trong các
hoạt động xã hội vì đồng bào, vì tổ quốc. Ở đây người phụ nữ không còn chỉ
quẩn quanh trong nhà dưới bếp, họ đã biết đoàn kết nhau lại gánh vác một
phần trách nhiệm với các công việc chung của tổ quốc. Đó chính là cái mới,
sự tiến bộ đáng ghi nhận trong mẫu người phụ nữ tưởng như rất truyền thống
ở Đạm Phương. Bà là một người phụ nữ đã có tầm hiểu biết rộng rãi các sự
kiện thời sự liên quan đến phụ nữ trên phạm vi toàn quốc, ở cả ba kỳ chứ
không phải mẫu phụ nữ cũ chỉ biết tề gia nội trợ. Cao Thị Ngọc Anh, Sương
Nguyệt Anh… cũng là những mẫu phụ nữ như vậy, vì thế không khó khăn gì
để thấy được không khí thời đại trong những sáng tác của các tác giả nữ thời
kỳ này. Đây là hình ảnh cuộc khởi nghĩa ở Nghệ An trong phong trào chống
Pháp dưới cái nhìn của Cao Thị Ngọc Anh:
Ghê gớm ai gây tấn kịch trường?
Biết bao kẻ khóc với người thương!
42
Lam Giang sóng cuộn trăm dòng lệ,
Hồng Lĩnh tro vùi một đống xương.
Nóng mặt anh hùng người chí sĩ,
Đau lòng cố quốc, khách tha hương.
Ngán thay ngọn lửa vô tình nhỉ,
Trông thấy mà ai chẳng đoạn trường.
(Cuộc khởi nghĩa ở Nghệ An) [130; tr268]
Các tác giả nữ thời kỳ này, đã bắt đầu vượt ra khỏi những nỗi niềm
riêng, những tâm sự nhỏ bé để hướng tầm nhìn ra xa hơn, suy ngẫm về vận
mệnh đất nước, dân tộc. Họ thấy rằng, công việc xã hội không chỉ còn là công
việc riêng của đấng nam nhi mà còn là công việc chung của nữ giới. Họ tự đặt
cho mình trách nhiệm và bổn phận trước cảnh đất nước lâm nguy. Chẳng thế
mà khi vua Thành Thái vào Nam, Sương Nguyệt Anh đã xúc cảm làm bài thơ
mang nặng tấm lòng hoài cổ, nỗi niềm yêu nước thương dân sâu nặng:
Ngày thu may gặp hội minh lang
Thiên hạ ngày nay trí mở mang.
Tấc đất ngọn rau tràn dưới mắt,
Đại cơm bầu rượu chất bên đàng.
Vui lòng thánh đế nơi xe ngựa,
Xót dạ thần dân chốn lửa than.
Nước mắt cô cùng, trời đất biết,
Biển dâu một cuộc nghĩ mà than
(Nhân vua Thành Thái vào Nam) [130; tr268]
Có thể thấy dù đi vào bộc bạch những nỗi niềm riêng hay luận bàn
những vấn đề xã hội thì thơ văn các cây bút nữ thời kỳ này đều thấm đẫm
chất nhân văn và in dấu vết của vẻ đẹp nữ tính: thương cảm, quan tâm đến
43
mỗi số phận, mỗi cuộc đời. Trong sáng tác của họ chúng ta nhận ra bên cạnh
một cái tôi mềm mại đầy nữ tính còn là một cái tôi nhập cuộc rất sôi nổi,
khỏe khoắn và tự tin.
Đạm Phương, Sương Nguyệt Anh, Cao Thị Ngọc Anh, Sầm Phố,
Mộng Tuyết,…là những người phụ nữ tiên phong đã tạo ra cuộc cách mạng
về ý thức nữ quyền trong đời sống văn chương, xã hội nửa đầu thế kỷ XX.
Nhiệt huyết và những sáng tác của họ đã làm nên một phong trào nữ lưu và
văn học sôi nổi, có ý nghĩa về nhiều mặt. Sự xuất hiện của những cây bút nữ
đã khiến cho diện mạo văn học trở nên đầy đủ trọn vẹn, nó đã tạo thành một
mảng riêng hài hòa trong bức tranh chung của văn học Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Tuy nhiên, cho đến nay những đóng góp của họ vẫn chưa được đánh giá
một cách thỏa đáng. Lý giải về điều này, tác giả Hồ Khánh Vân trong bài viết
về Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu của văn học nữ Nam Bộ trong
tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX, đã viết như sau: “Thế
nhưng, trên trục vận động của chiều dài lịch sử thi ca dân tộc, sự tồn tại ấy
chưa đủ để tạo thành các vết khắc sâu về số lượng, về giá trị vào ký ức văn
chương. Người ta nhớ đến sự xuất hiện của họ, nhưng ít ai bình luận và suy
ngẫm về những đóng góp của các nhà thơ nữ một cách khoa học, sâu sắc và
thấu đáo. Tất cả những ngòi bút ấy như cùng nhau đi dự một buổi hội chơ
tưng bừng, rộn rã khí thế trong buổi đầu đổi mới. Và khi hội tan, những tấm
vé vào cổng đánh dấu sự hiện hữu đó chứ không phải là những dấu chân tồn
lưu của giá trị”. [130; tr 266]
Từ
Tìm hiểu về thể loại từ, tác giả Phạm Văn Ánh cho biết về bản chất, từ
vừa là một thể thức thơ ca hợp nhạc vừa là một thể thơ cách luật. Tên gọi đầy
đủ của từ là “khúc tử từ”, nghĩa là lời điền vào cho khúc nhạc. Ngoài ra còn
có nhiều cách gọi khác như thi dư, nhạc phủ, nhạc chương, ngữ nghiệp…
44
Với tư cách là phần lời điền vào cho khúc nhạc nên ban đầu từ có quan hệ rất
mật thiết với âm nhạc (yến nhạc), thậm chí phụ thuộc vào âm nhạc; việc sáng
tác từ khi đó được tiến hành theo nguyên tắc “tiên nhạc hậu từ” (trước tiên có
bản nhạc, sau đó viết lời), “ỷ thanh điền từ” (dựa vào thanh âm để điền lời),
hay “thẩm âm điền từ” (thẩm âm để viết lời). Từ có nhiều điệu khác nhau,
“chữ nhiều hay ít có quy định số lượng, câu dài hay ngắn có dạng thức nhất
định, vần bằng hay trắc có thanh điệu nhất định” (Khang Hi từ phổ - Tự). Từ
phát triển đến một mức độ nhất định thì có xu hướng thoát li khỏi sự ràng
buộc của âm nhạc để trở thành một thể thức thơ ca độc lập.
Từ là một thể loại văn học có vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học
Trung Quốc, nhất là vào thời Tống. Nhắc đến thành tựu nổi bật của văn học
Trung Quốc qua các thời kì, người ta thường nói “Hán phú, Đường thi, Tống
từ, Nguyên khúc, Minh- Thanh tiểu thuyết”. Thời Tống, từ đạt thành tựu rực
rỡ, số lượng tác phẩm tác giả từ phát triển rộng rãi. Các giai đoạn sau được
coi là thời kì suy thoái của thể loại từ. Giải thích về nguyên nhân phát triển
của thể loại từ thời Tống, Phạm Văn Ánh trình bày ba nguyên nhân trong bài
viết “Về sự tiếp nhận và sáng tác Từ ở Việt Nam (Khảo sát từ đầu thời Tự
chủ cho đến hết thời Lê)” như sau: Thứ nhất, các tác gia thời Tống được kế
thừa truyền thống từ từ trước đó, đặc biệt là phong khí sáng tác từ cuối thời
Đường và Ngũ đại. Thứ hai, nhà Tống thi hành chính sách sùng văn ức võ,
nho thần vì thế được trọng dụng, được hưởng lộc cao bổng hậu. Sự thỏa mãn
về phương diện vật chất kích thích nhu cầu thỏa mãn đời sống tinh thần. Sĩ
đại phu là những người có hàm dưỡng văn hóa cao, hình thức giải trí của họ
thường là thưởng thức giọng ca điệu hát, ngâm vịnh thơ từ; sáng tác tác thơ
từ vừa là tiêu khiển vừa để khoe tài. Thứ ba, đô thị thời Tống phát triển
mạnh, tầng lớp thị dân tăng lên nhanh chóng, ca lâu tửu kĩ quán mọc lên khắp
nơi, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thể loại từ.
45
Do ảnh hưởng của văn học, văn hóa Trung Hoa, các nước trong khu
vực như Việt Nam và Nhật Bản đều có tiếp thu thể loại từ. Ở Việt Nam, theo
tư liệu hiện còn, thể loại từ truyền nhập bắt đầu vào đầu thời tự chủ (tương
đương với đầu thời Tống ở Trung Quốc) với bài từ điệu Nguyễn lang quy của
Khuông Việt đại sư. Bài từ Nguyễn lang quy được viết năm 987 nhân việc
tiễn sứ giả nhà Tống là Lí Giác về nước. Sang thời Lê, thể loại từ bắt đầu
xuất hiện trở lại với số lượng tác giả tác phẩm nhiều hơn. Tuy nhiên, thời kỳ
này chưa có những tác giả được xem là từ nhân thực thụ. Phải đến giai đoạn
giao thời Tây Sơn – Nguyễn mới xuất hiện những tác phẩm từ viết bằng chữ
Nôm ở trong truyện Nôm Sơ kính tân trang của Phạm Thái có văn bản 4 bài
từ chữ Nôm. Sang thời Nguyễn sáng tác từ nhiều hơn hẳn các giai đoạn trước
với những tên tuổi như: Đào Tấn, Miễn Thẩm, Thiếu Tuấn.
Trên cơ sở khảo sát một cách tổng thể thành tựu tác từ ở Việt Nam cả
về phương diện sáng tác cũng như lí luận từ học, dễ nhận thấy, nếu như ở
Trung Quốc, từ là thể loại đặc biệt phát triển thì trái lại, ở Việt Nam, từ
không không phát triển mạnh như một số thể loại khác, đặc biệt là các thể
loại gắn với khoa cử. Sở dĩ có hiện tượng này vì từ vốn là thể loại “diễm
khoa”, là thứ văn học hợp nhạc, gắn liền ca lâu kĩ quán, với môi trường giàu
chất âm nhạc và nữ tính. Cơ sở cho sự phát triển của nó là đời sống đô thị,
trong khi đó ở Việt Nam, đô thị không phát triển mạnh. Thêm nữa, ở giai
đoạn từ còn tòng thuộc vào âm nhạc, từ nhân không chỉ là người năng văn mà
còn phải rất sành sỏi về âm nhạc mới có khả năng điền từ. Điều này gây trở
ngại rất lớn cho các từ nhân Việt Nam. Thực tế đó cho thấy, nhà nho Việt
Nam vốn không có nhiều người am hiểu về thể loại từ, và việc điền từ, tác từ
thực không phải là sở trường của nhà nho Việt Nam. Điều này lý giải tại sao
các tác giả từ ở Việt Nam hầu như đều là những người có trình độ học thức
cao, có địa vị trong hệ thống chính trị, có quan hệ rộng rãi với giới khoa
46
bảng, đồng thời từng sống ở những nơi đô hội.
Nhìn qua về lịch sử thể loại từ để thấy được vai trò, vị trí những sáng
tác từ của Đạm Phương. Đầu thế kỷ XX, thể loại từ gần như vắng bóng trên
văn đàn. Ba tác phẩm từ của Đạm Phương xuất hiện vào giai đoạn này có thể
coi là một hiện tượng khá lý thú. Điều đặc biệt hơn nữa là cả ba bài từ: Cảnh
mùa thu, Ngày xuân nhớ bạn, Trời thu cảm hoài đều được viết bằng chữ quốc
ngữ. Có thể coi đây là những bài từ đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ.
Trong ba bài từ trên thì bài Ngày xuân nhờ bạn được viết đúng với điệu “Như
mộng lệnh” hay còn gọi là Ức tiên tư, Yến đào nguyên, Tỷ mai, Vô mộng
lệnh, Cổ ký, Bất kiến, Như ý lệnh. “Là điệu từ đơn được Tô Thức viết trong
Đồn Pha Nhạc phủ - Như mộng lệnh rằng: Khúc này vốn là do Đường Trang
Tông (Hậu Đường Lý Tồn Huấn) chế ra, tên là Ức tiên tư, ngặt vì tên không
nhã, sau mới cải thành Như mộng lệnh. Trang Tông làm khúc này, có câu:
“Như mộng, như mộng, hòa lệ xuất môn tương tống” từ đó mới đặt thành
tên” [129; tr258]
Bài Ngày xuân nhớ bạn gồm 7 câu, 33 chữ. Câu 1,2,4,5,7 hiệp vận với
nhau dùng trắc vận. Câu thứ 6 lặp lại câu thứ 5:
Thỏ thẻ tiếng oanh ngoài cửa
Thầm nhớ bạn lành những bữa
Ngao ngán lúc xa xôi
Tháng đợi ngày trông như rứa
Chan chứa
Chan chứa
Có mấy người thân hơn nữa [17; tr26]
Hai bài từ còn lại là: Cảnh mùa thu và Trời thu cảm hoài được tác giả
trực tiếp ghi là điệu “Nga mi dương” và “Tiểu đào viên”. Tuy nhiên theo
47
ThS. Phạm Văn Ánh, người có nhiều công trình nghiên cứu về thể loại từ thì
chưa thấy có bất cứ tư liệu “từ phổ” nào đề cập đến hai điệu “Nga mi dương”
và “Tiểu đào viên”. Như vậy, rất có thể Đạm Phương đã tự chế tác ra hai điệu
này. Cùng thời với Đạm Phương cũng có những thi sĩ tài hoa phỏng tác từ là
thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và nữ sĩ Manh Manh. Tản Đà có làm những
bài theo thể từ: Tống biệt, Hoa rụng, Thương dỗ người chê chồng,… và điệu
“Phong hoa lạc” mà ông ghi ở mỗi bài cũng không thấy có trong các tư liệu
“từ phổ”. Nữ sĩ Manh Manh cũng làm một bài mô phỏng thể từ khúc là bài
Viếng phòng vắng. Bài này vẫn được xem là làm theo thể thơ tự do nhưng nó
vẫn mang ít nhiều âm hưởng của thể từ khúc.
Đương thời, Tùng Thiện vương Miễn Thẩm và Lạc Biên quận công
Miễn Khoan là hai người rất am tường về thể loại từ. Miễn Thẩm có một tập
từ là Thương Sơn từ tập và sách Vi Dã tập hợp trình bày những lí luận về từ.
Miễn Khoan có tập “Từ thoại”. Cả hai đều là bác ruột của Đạm Phương và
chắc hẳn từ của Đạm Phương cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều phong cách từ
của Miễn Thẩm đài các, diễm lệ và hết sức tinh tế. Một ví dụ là bài “Xuân
hiểu” (Sớm xuân) theo điệu “Hoán khê sa”:
“Liệu tiếu đông phong hiểu mạc nhàn,
Phi hoa hòa lộ trích lan can,
Hà tu bất quyển khiếp y đan.
Tiểu ẩm vi huân hoàn độc ngọa
Tầm thi vô kế thúc ngâm an,
Họa bình vi chẩm khán xuân san”.
(Se lạnh gió đông lạnh cả màn
Hoa bay sương giọt xuống lan can
Rèm châu chẳng cuốn, áo e đơn
48
Nhắp rượu ngà ngà nằm lẻ bóng
Tìm thơ không buộc được yên cương
Họa bình quay gối ngắm xuân sơn)
(Xuân hiểu - Miễn Thẩm)
Cũng như Miễn Thẩm, Đạm Phương là con cháu trong hoàng tộc nên
văn phong của bà cũng rất cổ điểm, trang nhã và tinh tế. Bà lựa chọn ngôn
ngữ trau chuốt, giàu cảm xúc để tạo nên một giọng điệu nhẹ nhàng, điệu đà
và rất Huế:
Tựa bên lầu
Ngắm cảnh thâu
Bóng ác chen bãi cát cồn dâu
Cánh hồng nương gió biết về đâu
Lầu ngang đỉnh núi
Cuốn bức rèm châu
Vẽ tranh sơn thủy mùi chưa lợt
Xui khách yên hà dạ vẫn đau
Ngắm cảnh thâu
Tựa bên lầu!
(Cảnh mùa thu, điệu “Nga mi dương”) [17; tr25]
Chiếu theo Điền từ Danh giải của Mao Tiên Thư đời Thanh chia số
chữ của từ là: “58 chữ trở xuống gọi là tiểu lệnh, 59 đến 90 chữ gọi là trung
lệnh, 91 chữ trở lên gọi là trường điệu” [129; tr261] thì bài Cảnh mùa thu 48
chữ gọi là tiểu lệnh, trong khi đó bài Trời thu cảm hoài gồm 95 chữ gọi là
trường điệu. Theo các nhà nghiên cứu từ, bài càng dài thì càng khó viết và
phải là người có năng lực mới viết được. Tác giả Đạm Phương đã làm được
49
điều đó. Bài Trời thu cảm hoài nhuần nhị về câu chữ, tinh tế về nhạc điệu cứ
tuôn chảy một cách hết sức tự nhiên:
Mưa chan chứa
Nước mênh mông
Lá rụng cây rơi
Núi tối mây phong
Dặm trời mờ mịt
Bát ngát xa trông
Vắng vẻ tin hồng
Thổn thức tấm lòng
Chẳng biết là ai có biết không
Hết ngày nay lại ngày mai
Thiên thai lắm lúc cũng buồn cười
Ghê cho con Tạo, ngán cho đời
Ghét ghen chi mãi thế
Cắc cớ cứ trêu ngươi
Hay muốn thử lòng người
Trải cho khắp đến nơi
Khi mưa, khi nắng, khi héo, khi tươi
Cho vẹn cả mười mươi
Mới ra công tô bồi!
(Trời thu cảm hoài, điệu “Tiểu đào viên”) [17; tr27]
Như đã trình bày ở trên, khác với thể loại thơ, thể từ không có điều
kiện để phát triển thành một thể loại phổ biến trong văn học trung đại Việt
50
Nam. Thời trung đại, đã là người đi học thì phải biết sáng tác thơ và đều có
thể trở thành nhà thơ, nhưng để trở thành từ gia thì không phải dễ bởi sự phức
tạp tinh vi của thể loại này đòi hỏi người điền từ phải tinh thông từ luật và có
tố chất nghệ sỹ rất cao. Những tác phẩm từ mà Đạm Phương để lại đã cho
thấy một khía cạnh tài hoa nghệ sỹ trong con người đa tài này. Nếu thơ là nơi
để bà giáo huấn đạo lý, chuyên chở đạo đức và mang cảm hứng hiện thực thì
từ lại là nơi bà thể hiện một nội tâm sâu sắc, thâm trầm và một ngòi bút tài
hoa.
1.2.2 Tiểu Thuyết
Đạm Phương nữ sử - Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết
tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ?
Phần lớn dư luận đã quen với một kết quả khảo cứu cho rằng người
phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ là bà Huỳnh
Thị Bảo Hoà (1896-1982) với cuốn Tây Phương mỹ nhân xuất bản năm 1927.
Nhưng sau một quá trình sưu tầm, nghiên cứu về trước tác của Đạm Phương
nữ sử thì nhà nghiên cứu Lê Thanh Hiền lại có ý kiến khẳng định: Đạm
Phương nữ sử (1881-1947) với tác phẩm Kim Tú Cầu mới đúng là cây bút
đầu tiên trong làng tiểu thuyết nữ Việt Nam. Trong bài trả lời phỏng vấn của
phóng viên báo điện tử Vietnamnet ngày 20 tháng 01 năm 2005, Lê Thanh
Hiền cho biết căn cứ vào văn bản gốc của tác phẩm mà ông cho rằng Đạm
Phương nữ sử mới là người phụ nữ Việt đầu tiên viết tiểu thuyết quốc ngữ:
“Tôi đã đọc bi tình tiểu thuyết Kim Tú Cầu của Đạm Phương nữ sử
ngay trên bản công bố lần đầu của nó. Đó là trên Tạp chí Trung Bắc tân văn.
Tiểu thuyết được in thành nhiều kỳ ở các số ra từ 25/5 đến 21/7 năm 1923.
Hiện nay, tại Phòng báo chí - Thư viện quốc gia, vẫn còn lưu cả bộ Tạp chí
Trung Bắc tân văn, từ số 1 đến số cuối cùng (các tờ báo trước cách mạng
đều được lưu khá đầy đủ ở đây), nếu bạn muốn tìm có thể dễ dàng thấy các
51
số mà tôi vừa nói. Năm 1928, nhà in Bảo tồn in lại toàn văn cuốn này. Trong
cuốn Lược truyện tác gia Việt Nam tập 2, người chủ biên Trần Văn Giáp
cũng chỉ nhắc đến lần in vào năm 1928 này, mà không biết rằng trước đó,
năm 1923, tiểu thuyết đã được in rải trên tạp chí Trung Bắc tân văn. Căn cứ
của tôi là văn bản. Vậy tính thời điểm công bố lần đầu thì bà Đạm Phương
nữ sử mới là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam viết tiểu thuyết
bằng chữ quốc ngữ.” [133]
Cuốn Tây Phương mỹ nhân của Huỳnh Thị Bảo Hòa được xuất bản
năm 1927, cuốn KTC của Đạm Phương nữ sử xuất bản năm 1928, tuy nhiên
từ trước đó văn bản tác phẩm đã được đăng nhiều kỳ trên báo Trung Bắc Tân
văn từ năm 1923. Như vậy, đúng như Lê Thanh Hiền khẳng định, xét về mặt
văn bản thì tiểu thuyết KTC xuất hiện trước Tây Phương mỹ nhân nên Đạm
Phương nữ sử mới chính là nữ tác giả đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ quốc
ngữ ở Việt Nam.
Sở dĩ xưa nay độc giả vẫn quen với kết quả khảo cứu Huỳnh Thị Bảo
Hòa là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ là
vì trong cuốn "Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà, người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu
tiên" do Thy Hảo Trương Duy Hy sưu tầm và biên soạn (NXB Văn học,
2003) có trích dẫn lời tựa cuốn "Tây phương mỹ nhân" của các vị chí sỹ, nhà
báo, nhà thơ lớn thời bấy giờ như Huỳnh Thúc Kháng, Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu, Bùi Thế Mỹ. Những lời tựa đó đều có ý nói rằng "Tây phương mỹ
nhân" đích thị là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong "giới quần thoa" bấy giờ:
"chưa từng có trong đám bạn quần thoa", "ngọn cờ tiên phong cho đạo quân
nương tử". Lý giải về điều này có thể xét từ góc độ nội dung nghệ thuật của
hai tác phẩm, Đạm Phương đề ở đầu truyện là “Bi tình tiểu thuyết”, còn
Huỳnh Thị Bảo Hòa đề là “Lý luận tiểu thuyết”. KTC được chia thành 10
chương, về dung lượng có ngắn hơn Tây Phương mỹ nhân (15 chương, viết
52
theo kết cấu chương hồi). Có thể tuy đã có yếu tố phản ánh tâm lý nhân vật
nhưng dung lượng và hình thức của KTC chưa đậm đặc chất tiểu thuyết,
trong khi đó, tác phẩm Tây Phương mỹ nhân của Huỳnh Thị Bảo Hòa lại chia
theo chương hồi, phản ánh xã hội trực tiếp hơn và về chủ đề lại hợp với thời
đại bấy giờ hơn nên tác phẩm này đã gây được sự chú ý nhiều hơn trong giới
văn hóa, văn học đương thời.
Tóm tắt nội dung 3 tiểu thuyết của Đạm Phương
Theo kết quả tìm kiếm tư tiệu về Đam Phương nữ sử tính cho đến hiện
tại thì còn lại văn bản của ba tiểu thuyết là: KTC,CKV, HPTT.
KTC là tiểu thuyết đầu tay của Đạm Phương, tác phẩm được in trên
Lục tỉnh tân văn và Trung Bắc tân văn rải rác từ tháng 7 năm 1922 đến tháng
7 năm 1923. Sau đó, Nữ lưu thư quán Gò Công phối hợp với nhà in Bảo Tồn
xuất bản năm 1928. KTC được tác giả ghi là Bi tình tiểu thuyết, dày gần 70
trang, chia thành 10 chương. Tú Cầu là một tiểu thư xinh đẹp, con của một
viên quan đã về hưu ở Huế. Tú Cầu và Ngọc Lan là anh em cô cậu, từng học
chung một trường, thường chơi đùa với nhau từ nhỏ nên hai bên đã thầm yêu
mến nhau. Do tin lời thầy tướng số nói rằng nàng sẽ lấy một người chồng
vinh hoa hết sức, mà Ngọc Lan lúc đó đang là một anh học trò chưa có danh
vọng nên cha mẹ KTC đã gả nàng cho con trai nhà họ Vương giàu có. Không
may, chồng KTC mất sớm khi đang làm quan ở Thanh Hóa, nàng bỗng dưng
lâm vào hoàn cảnh thân cô thế cô. Nàng bị bọn xấu sàm sỡ quấy rối, khi lên
thuyền định vào nương nhờ nhà người thân ở Nghệ An lại bị cướp hết tư trang.
Chán nản và không chịu được cảnh sống ô nhục, nàng đã nhảy xuống sông tự
vẫn, nhưng nàng không chết. Vì thế nàng đã tìm đến một ngôi chùa cầu cứu sự
giúp đỡ từ vị sự trụ trì ở chùa. Sau đó nàng gặp Vi Văn, một thư sinh, chàng
giúp nàng đưa thư về kinh, rồi đưa cô em gái là Thố Nhi đến thăm. Hai anh em
đều thương cảm yêu quý nàng nhưng khi Vi Văn trở lại định đón nàng về nhà
53
mình thì cả KTC và Thố Nhi đã bị bọn “sơn khấu” bắt đi.
Trong lúc đó Ngọc Lan đã được bổ làm “tùy phái”, trên đường qua
Nghệ An lại gặp Vi Văn là bạn bè cũ. Nghe Vi Văn kể sự tình, hai chàng tìm
mọi cách cứu hai cô gái. Tuy nhiên, khi chưa tìm được tung tích của hai nàng
đâu thì Thố Thi đã trốn được về, còn KTC thì đã quên thân để cứu bạn. Ngọc
Lan thương cảm quá đã chết ngất, trong giấc mơ, chàng thấy KTC hiện về.
Nàng kể nỗi gian truân của mình và khuyên chàng hãy lấy Thố Nhi làm vợ.
Ngọc Lan tỉnh lại và câu chuyện kết thúc bằng hai câu thơ:
Dẫu cho lý đổi thay đào
Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa.
Tiểu thuyết CKV được đăng trên Lục tỉnh tân văn khoảng năm 1924 –
1925. Cũng có cùng đề tài như KTC, nhưng tiểu thuyết này được chia thành 6
chương và ít kịch tính hơn. Theo tập tư liệu mới bổ sung về Đạm Phương nữ
sử, tiểu thuyết này có nội dung như sau: CKV là con trai một gia đình thế tộc
giàu có. Từ nhỏ đi học với thầy giáo là Nguyễn công, thuộc một gia đình
khoa bảng trên đà sa sút. Con gái của Nguyễn công là Ngọc Yến, vừa hay
chữ vừa xinh đẹp. Hai bạn trẻ yêu nhau và hai gia đình cũng đồng ý đính hôn.
Nhưng thân sinh của CKV thấy gia cảnh của Nguyễn công ngày càng khó
khăn thì không muốn cho con trai là CKV kết hôn cùng Ngọc Yến nữa. Vào
lúc đó, CKV đi học xa, giữa hai gia đình xảy ra nhiều chuyện rắc rối, trắc trở,
nhưng nhờ lòng chung thủy và nghị lực của CKV, chàng trở về Kinh thi đỗ,
hàn gắn quan hệ hai gia đình , kết hôn và sống hạnh phúc với Ngọc Yến.
HPTT do Nữ lưu thư quán Gò Công xuất bản năm 1929, là một tiểu
thuyết với dụng lượng chỉ bằng một nửa KTC. Đề tài của tiểu thuyết này
khác với hai tiểu thuyết trên, tuy cũng lấy nhân vật chính là một cặp đôi trai
tài gái sắc nhưng tác giả hướng về loại nhân vật tân tiến hơn, không dính
54
dáng đến chuyện khoa cử thời xưa, nhẹ phần tình ái mà nặng về nỗi niềm thế
sự, vì thế tác giả ghi thể loại tiểu thuyết này là “xã hội tiểu thuyết”. Nam
Châu là ông chủ trẻ của một công sở, bấy lâu chỉ chú trọng vào công việc và
không quan tâm đến chuyện tình ái. Sau đó, Quế Anh là một nữ y sĩ được cử
đến để cộng tác. Trong chính lời bàn cuối truyện Đạm Phương đã tóm lược
như sau: “Chàng Nam Châu với nàng Quế Anh là bọn tân tiến, sinh trưởng
trong một cái thời kỳ xã hội cũ thay mới. Xanh vàng không tiếp, ngọc đá lẫn
lộn, biết bao là sự nhố nhăng mờ ám? Thế mà hai người ra đời, mỗi kẻ đều
có hoài bão một cái chủ nghĩa chính đáng. Chàng Nam Châu thì khuynh
hướng về chủ nghĩa bác ái, yêu mến nhơn loại, cứu nhược phò nguy. Nàng
Quế Anh lấy gia đình làm nơi căn bản, tài bồi, hậu học để gây dựng cho cuộc
tương lai, hai người thủy chung đeo đuổi mục đích, tuy ái tình đến cực điểm,
mà không đến nỗi quá lạm quyền tự do và xâm phạm đến chủ nghĩa của
mình…”. [17; tr409] Vì thế mà Nam Châu không hề lung lạc khi cạnh công
sở có nàng Tố Minh, một tiểu thư con nhà giàu, quen hưởng cuộc sống phong
lưu, rất mong được chàng để mắt tới, rồi một cô gái khác tên Yến Chi cũng
rất yêu chàng mà chàng cũng khước từ. Còn Quê Anh, sau khi về quê nhà chỉ
lo giúp hai người em ăn học thành tài.
Tiểu thuyết của Đạm Phương trong bối cảnh hiện đại hóa văn học.
Đề tài và nội dung tư tưởng
Trong văn học thế kỷ XIX đã có những truyện Nôm nổi tiếng đề cập
đến vấn đề hôn nhân và thân phận người phụ nữ. Đạm Phương vẫn tiếp tục
đề tài quen thuộc này nhưng cố gắng tìm ra những khía cạnh mới, những vấn
đề mới mang tính thời đại. Tiểu thuyết KTC như một tiểu thuyết về tài tử giai
nhân nhưng lại hướng đến phê phán “những người làm cha mẹ hủ bại đi tin
thuật số, trọng sự danh lợi mà làm rối duyên con”. Tác giả phê phán tục mê
tín dị đoan, tin vào tướng số, và luôn đặt vật chất lên trên hết trong chuyện
55
hôn nhân của con cái. Chính vì bố mẹ KTC tin thầy bói nói rằng KTC phải
được gả cho nhà quan, mà hiện tại Ngọc Lan lại là anh học trò nghèo nên
KTC mới bị ép duyên. Đạm Phương tỏ ra rất bức xúc trước tập quán xấu lại
đang rất phổ biến trong xã hội đương thời này, trong lời bàn cuối tiểu thuyết
bà đã phê phán rất quyết liệt: “Giả sử phong tục thuần túy, giáo dục chính
đáng, đâu có những người làm cha mẹ hủ bại đi tin thuật số, trọng sự lợi
danh, mà làm rối duyên con,…Bất kể chỗ đấy thiên đường hay địa ngục, bất
kể đứa con gái có ưng hay không, cha mẹ chỉ nhắm mắt ngả liều, cốt là được
giữ vững thân danh của mình…Tuy không có ý hại con, mà thật là phạm một
điều luật giết con vậy. Đê tiện, tàn nhẫn không gì cho bằng… Bởi vậy nên
phải kịp mau bỏ hết những cái tập quán xấu xa ấy đi,…” [17; tr 372].Có thể
thấy rằng quan điểm trên của Đạm Phương đã góp phần mở đầu cho văn học
Tự Lực Văn Đoàn sau này trong vấn đề quyền tự do của con cái, chống lại
gia đình phong kiến áp chế tự do. “Đoạn tuyệt” là một trong số những tác
phẩm của Nhất Linh phản ánh rõ nhất vấn đề trên. Loan là một cô gái thông
minh biết điều, yêu sâu sắc, tha thiết tự do, tự lập nhưng lại bị ép lấy Thân –
một người chồng quá lạc hậu, không hiểu vợ; mẹ chồng ác nghiệt, hành hạ
con dâu, em chồng xúi dục mẹ thêm. Cả một đại gia đình chống lại những ý
nguyện tốt đẹp nhất của Loan. Ngày lại ngày, một chuỗi đau khổ đến với
Loan. Cả tác phẩm là một bản cáo trạng. Nhân duyên của nàng chỉ là việc
mua bán. Nhưng Loan không cam chịu như KTC, Loan tiêu biểu cho "cái
mới" và đã đấu tranh quyết liệt để thắng lễ giáo phong kiến trở về được với
Dũng- người yêu cũ của Loan. Nếu như cách đó mười năm "Tố Tâm" của
Hoàng Ngọc Phách, gia đình còn có một sức mạnh thiêng liêng, khiến Ðạm
Thuỷ và Tố Tâm phải thừa nhận thì "Ðoạn tuyệt" chế độ gia đình hà khắc bị
lên án kịch liệt. Vì sau mười năm làn gió mát "Âu hóa" đã tràn vào Việt
Nam, cái "tôi" của chủ nghĩa cá nhân đã tự khẳng định được mình.
56
Những nhân vật đại diện cho lễ giáo phong kiến là đối tượng phê phán
của tác phẩm "Nửa chừng xuân", Khái Hưng làm cho người đọc công phẩn
với bà Án-hiện thân của quan niệm "môn đăng hộ đối". Tuy bà rất thương
con, có khi biết ăn năn về hành động của mình nhưng những hành động tàn
nhẫn, những thủ đoạn toan tính bỉ ổi đã làm cho người đọc không những căm
ghét một bà Án cụ thể mà còn căm ghét cả một nền luân lý lễ giáo phong
kiến. Viết được các tác phẩm trên, các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn có ý thức
dương cao lá cờ nhân đạo chủ nghĩa, mang đến cho chủ nghĩa cá nhân một
màu sắc hấp dẫn của chính nghĩa.
Có thể thấy rằng vấn đề quyền tự do của con cái, chống lại gia đình
phong kiến áp chế tự do đã được khơi nguồn từ tiểu thuyết KTC của Đạm
Phương và đến sau này, chủ đề đó đã được phản ánh một cách trực diện, sâu
sắc, đa dạng hơn trong những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn.
Một đặc trưng thể hiện rõ nét tính giao thời trong sáng tác của Đạm
Phương là tuy rằng bà lên tiếng phê phán những lề thói cũ lạc hậu nhưng
đồng thời vẫn bảo vệ những nét đẹp truyền thống. Trong CKV, nét đẹp
truyền thống đó là tôn trọng chữ tín và lòng chung thủy. Mặc dù thân phụ
CKV thấy gia cảnh Ngọc Yến sa sút không muốn giữ lời hẹn cũ, rồi CKV đi
học xa, cạnh nhà Ngọc Yến có chàng Dương Bảo Toàn giàu có đẹp trai
thường xuyên tặng quà và theo đuổi nhưng Ngọc Yến vẫn giữ một lòng
chung thủy. Đến lúc CKV thành đạt trở về thì Ngọc Yến “nhan sắc đổi hết,
người gầy ốm, mặt mũi võ vàng”, hai người vẫn giữ lời đính ước từ trước,
sống hạnh phúc bên nhau. Ngọc Lan trong tiểu thuyết KTC cũng là một nhân
vật chung thủy trong tình yêu. Mặc dù KTC đã bị gia đình ép buộc lấy người
khác nhưng chàng vẫn luôn thương nhớ đến KTC và khi biết tin nàng gặp
nạn, chàng vẫn hết lòng tìm cách giúp đỡ.
Chữ Hiếu và chữ Nghĩa cũng là hai nét đẹp truyền thống mà Đạm
57
Phương muốn ca ngợi. Ngọc Yến trong CKV lúc chàng trở về tìm đến để nối
lại tình xưa, thoạt đầu nàng định khước từ vì lo khi mình đi lấy chồng, cha
già sẽ không có người “quạt nồng, đắp lạnh”. Hay như cô ý sĩ Quế Anh trong
tiểu thuyết HPTT, gặp được bạn tương tri là Nam Châu, cả hai đều quyến
luyến nhau nhưng Quế Anh vẫn nén lòng trở về quê nhà giúp song thân dạy
dỗ hai người em ăn học thành tài. Đạm Phương cũng nêu những tấm gương
nghĩa khí trong tiểu thuyết của bà như trường hợp KTC hi sinh để giải thoát
cho bạn là Thố Nhi, hình ảnh Nam Châu không ngần ngại nhảy xuống sông
cứu ông già định tự tử.
Đặc biệt, các nhân vật nữ trong tiểu thuyết của bà đều là những nhân
vật giữ được những giá trị đạo đức truyền thống. KTC, Ngọc Yến, Quế Anh
đều là những người biết giữ gìn phẩm tiết đức hạnh. Cả hai cặp đôi Quế Anh
– Nam Châu, Ngọc Yến – CKV, mặc dù nhiều lúc tình yêu nồng nàn say đắm
nhưng họ không hề để dục vọng vượt qua giới hạn của lễ giáo truyền thống.
Tuy có cùng đề tài viết về phụ nữ, các cặp đôi tài tử, giai nhân nhưng
tiểu thuyết HPTT là một cố gắng phản ánh những đổi mới trong xã hội đương
thời, khi mà lớp người “Tây học” xuất hiện với những ý tưởng cải cách xã
hội. Nam Châu và Quế Anh chính là những lớp người “Tây học”, họ thường
bàn luận về những mong muốn xây dựng lối sống mới hữu ích cho xã hội và
“mỗi kẻ đều có hoài bão một cái chủ nghĩa chính đáng”. Khi có một “phu
nhơn” tỏ ý hâm mộ những người có học hành “để ra làm việc với nhà nước
được vinh hiển cái thân danh” thì Quế Anh đã nói: “Mục đích chúng con đi
học không phải vì các điều ấy. Xưa nay xã hội mình vì cái tư tưởng vu vơ ấy
mà thành ra bỏ hết nghĩa vụ chung cộng, nước yếu dân hèn đều bởi cớ đó”
[17; tr401]. Còn Nam Châu thì “thích khảo sát về sự sinh hoạt của các bọn
cùng dân, bình nhật có cái cảm tình muốn chia phần đau đớn với những
người đương gặp những cảnh rủi ro sa đọa” [17;tr 397]; trong khi thành phố
58
thắp đèn chúc mừng vua An Nam vạn thọ, thiên hạ rủ nhau ăn chơi tiệc tùng
thì chàng về nông thôn để hiểu thêm đời sống cùng cực của người nông dân.
Qua hình tượng nhân vật Quế Anh và Nam Châu, tác giả phản ánh một nhu
cầu bức thiết là phải xây dựng một mẫu hình mới cho thế hệ thanh niên trong
giai đoạn hiện đại hóa đầu thế kỷ XX.
Cốt truyện và kết cấu tác phẩm.
Mặc dù nội dung tư tưởng tiểu thuyết của Đạm Phương vẫn mang nặng
sắc thái đạo lý truyền thống, nhưng cốt truyện và kết cấu tác phẩm đã có
những bước biến đổi đáng ghi nhận. Những câu chuyện trong tiểu thuyết của
Đạm Phương đã được thu nhận từ hiện thực đời sống của xã hội Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX. Tác giả bước đầu thoát khỏi lối vay mượn cốt
truyện của thời kỳ văn học trung đại, tiến dần đến việc phản ảnh hiện thực
cuộc sống. Trong tiểu thuyết KTC, Đạm Phương đã thoát khỏi lối tiểu thuyết
chương hồi trước đó mà dụng công tạo nên một kết cấu khá éo le, hấp dẫn.
Nói về điều này, nhà nghiên cứu Nguyễn Kim Anh đã có nhận xét: “… cách
dựng truyện đã không còn theo đường mòn hội ngộ, lưu lạc, đoàn viên với
thời gian tuyến tính. Kết thúc bi thảm của người con gái đức hạnh, hiền lành
Kim Tú Cầu cùng giấc mơ ám ảnh chàng Ngọc Lan có thể coi như một đột
phá của cây bút Đạm Phương so với các nhà văn nữ cùng thời” [120; tr295]
Tác giả ghi dưới tiểu thuyết KTC là “bi tình tiểu thuyết” nhưng nội
dung phản ánh của tác phẩm không dừng lại ở câu chuyện tình yêu dang dở.
Nếu chỉ phản ánh câu chuyện tình yêu dang dở của KTC và Ngọc Lan thì
Đạm Phương chỉ cần dựng cốt truyện KTC bị ép gả chồng nên đã tự vẫn hoặc
chấp nhận một cuộc sống mòn mỏi đau khổ không có tình yêu. Như vậy,
Đạm Phương sẽ dẫm phải lối mòn của nhiều truyện dân gian hoặc của những
tác giả trước đó và tiểu thuyết chỉ bó hẹp là bi kịch gia đình, bi kịch cá nhân.
Ở đây, Đạm Phương đã để KTC rơi vào hoàn cảnh khá éo le: Bị ép gả nhưng
59
chồng chết sớm, bị bọn ô trọc sàm sỡ, cướp hết bạc tiền gia sản, rồi lại bị bọn
thảo khấu làm nhục, bị bắt ép làm vợ lẽ, cuối cùng phải tìm cách quyên sinh
để cứu bạn. Xây dựng một cốt truyện như vậy không chỉ tăng thêm tính hấp
dẫn mà quan trọng hơn là mở rộng được không gian nghệ thuật để phản ánh
được một hiện thực rộng lớn hơn, đó là một xã hội đầy “những sự trái phép,
diễn ra giữa chốn tỉnh thành, gian cướp tứ tung, mà quan gia không tìm
phương nã trị,…” [17;372]
Nếu so sánh với một số tác giả cùng thời chúng ta dễ dàng nhận thấy
kết cấu tiểu thuyết của Đạm Phương đã xóa bỏ dấu vết của tiểu thuyết
chương hồi để chuẩn bị cho sự vận động và phát triển của tiểu thuyết hiện
đại. Ở tác phẩm KTC tác giả đã tổ chức truyện thành các phần và được đánh
dấu bằng các số I, II, III, IV. Ở HPTT được chia thành Chương I, II, … Có
thể xem đây là những đổi mới để thoát khỏi sự níu kéo của tiểu thuyết cổ
điển. Nếu so với tiểu thuyết Tây phương mỹ nhân của Huỳnh Thị Bảo Hòa thì
cách tổ chức cốt truyện của Đạm Phương có phần mới hơn. Tiểu thuyết Tây
phương mỹ nhân của Huỳnh Thị Bảo Hòa được tổ chức thành 15 hồi và mỗi
hồi đều được đánh dấu bằng mấy câu thơ. Như ở đầu hồi thứ bảy có hai câu
thơ: “Bày tâm sự Đông – Tây kết nguyện./ Dẹp lôi đình Âu Á nên duyên”
Từ KTC đến HPTT lại là một sự đổi mới của chính Đạm Phương. Ở
tiểu thuyết HPTT, tác giả không chạy theo chuyện tình bi lụy hay những cảnh
ngộ éo le mà xây dựng một kết cấu hết sức đơn giản nhưng lại tập trung thể
hiện tư tưởng nhân vật, những yếu tố quan trọng làm nên giá trị của tiểu
thuyết.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, tác giả vẫn sử dụng môtip trai tài –
gái sắc, nhưng tuyến nhân vật đã được giản lược đi nhiều. Chúng ta không
thấy xuất hiện những nhân vật phụ đóng vai trò người liên lạc, người đưa tin
60
làm nhiệm vụ kết nối và giúp đỡ đôi nhân vật chính khi họ gặp nạn như các
nhân vật con hầu, thị tỳ, a hoàn, tiểu đồng, trong các tiểu thuyết tài tử giai
nhân trước đó. Chính vì thế khi gặp nạn các nhân vật chính phải tự vùng vẫy,
tự xoay sở để tìm ra lối thoát cho cuộc đời mình. Trong khi bỏ những nhân
vật mang tính phụ trợ ra khỏi tác phẩm thì tác giả lại bổ sung những nhân vật
mới là sản phẩm của sự giao lưu văn hóa Đông – Tây đầu thế kỷ XX như hai
cậu em của Tú Cầu, những bà vợ viên chức dỗi việc trong HPTT.
Một đặc điểm dễ nhận thấy trong nghệ thuật xây dựng nhân vật trong
các tác phẩm giai đoạn giao thời là các nhà văn đương thời vẫn chú ý miêu tả
ngoại hình, hành động và ngôn ngữ của nhân vật như các nhà nho trước kia.
Nhà văn giai đoạn này vừa theo nguyên tắc tư duy kiểu nhà nho, sử dụng các
yếu tố thiên nhiên để khắc họa chân dung nhân vật chính diện, vừa hướng
đến quan niệm xây dựng nhân vật gần gũi với cuộc sống thực bằng các chi
tiết cụ thể, đời thường, vốn có của con người. Trong KTC, tác giả không hề
đi sâu miêu tả nỗi nhớ nhung, tiếc nuối của Tú Cầu khi không được nên
duyên với Ngọc Lan. Tâm trạng nàng không được miêu tả phân tích cặn kẽ,
người đọc chỉ thấy những biến cố không may liên tiếp xảy đến cho nàng mà
không thấy những diễn biến tâm lý hay những trăn trở về hạnh phúc, tình yêu
của nàng. Những nhân vật trong CKV và HPTT cũng vậy, tâm trạng nhân vật
chưa được tác giả khai thác đến môt cách sâu sắc. Đến Hồ Biểu Chánh thì nội
tâm và vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật đã bước đầu được chú ý đến. Do đó,
nhân vật chính diện trong tác phẩm của ông thường có tâm hồn cao thượng,
đều thể hiện tính cách của con người theo quan niệm truyền thống nhưng lại có
hành động của con người hiện đại: làm báo, mở trường tư thục, mở bệnh xá,
kinh doanh, hành nghề kĩ thuật. Và phải đến Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách
thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật mới đạt đến độ thấm nhuần. Điều này
giải thích cho sự thành công vang rộ của tác phẩm trong thời điểm đó.
61
Đạm Phương không chú trọng miêu tả nội tâm nhân vật vì hầu hết các
tác phẩm của bà đều mang tính luận đề, các nhân vật mới chỉ đơn giản là
những hình tượng, những phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Ba nhân vật nữ
trong ba cuốn tiểu thuyết của Đạm Phương mang ba số phận khác nhau trong
những tình huống khác nhau nhưng cả ba đều là những hình tượng phản ánh
sự phát triển trong tư tưởng của tác giả. KTC là mẫu người phụ nữ truyền
thống tiêu biểu. Cô không dám phản kháng lại sự sắp đặt của cha mẹ, cam
chịu mọi đắng cay mà mình đã gặp phải và cuộc đời kết thúc bằng cái chết bi
thảm. Trong văn học trung đại ta bắt gặp khá nhiều những hình ảnh người
phụ nữ như vậy. Ngọc Yến là một hình mẫu khác. Cô được đặt vào những
tình huống khá éo le mà nếu không có bản lĩnh thì chắc khó có thể vượt lên
số phận. Nhẫn nhịn chịu đựng một người bố quen với cảnh sống phong lưu
trong khi gia cảnh đã sa sút, nhẫn nhịn chịu đựng thái độ muốn từ hôn của
người bố hôn thê, nhẫn nhịn chịu đựng khó khăn và nỗi buồn. Nhưng Ngọc
Yến biết chủ động bàn bạc với cha để tổ chức lại cuộc sống, gỡ khó cho bản
thân và gia đình. Lòng kiên nhẫn, thủy chung, sự khẳng định mình trong khó
khăn của cô đã được đền bù xứng đáng. Đến Quế Anh lại là một sự phát triển
mới. Quế Anh là tuýp phụ nữ tân tiến có học thức rộng, lại càng chủ động
trong tình cảm và trong từng bước đi của cuộc đời mình. Với ba nhân vật nữ
này, Đạm Phương đã thể hiện quan niệm: người phụ nữ muốn được giải
phóng, trước tiên phải có học thức và tự lập, không để mình lệ thuộc vào
người khác.
Chính vì tiểu thuyết của Đạm Phương mang tính luận đề nên nhân vật
bà xây dựng mới chỉ dừng lại ở mức là những cái loa phát ngôn cho những
luận đề ấy. Tiểu biểu nhất là trong tác phẩm HPTT, nhân vật Nam Châu và
Quế Anh giống như sự phân thân của tác giả. Lời nói của Quế Anh hay chính
là lời cảnh tình về hiện trạng bài bạc của các bà tham, bà phán: “Tôi không
62
biết đánh như vậy, mà được thì có mừng không? Mà thua thì có tiếc không?
Tôi nghĩ rằng chị em chơi với nhau, nên lấy sự hòa nhã, nay mình mời người
ta đến chơi, mà mình làm cho người ta mất tiền, thành ra trục lợi thật khiếm
nhã quá, còn thua thì lại càng vô ích nữa: đồng tiền là hữu dụng mà đem ra
phung phí không có nghĩa lý gì hết chẳng cũng thiệt hại lắm sao?” [17; tr 377]
Hay như những lời của Nam Châu cũng chính là những suy nghĩ của
Đạm Phương: “Than ôi! Người sinh trong đời, mà không muốn chia sự phiền
lụy gánh vác với đời, thế thời toan trao cái trách nhiệm ấy cho ai? Phải làm
sao cho hết cái nghĩa vụ của mình mới xứng đáng một người đứng trong trời
đất, nếu không có điều chi bổ ích, chẳng những phụ ơn giáo dục, mà cũng lại
tự mình đối với mình cũng hư sinh nhất thế lắm. Vậy cho nên tôi thích sống
để ích cho đời” [17; tr 394]
Nhân vật trong những tác phẩm của Đạm Phương chưa có cá tính và
chưa có nội tâm sâu sắc, bởi những nhân vật này mới chỉ là công cụ thô sơ để
truyền tải tư tưởng của tác giả. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu
thuyết của Đạm Phương chưa đạt được nhiều giá trị đổi mới, và phải đến các
tác giả sau này mà tiêu biểu là các tác giả trong nhóm Tự lực văn đoàn thì
nghệ thuật xây dựng nhân vật của văn xuôi Việt Nam mới thực sự đạt được
những thành tựu rực rỡ.
Ngôn ngữ và nghệ thuật trần thuật
Văn học trung đại Việt Nam tồn tại suốt mười thế kỉ mà vỏ bọc của nó
là chữ Hán và chữ Nôm. Cho đến cuối thế kỷ XIX, chữ Quốc ngữ đã được sử
dụng trong một số sáng tác ở Nam Bộ, sau đó đến ba mươi năm đầu thế kỉ
XX chữ Quốc ngữ đã được sử dụng rộng rãi trong sáng tác văn học của cả
nước. Khi chữ Quốc ngữ chính thức bước vào tác phẩm, chữ Hán không vì
thế bị đẩy lùi ngay. Tác phẩm viết bằng chữ Hán vẫn chiếm số lượng không
ít trong thơ văn giai đoạn này, tiêu biểu là các tác phẩm của Phan Bội Châu,
63
Phan Chu Trinh và nhiều nhà nho yêu nước khác. Việc đưa chữ Quốc ngữ
vào sáng tác vừa làm nên những giá trị nghệ thuật mới mẻ vừa thể hiện sự
hiện đại hóa trong văn học. Một thực tế mang tính phổ biến là giai đoạn đầu
của thời kì hiện đại hóa bao giờ cũng có hiện tượng pha tạp, thay thế dần các
dạng thức ngôn ngữ trong sáng tác. Tất cả người cầm bút đều mong muốn
làm ra cái mới bằng những cách riêng của mình. Họ sử dụng vốn ngôn ngữ
được tích lũy từ Hán học, họ khai thác từ dùng trong cuộc sống hằng ngày,
họ pha tạp lắp ghép các dạng ngôn ngữ khác nhau. Trong văn xuôi giai đoạn
này vẫn xuất hiện những đoạn văn biền ngẫu với lối viết gò câu, chọn chữ,
cân nhắc từng lời, tạo nên sự đăng đối nhịp nhàng làm cho văn học giai đoạn
này còn mang vẻ trang trọng, đài các không khác gì văn chương thời trung
đại. Tiểu thuyết của Đạm Phương cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Chúng
ta không khó khăn khi tìm thấy những đoạn văn biền ngẫu trong tiểu thuyết
của Đạm Phương. Đây là những đoạn văn có lối viết câu trên câu dưới như
câu đối, nghe véo von, du dương nhưng không tạo được dấu ấn phong cách
tác giả. Đây là đoạn miêu tả tâm trạng Tú Cầu khi lâm lạc: “Tú Cầu nhìn
quanh bốn mặt, thấy những cây con bụi rậm núi non lố nhố, hãi hùng trong
dạ. Hồi tưởng cái thân thế mình vinh hoa phú quý, như một giấc mộng đêm
xuân, song thân góc bể chân trời, có hay con đến nỗi này gian nan, biết ngày
nào thân oan cho hả dạ, biết ngày nào tái hội gia hương, bèo mây tan tác,
đất khách bơ vơ, nghĩ thôi sụt sùi, lụy nhỏ đôi hàng” [17; tr 348]; hay như
đoạn thư của Yên Chi gửi cho chàng Nam Châu: “Chén đưa nhớ bữa hôm
nay, chén mừng chưa biết ngày nầy năm sau; sự hội hiệp chưa định; tình biệt
ly khôn nài, khiến người vò võ đêm thu, giấc lương quan luống ngẩn ngơ…
Trong mấy khắc đồng hồ, mà xây đắp thành sầu cao mấy lớp, vì ai mà lại vì
ai…phận bèo dâu may rủi rủi may, trách con Tạo cũng trớ trêu chi lắm thế?
Duyên thắm đã sắp se chỉ thắm, cớ sao chưa thẳng đã dùn, mối tơ tình vấn
64
vít trong lòng; nợ hương lửa lỡ đành ra nông nỗi; hay là bởi nước non cách
trở, khách thiên thai luống những ngậm ngùi đau. Hay là bởi nẻo đào nguyên
đã quên lối đi về, mà cố hữu lạc loài đâu vắng tá? Nghe mà chán, nghĩ mà
sầu, hờn ai không biết, biết ai riêng hờn”. [17; tr 385 - 386].
Lý giải về sự tồn tại khá dày đặc những đoạn văn biền ngẫu trong tiểu
thuyết của Đạm Phương, nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan cho rằng: “Có thể
là do bà viết nhiều cho các báo ở Sài Gòn mà tác phẩm lại ra đời vào thời
điểm giao thoa giữa hai dòng văn hóa Pháp – Hán: lối hành văn trung đại
nhằm phục vụ cho lớp độc giả bình dân vẫn còn đang phổ biến, trong khi văn
hóa Pháp cũng đang từng bước lấn dần vào vùng đất thành thị. Vì thế nên các
tiểu thuyết này cũng như phần nhiều các tiểu thuyết khác của các nhà văn
Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn
Bửu Mộc,… còn chưa thoát khỏi biền ngẫu, lối nói khác với lối hành văn của
Hoàng Ngọc Phách, Phạm Duy Tốn ở ngoài Bắc.[114; tr 281]
Quả đúng như vậy. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Đạm Phương phản ánh
tính giao thời rõ nét nhất ở sự pha trộn giữa lớp ngôn từ mới và lớp ngôn từ
cổ, giữa cách hành văn hiện đại và lối hành văn biền ngẫu. Nhiều khi sự pha
trộn đan xen này xuất hiện ngay trong một câu văn. Ví du như: “Nhưng tính
hai cậu lười biếng, chỉ ham đua cách ăn chơi sung sướng, nay đàn mai hát,
tối rượu sớm trà, lạ chi các nhà thế phiệt, thường nghĩ mình sinh trưởng phú
quý, của nước tiền non, chẳng chơi cũng thiệt, con mình là nhờ cái vinh
quang mình rọi xuống, cũng nên cho chúng nếm trải các mùi khoái lạc trên
đời: “Biết sống đến mai mà để củ khoai đến sáng” [17; tr 344]. Những hình
thức mới mẻ về ngôn ngữ cùng hiện diện bên cạnh các hình thức ngôn ngữ
vốn có trong văn học trước kia không hẳn đã là nhược điểm. Bởi trong giai
đoạn giao thời thì cả hai đều có vai trò cần thiết, làm nên những món ăn tinh
thần phù hợp thị hiếu người đọc lúc bấy giờ.
65
Về nghệ thuật trần thuật, Đạm Phương đã bước đầu đa dạng hóa giọng
kể chuyện. Trong tiểu thuyết KTC, tác giả kể lại cuộc đời nàng Tú Cầu
không phải chỉ bằng một giọng kể, bà đã sử dụng cách kể chuyện hiện đại để
liên tục chuyển đổi giọng kể. Phần đầu tác phẩm được kể bằng giọng của tác
giả để dẫn dắt bạn đọc đến câu chuyện tình lặng lẽ của hai nhân vật chính.
Đến phần thứ III lại được kể chủ yếu bằng giọng kể của nhân vật bà sư. Phần
cuối tác phẩm, Đạm Phương dùng giấc mơ của Ngọc Lan để cho Tú Cầu kể lại
những sự việc chìm nổi bất hạnh mà nàng gặp phải từ khi từ giã với chàng.
Xét về phương diện thể loại, vào những năm hai mươi của thế kỷ XX,
tiểu thuyết đã có những bước phát triển mới, như Phan Cự Đệ đánh giá “Nếu
coi tiểu thuyết là công nghiệp nặng của một nền văn học thì có lẽ văn học
hiện đại Việt Nam đã hình thành trong khoảng thời gian 1920 đến 1930 và
năm 1925 là năm được mùa nhất” [113; tr 276]. Ông cho rằng nền văn học
hiện đại có cơ sở đầu tiên từ bốn phong trào đổi mới đầu thế kỷ XX là Duy
Tân hội của Phan Bội Châu, cao trào cải cách của Phan Châu Trinh, Phong
trào Đông Kinh nghĩa thục do Lương Văn Can chủ trì và cuộc vận động yêu
nước của Huỳnh Thúc Kháng. Ngoài những yếu tố lịch sử xã hội như trên,
muốn có một nền văn xuôi hiện đại đòi hỏi có một tư duy nghệ thuật mới,
một hệ thống thể loại mới, một thế hệ nhà văn mới và nhiều yếu tố văn hóa
như báo chí, hoạt động in ấn, xuất bản,… Toàn bộ sự thay đổi này không thể
diễn ra trong một thời gian ngắn mà nó đòi hỏi một cuộc “chạy tiếp sức” của
nhiều thế hệ nhà văn trong giai đoạn giao thời. Đầu thế kỷ XX với sự xuất
hiện của nhiều cây bút nữ đã làm diện mạo văn hóa, văn học có những thay
đổi đáng kể và tạo tiền đề cho sự phát triển ở những chặng tiếp theo. Mặc dù
về thi pháp văn xuôi thì Đạm Phương còn lạc hậu vì cách tả chân, hiện thực
đã thấy có trên Nam Phong từ Sống chết mặc bay (1918) nhưng bà vẫn là một
trong những nhà văn nữ đi tiên phong trong sáng tác thể loại tiểu thuyết. Bà
66
đã mạnh dạn vượt qua quan niệm và nề thói cũ để viết tiểu thuyết văn xuôi
quốc ngữ ngay từ những ngày thể loại tiểu thuyết đang hình thành ở nước ta.
Tuy chưa đạt được thành tựu về mặt nghệ thuật như chính tác giả đã khiêm
tốn viết rằng: “…Còn văn chương có non nớt, chắc độc giả cũng lượng tình
mà dung thứ cho.” [17; tr 410] nhưng những đóng góp của Đạm Phương cho
sự phát triển thể loại tiểu thuyết trong quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc
là rất đáng ghi nhận.
Tiểu kết
Nhìn lại toàn bộ cuộc đời và hạnh trạng của Đạm Phương nữ sử chúng
ta thấy rằng bà là một trong số rất ít những con vua cháu chúa đã vượt qua vô
vàn những ràng buộc, thoát dần hoàn cảnh, đẳng cấp cũng như một phần ý
thức hệ phong kiến để hoạt động và đóng góp cho sự phát triển văn hóa nước
nhà. Bà có đủ nghị lực và ý chí tự bồi bổ kiến thức, thay đổi cách nghĩ, kế
thừa tinh túy của nền giáo dục truyền thống, đồng thời tiếp cận các quan điểm
tiến bộ của phương Tây. Noi gương các chí sỹ cách mạng, bà hướng tới cái
chân, cái thiện. Từ lòng thương người và thiện chí với nhân quần, bà đã trở
thành nhà hoạt động xã hội mang tư tưởng dân chủ, nhân quyền. Bà cũng là
mẫu phụ nữ “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Tuy xuất thân “cành vàng lá
ngọc” lại gặp cảnh vận nước nguy nan nhưng bà vẫn đảm nhiệm chức quan
nữ sử, vừa sinh hạ vừa chăm lo, quán xuyến, giáo dưỡng cho một đại gia đình
có tới 11 người con. Nhận xét khái quát về cuộc đời bà, nhà nghiên cứu Trần
Ngọc Vương cho rằng: “Đông cơ hành động ở mọi cung đời của bà, theo
thiển ý, dường như nhất quán: bà bị hút theo một ước vọng làm gì cho nước
thôi yếu đuối phụ thuộc, dân thôi nghèo hèn. Để đạt tới đích ấy, bà đã chấp
nhận về cho bản thân và cho cả gia đình nữa những sa sểnh, những thua thiệt,
thậm chí những đảo điên, tổn thất. Nói khác đi, chỉ lòng yêu nước yêu đồng
bào mình ở bà là một hằng số.”[132; tr 341;342]
67
Về sự nghiệp văn chương, Đạm Phương có một số lượng trước tác khá
đa dạng xét theo thể loại: thơ, từ, tiểu thuyết. Nhìn chung ngôn ngữ, giọng
điệu, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật trong văn chương của bà vẫn theo
lối truyền thống, cổ điển thường thấy trong sáng tác của các bậc nữ lưu thủa
trước. Tuy đôi chỗ văn chương của bà đã xuất hiện những yếu tố hiện đại như
mảng thơ phản ánh hoạt động của giới nữ ở cả ba miền và nhấn mạnh đến
trách nhiệm của giới nữ với đất nước hay sự tiên phong viết tiểu thuyết bằng
chữ quốc ngữ trong giới nữ nhưng nếu chỉ xét riêng mảng văn chương chúng
ta chưa nhận thấy những thành tựu rực rỡ mang tính chất đột phá trong tiến
trình lịch sử văn học nước nhà. Đúng như PGS. TS Trần Ngọc Vương nhận
xét: “So với một số tác giả văn học nữ đương thời và muộn hơn ít nhiều,
Đạm Phương nữ sĩ góp vào một giọng hợp ca trong một dàn tốp ca còn rất ít
ỏi, nhưng chỉ về phương diện văn chương mà xét , thì sáng tác văn học của
bà chưa đủ yếu tố riêng biệt để được đánh giá là một giọng “lĩnh xướng”
Nhưng rồi khá nhanh chóng, bậc tài nữ này đã tìm thấy “giọng điệu
riêng” của mình, vừa nhờ vào kinh lịch cá nhân phong phú, khả năng tự phản
tư sâu sắc và bác nhã, sự lựa chọn chủ đề, đề tài xác đáng, đúng “sở trường”.
Ở đây, “mạch” đã được khơi trúng, để rồi có sự tuôn chảy ào ạt, dường như
là tự nhiên lên tới hàng trăm bài báo có chất lượng, rồi xuất hiện những cuốn
sách chuyên khảo, chuyên luận thuộc vào hàng sớm nhất, công phu và bài
bản nhất giữa những công trình của các tác giả Việt Nam thời mới nhập cuộc
vào đời sống học thuật khu vực và cả dòng chảy của thế giới”. [132; tr 334]
Những bài báo, bài chuyên khảo đó thể hiện tư tưởng của Đạm Phương về
hai vấn đề cốt yếu trong giai đoạn hiện đại hóa đầu thế kỷ XX là vấn đề phụ
nữ và giáo dục nhi đồng. Đó cũng chính là hai vấn đề quan trọng mà chương
2 và chương 3 của luận văn sẽ trình bày tiếp theo.
68
CHƯƠNG 2:
ĐẠM PHƯƠNG VÀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. Sơ lược về phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới
Hai lý thuyết nữ quyền cơ bản
Thuật ngữ phong trào Nữ quyền (Feminism) được đưa ra lần đầu tiên
năm 1830 bởi Fourier (1772 – 1837) và đến giữa thế kỷ XX, những tranh
luận về vấn đề nữ quyền được chia ra thành hai loại lý thuyết là thuyết nữ
quyền tự do và thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa. Thuyết nữ quyền tự do có
nội dung chủ yếu là bàn về sự bình đẳng nam nữ trong vấn đề giáo dục, đề
cập đến điều kiện và địa vị của người phụ nữ trong cuộc tranh luận về cuộc
cải cách xã hội và cho rằng đã đến lúc phải thực hiện một cuộc cách mạng
trong cách xử sự của người phụ nữ, phải trả lại cho họ chân giá trị bị đánh
cắp, và để cho họ được lao động như một phần của loài người. Sang thế kỷ
XIX, lý thuyết nữ quyền tự do được mở rộng hơn, không chỉ là bình đẳng
nam nữ trong vấn đề giáo dục mà còn đề xướng cả bình đẳng nam nữ trong
các cơ hội kinh tế, phúc lợi xã hội, luật pháp, chính sách xã hội.
Năm 1848, tại Hội nghị đầu tiên về quyền phụ nữ ở Senaca Falls, New
York, Elizabeth Cady Staton và Lucretia Motte đã đưa ra Tuyên ngôn kêu gọi
quyền có tài sản của phụ nữ, đòi được hưởng lương ngang bằng với nam giới,
và quyền bầu cử. Năm 1869 John Stuart Mill và vợ là Harriet Taylor viết
cuốn Sự khuất phục của phụ nữ đã góp phần ủng hộ việc thành lập Hiệp hội
quốc gia về quyền bầu cử của phụ nữ. Đây được coi là một tác phẩm kinh
điển của lý thuyết nữ quyền tự do. Hai tác giả này cho rằng sự nghiệp giải
phóng phụ nữ gồm ba giai đoạn: Đầu tiên là phụ nữ phải giải phóng được về
mặt kinh tế, phụ nữ phải có công ăn việc làm. Giai đoạn hai là giai đoạn phụ
nữ phải được giải phóng về trí tuệ, phải được hưởng một nền giáo dục không
69
mất tiền và có tính chất bắt buộc. Giai đoạn ba là giai đoạn phụ nữ phải được
giải phóng về mặt chính trị, được quyền bầu cử và ứng cử. Phụ nữ phải được
bình đẳng với nam giới trong việc hưởng các quyền để họ có thể tự do cạnh
tranh, họ phải được học tập và làm việc trong lĩnh vực mà họ có khả năng.
Ưu điểm của thuyết nữ quyền tự do là quan niệm coi nam nữ có thể bình
đẳng, hợp tác và hòa nhập, cùng chia sẻ trách nhiệm trong gia đình và xã hội,
chứ không phải giành quyền cho phụ nữ bằng việc tước đoạt quyền lợi của
nam giới.
Thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa có cơ sở từ học thuyết về chủ nghĩa
xã hội, xuất hiện trước chủ nghĩa Mác trong những thập kỷ đầu của thế kỷ
XIX ở Pháp và Anh với những tên tuổi như Saint Simon (1760 – 1825),
Charles Fourier (1772 – 1837) người Pháp và Robert Owen (1771 – 1858)
người Anh. Những quan điểm cơ bản của thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa là
nhấn mạnh tính cộng đồng và chống lại chủ nghĩa cá nhân. Họ cho rằng
quyền bình đẳng chỉ có được đầy đủ khi xác lập quyền sở hữu chung và sự
hợp tác thay thế tài sản cá nhân và sự cạnh tranh. Theo Thompson (1775 –
1844) sự độc lập về kinh tế và quyền theo đuổi nghề nghiệp của phụ nữ chỉ
có thể đạt được trong xã hội có tính hợp tác. Sự áp bức đối với phụ nữ là sản
phẩm của chủ nghĩa tư bản và nó được củng cố bởi pháp luật bất bình đẳng.
Điều này còn có cơ sở từ sự ích kỷ của nam giới, và giải phóng phụ nữ đòi
hỏi sự thay đổi hệ thống kinh tế - xã hội theo hướng chủ nghĩa xã hội. Cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Charlotte Perkins Gilman (1860 – 1945), cho
rằng phụ nữ phải được độc lập về kinh tế không phải chỉ vì bản thân họ mà vì
lợi ích của con người nói chung. Khi phụ nữ có nghề nghiệp, tham gia vào
nền sản xuất xã hội, họ có thể tự nuôi sống mình. Sự độc lập về kinh tế đó sẽ
làm thay đổi cấu trúc gia đình có tính áp bức và dẫn đến một hình thức quan
hệ cao hơn, đó là quan hệ không dựa trên nhu cầu về kinh tế. Bà cũng tấn
70
công vào gia đình truyền thống: chồng đi làm, vợ ở nhà lo việc nhà. Theo bà
gia đình là nơi phụ nữ bị làm nô lệ không công, nơi phụ nữ bị giam cầm trái
tự nhiên. Hơn nữa, công việc nấu ăn, lau nhà, giặt giũ, chăm sóc trẻ,… là
những kỹ năng tổng hợp đòi hỏi phải có chuyên gia, có kiến thức khoa học và
phải được chuyên môn hóa…Việc chuyên môn hóa các công việc gia đình là
chìa khóa để giải phóng phụ nữ và làm xã hội tiến bộ. [55]
Phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới
Trong khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, nội dung của phong trào nữ quyền
tập trung đấu tranh cho việc phụ nữ được hưởng quyền giáo dục và được
hưởng lương như nam giới. Thời kỳ này đã xuất hiện những ý kiến về sự cần
thiết phải liên kết phụ nữ toàn thế giới để đấu tranh vì quyền lợi phụ nữ cũng
như sự cần thiết của việc phải gắn phong trào giải phóng phụ nữ với phong
trào giải phóng giai cấp vô sản. Phụ nữ Mỹ là những người đi đầu trong
phong trào đấu tranh đòi nữ quyền, bắt đầu từ việc những người phụ nữ có
học vấn tham gia vào các vấn đề xã hội. Năm 1840, sau khi bị loại ra khỏi
Hội nghị phản đối chế độ nô lệ được tổ chức ở London vì lí do giới tính, hai
bà Elizabeth Cady Stanton và Susan B Anthony cùng các đại biểu phụ nữ
khác đã tẩy chay hội nghị và chuẩn bị vận động cho việc tổ chức một Hội
nghị khác về quyền phụ nữ.
Đến năm 1848, tại Hội nghị ở Seneca Falls, hai bà đã đưa ra bản tuyên
ngôn đề ra chương trình nghị sự cho phong trào đấu tranh đòi nữ quyền: Đó
là quyền của phụ nữ đối với con cái họ trong trường hợp li dị, quyền được
làm chứng trước tòa chống lại người chồng bạo hành, quyền được làm việc
và giữ lại một phần lương của mình mà không phải nộp cho chồng và đặc
biệt là quyền được bỏ phiếu của phụ nữ. Hai bà tập trung vào hoạt đông
tuyên truyền, diễn thuyết, viết sách báo để thay đổi quan điểm của công
chúng, từ đó cũng dẫn tới sự ra đời của nhiều tổ chức phụ nữ. Hội đồng phụ
71
nữ quốc tế được thành lập ở thủ đô Washington năm 1888 chính là tổ chức
nữ quyền lớn nhất và lâu nhất trên thế giới.
Cuối thế kỷ XIX và hai thập niên đầu thế kỷ XX, các tổ chức nữ quyền
của Mỹ hoạt động chủ yếu nhằm đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Hiệp hội quốc
gia Mỹ vì quyền bầu cử cho phụ nữ ra đời năm 1890. Sự đấu tranh quyết liệt
về quyền bầu cử cho phụ nữ dẫn đến việc sửa điều thứ 19 trong Luật về trao
cho phụ nữ quyền bầu cử vào năm 1920. [14]. Ở Châu Âu cùng với sự phát
triển của tư tưởng dân chủ tư sản và các cuộc cách mạng, phụ nữ Châu Âu đã
dấy lên một phong trào sôi nổi đòi quyền bình đẳng nam nữ. Đến cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX phong trào phụ nữ đã phát triển thành một giai đoạn mới
đánh dấu bằng các cuộc đấu tranh đòi quyền chính trị và pháp luật cho giới
nữ.
Kết quả là đến năm 1918 phụ nữ Anh đã giành được quyền bầu cử, cho
đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất, phụ nữ một số nước như Phần Lan,
Đan Mạch, Nauy, Ai len,… đã giành được quyền chính trị như nam giới. Sau
chiến tranh vai trò của phụ nữ càng nổi lên, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào
phụ nữ sớm đi đến thành công. Lần lượt phụ nữ các nước như: Áo, Hà Lan,
Bỉ, Nga, Đức, Anh,…đã giành được quyền bầu cử. Ở Nga, Cách mạng tháng
Mười (1917) đã đưa lại quyền bình đẳng cho phụ nữ.
Ở các nước phương Đông, phong trào nữ quyền ở Nhật Bản, Trung
Quốc, Ấn Độ bắt đầu phát triển. Ngay ở Ấn Độ, một quốc gia có chế độ đẳng
cấp đè nén người phụ nữ một cách dã man nhất, phong trao cũng đã chuyển
mình. Người ta kêu gọi : “Hỡi các bà các cô, hết cái chế độ Purdah cổ hủ
rồi. Xin các bà các cô mau liệng hết xoong chảo, nồi niêu vào một xó mà
bước ra khỏi nhà bếp ngay đi. Chùi nước mắt đi để nhìn một thế giới mới
đang tới. Để mặc bọn đàn ông họ làm bếp. Có biết bao việc phải làm cho Ấn
Độ thành một quốc gia” [11, tr 507]
72
Nhật Bản và Trung Quốc cũng là hai quốc gia có phong trào phụ nữ
khá phát triển. Cuộc đấu tranh của phụ nữ đã buộc chính phủ Nhật Bản phải
xem xét lại quyền bầu cử của phụ nữ. Ở Trung Quốc với phong trào Thái
Bình thiên quốc những chính sách bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực kinh tế,
thi cử và quân sự cũng đã được đặt ra. Hình thức hôn nhân có tính chất mua
bán trước đây bị bãi bỏ, các hình thức hãm hiếp phụ nữ được trừng phạt thích
đáng, chính sách một vợ, một chồng được thực hiện.
Tháng 6 năm 1929 Đại hội phụ nữ thế giới họp ở London với sự tham
gia của phụ nữ 40 nước, trong đó có cả phụ nữ các nước Châu Á như Ấn Độ,
Philipin. Tháng 1 năm 1931 Đại Hội phụ nữ Châu Á họp lần đầu tiên ở Laho
- Ấn Độ đã đề cập đến việc liên kết phụ nữ Châu Á để đấu tranh đòi quyền
bình đẳng nam nữ, chống chế độ đa thê, chống mãi dâm, đòi quyền được trợ
cấp khi ốm đau, thai sản, bảo vệ văn hóa, bảo vệ hòa bình,…Trong các Đại
hội này chưa có sự tham gia của phụ nữ Việt Nam, song những tin tức này
thông qua báo chí cũng lan tới và ảnh hưởng đến Việt Nam.
Từ những năm 1920, khái niệm nữ quyền đã được giới thiệu và bàn
luận sôi nổi. Các trí thức đương thời đã dịch nhiều tài liệu về nữ quyền giới
thiệu trên báo Nam Phong. Trên các báo chí khác cũng xuất hiện nhiều bài
báo giới thiệu về phong trào phụ nữ trên thế giới, bàn về giáo dục giành cho
phụ nữ, cũng như phụ nữ tham gia lao động xã hội. Những tư tưởng mới về
quyền bình đẳng nam nữ này cũng làm dấy lên ở Việt Nam phong trào nữ
quyền và giải phóng phụ nữ. Các bài báo khẳng định vai trò của người phụ
nữ trong xã hội, tuy nhiên ý kiến phản bác cũng không ít. Do đó, cuộc thảo
luận về vấn đề phụ nữ có thể được chia theo ba hướng: cấp tiến, thủ cựu và
ôn hòa (cố gắng dung hòa hai ý kiến cấp tiến và thủ cựu)
73
2.2. Tình hình phụ nữ Việt Nam và “vấn đề phụ nữ” trong xã hội
Nếu như trước đây, dưới chế độ phong kiến, hầu hết phụ nữ Việt Nam
đều là nông dân, thợ thủ công, tiểu thương thì ngay từ khi xuất hiện lực lượng
công nhân đầu tiên đã có mặt của những phụ nữ lao động làm thuê. Tư bản
Pháp chú ý tuyển mộ thợ nữ nhằm bóc lột sức lao động và sự cần cù của họ.
Hàng vạn nữ công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân bị phá sản đi làm
thuê ở các mỏ than Hồng Gai, Kế Bào, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy
diêm Bến Thủy, các đồn điền cao su ở Nam kỳ. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thuộc địa, của giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ nữ công
nhân cũng tăng lên nhanh chóng. Do không được học hành nên họ phải làm
việc lao động chân tay hết sức vất vả mà đồng lương nhận được lại rẻ mạt,
chỉ bằng hai phần ba số lương của nam giới.
Bên cạnh sự hình thành của tầng lớp phụ nữ lao động, ở Việt Nam còn
xuất hiện tầng lớp phụ nữ tiểu tư sản thành thị gồm các công chức (giáo viên,
ý ta, thư ký, hộ sinh), các nữ học sinh, tiểu thương, vợ con các viên chức làm
việc trong công sở của Pháp và tư nhân. Đầu thế kỷ XX, một số trường học
dành cho nữ sinh xuất hiện ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Hà Nội và các địa
phương. Trường nữ học đầu tiên ở Bắc kỳ, trường Brieux (hay còn gọi là
trường Hàng Cót), cũng là trường nữ học đầu tiên trên toàn cõi Đông Dương,
khai giảng ngày 6 thang 1 năm 1908 tại Hà Nội với số học sinh là 178.
Trường Nữ học Đồng Khánh ở Huế thành lập năm 1917. Năm 1915, ở Sài
Gòn mở trường cho nữ giới đầu tiên là trường Áo Tím, trường có các lớp từ
Đồng Ấu đến cao đẳng, tốt nghiệp học sinh được cấp bằng sơ học, đến tháng
9 năm 1922 trường có thêm Ban trung học nữ học đường. Lúc đầu học sinh
vào học chia làm hai ban: ban sư phạm và ban phổ thông. Tốt nghiệp, học
sinh được nhận bằng Thành Chung. Tiếng Pháp được học từ lớp dự bị. Ban
trung học hoàn toàn dạy bằng tiếng Pháp, trong trường học sinh bắt buộc phải
74
nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp.
Có thể thấy rằng chương trình giáo dục như vậy đã làm xuất hiện một
tầng lớp nữ sinh tân học, chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp với lối sống mới
thách thức lại các quan điểm về lối sống, đạo đức truyền thống.
Trong khoảng đầu thế kỷ XX, những thay đổi trong xã hội Việt Nam
và ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng bên ngoài đã ảnh hưởng đến mọi tầng
lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ ở các đô thị và hình thành nên vấn đề phụ nữ
trong xã hội. Dưới ảnh hưởng của tiếp xúc văn hóa Đông Tây, các vấn đề về
lối sống phong tục, tập quán của Việt Nam truyền thống, đặc biệt là những
phong tục tập quán liên quan đến phụ nữ đã được nhiều người cảm nhận là
không còn phù hợp nữa và cần phải thay đổi. Đặc biệt trong tầng lớp phụ nữ
tiểu tư sản thành thị nổi bật lên những phụ nữ tri thức, có tinh thần yêu nước,
mong muốn đấu tranh cho phong trào giải phóng phụ nữ như: Nguyễn Thị
Minh Khai, Nguyễn Trung Nguyệt, Trần Thị Như Mân, Trần Thị Hồng,
Phan Thị Nga, Mai Huỳnh Hoa, Nguyễn Thị Lưu,… Nhiều phụ nữ tri thức đã
đi đầu trong việc đề xướng phong trào phụ nữ. Họ viết văn, viết báo, làm thơ,
diễn thuyết, tổ chức các công việc từ thiện, lập các Hội phụ nữ ở các tỉnh.
Tiêu biểu như Đạm Phương, Sương Nguyệt Anh, Vân Đài, Nguyễn Thị
Kiêm, Nguyên Đức Nhuận, Huỳnh Thị Bảo Hòa,…
Là một đất nước chịu ảnh hưởng lâu dài và nặng nề của Nho giáo, vấn
đề phụ nữ ở Việt Nam còn thể hiện cuộc vận động giải phóng phụ nữ thoát
khỏi lễ giáo phong kiến, nhìn nhận lại quan niệm về trinh tiết, sự thủ tiết của
phụ nữ góa chồng, hôn nhân tự do, nạn đa thê và tảo hôn,…Do ảnh hưởng
của tư tưởng dân chủ tư sản về quyền con người, trong đó có quyền phụ nữ
cũng làm nảy sinh cuộc thảo luận trong xã hội Việt Nam về quyền bình đẳng
nam nữ trong xã hội thể hiện ở các khía cạnh: giáo dục dành cho phụ nữ, phụ
nữ với văn học nghệ thuật, quyền lao động, quyền hưởng lương ngang bằng
75
và các chế độ bảo hiểm, quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ. Trên tất cả các
cuộc thảo luận này là cuộc thảo luận về vai trò địa vị người phụ nữ trong gia
đình và trong xã hội. Việc xác định vai trò địa vị người phụ nữ có ý nghĩa
quyết định trong việc nhận thức các khái niệm về nữ quyền, bình đẳng nam
nữ và giải phóng phụ nữ.
Mặt khác trong điều kiện là một nước thuộc địa nửa phong kiến như
Việt Nam, phụ nữ muốn được bình đẳng, được giải phóng cần một tiền đề
quan trọng là đất nước được độc lập, nhân dân được tự do. Vì thế cuộc thảo
luận về vấn đề phụ nữ cũng gắn với nội dung vai trò của phụ nữ trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự thay đổi trong thực tiễn cũng như ý thức xã
hội đã đặt ra một vấn đề khác với phụ nữ. Đó là vấn đề đạo đức phụ nữ: Vấn
đề các cô gái mới lớn, vấn đề mãi dâm, thế nào là một người phụ nữ lí tưởng
thích hợp với xã hội mới,…
Trong phần phân tích mục lục báo Nam Phong trong cuốn “Mục lục
phân tích tạp chí Nam Phong (1917 – 1934)”, tác giả Nguyễn Khắc Xuyên
viết: “vấn đề phụ nữ cũng là vấn đề hệ trong buổi giao thời giữa hai nền văn
minh Âu – Á. Người ta đã đặt những tư tưởng mới như nữ quyền, nữ học, cả
đến việc cắt tóc ngắn cũng được nói tới. Có thể thêm “phụ nữ giáo dục” với
những đường lối giáo dục mới, thư cho con gái du học bên Tây, gái thời nay,
vấn đề nữ lưu, nữ ngôn… Tại trường Mỹ thuật Hà Nội đã có một nữ sinh cắp
sách đi học mặc quần đen, để tóc đuôi gà và nhuộm răng đen, trong khi đó
vấn đề “nhảy đầm” đang được dư luận phụ nữ bàn tán!” [53; tr 26]
Có thể tóm lại rằng “trong cơn khủng hoảng do cuộc đụng độ với chủ
nghĩa thực dân gây ra, chịu ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng dân chủ từ
bên ngoài, phụ nữ trở thành một vấn đề xã hội và dường như là điểm thể hiện
tập trung những mâu thuẫn, những thay đổi trong xã hội Việt Nam buổi giao
thời” [10; tr57]
76
2.3. Tư tưởng của Đạm Phương về vấn đề phụ nữ trong mối tương quan
với các học giả đương thời.
2.3.1. Vấn đề công - dung - ngôn - hạnh
Về đạo đức phụ nữ Đạm Phương vẫn đề cao bốn mục tiêu: Công –
Dung – Ngôn – Hạnh, và lấy đó làm mục tiêu giáo dục phụ nữ đương thời.
Bà muốn kế thừa và phát triển nền văn hiến lâu đời do ông cha để lại trên nền
tảng đạo đức sẵn có. Hai câu đối của bà trên cột của Hội quán NCHH, do bà
sáng lập thể hiện rõ điều này: “Đạo đức sẵn nền xưa, Trung Bắc Nam dìu dắt
chị em, xây đắp bồi thêm văn hiến cũ”. Nhưng cũng có lúc bà phê phán quyết
liệt : “việc cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, bắt đàn bà thủ tiết chờ chồng khi
chồng chết, hạn chế sự học hành của phụ nữ , đều phải vứt bỏ đi cùng tam
tòng tứ đức…” [36; tr 36]. Như vậy liệu trong tư tưởng của Đạm Phương có
sự mâu thuẫn khi đánh giá về đạo đức phụ nữ? Điều này thể hiện tính chất
“hai mang” trong một nhân vật thuộc về giai đoạn giao thời như Đạm
Phương. Chắc chắn rằng bà không thể gạt bỏ “thuyết tam tòng tứ đức” trong
giáo lý Khổng Mạnh đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt Nam qua mấy trăm
năm. Tuy nhiên bà cũng lại là người tiếp thu được những tinh hoa của cuộc
vận động Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên trong cách mạng Tân Hợi
(1911) và của các nhà tư tưởng tiến bộ phương Tây, nên bà cũng không nhận
thức “công, dung, ngôn, hạnh” theo hướng quá khắt khe, ràng buộc người
phụ nữ. Như chính bà đã từng viết trong bài “Bồn phận con gái” trên báo
Hữu Thanh số ra ngày 15/03/1922:
“Vậy thời không gì quý bằng sẵn có nền nếp cũ, lại thêm tư tưởng mới,
mỹ thuật mới, kỹ nghệ mới ta nên điều hòa châm chước với nhau, điều hay
nên thuộc, lẽ dở nên chừa” [17; tr74]
Trong bốn mục tiêu công, dung, ngôn, hạnh, bà đặc biệt coi trọng chữ
công. Trong diễn văn tại lễ khánh thành NCHH, bà khẳng định “Lấy cái hiện
77
trạng của nữ giới xét mà xem thì nữ công vẫn là một phần tư của người đàn
bà Việt Nam, từ bao giờ đến bây giờ, cái đường kim mũi chỉ, canh cửi, bánh
trái, vẫn là cái công việc thường xuyên và cần kíp của người phụ nữ Việt
Nam bất luận là con nhà khuê các hay thường dân” [17; tr 323]. Bà đã dành
rất nhiều bài viết để bàn về chữ công với phụ nữ như: Một ưu điểm của đàn
bà nước ta, Vấn đề lý tài, Phu nhơn công nghệ, Nghề làm bánh, Đàn bà ngày
nay nên học nghề nghiệp, Đàn bà mình nhiều kẻ thất nghiệp; Muốn cho nữ
lưu biết chức nghiệp phải có Nữ công học hội,… Chữ công cũng là điểm mấu
chốt trong lý thuyết về giải phóng phụ nữ của Đạm Phương. Theo bà phụ nữ
muốn độc lập với nam giới thì trước tiên phải tự nuôi sống mình để không bị
phụ thuộc vào nam giới như trước kia nữa.
Như vậy chữ công theo quan niệm của bà không còn bó hẹp trong
phạm vi công việc trong bếp, trong nhà của người phụ nữ như tư tưởng Nho
giáo mà nó đã phát triển thành chức nghiệp cho phụ nữ. Quan niệm chữ công
của bà đã phần nào tiếp cận với khái niệm giáo dục lao động và dạy nghề
ngày nay.
Thời này, Phan Khôi cũng bàn về nữ công, ông nhấn mạnh đến lập
luận, không có công việc gì là của riêng ai: “Theo tôi, người ta ở đời bất kỳ
là ai, hễ có ăn thì phải biết nấu nồi cơm, có mặc thì phải biết vá miếng dẻ, có
ở cái nhà thì phải biết buộc lạt, tóm lại là mọi sự gì thiết đến thân mình thì
mình đều phải biết hết mới được” [87]. Và nói nữ công là “những thứ việc
dành riêng cho đàn bà” theo quan niệm của ông Thánh, ông Hiền. Điểm mới
trong đánh giá của Phan Khôi về nữ công là tính chuyên nghiệp : chữ công có
nghĩa là “việc” đã đành rồi, mà cũng có nghĩa là “thợ”, là “khéo” nữa. Vậy
trong khi ta nói “nữ công” không nên chỉ biểu nó là ‘việc của đàn bà” mà
thôi, mà phải hiểu là hết thảy đàn bà làm những việc mình làm, đều là tay
“thợ” cả, đều là “khéo” cả, mới được. Phan Khôi cũng kết luận về mục đích
78
bàn về chữ nữ công của mình: “Song, cái bổ ý tôi vì muốn cho hết thảy người
An Nam chúng ta từ nay về sau, làm việc gì cũng phải cho có phương pháp,
cũng phải trông cho đến bậc hoàn thiện, đem cái tinh thần khoa học mà tưới
vào mọi công ăn việc làm”.[87]
Như vậy đối với chữ công, cả Đạm Phương và Phan Khôi đều mở rộng
nội hàm cho khái niệm này.
Chữ công đã vậy, còn chữ dung thì sao? So với các khía cạch khác
trong đạo đức người phụ nữ, Đạm Phương ít nói đến chữ dung nhất, bởi theo
bà quan niệm dung là thuộc tính của người phụ nữ:
Lược gương là phận quần thoa
Sao cho chải chuốt nết na dịu dàng.
Bà cũng làm nhiều bài thơ ca ngợi vẻ đẹp yểu điệu dịu dàng của người
phụ nữ, nhưng theo bà dù có được ca ngợi và nâng niu đến mấy, dung cũng
chỉ là cái hình thức bên ngoài, còn cái quý giá gấp muôn vạn lần, thuộc bản
chất đó là chữ trinh:
Giữ gìn vóc ngọc mình vàng
Chữ trinh gấp mấy muôn vàn chữ dung
Về chữ ngôn bà có chú ý hơn, bà nêu gương bà Trưng, bà Triệu xướng
khởi những lời nói thơm tho, để ngàn năm sau vẫn làm nức lòng người. Bà có
viết một số bài báo về nội dung này như: Cái trình độ nữ ngôn đời bây giờ,
Nói chuyện,…Các bài viết này khuyên phụ nữ “đã có sở ngôn phải có sở
hành, chứ không phải nói một đường làm một nẻo”; hay việc phải giữ ý tứ
trong khi nói chuyện: “Đem hết công việc ở nhà, chồng ở làm sao, bà gia ở
làm sao, nhất nhất nói cho thiên hạ nghe hết, nghĩ như thế thật không phải
cách nói chuyện”[17; tr 163]; và cách nghe nói chuyện: “Phải suy xét cho
tường tận đã, chớ vội tin liền mà cũng không nên không tin, vì những lời nói
79
khéo thì êm ái dễ nghe, lời nói thẳng thì trái tai khó chịu. Nghe lời thẳng mà
không giận mới răn mình được, chớ lấy lời người ta khen mình mà chắc mình
không có lỗi,…”[17; tr 163]
Đối với chữ hạnh, bà dành sự quan tâm đặc biệt, bà thường nêu song
song vấn đề học vấn và đức hạnh. Bà khẳng định: “Đức hạnh là cội gốc cho
sự học vấn” [17; tr 63] và “Người đàn bà phải có đức hạnh làm bổn, nghĩa là
dẫu có thiên cổ bất dịch, không những từ đây về trước đã thế, nhưng dẫu cho
đến muôn ức ngàn năm về sau cũng không thể thay đổi bao giờ. Vậy cho nên
học hạnh kiêm ưu mới là danh giá…”[17; tr 64]
Bà nhận xét người phụ nữ mắc phải cạm bẫy tình ái là không có nghị
lực và trí suy xét nên mới sa đọa, mất cả trinh tiết, bà nhắc nhở phải luyện tập
tâm tính cho có nghị lực, có can đảm. Bà nêu gương các bậc tiết tháo trong
lịch sử Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời viết một loạt các bài nhắc nhở
gia đình phải rèn tập khuôn phẩm hạnh: Cần kiệm, Dạy con gái nên dạy cách
kiệm ước làm đầu, Con gái phải tập việc nhà cho quen, Cái cảm tình của
người đàn bà, con gái phải nên biết điều chính, điều tà,…
Nhìn nhận công – dung – ngôn – hạnh theo hưởng thủ cựu hơn,
Nguyễn Đôn Phục cho rằng: “Xét ra cái tinh thần người đàn bà bên Đông
phương ở về đường khuê các, đường nội trợ. Cho nên cái đức người đàn bà
phương Đông ta không lo là phải đánh đông dẹp bắc, không lo là phải tranh
nhau nam nữ bình quyền, không lo là phải nghiên cứu đến các vị hành tinh,
không lo là phải suy xét đến phép tính kỷ hà học. Dù có học hành, cũng chỉ
cốt trong tứ đức, nữ công sao cho chuyên cần, nữ dung sao cho yểu điệu, nữ
ngôn sao cho hòa thuận, nữ hạnh sao cho chính chuyên; đối với cha mẹ giữ
lấy chữ hiếu, đối với gia đình giữ lấy chữ hòa lạc, đối với con giữ lấy chữ từ
ái, cù lao, đối với nhân quần giữ lấy chữ từ thiện, phúc đức. Thế là bậc nữ
lưu đệ nhất, thế là đủ,…” [17; tr 436]
80
Chính vì quan điểm đó nên ông đã chủ trương dịch thuật, biên tập lại
những câu chuyện về đức độ, tiết hạnh của người đàn bà phương Đông, tiêu
biểu là người đàn bà Tàu với mục đích: “Nay muốn sưu tập lấy những cái
dấu tích người đàn bà bên Đông phương, để bảo tồn lấy cái tinh túy trong nữ
giới của Đông phương”/ [77; tr 436 – 437]
Nhóm tác giả của Nữ giới chung – tờ báo dành riêng cho giới nữ mà
Sương Nguyệt Anh làm chủ bút cũng đề cao luân lý đạo Khổng với “tam
tòng”, “tứ đức”, mà bà coi là “cái đạo đàn bà ta xưa kia cha ông ta trải bao
đời đời, kiếp kiếp truyền lại cho ta, thiệt là vàng ngọc chẳng sai” [10], hay
như Nguyễn Thị Bổng cũng cho rằng “vốn đờn bà như cái đèn để trong nhà
thì sáng, đem ra đường thì lu, việc tề gia nội trợ giúp chồng, dạy con cái là
luật tự nhiên nên tam tòng tứ đức vẫn là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất để
đánh giá phụ nữ.” [10]
Có thể thấy rằng, Đạm Phương và hầu hết các tác giả cùng thời vẫn
không thoát khỏi những quan niệm Nho giáo về tam tòng tứ đức, bà vẫn sử
dụng bốn chữ: công – dung – ngôn – hạnh để làm khuôn phép giáo dục người
phụ nữ theo truyền thống cũ. Xét về hoàn cảnh lịch sử, đây là giai đoạn xã hội
Việt Nam có sự rạn nứt nghiêm trọng về những giá trị đạo đức cũ, song song
với đó là sự hình thành những luồng tư tưởng mới từ Tây phương. Điều này
dẫn đến hiện tượng thay đổi lối sống của những cô gái mới, lợi dụng Âu hóa
để sống buông thả. Đạm Phương và những lớp người sinh ra, lớn lên trong
truyền thống đạo đức cũ nhận thấy sự lố lăng của thời cuộc nên đề cao tư
tưởng, truyền thống tốt đẹp của ông cha để răn dạy lớp trẻ cũng là điều dễ
hiểu. Tuy nhiên, Đạm Phương cũng đã có sự nhìn nhận vấn đề về đạo đức phụ
nữ theo một nghĩa mới, mở rộng hơn với nội dung phù hợp với thời đại hơn,
nhằm bồi dưỡng cho người phụ nữ những đức tính cần thiết, góp phần phát
triển bản thân người phụ nữ cũng như góp phần phát triển xã hội nói chung.
81
2.3.2. Vấn đề về trinh tiết
Trinh tiết là vấn đề được Đạm Phương nhắc đến không chỉ một lần, khi
viết về trinh tiết bà thường viện dẫn ngạn ngữ Hán học, Kinh thi, Truyện
Kiều để khẳng định giá trị trinh tiết của người phụ nữ như: “nữ tử tòng nhất
nhi chung” (người con gái trọn đời thờ một chồng), “chữ trinh đáng giá
ngàn vàng”, “Đã đem vào bậc bố kinh, Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm
đầu”. “Vô thiểm nhĩ sở sinh” (chớ làm nhuốc đời này), … Bà quan niệm :
“Người đàn bà mà phải giữ có chữ trinh, là cũng như người đàn ông phải
giữ có chữ trung vậy. Trung trinh hai chữ ngang nhau” [17; tr 79]
Theo bà nữ nhi dễ cảm xúc, người ta không phải là cỏ cây gỗ đá nên
cái tình nam nữ nảy sinh rất mau, nếu người con gái không cầm vững được
lòng là tất phải xiêu lạc theo. Mà cái sự cầm lòng cho vững cũng rất khó, chi
bằng lánh trước là hơn. Cách lánh trước mà bà đề cập đến là học theo phép
khuê huấn của Nho gia, ở nhà nương theo bà mẹ, rèn tập nữ công, thêu thùa
khâu vá, cho có công việc mà làm, tránh khỏi sự ngồi không. Bà giải thích:
“vì người con gái bẩm chất yếu đuối, nhẹ dạ hay tin người, mà cái hạnh phúc
suốt đời của người đàn bà, thời có nhiều nguyên nhân gây lên, nhưng chữ
trinh tiết là nguyên nhân thứ nhất, lớn nhất, cần nhất, để cho rõ ràng chứng
minh rằng: cái quả tim của người đàn bà là chỉ có trọn một niềm đối với
người mà mình đã ký thác cái đời của mình cho người. Cho nên trong khi
động phòng hoa chúc, dìu dặt chén mời, chữ tình càng nặng, chữ duyên càng
nồng, là đều bởi những người con gái biết thủ bổn phận, mới làm nên danh
giá cho đời mình vậy” [17; tr 76 -77]
Và “tấm thân người con gái, cũng ví như cánh hoa thơm, hòn ngọc
báu, dễ khiến cho người đời quý trọng, mà cũng dễ khiến cho người đời
khinh bỉ lắm, khi hoa đương phong nhụy, ngọc còn đợi giá, quí biết ngần
nào, thơm tho xiết bao, mà nếu đã để ngọc kia có vết, hoa nọ rời hương, thời
82
còn nói làm chi nữa, thân nghìn vàng để ô danh má hồng”.[17; tr 77]
Những lời lẽ trên cho thấy Đạm Phương có quan niệm bảo thủ về trinh
tiết. Quan niệm ấy vẫn nằm trong quỹ đạo của lễ giáo phong kiến bắt buộc về
trinh tiết của người phụ nữ, nó phản ánh thực tế thân phận phụ nữ với đòi hỏi
khe khắt về trinh tiết vẫn rất nặng nề trong xã hội lúc giao thời. Song song
với thái độ cảnh báo, răn dậy là thái độ đầy thương cảm vì Đạm Phương tính
đến áp lực đáng sợ của môi trường văn hóa nho giáo áp đặt lên người phụ nữ.
Không phải là người phụ nữ tự nguyện bảo toàn trinh tiết mà là họ bị sức ép
của quan niệm đạo đức nho giáo nghiệt ngã. Có lẽ vì bản thân Đạm Phương
lớn lên trong hoàng tộc cung cấm, bị lễ giáo phong kiến ràng buộc chặt chẽ,
hơn nữa bà lại từng đảm nhiệm một chức nữ quan (“nữ sử” ) dạy dỗ các cung
nữ, công chúa trong triều đình nên quan niệm về trinh tiết của bà hoàn toàn
vẫn theo truyền thống cũ. Thời kỳ này, không chỉ có Đạm Phương, mà hầu
hết các nhà nho vẫn nhìn nhận vấn đề trinh tiết một cách rất khắt khe. Đặc
biệt là trước hiện trạng xã hội xuất hiện một tầng lớp các cô gái tân học, chịu
ảnh hưởng của phương Tây, lợi dụng trào lưu “Âu hóa” để sống buông thả, tự
do. Đạm Phương hết sức phê phán lối sống lìa xa cội rễ văn hóa dân tộc và ra
sức tuyên truyền những tấm gương trinh liệt được người đời ngợi ca. Bà dịch
sách truyện của Trung Quốc nói về “Gái trinh liệt”, trong bài bàn về “Chữ
trinh” bà cũng dẫn những câu chuyện về nàng Thôi Oanh Oanh và nàng Tiểu
Ngọc vì không giữ trọn trinh tiết nên phải chịu số phận thê thảm để răn dạy
những thiếu nữ thời nay.
“Tuy chuyện nàng Thôi Oanh Oanh cùng nàng Tiểu Ngọc, cảnh ngộ
có khác nhau, một người chịu nhẫn nhục mà lấy chồng khác, thời không kể
làm chi, chớ một người đành phận, trót đã đa mang lấy chữ tình trăm năm
thề chẳng ôm cầm thuyền ai, mà nào có danh giá gì đâu. Đời sau người ta
cũng cho là một tiếng bất trinh, cho nên mới sinh ra nông nỗi như vậy.
83
Những người khuê các, nên trông cái gương to mà răn sợ”. [17; tr 79]
Cũng bàn về chữ trinh nhưng Phan Khôi, một học giả cùng thời với
Đạm Phương lại có cái nhìn hết sức mới mẻ và sắc sảo về vấn đề này. Ông
thẳng thắn đặt ra câu hỏi: “Làm sao không buộc đàn ông phải trinh mà chỉ
nội đàn bà thôi ?”. Ông truy nguyên nguồn gốc của chữ trinh và khẳng định
nó là kết quả của việc “hấp thọ văn hóa Tàu” chứ “đàn bà thời thượng cổ
không giữ trinh” . Ông lí giải: “Ở dưới chế độ phụ hệ , con gái thuận về cha,
có chồng rồi thuộc về chồng. Con gái mất trinh mà có điều chi ra sẽ bị cha
bỏ; kẻ có chồng mất trinh mà có điều chi ra sẽ bị chồng không nhìn. Bị bỏ,
không nhìn, thì cái thân người đàn bà con gái ra bơ vơ, khốn nạn, nên phải
giữ trinh. Ban đầu chỉ là do sự lợi hại của một người, mà sau thành ra cái
phong thượng của cả xã hội, ai phạm điều bất trinh thì cũng bị xã hội loại ra
nữa” [86]
Phan Khôi cũng rất sòng phẳng và rạch ròi khi chia chữ trinh ra thành
hai khái niệm là nết trinh và tiết trinh. Theo ông, nết trinh nghĩa là sự đoan
chánh và chánh chuyên của phụ nữ, “Trinh, không phải là cái nết thuộc về
khách quan, mà lại cái nết thuộc về chủ quan. Mình vì cái ý chí cái phẩm
giá của mình mà giữ trinh, chớ không phải vì ai, cũng không phải vì chồng
nữa, mà giữ trinh. Nói cho cùng tột cái nghĩa chữ trinh, thì một người đàn
bà cũng có khi được phép cự tuyệt sự tiết áp bất chánh của chính chồng
mình nữa.” [86]
Trong khi đó “Tiết khác nghĩa với nết. Tiết là một cái dấu tỏ ra mình
đã làm hết bổn phận của mình đối với người mà mình thuộc về. Một người
đàn bà chết chồng, không lấy chồng khác, mà gọi là tiết phụ, cũng chẳng
khác nào một người bầy tôi chết vì vua mà gọi là tử tiết hay là tận thần tiết.
Tiết phụ là một người vợ đã làm hết bổn phận đối với chồng cũng như “tử
tiết chi thần” là một người tôi đã làm hết bổn phận đối với vua.”. [86]
84
Đứng trên cương vị của một người đàn ông, nhưng Phan Khôi rất tiến
bộ và công bằng khi phân tích về nết trinh và tiết trinh: “Trinh mà chuộng về
nết thì một người đàn bà chết chồng có thể lấy chồng khác, không gọi là thất
trinh được, miễn là trong khi có chồng khác đó cũng vẫn đoan chánh và
chánh chuyên. Nhưng chuộng về tiết thì chết chồng mà lấy chồng khác là thất
tiết. Cái luật nghiêm khắc ấy do lòng tham lam và thói ích kỷ của bọn đàn
ông bày ra, rất là không công bình.” [85]. Song song với đó, ông phê phán
luân lý của Tống Nho trói buộc người đàn bà trong tiết trinh, coi đàn bà
chẳng bằng nửa đồng xu nhỏ: “cái luật buộc đàn bà thủ tiết là do lòng ích kỷ
của đàn ông, và bởi đó làm cho cái mạng người đàn bà khinh rẻ không ra
chi,… Ấy, chuộng trinh chuộng về tiết, thì chẳng những giam đàn bà vào
trong cái cảnh điu đứng đắng cay và thấp hèn, mà lại còn sanh ra cái tệ
khinh rẻ mạng người là như thế nữa. Song, lũ đờn ông ấy họ coi đàn bà như
đồ bỏ, chết mấy cũng thây kệ !” [86]
Nhìn chữ trinh theo khái niệm nết trinh, Phan Khôi cho rằng sự cải giá
là bình thường, ai ở được cũng tốt, ai không ở được thì lấy chồng, sự ấy
chẳng thành ra vấn đề. Việc hạ người đàn bà cải giá xuống, tưng người đàn
bà thủ tiết lên chẳng những không làm cho phong tục được tốt thêm lên chút
nào mà lại làm cho xã hội sinh ra nhiều sự chướng tai gai mắt. Ông nhìn nhận
: “Ngày nay, trong xã hội ta, cái hay của nết trinh chừng như còn lại không
được bao lăm, mà cái dở của tiết trinh vẫn còn đè đầu hết một phần nữ giới.
Đó là cái kết quả của sự chuộng tiết hơn nết. Đó là cái di độc của học thuyết
Tống nho. Đó là sự ban tứ của quân quyền!. Người ta sanh ra ở đời nay là
người ... tự do. Dầu ở dưới chánh thể nào cũng mặc lòng, trông theo ánh
sáng của thời đại, mình cũng có thể giữ được cái nhân cách ..... Đàn bà con
gái cũng là người, ai lại kém ai ? Tự mình phát nguyện ra thủ tiết thì được ;
chớ còn sợ pháp luật mà thủ tiết, ấy là sự làm mất cái nhân cách đàn bà, sự
85
sỉ nhục cho cả và phụ nữ.
Ông Nguyễn Du nói “Chữ trinh có ba bảy đường”; nhưng tôi nói
: chữ trinh có hai đường, là nết và tiết. Nết thì hay mà tiết dở. Chuộng nết thì
có ích mà chuộng tiết thì có hại. Huống chi đương thời buổi này, cái thói
dâm ô tràn ngập cả thiên hạ, đàn bà nước Nam ta nếu muốn giữ lấy nhân
cách mình trên nền tự do độc lập thì hãy phản đối cái tiết trinh, mà thứ nhứt
là cần phải trau giồi lấy cái nết trinh.” [86]
Như vậy, Phan Khôi nhấn mạnh đến nết trinh là sự chủ động, tự
nguyên, mang tính bản chất và chủ quan ở người phụ nữ, còn tiết trinh là sự
trói buộc từ bên ngoài và mang tính khách quan áp đặt cho phụ nữ. Ông cực
lực phản đối xã hội ràng buộc người phụ nữ theo tiết trinh và khuyến khích
phụ nữ tự nguyện trau giồi nết trinh.
Đặt trong thế tương quan so sánh quan niệm về trinh tiết của Đạm
Phương và Phan Khôi, ta thấy rằng Phan Khôi đã có một bước tiến bộ rõ
ràng. Nếu như Đạm Phương vẫn còn loay hoay và có nhiều mâu thuẫn trong
quan niệm cổ truyền về chữ trinh thì Phan Khôi lại tỏ ra rất sắc sảo, rõ ràng
và tiến bộ khi phân tích về khái niệm này. Đạm Phương không trách móc,
mỉa mai những thân phận nữ nhi vì yếu đuối, vì ái tình mà đánh mất trinh tiết,
bà còn có phần tỏ ra thương cảm và đồng cảm với họ. Tuy nhiên bà mặc định
một tư tưởng rằng chữ trinh ảnh hưởng đến hạnh phúc suốt đời của người đàn
bà nên đàn bà không còn cách nào khác là buộc phải giữ trinh tiết thật
nghiêm ngặt để có được cuộc sống êm ấm về sau.
2.3.3. Vấn đề tự do kết hôn
Do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, cuộc sống đô thị và điều kiện
giao tiếp giữa nam và nữ thời kỳ này đã được mở rộng khiến nảy sinh một
vấn đề trong đời sống tình cảm của người phụ nữ, đặc biệt là các nữ sinh tân
86
học, đó là vấn đề tự do yêu đương. Vấn đề này dẫn đến những cuộc bàn luận
sôi nổi, những dư luận xã hội về việc gia đình sẽ được xây dựng trên cơ sở
nào? Tự do hôn nhân hay hôn nhân sắp đặt. Những người theo tư tưởng mới
thì cổ súy nữ quyền, mỉa mai hủ tục, yêu cầu phụ nữ phải được tự do kết hôn,
những người thủ cựu ra sức bảo tổn quốc túy và chứng minh cho tính đúng
đắn của hôn nhân trên cơ sở sắp đặt của cha mẹ.
Hai quan điểm trái ngược nhau này được thể hiện khá sinh động trong
bài viết “Bàn về nghĩa tự do kết hôn” của Nguyễn Bá Học. Tác giả đã thuật
lại cuộc tranh luận của Ất và Giáp về vấn đề tự do kết hôn, mà trong đó Giáp
đại diện cho người theo tư tưởng mới, Ất đại diện cho những người thủ cựu.
Cả hai đều đưa ra những lí lẽ để bảo vệ quan điểm của mình. Phía ủng hộ tư
tưởng tự do kết hôn cho rằng vợ chồng là bạn ‘ký xương, gửi thịt” nên phải
được tự do tìm hiểu và kết hôn với người mình yêu thương. Tục cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy là cha mẹ chỉ thường chú ý đến môn đăng hộ đối mà không
chú ý đến tình cảm của con nên dễ dẫn đến “duyên hương lửa trăm năm
thành ra nợ nần một kiếp”. Phái phản đối tự do kết hôn lại cho rằng, chính vì
hôn nhân là việc rất quan trọng nên phải để cha mẹ là những người có kinh
nghiệm, trách nhiệm và kiến thức quyết định. Nếu như cha mẹ ham tiền của,
ham môn đăng hộ đối mà ép gả con thì cha mẹ có lỗi cần phải làm cho cha
mẹ hiểu.
Như vậy, phía tân tư tưởng đã đặt hạnh phúc cá nhân lên trên họ cho
rằng hôn nhân vì tình yêu là quan trọng. Trong khi đó phái thủ cựu lại đặt
quyền lợi của gia đình lên trên vì “đạo kết hôn của con người cốt ở hạnh phúc
và truyền chủng”. Họ quan niệm tình yêu chỉ là một phần của hạnh phúc, đôi
khi vì tình yêu mà sự bền vững của gia đình bị đe dọa. Phong tục “nam nữ
thụ thụ bất thân” được họ cho là cần thiết vì nó đề phòng thói dâm loạn khi
con người chưa đủ học vấn để giữ mình.
87
Khi bàn về tự do kết hôn, Đạm Phương cũng đồng tình với ý kiến trên
của phái thủ cựu. Theo bà, sự hôn giá bên nước mình là theo phong hóa Á
Đông, do cha mẹ định liệu, tuy có những trường hợp cha mẹ sai lầm, ham
tiền của mà ép duyên con nhưng đó là số rất ít. Bà nêu lên sự khác biệt trong
phong hóa của phương Đông và phương Tây để giải thích vì sao nước ta
không thể chạy theo tự do kết hôn: “Bây giờ những kẻ tân học hâm mộ cái lý
thuyết tiến hóa phương Tây,…mong lợi dụng hai chữ tự do, để cho rộng cái
quyền phép của mình, mà hòng thi thố các công việc, để cầu ích lợi với đời.
Những người học thức cao thâm thì nỏ nói làm chi, còn người ương ương, dở
dở bắt chước tự do, thời chỉ làm hại luân lý, phá trật tự hết thảy. Tự do mà ra
ngoài cái phạm vi, quên giới hạn, thấy người ta được tự do kết hôn, mình
cũng tự do kết hôn, chớ không nghĩ cái phong hóa mình với người là khác
nhau thế nào; phong hóa mình là còn ở vào cái gia tộc chủ nghĩa, mà phong
hóa người ta thời về xã hội chủ nghĩa, cho nên tư cách độc lập mình chưa có
mấy chút, mà sự phục tòng, không muốn phục tòng cha mẹ còn muốn phục
tòng ai?” [17; tr235]. Quan niệm này có phần mâu thuẫn với quan niệm của
chính bà trong lời bình cuối tác phẩm KTC.
Thêm nữa, xét riêng về phần phụ nữ, bà cho rằng phụ nữ vốn nhẹ dạ
hay tin người, dễ nghe theo những lời phỉnh nịnh ngọt ngào mà xiêu lạc theo
đường ta tịch, hư nết xấu tên một đời. Tự do kết hôn là phải cả hai bên đều
giàu tri thức, đủ khả năng giao tiếp, đủ khả năng phán đoán chính tà mà định
liệu. Theo Đạm Phương, vì trình độ dân trí Việt Nam khi đó chưa đủ để tự do
hôn nhân nên “Tự do hôn nhân về phần lợi thì ít, mà phần hại thì không biết
bao cơ” [17; 236]
Cả Nguyễn Bá Học và Đạm Phương đều không ủng hộ tự do kết hôn.
Họ cho rằng tự do kết hôn lúc này không phù hợp với xã hội và phong hóa
Việt Nam. Tuy nhiên, Nguyễn Bá Học muốn có sự thay đổi trong hôn nhân
88
truyền thống là cha mẹ nên tôn trọng ý kiến của con cái và thay đổi những
quan niệm không đúng về việc chọn bạn trăm năm cho con như coi trọng tiền
bạc, địa vị xã hội hơn nhân cách con người. Đạm Phương vẫn thể hiện sự
trung thành với những lý tưởng của đạo đức nho giáo, đặt quyền lợi của cộng
đồng, của gia đình lên trên hạnh phúc cá nhân. Bà chỉ thừa nhận tự do hôn
nhân là đúng khi cả hai bên nam nữ có học thức, có “con mắt tinh đời”, “chí
khí thanh cao”. Có thể thấy rằng, quan niệm về tự do hôn nhân của Đạm
Phương thống nhất với những quan niệm về đạo đức phụ nữ, công – dung –
ngôn – hạnh và trinh tiết như đã nêu ở trên.
2.3.4. Vấn đề nữ học
Nữ học là một vấn đề được đề cấp đến trong xã hội từ khá sớm, ngay
từ những năm 1902 trên tờ “Nông cổ mín đàm” đã có ý kiến ủng hộ việc phụ
nữ đi học. Tuy nhiên, thời gian này khi viết về phụ nữ các học giả vẫn chú ý
viết về bổn phận người phụ nữ theo quan niệm nho giáo. Phụ nữ phải tuân
theo “tam tòng”, và trau dồi “tứ đức”. Các bài viết này vẫn quan niệm lợi ích
chủ yếu của việc cho phụ nữ đi học là để giúp phụ nữ làm tròn bổn phận
trong gia đình như nuôi dạy con cái và quán xuyến việc nhà.
Nguyễn Văn Vĩnh là người rất chú ý đưa vấn đề phụ nữ lên báo chí,
ông phụ trách mục Nhời đàn bà trên Đăng cổ tùng báo với bút danh Đào Thị
Loan. Có thể nói Nguyễn Văn Vĩnh là người sớm đưa quan điểm kính trọng
phụ nữ lên báo chí và gắn vấn đề phụ nữ với tư tưởng Duy tân. Ông cho rằng:
“hủ bại là dốt nát, là ăn không ngồi rồi, là tin ma, tin thần, là người một
nước ghét nhau, là quan tham lại nhũng… song hủ bại lại còn là không biết
kính trọng người đàn bà là người hèn yếu, là người trăm nỗi bịt miệng, bịt tai
nữa” [64]. Ông đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong lao động sản xuất, phát
triển kinh tế gia đình, nhất là trong những gia đình người chồng theo nghiệp
khoa cử không trực tiếp lao động, nhưng ông lại tỏ ra cực đoan khi đổ lỗi cho
89
phụ nữ là: vì phụ nữ đảm đang quá tạo điều kiện cho nam giới ỷ lại, lười lao
động và đó là nguyên nhân khiến đất nước trở lên nghèo nàn, lạc hậu.
Trong phong trào mở trường nghĩa thục, lần đầu tiên ở Bắc kỳ người ta
thấy phụ nữ đến trường học. Nhưng việc phụ nữ đi học gặp nhiều trở ngại từ
chính bản thân phụ nữ, từ những quan niệm của gia đình và xã hội. Nguyễn
Văn Vĩnh cổ động cho việc giáo dục phụ nữ, ông phê phán những bậc cha mẹ
không cho con gái đi học, ông khuyến khích nam giới tạo điều kiện cho vợ đi
học bằng cách đánh vào tâm lý tự cao của nam giới là đàn ông chinh phục
giữ được vợ hiểu biết, có học thì đáng tự hào hơn. Trong một loạt bài viết để
định nghĩa “vợ là gì”, Đào Thị Loan đã đề cập đến trách nhiệm của người
phụ nữ trong tư cách là vợ của từng tầng lớp người trong xã hội, và lí giải vợ
là gì phụ thuộc vào là vợ ai: vợ học trò, vợ quan lớn, vợ nhà buôn bán, vợ nhà
chính trị,…tùy thuộc vào trách nhiệm của người chồng mà người vợ có vai
trò như thế nào. Ông đi đến kết luận “làm vợ là thi hành một chức phận riêng
mà trời phó cho bọn nhi nữ chúng ta” [80]. Như vậy, Nguyễn Văn Vĩnh vẫn
cho thấy một cái nhìn không mới khi đánh giá người phụ nữ không có tư cách
riêng mà hoàn toàn phụ thuộc vào nam giới.
Càng về sau, khi báo chí phát triển nhanh chóng, những cuộc thảo luận
về vấn đề phụ nữ xoay quanh các chủ đề nữ học, nữ quyền, bình đẳng nam
nữ càng trở nên sôi nổi. Rất nhiều các tờ báo có chuyên mục riêng dành cho
phụ nữ như: Trung Bắc tân văn có mục Nhời đàn bà; Khai hóa nhật báo có
mục Văn nữ giới và mục Phụ nữ diễn đàn, tạp chí Hữu Thanh có mục Văn
thơ đàn bà và Gương nữ giới, báo Thần chung có mục Lời bạn gái, Đông
Pháp thời báo cũng có mục Văn nữ giới và Lời đàn bà, Hà Thành ngọ báo có
mục Tiếng oanh, báo Văn minh và Báo tiếng dân có mục Phụ nữ diễn đàn,…
Giáo dục cho phụ nữ là một trong ba mục tiêu của phong trào nữ quyền
tư sản trong thời kỳ đầu. Ở Việt Nam dưới chế độ phong kiến phụ nữ chưa
90
bao giờ được đi học, cộng thêm sự khắt khe của lễ giáo phong kiến đối với
phụ nữ nên tình trạng bất bình đẳng nam nữ càng sâu sắc hơn. Chính vì thế,
thời điểm này, ảnh hưởng của phong trào nữ quyền trên thế giới cùng với
Quy chế chung giáo dục Đông Dương ban hành năm 1917 đã làm cho các
quan chức giáo dục, các học giả tên tuổi, các nhà cách mạng,… đều viết báo,
diễn thuyết về vấn đề này.
Hầu hết các ý kiến đều cho rằng phụ nữ muốn bình đẳng với nam giới
trước hết phải được học. Những tri thức tiêu biểu của Việt Nam thời bấy giờ
đều nhận thấy rằng nam cũng như nữ, đều là con người nên cần phải được
giáo dục như nhau. Việc đi học không thể là đặc quyền của riêng nam giới.
Tổng đốc Thân Trọng Huề nhấn mạnh: “Nếu chỉ có sự giáo dục con giai mà
không có sự giáo dục con gái thì còn là khuyết điểm” vì “phàm những việc
đàn ông làm được, đàn bà cũng làm được cả. Vậy mà sự giáo dục chỉ riêng
cho đàn ông, công lý có đâu lại thế?” [10; tr 101], Trịnh Thu Tâm cũng cho
rằng: “Đàn bà nước ta không phải trí khôn kém cả, chỉ tại cái giáo dục còn
kém, cái công phu còn kém” [10; tr101]. Giáo thụ phủ Hoài Đức Nguyễn
Đình Tỵ cũng nhận thấy rằng “Người ta ở đời không cứ đàn ông, đàn bà đều
là người gánh vác công việc trong xã hội cả, chỉ vì sức có mạnh yếu khác
nhau, vậy nên kẻ việc trong, người việc ngoài, chia ra làm cho tiện, nhưng
mà đối với xã hội thì cũng như nhau, như thế thì không hạng người nào mà
không cần học được. Đàn ông cần phải học thì ai ai cũng hiểu, nhưng đàn bà
lại càng cần phải học hơn nữa, lẽ ấy nhiều ông vẫn chưa chịu công nhận
cho”[69; tr 397]
Từ đó ông đưa ra các ý kiến ngăn cản sự học của con gái và phản bác
các ý kiến đó. Với ý kiến con gái không phải học vì “Con gái không tài là đức
ấy”. Ông phản bác rằng con gái không có tài là ngu ngơ, không làm hết trách
nhiệm của mình được nói gì đến đức hạnh. Còn một tâm lý khá phổ biến
91
đương thời là “Con gái đi học sợ hay viết tờ cho trai”, thì ông giải thích nếu
có hiện tượng con gái viết thư cho trai là do lỗi của cha mẹ và ông thầy, do gia
phong. Nếu bản thân người con gái đã có tính đó rồi nếu không biết chữ thì
càng hại nhiều, “Xưa nay những đứa ong hoa cứ gì biết chữ” [69; tr 397]
Ông chủ bút báo Nam Phong cũng khẳng định tầm quan trọng của giáo
dục phụ nữ: “Đàn ông với đàn bà thực là mây với khói. Địa vị có khác nhau
mà thiên chất thực là một… Bởi đó mà sự giáo dục đàn bà con gái thực là vô
cùng quan trọng vậy” [66; tr 207] . Ông giải thích về nguyên nhân đàn bà
nước ta không được học là vì nước ta tuy không nhược đãi đàn bà nhưng do
quan niêm “âm dương”, “cương nhu” nên cho đàn bà kém đàn ông, không
thể dạy cho bằng đàn ông được và không tự chủ được nên được ỉ lại vào đàn
ông. “Bởi thế nên các cụ chăm chút cho con giai bao nhiêu, nhãng bỏ con
gái bấy nhiêu vậy. Nói sự giáo dục đàn bà con gái thì nước ta tuyệt nhiên
không có” [66; tr 209]. Phạm Quỳnh còn nhận thấy rằng đàn bà không hề
kém cỏi so với đàn ông, đàn bà nước ta lại có rất nhiều ưu điểm: linh lợi mà
can đảm, cần mẫm mà khôn ngoan, xưa nay có tiếng giỏi về đường kinh tế.
Và trong hoàn cảnh xã hội đương thời thì sự giáo dục đàn bà càng phải lưu
tâm nhiều hơn: “Xét như thế thì một đằng cái tư tưởng mới của thế giới văn
minh ngày nay, chủ trương cái thuyết đàn ông đàn bà bình đẳng, giục giã ta
phải lưu tập vào sự giáo dục đàn bà con gái, khiến cho người đàn bà ở đời
bây giờ cũng được cái địa vị, cái nhân cách tương đương với đàn ông; một
đằng thì bởi nền đạo đức cũ suy đồi, cái tinh thế riêng trong xã hội ta khiến
cho người đàn bà khó biết nương tựa vào đâu mà giữ được phẩm hạnh, dễ
mặc những phong thói bại hoại ngày nay, cần phải giáo dục cho phải đường
mới có đủ tư cách mà tự thủ tự chủ được. Hai phương diện ấy, tuy khác nhau
nhưng cứ đó mà suy cái kết luận đều là cần phải cho đàn bà con gái được
học, được biết nghĩa lý mà suy xét điều nọ nhẽ kia, không thể để mang nhiên
92
như xưa được nữa”[66; tr 210]
Đạm Phương nữ sử cũng như các học giả trên, bà lên tiếng khẳng định
quyền được đi học của phụ nữ và tầm quan trọng của nữ học: “Nay cái vấn
đề nữ học thật là một sự rất quan trọng thứ nhất trong mấy nghìn năm của
nước ta” [17; tr 61]. Đạm Phương cực lực phê phán những quan niệm cho
rằng con gái không nên cho học rộng, chỉ cần dạy cho biết nấu nướng khâu
vá chăm chỉ trong việc nhà và quan niệm “nữ tử vô tài tiện thị đức” (con gái
không tài ấy là đức). Bà đã hai lần viết về vấn đề nữ học. Lần một là nhân
đọc bài Thư trả lời ông chủ bút Nam Phong về vấn đề Nữ học, của học giả
Nguyễn Bá Học, bà trực tiếp tâm sự “nhưng cái lòng nhiệt thành của tôi đối
với bọn nữ học ngày nay cũng có cái cảm tình không thể làm ngơ được” nên
đã viết bài “vấn đề nữ học”. Lần hai là do “nghe đôi ba ông tân học” trong
khi nhàn đàm chỉ bác về việc con gái đi học, các ngài thấy một vài cô giáo,
cô học sinh chưa đủ tư cách mà đã bảo nữ học không xứng đáng nên bà “phải
bàn lại một bài cho rõ lẽ”, bài đó là “Vấn đề nữ học II”. Từ hoàn cảnh ra đời
của hai bài viết về nữ học của Đạm Phương, ta thấy tác giả thực sự rất tâm
huyết với vấn đề nữ học của quốc gia. Bà không ngần ngại bác bỏ những ý
kiến sai lầm, thủ cựu hạn chế sự học hành của nữ giới, đồng thời nhấn mạnh
đến ý nghĩa quan trọng của nữ học đối với bản thân phụ nữ nói riêng, đối với
cả nam giới và xã hội nói chung: “nữ giới mà có học thức, là lợi ích chung
trong xã hội”, “đã nhắc cái trình độ con trai lên cao, thì bên con gái phải
đưa lần bước đường đi tới, để cho nó hợp với nghĩa tương đương, có tương
đương mới tương tri, có tương tri mới tương phò; tri thức xấp xỉ với nhau, thì
sự đuề huề mới chóng được” và “tô bồi cho nền nữ học, để nâng đỡ lấy cái
hạng nhân loại tương tai” [17; tr 179]. Vì phụ nữ có thiên chức làm mẹ, sẽ
phải gánh trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái nên nếu phụ nữ không có
học sẽ không làm tròn bổn phận, trách nhiệm đó của mình mà ảnh hưởng xấu
93
đến tương lai nhân loại. Có thể thấy đây là cái nhìn rất sâu xa, đúng đắn và
rất thiết thực của Đạm Phương trong vấn đề nữ học.
Đạm Phương và hầu hết các học giả thời kỳ này đều nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề nữ học. Cao hơn nữa họ hiểu rằng thực hiện giáo
dục phụ nữ là giải quyết được tình trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ. Giáo
dục phụ nữ là biện pháp để thực hiện nữ quyền. Tuy nhiên giáo dục phụ nữ
như thế nào cũng là một vấn đề có nhiều ý kiến trái chiều nhau, gây tranh
luận khá sôi nổi.
Những người cho rằng vị trí của phụ nữ là ở trong nhà, lo tề gia nội trợ
giúp đỡ chồng con, thì chủ trương giáo dục phụ nữ là để phụ nữ làm tốt công
việc nội trợ của mình, cũng như có thể nuôi dạy con cái tốt hơn. Giáo thụ phủ
Hoài Đức Nguyễn Đình Tỵ cho rằng con gái phải học để nhân cách hoàn
toàn, nhưng trước hết cũng phải học phổ thông, rồi sau mới rút vào thực
dụng, cũng nên bớt thời giờ để học nấu, may, cách ứng xử khi tiếp khách.
Nguyên Đôn Phục, Vũ Ngọc Liễn cũng cho rằng việc quản lý gia đình, sinh
con, nuôi con, dạy con,… phụ nữ có vai trò quan trọng nên chỉ cần chọn
những điều thiết yếu mà dạy. Các môn học khác cũng cần nhưng cần nhất là
chuyên dạy “tam tòng”, “tứ đức”, các việc đàn bà trong nhà.
Trong bài Thư trả lời ông chủ bút Nam Phong về vấn đề nữ học,
Nguyễn Bá Học cho rằng học cũ về đường khoa cử thì như cây đã mọt từ
gốc đến ngọn, từ trong đến ngoài, nhưng lễ giáo Thánh hiền đã thấm khắp từ
mấy nghìn năm vào trong phong tục, tập quán nước ta, về phương diện giáo
dục đàn bà con gái là hết sức đáng quý. Tạo ra những người đàn bà đảm
đang, tiết hạnh: biết “giúp chồng”, lao động vất vả nuôi chồng đèn sách lập
công danh. Tiếp theo là việc “trị gia”: nấu ăn, may vá, chăn trẻ, nuôi già, hòa
hợp thân tộc, thờ phụng tổ tiên. “Chưa hề thấy có giáo hóa nước nào mà rèn
đúc được những người nhẫn nhục như thế”/ [72; tr 323]. Việc dạy con, việc
94
truyền chủng cũng đảm nhiệm chu toàn, nay tuy lễ nghĩa thánh hiền đã nguội
lạnh, di phong cựu tục đã tồi tàn lại chạy theo lối học mới của các nước
phương Tây thì cũng không phải là hay. Trả lời ông Phạm Quỳnh về vấn đề
“Đàn bà con gái nước ta có nên cho học mới không?”, ông Nguyễn Bá Học
đã kết luận bằng một so sánh: “Xưa có nhà cha mẹ đã già, để lại cho đàn con
một cái nhà cũng lớn, mà cũ. Các con không biết lo tu bổ, cứ để cho sân rêu
cửa mốc, thành ra cái cảnh điêu tàn. Sau thấy người ta có cái nhà mới tốt
đẹp nguy nga, anh em bảo nhau phá cái nhà cũ mà làm mới. Ngờ đâu, trong
nhà vật liệu không đủ, tường nóc không thành. Gặp lúc mưa to gió lớn, anh
em đều phải phiêu diêu thành ra một đàn chim mất tổ”/ [72; tr 324]
Như vậy, nói về vấn đề giáo dục phụ nữ, Nguyễn Bá Học ca ngợi lễ
giáo thánh hiền đã rèn đúc nên phẩm hạnh hiếm có của người đàn bà nước
Nam. Ông nhận thức được sự suy tàn của nền học cũ nhưng hoang mang,
không tin vào học mới và cũng nhận thấy rằng sự phát triển của nước ta chưa
đạt đến tầm để theo học mới. Nên thay vì chạy theo học mới của phương tây
thì hãy chú tâm tu bổ, trấn hưng học cũ cho phù hợp với nữ giới ngày nay.
Nhận xét về ý so sánh này của Nguyễn Bá Học, nhà nghiên cứu Trần Nho
Thìn đánh giá “Cái ngôi nhà mà Nguyễn Bá Học muốn dựng lại chính là
ngôi nhà cầm tù, giam hãm người phụ nữ, theo đúng mô hình âm/dương, nội/
ngoại của Nho gia”.[142]
Cũng có một số người tiến bộ hơn, họ nhận thức được xu thế mới của
thời đại, biết rằng không thể khư khư giữ nền học cũ được nữa thì chọn giải
pháp chắt lọc tinh hoa của cả hai nền văn minh để giáo dục. Chẳng hạn như
Tân Dân quan niệm rằng đối với việc nữ học thì “thiết tưởng không gì bằng
đem hai văn minh ra điều hòa với nhau, rồi cũ có gì tệ thì ta bỏ, mới có gì
hay thì ta theo”, ông cho rằng vì khoa học văn minh phương Tây có nhiều cái
hay hơn “học thuật cổ” của ta nên phụ nữ cần bỏ thời gian để nghiên cứu và
95
hiểu rõ tinh thần của học thuật Châu Âu, nhưng cũng cần dành thời gian để
học nữ tắc, nữ công vì còn cần phải làm công việc nội trợ sau này nữa: “học
thuật mới mình không bỏ sót, tinh túy cũ mình không bỏ qua, cả hai đàng
mình đã hiểu thấu thì lo gì không đủ tư cách hoàn hảo để xử trí với đời”. [10;
tr 103]
Phạm Quỳnh nhận thức được sự suy tàn của nền học cũ. Ông nhận
thấy rằng xưa nho học giới nghiêm về đạo đức, người đàn bà chịu cái cảm
hóa trong gia đình mà giữ được đạo đức. Nhưng ngày nay lòng đạo đức của
xã hội ta giống như lò than đã vạc. Lò than có hồng thì mới đủ sức nóng hun
được vật ở ngoài, lò than đã vạc thì ngoài da còn lạnh mong chi ấm được đến
ai? Theo Phạm Quỳnh những tư tưởng của người xưa về giáo dục phụ nữ
không còn thích hợp nữa và ông đề xuất một chương trình khá tỉ mỉ dành cho
việc giáo dục phụ nữ theo lối mới. Xét như trình độ nước ta ngày nay thì theo
ông phải phần chia ra 2 lớp dành cho phụ nữ thượng lưu (chú trọng xây dựng
nhân cách) – và trung lưu (ngoài nhân cách ra phải chủ sự thực lợi nữa) với
những phương pháp kiến thức phù hợp, phải dạy chữ quốc ngữ, khi chưa có
sách để dạy thì lấy Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, chinh phụ ngâm,… ra
dạy. “Sự giáo dục đàn bà con gái bực thượng lưu là không chủ một cái mục
đích cận lợi gì, chỉ vụ gây dựng nhân cách. Sự giáo dục đàn bà con gái bọn
trung lưu, ngoài việc gây dựng nhân cách, còn phải chủ sự thực lợi nữa”[72;
tr 214]. Phạm Quỳnh đã đặt vấn đề giáo dục phụ nữ trong vị thế phụ thuộc
vào nam giới và chỉ trong khuôn khổ gia đình.
Theo ông phụ nữ thượng lưu cần chuyên tâm học chữ quốc ngữ, vì
muốn học tiếng Pháp thì phải mất nhiều thời gian mà thời gian dành cho việc
học của phụ nữ thì có hạn. Ngoài ra, phụ nữ thượng lưu cũng cần học về
toán, cách trí, vệ sinh, địa dư, lịch sử và những môn nữ công như: thêu thùa,
may vá, làm bánh, kết hoa, hay nghệ thuật như đàn, vẽ để có thể lập các “sa
96
lông” tiếp các danh sĩ đàm đạo việc đời, việc nước, tham gia vào sự đổi mới
xã hội, Âu hóa nhưng phải lấy gia đình làm trung tâm và hoạt động hội từ
thiện, cứu tế bảo anh, mong từ đó ảnh hưởng đến cuộc tiến hóa của dân tộc
Việt Nam.
Đối với phụ nữ trong các gia đình trung lưu, là những gia đình thuộc
tầng lớp kinh doanh công thương nghiệp đang ngày càng trở nên đông đảo
trong các đô thị. Phạm Quỳnh chủ chương giáo dục đường thực lợi là học
kinh doanh, quản lý cơ nghiệp. Việc giáo dục cho phụ nữ tầng lớp lao động
không được ông nói đến, có lẽ vì ông cho rằng họ quá nghèo, không có điều
kiện đi học hoặc không cần thiết phải đi học. Chính lối giáo dục theo sự phân
chia địa vị người phụ nữ như trên lại là một hạn chế trong tư tưởng về nữ học
của Phạm Quỳnh. Tuy nhiên, xét trong hoàn cảnh xã hội đương thời thì đây
là một hạn chế không tránh khỏi. Ảnh hưởng của truyền thống giáo dục
phong kiến, giáo dục là để đào tạo nhân tài không phân biệt nguồn gốc xuất
thân, nên Phạm Quỳnh cho rằng đối với nam giới không thể phân biệt thượng
lưu, trung lưu, còn đối với phụ nữ thì “chủ nhất là gây lấy cái nhân cách hợp
tình thế xã hội, xã hội có đẳng cấp, sự học cũng phải tùy mà thay đổi”. [72;
tr215]
Đạm Phương cũng nằm trong số những học giả tiến bộ nhận thấy được
xu thế mới của thời đại nên chủ trương phụ nữ phải được giáo dục để có thể
sống tự lập và ra ngoài xã hội thi thố tài năng cùng với nam giới. Bà chịu ảnh
hưởng và tán thành tư tưởng của Henri Marion. Ông là một nhà giáo dục
người Pháp, có thời gian dạy ở trường “nữ học cao đẳng sư phạm” của Pháp,
nơi đào tạo ra những nữ giáo viên các trường nhà nước. Khi bàn về tôn chỉ
giáo dục đàn bà con gái, tác giả Đạm Phương đã dịch ý kiến của ông cho rằng
đàn bà con gái ngoài việc phải giáo dục để làm tốt bổn phận trong gia đình,
làm vợ, làm mẹ, còn cần giáo dục để có thể sống tự lập, để có thể “ra đời mà
97
thi thố tài năng”, và nếu có lỡ lâm vào những cảnh éo le thì vẫn có thể tự
mình sống tốt được: “Cứ thực tế mà xét, đã hiển nhiên rằng có nhiều người
đàn bà không được gặp cảnh thuận làm vợ, làm mẹ mà phải tự lực làm việc
để nuôi lấy thân; lại nhiều người đã thành gia thất mà góa bụa sớm, cũng
phải tự lực làm để nuôi mình nuôi con; lại cũng có người có chồng con mà
không thể trông cậy ở chồng con được; cứ một lẽ thực như thế đã đủ chứng
rằng trong việc giáo dục người đàn bà phải dùng hết phương pháp dạy cho
đến nơi đến chốn để cho sau này gặp cảnh ngộ nào cũng có thể tự lập được”
[17; tr 92]
Đạm Phương cho rằng phép giáo dục đàn bà con gái từ xưa chỉ trọng
về đức hạnh, ngoài sự lấy chồng, ăn ở với chồng, phụng dưỡng cha mẹ thì
không còn tư cách gì nữa, “phép giáo dục đàn bà chỉ có đức hạnh nhu thuận
mà thôi, hình như có ép uổng người đàn bà, vì tri thức không có, không đủ
sức mà khuyên can chồng, dạy vẽ con, phỏng còn gánh vác làm sao cho nổi”
[17; tr 90]. Và cũng như Henri Marion, bà viết: “Trong nhân loại một phần
nửa người đàn bà, một phần nửa người đàn ông, mà ai đã dám chắc phần
nửa người đàn bà nào, cũng được hưởng cái phúc gia đình hết thảy chưa?
Nếu như ngộ cảnh éo le, gập ghềnh chìm nổi trong mười hai bến nước, thời
nghĩ làm sao bây giờ, có phải cũng nên sớm liệu mà học tập, phòng khi thi
thố với đời, để bảo tồn lấy cái danh giá làm người” [17; tr 91]
Tư tưởng trên đây của Đạm Phương là đúng nhưng chưa đủ, vì nói
ngược lại nếu đàn bà cứ gặp cảnh êm ấm thì cũng không cần học nhiều. Tư
tưởng của bà được đúc rút ra từ những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống và
với mong muốn tất cả đàn bà đều có thể tự chủ được cuộc sống của chính
mình, không phụ thuộc vào nam giới. Trong hoàn cảnh xã hội lúc đó, chúng
ta không thể đòi hỏi ở Đạm Phương một tư tưởng tiến bộ hơn.
Nữ học đối với Đạm Phương trước tiên là học một nghề nghiệp để
98
mưu sinh, để sống một cách hoàn toàn độc lập và có thể tham gia vào các
hoạt động xã hội. Muốn tham gia vào đời sống xã hội phụ nữ phải có “chức
nghiệp”. Bà viết “theo phong tục ta, các nhà có con gái chỉ mong cho con
khôn lớn gả chồng đã đủ rồi, chẳng cần dạy vẽ nghề nghiệp gì hết thảy, mà
những người con gái ấy cũng yên trí rằng: mình không phải làm việc mà
cũng được ăn, là xướng rồi, …mà đàn bà con gái thời ăn không ngồi rồi,
nương tựa người ta mà sống, không còn biết cái phẩm giá mình ở đâu, có cái
thiên chức làm sao, quan hệ với gia đình với xã hội thế nào”, “đàn bà phải có
chức nghiệp mới có giáo dục hoàn toàn”. Phụ nữ muốn bình đẳng với nam
giới thì phải có một chức nghiệp để xác lập một nền tảng kinh tế riêng.
Không thể hô hào nam nữ bình quyền khi mà người phụ nữ lệ thuộc vào
người chồng về phương diện kinh tế. Đặc biệt Đạm Phương đã có sự thay đổi
nhận thức về thái độ đối với lao động. Bà xuất thân hoàng tộc, gia đình chồng
thuộc loại quyền quý nhưng khi hoàn cảnh thay đổi, đời sống gia đình khó
khăn bà đã chủ động làm những công việc chân tay như trồng dâu, nuôi tằm,
kéo tơ, nhận hàng thêu thùa cho các ông hoàng bà chúa để gia đình có thêm
thu nhập. Như lời chia sẻ của bà Trần Thị Như Mân ta càng thấy rõ tư tưởng
tiến bộ của Đạm Phương về thái độ đối với lao động: “Thời đó, tư tưởng coi
thường lao động chân tay còn rất nặng nề, nhất là đối với những gia đình
trung lưu ở thành thị. Sinh trưởng trong một hoàn cảnh như bà Đạm Phương,
lại biết tự mình tham gia lao động thủ công, phải nói là một việc làm hiếm
có. Vì trong xã hội bấy giờ, thiếu chi người gặp khó khăn thực sự, nhưng vẫn
không chịu lao động, chỉ quen sống đài các bằng sự dựa dẫm vào bà con
xung quanh” [36; tr27]. Vì thế, Đạm Phương cho rằng bằng mọi cách dù là
lao động chân tay thì người phụ nữ phải có chức nghiệp để vừa tạo ra của cải
vật chất cho xã hội, vừa chủ động gây dựng được cuộc sống của chính mình,
giải phóng chính mình, không phụ thuộc vào nam giới.
99
Đạm Phương cho rằng không nên đóng cửa giam hãm người phụ nữ để
họ phải chịu bề phụ thuộc. “Người đàn ông có phó vua giúp nước, có làm ra
nhiều tiền của, bao bọc cho cả gia đình, chớ như đàn bà là phận phụ tòng, là
phụng sự các việc nhỏ mọn, cho nên người ta khinh thường mà không kể. Cái
phẩm giá vì thế mà hèn kém, cái tinh thần vì thế mà tiêu mòn”[18]. Nữ học
như vậy không còn quanh quẩn ở phạm vi đào tạo người phụ nữ trong thế
phụ thuộc đàn ông mà hướng đến người phụ nữ đứng trong xã hội, hoạt động
xã hội, ganh đua thị trường. Nhấn mạnh về ý nghĩa mới mẻ trong quan điểm
về nữ học của Đạm Phương, nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn viết: “Trong bài
viết của bà Đạm Phương, đã hình thành một tư tưởng nữ học quan trọng, đó
là giáo dục để người phụ nữ có mặt trong xã hội, đóng vai trò của mình trong
xã hội. Tức là người phụ nữ mới không chỉ quẩn quanh trong gia đình mà
còn phải tham gia vào cuộc cạnh tranh sinh tồn chung. Đây là quan niệm
mới mẻ mà ngay cả những nhà tân học đương thời cũng không nói rõ lên
được. Tư tưởng này sẽ thể hiện nhất quán và ngày một đậm nét hơn trong các
bài viết về sau. Chúng tôi nghĩ, chỉ như thế thôi, bà Đạm Phương với tư cách
là một người phụ nữ, đã có bước tiến quan trọng, đi xa hơn nhiều trí thức
đương thời trong vấn đề nữ học. Người phụ nữ -xã hội là hình ảnh thu hút sự
suy nghĩ của bà Đạm Phương”. [143]
Quan niệm về giáo dục phụ nữ của bà đã có một bước tiến rõ rệt khi
bà nhận thấy sự thay đổi của thời cuộc và khẳng định phụ nữ cần được giáo
dục toàn diện để không chỉ làm tốt việc nhà mà còn tham gia vào các hoạt
động như nam giới, phải có trách nhiệm chung với xã hội. Trong Bài trả lời
cuộc trưng cầu ý kiến của báo Phụ nữ tân văn, bà đã viết: “Người đàn bà
ngày nay là thế nào? Là cần phải trực tiếp với xã hội, bởi cái tình thế xui
nên, chị em ta không được hưởng thú êm đềm như trước nữa, ngoài gia đình
phận sự, cần phải mưu sự hạnh phúc chung cho nhơn loại, mà đã muốn như
100
thế thì phải có học thức, nhiên hậu mới hành động nổi.” [17; tr 336]. Trong
Vấn đề nữ học (II) bà cũng viết: “Cái vấn đề nữ học là rộng lắm, không
những một điều vì cái thiên chức, cái trách nhiệm trong gia đình mà thôi, lại
còn phải dạy cho người đàn bà biết đạo xử thế nữa’ [17; tr 180-181]
Vấn đề nữ học mà Đạm Phương bàn đến là vấn đề tân học của nữ giới,
bà đặt thế đối sánh “trí” với “đức”. Giáo dục “đức” (phẩm hạnh) thì nền cựu
học đã làm rồi, nay nhất thiết phải bổ cứu thêm cái “trí” (học vấn, tri thức
hiện đại) của tân học cho người phụ nữ. Đạm Phương cho rằng sự giáo dục
học thức của con trai làm sao thì của con gái cũng phải có làm vậy. Bà đòi
hỏi những bậc tân học, mà thực chất là chính bản thân bà phải “lấy lí tưởng
mới, chắc có một cuộc tổ chức trong bụng rằng: xã hội ta sau này tiến hay
thoái, gia đình ta sau này thịnh hay suy, tức là bọn thiếu niên mà chúng ta
đương là người hướng đạo đây, vì ta làm người bản lề, tiếp giáp mới cũ
trong khoảng thời đại đổi thay, cái nề nếp trước chưa phai lạt mấy chút,
mong tô dồi thêm phong hóa mới cho được thêm màu; lại nên tự phụ rằng; ta
là người đứng làm môi giới cho hai cái văn minh mới cũ được dung hòa vời
nhau, người trong nước còn mờ tối chỗ nào, ta sẽ khai đạo cho phù hợp với
trình độ tiến hóa, mà không hại đến phong tục của nước nhà” [17; tr 180]
Đạm Phương phân biệt rõ ràng và nhận thức được tầm quan trọng của
gia đình giáo dục và học đường giáo dục. Theo bà “người ta phải nên hiểu
cái tôn chỉ của sự giáo dục, tại làm sao mà trước kia sự dạy dỗ đàn bà con
gái lại là phần riêng của gia đình, mà nay việc dạy dỗ đàn bà con gái, cũng
có thuộc quyền quốc gia đào tạo nữa, thì đừng nên dắt tới lôi lui mà thêm
hoài công. Thực chẳng qua cái lòng thủ cựu của người mình, có ẩn cái máu
áp chế ở trong, đàn ông chỉ ưng áp chế đàn bà, chủ nhà ưng áp chế đầy tớ;
cái lòng thủ cựu không hết, là vì cái máu áp chế chưa tiêu” [17; tr 181].
Trong quan niệm ấy, Đạm Phương nhận thấy sự cần thiết của học đường giáo
101
dục thuộc quyền quốc gia đào tạo, học đường giáo dục là cốt để giúp thêm tư
tưởng tri thức cho người, sau ra với đời cho khỏi sự lầm lỗi. Tuy nhiên, trong
khi một số học giả quan tâm đến vấn đề nữ học, chủ trương học đường giáo
dục cho nữ giới thì bà lại chủ trương gia đình giáo dục. Theo bà, gia đình
giáo dục gây lên cái tâm tính cho con người, “tâm tính với học thức thực
không ăn thua gì nhau, chỉ có quan hệ một điều: là phải nhờ ở chỗ học thức,
mà nhắc tâm tính siêu việt lên cho nhẹ nhàng; nếu tâm tính đã hỏng dẫu có
học thức, lại càng như giúp sức cho cái dục vọng lên cao đó mà thôi” [17;
tr178 -179].
Như vậy, Đạm Phương cho rằng tâm tính là cái nền tảng, học thức là
cái bổ trợ thêm vào đó, giúp cho sự giáo dục phụ nữ được hoàn hảo. Ngoài
việc thực hiện được bình quyền nam nữ, giáo dục gia đình còn giúp cho phụ
nữ thực hiện được đầy đủ thiên chức của mình, hậu thuẫn tới việc giáo dục
trẻ em, và cũng là bước chuẩn bị cho giáo dục học đường, giáo dục xã hội.
Tâm huyết của Đạm Phương về nữ học không chỉ dừng lại ở đòi hỏi giải
phóng phụ nữ khỏi khuôn khổ gia đình để tham gia hoạt động xã hội với chức
nghiệp riêng mà bà còn xét về địa vị của người phụ nữ trong chính gia đình.
Điều này thể hiện rõ nhất trong công trình Giáo dục nhi đồng mà bà đã dày
công nghiên cứu trong mấy thập kỷ. Bà nhìn nhận giáo dục nhi đồng trong
ngữ cảnh rộng gắn liền với sứ mệnh của những người phụ nữ làm mẹ đối với
đất nước, dân tộc. Nữ học trong trường hợp này là sự nghiệp giáo dục người
phụ nữ để người phụ nữ khi làm mẹ sẽ giáo dục lại những nhân cách mới, thế
hệ tương lai của đất nước. Muốn giáo dục được những nhân cách mới thì
bản thân người mẹ phải được giáo dục để trở thành những nhân cách
mới.
Cũng trong vấn đề nữ học Đạm Phương còn có một loạt các bài viết
cho thấy quá trình dò dẫm tìm đường hướng cho sự giáo dục phụ nữ. Các bài
102
viết của bà không mang tính lý thuyết khái quát mà rất cụ thể về từng vấn đề,
từng sự việc mang tính phát sinh để qua đó giáo dục cho phụ nữ. Bà đặc biệt
chú trọng việc đào tạo nghề nghiệp cho phụ nữ, phụ nữ muốn chủ động được
cuộc sống của mình nhất thiết phải lao động, phải chọn lấy một nghề nghiệp
phù hợp để làm ăn. Đó cũng chính là mục đích quan trọng bậc nhất của nữ
học. Bà chủ trương người phụ nữ phải có tiền tài, thực nghiệp (Vấn đề lí tài,
Một hiệu buôn mới mở). Ngoài ra, phụ nữ phải cần kiệm mới giữ được sản
nghiệp (Cần kiệm, Dạy con gái nên kiệm ước làm đầu). Tuy vậy nhưng là
người phụ nữ thì cũng cần phải biết trang điểm, phục sức cho phù hợp (Cách
trang điểm của người đàn bà thế nào là đẹp, cách phục sức của người đàn
bà). Đạm Phương đã viết một loạt các bài để giáo dục phụ nữ trong các mối
quan hệ với gia đình và cách hành xử trong xã hội như: là đàn bà thì phải
chăm coi việc nhà (Người đàn bà phải nên chăm coi việc nhà), phải hiếu kính
với cha mẹ (Trăm nết thảo làm đầu), phải thuận hòa với chồng (Cái cảnh lạc
thú trong gia đình, Người đàn bà phải biết cách ăn ở với chồng), phải hòa
thuận với anh em (Đối với anh em chồng), và đặc biệt là phải biết cách dưỡng
dục con cái (Trẻ con trong nhà phải nên dạy cho biết thứ tự cách ăn ở, Dạy
trẻ con khi giao thiệp với người ngoài, Cách dạy trẻ con, …), với người
ngoài phải rộng lượng, khẳng khái (Người giàu đối với người nghèo, Người
nghèo đối với người giàu).
Các bài viết trên đây của Đạm Phương đã đề cập đến hầu hết mọi mặt
của đời sống nữ giới. Tinh thần chung của các bài viết là nêu lên bổn phận
của nữ giới đồng thời hướng dẫn, thúc giục nữ giới chủ động lấy cuộc sống
của mình, góp sức vào công cuộc gây dựng hạnh phúc gia đình và cải cách xã
hội. Thái độ của tác giả trong các bài viết tuy ôn hòa, điền đạm nhưng không
kém phần mạnh mẽ, quyết liệt.
103
Tiểu kết
Sự phát triển của các phong trào cách mạng trên thế giới và phong trào
đấu tranh vì nữ quyền của phụ nữ Châu Âu đã ảnh hưởng lớn đến các nước
châu Á và Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Công cuộc xâm lược và cai
trị của thực dân Pháp về mặt văn hóa đã làm thay đổi cơ bản xã hội Việt
Nam. Những luồng tư tưởng mới của phương Tây đã được những thế hệ tri
thức nước nhà tiếp cận và bàn luận sôi nổi trên các mặt báo. Sự xuất hiện của
những trường học dành cho nữ sinh ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Hà Nội và
các địa phương, cùng với chương trình đào tạo bằng tiếng Pháp đã làm xuất
hiện một tầng lớp nữ sinh tân học, chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp với lối
sống mới thách thức lại các quan điểm về lối sống, đạo đức truyền thống.
Bên cạnh đó, trong tầng lớp phụ nữ tiểu tư sản thành thị nổi bật lên những
phụ nữ tri thức, có tinh thần yêu nước, mong muốn đấu tranh cho phong trào
giải phóng phụ nữ như: Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Trung Nguyệt, Trần
Thị Như Mân, Trần Thị Hồng, Phan Thị Nga, Mai Huỳnh Hoa, Nguyễn Thị
Lưu,… Nhiều phụ nữ tri thức đã đi đầu trong việc đề xướng phong trào phụ
nữ. Họ viết văn, viết báo, làm thơ, diễn thuyết, tổ chức các công việc từ thiện,
lập các Hội phụ nữ ở các tỉnh. Tiêu biểu như Đạm Phương, Sương Nguyệt
Anh, Vân Đài, Nguyễn Thị Kiêm, Nguyên Đức Nhuận, Huỳnh Thị Bảo
Hòa,…
Trong đó, Đạm Phương là thế hệ trước, bà được đào tạo, rèn tập hoàn
toàn theo khuôn khổ của nền giáo dục phương Đông truyền thống. Nhưng do
sự nhạy bén, khả năng thích ứng với thời cuộc, bà đã tự tìm tòi và học hỏi
những tư tưởng mới, học thuật mới của phương Tây. Chính vì thế tư tưởng
của Đạm Phương về vấn đề phụ nữ như công, dung, ngôn, hạnh, trinh tiết, tự
do hôn nhân, nữ học,… đều là sự pha trộn, đan xen giữa cái cũ và cái mới,
giữa cái bảo thủ và cái tiến bộ. Nếu như trong quan niệm của bà về công,
104
dung, ngôn hạnh, trinh tiết, tự do hôn nhân đa phần mang tính bảo thủ và theo
chuẩn mực của nho gia thì trong vấn đề nữ học bà lại bộc lộ những quan
niệm tiến bộ, mới mẻ và mang tính chất hiện đại. Đạm Phương nhấn mạnh
trong một loạt các bài báo của mình về việc phụ nữ cần được giáo dục như
nam giới, cần phải giải phóng phụ nữ ra khỏi khuôn khổ trật hẹp của gia đình
để cho phụ nữ có thể trực tiếp tham gia các hoạt động xã hội. Phụ nữ cần phải
được giáo dục để có thể gây dựng chức nghiệp cho mình, trước là để không
phụ thuộc vào nam giới, sau là để góp phần phát triển xã hội vì phụ nữ cũng
cần phải có trách nhiệm với công việc chung của dân tộc, đất nước. Điều đặc
biệt hơn nữa mà Đạm Phương, trên cương vị là một người phụ nữ đã nhận
thức về tầm quan trọng của nữ học đó là nữ học liên đới đến giáo dục nhi
đồng, thế hệ tương lai của dân tộc. Tư tưởng của Đạm Phương về vấn đề nữ
học so với các học giả cùng thời là có sự tiến bộ, góp phần làm thay đổi nhận
thức xã hội về vấn đề nữ học theo xu hướng hiện đại. Nữ học là một nội hàm
trong khái niệm về nữ quyền, những trước tác mà Đạm Phương để lại chỉ chủ
yếu tập trung vào vấn đề nữ học mà chưa bao quát được cả khái niệm nữ
quyền nên trong luận văn này chúng tôi không đánh giá Đạm Phương trên
phương diện một nhà nữ quyền như một số nhà nghiên cứu khác đã nhận
định.
105
CHƯƠNG 3:
HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG KHẢO CỨU
3.1. Hoạt động xã hội:
3.1.1. NCHH
Với mong muốn phát triển nghề nghiệp cho giới nữ, đoàn kết chị em
phụ nữ, tạo nền tảng bước đầu cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội,
Đạm Phương đã có ý tưởng thành lập một hiệp hội dành cho nữ giới. Từ đầu
năm 1926 bà viết nhiều bài đăng trên các báo tiếp tục triển khai các vấn đề
“nữ học”, “nữ quyền”, “nữ nghiệp”,…bà nhấn mạnh việc thực hiện chủ
trương “Muốn cho nữ lưu biết chức nghiệp phải có Học hội Nữ công”. Phải
thành lập “một tổ chức giáo dục nghề nghiệp cho chị em mà hệ thống giáo
dục của chính quyền đương thời còn bỏ trống; đồng thời đó sẽ là cơ sở tổ
chức để chị em đến gặp gỡ nhau cùng trao đổi và bàn bạc nhiệm vụ và quyền
lợi của giới mình, là diễn đàn để bênh vực những quyền chính đáng của phụ
nữ” [128; tr 169]
Từ những tư tưởng tiến bộ mà bà đã cập nhật qua sách vở của phương
Tây, lại được sự ủng hộ của các bậc nhân sĩ trí thức yêu nước như Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,… bà Đạm Phương đã tích cực
vận động một số phụ nữ có tư tưởng tiến bộ ở Huế đứng ra lập thành một tổ
chức lấy tên là NCHH (thường gọi tắt là Hội Nữ công). Đến cuối tháng 4
năm 1926, Khâm sứ Trung kỳ Pierre Pasquier ký lệnh cho phép thành lập
NCHH tại Huế do bà Đạm Phương làm Hội trưởng, bà Trần Thị Như Mân
(vợ học giả Đào Duy Anh) làm Tổng thư ký và một số ủy viên khác.
Và ngày 15 tháng 6 năm 1926 tại kinh đô Huế, nơi ngự trị của triều
đình phong kiến đã diễn ra lễ khánh thành và ra mắt cơ sở của NCHH. Buổi
lễ có sự tham gia đầy đủ của các đại biểu phụ nữ ba miền Bắc – Trung –
106
Nam, trước sự chứng kiến của ông Nguyễn Đình Ngân, Tham tri Bộ Học
Nam triều và ông Giám đốc Sở học chánh Huế, và nhiều cô giáo Pháp dạy
trường Đồng Khánh, cùng đông đảo nhân dân Huế. Cụ Phan Bội Châu tuy
không đến dự, nhưng cũng làm bài thơ Mừng Hội nữ công để chúc mừng như
sau:
“Mừng thay em chị khắp trong ngoài
Lên đường thực nghiệp chen vai gánh,
Giăng thước văn minh đạc ngắn dài.
…
Điểm trang thức cũ pha màu mới,
Liên lạc người trong với kẻ ngoài.
Tuôn bể văn minh ba lớp sóng,
Dọi gương khuê tú bốn phương trời.
Năm năm tháng tháng lần lần bước,
Mày mặt non sông há một trai? [41; tr 96-97]
NCHH được tổ chức chặt chẽ và toàn diện, có kết nạp và bãi miễn, có
kinh phí, có trụ sở, có nguyên tắc, phương thức hoạt động rõ ràng. Đạm
Phương đã trực tiếp thảo ra tôn chỉ, mục đích, nội quy và chương trình hoạt
động của Hội. Bà đã nêu rõ tôn chỉ mục đích của Hội như sau: “Cái thói ỷ lại
của bọn nữ lưu chúng ta đã gần như một cái căn bệnh thâm niên rồi, ỷ lại tức
là cái nguồn gốc nô lệ đó vây. Nếu muốn kéo lại nữ quyền, thì phải tìm nhân
cách cho nữ giới, muốn tìm nhân cách cho nữ giới thì trước hết phải tảo trừ
cái bệnh ỷ lại đó.
Thuốc chi bây giờ?
Bài thuốc ấy chính là cái mục đích quan trọng thứ nhất của bản hội.
107
Cái bài thuốc ấy là cái gây cho quần thoa một cái tinh thần tự lập bằng cái
nghề nghiệp của mình, trong cái phạm vi đạo đức tri thức Đông phương với
Tây phương hòa hợp. Sau hết là kết một dây đoàn thể để bênh vực quyền lợi
cho nhau”. [17; tr 327]
Trên cương vị là một nhà tư tưởng và cũng là một người phụ nữ, Đạm
Phương đã đánh giá đúng thực trạng căn bệnh thâm căn cố đế là thói tự ti,
bệnh ỷ lại của nữ giới đương thời và quyết tâm chữa trị căn bệnh ấy bằng
những hoạt động của NCHH.
Chương trình hoạt động của Hội có tổ chức học văn hóa, hội viên chưa
biết chữ thì học từng chữ cái a, b, c,…đến đọc thông viết thạo. Người đã đọc
thông viết thạo thì học theo chuyên đề văn – sử - địa để nâng cao hiểu biết.
Sau cùng là học đại cương về giáo dục phụ nữ, học cách nấu một số món ăn,
học một số nghề thông dụng rồi phát triển thành nghề phụ để kiếm sống.
Đồng thời Hội cũng cung cấp một số kiến thức và kinh nghiệm tổ chức gia
đình, dạy con cái. Đặc biệt Hội còn chú ý cho chị em ren luyện và làm quen
với hoạt động tập thể mà tiến tới tham gia công việc xã hội.
Dưới chế độ phong kiến cổ hủ, lạc hậu, ngay giữa kinh đô Huế với
không khí quan trường bảo thủ, việc hội họp, sinh hoạt đoàn thể với phụ nữ
quả là xa lạ. Thế nhưng bằng uy tín và nhiệt huyết của mình Đạm Phương đã
tập hợp được đông đảo chị em vào tổ chức, nâng cao trình độ và mức sống
cho chị em. Giờ đây, ngoài gia đình, chị em có chỗ để lui tới, học tập, trò
chuyện, trao đổi kinh nghiệm và thể hiện những khát vọng của chính mình.
Có thể nói đây là nền tảng, là cơ sở bước đầu để chị em đến với tri thức, tự
lập, tự cường, thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình và thành kiến xã hội.
Điều lệ của Hội có ghi rõ mục đích: 1. Tập luyện nữ công thực nghiệp;
2.Phụ nữ chức vụ; 3. Khai đạo trí thức nữ tử và ở khoản thứ 4 ghi rõ một điều
cảnh báo: “Tại Hội quán không được nghị luận về quốc chánh, về các tôn
108
giáo, cấm bàn bạc sự di đoan, nói xúc ý nhau khi họp hội, cấm tuyệt sự cờ
bạc tại hội” [128; tr 169]. Theo nhìn nhận của PGS.TS Chương Thâu thì “Do
sự theo dõi của mật thám, sự cấm đoán của bộ máy chính trị thực dân Pháp
và quan lại Nam triều mà có điều khoản “Cấm làm chính trị” như đã ghi ở
Điều lệ Hội, nhưng trong thực tế thì không thể cấm các chị em hội viên có tư
tưởng yêu nước bàn luận bí mật với nhau về tình hình chính trị - xã hội của
đất nước. Hội này đã sinh hoạt như một đoàn thể chính trị, một tổ chức xã
hội nghề nghiệp, điều khoản có tính chất chính trị đã được cụ Phan Bội Châu
viết trong chương Vận động phụ nữ của cuốn sách Vấn đề phụ nữ gồm 4
điểm: 1. Mở mang về đường tri thức của phụ nữ, 2. Liên kết đoàn thể phụ nữ;
3. Chấn hưng chức nghiệp của phụ nữ; và 4. Nâng cao địa vị của phụ nữ”.
Chẳng qua để “tránh tiếng” cho Hội, mà sự “Liên kết đoàn thể phụ nữ”
không tiện nói ra một cách công khai” [128; tr 170]
Trong việc thành lập NCHH, Đạm Phương đã được Phan Bội Châu
định hướng về tinh thần chung của Hội. Có thể tin chắc rằng trước khi
NCHH ra đời, Đạm Phương và cụ Phan đã có nhiều dịp trao đổi và bàn bạc
với nhau về vấn đề này. Trong Lịch sử Đảng Bộ Thừa Thiên Huế ghi rõ:
“Tháng 6 – 1926, cụ Phan Bội Châu đề xướng và tổ chức ra Nữ công học
Hội, với mục đích đưa phụ nữ vào con đường hoạt động xã hội, nâng cao
kiến thức và vai trò phụ nữ trong gia đình và xã hội,… Hội do bà Đạm
Phương làm Hội trưởng…
Sự ra đời của Hội Nữ Công đã thu hút đông đảo chị em tham gia vào
các hoạt động xã hội… Hội đã giác ngộ tinh thần yêu nước, hướng chị em
phụ nữ vào những hoạt động tích cực, chống lại các hủ tục, những ràng buộc
lễ giáo phong kiến” [9; tr 71]
Sau ngày Hội ra đời, ngày 28 tháng 6 năm 1927, Đạm Phương đã mời
được Phan Bội Châu đến thăm, nói chuyện với hội viên về tình hình phụ nữ
109
trên thế giới, vai trò của phụ nữ đối với sự tiến bộ của xã hội hiện nay, cụ
Phan đã dẫn dụ nhiều gương phụ nữ Nhật Bản, phụ nữ Trung Quốc tham gia
đấu tranh cho phụ nữ. Trong bài diễn thuyết của Phan Bội Châu có đoạn:
“Nước Nam ta xưa nay việc hội hè rất ít, mà ít nhất là lại là hội về phần còn
gái đàn bà. Hội Nữ công thành lập giữa kinh đô ấy là việc lạ lùng ít ỏi đã
mấy ngàn trăm năm mà bây giờ mới phát hiện,,,” [95; tr 102]
Sau đó, cụ đã tặng hội cuốn “Nữ quốc dân tu tri” (Quốc dân nữ giới
cần biết) và đã được Hội xuất bản vào năm 1927. Nữ quốc dân tu tri gồm 25
bài giáo huấn, trong đó đạo lý chung của các bài giáo huấn này là:
“Nhóm người làm nước – Nước thịnh bởi người
Dù trai, dù gái gánh chung việc Nước…” [41; tr 25]
Nữ quốc dân tu tri được lưu truyền trong nữ giới ở Huế và ở Nam Bắc,
trở thành lời kêu gọi:
“Học bà Trưng Trắc giận nước, thương chồng
Thề với non sông. Liều thân giết giặc
Trả xong nợ nước, rửa sạch thù chồng
Ấy nữ anh hùng, nghìn thu mấy kẻ?” [41; tr 25]
Đánh giá về NCHH và buổi đàm đạo của Phan Bội Châu, nhà sử học
người Mỹ David G. Marr đã viết: “Thật đáng ngạc nhiên là một trong những
tổ chức của phụ nữ đầu tiên đã xuất hiện chính tại trung tâm của các giá trị
truyền thống, kinh thành Huế. Vào đầu năm 1926, bà Nguyễn Khoa Tùng
(được biết đến nhiều hơn với bút danh Đạm Phương) và một số phụ nữ khác
ở Huế đã lập nên Nữ công Học hội. Vào ngày 28 -6 – 1926, họ đã tổ chức
buổi lễ ra mắt công chúng trọng thể mà Phan Bội Châu là người phát biểu
chính. Bản thân điều này là một thách thức đối với toàn quyền Pháp và các
quan cộng sự của ông, nhất là khi địa vị chính thức của Phan Bội Châu là
110
một tội phạm bị lên án” [106; tr 214]
Không chỉ Phan Bội Châu, mà Huỳnh Thúc Kháng cũng rất quan tâm
đến hoạt động của NCHH. Ngày 13 tháng 9 năm 1926 Viện nhân dân đại
biểu Trung kỳ đến thăm NCHH. Viện trưởng là Huỳnh Thúc Kháng đã có bài
phát biểu về phụ nữ. Sự kiện này đánh dấu vai trò của NCHH trong việc tập
hợp phụ nữ. Bài diễn văn của Huỳnh Thúc Kháng, có đoạn viết: “…Đương
lúc nữ giới mới cũ dở dang như ngày nay. Cái nền nếp đạo đức tiết kiệm ta
xưa, ngày một tiêu mòn, mà cái thói mới trên đó lại càng ngày càng thinh?
Nay là Hội chủ và mấy chị em lấy lòng nhiệt thành mà lập ra Hội nữ công
này, bạn khăn yếm mà có khí mày râu. Trong lúc đi giữa bãi sa mạc, mà thấy
một đám cây cỏ tốt xanh, đi chưa tới nơi mà trông thấy đã sinh lòng vui vẻ?
Chúng tôi mong rằng, cái cơ sở ngày càng bền, cái công việc ngày càng tấn,
lấy tập quán tốt mà đánh hỏng cái thiên nhiên để làm một tay chủ trì giùm
giúp cho xã hội này. Không những làm gương cho bạn quần thoa mà cũng
nửa phần bồi đắp cho Viện Nhân dân Đại biểu này vậy” [42; tr 197 - 198]
Với tài bang giao của vị Hội trưởng, NCHH lại được các trí thức trẻ
như: Đào Duy Anh, Đoàn Nồng, Nguyễn Lãn tham gia sinh hoạt, đã nâng cao
uy tín của Hội. Hoạt động của Hội được dư luận báo chí cổ vũ về xu hướng
tiến bộ. Hội đã có sức ảnh hưởng và lan tỏa sâu rộng từ Huế tới Vinh, Thanh
Hóa, Hà Nội, Hải Phòng, vào tới Nha Trang, Sài Gòn, Gia Định, Cần Thơ,
Hội An. Hội nữ công đã cử các Hội viên ra các tỉnh như Nghệ An, Nam
Định, Hà Nội, Hà Đông… để học nghề thủ công gia truyền mang về Huế
giảng dạy. Trực tiếp bà Hội trưởng Đạm Phương còn đi diễn thuyết ở nhiều
nơi, cổ vũ cho Hội và vận động Hội viên lưu hành các ấn phẩm của Hội,
khuyến khích thành lập các cơ sở mới ở Đà Nẵng, Hội An, Sài Gòn, Cần
Thơ, Gò Công.
Nhưng hoạt động của Hội như lời bà Trần Thị Như Mân chia sẻ
111
“…vẫn là những hành động bản năng của một lớp thanh niên có lòng quan
hoài đến vận mệnh dân tộc… chưa hề được chuẩn bị gì về tư tưởng cho một
cuộc đấu tranh cách mạng,…, trước những hành động đàn áp của nhà chức
trách, chúng tôi không biết mình phải tiếp tục làm gì?” [58]. Nhưng rồi sau
đó, Hội đã có những tiếp xúc với các nhà yêu nước hoạt động trong các tổ
chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, trong Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên, trong đảng Tân Việt như Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Chí
Diểu, Thái Thị Bôi, Đào Thị Dính,… Những Hội viên tích cực của Hội nữ
công cũng chịu ảnh hưởng tốt của tư tưởng đấu tranh cách mạng và hòa nhập
vào xu hướng tiến bộ đó. Phần đông những Hội viên này sau đó đã trở thành
cán bộ của Đảng Tân Việt, của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, của
Hội Phụ nữ Cứu quốc (trong mặt trận Việt Minh).
Năm 1929, nhà cầm quyền thực dân Pháp lo lắng về các tổ chức mang
tính chất xã hội giáo dục. Bọn chúng nghi ngờ NCHH là nơi chiêu mộ nhân
lực cho các nhóm cách mạng và nghi ngờ Đạm Phương có quan hệ với Đảng
Tân Việt (con trai Đạm Phương là Hải Triều tức Nguyễn Khoa Văn là một
nhà lãnh đạo trong Đảng Tân Việt đi theo đường lối Mác xít). Đầu tháng 8
năm 1929, Đạm Phương bị bắt, nhà cửa bị lục soát. Lúc đầu bà bị giam ở khu
thường phạm, sau đó bị chuyển sang khu tù chính trị tại lao Thừa Phủ.
NCHH bị đình chỉ hoạt động. Đến tháng 9, bà ra tù mà không có án. Thực
dân Pháp cho NCHH hoạt động trở lại, nhưng ngay sau đó, bà từ chức Hội
trưởng NCHH. Tuy nhiên, bà vẫn thường xuyên lui tới và tham gia các hoạt
động của Hội. Năm 1931, bà vận động NCHH quyên góp ủng hộ đồng bào
trong vụ Pháp đàn áp Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ngày 22 tháng 12 năm 1931,
NCHH đã tổ chức khai mạc lần đầu tiên cuộc Đấu xảo mỹ nghệ Phụ nữ có sự
tham gia của nhiều thành phố trong cả nước. Đến năm 1942, khi Nam
Phương hoàng hậu đến thăm Hội nữ công thì không ai khác, chính bà Đạm
112
Phương lại vào cung để đáp lễ. Sự kiện này chứng tỏ tuy đã từ chức Hội
trưởng hơn chục năm trời, nhưng suốt quãng thời gian đó bà vẫn là linh hôn
của NCHH.
Các nhà nghiên cứu đều thống nhất ý kiến cho rằng NCHH là dạng tổ
chức phi chính phủ đầu tiên hoạt động vì phụ nữ ở Việt Nam. Theo nhà
nghiên cứu Lê Thanh Hiền thì “Đây là tổ chức phụ nữ phi chính phủ đầu tiên
ở nước ta thời chính quyền thực dân thừa nhận. Hội thu hút nhiều Hội viên từ
ba miền đất nước và Lào vào sinh hoạt theo định kỳ hoặc thường xuyên” [17;
tr 13]; Ông Nguyễn Hữu Ngôn (Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa) cũng
cho biết: “Qua tìm hiểu nghiên cứu chúng tôi mạnh dạn khẳng định: Nữ
công học hội là tổ chức hội đoàn đầu tiên của phụ nữ nước ta, thu hút hội
viên ở nhiều tỉnh, khắp ba miền Bắc – Trung – Nam”. [116; tr 139]. Đánh giá
về NCHH, PGS.TS Lịch sử, Đỗ Bang tổng kết như sau: “Nữ công Học hội là
một sản phẩm độc đáo vào thời cận đại Việt Nam ra đời tại Kinh đô Huế do
một nữ hoàng phái – Cháu nội của vua Minh Mạng sáng lập theo tư tưởng
cách tân đất nước là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử”. [95; tr 103].
Chúng tôi cũng đồng tình với các ý kiến đánh gia trên của các học giả. Ngoài
ra, Chúng tôi muốn bổ sung thêm ý nghĩa của NCHH trong chính cuộc đời và
sự nghiệp trước tác của Đạm Phương. Sự ra đời của NCHH và nỗ lực phát
triển Hội của tác giả Đạm Phương là minh chứng rõ ràng nhất cho ý thức gắn
liền lời nói và hành động. Bà đã viết hàng trăm bài báo thể hiện tâm huyết
giáo dục phụ nữ, phát triển chức nghiệp cho phụ nữ và cái đáng trân trọng,
đáng khâm phục nhất là bà đã dám hành động quyết liệt vì tâm huyết đó.
“Nói là làm” là một phẩm chất đáng kính, cho thấy khí phách năng nổ tháo
vát của một công nương nhà Nguyễn giữ chức Cung trung nữ sử.
3.1.2. Các hoạt động xã hội khác
Ngoài hoạt động chủ đạo là sáng lập và phát triển NCHH, Đạm
113
Phương còn tham gia một số hoạt động xã hội khác nữa. Bà có tham gia ít
nhiều vào các phong trào yêu nước đương thời. Bà là cộng sự nữ tích cực với
các chí sỹ yêu nước như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Đào Duy
Anh… Một sự kiên tiêu biểu cho thấy bản lĩnh chính trị của Đạm Phương là
bà đã thay mặt cụ Phan Bội Châu đọc văn tế lễ truy điệu Phan Châu Trinh tại
Đàn Nam Giao (Huế, 1926). Cũng chính nữ sĩ Đạm Phương đã làm hai câu
đối phúng cụ Phan Châu Trinh như sau:
Mười mấy năm góc biển ven trời, vằng vặc tấm cô trung, trên vì nước,
dưới vì dân, tinh thần vẫn láng lai sông núi Việt
Đã nhiều thuở khua chiêng gióng trống, thiết tha hồn cố quốc, trước
hiệp lòng, sau hiệp sức, sự nghiệp đành phó thác cháu con Hồng. [17; tr 54]
Ngoài ra, bà còn là chỗ dựa cho phong trào bãi khóa ở Huế của học
sinh trường Đồng Khánh, trường Quốc Học, trường Kỹ nghệ thực hành
chống lại chế độ học đường của chính quyền thực dân Pháp vào năm 1927.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng gặp
muôn vàn khó khăn. Bà đã tham gia tích cực và tổ chức hưởng ứng “Tuần lễ
vàng”, “Tuần lễ đồng”, phong trào “Hũ gạo cứu quốc”… góp phần giải quyết
khó khăn của chính quyền non trẻ. Trong những ngày cả dân tộc bước vào
cuộc trường chinh chống Pháp, sau năm 1945, bà đã đi theo kháng chiến, tản
cư ra Thanh Hóa hoạt động cùng những người con của mình. Những ngày
này, du tuổi đã cao nhưng với lòng yêu nước thiết tha bà vẫn tham gia các
hoạt động xã hội góp sức cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Những hành động mang tính dấn thân đó không dễ thấy ở những người
phụ nữ cùng thời và đặc biệt lại xuất thân từ hoàng tộc như bà. Viết về các
hoạt động của bà PGS.TS Đỗ Bang đã nhận xét: “Đạm Phương là người phụ
nữ tiêu biểu trong dòng chảy cách tân yêu nước trước năm 1930. Hoạt động
của bà trở thành gạch nối giữa tư tưởng cách tân yêu nước đấu tranh cho
114
dân quyên, nữ quyền với trào lưu cách mạng vô sản” [95; tr 99]
Không chỉ trước năm 1930, mà đến những năm 1945, bà vẫn là nữ trí
thức rất có uy tín ở Huế. Chính phủ Trần Trọng Kim đã nhận thấy tầm ảnh
hưởng và thanh danh của bà với quần chúng là khá lớn nên mời bà cộng tác
với chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục, nhưng bà từ chối. Quyết định
của bà cho thấy bà nhận thức rất đúng về thời cuộc và thể hiện phẩm chất yêu
nước của một bậc nữ tri thức xuất sắc đầu thế kỷ XX.
3.2. Hoạt động khảo cứu
3.2.1. Công trình Giáo dục nhi đồng
Cơ sở cho sự ra đời công trình nghiên cứu về giáo dục nhi đồng
Công trình giáo dục nhi đồng của Đạm Phương ra đời trong tiến trình
hiện đại hóa xã hội và giáo dục đầu thế kỷ XX. Đạm Phương sinh ra và lớn
lên trong tiếng vang của các phong trào duy tân, cải cách của Lương Khải
Siêu và Tôn Trung Sơn lãnh đạo ở Trung Quốc, cuộc Minh Trị Duy Tân ở
Nhật Bản. Đặc biệt bà chịu ảnh hưởng to lớn và trực tiếp nhất từ những tư
tưởng và văn hóa, kỹ thuật phương Tây. Đó là sự giác ngộ của đa số tri thức
Việt Nam đương thời về sự cần thiết phải tiếp thu tư tưởng học thuật của
phương Tây để xây dựng nên cái mới thay thế cái cũ đã lạc hậu, sai lệch
trong tư tưởng, văn hóa, học thuật của phương Đông. Trong thời buổi giao
thời, khi nền giáo dục cũ đã bị phá vỡ, nền giáo dục mới chưa hình thành,
chưa có đường lối giáo dục chuẩn mực thì việc định hướng đúng đắn cho nền
giáo dục đi đúng hướng là hết sức cần thiết, nhất là giáo dục dành cho nhi
đồng, đối tượng làm chủ tương lại của dân tộc. Ngay trong phần mở đầu của
công trình Giáo dục nhi đồng, Đạm Phương đã nêu lên thực trạng đáng lo
ngại về vấn đề giáo dục nhi đồng của Việt Nam. “Đến bây giờ mới nói đến
vấn đề giáo dục nhi đồng kể ra cũng đã chậm lắm rồi. Nhưng chậm mà có
115
còn hơn không. Tôi không thể giấu được sự bi quan khi nhìn đến sự giáo dục
gia đình của Việt Nam ta.”. Bà hoàn toàn đồng ý với ý kiến mà ông Thái Phỉ
đã nêu ra trong quyển “Một nền giáo dục Việt Nam mới”. Thái Phỉ khẳng
định rằng: “Nói đến sự giáo dục trong gia đình của nước mình thì lại càng
đáng chán lắm. Tôi có thể nói rằng ở nước Việt Nam này, gia đình giáo dục
hầu như không có gì cả” [31; tr 29]. Ông nêu lên hiện trạng đáng lo ngại của
Việt Nam “Những bậc cha mẹ ở nước mình đẻ con thì muốn cho nhiều mà
dạy con thì thật cẩu thả và biếng nhác”[31; tr 30].
Đạm Phương có đồng quan điểm với Thái Phỉ và bà đã phân tích kỹ
hơn về hiện trạng này: “Tục ngữ ta vẫn có câu: “Dạy con dạy thủa còn thơ”
mà trong các gia đình Nho học cũng thường lưu truyền thuyết “thai giáo”
của Trung Hoa. Nhưng đấy chỉ là truyền khẩu hư văn, chớ thực sự các bà mẹ
ở nước ta đẻ con ra chỉ nhắm mắt phó cho đời, từ việc chăm nuôi đến sự dạy
dỗ họ đều theo cái thành kiến trối kệ “Trời sinh trời dưỡng”. Vì thế ta không
nên phàn nàn khi thấy bao nhiêu trẻ con nước ta bị cái nạn “đa sinh thiểu
dưỡng”, bao nhiêu tài hoa chớm nở đã chóng tàn, cả một thế hệ thanh niên
bệnh tật, trụy lạc, lười biếng, nhu nhược, làm quốc gia chậm tiến, xã hội suy
vi, chủng tộc hao mòn” [17; tr 480 - 481]
Thái Phỉ và Đạm Phương đều cho rằng: “Chưa thời buổi nào trẻ con
Việt Nam mất dạy như thời buổi này”[17; tr 481]. Ngày xưa tuy nền giáo dục
có nhiều chỗ không hoàn thiện, quá nghiêm khắc và nệ cổ nhưng vẫn còn có
giáo dục, “giấy nát vẫn giữ lấy lề”, nhưng đến ngày nay thì nền học cũ đã suy
vi, xã hội đổi thay nhưng nền học mới chưa được hình thành nên giáo dục nói
chung và giáo dục nhi đồng nói riêng hoàn toàn không có một quy chuẩn nào.
Những sách văn học đương thời, nhất là văn học lãng mạn, đã không đáp ứng
được yêu cầu bức thiết đó. “Bên những loại tiểu thuyết diễm tình, lãng mạn,
kiếm hiệp, trinh thám xuất bản tứ tung như nấm mọc để đầu độc những trí
116
não non dại, nhiều cha mẹ thiệt lòng muốn dậy con, không biết tìm đâu cho
ra một cuốn sách để làm phương châm giáo dục cho con cái trong nhà”[17].
Nhận thức rõ bối cảnh rối ren của nền giáo dục Việt Nam đương thời, những
bậc trí thức như Thái Phỉ, Đạm Phương lấy hết tâm huyết và trí tuệ để đưa ra
những định hướng cho nền giáo dục Việt Nam phát triển. Nếu như Thái Phỉ
quan tâm đến toàn bộ nền giáo dục Việt Nam và cố phác họa ra một nền giáo
dục Việt Nam đổi mới thì Đạm Phương chỉ đi sâu nghiên cứu về phương
pháp tập dưỡng và giáo dục nhi đồng từ lúc lọt lòng mẹ đến tuổi đi học. Bởi
theo bà “Trước khi nói giáo dục thanh niên, hãy nói đến giáo dục nhi đồng
đã. Vì giáo dục nhi đồng là nền tảng cho tất cả các giáo dục” [17; tr 482], và
“Thiếu niên là tương lai của quốc gia, hương hỏa của chủng tộc” [17; tr 481]
Đạm Phương dành rất nhiều tâm huyết cho công trình nghiên cứu này.
Bà đã quan tâm và nghiên cứu về giáo dục nhi đồng suốt 15 năm. Để viết
hoàn chỉnh cuốn Giáo dục nhi đồng, ngoài sự chung sức của các thành viên
trong gia đình, bà con phải tham khảo hơn 15 đầu sách bằng các thứ tiếng
khác nhau. Nhìn vào danh mục sách tham khảo ở cuối quyển Giáo dục nhi
đồng đủ để cho chúng ta thấy sự công phu của bà khi nghiên cứu về vấn đề
này. Bà đã tham khảo 7 cuốn sách tiếng Việt của các học giả, bác sĩ, các nhà
trí thức nổi tiếng trong nước, 6 cuốn sách tiếng Pháp viết về giáo dục nhi
đồng của phương Tây và 2 cuốn sách viết bằng chữ Hán. Đạm Phương cũng
trực tiếp chia sẻ với bạn đọc về tâm huyết của bà và những cơ sở để bà cho ra
đời công trình nghiên cứu này:
“Đây là một công trình nghiên cứu đã lâu năm. Từ năm 1918 hồi phụ
bút cho tờ Trung Bắc tân văn giữ mục “Lời đàn bà” tôi đã nhiều lần đề cập
đến. Tại Nữ công học Hội Huế, thành lập đã 15 năm nay, tôi cũng đã nhiều
lần đem vấn đề dạy con để thảo luận với chị em. Quyển sách này lại là công
trình kinh nghiệm của cả một gia đình. Vì tôi là mẹ của một gia đình 11 con,
117
và bà của một đại gia đình trên 30 cháu vừa nội vừa ngoại. Sự kinh nghiệm
giữa bầy con cháu ấy đã đem đến cho tôi nhiều tài liệu rất thiết thực về giáo
dục.
Sách này lại là công trình chung cộng của cả một gia đình, vì những
con, rể, dâu, cháu nội, hoặc làm đốc giáo, y sĩ, cô đỡ, thương nghiệp, văn sĩ
đã giúp tôi nhiều tài liệu về khoa học và triết học và cùng cộng tác với tôi để
sáng tác sách này về cả các phương diện: đức dục, trí dục và thể dục” [17; tr
482]
Những luận điểm cơ bản trong công trình nghiên cứu Giáo
dục nhi đồng
Trước tiên, bà có một quan niệm tiến bộ về giáo dục. Nếu như trong xã
hội cũ, giáo dục là đưa trẻ em vào một khuôn khổ nhất định thì nay Đạm
Phương quan niệm “Giáo dục không phải là một công trình trói buộc người
ta. Giáo dục là một công trình bồi bổ để nảy nở tất cả những năng lực cao
quý trong một người” [17; tr 511]. Bà chỉ ra nhược điểm của nền giáo dục cũ
khiến “trẻ em sống trong một khuôn khổ quá chật hẹp, quá nghiêm khắc, quá
nệ cổ, nên trẻ không sao phát triển một cách hoàn toàn được. Vài câu châm
ngôn luân thường đạo nghĩa của thánh hiền với chiếc roi mây sẵn sàng treo
trên vách ấy là phương pháp giáo dục duy nhất, thì bảo làm sao mà đào tạo
ra được những trang thanh niên cường tráng, mạo hiểm, có chí tiến thủ, có
sức tháo vát, có kiến thức cho thiết thực và rộng rãi được chớ?”[17; tr 481].
Như vậy, sản phẩm giáo dục mà bà hướng tới, mong ước là những con người
có nhân cách tự do, độc lập, mạnh mẽ.
Theo Đạm Phương người làm nhiệm vụ giáo dục phải phát khởi cho
mầm xanh. Hạt giống có trở thành mầm xanh nụ tốt hay không là nhờ đất,
hoa màu, không khí, nắng, nước, ánh sáng,…Một đứa trẻ cũng vậy, tài năng
và tâm hồn trẻ phải được vun xới mới nảy nở được. “Chính nhờ giáo dục đã
118
phát khởi cái mầm mống ấy,…vun xới tập luyện với những phương pháp
thích hợp thì trẻ mới phát triển được hoàn toàn” [17; tr 489].
Muốn giáo dục trẻ phải biết các giai đoạn phát triển của trẻ. Khi trẻ
mới lọt lòng đến 3, 5 tuổi cần phải dùng phương pháp “tập dưỡng”. Đây là
công trình luyện tập của người mẹ, mở đường, giáo dục, tập dưỡng con trẻ
trong một giai đoạn của đời người. Nghị lực và trí tuệ của trẻ dần dần xuất
hiện gặp một cơ thể khỏe mạnh do được tập dưỡng có phương pháp sẽ phát
triển nhanh. Ngược lại, khi nghị lực và trí tuệ xuất hiện gặp một cơ thể tập
dưỡng không đúng phép do mẹ quá nuông chiều thì nghị lực và lí trí sẽ hư
hỏng, giáo dục đi vào bế tắc. Tập dưỡng và giáo dục trẻ là một việc khó và
Đạm Phương đã chỉ ra hai phương pháp rất hiệu nghiệm khi dạy dỗ con trẻ là
phải tuân theo quy củ và chuyên cần. Quy củ và chuyên cần là phải chăm
con, dạy con theo đúng phép tắc, theo đường lối. Ở đây, ta bắt gặp một nhận
thức hiện đại, nhân bản về con người rất hiếm gặp trong tư tưởng phương
Đông truyền thống về mối quan hệ giữa thân thể và tâm hồn. Trong công
trình Giáo dục nhi đồng, rất nhiều lần Đạm Phương đề cập và nhấn mạnh đến
điều này: “Với một thân thể đau ốm bệnh hoạn thì không làm gì có một tinh
thần cường tráng hoạt bát…Nhờ có tâm hồn, thân thể mới hoạt động, nhờ có
tâm hồn, người mới suy nghĩ, cảm giác, phân biệt, ham muốn, thương yêu và
giận ghét. Thân thể ảnh hưởng đến tâm hồn, mà tâm hồn cũng ảnh hưởng đến
thân thể” “Thân thể tráng kiện, tâm hồn tráng kiện là hai điều kiện của sự
sống con người”. Dựa vào những đặc điểm tâm lý, sinh lý, quan hệ thân và
tâm trong mỗi giai đoạn phát triển của đứa trẻ mà đưa ra nội dung và phương
pháp giáo dục hợp lý. Tư tưởng này hiển nhiên đối lập với truyền thống ứng
xử thân xác của các học thuyết Nho, Phật ở phương Đông là dĩ tâm khống
thân, coi thường thân xác. Đạm Phương chỉ ra quan niệm đó là một sai lầm:
“Một sự sai lầm rất lớn trong việc coi rẻ sức khỏe của trẻ con. Cha mẹ chỉ
119
muốn dạy con điều nhân nghĩa mà không cần lưu ý đến sự tập luyện cho con
có một thân hình mạnh khỏe”. Tập thể thao, rèn luyện thân thể, thậm chí
những kĩ năng rất sơ đẳng như “thở” cũng đòi hỏi các bà mẹ tập, vì ngay cả
thở cho đúng cách cũng là điều phần đông đàn bà Việt Nam hồi đó không
hay biết. Thân thể và tâm hồn như hai mặt cấu thành nhân cách, từ đó bà chỉ
ra sự nguy hại khi cha mẹ bạo hành thân thể trẻ em bằng trừng phạt roi vọt.
Ở đây có một logic nhân quả giữa nữ học và giáo dục nhi đồng. Muốn
giáo dục được những đứa trẻ theo mẫu hình nhân cách mới thì bắt buộc người
mẹ cũng phải là một nhân cách mới. Chính vì thế mà giáo dục nhi đồng khó
khăn hơn và khác những lĩnh vực khác. Theo bà giáo dục trẻ em là một nghệ
thuật của những nghệ thuật, nó đòi hỏi người nghệ sỹ không chỉ có tài, có học
mà cần phải có đức, vì vậy cha mẹ phải là những người có giáo dục trước đã.
“Đến như giáo dục một con người, dẫu con người ấy còn trẻ thơ, vẫn là một
công trình rất tinh vi và vĩ đại vì thể chất và tâm hồn của trẻ con linh động và
phát triển vô cùng. Nhà giáo dục phải luôn thăm dò, theo dõi sự phát triển
ấy, để gieo những mầm mống đạo đức và ngăn đón sửa trị điều lầm lỗi. Lại
còn phải mở mang tri thức và gây dựng nghị lực để đưa đường chỉ nẻo cho
sự phát triển của tài ba”[17; tr 484 - 485]
Khi nuôi dạy trẻ không nên qua nuông chiều những cũng không nên la
rầy hay dùng đến roi vọt. Nếu quá nuông chiều trẻ sẽ luôn làm theo ý mình,
khó mà tuân theo những luân lý trong cuộc sống nếu quá nghiêm khắc, la rầy
thì lại bó buộc tri thức của trẻ. Hơn nữa trẻ quen bị mắng bị đánh thành ra
không biết đến liêm sỉ là gì. Theo Đạm Phương dạy con trẻ phải mang chính
bản thân bố mẹ ra làm gương, lấy tính thương, đạo đức của cha mẹ để cảm
hóa con trẻ. Trong việc dạy con, theo Đạm Phương người mẹ có một nhiệm
vụ và thiên chức cao cả. Người mẹ phải hội tụ đủ tài, đức, năng lực, học vấn
mới có thể giáo dục được trẻ ngay từ khi thơ ấu. Vì thế người mẹ cần luyện
120
tập, trau dồi những đức tính quý báu, sống có quy củ, trật tự để giáo dục con
trẻ. Người mẹ phải có thái độ cương quyết chứ không phải là quá nghiêm
khắc, độc đoán với trẻ. Không được áp đặt trẻ mà phải cảm hóa, dạy dỗ trẻ
bằng tình yêu và sự hiền từ của người mẹ. Nhưng người mẹ đừng quá hiền từ
và yêu thương mà làm sai khuôn phép, đi chệch hướng giáo dục. Hiền từ phải
đi đôi với cương quyết thì giáo dục mới tốt. Mẹ dùng tình thương để dạy dỗ
con, sau này con lớn lên sẽ lấy tình thương mà ở với đời. Điều này tạo hóa đã
ban tặng cho người mẹ sự hiền từ để dạy dỗ con thơ. Cho nên sự dạy dỗ của
người mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách trẻ. Đạm
Phương cũng lưu ý rằng tuy vai trò dạy con của người mẹ là rất lớn nhưng
trong việc giáo dục con cái cần có sự chia sẻ của người cha. Cả hai nên hợp
tác mới có hiệu quả trong sự giáo dục con trẻ. Và đặc biệt không được để con
trẻ thấy sự xung đột của cha mẹ.
Phương pháp giáo dục trẻ em mà Đạm Phương nói đến là phương
pháp giáo dục theo hướng hiện đại nhằm đào tạo ra những thanh niên
tháo vát, tự lập, có tài năng, có đạo đức, có kiến thức thiết thực. Quan
niệm về giáo dục trẻ em của Đạm Phương thống nhất với quan niệm về giáo
dục phụ nữ ở phương diện tạo ra những con người cá nhân, có nhân cách độc
lập, phát triển toàn diện về thể chất cũng như tâm hồn để góp phần xây dựng
đất nước văn minh, tiến bộ. Quan niệm về giáo dục trẻ em và phụ nữ như trên
là kết quả sự tiếp thu kiến thức phương Tây của Đạm Phương nữ sử. Với khả
năng tiếp biến văn hóa, bà đã vận dụng những tri thức tiến bộ của phương
Tây vào đời sống của người Việt. Công trình Giáo dục nhi đồng đã thực sự
trở thành món quà quý giá nhất mà Đạm Phương dày công biên soạn để dành
tặng cho tất cả các bà mẹ Việt Nam.
3.2.2. Công trình khảo cứu về Tuồng hát An Nam
Song song với việc viết báo, viết tiểu thuyết, làm thơ, bà còn tham gia
121
đóng góp vào việc làm từ điển Tiếng Việt Nam do Hội Khai Trí Tiến Đức
vận động biên soạn. Các bài báo có đăng các bài điều tra sưu tầm về từ vựng,
thành ngữ, tục ngữ. Trong dịp này, Đạm Phương cũng có các bài sưu tầm
thành ngữ, ngạn ngữ và ca dao Việt Nam đăng trên 4 số báo Trung Bắc Tân
văn là các số ra ngày 13/12/1923; 14/12/1923; 15/12/1923; và 13/03/1924.
Các ngạn ngữ thành ngữ bà sưu tầm chủ yếu là các thành ngữ, ngạn ngữ xứ
Huế. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu giá trị hơn cả của Đạm Phương chính
là bài khảo cứu về Tuồng hát An Nam.
Những năm đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu về văn hóa Việt Nam
chưa quan tâm nhiều đến những bộ môn nghệ thuật truyền thống như Tuồng
cổ. Đến nay nhìn lại, bài khảo cứu về Tuồng hát An Nam của Đạm Phương
thực sự là bài viết rất quý giá và có tính chất tiên phong trong thời điểm đó.
Có thể thấy rằng tuồng nói chung và tuồng hát cung đình Huế là thể loại sân
khấu đặc trưng về diễn xướng, âm nhạc, ước lệ,.. Nếu không hiểu về âm luật,
thể từ, điệu bộ, điệu ngữ và kinh sử từ truyện thì không thể nào viết hay phân
tích về tuồng được. Đạm Phương có lợi thế là xuất thân trong hoàng tộc, nên
ngay từ nhỏ bà đã được xem nhiều gánh hát diễn các vở tuồng cổ ở kinh
thành, trong cung vua, phủ chúa. Bà còn có điều kiện đọc những vở tuồng cổ
bằng chứ Hán và chữ Nôm. Chính những điều kiện đó giúp bà rất am hiểu về
tuồng, đặc biệt bà ý thức được những giá trị lịch sử văn hóa của tuồng cổ nên
đã dày công ghi lại những khảo cứu của mình về tuồng cổ. Lược khảo về
Tuồng hát An Nam là tài liệu quý giá cho những nhà nghiên cứu sân khấu
truyền thống ngày nay. Trong bài viết khoảng 3500 chữ, Đạm Phương đã
cung cấp khá nhiều thông tin về bộ môn nghệ thuật này, từ nguồn gốc, lịch
sử, những đặc trưng của tuồng hát An Nam đến vị trí của nó trong đời sống
văn hóa đương thời.
Về xuất xứ của nghệ thuật tuồng, bà Đạm Phương viết: “Nghề hát khởi
122
thủy từ đâu, không thấy lịch sử nói đến; nhưng xét ra từ nhà Trần đã có
những cách hát như là bạn hát phường chèo cũng mỉa mai như cách hát bội.
Tôi lại có nghe các ngài tiền bối thuật chuyện lại rằng hồi trước đức Trần
Hưng Đạo đánh giặc Tàu thắng trận có bắt được một bạn con hát của chúng
đem theo trong quân, dẫn về bắt dạy cách hát lại cho bạn hát của mình, vì
thế mà y phục thời giống kiểu hát Tàu, mà bài bản câu hát lại là của bản xứ
thanh âm”. [17; tr 136]. Theo Đạm Phương tuy có phần nào ảnh hưởng bởi
Kinh dịch, các tích cổ Trung Quốc, phục trang, hóa trang nhưng “văn chương
tuồng hát là một lối văn chương đặc biệt của người An Nam mình” [17; tr
137]. Để dẫn chứng thêm cho nhận định tuồng (hát bội) là của Việt Nam, bà
còn kể lại câu chuyện rất cảm động về hai vị hoàng tử thiếu niên vì mê xem
hát bội đến quên ăn uống mà chết. Các con hát cảm niệm cái lòng quyến cố
của hai vị hoàng tử này mà phụng thờ làm Tổ của nghề hát tuồng. Đến thời
của Đạm Phương các rạp hát vẫn sùng hai vị tượng người con trẻ, mặc áo lá
tua, cổ mang kiềng vàng, khánh vàng.
Tiếp đó, Đạm Phương khảo sát rất kỹ về “các lối tuồng hát”. Bà phân
tích về ngôn ngữ trong tuồng hát: “Tuy lột nếp Tàu mà thực chất không giống
Tàu, có cái tôn chỉ huyền diệu linh động lạ thường, thực một lối văn chương
kỳ tuyệt diệu tuyệt, không phải mọi người ai ai học thông văn thạo thời đặt nổi
tuồng hát được hết thảy đâu; người đặt tuồng hát cần phải thẩm âm luật, lại
hiểu thấu nhân tình thế thái, trong xã hội bao nhiêu điều hay điều dở toàn mô
tả cho ra, nghề nào, nghiệp nào phải diễn giải cho rõ,…ngộ đến câu nói thuộc
về thân thế người trung thần hiếu tử, thời tả thế nào cho ra trung thần hiếu tử,
ngộ đến câu đứa ngỗ nghịch phản bạn cũng phải lấy lời ngỗ nghịch phản bạn
mà diễn” [17; tr 137]. Đó chính là cái khó của nghệ thuật biên kịch tuồng.
Bà rất coi trọng kịch bản trong sân khấu tuồng nên dành nhiều trang
khảo cứu về nghệ thuật biên kịch tuồng hát. Bà đánh giá thời Thánh tổ đã có
123
nhiều kịch bản tuồng hay như: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Đào Phi Phụng.
Bà phân tích rất sâu về nghề sáng tác tuồng và viết về mẹo mực như một soạn
giả tuồng lành nghề: “phép đặt tuồng, thứ nhất là trọng mẹo mực, thứ nhì là
câu hát. Mẹo không chín lớp thời lộn xèo những lời nói như là phục bút, thấn
bút, ám chỉ; câu hát phải cho hùng hồn tao nhã, chu mật, tinh tường, đọc câu
tuồng mà đã phân biệt ra được kẻ trung người nịnh, phán đoán được sự
thành bại về sau, tuy chưa rõ hết nguồn cơn mà cái mẹo tuồng đã kết cấu
xong nghĩa đen trắng. Nói tóm lại, cách đặt tuồng thời cũng như cách đặt
tiểu thuyết, đại đồng tiểu dị, chỉ có cú pháp dóng theo âm luật mà thôi” [17;
tr 138]
Qua Lược khảo về Tuồng hát An Nam, Đạm Phương còn phản ánh
không khí thời đại của nghệ thuật hát bội. Vào khoảng thế kỷ XIX ở Huế, có
nhiều nhà soạn tuồng là con cháu của các vua nhà Nguyễn: Đức ông Trần
Biên có soạn pho tuồng “Tạc khống truyện kỳ, Đức ông Nam Sách, Đức ông
Ninh Thuận, Đức ông Hoằng Hóa quận vương, ba ngài đồng soạn pho tuồng
“Tuyệt diệu bình yên” . Ngoài ra, có nhiều viên quan khác cũng say mê môn
nghệ thuật này như Đào Tấn, Ngô Quý Đồng, Võ Đình Phương. Thời điểm
này, nghệ thuật tuồng được sự quan tâm đặc biệt của triều đình nên rất phát
triển. Đạm Phương nhắc đến việc sáng tác và biểu diễn tuồng ở cung đình
giống như những cuộc thi trong những dịp chầu hát trong Duyệt Thị Đường:
“Các quan văn thi nhau dâng lên những vở tuồng mới, pho nào hay thường
được thưởng, lại còn được sao chép thành đôi ba bản phân trí các sở tàng
thơ” [17; tr 138-139]. Bà dẫn chứng ra các pho tiêu biểu như: Quần phương
hiến thoại, Quần anh kiệt, Bắc Tống, Nam Tống, Ngũ hổ bình Nam, Ngũ hổ
bình Liêu, Thủy Hử truyền kỳ, Phản Đường, Chinh đông, Chinh tây, Phong
thần, Anh hùng hội,…
Đạm Phương cũng kể lại rằng những cuộc diễn tuồng trong nội đình có
124
khi mười ngày, nửa tháng mà chưa xong một lễ khánh tiết, vì thế tuồng hát
phải luôn thay đổi, các văn nhân mặc khách thi nhau đặt tuồng mới, ngót có
trăm pho, trong đó có đủ tuồng xã hội, tuồng hài. Bà cho biết, đọc tuồng ở
Nội đình cũng là một sinh hoạt thường xuyên, có tính chuyên nghiệp do một
“ban chực chầu tuồng” ngồi đọc, nghe có vần điệu, êm tai. Nhưng người
ngoài (chỉ người ngoài cung đình) ít biết làn điệu tuồng, mà không biết điệu
hát thì không thấy cái hay của hát tuồng. Điều này lí giải vì sao không phải ai
cũng hiểu và yêu thích nghệ thuật hát tuồng. Và cho đến ba mươi năm đầu
thế kỷ XX, khi những hình thức diễn xướng tuồng trong cung đình đã giảm
dần thì nghệ thuật này càng mai một dần. Tác giả nhận định như sau: “Thuộc
về trung cổ dĩ tiền, lối văn chương hí kịch mà được tiến bộ như thế, là nhờ
những nhà thưởng tâm lạc sự bồi dưỡng cho, mới thành ra một nhạc bộ có
văn chương, có âm luật hoàn toàn ở trong lịch sử đời nay. Chớ như ba mươi
năm về sau đây, không có ai đặt nổi những pho tuồng như trước nữa, có
chăng cũng đặt được vài hồi tuồng vặt mà chơi thôi, thế mới biết cách soạn
tuồng hát là khó lắm” [17; tr139 -140].
Đoạn văn cuối trong bài khảo cứu này cho thấy sự quý trọng, yêu mến
của tác giả đối với một nghệ thuật sân khấu dân tộc truyền thống đa giá trị
của Việt Nam. Song song với đó là một nỗi buồn, sự tiếc nuối trước sự mai
một của bộ môn nghệ thuật này. Có lẽ bài khảo cứu Lược khảo về Tuồng hát
An Nam chính là cố gắng lưu giữ những giá trị của tuồng hát: “Tuồng hát có
cái khí vị cổ phong phần nhiều dùng những tiếng ca dao, ngạn ngữ, thơ hay,
văn cũ, tiếng trợ ngữ, câu thành ngữ rất nhiều, lại tiếng nói thông đủ trong
ba kỳ, thật là một áng văn chương rất quý hóa. Thế mà áng văn chương ấy
ngày nay hình như đã trái mùa lắm, không những đã ít người biết xem tuồng,
mà tuồng cũng hao mòn không thành thiên thập cho người ta xem” [17; tr
142]
125
Bài Lược khảo về Tuồng hát An Nam, được các nhà nghiên cứu thừa
nhận và đánh giá rất cao về giá trị học thuật cũng như tính tiên phong trong
lĩnh vực nghiên cứu các bộ môn nghệ thuật sân khấu cổ truyền của dân tộc.
Đánh giá về công trình nghiên cứu Lược khảo về Tuồng hát An Nam, PGS.TS
Đỗ Bang viết: “Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về tuồng cung đình
Huế mở đầu cho ngành nghiên cứu tuồng cổ Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ.
Lược khảo về Tuồng hát An Nam là một sản phẩm vừa mang tính tái tạo, vừa
mang tính sáng tạo văn hóa” [95; tr 103]
Trong bài viết nhân kỷ niệm 130 năm ngày sinh Đạm Phương có tựa
đề “Đạm Phương nữ sử - nhà hoạt động văn hóa xuất sắc, nhà nghiên cứu
tuồng tiên phong”, GS. Hoàng Chương cũng nhận đinh: “Viết Lược khảo về
Tuồng hát An Nam Đạm Phương nữ sử tuy chỉ gói gọn trong hơn chục trang
sách, nhưng tính toàn diện, tính học thuật của công trình lại khá cao, nếu
không nói, đây là những phân tích, những lý giải khá sâu sắc và có tính
thuyết phục về nghệ thuật tuồng bởi bà là người có thực tiễn, có hiểu biết sâu
sắc về nghệ thuật hát bội”. [97; tr 123]
Tiểu kết
Những hoạt động xã hội và hoạt động khảo cứu của Đạm Phương
trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX có tính chất tiên phong và góp
phần phát triển các lĩnh vực văn hóa, giáo dục phụ nữ, giáo dục nhi đồng.
Đạm Phương hoạt động không mệt mỏi để dẫn dắt chị em đến với tri thức, tự
lập, tự cường, thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình và thành kiến xã hội. Hoạt
động xã hội của bà đi đúng theo những quan niệm, tư tưởng mà bà đã phát
biểu trong các bài báo của mình. Không chỉ thành lập và điều hành NCHH,
Đạm Phương còn tham gia nhiều các hoạt động xã hội, chính trị khác nữa.
Đây là điều rất hiếm gặp ở các bậc nữ lưu cùng thời. Đóng góp to lớn của
Đạm Phương đối với nền giáo dục dành cho nhi đồng của nước nhà kết tinh
126
trong công trình Giáo dục nhi đồng. Phương pháp giáo dục trẻ em mà tác giả
nói đến là phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại nhằm đào tạo ra những
thanh niên tháo vát, tự lập, có tài năng, có đạo đức, có kiến thức thiết thực.
Quan niệm về giáo dục trẻ em của Đạm Phương thống nhất với quan niệm về
giáo dục phụ nữ ở phương diện tạo ra những con người cá nhân, có nhân cách
độc lập, phát triển toàn diện về thể chất cũng như tâm hồn để góp phần xây
dựng đất nước văn minh, tiến bộ.
Qua hoạt động khảo cứu của Đạm Phương ta thấy bà rất ý thức và
quan tâm lưu giữ những giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống của dân tộc
như kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, đặc biệt là bộ môn nghệ thuật
Tuồng cổ. Những năm đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu về văn hóa Việt
Nam chưa quan tâm nhiều đến những bộ môn nghệ thuật truyền thống như
Tuồng cổ, nhưng Đạm Phương đã dày công khảo cứu để cung cấp khá nhiều
thông tin về bộ môn nghệ thuật này, từ nguồn gốc, lịch sử, những đặc trưng
của tuồng hát An Nam đến vị trí của nó trong đời sống văn hóa đương thời.
Lược khảo về Tuồng hát An Nam là tài liệu quý giá cho những nhà nghiên
cứu sân khấu truyền thống ngày nay.
Với những hoạt động xã hội và hoạt động khảo cứu như trên, Đạm
Phương nữ sử đã trở thành một nữ tri thức giàu lòng yêu nước, yêu đồng bào
và có uy tín với nhân dân không chỉ trong phạm vi xứ Huế mà còn trải khắp
bà kỳ Trung – Nam – Bắc.
127
KẾT LUẬN
Từ đại gia đình phong kiến khép kín bước ra xã hội rộng mở, Đạm
Phương nữ sử đã sớm khẳng định được mình trên lĩnh vực văn hóa, văn học
đương thời. Cuộc đời bà là một chuỗi các hoạt động nhiệt huyết, dấn thấn
thân để tìm ra phương hướng phát triển cho các vấn đề phụ nữ, giáo dục nhi
đồng, văn học, báo chí,… trong giai đoạn giao thời cũ mới đan xen. Bà
không ngần ngại thử nghiệm mình trong tất cả các công việc: Viết báo, viết
tiểu thuyết, làm thơ, sáng tác từ, dịch thuật, biên khảo, nghiên cứu, tổ chức
hội đoàn,… Không phải trong lĩnh vực nào bà cũng thành công nhưng những
đóng góp của bà là rất đáng kể.
Về thơ ca, Đạm Phương vẫn đi theo phong cách cổ điển nên các thể
thơ, thi liệu, các hình thức phô diễn vẫn in đậm dấu vết của thơ cổ, chỉ có nội
dung thơ là mang không khí thời đại, đậm đà nghĩa nước tình nhà. Vì thế, thơ
của bà vẫn có một vị thế trong giai đoạn văn học giao thời, nó đáp ứng thị
hiếu của một lượng độc giả chưa quen với những thể thức thơ mới và vẫn yêu
thích thơ ca làm theo lối cổ. Nếu thơ là nơi để bà giáo huấn đạo lý, chuyên
chở đạo đức và mang cảm hứng hiện thực thì từ lại là nơi bà thể hiện một nội
tâm sâu sắc, thâm trầm và một ngòi bút tài hoa. Đầu thế kỷ XX với sự xuất
hiện của nhiều cây bút nữ đã làm diện mạo văn hóa, văn học có những thay
đổi đáng kể và tạo tiền đề cho sự phát triển ở những chặng tiếp theo. Đạm
Phương nữ sử là một trong những nhà văn nữ đi tiên phong trong sáng tác thể
loại tiểu thuyết. Bà đã mạnh dạn vượt qua những quan niệm và nề thói cũ để
viết tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ ngay từ những ngày thể loại tiểu thuyết
đang hình thành ở nước ta. Tuy chưa đạt được những thành tựu về mặt nghệ
thuật nhưng những tiểu thuyết của bà đã góp phần phát triển thể loại tiểu
thuyết trong quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Hai công trình khảo cứu
về Tuồng hát An Nam và Giáo dục nhi đồng của Đạm Phương cũng được các
128
nhà nghiên cứu đánh giá cao về giá trị học thuật và giá trị thực tiễn.
Về vấn đề nữ học chúng ta chưa thấy Đạm Phương đưa ra phương
châm nữ học một cách hệ thống và toàn diện. Toàn bộ những bài viết của bà
về vấn đề này cho thấy quá trình tự đấu tranh trong nhận thức của bản thân để
dò dẫm tìm đường hướng cho sự giáo dục phụ nữ. Các bài viết của bà không
mang tính lý thuyết khái quát mà rất cụ thể về từng vấn đề, từng sự việc
mang tính phát sinh trong đời sống của phụ nữ đương thời. Điểm tiến bộ là
bà đặc biệt chú trọng việc đào tạo nghề nghiệp cho phụ nữ, giúp phụ nữ tự
lập, chủ động được cuộc sống, không lê thuộc vào đàn ông và có thể tham gia
các hoạt động xã hội như nam giới. Quan niệm về giáo dục trẻ em của Đạm
Phương thống nhất với quan niệm về giáo dục phụ nữ ở phương diện tạo ra
những con người cá nhân, có nhân cách độc lập, phát triển toàn diện về thể
chất cũng như tâm hồn để góp phần xây dựng đất nước văn minh, tiến bộ.
Quan niệm về giáo dục trẻ em và phụ nữ như trên là kết quả sự tiếp thu kiến
thức phương Tây vào đời sống của người Việt.
Với toàn bộ hoạt động xã hội, văn hóa, giáo dục, báo chí của Đạm
Phương nữ sử, sinh thời bà đã được dư luận đánh giá cao. Ngày nay, sau hơn
nửa thế kỷ bà qua đời, từ những tư liệu được tìm kiếm và bổ sung không
ngừng, chúng ta có đủ căn cứ để khẳng định bà là một trong số hiếm hoi
những nhà văn, nhà báo lớn thuộc phái nữ nước ta trước Cách mạng tháng
Tám 1945.
129
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách
1. Đào Duy Anh (1992) , Việt Nam văn hóa sử hóa, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, Tp HCM
2. Vũ Tuấn Anh – Bích Thu (c.b) (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945), Nxb Văn học, Hà Nội
3. Nguyễn Kim Anh (nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu) (2004), Tiểu thuyết
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Tp HCM
4. Lại Nguyên Ân (s.t, b.s) (2003), Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1928,
Nxb Đà Nẵng
5. Lại Nguyên Ân (s.t, b.s) (2005), Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1929,
Nxb Đà Nẵng, Trung tâm văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
6. Lại Nguyên Ân (s.t, b.s) (2007), Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1931,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
7. Lại Nguyên Ân( s.t, b.s) (2010), Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo năm
1932, Nxb Tri thức, Hà Nội
8. Tôn Thất Bình (1995), Kể chuyện các vua Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế
9. Ban chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1995), Lịch sử Đảng bộ Thừa
Thiên Huế, tập I (1930 – 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, tr 67 – 71
10. Đặng Thị Vân Chi (2008), Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước
năm 1945, Nxb KhXh, Hà Nội
11. Will Durant, Nguyễn Hiến Lê dịch (1971), Lịch sử văn minh Ấn Độ,
Nxb Lá Bối, Sài Gòn
12. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn con người và văn chương, Nxb
Văn học, Hà Nội
130
13. Đặng Anh Đào (2001), Văn học so sánh, lý luận và ứng dụng, Nxb
KHXH, Hà Nội
14. Đại sứ quán Hoa Kỳ (2006), Những phụ nữ có nhiều ảnh hưởng ở nước
Mỹ, Ấn phẩm của chương trình thông tin quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
15. Trần Văn Giàu (2003), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội
16. Trần Văn Giáp (c.b) (1972), Lược truyện các tác giả Việt Nam (Tập 2),
Nxb KHXH, Hà Nội
17. Lê Thanh Hiền, Nguyễn Khoa Điềm (s.t, b.s) (2010), Tuyển tập Đạm
Phương Nữ Sử, Nxb. Văn học, Hà Nội
18. Lê Thanh Hiền (s.t) (1999), Tuyển tập Đạm Phương Nữ Sử, Nxb. Văn
học, Hà Nội
19. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1996), Văn học Việt Nam 1900 – 1930,
Nxb Giáo dục, Hà Nội
20. Thy Hảo Trương Dy Hy (2003), Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa, Người phụ
nữ viết tiểu thuyết đầu tiên, Nxb Văn học, Hà Nội
21. Mai Hương (1997), Nữ văn sĩ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Nxb Phụ nữ
22. Đỗ Quang Hưng (c.b) (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
23. Hội khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế (2011), Phụ nữ Việt Nam trong di
sản văn hóa dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
24. Mai Quốc Liên (c.b) (2002), Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Cừ, Văn học
Việt Nam thế kỷ XX: Văn xuôi đầu thế kỷ, Nxb Văn học, Hà Nội
25. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
26. Đạm Phương (2005), Giáo dục nhi đồng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội
131
27. Đạm Phương (19??), Gia đình giáo dục thường đàm, - S: lmpr. Bảo tồn
28. Đạm Phương (1929), Phụ nữ dự gia đình, - Huế : lmpr. Bảo tồn
29. Thái Phí (1942), Giáo dục nước Nhật, Nxb Mai Lĩnh (Mai Lĩnh tu thư
cục giáo dục tùng thư)
30. Thái Phí (1943), Một nền giáo dục Việt Nam mới, H.: lmpr. Đời mới
31. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (c.b) (2002), Đại
cương lịch sử Việt Nam - toàn tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội
32. Bảo Quyến (2008), Tùng Thiện vương Miễn Thẩm, đời và thơ, Nxb
Thuận Hóa, Huế
33. Dương Trung Quốc (2001), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919 –
1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội
34. Quốc sử quán triều Nguyễn (tái bản, 2004), Đại Nam thực lục tập 5,
Viện sử học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
35. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà
Nội
36. Nguyễn Cửu Thọ và Nguyễn Khoa Diệu Biên (1995), Đạm Phương Nữ
Sử, Nxb. Trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh. Tp HCM
37. Trần Nho Thìn (2010) (c.b) – Lê Nguyên Cẩn – Phạm Thu Yến, Phân
tích tác phẩm Ngữ văn 10, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
38. Thanh Việt Thanh – Thiên Mộc Lan (1988), Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh
Manh, Nxb Văn Nghệ, Tp HCM
39. Hoài Thanh – Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà
Nội
40. Nguyễn Ngọc Thiện (c.b) (1997), Tuyển tập Phê bình nghiên cứu văn
học Việt Nam (1900 – 1945), Nxb Văn học, Hà Nội
132
41. Chương Thâu (s.t, b.s) (2001), Phan Bội Châu Toàn tập, tập 5, Nxb
Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Huế
42. Chương Thâu, Phạm Ngô Minh (2009), Huỳnh Thúc Kháng tuyển tập,
Nxb Đà Nẵng
43. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội
44. Trung tâm KHXH & NVQG (1999) , Lịch sử Việt Nam 1897 – 1918,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
45. Bạch Thị Út (1926), Huấn nữ ca, Nơi xb : Sadec : lmpr.Duy Xuân
46. Lê Trí Viễn (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
47. Lê Doãn Vỹ (1942), Nguyên nhân các thói xấu của trẻ con, Nxb Mai
Lĩnh (Mai Lĩnh tu thư cục giáo dục tùng thư)
48. Trần Ngọc Vương (c.b) (2010), Giáo trình văn học Việt Nam ba mươi
năm đầu thế kỷ XX, Nxb ĐHQG Hà Nội
49. Trần Ngọc Vương (cb) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX: Những
vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội
50. Viện văn học (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
51. Nguyễn Đắc Xuân (2009), Một bài thơ khóc bạn của bà Chánh phi vua
Khải Định, Chuyện nội cung các vua nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế
52. Nguyễn Đắc Xuân (2011), Cháu nội vua Minh Mạng – nhà hoạt động
nữ quyền đầu tiên ở Đông Nam Á, Chuyện Quý Bà giữa đời thường và
trong cung Nguyễn, Nxb Phụ nữ.
53. Nguyễn Khắc Xuyên (1968), Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong
(1917 – 1934), Trung tâm học liệu Bộ giáo dục
133
Báo, Tạp chí
54. Nguyễn Khoa Điềm (2011) Đạm Phương nữ sử một danh nhân văn hóa,
Tạp chí Văn nghệ, số 8, tr 9
55. Trần Hàn Giang (2004), Về một số lý thuyết nữ quyền, Tạp chí Khoa
học về phụ nữ, số 1 (62), tr 11 – 15.
56. Vũ Quang Hiển- Trần Viết Nghĩa (2008), Tinh thần dân tộc trong cải
cách giáo dục ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 11+12
57. Lê Xuân Kỳ (1994), Nhớ Nữ sĩ Đạm Phương, báo Văn hóa, số ra ngày
21/08
58. Trần Thị Như Mân (1985), Với Nữ sử Đạm Phương, Tạp chí Sông
Hương, số 12
59. Trần Viết Nghĩa (2004), Văn hoá phương Tây với phụ nữ thành thị Việt
Nam đầu thế kỷ XX, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 58
60. Trần Viết Nghĩa (2006), Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh
phương Tây đầu thế kỷ XX, Tạp chí Khoa học, số 2
61. Bùi Trần Phượng (2010), Việt Nam 1918 – 1945, giới tính và hiện đại:
sự trỗi dậy của những nhận thức mới và kinh nghiệm mới, Tạp chí Thời
Đại Mới, số 18
62. Nguyễn Cửu Thọ (1996), Đạm Phương Nhà báo nữ đầu thế kỷ, báo Phụ
nữ Thủ đô, số 22
63. Thế Thanh (1998), Đạm Phương, Người rung tiếng chuông đòi quyền
sống của phụ nữ từ hồi đầu thế kỷ”, báo Đại đoàn kết, số xuân
64. Đăng cổ tùng báo, số ra ngày 27 tháng 06 năm 1907
65. Tạp chí Hữu Thanh, 1922
134
66. Tạp chí Nam Phong số 4 tháng 10 năm 1917
67. Tạp chí Nam Phong, số 13 tháng 7 năm 1918
68. Tạp chí Nam Phong, số 21, tháng 3 năm 1919
69. Tạp chí Nam Phong số 23, tháng 5 năm 1919
70. Tạp chí Nam Phong số 27 tháng 9 năm 1919
71. Tạp chí Nam Phong số 28 tháng 10 năm 1919
72. Tạp chí Nam Phong số 40 tháng 10 năm 1920
73. Tạp chí Nam Phong số 43 tháng 1 năm 1921
74. Tạp chí Nam Phong số 49 tháng 7 năm 1921
75. Tạp chí Nam Phong số 51 tháng 9 năm 1921
76. Tạp chí Nam Phong số 76 tháng 10 năm 1923
77. Tạp chí Nam Phong số 101 ra tháng 12 năm 1925
78. Tạp chí Nam Phong số 159, tháng 2 năm 1931
79. Tạp chí Nam Phong số 191 tháng 12 năm 1933
80. Trung Bắc Tân Văn, số ra ngày 21 tháng 9 năm 1916
81. Trung Bắc tân văn ra ngày 23 tháng 02 năm 1923
82. Trung Bắc Tân Văn, số ra ngày 25 tháng 5 năm 1923
83. Thực nghiệp dân báo số ra ngày 03 tháng 2 năm 1926
84. Phụ nữ thời đàm, 1931
85. Báo Thần chung số ra ngày 25 tháng 01 năm 1929
86. Phụ nữ Tân văn, số ra ngày 19 tháng 9 năm 1929
87. Phụ nữ Tân văn, số ra ngày 24 tháng 10 năm 1929
88. Báo Văn nghệ, số 45 ngày 5 tháng 04 năm 1994
89. Báo Phụ nữ Thủ đô, số 22 năm 1996
135
90. Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 2 năm 1998
91. Tạp chí Người làm báo Xứ Đông, số 3 năm 1998
92. Tạp chí Cánh Buồm, số 4 năm 1998
93. Báo Văn hóa số ra ngày 21 tháng 06 năm 1998
Báo cáo khoa học trong Hội thảo Kỷ niệm 130 năm ngày sinh Đạm
Phương nữ sử (1881 – 2011) tại Huế, tháng 6 năm 2011
94. Lại Nguyên Ân, “Phan Khôi với Đạm Phương nữ sử qua một bức thư và
một bài báo”
95. Đỗ Bang, “Đạm Phương – Chân dung nhà văn hóa nửa đầu thế kỷ XX”
96. Lê Tiến Công, “Đạm Phương – Nữ trí thức tâm huyết dấn thân”
97. Hoàng Chương, “Đạm Phương nữ sử - nhà hoạt động văn hóa xuất sắc,
nhà nghiên cứu tuồng tiên phong”
98. Nguyễn Đình Chú, “Đạm Phương nữ sử - nhà Nữ học nửa đầu thế kỷ
XX”
99. Đoàn Ánh Dương, “Đạm Phương với vấn đề nữ học: Trường hợp phụ
nữ và trẻ em trong gia đình”
100. Tôn Thất Dụng, “Văn xuôi Đạm Phương trong tiến trình vận động của
văn xuôi Việt Nam đầu thế kỷ XX”
101. Phan Tiến Dũng, “Đạm Phương nữ sử - Kết tinh của giá trị truyền thống
và hiện đại trong người phụ nữ Việt Nam”
102. Nguyễn Văn Đăng, “Một số vấn đề về gia tộc Đạm Phương nữ sử”
103. Nguyễn Khoa Điềm, “Về tư liệu Đạm Phương nữ sử - Quá trình sưu
tầm, phân loại, đánh giá và đề xuất”
104. Nguyễn Đăng Điệp, “Đạm Phương nữ sử và vấn đề vị thế người phụ nữ
trong sự nghiệp cách tân đất nước”
136
105. Đỗ Mạnh Hùng, “Mối quan hệ giữa Đạm Phương nữ sử với Phan Bội
Châu”
106. Nguyễn Đắc Diệu Hương, “Đạm Phương nữ sử - Nhà cách tân giáo dục
nửa đầu thế kỷ XX”
107. Phạm Thị Thu Hương, “Kim Tú Cầu như một tiểu thuyết tài tử giai
nhân”
108. Đào Hùng, “Bà Đạm Phương trong ký ức của mẹ tôi – bà Trần Thị Như
Mân”
109. Huỳnh Đình Kết, “Nhân vật Đạm Phương nữ sử và việc bảo tồn phát
huy di sản văn hóa”
110. Ngô Kha, “Công Nữ Đồng Canh- Nữ sử Đạm Phương: một phụ nữ nổi
tiếng ở Huế đầu thế kỷ XX”
111. Nguyễn Thu Linh, “Tư tưởng về nữ quyền của Đạm Phương trong cái
nhìn hôm nay”
112. Lê Nguyên Lưu, “Thành tựu của Đạm Phương nữ sử trong môi trường
giáo dục của hoàng gia triều Nguyễn”
113. Trần Tuấn Lộ, “Nữ sĩ Đạm Phương – nhà giáo dục học tâm huyết và
tiên tiến của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”
114. Tôn Phương Lan, “Tiểu thuyết – ánh xạ tư tưởng nữ quyền của Đạm
Phương nữ sử”
115. Hoàng Diệu Minh, “Đạm Phương nữ sử - một trong những nhà báo nữ
đầu tiên của báo chí Việt Nam hiện đại”
116. Nguyễn Hữu Ngôn, “Đạm Phương nữ sử nhà hoạt động xã hội – Tấm
gương của một nhân cách lớn”
117. Hoàng Thị Ái Nhiên, “Đạm Phương nữ sử - Tầm nhìn và quan điểm về
giáo dục đầu thế kỷ XX”
137
118. Nguyễn Thị Thùy Nhung, “Đóng góp của Đạm Phương nữ sử đối với
báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX”
119. Đặng Thị Ngọc Phượng, “Vấn đề giáo dục trẻ em theo quan điểm của
Đạm Phương”
120. Nguyễn Khắc Phê, “Nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết Đạm Phương nữ
sử”
121. Phạm Phú Phong, “Nữ sử Đạm Phương – Nhà báo, nhà tiểu thuyết tân
văn”
122. Phan Quang, “Đạm Phương nữ sử - danh sĩ đa tài, nhà báo yêu nước”
123. Nguyễn Hữu Sơn, “Bàn về cái sợ. Tại làm sao không sợ” và nhân cách
Đạm Phương nữ sử”
124. Nguyễn Thế, “Nghệ thuật tuồng dưới nhãn quan của Đạm Phương nữ
sử”
125. Phan Công Tuyên, “Nữ trí thức tiêu biểu đầu thế kỷ XX”
126. Dương Phước Thu, “Đạm Phương nữ sử: Nhà báo xuất sắc – nhà văn
hóa nửa đầu thế kỷ XX”
127. Nguyễn Bích Thu, “Đạm Phương nữ sử và ý thức nữ quyền trong tác
phẩm của bà”
128. Chương Thâu, “Vấn đề nữ quyền – từ Phan Bội Châu đến Đạm Phương
nữ sử”
129. Trần Văn Trọng, “Tìm hiểu thơ và từ của Đạm Phương nữ sĩ”
130. Lưu Khánh Thơ, “Nữ sử Đạm Phương trong phong trào nữ lưu và văn
học nửa đầu thế kỷ XX”
131. Bùi Việt Thắng, “Tiểu thuyết của Đạm Phương nữ sử trong bối cảnh
tiểu thuyết Việt Nam những năm hai mươi thế kỷ XX”
138
132. Trần Ngọc Vương, “Qua một phận người sang, nghĩ về một sự lựa chọn,
một con đường”
Internet:
133. Doãn Diễm, Người phụ nữ đầu tiên viết tiểu thuyết của Việt Nam là ai?
Vietbao.vn, http://vietbao.vn/Van-hoa/Nguoi-phu-nu-viet-tieu-thuyet-
dau-tien-cua-VN-la-ai/20367117/181/, 20/01/2005
134. Trần Dương, Bậc nữ lưu tân tiến của thế kỷ 20, thethaovanhoa.vn,
http://thethaovanhoa.vn/133N20110304092650010T0/bac-nu-luu-tan-
tien-cua-the-ky-20.htm, 04/03/2011
135. Trần Dương, Đạm Phương nữ sử: Một trong những nữ ký giả đầu tiên ở
Việt Nam, thethaovanhoa.vn,
http://thethaovanhoa.vn/133N20110619094514141T0/dam-phuong-nu-
su-mot-trong-nhung-nu-ky-gia-dau-tien-cua-vn.htm, 19/06/2011
136. Ts. Đỗ Hằng – Ths Phương Hà, Công nương nhà Nguyễn đã “vá trời”
như thế nào? (Tên bài và tít phụ do bee.net.vn đặt), news.hnsv.com,
http://news.hnsv.com/van-hoa/cong-nuong-nha-nguyen-da-va-troi-nhu-
the-nao-363566/, 13/03/2011
137. Đình Nam, Nhớ ký giả Đạm Phương nữ sử, baothuathienhue.vn
http://baothuathienhue.vn/?gd=8&cn=69&newsid=20110615192250,
15/06/2011
138. Nguyễn Khắc Phê, Đạm Phương nữ sử - một phụ nữ tiên phong,
phunuonline.com.vn, http://www.phunuonline.com.vn/2011/Pages/dam-
phuong-nu-su-mot-phu-nu-tien-phong.aspx, 07/03/2011
139. Phan Quang, Đạm Phương nữ sử - Ngôi sao đầu thế kỷ, dantri.com.vn,
http://dantri.com.vn/c20/s20-485817/Dam-Phuong-nu-su-goi-sao-dau-
the-ky.htm, 01/06/2011
139
140. Phi Tân (TRT), Đạm Phương nữ sử, hue.vnn.vn,
http://www.hue.vnn.vn/vedephue/201103/dam-Phuong-nu-su-1982551/,
14/03/2011
141. Trần Nho Thìn, Nho giáo và nữ quyền, http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn,http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?opti
on=com_content&view=article&id=1167%3Anho-giao-va-n-
quyn&catid=100%3Avn-hoa-lch-s-trit-hc&Itemid=161&lang=vi,
25/05/2010
142. Trần Nho Thìn, Tư tưởng nữ học của Đạm Phương nữ sử (Kỳ 1),
vanhoanghean.vn, http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-
hoa/goc-nhin-van-hoa/2976-tu-tuong-nu-hoc-cua-dam-phuong-nu-su-
ky-1.html, 03/08/2011
143. Trần Nho Thìn, Tư tưởng nữ học của Đạm Phương nữ sử (Kỳ 2),
vanhoanghean.vn, http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-
nhin-van-hoa/2982-tu-tuong-nu-hoc-cua-dam-phuong-nu-su-ky-2.html,
04/08/2011
144. Tạ Chí Đại Trường, Việt sử đọc một quyển, nhanvan.com,
http://www.nhanvan.com/magazines/vanhoc/192/tachidaitruong_sexvatr
ieudai.htm
140
PHỤ LỤC
DANH MỤC THƠ - TỪ CỦA ĐẠM PHƯƠNG NỮ SỬ
( Hiện sưu tập được )
TT Tên tác phẩm Nơi XB Năm XB Ghi chú
Trung bắc tân văn 25/9/1925 1
An truyền hiếu tử truyện
Bà Mỵ Châu Nam Phong - số 50 9/1921 2
3 Bà Mỵ Ê Tư liệu gia đình
4 Bà Triệu Nt
5 Bài ca ấu trĩ viên 1/6/1924
Lục tỉnh tân văn - số 1448
6 23/2/1923
Lục tỉnh tân văn - số 1662
Bài đề từ bài dịch ra quốc âm “ Thi hồi văn” của ông Lâm Duy Trí
7 27/9/1923
Lục tỉnh tân văn - số 1546
Bài họa lại ông Thị độc Trần bạn năm vận “hơn”
8 Cảnh mùa thu Tư liệu gia đình Từ khúc
nt
9 Chị B.T.D dạy các trò gái học quốc văn
nt 10 Chị P.T.Đ chăn tằm
nt
11 Chị Tr.T.L dệt vải khung máy
nt
12 Coi chị Đ.X.Nh thêu bức tranh Hoa Điểu
13 Cuộc tổ chức bán
Nhà in Tiếng Dân, Huế
bánh giúp dân bị lụt Thanh Hóa
6/9/1933
14 Đề núi Bàn A ở Thanh Hóa Đông Phương - số 878
15 Đêm thu nghe đàn Tư liệu gia đình
141
16 Hai Bà Trưng Nt
17 Họa bài mừng lính Hữu Thanh - số 13 1/2/1922
tùng chinh đã về
18 Họa bài thơ năm mới Tư liệu gia đình
19 Khai bút Trung Bắc tân văn 9-10/2/1925
20 Khóc Thanh Nguyên 6/9/1933
quân Đông Phương - số 878
21 Lên chùa tức cảnh Tư liệu gia đình
1/2/1922
22 Lời tạ ơn bà Trần Thị Thọ ở Nam Kỳ Lục tỉnh tân văn - số 1068
23 Ngày xuân nhớ bạn Tư liệu gia đình Từ khúc
24 Người đẹp câu cá Nt
25 Người đẹp chơi đàn Nt
26 Người đẹp điểm trang Nt
27 Người đẹp tiễn bạn Nt
28 Nhớ bạn Nt
29 Nhớ cảnh núi Nam Phong - số 10 4/1918
30 Qua đèo ngang tức Hữu Thanh 1/2/1922
cảnh
31 Tặng trường Diệu Tư liệu gia đình
Đức
32 Tân niêm kỹ thuật Trung Bắc tân văn 25/2/1924
33 Thơ tiễn biệt chị Trần
Thị Duyên Nhà in Tiếng Dân , Huế
34 Thu gian cảm hoài 27/9/1923
Lục tỉnh tân văn - số 1546
35 Tiễn bạn Tư liệu gia đình
36 Thược dược mới nở Nt
Trung Bắc tân văn 4/2/1926
37 Trả lời người hỏi thăm Xuân Thành phong cảnh
142
38 Trời thu cảm hoài Nam Phong - số 26 8/1919 Từ khúc
39 Trùng du Trúc Lâm
Tự
40 Viếng người đạo hữu Hữu Thanh - số 23 1/7/1922
41 Vịnh cảnh chùa Non 6/5/1922
Lục tỉnh tân văn - số 1135
Nước ở núi Ngũ Hành Sơn ( tỉnh Quảng Nam)
42 Vịnh cảnh cung tiến 29/9/1923
Lục tỉnh tân văn - số 1548
đền Hai Bà Trưng vương
43 Vịnh cờ hoa lau Nam Phong - số 51 9/1921
Tư liệu gia đình Chữ Hán
44 Thơ đề “Bút hoa” của Phan Mạnh Danh
T.V.T [129; tr263, 264]