ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
------------------------------
PHẠM THỊ NHUNG
YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
GIA ĐÌNH BÉ MỌN (DẠ NGÂN) VÀ TIỀN ĐỊNH (ĐOÀN LÊ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
------------------------------
PHẠM THỊ NHUNG
YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
GIA ĐÌNH BÉ MỌN (DẠ NGÂN) VÀ TIỀN ĐỊNH (ĐOÀN LÊ)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Lưu Khánh Thơ
THÁI NGUYÊN - 2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 3
2.1 Dạ Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn .............................................................. 3
2.2 Đoàn Lê và tiểu thuyết Tiền định .......................................................................... 4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .......................................................................... 6
3.1 Đối tượng nghiên cứu............................................................................................ 6
3.2 Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................................... 7
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu: .......................................................................................... 7
4.2. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................... 7
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 7
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 7
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 8
Chương 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN, ĐOÀN LÊ ........................................ 9
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI ................................................................. 9
1.1.1. Diện mạo chung .............................................................................................. 10
1.1.2. Tiểu thuyết tự truyện ....................................................................................... 14
1.2. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân, Đoàn Lê ....................................................... 19
1.2.1. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân .................................................................... 19
1.2.2. Hành trình sáng tác của Đoàn Lê .................................................................... 22
Tiểu kết chương 1: .................................................................................................... 26
Chương 2: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ
MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG .............. 28
2.1. Cuộc đời thực của nhà văn ................................................................................. 28
2.1.1. Cuộc đời thực của Dạ Ngân ............................................................................ 28
2.1.2. Cuộc đời thực của Đoàn Lê ............................................................................. 29
2.2. Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư ......................................................................... 31
2.2.1. Nguyên mẫu - Nhân vật .................................................................................. 31
2.2.2. Hiện thực đời sống - Hiện thực tác phẩm ...................................................... 38
2.3. Cảm quan về lịch sử, đời sống xã hội và con người .......................................... 54
2.3.1. Cảm quan về lịch sử ........................................................................................ 54
2.3.2. Cảm quan về đời sống xã hội .......................................................................... 58
2.3.3. Cảm quan về con người .................................................................................. 61
2.4. Ý thức về cái tôi cá nhân .................................................................................... 63
2.4.1. Cái tôi cô đơn .................................................................................................. 64
2.4.2. Cái tôi khao khát hạnh phúc ............................................................................ 67
2.4.3. Cái tôi phản kháng, đấu tranh ......................................................................... 70
2.4.4. Cái tôi day dứt, dằn vặt ................................................................................... 72
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 76
Chương 3: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ
MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ....... 77
3.1. Ngôi kể (Điểm nhìn trần thuật) .......................................................................... 77
3.1.1. Ngôi thứ ba – sự khách quan hóa .................................................................... 78
3.1.2. Ngôi thứ ba – màu sắc lãng mạn ..................................................................... 83
3.2. Ngôn ngữ ............................................................................................................ 86
3.2.1. Ngôn ngữ giàu màu sắc biểu cảm ................................................................... 86
3.2.2. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi đời thường ............................................................ 89
3.2.3. Ngôn ngữ tính dục ........................................................................................... 93
3.3. Giọng điệu .......................................................................................................... 97
3.3.1. Giọng hoài niệm, trữ tình ................................................................................ 98
3.3.2 Giọng chiêm nghiệm, triết lý ......................................................................... 101
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 103
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 106
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GS: Giáo sư
PGS: Phó giáo sư
TS: Tiến sỹ
NXB: Nhà xuất bản
LHP: Liên hoan phim
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học thời kỳ đổi mới với sự chuyển mình đã tạo ra những chuyển
biến đáng ghi nhận ở hầu hết các thể loại, trong đó có tiểu thuyết. Trong điều
kiện thuận lợi, thể loại tiểu thuyết từng bước đổi mới, phát triển, đặc biệt ở
thể loại này có sự góp mặt của các nhà văn nữ với những tác phẩm tạo sự chú
ý trên văn đàn. Sự đổi mới về tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con
người, cuộc đời, quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ với tác phẩm, với
công chúng và với chính mình giúp cho các nhà văn có môi trường thuận lợi
để viết văn, để phản ánh, để sáng tạo. Các tác phẩm văn học quan tâm đến con
người cá nhân, con người và cuộc sống được nhìn từ nhiều chiều. Nhiều nhà
văn nữ có điều kiện để sáng tạo nghệ thuật, để bộc lộ khả năng, cái tôi cá
nhân trong các tác phẩm của mình. Nhiều nhà văn nữ đã sáng tác ở thể loại
tiểu thuyết, thể loại đòi hỏi người cầm bút phải có sự tập trung cao độ trong
sáng tác, thời gian, có sự trải nghiệm, suy tư về con người và cuộc đời, am
hiểu sâu rộng về xã hội, thời cuộc. Đặc biệt với nhu cầu giải phóng tư tưởng,
bộc lộ cái tôi của người phụ nữ, với đặc trưng của thể loại tiểu thuyết, nhiều
tiểu thuyết của nữ nhà văn đã đi theo khuynh hướng tự truyện. Với cách nhìn
cách cảm riêng của người phụ nữ, tiểu thuyết của các tác giả nữ góp phần làm
cho diện mạo tiểu thuyết thêm phong phú, đa dạng, tiếng nói về con người,
cuộc đời cũng giàu sắc điệu hơn. Sang đầu thế kỷ XXI, sự xuất hiện những
tiểu thuyết của nữ nhà văn với giọng rất lạ, lạ cả về nội dung, lạ cả về hình
thức. Ở những tiểu thuyết này, người đọc dễ dàng nhận ra một cách nhìn, một
cách cảm về cuộc đời, con người rất riêng, mang tính nữ. Đặc biệt là tiểu
thuyết có tính tự thuật. Tự thuật vừa như một phương thức tư duy vừa là
phương thức nhà văn sử dụng để đưa yếu tố có thật trong cuộc đời cũng như
hiện thực cuộc sống vào tác phẩm. Chính vì thế, dễ dàng nhận thấy những tiểu
2
thuyết này mang đậm yếu tố tự truyện. Nghiên cứu về yếu tố tự truyện trong
tiểu thuyết của nữ nhà văn, giúp người đọc có thể nhận thấy sự chuyển biến rõ
rệt ở thể loại tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, thấy được những đóng góp ở thể loại
tiểu thuyết của nữ nhà văn.
1.2. Là những nhà văn sinh ra, lớn lên, trưởng thành qua những biến
động lớn của lịch sử, cuộc đời đa đoan, nhiều thăng trầm, Đoàn Lê và Dạ
Ngân có những trải nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời. Chính điều đó,
đã khiến hai nhà văn có một vốn tư liệu quý giá để viết nên những tiểu thuyết
để lại ấn tượng mạnh cho người đọc. Với niềm đam mê viết, với nhu cầu bộc
lộ con người cá nhân, tiểu thuyết của hai nữ nhà văn giàu nghị lực, khao khát
hạnh phúc cháy bỏng lôi cuốn người đọc khám phá thế giới nội tâm nhiều bí
ẩn của người phụ nữ, hiểu hơn về cuộc sống con người trong chiến tranh, thời
bao cấp, thời xóa bỏ bao cấp… Ở độ chín của một đời người, Dạ Ngân viết
tiểu thuyết Gia đình bé mọn, Đoàn Lê viết tiểu thuyết Tiền định. Nếu như
Gia đình bé mọn kể về cuộc đời số phận của người phụ nữa Nam bộ, thì Tiền
định lại khám phá số phận của người phụ nữ Bắc bộ. Điểm chung của hai tiểu
thuyết đó là, cuộc đời số phận của nhân vật gắn liền với thời chiến tranh, thời
bao cấp và thời kỳ đổi mới, số phận cá nhân được nhìn nhận trong mối quan
hệ chặt chẽ với thời đại, xã hội; mọi vấn đề của đời sống được nhìn nhận qua
cái nhìn của người phụ nữ cá tính có phần gai góc, khao khát hạnh phúc, giàu
nghị lực, ý thức sâu sắc về quyền hạnh phúc trong tình yêu hôn nhân, bao
dung và nhân ái. Hai tiểu thuyết mang đậm yếu tố tự truyện. Những vấn đề,
những điều phản ánh trong tác phẩm đều thấp thoáng dấu ấn trong cuộc đời
của hai nữ nhà văn. Gia đình bé mọn được xem là tác phẩm thành công nhất
của Dạ Ngân. Tác phẩm được tái bản nhiều lần, nhận hai giải thưởng của Hội
Nhà văn Hà Nội năm 2005 với số phiếu tuyệt đối 9/9 và dịch sang tiếng Anh,
xuất bản ở Mỹ. Tiền định của Đoàn Lê từng lọt vào chung khảo giải thưởng
văn Bách Việt 2009. Có thể nói, đây là hai tiểu thuyết của tác giả nữ được đặc
3
biệt chú ý trong văn học thế kỷ XXI. Nghiên cứu hai tiểu thuyết này sẽ góp
phần tìm ra những đặc trưng trong sáng tác của nữ nhà văn đầu thế kỷ XXI,
sự tìm tòi đổi mới trong sáng tác, những cống hiến, đóng góp của Đoàn Lê và
Dạ Ngân ở thể loại tiểu thuyết.
1.3. Nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê là nữ nhà văn có sức viết dồi dào, bền
bỉ. Sáng tác của hai nhà văn, đặc biệt là tiểu thuyết Gia đình bé mọn và Tiền
định tạo sự chú ý quan tâm và có sức lan tỏa khá rộng. Có nhiều khá bài viết
về Đoàn Lê và tiểu thuyết Tiền định, những bài viết về Dạ Ngân và tiểu
thuyết Gia đình bé mọn. Có thể nói, từ khi ra đời đến nay, hai tác phẩm luôn
nhận được sự chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, sự yêu mến
của công chúng. Có một những công trình nghiên cứu về từng tiểu thuyết ở
các phương diện khác nhau và phát hiện ra những đặc điểm cũng như giá trị
của mỗi tiểu thuyết. Qua quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy, cả hai tiểu
thuyết đều có yếu tố tự truyện và tiêu biểu cho tiểu thuyết của tác giả nữ đầu
thế kỷ XXI. Yếu tố tự truyện đã làm nên thành công của hai tiểu thuyết, đồng
thời góp phần tạo nên một hiện tượng văn học đầu thế kỷ XXI cần được tìm
hiểu, nghiên cứu để nhìn nhận, đánh giá sâu hơn.
Xuất phát từ những lí do khách quan và thực tế trên, từ sự yêu thích hai
tác phẩm, từ mong muốn tìm hiểu khám phá đời sống nội tâm, số phận con
người, sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, chúng tôi chọn
đề tài: Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân và
Tiền định của Đoàn Lê.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Dạ Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn
Sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong thời chiến tranh, yêu thích văn
chương, bền bỉ trên mảnh đất chữ nghĩa, Dạ Ngân viết văn từ những năm 80
của thế kỷ trước, sáng tác thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Là
4
một trong những cây bút nữ trưởng thành sau năm 1975, Dạ Ngân tạo sự chú
với tác phẩm Con chó và vụ ly hôn. Tiểu thuyết Gia đình bé mọn ra đời đánh
dấu thành công trong sự nghiệp văn chương của Dạ Ngân, đưa tên tuổi Dạ
Ngân đến với độc giả yêu văn chương trong và ngoài nước.
Cuốn tiểu thuyết Gia đình bé mọn có sức hấp dẫn đặc biệt với người
đọc. Tiểu thuyết mang tính tự thuật, viết về cuộc đời một người phụ nữ đi qua
chiến tranh, qua thời bao cấp. Hoài Nam trong bài “Gia đình bé mọn” – “bản
dập” cuộc đời Dạ Ngân, nhận xét: “chiến tranh đã khắc dấu ấn của nó lên
đời sống xã hội, lên nhân tính, lên tình yêu của một thời kỳ đằng đẵng ngay
cả khi tiếng súng chiến tranh đã chấm dứt. Là người từng ở “cứ” nhiều năm,
sau đó lại kinh qua thời bao cấp như hàng triệu người dân Việt Nam khác,
nhà văn Dạ Ngân thấu hiểu điều này và có lẽ, “Gia đình bé mọn” chính là kết
quả của cả một quá trình mà bà đã suy ngẫm về chiến tranh, tất nhiên, theo
cách riêng của bà...”.[22]
Trong bài viết Gia đình bé mọn – lời tự thú chân thật, tác giả Trần
Thiện Đạo đánh giá: tác phẩm Gia đình bé mọn “có một bề dày lịch sử và
một chiều sâu tâm lý khiến cho nó nghiễm nhiên trở thành chứng từ khắc
hoạ một thời kỳ gian khó, qua những lời tự thú chân thật và chân thành về
nhiều mặt”.[5]
Gia đình bé mọn mặc dù có những thành công nhất định được quan tâm,
song trên thực tế việc phê bình, nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm chỉ mới dừng
lại ở các bài điểm sách, những tin vắn về việc in nối bản tiểu thuyết cùng một
số cuộc phỏng vấn và viết chân dung nhà văn. Gần đây đã có một số luận văn
của các trường Đại học chọn tác phẩm làm đối tượng nghiên cứu. Luận văn
cũng chỉ mới tiếp cận này theo hướng nghiên cứu về giá trị của tiểu thuyết.
2.2. Đoàn Lê và tiểu thuyết Tiền định
Đoàn Lê là người phụ nữ đa tài, đa đoan. Ở độ tuổi đã chín của một đời
5
người, Đoàn Lê viết tiểu thuyết Tiền định. Cuốn tiểu thuyết ra đời nhận được
sự quan tâm đặc biệt của độc giả.
Về Đoàn Lê, Hồ Anh Thái - người bạn thân thiết - đã dùng 14 trang để
“dựng” chân dung văn học của nhà văn trong Chị tôi. Về Tiền định, Hồ Anh
Thái nhận xét: “ Không e dè, không lảng tránh, chị tự mổ xẻ theo kiểu không
gây mê. Có nhiều chuyện, chắc nhiều cây bút phải run tay ghê tay. Nhưng chị
đã viết ra được”[39, tr.45]
Trong bài viết cho cuốn Tiền định, Lê Minh Khuê đã đánh giá “Vừa là
tự truyện, vừa là hư cấu, cuốn sách không có khám phá mới mẻ gì về phong
cách. Tác giả kể chuyện nhẩn nha và hấp dẫn. Nhưng cái đáng để ta quan
tâm: nhà văn viết cho độc giả đọc. Với những sự kiện đầy ăm ắp, Đoàn Lê
cung cấp cho người yêu sách văn học cái cảm xúc trong sáng của người viết
văn tinh tế, chú ý đến những rung động nhỏ của sự sống… Đoàn Lê đã đến
với người đọc thật giản dị. Trên những chất liệu thực, tác giả đã thổi vào đó
trí tưởng tượng, để câu chuyện như thực, lại như một giấc mơ về cuộc đời đa
truân của người đàn bà” [18, tr.315]
Việt Hà ở bài viết Tiền định nghiệt ngã trong tiểu thuyết Đoàn Lê có
khẳng định: “Những ai quen biết nhà văn Đoàn Lê, khi đọc tiểu thuyết này có
thể dễ dàng nhận ra nhân vật nữ trong truyện là hiện thân của tuổi trẻ, tình
yêu, khát vọng và cả những truân chuyên trong cuộc đời tác giả. Không né
tránh những sai lầm, những mù quáng, những đớn đau của tuổi trẻ và cả
những nghiệt ngã trong cuộc đời, Đoàn Lê đi sâu vào phân tích diễn biến nội
tâm của nhân vật vốn là lợi thế xưa nay của bà.” [7]
Tiền định cũng đã trở thành đối tượng nghiên cứu của một số luận văn.
Công trình nghiên cứu Yếu tố tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê của Bùi Thị
Thu có khảo sát mối quan hệ giữa chất liệu đời tư và vấn đề được đề cập đến
trong tiểu thuyết như: Bi kịch gia đình, câu chuyện nghề, chuyện đời …từ đó
6
làm rõ yếu tố tự truyện trong Tiền định – một trong những tác phẩm văn xuôi
tiêu biểu của Đoàn Lê.
Qua những thống kê trên, chúng tôi nhận thấy yếu tố tự truyện trong
tiểu thuyết của các nhà văn nữ đầu thế kỷ XXI là đối tượng tiềm tàng của
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Tuy nhiên, những bài viết mới chỉ
dừng lại ở việc đánh giá về tác giả, tác phẩm. Các công trình nghiên cứu về
yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết do các nhà văn nữ đầu thế kỷ XXI sáng tác
cũng chỉ dừng lại ở những tiểu thuyết đơn lẻ, chưa có những công trình
nghiên cứu sâu về yếu tố tự truyện trong hai tiểu thuyết. Với hướng tiếp cận
của luận văn này, chúng tôi sẽ làm rõ yếu tố tự truyện – đặc sắc, sự đổi mới,
đóng góp trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân và Tiền định của
Đoàn Lê.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là yếu tố tự truyện trong tiểu
thuyết của Dạ Ngân và Đoàn Lê, khảo sát qua hai tiểu thuyết: Gia đình bé
mọn của Dạ Ngân và Tiền định của Đoàn Lê.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục tiêu làm rõ yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết
của tác giả nữ đầu thế kỷ XXI. Sự tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong hai tiểu
thuyết có thể giúp ta khai thác những biểu hiện của tự truyện trong hai tác
phẩm trên, qua đó tìm ra điểm chung và phong cách riêng của từng nhà văn;
thấy những đặc sắc trong phong cách của Dạ Ngân và Đoàn Lê trong tương
quan so sánh giữa hai tiểu thuyết trên, nét đặc sắc trong tiểu thuyết của các
nhà văn nữ trong tương quan so sánh với các tiểu thuyết của các nhà văn nam
giới cùng thời. Từ đó khẳng định những đóng góp của các nữ nhà văn cho thể
loại tiểu thuyết. Từ kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn góp phần khẳng
7
định đặc sắc ở tiểu thuyết tự truyện của nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê trong
tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác định rõ các khái niệm: tự truyện, tiểu thuyết có yếu tố tự truyện,
- Xác định yếu tố tự truyện của tiểu thuyết Tiền định, Gia đình bé mọn
ở các phương diện: nhân vật, hiện thực trong tác phẩm, ngôi trần thuật, giọng
điệu kể chuyện, ngôn ngữ
- Xác định đặc điểm, những đóng góp của các nhà văn nữ ở thể loại tiểu
thuyết đầu thế kỷ XXI.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp
tiểu sử; phương pháp so sánh đối chiếu; phương pháp hệ thống; phương pháp
hình thức (thi pháp học); phương pháp nghiên cứu liên ngành.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của nhà văn Dạ Ngân và
Đoàn Lê, chúng tôi khảo sát qua hai tác phẩm: Gia đình bé mọn (2010, NXB
Thanh Niên), Tiền định (2010, NXB ). Ngoài ra chúng tôi cũng chú ý so sánh
với một số các tiểu thuyết tự truyện của các nhà văn nam giới đầu thế kỷ XXI
để có sự đánh giá đầy đủ trọn vẹn về đối tượng nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đi sâu vào tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của nữ
nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê, qua đó khám phá những bí ẩn trong đời sống
tâm hồn, cuộc đời số phận của người phụ nữ thời hiện đại; những vấn đề của
xã hội thời chiến tranh, thời bao cấp, thời xóa bỏ bao cấp; cảm quan của
người phụ nữ về lịch sử, xã hội, con người; ý thức cái tôi nữ quyền; những
8
đóng góp của hai nữ nhà văn trong quá trình đổi mới ở thể loại tiểu thuyết đầu
thế kỷ XXI nói riêng, đổi mới văn học nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm các chương sau:
Chương 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN, ĐOÀN LÊ
Chương 2: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH
BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
Chương 3: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH
BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
9
NỘI DUNG
Chương 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN, ĐOÀN LÊ
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI
Từ sau năm 1986, đặc biệt là từ đầu thế kỷ XXI, tiểu thuyết Việt Nam
đã có sự chuyển mình mạnh mẽ. Tiểu thuyết Việt Nam đã nhanh chóng
khoác lên mình một diện mạo mới, mới mẻ về tư duy sáng tác, cách nhìn, lối
viết. Và có lẽ, chưa bao giờ thể loại tiểu thuyết có lực lượng sáng tác đông
đảo như thế, chưa bao giờ có số lượng tác phẩm ra đời nhiều đến vậy. Đội
ngũ sáng tác tiểu thuyết cũng rất đa dạng. Có những nhà văn nam luôn xông
xáo, có những nhà văn nữ có sức viết dồi dào, có những nhà văn đã lớn tuổi
và có cả những nhà văn mới bước vào nghề. Có những tác phẩm vừa mới in
còn chưa ráo mực đã đạt giải thưởng cao, được công chúng đón nhận và yêu
mến; có những tác phẩm gây nên chú ý của dư luận, tạo nên những xôn xao,
bàn luận sôi nổi.
Là thể loại xuất hiện khá muộn ở Việt Nam, đến đầu thế kỷ XX văn học
nước ta mới có những tiểu thuyết với đầy đủ tính chất của thể loại hiện đại.
Trong những năm kháng chiến (1945 - 1975) tiểu thuyết bội thu về số lượng.
Tuy nhiên ở giai đoạn này, tiểu thuyết chỉ chủ yếu xoay quanh câu chuyện về
lịch sử, mang đậm tính sử thi và dựa trên mô thức trần thuật đại sự. Từ 1975
đến 1985, nhiều nhà văn đã tìm tòi lối đi cho tiểu thuyết, có nỗ lực đổi mới
tiểu thuyết. Một loạt những tác phẩm đã khởi động, tạo nền tảng cho sự vận
hành với tốc độ nhanh chóng cho giai đoạn sau này. Sau năm 1986, tiểu
thuyết có những bứt phá. Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) kêu gọi đổi
mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật đã tạo cơ sở tư tưởng cho xu hướng dân
chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát triển mạnh mẽ. Dân chủ hóa
đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện của đời sống văn
10
học. Trên bình diện ý thức nghệ thuật đã có những biến đổi quan trọng theo
hướng dân chủ hóa của các quan niệm về vai trò, vị trí và chức năng của văn
học, của nhà văn và về hiện thực. Chính điều đó đã tạo một bầu không khí dân
chủ, tạo môi trường thuận lợi cho tiểu thuyết đổi mới và phát triển. Sang thế
kỷ XXI, trước yêu cầu khách quan cũng như sự vận động nội tại, đòi hỏi tiểu
thuyết Việt Nam cần có sự đổi mới. Những điều kiện thuận lợi có được từ
sau năm 1986 khiến đời sống xã hội, văn học tiếp tục thay đổi. Đặc biệt, xu
hướng toàn cầu hóa đã tách dần con người cá nhân khỏi cộng đồng, buộc cá
nhân phải trở thành những chủ thể độc lập. Sự bùng nổ công nghệ thông tin
làm cho con đường của tác phẩm đến với bạn đọc được rút ngắn. Sự phát triển
của thời đại công nghệ thông tin cũng làm thay đổi nhu cầu thị hiếu bạn đọc.
Và khi mạng xã hội phát triển nhanh chóng mọi khoảng cách giữa con người
với con người thực sự chỉ như những vách tường phiên liếp mỏng, con người
có nhu cầu được bộc lộ mình, muốn tìm hiểu khám phá cuộc sống, con người.
Điều đó khiến cả nhà văn lẫn bạn đọc đều có khao khát tìm tòi, khám phá, thể
hiện con người của mình, hiểu biết về cuộc sống xung quanh nhiều hơn;
muốn hiểu sâu hơn, biết rộng hơn về con người, cuộc đời. Khám phá, hiểu
biết về con người, về cuộc sống để hiểu chính mình. Chính điều đó đã trở
thành động lực thúc đẩy văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng đổi mới. Có
thể thấy rằng, sự thay đổi với tốc độ chóng mặt của thế kỷ XXI là thách thức
và cũng là động lực thúc đẩy tiểu thuyết cần có những đổi mới trên mọi
phương diện để đáp ứng nhu cầu của thời đại mới, để có thể có chỗ đứng trên
văn đàn và trong lòng độc giả.
1.1.1. Diện mạo chung
Bakhtin nhận định: “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang
biến chuyển và chưa định hình (…) Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa
hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển
chuyển của nó”. Bakhtin cũng cho rằng: “Đó là thể loại duy nhất nảy sinh
11
và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân
thuộc sâu sắc với thời đại ấy, trong khi đó thì các thể loại lớn khác chỉ
được thời đại mới kế thừa ở dạng đã hoàn tất (…) do đó nó phản ánh sâu
sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy bén hơn bản thân hiện thực. Chỉ kẻ biến đổi mới
hiểu được sự biến đổi”. Là thể loại năng động, cùng với những điều kiện
thuận lợi, tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI thực sự đang bước vào cao
trào đổi mới. Chỉ trong khoảng hai mươi, tiểu thuyết Việt Nam đã có
những vận động và biến đổi từ tư duy nghệ thuật đến hình thức, nội dung
và đạt được những thành tựu đáng kể.
Trước hết, đó là sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật. Theo quan niệm
truyền thống, tiểu thuyết là những tác phẩm tự sự được viết bằng văn xuôi,
phản ánh một cách đầy đủ và trung thực những trải nghiệm của con người
trong đời sống. Tiểu thuyết nhất thiết phải dựa vào cốt truyện, hấp dẫn người
đọc bằng nội dung câu chuyện kể, bằng những diễn biến đời sống của một
nhân vật mang tính cách giống họ hay khác họ. Câu chuyện và cách giải quyết
vấn đề mà tiểu thuyết đặt ra, dù thế nào cũng phải đi đến một kết thúc mà mọi
mâu thuẫn đều được giải quyết và trả người đọc trở về với trật tự cũ của đời
sống. Tính thẩm mỹ ở tiểu thuyết sẽ biểu hiện ở ngôn ngữ, ở sự hài hòa thống
nhất của tổng thể và các phân đoạn, sự liên kết chặt chẽ giữa các phần … làm
cho câu chuyện trôi chảy, mạch lạc, đưa người đọc vào cõi “hiện thực hư cấu”
của câu chuyện. Từ sau đổi mới (1986) và đặc biệt là đến thế kỷ XXI, quan
niệm ấy trong tiểu thuyết dần bị phá vỡ. Quan niệm về tự sự, quan niệm về
hiện thực của thể loại tiểu thuyết có sự thay đổi. Nhận thức rằng, hiện thực là
phong phú, phức tạp và không thể hoặc khó có thể “kể lại” được, tiểu thuyết
không chỉ thực hiện sứ mệnh phản ánh hiện thực xã hội, bởi vậy tiểu thuyết
thế kỷ XXI thay đổi cả về nội dung và cấu trúc thể loại.
Đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết thế kỷ XXI là tiểu thuyết có sự mở rộng
biên độ và đa dạng hóa cái nhìn về thế giới và con người. Tiểu thuyết không
12
còn là tấm gương soi của thời đại, không nhất thiết phải là một hiện thực khả
tín. Hiện thực trong tiểu thuyết chỉ là một khả thể, thậm chí bất khả tín. Ở
góc độ chủ thể sáng tạo, tiểu thuyết không chỉ là tiếng nói của dân tộc, thời
đại mà quan trọng hơn còn là phát ngôn thể hiện tư tưởng quan niệm riêng
của người nghệ sĩ. Nhà văn có quyền đề xuất những chuẩn mực giá trị mới, có
quyền trình bày những kinh nghiệm cá nhân. Tiểu thuyết đương đại tái hiện
lịch sử theo nhãn quan người viết và miêu tả số phận con người. Nhà văn đặc
biệt quan tâm đến con người cô đơn, con người thân phận. Nhiều tiểu thuyết
đã khắc họa lịch sử của một dòng họ, một gia đình, một đời người gắn với
những biến động của lịch sử, thăng trầm của xã hội. Những vấn đề cũ như
chiến tranh, thời bao cấp vẫn tiếp tục được các nhà văn quan tâm, phản ánh
nhưng cái nhìn ít nhiều đã thay đổi. Tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI hình thành
các khuynh hướng: Tiểu thuyết tân lịch sử (sự phản tư lịch sử), tiểu thuyết
hiện sinh (sự phân rã những mảng hiện tồn), tiểu thuyết tính dục (sự phì đại
của dòng văn chương thân xác), tiểu thuyết nữ quyền (phụ nữ không phải là
“cái khác vắng mặt”)…
Một đặc điểm đáng chú ý ở tiểu thuyết thế kỷ XXI đó là sự đa dạng hóa
các loại hình tiểu thuyết. Có thể nhận thấy rõ, phần lớn tiểu thuyết viết theo
thi pháp truyền thống. Bên cạnh đó, bước đầu đã xuất hiện những tiểu thuyết
viết theo thi pháp hiện đại, có yếu tố hậu hiện đại. Ở những tiểu thuyết viết
theo thi pháp truyền thống, nhà văn vẫn viết bằng lối cũ nhưng đã có những
đổi mới trong nội dung tư tưởng. Có thể nhận thấy rõ ở những tiểu thuyết này,
sự mới mẻ trong cái nhìn nhiều chiều về cuộc sống. Các nhà văn đã phản ánh
chân thực cuộc sống, mạnh dạn đề cập đến những góc khuất, góc kín trong
đời sống tâm hồn con người. Ở lối viết này, nhiều nhà văn đã làm mới bằng
sử dụng yếu tố tự truyện vào tác phẩm. Yếu tố tự truyện được đưa vào tác
phẩm giúp nhà văn bộc lộ cách nhìn, cách cảm, cách phản ánh mới mẻ, sâu
sắc về hiện thực đời sống và con người. Từ đó dễ dàng đề cập đến những vấn
13
đề nhạy cảm, những góc khuất, góc kín trong cuộc sống và trong đời sống tâm
hồn con người. Tiêu biểu như: Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, Một
mình một ngựa của Ma Văn Kháng, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Tiền
định của Đoàn Lê. Bên cạnh đó, một số nhà văn nỗ lực cho sự đổi mới thể
loại đã cho ra đời những tiểu thuyết viết theo thi pháp hiện đại, có yếu tố hậu
hiện đại. Với nghệ thuật trần thuật mới mẻ, với những yếu tố ảo hóa, những
vấn đề của cuộc sống và con người được đề cập trong một hình thức mới, lạ
hơn. Tiêu biểu cho lối viết này là tiểu thuyết: Chinantow, T.mất tích (Thuận),
Người sông mê (Châu Diên), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Thiên thần
sám hối (Tạ Duy Anh)…
Sự nhòe mờ ranh giới thể loại, sự xâm nhập của các thể loại khác vào
cấu trúc nội tại của tiểu thuyết cũng là một đặc điểm đáng ghi nhận của tiểu
thuyết thế kỷ XXI. Bản chất của thể loại tiểu thuyết là luôn linh hoạt, uyển
chuyển. Bakhtin đã nhận định: “Nòng cốt của thể loại tiểu thuyết chưa hề rắn
lại và chúng ta chưa thể đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó”.
Những năm gần đây, tiểu thuyết Việt Nam có hiện tượng pha trộn với truyện
ngắn, kịch, tiểu luận triết học, thơ ca, nhật ký, báo chí, huyền thoại. Là một
thể loại có khả năng ôm chứa cả bề rộng lẫn bề sâu, tiểu thuyết vừa có khả
năng mở rộng không gian, thời gian, nhân vật, sự kiện, vừa có khả năng dồn
ép, thu hẹp những bức tranh đời sống thông qua mô hình gia đình riêng với
những cảnh ngộ riêng của vài nhân vật. Những năm đầu thế kỷ XXI, tiểu
thuyết Việt Nam có xu hướng thu gọn cái “thân xác bề thế” của nó, xuất hiện
nhiều tác phẩm có “kích thước nhỏ” phản ánh hiện thực rời rạc, phân mảnh.
Tiểu thuyết như một sự lắp ghép nhiều truyện ngắn. Dung lượng của tiểu
thuyết tương ứng giữa hình thức nghệ thuật với tinh thần của cái hiện thực mà
nó phản ánh.
Bên cạnh đó, hiện tượng liên văn bản xuất hiện một cách thường
xuyên, ở nhiều cấp độ và dạng thức khác nhau tạo kiểu kết cấu truyện lồng
14
truyện. Tiêu biểu như: Đi tìm nhân vật, Thoạt kỳ thủy, Paris 11 tháng 8,
Đức Phật, nàng Savitri và tôi… Hình thức văn bản trong văn bản góp
phần tạo nên những tiếng nói khác nhau, mở rộng trường nhìn, đa dạng hóa
cấu trúc tiểu thuyết.
Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã có những đổi mới tích cực. Có
được điều đó là nhờ những nỗ lực sáng tạo đầy tâm huyết của các nhà văn với
mong muốn đưa tiểu thuyết nói riêng, văn học Việt Nam phát triển trên đà hội
nhập với nền văn học thế giới. Trong khoảng hai mươi năm diện mạo tiểu
thuyết đã có những chuyển biến - đó là tín hiệu khởi sắc cho những hi vọng
về sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam.
1.1.2. Tiểu thuyết tự truyện
1.1.2.1. Khái niệm tự truyện
Thuật ngữ tự truyện có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp (auto: tự, bio: cuộc
sống, graphy: viết). Cho đến nay, có khá nhiều nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu
thuật ngữ tự truyện. Trong công trình nghiên cứu Quy ước tự truyện (1975),
Phillipe Lejeune định nghĩa : “ Tự truyện là một dạng văn xuôi tự sự do một
người có thật ngược dòng thời gian kể lại đời mình, nhấn mạnh tới cuộc sống
cá nhân, đặc biệt là lịch sử hình thành nhân cách”. Tuy nhiên, đến nay, thực
tiễn phát triển của thể loại tự truyện đã đi xa hơn rất nhiều so với định nghĩa
của Phillipe Lejeune.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân chủ biên) các
tác giả cho rằng: “Tự truyện là tác phẩm tự sự thường được viết bằng văn
xuôi trong đó tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [2]. Nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử thì cho rằng: “Trong tác phẩm tự sự, đời tư của nhà
văn chỉ là chất liệu hiện thực được tác giả sử dụng với những mục đích khác
nhau… tự truyện có thể bao quát hầu hết các phương diện của đời sống: đời
tư, thế sự, sử thi… ”[34]
15
Tự truyện đã trở thành là một dạng của thể loại văn học. Tuy xuất hiện
muộn nhưng đến nay tự truyện là sự lựa chọn của nhiều nhà văn và trở thành
đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình.
Trong tác phẩm tự truyện, cốt truyện có mối liên quan chặt chẽ với chi
tiết tiểu sử, cuộc đời của nhà văn. Nhà văn sử dụng chất liệu đời tư để xây
dựng cốt truyện một cách có mục đích. Thực tế trong quá trình sáng tác ở
bất cứ thể loại nào, tác giả dù vô thức hay có ý thức bao giờ cũng sử dụng
những trải nghiệm từ cuộc sống của chính mình đưa vào tác phẩm. Nhưng, ở
tự truyện, yếu tố thực từ cuộc đời tác giả xuất hiện đậm đặc hơn, ít bị che
khuất hơn. Tự truyện kể về những điều xảy ra trong quá khứ, nhà văn ngược
dòng thời gian tìm về với thời thơ ấu, thời tuổi trẻ, thời đã đi qua của chính
mình, vì thế cái nhìn trong tự truyện là cái nhìn hồi cố, giọng văn mang tính
chiêm nghiệm.
So với các thể loại văn học tự viết về chính bản thân tác giả như: hồi ký,
nhật ký, tự truyện có nhiều điểm tương đồng với nhưng vẫn có những nét
khác biệt. Nhật ký ghi chép sự việc xảy ra theo thời gian tuyến tính và nhằm
mục đích giữ lại cho mình, mang tính chất riêng tư. Còn tự truyện và hồi ký
kể về những việc đã xảy ra (ngược chiều thời gian), hướng tới mục đích để
giãi bày, Khác với nhật ký, tự truyện giống với hồi ký ở chỗ cùng kể về
những việc đã xảy ra trong quá khứ. Về đối tượng trung tâm của tác phẩm,
hồi ký không nhất thiết phải kể về cái tôi mặc dù nhân vật “tôi” là người kể
chuyện. Qua lời kể của nhân vật “tôi”, hồi ký sẽ phác họa lại bức tranh thời
đại, xã hội, những mảnh đời, những con người có liên quan đến người kể xảy
ra trong quá khứ. Ở hồi ký, cái “tôi” chỉ đóng vai trò “chất dẫn” của mạch
cảm hứng, của mối quan hệ. Mục đích của hồi ký là cung cấp những tư liệu
của quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện để nói ra. Còn tự truyện, cốt
truyện xoay quanh câu chuyện về cuộc đời, đoạn đời của tác giả - người kể
chuyện - nhân vật “tôi”. Tác giả - người kể chuyện – nhân vật “tôi” tự kể về
16
chính cuộc đời mình: miêu tả quá trình hình thành nhân cách của cá nhân
trong tương quan với hoàn cảnh; tìm hiểu, lí giải cái “tôi”. Tâm điểm của tự
truyện là cái tôi cá nhân của người viết. Hồi ký tập trung đến việc ghi chép
chính xác các sự thật, không hư cấu còn tự truyện quan tâm đến nhiều hơn
đến giá trị nghệ thuật nên cho phép hư cấu.
Trong quá trình hình thành, phát triển, tự truyện có những sự biến đổi
nhất định. Đến nay, căn cứ vào hình thức biểu đạt chủ thể trong tự truyện, có
thể phân loại tự truyện thành hai nhóm: tự truyện thuần túy và tự truyện biến
thể (tự truyện có hiện tượng pha trộn với các hình thức khác như: tiểu thuyết,
hồi ký …).
1.1.2.2. Khái niệm tiểu thuyết tự truyện
Tiểu thuyết tự truyện xuất hiện khá sớm trong văn học phương Tây. Thế
kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, ở Tây Âu đã có những tác phẩm thể hiện rõ
chức năng của các tự truyện trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Các
tác phẩm là lời tự kể về cuộc đời của tác giả một cách trung thực, tự nhiên.
Nhân vật kể chuyện xưng “tôi”, có tham vọng ghi lại lịch sử tâm hồn “con
người bên trong”. Theo quan niệm truyền thống này, trên thế giới chỉ có
những tác phẩm kinh điển như David Copperfil của Ch. Dickens, hay bộ ba
tác phẩm Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi của M.
Gorki được viết theo đúng quy tắc. Sau này, quan niệm về tiểu thuyết tự
truyện có sự thay đổi, từ điển Wikipedia định nghĩa: “tiểu thuyết tự truyện là
dạng tiểu thuyết sử dụng kỹ thuật tự hư cấu (autofiction techniques) hay sự
kết hợp của tự thuật và những yếu tố hư cấu”. Về đặc điểm, tính chất của tiểu
thuyết là hư cấu, tính chất của tự truyện là sự thật. Sự giao thoa thể loại tất
yếu sẽ dẫn đến thể loại mới được hình thành sẽ mang những đặc điểm riêng.
Bởi vậy, tiểu thuyết tự truyện dần có những biến đổi so với khi mới xuất hiện
để phù hợp với chức năng của nó. Tiểu thuyết tự truyện về sau này không
17
nhất thiết là lời kể trung thực về cuộc đời tác giả mà có sự kết hợp giữa sự
thật và hư cấu. Những chi tiết của cuộc đời tác giả trở thành chất liệu sáng tác,
hư cấu nghệ thuật dựa trên nền tiểu sử của tác giả. Sự dung hòa đó, tạo cho
tiểu thuyết tự truyện có sức hấp dẫn đặc biệt. Công chúng đọc tiểu thuyết tự
truyện hẳn không chỉ bị hấp dẫn bởi câu chuyện tác giả viết mà còn bởi sự tò
mò, muốn khám phá những riêng tư của nhà văn qua tác phẩm. Bên cạnh đó,
tiểu thuyết tự truyện sẽ đem lại cho người đọc cảm giác tin tưởng vào câu
chuyện kể, suy nghĩ vấn đề đặt ra trong tác phẩm, về cách giải quyết vấn đề
của tác giả. Cũng từ đó, đọc tiểu thuyết tự truyện người đọc có thể sẽ đối
thoại về những điều được đề cập, cách giải quyết vấn đề trong tác phẩm.
Ở Việt Nam, tiểu thuyết có yếu tố tự truyện xuất hiện khá muộn. Sự
thay đổi của xã hội trong thế kỷ XXI trở thành tạo điều kiện thuận lợi để tiểu
thuyết tự truyện phát triển. Với sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và tư
tưởng cộng đồng, trong sáng tác, nhà văn Việt Nam thường kín đáo, ít lộ diện
cái tôi nên ít khi để lộ đời tư của mình trên trang viết. Chỉ khi cái tôi của nhà
văn được giải phóng, nhận thức về cái tôi trở thành khao khát của các nhà
văn, các tác giả mới mạnh dạn sử dụng chất liệu đời tư để kiến tạo tác phẩm.
Khi đó, tiểu thuyết tự truyện chính là thể loại được các tiểu thuyết gia lựa
chọn. Thế kỷ XXI, với một luồng tư tưởng mới, một không khí dân chủ thổi
bùng đam mê sáng tạo, ý thức cách tân nghệ thuật và tha thiết đóng góp cho
sự đổi mới tiểu thuyết Việt Nam, nhiều nhà văn, từ những cây bút lão làng,
cho đến những nhà văn trẻ mới bước vào nghề, tìm đến tự truyện như một
cách làm mới tiểu thuyết, tìm đến tự truyện như tìm đến một mảnh đất màu
mỡ thỏa sức cho sự sáng tạo. Tiểu thuyết có yếu tố tự truyện bắt đầu nở rộ và
hình thành một trào lưu văn học. Ở thế kỷ XXI, bước đi trên lối đi đã được
khai phá của tiểu thuyết tự truyện thế giới, tiểu thuyết có yếu tố tự truyện Việt
Nam đã nhanh chóng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, làm mới thể
18
loại bằng cái nhìn riêng, chất liệu đặc biệt đời tư của con người Việt Nam qua
bao thăng trầm, biến động của lịch sử ở thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
1.1.2.3. Sự bùng nổ của tiểu thuyết tự truyện đầu thế kỷ XXI
Chỉ trong khoảng hai mươi năm đầu thế kỷ XXI, tiểu thuyết tự truyện
Việt Nam đã bội thu về số lượng. Rất nhiều tác phẩm ra đời và được công
chúng yêu thích quan tâm.
Những nhà văn lão làng như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Mạc Can
cho ra đời những cuốn tiểu thuyết tự truyện với những câu chuyện có bề dày
về thời gian, có chiều sâu về tư tưởng. Đó là những trải nghiệm của cả một
đời người. Vấn đề thế sự, đời tư được đề cập đến qua cái nhìn của những con
người từng trải, va vấp nhiều trong cuộc đời. Đi qua bao biến động, thăng
trầm của lịch sử, xã hội đến thế kỷ XXI - thế kỷ của hội nhập quốc tế, nhà văn
có khoảng cách nhất định để nhìn lại, để chiêm nghiệm, suy nghĩ. Họ lựa
chọn tiểu thuyết tự truyện hay cũng chính là tiểu thuyết tự truyện tự tìm đến
họ. Tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, Thượng đế thì cười
của Nguyễn Khải, Mạc Can với Tấm ván phóng dao đã để lại những ấn
tượng sâu đậm với người đọc.
Những nhà văn trẻ Nguyễn Thế Hoàng Linh với Chuyện của các thiên
tài, Vũ Phương Nghi với Chuyện lan man đầu thế kỷ, Trần Thị Hồng Hạnh
với Bài học đầu tiên, Nguyễn Quỳnh Trang với 1981, Nhiều cách sống;
Đặng Thiều Quang với Chờ tuyết rơi, Bóng giai nhân … dù chưa từng trải,
chưa có nhiều vốn sống, tác phẩm chưa đi quá giới hạn cái tôi hạn hẹp, chưa
quan tâm đến vấn đề lịch sử trọng đại của xã hội nhưng họ đã thể hiện cái tôi
rõ nét khi viết về thế hệ họ và bản thân họ. Những sáng tác của các nhà tiểu
thuyết trẻ ở thể loại tiểu thuyết tự truyện đã góp thêm tiếng nói của thế hệ trẻ
vào tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
19
Đặc biệt, sự xuất hiện tiểu thuyết tự truyện của các nhà văn nữ. Nhà văn
Việt Nam thường ít khi viết về mình, các nữ nhà văn lại càng kín đáo hơn.
Đến thế kỷ XXI, nhiều nhà văn nữ đã vượt qua những rào cản, tham gia sáng
tác ở thể loại này. Có những nhà văn nữ trẻ tuổi như Vũ Phương Nghi, Trần
Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Quỳnh Trang và có cả những nhà văn đã có tuổi như
Dạ Ngân, Đoàn Lê. Khi đến một thời điểm nhất định, khi cái tôi của người
phụ nữ đủ mạnh, họ sẽ đi vào những vùng đất nhiều sóng gió dư luận để được
bộc lộ, được giãi bày, được khám phá thế giới rộng lớn bên ngoài, khám phá
thế giới nội tâm con người. Từ góc nhìn của người phụ nữ, họ sẽ phơi trải, đề
cập đến vấn đề của người phụ nữ; bày tỏ mối quan tâm của mình trước vấn đề
của xã hội, lịch sử, thời đại. Họ đóng góp cho văn học nói chung, tiểu thuyết
tự truyện nói riêng tiếng nói nữ giới, một cái nhìn mới làm cho văn học, tiểu
thuyết tự truyện thêm nhiều màu sắc. Cùng với những sáng tác của những nhà
văn đã lên lão, cùng với những nhà văn trẻ nhiệt huyết, những nữ nhà văn đã
tạo nên một phong trào tiểu thuyết tự truyện thế kỷ XXI.
Không chỉ có đội ngũ sáng tác đông đảo, khoảng gần hai mươi năm trở
lại đây, tiểu thuyết tự truyện tăng nhanh về số lượng. Nhiều tác phẩm gây sự
chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu phê bình và bạn đọc. Nhiều tác phẩm
liên tục được tái bản, được dịch và xuất bản ở nước ngoài. Có thể thấy rằng,
tiểu thuyết tự truyện đã trở thành một mảnh đất giàu tiềm năng dành cho các
nhà văn thỏa sức sáng tạo. Đồng thời tiểu thuyết tự truyện cũng có sức hấp
dẫn đặc biệt với tâm lí, thị hiếu của bạn đọc thời nay.
1.2. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân, Đoàn Lê
1.2.1. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân
Dạ Ngân (còn có bút danh khác là Lê Long Mỹ, Dạ Hương) tên thật là
Lê Hồng Nga. Năm 14 tuổi, khi miền Nam đang đấu tranh chống Mỹ thống
nhất đất nước, Dạ Ngân vào cứ viết tin, làm báo. Bà yêu thích văn chương từ
20
đó khi còn rất trẻ. Vì nhiều nguyên do, năm 1978 bà thấy mình cần phải viết
và truyện đầu tay được in trên tạp chí Văn nghệ tỉnh, in vào số Tết. Sau khi có
truyện in báo, Dạ Ngân từ bộ phận làm tin thuộc Sở Văn hóa thông tin tỉnh
Hậu Giang chuyển sang Hội văn nghệ tỉnh. Từ đây, Dạ Ngân bước chân theo
nghiệp văn chương. Ba năm sau, truyện ngắn của bà lần đầu được in trên báo
Văn nghệ của Hội nhà văn. Tháng 4 năm 1982, bà được mời đi dự Trại sáng
tác của Hội ở Vũng Tàu. Năm 1985, truyện ngắn Con chó và vụ ly hôn ra đời
gây sự chú ý đặc biệt của dư luận. Năm 1987, Dạ Ngân được kết nạp Hội nhà
văn Việt Nam.
Niềm đam mê văn chương, sự thôi thúc nội tâm đã đưa Dạ Ngân đến với
văn chương. 40 năm cầm bút, Dạ Ngân miệt mài viết, bền bỉ sáng tạo. Sáng
tác ở nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện dài, tản văn, kì thư, tiểu thuyết
nhưng có thể thấy, bà thành công nhất ở hai thể loại: truyện ngắn và tiểu
thuyết. Đến nay, nhà văn cho ra đời hơn mười đầu sách, hàng trăm tản văn và
hàng nghìn kì thư.
Truyện ngắn:
- Quãng đời ấm áp - tập truyện - NXB Phụ Nữ 1986
- Con chó và vụ ly hôn - tập truyện - NXB Hội Nhà văn 1990
- Cõi nhà - tập truyện - NXB Thanh Niên 1993
- Dạ Ngân truyện ngắn chọn lọc - NXB Văn Học 1995
- Dạ Ngân & Nguyễn Quang Thân - tập truyện - NXB Phụ Nữ 1997
- Nhìn từ phía khác - tập truyện - NXB Hà Nội 2002
- Nước nguồn xuôi mãi - tập truyện - NXB Phụ nữ 2008
- Người yêu dấu và những truyện khác - tập truyện, tiểu thuyết - 2017
21
Tiểu thuyết:
- Ngày của một đời - tiểu thuyết - NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh 1989
- Mẹ Mèo - tiểu thuyết (cho thiếu nhi) - NXB Kim Đồng 1992
- Miệt vườn xa lắm - truyện dài - NXB Kim Đồng 1992. (In lần thứ ba
tính đến tháng 6/2006). Giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam 2004
- Gia đình bé mọn - tiểu thuyết – NXB Phụ Nữ tháng 7/2005. (In lần thứ
4 tính đến tháng 3/2008). Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2005
Kịch bản phim:
- Chuyến đi của mẹ - kịch bản phim nhựa sản xuất 1988.
- Chân trời nơi ấy - kịch bản phim nhựa 2 tập sản xuất 1995.
Tạp văn, tản văn, ký:
- Tản mạn hồn quê - Tạp văn - NXB Phụ nữ 2007
- Mùa đốt đồng - tập tản văn – 2000
- Lục bình mải miết - tập ký – 2002
Yêu văn chương, đam mê sáng tác, người phụ nữ miệt vườn Nam bộ đến
với văn chương để được sống, được chia sẻ, để được cứu rỗi. Dạ Ngân bày tỏ:
“Văn chương, đó không chỉ là nghề như mọi nghề mà còn là con đường khổ
ải cho những người đàn bà cầm bút. Dù vậy, vẫn hơn, vì con đường ấy cho
người ta sự cô độc tối cao, niềm tin dai dẳng và có thể khóc cười thoải mái
một mình.
Văn chương hoàn toàn xứng đáng được coi như đạo, vì sứ mệnh giải bày
và cứu rỗi của nó. Tôi mộ Đốt, đó là tác giả người ta có thể đọc ở mọi thời kỳ,
mọi giai đoạn của cuộc đời. Có lẽ vì vậy mà tôi không dung hoà được với
những gì nhè nhẹ, thoang thoáng, đèm đẹp. Tận cùng, đó là phương châm
sống, phương châm viết của tôi và tôi không lùi bước khi phải trả giá. Nhưng
22
tôi có sự ôn hoà của người miệt vườn và thích được ứng xử ôn hoà, để được
yên tĩnh và thanh thản mà tận cùng với văn chương.” Những trang viết của
Dạ Ngân là những câu chuyện, là tiếng nói của người phụ nữ đi qua nhiều
thăng trầm, biến động của lịch sử, xã hội, nếm trải nhiều cay đắng, nhọc nhằn
của cuộc sống.
Dạ Ngân đạt nhiều giải thưởng về văn học: Giải nhì truyện ngắn tạp chí
Văn nghệ Quân đội năm 1987, Giải nhì truyện ngắn báo Tuổi Trẻ năm 1989 ,
Giải ba truyện ngắn báo Sài Gòn Giải Phóng năm 1990, Giải khuyến khích
NXB Kim Đồng năm 2002, Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội năm 2005, Giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (2004, 2006)
1.2.2. Hành trình sáng tác của Đoàn Lê
Đoàn Lê (1943 – 2017), còn có bút danh Hạ Thảo, tên thật là Đoàn Thị
Lê, sinh tại Hải Phòng. Đoàn Lê đa tài, sáng tác ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật:
điện ảnh, hội họa, văn chương. Ở lĩnh vực nào bà cũng có những đóng góp, để
lại dấu ấn và đạt được những thành công.
Về lĩnh vực văn chương, Đoàn Lê sớm bộc lộ tài năng của mình ngay từ
khi còn trẻ. Năm 16 tuổi Đoàn Lê sáng tác và có bài đăng báo. Thời gian theo
học ngành điện ảnh, Đoàn Lê vẫn tiếp tục viết và có tác phẩm đăng báo, in
sách. Những tác phẩm của bà khi đó được bạn bè, giới trẻ yêu thích, chuyền
tay nhau. Năm 18 tuổi, bà nổi tiếng với bài thơ Bói hoa đăng trên báo Văn
nghệ. Tuy nhiên, thơ không phải là sở trường của bà. Với Đoàn Lê, “Thơ đến
bất ngờ. Như hoa ấy, khi nào nở thì mình hái”. Sở trường thực sự của Đoàn
Lê là văn xuôi. Sau những biến cố, Đoàn Lê từ một diễn viên chuyển sang bộ
phận thiết kế của xưởng phim, rồi rẽ lối sang viết kịch bản phim và làm đạo
diễn. Trải nghiệm của một cuộc đời đa đoan đã trở thành vốn tư liệu quý giá
để nhà văn sáng tác.
23
Năm 1963, các truyện ngắn đầu tiên của Đoàn Lê: Đôi mắt hoa nhài,
Trương Viên, Cây xoan non đã lần lượt được in trên hai tờ báo danh tiếng là
Báo Văn nghệ và Báo Đại đoàn kết. Bước sang những năm bảy mươi, tám mươi
của thế kỉ XX, Đoàn Lê lại thử sức viết kịch bản phim truyện và thành công với
những phim: Bình minh xôn xao, Cha và con, Làng Vũ Đại ngày ấy.
Sau gần hai mươi năm có chùm truyện ngắn xuất hiện trên văn đàn, năm
1988 Đoàn Lê công bố thiên tiểu thuyết đầu tay Cuốn gia phả để lại. Cuốn
tiểu thuyết được trao giải A giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, khẳng
định “tay nghề viết tiểu thuyết chững chạc”. Sự ra đời cuốn tiểu thuyết cũng
gắn liền với dấu mốc quan trọng trong cuộc đời viết văn của Đoàn Lê - thời
điểm Đoàn Lê được kết nạp vào Hội nhà văn với tư cách một nhà văn. Sau
thành công này, ở tuổi ngoài 50, khi đã tích lũy vốn sống đủ chắt lọc thành
chất liệu quý giá, khi có điều kiện về thời gian, Đoàn Lê miệt mài sáng tác với
bút lực dồi dào. Một loạt truyện ngắn, tiểu thuyết của Đoàn Lê xuất hiện tạo
sự chú ý của dư luận, được bạn đọc quan tâm, yêu thích. Chùm truyện ngắn
gắn với tên, với câu chuyện về “xóm Chùa” – nơi Đoàn Lê sinh ra và lớn lên,
như: Trinh tiết xóm Chùa, Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa, Giường
đôi xóm Chùa … đề cập đến hiện thực đời sống những năm đổi mới, đặt ra
những vấn đề sâu sắc về con người, cuộc sống khiến người đọc ngỡ ngàng
nhận ra những biến động, đổi thay xung quanh mình, nhận thức về cuộc sống,
ý thức về cách sống. Từ những câu chuyện của mình, những câu chuyện của
người, những điều đã trải qua, những việc đã chứng kiến, Đoàn Lê viết nên
những truyện ngắn, đủ để người đọc có thể nhận ra vấn đề đang nảy sinh ở
cuộc sống quanh mình, hiểu hơn về mình và mọi người, từ đó nhận ra những
vấn đề lớn lao về con người, về cuộc đời. Về tiểu thuyết, sau Cuốn gia phả để
lại, nhà văn của đất cảng tiếp tục cho ra mắt liên tiếp những tác phẩm: Người
đẹp và đức vua (1991), Thành hoàng làng xổ số (1992), Lão già tâm thần
(1993), Tiền định (2010). Tiểu thuyết Tiền định, ngay sau khi ra mắt bạn
24
đọc đã nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của độc giả và lọt vào vòng chung
khảo của giải thưởng Bách Việt. Những sáng tác ở giai đoạn này khẳng định
khả năng viết văn xuôi và vị trí của Đoàn Lê trên văn đàn văn học đương đại.
Tác phẩm giúp người đọc nhận ra một tâm hồn rất trẻ trung, một trái tim nồng
ấm trong cây bút có tuổi. Quả thực, đọc những sáng tác của bà ở giai đoạn
này, nhìn vào số lượng tác phẩm và đầu sách lần lượt ra đời ít ai nghĩ đó là
sáng tác của một người phụ nữ đã ngoài 50 tuổi, hay đã ngoài 70 tuổi. Đặc
biệt là những trang văn viết về tình yêu, những câu chữ tràn ngập cảm xúc
yêu đương dễ khiến chúng ta lầm tưởng đang đọc văn của những nhà văn trẻ
tuổi. Sự già dặn của cây bút bộc lộ ở chiều sâu tư tưởng, ở cách tổ chức sắp
xếp câu chuyện, ở cách nêu vấn đề và giải quyết vấn đề. Sự hòa quyện giữa
sự trẻ trung và già dặn làm nên màu vẻ riêng, những giá trị của tác phẩm.
Đoàn Lê thành công nhất ở thể loại truyện và tiểu thuyết. Một điều có
thể dễ dàng nhận ra trong sáng tác của người đàn bà cầm bút đó là tác phẩm
mang đậm dấu ấn cá nhân. Tác phẩm của bà, từ truyện ngắn cho tới tiểu
thuyết, đều có sử dụng chất liệu đời tư với các mức độ đậm nhạt khác nhau.
Tác phẩm chính của Đoàn Lê:
Về thơ:
- Bói hoa
Truyện ngắn:
- Đôi mắt hoa nhài (1963)
- Trương Viên (1963)
- Cây xoan non (1963)
- Thành hoàng làng xổ số (tập truyện ngắn 1992)
- Trinh tiết xóm Chùa (Giải thưởng Báo Văn nghệ)
- Nghĩa địa xóm Chùa
25
- Người đẹp xóm Chùa
- Giường đôi xóm Chùa
- Người khách đêm giao thừa
- Chờ nhật thực
- Chờ nguyệt thực
- Sex
- Quai xăm
- Làm đẹp
- Gối mộng
- Mẹ và con và thánh thần
- Kiệm cười (2011, báo Người Đại biểu nhân dân)
- Gối mộng (2011, báo Văn nghệ Công an)
Về tiểu thuyết:
- Cuốn gia phả để lại (1990, được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng)
- Người đẹp và đức vua (1991)
- Thành hoàng làng xổ số (1992)
- Lão già tâm thần (1993)
- Tiền định (2010)
- Oan hồn ngõ đá dốc
Kịch bản phim truyện:
- Bình minh xôn xao
- Cha và con
- Làng Vũ Đại ngày ấy
26
- Hồ Xuân Hương
(Các phim đạo diễn
- Chim bìm bịp (đạo diễn, huy chương bạc LHP toàn quốc)...
- Con Vá (biên kịch kiêm đạo diễn - Bông sen bạc LHP toàn quốc)
Đoàn Lê đã nhận được nhiều giải thưởng văn học, như giải thưởng của
Hội Nhà văn Việt Nam cho tiểu thuyết Cuốn gia phả để lại, giải thưởng
báo Văn Nghệ và Hội Liên hiệp văn học toàn quốc cho truyện Trinh tiết
xóm Chùa, giải nhất văn xuôi của Tạp chí Tác phẩm mới với tác phẩm Hạt
vừng, giải thưởng văn xuôi của Tạp chí Sông Hương (Huế) với Đêm ngâu
vào. Nhiều tác phẩm của bà được dịch sang tiếng nước ngoài và in tại Mỹ,
Thụy Điển.
Tiểu kết chương 1
Tiểu thuyết tự truyện Việt Nam đầu thế kỷ XXI đang phát triển nở rộ,
đưa tiểu thuyết Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam dần hội nhập với nền
văn học hiện đại thế giới. Với những nỗ lực cách tân của các tiểu thuyết gia
Việt Nam, tiểu thuyết tự truyện Việt Nam đã vượt qua những thách thức của
thời kỳ mới tạo sự quan tâm tâm và hấp dẫn bạn đọc. Nhiều tiểu thuyết gây
được tiếng vang, được dịch và in ở nước ngoài. Có thể thấy rằng, đây là
những thành công và đóng góp to lớn của các nhà văn cho sự phát triển của
tiểu thuyết, của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Đặc biệt là sự đóng góp
của các nữ nhà văn như Đoàn Lê, Dạ Ngân. Với những tiểu thuyết mang tính
tự truyện, Đoàn Lê, Dạ Ngân đã đem đến cho văn học, cho tiểu thuyết tự
truyện một tiếng nói, một cái nhìn của nữ giới, góp phần làm cho tiểu thuyết
tự truyện thêm phong phú, đa dạng, phản ánh cuộc sống từ nhiều chiều, nhiều
góc nhìn. Chính sự mạnh dạn, sự ý thức cái tôi nữ giới trỗi dậy khiến nhà văn
Đoàn Lê, Dạ Ngân đã lựa chọn thể loại tiểu thuyết tự truyện. Và chính những
27
tiểu thuyết tự truyện của hai nữ nhà văn, tiêu biểu là tiểu thuyết Gia đình bé
mọn và Tiền định, giúp chúng ta có cái nhìn thấu đáo hơn về số phận con
người, đặc biệt là về số phận người phụ nữ, từ đó nhận thức sâu sắc hơn về
thời đại, xã hội, về cuộc đời và con người. Với sự chiêm nghiệm sâu sắc của
những người phụ nữ sinh ra, lớn lên trong chiến tranh, đi qua thời bao cấp,
thời đổi mới, với sự thành thực của những người phụ nữ mạnh mẽ, cá tính, hai
nhà văn không chỉ giúp người đọc cảm thấu những góc sâu kín trong lòng
người phụ nữ mà còn nhận thức giá trị thực sự của cuộc sống, hạnh phúc
trong tình yêu, hôn nhân, gia đình.
28
Chương 2: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH
BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Cuộc đời thực của nhà văn
Đoàn Lê và Dạ Ngân là những người phụ nữ sinh ra trong chiến tranh.
Hai nhà văn đều trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, đi qua thời bao
cấp trì trệ, đều chứng kiến những biến động của thời kinh tế thị trường. Trong
cuộc sống riêng tư, họ đều phải chịu đựng những khó khăn, những vất vả, thử
thách và cay đắng của số phận. Tuy nhiên, mỗi nhà văn có một số phận cuộc
đời riêng.
2.1.1. Cuộc đời thực của Dạ Ngân
Dạ Ngân sinh năm tên thật là Lê Hồng Nga, sinh ngày 06 tháng 2 năm
1952, quê ở miệt vườn cổ Cao Lãnh, sông Tiền.
Xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước, cha tham gia
kháng chiến và hi sinh trong nhà lao. Cô của Dạ Ngân quyết định không đi
lập gia đình, ở vậy chăm nuôi đàn cháu cho anh trai tham gia kháng chiến.
Khi cha Dạ Ngân mất, người cô đã gánh vác trách nhiệm gia đình thay anh.
Người cô ấy có ảnh hưởng rất lớn đến tính cách con người Dạ Ngân.
Tiếp nối truyền thống gia đình, tất cả chị em Dạ Ngân sớm tham gia
kháng chiến. Dạ Ngân vào cứ tham gia làm báo. Tình yêu văn chương bộc lộ
ngay từ thời còn trong cứ. Cô chú cùng cơ quan sớm nhận ra và có người tin
rằng Dạ Ngân sẽ đi theo nghiệp văn chương. Sau này, Dạ Ngân công tác ở bộ
phận làm tin thuộc Sở văn hoá thông tin tỉnh Hậu Giang. Khi có truyện ngắn
đăng báo, bà được chuyển sang Hội văn nghệ tỉnh. Năm 1982, Dạ Ngân có
truyện ngắn đăng báo Văn nghệ và được mời tham gia trại sáng tác tại Vũng
Tàu. Năm 1987, bà được kết nạp vào Hội nhà văn, được tu nghiệp ở trường
viết văn Nguyễn Du bốn năm.
29
Trong tình yêu hôn nhân, Dạ Ngân gặp nhiều trắc trở. Cuộc hôn nhân
đầu của Dạ Ngân, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Năm 30 tuổi, Dạ
Ngân gặp tình yêu đích thực của đời mình – nhà văn Nguyễn Quang Thân.
Trải qua bao khó khăn, sau 11 năm yêu xa, cuối cùng họ đã đến được với
nhau. Cuộc hôn nhân thứ hai đã đưa bà xa hai người con, rời Hậu Giang đến
Hà Nội. Hai vợ chồng nhà văn, hai trái tim đồng điệu đã cùng nhau đi qua bao
thăng trầm của cuộc sống.
Sau khi nghỉ hưu, Dạ Ngân cùng chồng chuyển vào sống ở Sài Gòn.
Tháng 3 năm 2017, người chồng yêu dấu của bà qua đời. Hiện nay, bà vẫn
tiếp tục hành trình cuộc đời của mình, tiếp tục sáng tác văn chương.
2.1.2. Cuộc đời thực của Đoàn Lê
Đoàn Lê (1943 - 2017), tên thật là Đoàn Thị Lê, quê tỉnh Nam Định. Bà
được sinh ra và lớn lên chủ yếu ở đất cảng Hải Phòng. Xuất thân trong một
gia đình nhà nho có nghề thuốc Đông y, cha là thầy thuốc, mẹ là người phụ
nữ đảm đang tháo vát. Gia đình Đoàn Lê rất đông chị em gái.
Những năm tháng thơ ấu, Đoàn Lê sống trong cảnh chiến tranh, loạn
lạc. Có những lúc cả gia đình phải sơ tán khỏi Hải Phòng, chạy giặc về quê
Nam Định.
Năm 16 tuổi, Đoàn Lê chọn lớp diễn viên điện ảnh là con đường đi cho
mình mặc sự ngăn cấm của gia đình. Đoàn Lê trốn nhà theo học lớp diễn viên
điện ảnh khóa đầu tiên (1959 - 1962), trở thành lớp diễn viên đầu tiên của nền
điện ảnh Việt Nam. Tốt nghiệp trường điện ảnh, Đoàn Lê được điều về hãng
Phim truyện Việt Nam. Bà chủ yếu tham gia những vai phụ. Mãi năm 1976,
Đoàn Lê có một vai chính duy nhất - vai cô giáo - trong phim Quyển vở sang
trang . Tuy nhiên, sự nghiệp diễn viên của bà ngắn ngủi, từ một diễn viên,
Đoàn Lê phải chuyển sang bộ phận thiết kế của xưởng phim, tham gia công
việc nặng nhọc phục vụ các cảnh quay. Bà dành thời gian đi học hội họa và
30
được hai người thầy là danh họa Dương Bích Liên, danh họa Bùi Xuân Phái
truyền nghề. Giàu nghị lực nhưng cũng có lúc chán nản, Đoàn Lê muốn bỏ
nghề điện ảnh, bà thi đỗ trường đại học Mỹ thuật nhưng xưởng phim không
cho đi; bà xin sang làm phóng viên báo Lao động nhưng đi được một tuần
hãng phim lại gọi về. Sau này, Đoàn Lê chuyển sang viết kịch bản và làm cả
đạo diễn. Đoàn Lê gắn bó với nghề điện ảnh hơn bốn mươi năm. Khi nghỉ
hưu bà vẫn tham gia công việc này.
Trong thời gian công tác, Đoàn Lê vẫn sáng tác văn chương, hội họa.
Từng bước bà khẳng định khả năng văn chương trên văn đàn. Từ những bài
thơ đến truyện ngắn, rồi tiểu thuyết, Đoàn Lê dần chinh phục và đến với công
chúng, bạn đọc với tư cách là nữ nhà văn sắc sảo, tài năng. Ở lĩnh vực hội
họa, Đoàn Lê cũng đã đóng góp nhiều tác phẩm có giá trị. Tranh của bà được
trưng bày ở các phòng tranh tại Hà Nội và Hải Phòng.
Đoàn Lê là người phụ nữ đa tài nhưng cũng đa đoan. Bà kết hôn hai lần
nhưng cả hai cuộc hôn nhân đều đổ vỡ. Bà sinh được hai người con gái với
người chồng đầu. Tưởng như bà tìm được hạnh phúc với người chồng thứ hai,
nhưng cuộc hôn nhân với người chồng thứ hai cũng không tròn vẹn. Thủ tục
li hôn hoàn tất khi bà đã ở tuổi mãn bóng xế chiều. Nỗi đau chồng nỗi đau,
người con trai duy nhất với người chồng thứ hai mất sớm. Sau nhiều đắng cay
của cuộc đời, bà về nghỉ hưu tại Hải Phòng. Tại một xóm núi ở ven thành
phố, bà xây dựng một ngôi nhà rợp bóng cây và vẫn tiếp tục viết văn, vẽ
tranh, vẫn tham gia công việc điện ảnh. Dù đã có tuổi, bà vẫn đam mê với
công việc của mình. Cơ thể người phụ nữ có tuổi bệnh tật không ít lần biểu
tình, nhưng cứ vừa lại sức bà lại bắt tay vào công việc.
Có thể nói rằng Đoàn Lê là một người phụ nữ đa tài nhưng cuộc đời lắm
nỗi truân chuyên.
31
2.2. Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư
2.2.1. Nguyên mẫu - Nhân vật
Nhân vật văn học có vai trò quan trọng trong tiểu thuyết. Không có nhân
vật không có tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết tự truyện, nhân vật biểu hiện rõ
yếu tố tự truyện. Như chúng ta đã biết: “Nhân vật văn học là hình tượng nghệ
thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con
người trong nghệ thuật ngôn từ. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật,
nó mang tính ước lệ không thể đồng nhất với con người có thật, ngay khi tác
giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật” [2].
Trong tiểu thuyết tự truyện, nhà văn xây dựng nhân vật dù dựa trên chất liệu
đời tư thì vẫn có sự hư cấu. Chính vì vậy, nguyên mẫu đến nhân vật vừa có sự
song trùng, vừa có độ lệch. Các nhà văn sử dụng chất liệu đời tư để xây dựng
nhân vật như một phương thức nghệ thuật để kí thác, gửi gắm những tâm sự,
để tạo niềm tin với người đọc và để chiêm nghiệm, để nhìn lại chính mình để
tiếp tục khám phá chính mình.
Tiểu thuyết Gia đình bé mọn và Tiền định là hai tiểu thuyết mang đậm
yếu tố tự truyện. Nhìn từ cuộc đời thực của nhà văn soi chiếu vào tác phẩm,
chúng ta dễ dàng nhận thấy yếu tố tự truyện thể hiện rõ qua hệ thống nhân
vật: từ nhân vật chính Mỹ Tiệp trong Gia đình bé mọn, Chín trong Tiền định
cho đến các nhân vật phụ như những nhân vật người thân trong gia đình, nhân
vật người tình, nhân vật chồng, nhân vật đồng nghiệp… Với khả năng phản
ánh phạm vi không gian rộng lớn và thời gian nghệ thuật dài của tiểu thuyết
(thời gian dài bằng cả một đời người, từ thời chiến tranh qua thời bao cấp đến
thời kinh tế thị trường; không gian ở nhiều vùng miền khác nhau), Gia đình
bé mọn và Tiền định đã xây dựng hệ thống nhân vật dày dặn. Nhân vật thuộc
các kiểu người, tầng lớp, lứa tuổi, nghề nghiệp khác nhau. Có nhân vật của
thời chiến tranh, những cán bộ công chức thời bao cấp, người dân ở các thời
32
kì xã hội, từ nông dân đến trí thức ... Nhân vật trong hai tiểu thuyết này chủ
yếu là nhân vật nữ. Đó là những bé gái, những cô gái mới lớn, những người
phụ nữ góa chồng, những người mẹ già… Trong đó nhân vật chính của hai
tiểu thuyết đều là nhân vật nữ: Mỹ Tiệp trong Gia đình bé mọn, Chín trong
Tiền định. Có thể nhận thấy rằng, những nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết
Gia đình bé mọn và Tiền định đều mang hình bóng của tác giả hoặc hình
bóng những con người gần gũi, gắn bó, có liên quan đến tác giả, cuộc sống
của tác giả, đặc biệt là các nhân vật nữ như: nhân vật chính Mỹ Tiệp và Chín.
Tuy nhiên, từ nguyên mẫu đến nhân vật ít nhiều có sự hư cấu. Sự hư cấu làm
cho nhân vật hiện lên, không còn cụ thể là một con người của đời thực mà
tiêu biểu đại diện cho một kiểu người, số phận con người trong cuộc đời. Với
chất liệu đời tư, với sự trải nghiệm, nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê khiến nhân
vật tiểu thuyết vừa có sức khái quát, vừa chân thực, gần gũi với đời thực.
Trước hết đó là nhân vật chính trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn và
Tiền định. Giữa nhân vật chính trong tác phẩm và nhà văn có những điểm
song trùng. Ở nhân vật Mỹ Tiệp trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn, từ hoàn
cảnh xuất thân, cho tới tính cách, đam mê, nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình
đều thấy bóng dáng cuộc đời của nhà văn Dạ Ngân. Một Mỹ Tiệp được sinh
ra trong gia đình có truyền thống cách mạng, cha hi sinh trong nhà lao, các chị
em gái trong gia đình đều tham gia kháng chiến. Người thay cha Mỹ Tiệp
gánh vác gia đình, nuôi dạy chị em Mỹ Tiệp là cô Tư Ràng em gái cha Mỹ
Tiệp. Mỹ Tiệp bộc lộ tình yêu văn chương từ khi còn ở trong Cứ, năm 16
tuổi. Trở thành nhà báo, Mỹ Tiệp công tác ở bộ phận thông tin của Sở Văn
hóa thông tin. Sau đó, với truyện ngắn đăng báo, con đường để trở thành nhà
văn chuyên nghiệp được mở ra. Mỹ Tiệp đã chuyển từ Sở Văn hóa thông tin
sang Hội văn nghệ của tỉnh. Rồi với tác phẩm được đăng báo trên tờ báo lớn
Mỹ Tiệp được công chúng biết đến, dư luận quan tâm nhưng là sự quan tâm
theo chiều hướng phê phán nhiều hơn. Cũng như Dạ Ngân, cuộc hôn nhân của
33
Mỹ Tiệp với người chồng đầu tiên do chiến tranh bom đạn tác thành đã không
tìm được tiếng nói chung. Phải rất khó khăn, vượt qua biết bao rào cản của dư
luận, gia đình, với khao khát có tình yêu đích thực, sự đấu tranh quyết liệt
cuối cùng Mỹ Tiệp mới giaỉ thoát để đi tìm hạnh phúc đích thực cho mình.
Nếu ngoài đời tác giả của Gia đình bé mọn gặp gỡ nhà văn Nguyễn Quang
Thân và hạnh phúc với tình yêu hôn nhân thứ hai của mình thì trong tiểu
thuyết Gia đình bé mọn, Mỹ Tiệp gặp được Đính, tìm thấy sự đồng điệu
trong tâm hồn trong chí hướng với Đính để neo đậu cuộc đời mình. Tiểu
thuyết Gia đình bé mọn chính là “bản dập cuộc đời của nhà văn Dạ Ngân”.
Tuy nhiên, câu chuyện về Mỹ Tiệp không hoàn toàn trùng khít với cuộc
đời nhà văn Dạ Ngân. Hình ảnh nhân vật Mỹ Tiệp trong tiểu thuyết không
phải hoàn toàn là hình ảnh Dạ Ngân ngoài đời thực. Từ nguyên mẫu đến nhân
vật, nhà văn đã hư cấu, tiểu thuyết hóa dựng lên nhân vật Mỹ Tiệp. Sự hư cấu,
những chi tiết thêm thắt, thay đổi so với nguyên mẫu đã khiến nhân vật Mỹ
Tiệp không còn là hình ảnh cụ thể về Dạ Ngân. Hình ảnh Mỹ Tiệp trong tiểu
thuyết được khắc họa đầy đặn từ ngoại hình, tính cách cho tới nội tâm, số
phận. Về ngoại hình, chỉ bằng vài nét phác họa, Dạ Ngân dựng lên chân dung
Mỹ Tiệp, người phụ nữ miệt vườn tuy nhỏ nhắn, xinh xắn nhưng rất mạnh
mẽ. Không miêu tả chi tiết, tỉ mỉ, ngoại hình nhân vật chính, chỉ bằng một vài
chi tiết trong những tình huống nhà văn giúp người đọc hình dung về con
người Mỹ Tiệp, về thân phận người phụ nữ. Trong mối tình với nhà báo con
công, trong cảm nhận của Đính và trong suy nghĩ của Mỹ Tiệp, hình ảnh trở
đi trở lại là hình ảnh người phụ nữ nặng “ba mươi tám kg”. Người phụ nữ ấy
dù hiện lên trong chuyến đi từ thị trấn Điệp Vàng trở về nhà, hay là khi gặp
cảnh nhà báo con công với nữ nhà báo phốp pháp nhiều da thịt, hay là khi đối
mặt với cả một gia đình thân yêu toàn phụ nữ góa chồng của mình để bảo vệ
khát vọng của cá nhân đều với vóc dáng ấy tạo sự ám ảnh. Liệu người phụ nữ
nhỏ bé ấy có đủ sức chịu đựng sóng gió, bão táp của cuộc sống trên con
34
đường đi tìm hạnh phúc; có đủ sức để vượt qua áp lực của gia đình, dòng họ,
dư luận để bảo vệ quan điểm, khao khát hạnh phúc.
Nhân vật Mỹ Tiệp trở thành hình ảnh mang sức khái quát, là cuộc đời, là
số phận của biết bao người phụ nữ sinh ra trong chiến tranh, đại diện cho
những người phụ nữ cá tính giàu nghị lực, mạnh mẽ vật lộn với cuộc sống,
đấu tranh với số phận, với dư luận xã hội, với những định kiến trên đời để đi
tìm hạnh phúc cho chính mình. Hành động, lời nói của nhân vật Mỹ Tiệp
được tác giả đặc biệt chú ý miêu tả nhằm khắc họa tính cách, con người. Nhà
văn đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của người phụ nữ miệt vườn
nhỏ bé nhưng từng hành động, từng lời nói đều bộc lộ sự quả quyết, mạnh mẽ
khi đứng trước những lựa chọn, quyết định quan trọng của cuộc đời. Mỹ Tiệp
không giống với đa số những người phụ nữ là người thân, người gần gũi
quanh mình, Mỹ Tiệp không chấp nhận, cam chịu số phận. Khi đã dứt khoát
với lựa chọn của mình, quyết định ly hôn, Mỹ Tiệp đối mặt với chồng, để bắt
đầu câu chuyện nghiêm trọng “Tiệp đứng dậy dứt khoát vặn nhỏ âm thanh
máy thu hình”[23,tr.81]. Khác với thường ngày khi nghe Tuyên gặng hỏi với
“kiểu lên giọng rề rề”, Mỹ Tiệp không xù lên đốp chát lại giành lại cán cân
công quyền, Tiệp đối thoại bình tĩnh: “Anh Tuyên này, tôi biết chuyện viết
lách của tôi, tính khí, sở thích của tôi, cả những mối quan hệ của tôi hay làm
anh lo ngại bực mình. Tôi với anh bị chiến tranh đưa đẩy, tôi thấy không nên
kéo dài cuộc hôn nhân không có tình yêu này! Mà đã khi nào anh nghĩ tôi đã
âm thầm có người khác không?” [23, tr.82]. Tiệp dám nói lên những sự thật,
những sự thật mà nàng biết rằng mình sẽ phải chịu đựng những sát thương.
Cuộc đối thoại về việc hệ trọng diễn ra trước mặt các con, trong cơn thịnh nộ
của Tuyên, Tiệp vừa dứt khoát vừa bình tĩnh. Trong cuộc họp của Ban thường
vụ về việc đơn thư tố cáo của Cẩm – vợ Đính, họp về việc một nhà văn yêu
một nhà văn, trước mặt những vị chức sắc, những ông những bà đằng đằng
sát khí, Tiệp dám nói, dám đứng lên để bảo vệ mình, Tiệp khiến các vị còn
35
lại (trừ Hai Khâm) bất bình rồi há hốc. Để cho con cái có cái nhà để ở, Tiệp
chọn giải pháp đi cầu cạnh chủ tịch tỉnh. Như một con cóc lì lợm, Tiệp kiên
trì, quyết liệt chờ gặp chủ tịch tỉnh tại nhà riêng tới ba buổi tối để đạt mục
đích của mình: xin một căn nhà ổn định cuộc sống cho các con. Trước
những việc quan trọng trong cuộc đời, Mỹ Tiệp hành động cương quyết, dứt
khoát và mạnh mẽ. Trước những tình huống căng thẳng, Mỹ Tiệp bình tĩnh,
tỉnh táo và quyết liệt. Dù Dạ Ngân không miêu tả nhiều nhưng từng chi tiết
làm hiện rõ tính cách, con người Mỹ Tiệp - cá tính, mạnh mẽ, quyết liệt
trong cuộc sống.
Về phương diện nội tâm của nhân vật Mỹ Tiệp, nhà văn Dạ Ngân đã tập
trung một người phụ nữ có chiều sâu nội tâm của nhân vật với những cảm
xúc, tâm trạng, suy nghĩ sâu kín, những điều khó nói, ít muốn đề cập đến. Mỹ
Tiệp từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, là người con gái trong gia đình
đông chị em, là một nhà báo, nhà văn và điều đặc biệt, là một người phụ nữ
mãnh liệt trong tình yêu, mạnh mẽ, nghị lực trong cuộc sống, tha thiết với tình
đời, trải qua nhiều ngang trái éo le trong tình yêu, hôn nhân, Mỹ Tiệp có một
đời sống tâm hồn, một thế giới nội tâm phong phú và nhiều những giằng xé,
dằn vặt. Dạ Ngân đã miêu tả, dựng lên hình ảnh nhân vật với những tâm
trạng, cảm xúc đa dạng và cả những tâm tư thầm kín, thế giới bí ẩn của người
phụ nữ. Đó là tâm trạng, cảm xúc của cô gái trao trinh tiết cho người đàn ông
trong bom đạn, chiến tranh, giữa ranh giới sự sống và cái chết; là người đàn
bà có chồng nhưng không tìm thấy tình yêu trong hôn nhân muốn đi tìm hạnh
phúc đích thực của mình; là nỗi niềm người mẹ muốn thực hiện đầy đủ trách
nhiệm với những đứa con đáng thương nhưng cuối cùng vẫn rời xa con để
đến với tình yêu của mình… Đó là những cảm giác tội lỗi xen lẫn những
khao khát hạnh phúc tình yêu cháy bỏng giằng xé lẫn nhau lột tả nội tâm
người phụ nữ một cách chân thực. Từ những diễn biến tâm lí của một cô gái
mới, đến nội tâm dậy sóng của một phụ nữ khao khát hạnh phúc nhưng gặp
36
cảnh ngang trái, trớ trêu, đến nỗi niềm của một người mẹ, người vợ, người
tình, tất cả đều hiện lên rõ nét, chân thực, sâu sắc. Trang viết giúp người đọc
hiểu rõ hơn những uẩn khúc sâu kín trong lòng người phụ nữ, điều mà rất ít
khi được phơi bày trên trang giấy, chẳng mấy người phụ nữ dám tỏ bày, thậm
chí là giãi bày trong những cuộc trò chuyện thầm kín riêng tư.
Dạ Ngân viết bằng những cảm xúc, cảm giác thực của người phụ nữ.
Phải là người phụ nữ, và phải là người phụ nữ từng trải qua những giờ phút
kinh hoàng của chiến tranh nhà văn mới có thể lột tả những cảm xúc đặc biệt
của người con gái trong khoảnh khắc riêng tư ấy. Không hề che giấu, Dạ
Ngân giúp người đọc có thể hiểu được trạng thái cảm xúc của con người trong
những góc khuất kín nhất.
Với tiểu thuyết Tiền định, nhân vật Chín, người phụ nữ tài năng, cá tính
nhưng có cuộc đời đa đoan, Đoàn Lê khiến người ta nghĩ ngay đến bà. Nếu
như Chín từng là diễn viên, rồi làm đạo diễn, nhà văn, họa sĩ, thì Đoàn Lê
cũng với nghề ấy, nghiệp ấy. Những thăng trầm trong chuyện nghề của Chín
cũng là những điều mà Đoàn Lê từng trải qua trong sự nghiệp của mình. Hoàn
cảnh xuất thân cũng như chuyện tình yêu, gia đình của Chín đều có điểm song
trùng với tiểu sử nhà văn. Nhân vật Chín mang bóng dáng cuộc đời Đoàn Lê.
Từ nguyên mẫu đến nhân vật là cả một quá trình sáng tạo dưới ngòi bút
tài hoa của người nghệ sĩ. Từ những chi tiết cuộc đời thực của những người
phụ nữ truân chuyên, Đoàn Lê, Dạ Ngân đã dựng lên hình tượng nhân vật
người phụ nữ trong tiểu thuyết hiện thân cho số phận của bao người phụ nữ
Việt Nam. Đặt nhân vật của mình trong những hoàn cảnh nghiệt ngã, trớ trêu
của số phận, các nhà văn đã tập trung bút lực để phác họa, từ ngoại hình đến
hành động, lời nói, đặc biệt ở chiều sâu nội tâm. Về ngoại hình, Chín là người
phụ nữ đẹp, một vẻ đẹp khiến người ta muốn che chở nâng niu. Trong cảm
nhận của nhà báo (người mang đến cho Chín tình yêu chân thành, sâu sắc và
37
cũng là mối tình cuối cùng trong đời Chín), Chín đẹp. Khi gặp Chín lần Chín
sinh con đầu, hình ảnh người mẹ trẻ “ngồi tựa lưng vào thành giường bên cửa
sổ, ánh sáng dịu dàng tỏa xuống đôi vai, vầng tóc tết gọn sau gáy để lộ cần cổ
trắng mịn, cô bé có vẻ từ trong bức tranh thời Phục hưng bước ra.”[18,tr. 66]
khiến anh đứng sững lại. Trong cuộc trò chuyện với bạn, nhà thơ Thảo –
người si mê Chín - không giấu nổi sự thương cảm của mình: “Trông bộ dạng
Elle cắm cúi đi như một con chiên tử vì đạo, mày không động lòng sao?”
[23,tr.63] , trong cảm nhận của anh nhà báo “quả thật cô bé có dáng đi…
không thể chấp nhận được” [23,tr.63] Dáng đi luôn cúi về phía trước là dáng
đi của người có số phận vất vả, phải chịu đựng nhiều thiệt thòi, khổ ải. Dáng
đi ấy, cảm nhận của Thảo, của anh nhà báo là những dự báo cho cuộc đời đa
đoan của người phụ nữ xinh đẹp, yêu văn chương. Chỉ với vài chi tiết miêu tả
ngoại hình, Đoàn Lê đã khắc họa vẻ đẹp của Chín, hé lộ cho người đọc về
tính cách, số phận của Chín.
Theo suốt cuộc đời nhân vật với những dấu mốc quan trọng, tác giả đã
miêu tả rất chân thực nội tâm của Chín. Từ tâm trạng cảm xúc của một cô bé
trước những việc diễn ra trong gia đình, trong cuộc sống xung quanh: việc mẹ
sinh nhiều con gái, việc mẹ làm lẽ, chuyện của các chị, của anh, chuyện của
bà, chuyện ở nơi tản cư, chuyện chiến tranh, chuyện giặc giã, chuyện đấu tố
… từ những rung động đầu đời trong tâm hồn của cô bé mới lớn; cho đến
những cảm xúc trong đêm tân hôn, cảm xúc khi đến với Hòa – người tình –
anh chàng nhạc công, cảm xúc trước người đàn ông cuối cùng của cuộc đời;
cho đến những phẫn uất khi bị kỷ luật, sự khi đối mặt với những khó khăn,
thách thức của cuộc sống. Tất cả diễn biến nội tâm của nhân vật Chín đã góp
phần khắc họa một cách đầy đặn về nhân vật, dựng lên hình ảnh một người
phụ nữ xinh đẹp, đa cảm, đa tài, đa đoan.
Có thể thấy rằng, nhân vật Mỹ Tiệp và nhân vật Chín chính là hình bóng
của Đoàn Lê và Dạ Ngân. Những chi tiết tiểu sử trong cuộc đời của nhà văn
38
được sử dụng để xây dựng nhân vật. Bước vào tiểu thuyết, sự hư cấu khiến
nhân vật không phải hoàn toàn trùng khít với nhà văn nhưng không thể không
nhận thấy hình bóng nhà văn trong nhân vật. Sự hư cấu, làm cho nhân vật
hiện lên đầy đặn, hình ảnh đại diện tiêu biểu cho thân phận những người phụ
nữ khao khát hạnh phúc nhưng gặp cảnh ngang trái bất hạnh, trở thành hình
tượng nhân vật mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Còn chất liệu đời tư góp phần
làm cho hình ảnh nhân vật trở nên thực hơn, giúp nhà văn khắc họa nhân vật
thành công hơn, gửi gắm vào đó được những điều muốn nói, những chiêm
nghiệm về con người, cuộc đời, làm cho tác phẩm vừa có chiều sâu vừa có bề
rộng; đồng thời giúp nhà văn giãi bày chia sẻ về cuộc đời của chính mình, bộc
lộ mình.
Bên cạnh hai nhân vật chính trong hai tiểu thuyết là hệ thống các nhân
vật phụ. Đó là những người thân của Mỹ Tiệp, của Chín. Trong gia đình Mỹ
Tiệp và Chín chủ yếu là những người đàn bà. Là cô, là má, là chị em gái, là
con của Mỹ Tiệp. Là bà ngoại, mẹ, chị gái, chị dâu của Chín. Mỗi người đều
có những nỗi niềm, nỗi khổ riêng, nhưng đều có tên gọi chung nỗi khổ phận
đàn bà. Trong Gia đình bé mọn, nhân vật cô Tư Ràng, người cô vì gia đình
anh trai mà hi sinh hạnh phúc cá nhân, thậm chí phải gửi đứa con duy nhất về
bên nội để gánh vác việc gia đình anh, là người mạnh mẽ, cứng cỏi nhưng nỗi
niềm sâu kín trong lòng người phụ nữ này không thể che kín mãi được. Cô Tư
Ràng hay dông dài với Tiệp chuyện của ông bà nội, chuyện của ba, chuyện
của cô – “những đề tài rỉ rả, nhảy cóc nhưng thấm thía, đau buồn”. Nửa
khuya cô hay vần Mỹ Tiệp để hôn hít, chằm bặp hay ngồi dậy ăn trầu, hay
dựng chị Hoài dậy chuyện vãn. Mạnh mẽ, cứng cỏi nhưng bên trong Tư Ràng
là con người trĩu nặng những nỗi niềm giấu kín của một phụ nữ, một người
mẹ với nỗi nhớ nhung khổ dành cho con, nỗi khổ tâm thầm kín. Là má của
Mỹ Tiệp, người phụ nữ không có tiếng nói trong gia đình, luôn cam chịu,
thương con nhưng chỉ biết dõi theo mà không thể nâng đỡ, chở che. Là chị
39
Hoài, người đàn bà góa luôn hờn tủi mỗi khi nói về chuyện vợ chồng của
Tiệp. Là Mỹ út, cũng góa chồng nhưng bị góa một cách tức tưởi. Từ một
người tưởng sẽ có cuộc sống sung sướng của một người vợ cán bộ bỗng thành
người khốn khổ, chỉ “cắm mặt xuống miếng vườn đầy rắn rết, hố bom hố
pháo và chất nổ không ai biết đường mà thu dọn” [23, tr.95]. Ngay cả chị Mỹ
Nghĩa kim chỉ, cặm cụi cũng có nỗi niềm riêng “Thật ra chị Nghĩa của nàng
từng yêu ai đó và người ta cũng nằm xuống như hàng triệu người trai trẻ
khác, sau đó thì chị thấy ai không hôi nách thì cũng lưng dài, không lùn tè thì
cũng lêu đêu” [23, tr.94]. Sau này, chị Nghĩa có mối tình muộn mằn và lập gia
đình với ông anh kết nghĩa mới mất vợ có một bầy con riêng quậy ngất trời.
Trong Tiền định, những người thân của Chín cũng chủ yếu là phụ nữ, cũng
khổ sở. Bà ngoại mất con trai phải sống với con gái và con rể, lúc nào cũng
canh cánh nỗi niềm không người thờ cúng. Mẹ của Chín sinh con một bề, sinh
mãi mới được người con trai lại yểu mệnh, đau đáu nỗi niềm không sinh cho
chồng người nối dõi. Chị Tám bị ngăn cản trong tình yêu, lấy chồng theo sắp
đặt của gia đình, vợ chồng thường hay xung khắc. Chị Sáu của Chín là người
phụ nữ “không chim sa cá lặn nhưng ra đường ai cũng ngoái cổ nhìn theo”
[18, tr.287] nhưng cuộc đời cũng không phẳng lặng. Chị kết hôn hai lần. Lần
thứ nhất chị Sáu lấy chồng là vì muốn ở gần em, đỡ đần em. Chỉ được một
thời gian ngắn họ chia tay bởi anh chồng bị bất lực mà không ai biết. Lần thứ
hai chị kết hôn là vì tình yêu. Và vì tình yêu chị gánh vác mọi gánh nặng của
nhà chồng: bố mẹ chồng lú lẫn, chị gái chồng bị điên, những đứa con không
rõ cha của người chị chồng điên. Em gái Chín – Mười – vì tôn thờ tình yêu
mà cả đời sống như một tu sĩ “Mười chưa một lần được làm mẹ. Em sống
khắc khổ tựa tu sĩ khi người yêu em rời bỏ thế gian này.” [18,tr.291]. Và sau
nay, Mười trở thành tài sản chung của gia đình, là nơi nâng đỡ tinh thần cho
mọi người trong gia đình. Người em gái Út của Chín là Tiếc. Tiếc ra đời trong
sự hụt hẫng của cả gia đình. Không phải là con trai như khao khát của mẹ, sự
40
mong chờ của cha, Tiếc không được chào đón như những đứa trẻ khác. Dù
xinh đẹp, giỏi giang, thích lối sống tung hoành nhưng cũng vì chạy theo tiếng
gọi của tình yêu mà Tiếc lận đận, khổ cực ở một đất nước xa xôi, đến khi mẹ
chết cũng không được gặp mặt. Người thân của Chín, những người phụ nữ
đều có những nỗi niềm, nỗi khổ riêng. Mỗi người một cảnh, một nỗi niềm
nhưng cùng là thân phận phụ nữ, cùng phải chịu những bất hạnh của người
phụ nữ, cùng thiệt thòi. Cả Dạ Ngân và Đoàn Lê sinh ra và lớn lên từ thời xã
hội còn nặng tư tưởng phong kiến, điều đó khiến hai nhà văn rất nhạy cảm với
số phận, cảnh ngộ của người phụ nữ. Những nhân vật nữ - người thân của
nhân vật Mỹ Tiệp và Chín đều thấp thoáng hình bóng, số phận của những
người thân, gần gũi với các nhà văn.
Trong gia đình của hai nhân vật chính còn có sự xuất hiện của những
người đàn ông. Ở Gia đình bé mọn, anh Năm Trường anh trai của Chín, là
con trai một, cháu đích tôn của ông nội, có vị trí đặc biệt trong gia đình. Năm
Trường có cái uy tự nhiên ấy nên trước anh, Tuyên thường lóng ngóng thủ
phận. Năm Trường từ bỏ giấc mơ kiến trúc sư đi theo nghiệp lính, trong mắt
Chín anh “như một gã thư sinh đi lạc, luôn luôn sáng trắng, thanh cảnh và
hào hoa thành thị” [23,tr.91]. Khi biết chuyện Mỹ Tiệp muốn ly hôn, Năm
Trường xuất hiện với tư cách quyền huynh thế phụ, chất vấn Mỹ Tiệp theo
cách của người lính quân lệnh như sơn. Năm Trường đứng về phía thể diện và
lên án em gái. Ở Tiền định là người cha của Chín. Cha Chín là một thày lang
“Anh khóa Lộc không đỗ kỳ thi cuối cùng của triều đình, phẫn chí chuyển
sang nghề bốc thuốc. Với búi tó củ hành ẩn trong lượt khăn nhiều tam giang,
áo dài tơ tằm, quần trắng lá tọa hồ lơ xếp nếp, hình ảnh ấy trong mắt mọi
người thật là nho nhã, sang trọng. Nước da trắnghồng mà đôi mắt lại đen
ướt, thày lang búi tó làm khối bà mê món thuốc bắc.” [18, tr.176]. Là trụ cột
trong gia đình trong thời chiến tranh loạn lạc, cha Chín vừa lo thu xếp chỗ ăn
ở cho vợ con, vừa xoay xở để kiếm sống. Cha Chín giàu tình cảm, thương con
41
nhưng cũng rất nghiêm khắc với các con. Tuy nhiên, ông nặng tư tưởng cũ.
Ông lấy mẹ Chín người con gái làng Vẻn làm lẽ với ý đồ gây dựng nghề
nghiệp ở Hải Phòng và thầm hy vọng có thêm đôi ba con trai, lấy uy thế với
họ tộc quê nhà. Khi mẹ Chín sinh đến người con thứ năm là Chín, ông đang ở
hội tổ tôm. Biết tin vợ sinh con gái ông chán không về. Một người đàn ông
nữa trong gia đình Chín là anh Hường. Anh Hường là con mẹ già – người vợ
cả của cha Chín. Anh xuất hiện thoáng qua tác phẩm và cũng là người có vai
trò trong gia đình, có trách nhiệm với cha mẹ và các em. Điểm chung của
những người đàn ông trong gia đình của nhân vật Mỹ Tiệp và nhân vật Chín
đó có vai trò trụ cột trong gia đình, có tiếng nói trong gia đình và ít nhiều họ
mang nặng tư tưởng cũ.
Hai tiểu thuyết Gia đình bé mọn và Tiền định xoay quanh chuyện tình
yêu của hai nhân vật nữ chính, cuộc đời số phận của hai người phụ nữ. Những
trải nghiệm trong tình yêu hôn nhân, những chi tiết từ cuộc đời thực của hai
nhà văn đã trở thành chất liệu sáng tác, biểu hiện rõ nhất trong mối quan hệ
tình yêu hôn nhân của nhân vật chính với những nhân vật như: Tuyên –
người chồng đầu, nhà báo con công, Đính (trong Gia đình bé mọn), Thân,
Hòa, anh nhà báo (trong Tiền định). Những nhân vật đàn ông này trong mối
quan hệ tình yêu hôn nhân với những nhân vật nữ chính bộc lộ con người,
tính cách, tiêu biểu cho những người đàn ông trong tình yêu, hôn nhân thường
gặp ngoài đời thực. Cuộc đời của nhân vật Mỹ Tiệp gắn ba người đàn ông
trong hôn nhân và trong tình yêu. Người thứ nhất là Tuyên – người chồng đầu
tiên. Chiến tranh tác thành cuộc hôn nhân của Tuyên với Mỹ Tiệp. Ra khỏi
chiến tranh, Tuyên bị xoáy vào vòng xoáy của chức vụ và danh lợi. Tuyên
quên trách nhiệm của một người chồng, người cha, chỉ lo tính toán đường tiến
thân “Trái tim của Tuyên chắc cũng chia làm ba, nhưng cả ba phần đó đều
dành cho Ban với Hai Khâm hết” [23, tr.104]. Tuyên sống lạnh lùng với các
con “Chồng nàng ít khi giỡn với con, chưa bao giờ anh ta tung Vính Chuyên
42
lên hay để nó ngồi trên vai như những người đàn ông sung sướng với con
trai, trong khi đó anh rất thích săm sắn với lũ heo vì nó đem lại niềm vui thực
tế” [23, tr.73]. Anh ta không nhớ nổi ngày sinh của con đầu lòng và khai
nhầm ngày sinh của con. Tuyên lại càng thờ ơ với vợ, một người phụ nữ luôn
khao khát được yêu thương. Những lần Mỹ Tiệp sinh nở, sẩy thai, nạo thai,
đối diện với cửa tử, Tuyên không có mặt cùng Mỹ Tiệp, bỏ mặc Mỹ Tiệp
trong đau đớn, trong nguy hiểm, vì lí do công việc. Tuyên sống thiên về vật
chất, cằn cỗi về đời sống tinh thần và không hề có sự đồng cảm, chia sẻ với
Mỹ Tiệp – vợ mình. Sự thờ ơ, thiếu chia sẻ gây những tổn thương trong lòng
Mỹ Tiệp, tạo hố sâu ngăn cách, chia rẽ hai người mà không thể nào xóa đi
được. Điều đó đã dẫn đến chuyện tất yếu Mỹ Tiệp muốn ly hôn. Tuyên đã
trừng trị nàng bằng cách trì hoãn ly hôn, suốt năm năm. Trì hoãn ly hôn tới
năm năm, nhưng cuối cùng Tuyên đã khiến phiên tòa diễn ra thật lặng lẽ để
giải quyết êm đẹp cho mình. Người đàn ông thứ hai là một nhà bão cỡ bự.
Một người đàn ông “đứng tuổi, dong dãi, gương mặt ngăm ngăm điện ảnh, áo
sơ mi ngắn tay màu trứng sáo, bước chân thong dong điệu nghệ như một con
công biết mình đang được ngưỡng mộ” [23,tr.67], với ánh mắt sóng sánh đen,
“nhìn gần,đôi mắt ấy càng hút hồn hơn dưới đôi lông mày đẹp như vẽ”
[23,tr.67] như một con công lão luyện khiến Mỹ Tiệp đơn phương rơi vào
cuộc tình sét đánh. Mỹ Tiệp lao đến với con công lão luyện ấy như một con
thiêu thân và cuối cùng nhận lại sự bẽ bàng. Khi mọi chuyện của nhà con
công với nữ nhà báo nhiều da thịt bị vỡ lở, bộ mặt thật của anh ta lộ rõ. Anh
ta bỏ của chạy lấy người, bỏ lại một Mỹ Tiệp với giấc mơ về hạnh phúc, khao
khát về sự hiến dâng, sự hụt hẫng về lòng người, tình người. Người đàn ông
thứ ba là nhà văn Đính. Đính quê ở Nghệ An. Là một nhà văn nhưng Đính
sống rất đời, rất người, rất bình dị. Cũng có những thói xấu như hút thuốc lào,
cũng tính cách đậm chất miền Trung. Nhân vật Chín trong Tiền định cũng
từng gắn bó sâu sắc với ba người đàn ông. Người đàn ông thứ nhất là Thân –
43
biên tập viên nhà xuất bản – người chồng đầu của Chín. Đoàn Lê không kể về
Thân nhiều. Chín nhớ về Thân chỉ một vài chuyện: ngay sau đêm tân hôn
Chín muốn bỏ chồng, thói trăng hoa ở đàn ông, trận đánh ghen với Hòa, việc
trì hoãn hôn nhân và lừa dối Chín khiến cô phải chịu kỷ luật, chịu điều tiếng
vì quan hệ với Hòa. Thân hiện lên trong câu chuyện giữa Chín và anh nhà báo
– người yêu cuối cùng của Chín. Trong suy nghĩ của anh nhà báo Thân
không biết trân trọng người phụ nữ của mình. Thân lấy vợ trẻ, đẻ con liên tục,
coi vợ như máy đẻ, coi chuyện vợ bị kỷ luật, phải từ bỏ đam mê nhẹ như
không, không hiểu được cảm giác,tâm trạng của vợ; đã ly thân nhưng vẫn níu
kéo, ngăn cản việc Chín đi tìm hạnh phúc. Nhân vật thứ hai là Hòa – anh
chàng nhạc công – trai tân chưa vợ. Với Hòa, Chín tưởng như mình đã gặp
được người đàn ông của cuộc đời. Hòa đến với Chín, gắn bó với Chín và để
lại một vết sẹo trong lòng Chín khiến Chín phải bỏ đi đứa con đang thành
hình trong bụng và rồi cũng lặng lẽ rời xa Chín để đến với người con gái trẻ
trung hơn. Người cuối cùng là anh nhà báo – người đàn ông luôn âm thầm dõi
theo thăng trầm trong cuộc đời Chín một quãng thời gian dài. Vợ mất khi anh
còn trẻ, anh sống nghĩa tình với cha mẹ người vợ quá cố của mình. Có tình
cảm với Chín nhưng anh luôn kìm giữ tình cảm. Khi mạnh dạn để thổ lộ tình
cảm đến với nhau thì âm dương chia lìa đôi ngả. Có thể thấy, những nhân vật
nam có mối quan hệ tình cảm với các nhân vật nữ chính ở hai tiểu thuyết có
hai kiểu người. Một là kiểu đàn ông sống ích kỷ, không có sự chia sẻ, đồng
cảm với vợ, với người yêu hoặc sống thiếu trách nhiệm. Hai là kiểu đàn ông
luôn thấu hiểu, biết sẻ chia, sống có trách nhiệm. Qua hình ảnh của những
người đàn ông này, người đọc có thể hiểu hơn về những ngang trái tình yêu
hôn nhân trong cuộc đời thực của hai nhà văn, đồng thời nhận diện được
những kiểu đàn ông trong tình yêu và hôn nhân, những ngang trái và những
điều hạnh phúc trong cuộc đời của người phụ nữ.
44
Trong quan hệ đồng nghiệp là những nhân vật như sếp nhà thơ, An
Khương, Hiếu Trinh trong Gia đình bé mọn; như bác Tương, anh họa sỹ,
anh Thứ, như những người “những bộ mặt bạn bè thân thiện với nàng bao
năm bỗng quay ngoắt lạnh lùng phê phán đao to búa lớn với vẻ chán ngoét
đáng sợ” [18,tr.103] trong Tiền định. Họ là những nhà thơ, nhà văn, nhà
thiết kế sân khấu, là họa sỹ… là hình bóng đồng nghiệp của các nhà văn. Có
người tốt, có kẻ xấu. Thời gian công tác tại Hội Văn nghệ tỉnh của Dạ Ngân,
tại Xưởng phim truyện Việt Nam của Đoàn Lê là khoảng thời gian gắn bó
với nhiều câu chuyện về đồng nghiệp. Nhân vật đồng nghiệp trong hai tiểu
thuyết phảng phất bóng dáng của những đồng nghiệp ngoài đời thực của các
nhà văn.
Hình ảnh những người đại diện công quyền, những nhân viên thuộc hệ
thống quốc doanh cũng xuất hiện khá đậm nét trong hai tiểu thuyết. Những
con người của xã hội thời bao cấp từ cán bộ đến nhân viên của thời kì này đều
rất giống nhau: cửa quyền và hách dịch, cứng nhắc, nguyên tắc trong cách
giải quyết công việc. Trong Gia đình bé mọn, hình ảnh của cán bộ như Hai
Khâm, bà Trưởng ban kiểm tra, Giám đốc Sở văn hóa, Bí thư dân chính đảng,
chú Ba chủ tịch tỉnh. Hai Khâm và bà Trưởng ban kiểm tra, Giám đốc Sở văn
hóa, Bí thư dân chính đảng người có mặt trong cuộc họp về việc của Chín,
việc một nhà văn yêu một nhà văn “Một dãy xe con, mỗi vị một cỗ, những tấm
lưng “đi từ chiến hào ra” bắt đầu bệ vệ, những chiếc ca – táp màu đen quan
trọng và những bước chân rầm rập” [23,tr.190]. Sau cuộc họp họ không kỷ
luật Mỹ Tiệp vì họ không bắt được “trai trên gái dưới” như họ mong muốn
nhưng Hai Khâm dành cho Mỹ Tiệp “lệnh cấm vận “, “những người sinh sát
ở tỉnh trưởng tưởng đã chôn vùi được nàng bằng cách không cho con chiên
ghẻ đi họp, không được đặt chân tới thềm cửa các hội trường hay các cuộc
họp nghiên cứu Nghị quyết, không được xuất hiện trên các cơ quan thông tin
đại chúng tỉnh nhà, không được lên lương” [23,tr. 201]. Trong Tiền định,
45
hình ảnh của Trưởng phòng tổ chức cán bộ ở cơ quan của Chín điển hình cho
một vị trưởng phòng tổ chức các cơ quan thời chiến tranh. Trưởng phòng tổ
chức “thân hình một mẩu, giọng nói trọ trẹ miền Trung, con người hắn khiến
ta liên tưởng đến viên cứt sắt gai góc, sẵn sàng đâm chảy máu ngón tay người
nào đó mó phải.” [18, tr.101], người quyết liệt vùi dập Chín khi Chín chưa ly
hôn được Thân nhưng có tình cảm với người khác. Vốn là người rất ghét đám
diễn viên, nhân cơ hội này, hắn muốn dập vùi, tiêu diệt Chín. Hắn vui mừng
đem đến cho Chín quyết định kỷ luật với những hình phạt khắc nghiệt dành
cho Chín. Sau này, thâm độc hơn, hắn đồng ý cho Chín thi lớp đạo diễn sân
khấu và khi Chín đỗ, cũng chính hắn đã không cho Chín đi học. Kiểu người
cửa quyền, hách dịch không chỉ ở những vị có chức sắc mà còn ở ngay cả
những hình ảnh nhân viên hệ thống quốc doanh. Họ có quyền ban phát và đầy
uy lực trước người dân dù chỉ là nhân viên bán vé ở bến xe, là nhân viên bưu
điện. Trong Gia đình bé mọn, bà nhân viên bán vé ở bến xe như một “bà
trời”, “có bộ mặt cỡ ngàn cân nhìn săm soi các thứ có trong tay, lại dướn kính
nhìn xuyên qua mắt lưới quầy vé để nhận diện hai con người đang nín thở
chầu chực mình, vẻ cường điệu của kẻ nắm quyền sát sinh” [23, tr.32]. Bà
bưu vụ đứng tuổi, mặt hơi rỗ chanh chua. Bà ta làm việc với bộ dạng khó
chịu, miễn cưỡng, vừa làm việc vừa nhai ngô lách nhách, truy hỏi chuyện
riêng tư của khách hàng. Với dân, với khách hàng bà ta đầy quyền uy, sẵn
sàng nghiêm mặt, trừng mắt, dọa nạt bất chấp tuổi tác, không hề quan tâm đến
những cảnh ngộ của khách hàng. Sống ở thời kì bao cấp, khó khăn của thời kỳ
này in đậm trong tâm trí Dạ Ngân. Trong hai tiểu thuyết của mình, hai nhà
văn dựng lên hình ảnh của con người thời đã qua đầy ấn tượng. Những hình
ảnh về con người thời bao cấp mang dáng dấp của những con người trong
cuộc đời thực thời Dạ Ngân, Đoàn Lê từng đi qua.
Có thể thấy rằng, hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn
và Tiền định biểu hiện rõ yếu tố tự truyện. Từ nhân vật chính đến nhân vật
46
phụ đều là hình ảnh những con người ngoài đời thực có mối liên hệ gần gũi
với nhà văn. Nhân vật có bóng dáng của nhà văn, những người thân, quen với
nhà văn, những người ở thời các nhà văn sống. Đưa những chất liệu đời tư
vào tác phẩm để xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính, hai nữ nhà văn
thể hiện rõ một cái nhìn lại thẳng thắn, thành thực về chính mình, về con
người và về cuộc sống. Thẳng thắn với mọi người và thành thực với chính
mình. Những nhân vật trong tác phẩm được nhìn đa chiều có những điểm tốt,
mặt xấu. Từ sự thẳng thắn, thành thực, từ cái nhìn đa chiều, hình ảnh những
nhân vật trong hai tác phẩm mở rộng cánh cửa để người đọc hiểu rõ hơn về
con người của những thời đã qua, hiểu rõ hơn về người phụ nữ - về số phận,
về suy nghĩ, về nỗi niềm của người phụ nữ. Là những nữ nhà văn viết tiểu
thuyết tự truyện, thế giới nhân vật trong tác phẩm của Đoàn Lê, Dạ Ngân có
điểm khác biệt so với các nhà văn nam viết tiểu thuyết tự truyện. Cùng thời,
cùng thể loại nhưng thế giới nhân vật trong sáng tác của nhà văn nam như
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng khác hẳn với Đoàn Lê, Dạ Ngân. Cũng viết về
những thời kỳ đã qua nhưng các nhà văn có mối quan tâm, tập trung phản ánh
những phương diện khác nhau về con người, cuộc sống, xã hội khác nhau.
Nếu nhân vật trong tiểu thuyết tự truyện của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
chủ yếu là nhân vật nam và nhà văn chủ yếu khắc họa tư tưởng, vai trò của
con người với xã hội thời cuộc thì nhân vật trong tiểu thuyết của Đoàn Lê, Dạ
Ngân chủ yếu là nhân vật nữ, các nhân vật nữ chủ yếu được quan tâm làm nổi
bật về thân phận người phụ nữ. Sự xuất hiện của hai tiểu thuyết tự truyện này
mở ra thế giới của phụ nữ góp phần làm cho tiểu thuyết tự truyện Việt Nam
đầu thế kỷ XXI phong phú hơn, đa dạng hơn về nội dung phản ánh.
2.2.2. Hiện thực đời sống - Hiện thực tác phẩm
Hiện thực đời sống nhà văn đã trải qua đã đi vào tác phẩm. Ở tiểu thuyết
Gia đình bé mọn là hình ảnh của miệt vườn Nam bộ - nơi nhà văn được sinh
ra lớn lên và trưởng thành, là hình ảnh của Hà Nội – nơi nhà văn đã đến với
47
mối tình sâu nặng của cuộc đời. Ở Tiền định là hình ảnh của Hải Phòng – nơi
gắn bó với Đoàn Lê trong nhiều năm tháng của cuộc đời. Và ở cả hai tiểu
thuyết, hiện thực được miêu tả là hiện thực cuộc sống thời chiến, thời bao cấp,
thời mở cửa – thời kỳ mà các nhà văn đã từng trải qua.
Trong Gia đình bé mọn nhà văn Dạ Ngân đã khắc họa bức tranh đời
sống miền Tây Nam bộ thời chiến tranh và bức tranh về miền Tây, về Hà Nội
thời bao cấp – những năm tháng ác liệt và khó khăn.
Trong dòng hồi tưởng của Mỹ Tiệp vùng quê miền Tây với vẻ đặc trưng
những con lạch, những cây cầu khỉ, những vườn cây của vùng đất phù sa màu
mỡ, những ghe, những xuồng đi lại trên sông. Ở mỗi thời kỳ, miền Tây lại
mang một vẻ riêng. Với những trải nghiệm của nhà văn, tiểu thuyết Gia đình
bé mọn đã dựng lên hình ảnh của chiến tranh ác liệt ở miền Tây Nam bộ
những năm kháng chiến. Trong trí nhớ của nhân vật Mỹ Tiệp, đó là một buổi
sáng mùa nước ở Đồng Đưng, một buổi sáng của chiến tranh chết chóc “Một
tràng đề - pa tròn vạnh, gọn đanh, lập tức tiếng hú của lũ thần chết ào tới bay
siết trên đầu, pháo chụp pháo đào pháo trộn, đủ cả, dàn hưởng quay cuồng
chỉ không phải của Bet – thô – ven, những cột nước làm cho chiếc xuồng nhỏ
dựng đứng lên, mảnh pháo và cây cối sát thương đổ xuống như trong tâm
bão.” [23,tr.100] và “Dàn đồng ca của súng đạn , đô – la và giàu có chừng
như bất tận, không mệt mỏi, như chúng muốn băm vằm cái ngã ba và cây
trâm bầu trên đầu họ ra” [23,tr.100]. Hình ảnh miền Tây Nam bộ trong chiến
tranh sặc mùi khói súng, bom đạn; âm thanh chết chóc gầm rú trên bầu trời.
Trong thời chiến, thiên nhiên cỏ cây, sông nước miền Tây nhuộm màu của
chiến tranh “những cây còng thương tích trên bến sông hoang vu, những con
kinh đo đỏ u sầu trong mùa ngập lụt, những con lạch như hệ thống chỉ tay
cho những người ở cứ nương náu” [23, tr.118]. Từng ở cứ, trải qua những
giây phút kinh hoàng của chiến tranh, sự tàn phá khốc liệt của bom đạn giặc
48
thù, chiến tranh ác liệt ở vùng quê Nam bộ đi vào tiểu thuyết của Dạ Ngân
như nó vốn có.
Thời bao cấp hình ảnh của thị trấn miền Tây như khoác lên mình một
tấm áo khác, nghèo nàn và lạc hậu. Trong chuyến đi trở lại thị trấn Cầu Quay,
Mỹ Tiệp trở lại với kỷ niệm thời chiến và chứng kiến sự thay đổi của Đồng
Đưng, với “đoạn lộ vắt ngang đồng trũng như oằn xuống ở đây, phố không có
vỉa hè, người đi bộ ngờ nghệch với còi xe, những cửa hiệu đầy ắp vật dụng
chài lưới và nón lá, cả hai dãy phố sáng lóa vì nhiều sạp nón lá hơn bất cứ thị
tứ thôn quê nào” [23, tr.117], với những phiên chợ “chợ cuối buổi, chỗ khu
vực chồm hỗm dành cho dân trong đồng ra chỉ còn rác rến, lá rau úa, những
con cua chết và những chum bánh lá dừa bu kín cùng những xề bánh cam
chảy nước đường dưới nắng tháng Tư” [23,tr.117], với cảnh nhà cửa nghèo
nàn “những mái lá tạm bợ nối nhau, những đứa trẻ bụng ỏng đít beo, những
ngôi trường rách rưới nham nhở và lục bình thì vẫn cứ như một thứ tai ương
bất diệt” [23,tr.118]. Từng hình ảnh của miền Tây Nam bộ, nơi mà nhà văn
gắn bó hiện lên rõ nét. Cảnh vật thiên nhiên, cuộc sống con người không thể
hòa lẫn vào bất cứ vùng miền nào. Và đặc biệt với hình ảnh ở bến xe miền
Tây Nam bộ– nơi mà diện mạo của thời bao cấp hiện rõ nhất, Gia đình bé
mọn đã tái hiện chân thực cuộc sống thời kỳ này qua. Cảnh chen chúc xếp
hàng mua, sự hách dịch của nhân viên bán vé, sự chậm chạp lề mề của người
lái máy là cảnh không thể quên trong tâm trí những người đã từng trải qua.
Theo dòng hồi tưởng của Mỹ Tiệp, nhà văn Dạ Ngân đã đưa người đọc đến
vùng đất miền Tây Nam bộ qua thời kỳ nhà văn từng gắn. Theo hành trình
Mỹ Tiệp ra Hà Nội gặp Đính, người đọc sẽ nhận ra một hình ảnh của Hà Nội
cách đây khoảng nửa thế kỷ. Quang cảnh của Hà Nội thời bao cấp “Cỗ xe
buýt phải nói là khá khả nghi về sự sạch sẽ chở hành khách của VietNam
Arlines đi chầm chậm qua cầu Long Biên, Nhà Bát cổ, Nhà hát Lớn rồi Tràng
Tiền và Tiệp cứ phải ngoái cổ ra nhìn một đám đông kẻ đứng người ngồi như
49
họp chợ trên một đoạn vỉa hè vung vãi rác que kem, một ngài đại uý quân
phục quân hàm hẳn hoi đi từ trong chỗ xếp hàng ra vừa đi vừa mút một cách
rất là nhịp nhàng cả hai que kem trên tay. Bờ Hồ đây rồi, dưới những ngọn
đèn đường bóng tròn tạm bợ trăm hai mươi oát, Hà Nội nhìn chạm mặt lại
giống một người già chậm chạp, rách rưới nhưng chắc chắn là rất kiêu hãnh
vì vẻ rêu phong đặc sắc của mình” [23, tr.129]; khu nhà ở thời bao cấp “Khu
chung cư vàng gắt dưới màu xanh của những hàng xà cừ” với“mùi thum
thủm rên rỉ trong mọi xó xỉnh” “hành lang nhiều dây phơi, quần lót phụ nữ tự
may, những cái khăn made quốc doanh thô nhám vàng khè, bếp lò để ở ngoài
cửa, chuồng sắt để trồng mấy thứ rau gia vị … ” [23,tr.162] qua cảm nhận
của Mỹ Tiệp – cảm nhận của người lần đầu tiên đến với Hà Nội. Còn trong ấn
tượng của Đính – người gắn bó sâu sắc với nơi này – đó là một Hà Nội thời
bao cấp với hình ảnh “một dãy loằng ngoằng những gạch vỡ, nón mê, làn cũ,
chổi cùn, dép sứt, can nhựa hỏng, áo rách…đó là những vật hình rất hay
được dùng để thay thế con người trong dãy xếp hàng ở chỗ người ta quy định
cho đám đông” [23,tr.160].
Bức tranh về miền Tây Nam bộ, về Hà Nội thời chiến tranh, thời bao cấp
hiện lên chủ yếu qua dòng hồi tưởng của Chín. Miền Tây Nam bộ - nơi nhà
văn Dạ Ngân được sinh ra, lớn lên và trưởng thành – khói súng đạn bom trong
chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu trong thời bao cấp những cũng rất gần gũi,
thân thương. Hà Nội – nơi Dạ Ngân gắn bó với người đàn ông của đời mình –
trong những năm tháng vừa ra khỏi chiến tranh nhếch nhác so với những gì
vốn có, cần có. Tất cả điều đó hiện lên chân thực qua dòng hồi tưởng của
nhân vật Mỹ Tiệp trong Gia đình bé mọn. Qua cảm quan của nhân vật nữ
chính với những cảm xúc, suy nghĩ ở những khúc ngoặt, những biến cố đặc
biệt trong cuộc đời, hiện thực đời sống phản ánh trong tác phẩm như lát cắt
đúng tâm, đúng điểm. Vì vậy, dù không miêu tả cụ thể chi tiết nhưng hiện
thực bức tranh đời sống vẫn hiện lên rõ ràng, chân xác.
50
Trong Tiền định, bức tranh hiện thực đời sống được miêu tả có phần chi
tiết hơn. Gắn với cuộc đời nhân vật Chín, hiện thực đời sống thời chiến tranh
được nhắc tới nhiều hơn cả. Đó là hình ảnh của Hải Phòng trước, trong và sau
chiến tranh; là hình ảnh của làng quê Nam Định thời kháng chiến chống Pháp;
là hình ảnh của Hà Nội trong kháng chiến chống Mỹ và sau chiến tranh. Qua
hồi tưởng của Chín – người phụ nữ được sinh ra, lớn lên, trưởng thành suốt
quãng thời gian đầy biến cố của đất nước, diện mạo đời sống xã hội con
người hiện lên rõ rệt, chân thực.
Trong cuộc đời của nhà văn Đoàn Lê, Hải Phòng là nơi gắn bó sâu sắc
với nhà văn. Cũng có lẽ chính vì vậy, bức tranh Hải Phòng in đậm trong
Tiền định. Hải Phòng trước Cách mạng là hình ảnh của những tên lính Nhật
hung bạo và dòng người tản cư chạy ra khỏi thành phố. Trong trí nhớ của
Chín là câu chuyện “mẹ Chín bị tên lính Nhật đuổi chợ, thúc báng súng vào
bụng” [18,tr. 80] , là “đoàn người tản cư dài vô tận chạy ra khỏi thành phố”
[18,tr.79]. Sau một khoảng thời gian tản cư về Nam Định, gia đình Chín trở
lại Hải Phòng. Hải Phòng trong cảm nhận của một bé gái khác hẳn với làng
quê nơi tản cư “Hải Phòng đây. Đèn thắp sáng mọi chỗ như thể sao sa. Cửa
hiệu của bố cũng sáng choang. Mọi thứ đều đẹp đẽ mê hồn” [18, tr.198].
Một Hải Phòng náo nhiệt, đông đúc với những xe quảng cáo của nhà hát,
những quán ba có lũ Tây nhảy nhót, các hiệu bán bánh, bán đồ chơi rằm
tháng tám có hàng nghìn trò hấp dẫn như: Hằng Nga đánh đàn tì bà trên
cung quảng; chú Cuội dắt trâu đi quanh gốc đa… Và đặc biệt là Hải Phòng
ba trăm ngày chờ giải phóng. Người dân sống ở thành phố có bao nhiêu lo
lắng, băn khoăn về thời cuộc, về đi hay ở, di tản vào Nam hay ở lại Hải
Phòng, bởi họ lạ lẫm về Việt Minh, về bộ đội. Cuộc sống của người dân
thành phố bỗng chốc thay đổi, một Hải Phòng bộn bề những vấn đề của thời
cuộc “Bao nhiêu hàng quán bày ra vỉa hè của khu chợ giời ngay trước cửa
nhà Chín, bỗng một ngày nào đó mọc ra như có phép lạ” [18,tr.243],
51
“những người bán hàng mặt mũi rầu rĩ, ngồi cả ngày chả thấy bán được
món hàng nào” [18,tr.243-244]. Người tản cư, người lo lắng giữa lúc giặc
rút quân và Việt Minh tiếp quản thành phố. Khung cảnh Hải Phòng tái hiện
chân thực qua đôi mắt tò mò của bé Chín, Hải Phòng trong những ngày này
trở nên đáng sợ, bí hiểm: có những buổi tối lũ Tây say đập cửa ầm ĩ, xe nhà
binh kẹp chết người rồi bỏ mặc, sự xuất hiện của những người hoạt động
Việt Minh như: bà bán hàng nước chè xanh. Hải Phòng hồi hộp chờ đợi giờ
phút lịch sử. Giờ phút lịch sử được nhìn và cảm nhận qua tâm hồn trẻ thơ
khách quan và chân thực “Cửa mọi nhà mở toang. Người người ùa ra đường
phố từ lúc nào đông nghịt. Cờ đỏ sao vàng ở đâu xuất hiện đỏ rực trời đất.
Cả hoa nữa giời ạ. Trong cái thành phố vừa mới phút trước im như chết, vậy
mà bỗng chốc bừng tỉnh, đầy đủ cho một lễ hội náo nức chưa từng thấy.”
[23,tr.253]. Sau khi bộ đội tiếp quản, Hải Phòng thật náo nức. Đó là không
khí trước, trong và sau ngày bộ đội ta tiếp quản Hải Phòng, cũng là ngày
quân giặc rút lui theo Hiệp định đã được kí kết giữa ta và địch.
Bức tranh làng quê Nam Định trong những năm giặc giã hiện lên trong
trí nhớ của Chín khi còn là một đứa trẻ. Gia đình Chín tản cư về quê cha.
Nhưng làng quê Nam Định cũng không yên bình. Giặc đóng bốt gần làng,
chúng hay càn quét, lùng sục. Ám ảnh nhất là hình ảnh giặc càn quét làng
quê với những tiếng súng, bom nổ, những tên lính giặc hùng hổ, những chết
chóc, những người phụ nữ bị làm nhục, những tội ác của giặc, những nỗi sợ
hãi của người dân từ già đến trẻ. Cảnh chạy giặc, người dân hoảng sợ khi đối
diện với bom đạn, chết chóc. Bố Chín run cầm cập, bà ngoại Chín tụng kinh
nghe như khóc; tiếng “tắc, bọp” nổ vang mọi ngả, chứng kiến cảnh “người
rầm rập chạy qua ngõ, người chạy đi, kẻ chạy lại, cuống quýt như đàn kiến vỡ
tổ” [18,tr.88]. Giặc bao vây các ngả. Sau khi giặc rút là hình ảnh chết chóc
tang thương, cán bộ hy sinh. Cuộc sống tản cư không chỉ luôn đối mặt với nỗi
sợ hãi giặc giã, chết chóc mà còn phải trải qua những ngày tháng khó khăn,
52
chật vật để mưu sinh. Những năm tháng tuổi thơ từng sống trong loạn lạc,
chạy giặc, tản cư, nhà văn Đoàn Lê đã dựng lại cảnh làng quê Nam Định
những năm tháng đất nước của chiến tranh rất chân thực. Từ cảnh giặc càn
quét cho đến không khí, cuộc sống của người dân đều là những sự kiện,
những hình ảnh mà những người sống trong thời kỳ ấy từng chứng kiến và
trải qua. Chất liệu thực của cuộc thực đã được Đoàn Lê sử dụng một cách tự
nhiên, qua cảm xúc, ấn tượng của nhà văn đã trở thành những hiện thực của
tác phẩm.
Ở Tiền định, Đoàn Lê còn phác họa lại hiện thực thời cải cách ruộng đất
ở Hải Phòng và Nam Định. Chỉ với một vài câu chuyện về đấu tố địa chủ,
nhà văn đã làm hiện lên sự thật về sai lầm của một thời. Cảnh đấu tố địa chủ
Đê - địa chủ đầu sỏ ở vùng diễn ra sau Cách mạng thành công ở Hải Phòng.
Không khí của cảnh đấu tố rầm rộ“ Hôm ấy tất cả các khối học sinh của mấy
trường trong thành phố mang khẩu hiệu, cờ quạt, rầm rập đến khu vực
trường đấu. Trên đường đi, lòng căm hờn được thể hiện qua tiếng hô sôi sục,
đầy khí thế Cách mạng” [18, tr.282 – 283], người đến dự đấu tố đông đúc
“Nắng chưa lên cao, hàng mấy nghìn người đã chật kín bãi đất ngoại thành
Đông Khê”. Chín chứng kiến tường tận buổi đấu tố từ lúc đấu tố “Nhưng xem
ra địa chủ này kém hẳn các khoản tội ác ly kỳ như lão địa chủ trên phim.
Cuối cùng cũng có một người phụ nữ mông dân ấp a ấp úng tố cáo bị
hiếp”[18,tr.283] cho tới khi xử tử địa chủ Đê “Chín chưa kịp nhận biết nơi
đây chính là pháp trường, nó đã bị người ta ùa tới, chen lấn chật cứng”
[18,tr.284]. Chứng kiến cái chết của lão Đê – người mà sau này xuống thành
phần, con cái “nghe đâu được nhà nước cho đi học nước ngoài” – Chín hoảng
loạn. Cuộc cải cách ruộng đất cũng có lên quan đến gia đình Chín, đến mẹ già
Chín, đến người ở quê Chín. Mẹ già Chín bị kết tội địa chủ, bị đưa đi đấu tố
vì cấy một mẫu ruộng tư điền hương hỏa (do bố Chín làm trưởng tộc). Ông lý
Mô không có mẫu đất nào nhưng có sáu gian nhà tiêu xây cho cả xóm dung
53
công cộng, để lấy phân bán, nhờ đó ông lý Mô khấm khá, có của ăn của để.
Sự thật đau xót về những cái chết oan uổng, về sai lầm của chính quyền lúc
bấy giờ được nhắc tới qua tâm trạng, cảm xúc của Chín khi hồi tưởng lại việc
đã qua. Đó là những sự thật của một thời.
Đoàn Lê cũng từng gắn bó với Hà Nội khi gắn với nghiệp điện ảnh. Làm
việc tại Xưởng phim truyện Việt Nam trong những ngày kháng chiến chống
Mỹ, cũng bởi vì thế, Hà Nội trở thành một phần trong cuộc đời của nhà văn.
Gắn với câu chuyện cuộc đời của nhân vật Chín, bức tranh Hà Nội thời kháng
Mỹ dần hiện lên trong tiểu thuyết. Đó là cảnh Hà Nội sơ tán “Đường vắng
tanh vắng ngắt. Tiếng cái xe đạp của anh cót két thản nhiên một cách đáng
ghét trước cảnh phố phường chết lặng” [18,tr.112], “Lần này thằng giặc
không thấy mặt để có cái sung sướng đánh nhau giáp lá cà với nó. Nó cứ từ
trên trời trút bom vào mình” [18,tr.112], “Còi báo động! Ngọn đèn đêm phụt
tắt. Tất cả đen như mực. Cắt điện toàn thành phố. Trong đêm tối tiếng còi
nghe càng ghê rợn hơn.” [18,tr.125], “Bỗng một quả pháo sáng từ phía nam
thành phố bắn vọt lên, lơ lửng tựa ngôi sao xanh” [18,tr.125], “Bỗng một
tiếng nổ từ xa làm mặt đất rung chuyển” [18,tr.126]. Cảnh những người mẹ
phải gửi con để đi làm việc. Cảnh những người mẹ vượt qua bom đạn để được
về bên con, lo lắng cho con. Đó là Hà Nội thời sau chiến tranh vẫn còn biết
bao điều trăn trở về cuộc sống, về con người “Dăm con thuyền mui rách, vá
víu xanh đỏ đủ loại vật liệu, nép bên doi cát nổi giữa dòng sông. Làn khói
trắng lởn vởn bay trên mui thuyền đủ để thiên hạ hình dung những thân phận
bập bềnh nghèo khổ, đang tồn tại chui lủi giữa đám thuyền nan ấy. Họ là
những ai? Có những cô gái dành cho dân cửu vạn, có những người chẳng thể
tìm được một tấm lý lịch, những đứa trẻ sinh ra không có bố, không khai sinh,
khai tử …” [18, tr.10] . Mỗi thời kì Hà Nội mang một vẻ khác nhau. Thời
kháng chiến chống Mỹ, Hà Nội vắng lặng, nguy hiểm luôn rình rập. Thời sau
54
chiến tranh, Hà Nội bộn bề những khó khăn, tồn tại và vẫn còn đâu đó những
số phận bất hạnh, khốn khổ.
Qua dòng hồi tưởng của các nhân vật trong hai tiểu thuyết, hiện thực đời
sống hiện lên chân thực mà ấn tượng. Cả hai tiểu thuyết phản ánh hiện thực
về đất nước ta từ thời chiến tranh và sau chiến tranh. Cùng phản ánh về những
thời điểm, giai đoạn lịch sử của đất nước nhưng có sự khác nhau về địa điểm
không gian. Tiểu thuyết Gia đình bé mọn phác họa bức tranh miền Tây Nam
bộ, ở Hà Nội. Tiểu thuyết Tiền định phác họa chủ yếu về bức tranh ở Hải
Phòng, Nam Định và vài nét phác về Hà Nội. Gắn với cuộc đời của các nhân
vật chính, gắn với câu chuyện về tình yêu, hôn nhân và số phận, bức tranh
hiện thực đời sống trong hai tiểu thuyết được nhìn qua trí nhớ, qua cảm xúc,
tâm trạng của con người. Qua lăng kính của cảm xúc những hình ảnh cuộc
sống, xã hội được chắt lọc để đọng lại trong tác phẩm, trong hình dung của
người đọc những gì tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất về hiện thực đất nước ta
trước, trong và sau chiến tranh.
2.3. Cảm quan về lịch sử, đời sống xã hội và con người
2.3.1. Cảm quan về lịch sử
Tiểu thuyết tự truyện Gia đình bé mọn và Tiền định đều viết về số phận,
về tình yêu hôn nhân của người phụ nữ đi qua những thăng trầm biến động
của đất nước – thời chiến tranh và sau chiến tranh. Chính vì vậy, vấn đề chiến
tranh, thời đại được đề cập đến trong tác phẩm, đặc biệt là vấn đề về chiến
tranh – một yếu tố lịch sử đặc biệt của đất nước, có ảnh hưởng lớn và sâu sắc
đối với số phận con người. Đầu thế kỷ XXI có khá nhiều nhà văn viết tiểu
thuyết tự truyện trong đó có đề cập đến thời chiến tranh. Ở thời kỳ này, các
nhà văn đã viết về thời chiến với cái nhìn đa chiều, nhìn thẳng vào sự thật.
Không tô hồng lịch sử, các tác phẩm hầu như đều phản ánh về thời chiến một
cách trung thực hơn, khách quan hơn. Ở thể loại tiểu thuyết tự truyện, các nhà
55
văn sử dụng chất liệu đời tư để sáng tác. Mỗi nhà văn có một cuộc sống riêng,
một góc nhìn riêng, vì thế mỗi tác phẩm thể hiện một cách nhìn riêng, những
quan niệm riêng về vấn đề chung này. Trong đó, yếu tố giới tính là một trong
những yếu tố tạo ra sự khác biệt rõ nét giữa các sáng tác. Các nhà văn nam
khi viết về thời thường quan tâm đến vấn đề lớn lao, có ý nghĩa trọng đại. Còn
các nhà văn nữ thường chú ý đến những vấn đề “bé mọn”, đời thường. Trong
tiểu thuyết tự truyện Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, điều mà tác giả
quan tâm là thời chiến – thời đại của những con người anh hùng, lớn lao như
ông Quyết Định, ông Đồng … Trong tiểu thuyết Thượng đế thì cười của
Nguyễn Khải, thời chiến là thời tôi luyện con người, những người còn sống
vượt qua chết chóc, khó khăn như những kỳ tích. Nguyễn Khải chọn điểm
nhìn từ chuyện đời thường, đời tư để nhìn nhận về chiến tranh, về thời cuộc.
Điều mà nhà văn quan tâm là những nhận thức về thời cuộc, về chiến tranh,
lịch sử, những vấn đề lớn lao có ý nghĩa trọng đại của đất nước. Trong sáng
tác của Đoàn Lê và Dạ Ngân, với cái nhìn, cảm quan của người phụ nữ, chiến
tranh được đề cập, nhìn nhận theo một cách rất riêng, khác hẳn với các nhà
văn nam. Đề cập đến vấn đề chiến tranh, Đoàn Lê và Dạ Ngân không có ý
định dựng lại bức tranh hoành tráng mang tinh thần sử thi của cuộc chiến hay
nói đến vai trò, tầm vóc của con người trong chiến tranh, Đoàn Lê và Dạ
Ngân viết về chiến tranh để phát hiện về con người, khám phá số phận con
người, quan tâm đến vấn đề đời tư, đời thường, nhỏ bé, quan tâm đến thân
phận người phụ nữ trong chiến tranh.
Hơn ai hết, Đoàn Lê và Dạ Ngân thấm thía nỗi đau của những người phụ
nữ trong chiến tranh. Hai nhà văn cùng xuất thân trong gia đình đông chị em
gái, cùng sinh ra và lớn lên ở thời chiến tranh. Những nỗi đau của những
người phụ nữ trong hai tiểu thuyết cũng là những nỗi đau mà Đoàn Lê và Dạ
Ngân cảm nhận được từ chính mình và những người xung quanh mình. Nhìn
về chiến tranh, thời cuộc từ phía những người phụ nữ, vấn đề Đoàn Lê và Dạ
56
Ngân quan tâm không phải là vấn đề lớn lao, to tát hay súng đạn, sự ác liệt ở
chiến trường hay những chiến công, những người anh hung, những phẩm chất
kiên cường bất khuất của con người trong thời chiến. Hai nữ nhà văn quan
tâm tới những nỗi sợ hãi, đau thương mất mát ở hậu phương, của những
người dân thường; những nỗi đau tinh thần, những gương mặt ghê rợn của
chiến tranh in hằn lên cuộc đời của những người phụ nữ ở hậu phương dai
dẳng, kéo dài, âm ỉ mà dữ dội.
Trong Tiền định, nỗi khổ vì chiến tranh của những người dân thường
hiện lên qua cảm nhận, suy nghĩ của Chín khi còn là một bé gái. Nỗi khổ của
gia đình Chín bồng bế dắt díu nhau đi tản cư, vật lộn để kiếm sống, để tồn tại.
Chiến tranh là nỗi hoảng sợ đến mức những cái kẹo bọc giấy bóng xanh đỏ
(sở thích, ước muốn của bất kì đứa trẻ nào khi đó) óng ánh dưới ánh sáng
không thể dụ được Chín – đứa trẻ con 3 tuổi. Chiến tranh là nỗi khiếp sợ của
cha Chín khi những cô con gái đang tuổi mới lớn bị giặc phát hiện nơi ẩn náu.
Chiến tranh là loạn lạc, ly tán, là bom đạn, chết chóc luôn rình rập. Và dù khi
tiếng bom đạn không còn thì nỗi đau chiến tranh đã in hằn cắt lớp trong cuộc
đời của con người. Đó là nỗi đau của bà ngoại Chín. Bà có người con trai duy
nhất là cậu Định nhưng “Năm hăm sáu tuổi cậu Định đã biến mất tăm trong
chiến sự hỗn độn đánh Pháp kháng Nhật” [18,tr54], Chín vẫn hay gặp “bà
ngoại ngồi âm thầm khóc một mình” dù bà được con rể hết sức chiều ý, chăm
chút chu đáo. Bà lo không có con trai cúng giỗ. Nỗi lo ăn hớp cháo lá đa cứ
đeo đẳng bà, ám ảnh cả Chín sau này. Nỗi đau của mợ Định. Cậu Định mất
khi mợ Định vừa làm dâu được ba tháng, gần chồng vẻn vẹn được mười hai
đêm. “Mợ chưa kịp lưu giữ hạt máu nào của người mình yêu. Mười chín tuổi
đầu, mợ cố sống với bà bà ngoại nàng chờ chồng đủ mười năm thanh xuân.
Sau mợ về nhà mẹ đẻ, tiếp tục sống cuộc đời góa phụ đến tận khi mái tóc bạc
phơ…” [18,tr.54]. Một người ra đi hai người đàn bà, một già một trẻ khốn khổ
cả cuộc đời còn lại.
57
Và nhức nhối hơn cả, dai dẳng hơn, có những nỗi đau tưởng như đã phủ
mờ bụi thời gian nhưng hóa ra nó đã ăn sâu vào tâm thức, vào nếp sống, nếp
nghĩ của con người. Có nỗi đau do chiến tranh để lại khiến con người đóng
đinh tính cách, đóng đinh số phận của mình và của mọi người. Trong Gia
đình bé mọn, ba Mỹ Tiệp đi làm cách mạng, bị bắt và hy sinh trong nhà lao
để lại một bầy con nhỏ khiến cô Tư Ràng phải từ bỏ hạnh phúc riêng tư thay
anh gánh vác gia đình - gồng mình để lo lắng, gồng gánh và chống chọi. Má
Chín khổ nỗi khổ người vợ có chồng đi biền biệt rồi hy sinh trong nhà lao.
Chị Hoài đau nỗi đau của người mẹ sinh con lành lặn nhưng thằng Hớn con
chị bị gẫy xương chân vì chất nổ sót trong vườn nhà. Mỹ út đau đớn, hụt hẫng
“nhận được tin báo tử chồng, lúc đó con gái nó mới có biết đi”, chịu “cảnh
góa mới, góa một cách tức tưởi”. Và bởi một gia đình như thế, bởi cha là liệt
sỹ, bởi má, bởi cô, bởi chị em trong gia đình đã phải chịu những mất mát bởi
chiến tranh nên người thân Tiệp dù thương Tiệp vẫn phản đối con đường đi
tìm hạnh phúc của Tiệp. Với Mỹ Tiệp, chính chiến tranh đã đưa đẩy cô đến
với Tuyên. Tại bởi chiến tranh tác thành cuộc hôn nhân ấy mà Mỹ Tiệp chịu
bao tổn thương, cuộc đời chịu bao ngang trái, cay đắng. Sự hiện diện của
chiến tranh ở phía hậu phương, ở thời hậu chiến trong góc nhìn và cách phản
ánh của các nhà văn nữ là những vết thương không thể lành, là những nỗi đau
âm ỉ lớn dần theo năm tháng, mà nạn nhân phải hứng chịu tổn thương dai
dẳng nhất chính là những người không trực tiếp cầm súng xông pha ngoài trận
mạc, những người ở hậu phương, những người phụ nữ.
Hậu quả chiến tranh để lại còn hiện hữu trong những sản phẩm tật
nguyền bởi chiến tranh – những con người đi ra từ chiến tranh nhưng không
cởi bỏ tấm áo khoác của chiến tranh. Họ giữ chức vị hiện tại nhưng vẫn nhìn
cuộc sống và giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống hiện tại theo cách của thời
chiến tranh: nguyên tắc đến mức vô cảm gây bao tổn thương cho người thân,
đồng nghiệp, cấp dưới của họ. Tiêu biểu như: Hai Khâm, Tuyên trong Gia
58
đình bé mọn; trưởng phòng Tổ chức trong Tiền định. Với cách nhìn cuộc
sống, giải quyết những vấn đề của cuộc sống theo cách của họ, cuộc sống sau
chiến tranh vốn đã khó khăn càng trở nên ngột ngạt.
Từ góc nhìn của giới nữ, sự thật đau đớn về chiến tranh được phơi bày.
Trong hai tiểu thuyết của hai nhà văn nữ, không thấy sự vinh danh hay những
cảm xúc vui mừng thắng lợi, thay vào đó là những nỗi đau kéo dài, thầm lặng
mà nhức nhối. Đặc biệt, câu chuyện chiến tranh gắn với câu chuyện cuộc đời
của nhân vật, các nữ nhà văn đã phản ánh về chiến tranh để nhìn về số phận
con người, khám phá con người. Từ góc nhìn đó, người đọc có thể nhận diện
rõ hơn bộ mặt của chiến tranh, hiểu hơn về nỗi đau do chiến tranh, đặc biệt là
nỗi đau do chiến tranh gây ra đối với người phụ nữ.
2.3.2. Cảm quan về đời sống xã hội
Từ góc nhìn của người phụ nữ, vấn đề đời sống xã hội mà Đoàn Lê, Dạ
Ngân quan tâm, trăn trở là vấn đề của cuộc sống đời thường, là cơm áo, là
mối quan hệ giữa con người với con người. Qua tác phẩm Gia đình bé mọn
và Tiền định, hai nữ nhà văn đã phản ánh khá rõ nét những khó khăn, thiếu
thốn của đời sống trong thời chiến và thời hậu chiến, đặc biệt là thời bao cấp.
Thời bao cấp với muôn mặt của nó được khắc họa khá rõ nét trong Gia
đình bé mọn. Từ góc nhìn của nữ nhà văn, thời bao cấp được miêu tả chân
thực. Qua cảm nhận và cuộc sống của Mỹ Tiệp, hình ảnh của thời bao cấp ở
miền Nam, miền Bắc hiện lên như nó vốn có. Trong cái nhìn của Mỹ Tiệp
cũng là của nhà văn Dạ Ngân, thời bao cấp là thiếu thốn, là khó khăn, là lạc
hậu. Ở góc nhìn của người phụ nữ, những khó khăn của thời bao cấp hiện lên
từ những bữa cơm gia đình, từ việc chạy vạy để vượt qua đói khổ. Những bữa
cơm bo bo, ít gạo, kem đánh răng tem phiếu; những việc làm thêm để trang
trải cuộc sống gia đình của những phụ nữ là công chức lúc bấy giờ. Là một
nhà báo, chồng làm cán bộ, với đồng lương ba cọc ba đồng, Mỹ Tiệp phải
59
làm thêm để trang trải cuộc sống. Mỹ Tiệp làm đá lạnh, nuôi heo, vẫn đến cơ
quan với mùi chuồng trại như những người khác, ở các cơ quan khác. Bối
cảnh xã hội thời bao cấp hiện rõ nét nhất trong hình ảnh cán bộ, nhân viên
thời bao cấp. Trong suy nghĩ của Mỹ Tiệp, họ hiện lên với dáng vẻ, điệu bộ,
cách làm việc, ứng xử theo kiểu bao cấp: hách dịch và vô cảm. Bà bưu vụ,
nhân viên bán vé gây khó dễ, phiền phức cho người dân, nhân viên bán vé thì
lề mề, đội quân văn hóa – những gã mẫn cán chết tiệt đã điệu Đính đi như một
tội nhân xén phăng mái tóc trêu ngươi của anh với tràng cười hô hố - thì quá
xông xáo. Cuộc sống sau thời chiến tranh có biết bao nhiêu khó khăn, thiếu
thốn, cách ứng xử và làm việc của cán bộ, nhân viên nhà nước lúc bấy giờ
càng làm cho cuộc sống trở nên ngột ngạt, và càng góp phần làm cho bóng ma
lạc hậu, trì trệ bao trùm lên xã hội. Điều ám ảnh nhất đối với Mỹ Tiệp là sự
lạc hậu và những phi lý tồn tại ở xã hội lúc bấy giờ. Đó là chuyện mỗi sản phụ
khi đến viện nạo hút thai phải nộp một chai 750ml nước tiểu (không phải để
xét nghiệm mà là để bán nước tiểu cho dân trồng rau còn chai thì bán lại cho
bọn sản xuất rượu lậu). Đó là những chiếc thìa đục thủng lỗ để chống mắt
cắp, xe đạp phải đeo biển kiểm soát, bể nước công cộng lềnh phềnh cục phân
trẻ nhỏ… Vấn đề được đặt ra là ý thức con người thời hậu chiến. Sau thời
gian dài loạn lạc, chiến tranh, xã hội kiệt quệ, sự đói nghèo, khó khăn kìm
hãm dẫn đến những vết rạn trên bề mặt nhân cách con người – những con
người vừa đáng thương, vừa đáng trách. Từng dòng hồi tưởng thấm đầy cảm
xúc của nhân vật, từng chi tiết gắn liền với nỗi cảm thán của Mỹ Tiệp, cũng
chính là suy nghĩ, quan điểm, thái độ của Dạ Ngân về đời sống xã hội thời
bao cấp.
Trong Tiền định, Đoàn Lê trăn trở băn khoăn về cuộc đời, số phận của
con người, những vấn đề mới nảy sinh của xã hội thời mở cửa. Đó là những
thân phận con người trong thời đại mới nhưng sống trôi dạt trên sông, thân
phận của những cô gái dành cho dân chài cửu vạn, thân phận của những đứa
60
không có giấy khai sinh. Là những thân phận của những cô gái trẻ đẹp bị đưa
đẩy làm nghề mại dâm kiếm tiền lo cho gia đình. Đau đớn, tủi nhục là vậy,
nhưng họ không từ bỏ dù có cơ hội để làm lại, để thay đổi. Những câu chuyện
xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm nhưng đọng lại là những day dứt, trăn trở
của tác giả về cảnh đời, cảnh người, những vấn đề nhức nhối trong đời sống
xã hội hiện nay.
Đặc biệt, từng trải qua sóng gió trong hôn nhân, đều là những phụ nữ trải
qua những đổ vỡ trong hôn nhân, Đoàn Lê và Dạ Ngân hứng chịu biết bao
điều cay đắng từ quyết định ly hôn của mình. Thời của Đoàn Lê và Dạ Ngân,
việc một người phụ nữ ly hôn là chuyện không thể chấp nhận. Người ta có thể
thương xót cho người phụ nữ bị chồng ruồng rẫy, nhưng không thể chấp nhận
người phụ nữ bỏ chồng vì không hạnh phúc. Hai nhân vật chính Mỹ Tiệp và
Chín trong tác phẩm của hai nhà văn đều là hai người phụ nữ chủ động trong
ly hôn. Cả hai nhân vật đều phải chịu đựng búa rìu dư luận, những rào cản
trong gia đình và trong cơ quan. Dư luận, rào cản từ gia đình hay từ cơ quan,
suy cho cùng cũng đều xuất phát từ những định kiến về người phụ nữ.
Trong Gia đình bé mọn, khi Mỹ Tiệp quyết bỏ chồng, cả gia đình Mỹ
Tiệp từ chị Hoài đến cô Tư Ràng, từ má cho tới anh Năm Trường đều không
tán thành, phản đối quyết liệt. Chị Hoài sẽ vừa khuyên lơn vừa nước mắt và
nhân tiện gửi gắm tâm trạng. Với cô Tư Ràng thì việc Mỹ Tiệp bỏ chồng là
việc làm “Thân bại danh liệt, con giết con, con giết cả thanh danh nhà mình”
[23, tr.98]. Anh Năm Trường đứng về phía thể diện, lên án Tiệp “Ai cho cô
Tám cái quyền nuôi con? Gia tộc không ủng hộ, tòa án cũng không ủng hộ”
[23, tr.92]. Ngay cả má Tiệp, tuy rất thương con, hiểu nỗi khổ của con cũng sẽ
“chỉ run run lợn cợn cái giọng rầu rầu cố hữu: “Làm đàn bà con gái là phải
khổ, ráng chịu khổ chút nữa rồi cũng hết đời thôi con!”” [23, tr. 95]. Đối với
người dân ở quê, người ta không thể chấp nhận một người đàn bà bỏ chồng,
chuyện Tiệp ly hôn chồng “thế là chuyện kinh thiên động địa ở quê, sẽ làm
61
cho những người thân của nàng phải cúi mặt khi ra đường, sẽ biến nàng
thành một con hủi ghê tởm và phải đáng biệt tăm” [23, tr. 94]. Hậu quả của
việc Mỹ Tiệp ly hôn chồng là bị gia tộc từ, bị cơ quan bị kỷ luật. Tất cả chỉ vì
Mỹ Tiệp là phụ nữ. Định kiến về thân phận người phụ nữ từ bao đời nay trở
thành khung cũi để trói buộc, kìm kẹp, cản trở con đường đi tìm hạnh phúc
của người phụ nữ đáng thương. Định kiến không chỉ ở phía dư luận, định kiến
ấy thậm chí tồn tại ngay trong cách giải quyết sự việc ở trong cơ quan nhà
nước. Trong Tiền định, việc Chín lấy chồng và quyết định bỏ chồng đều bị kỷ
luật. Chín bí mật đăng ký kết hôn với Thân vì bị đe dọa. Chuyện vỡ lở, người
bị kỷ luật là Chín. Chín bị chuyển từ bộ phận diễn viên sang làm công tác thư
viện của Hãng phim. Khi Chín quyết định ly hôn, đưa đơn năm lần, sống
riêng hai năm vẫn không được giải quyết, Thân ghen, chém Hòa, Chín bị kỷ
luật Cảnh cáo, ghi lý lịch. Khi Chín bị đưa về bộ phận diễn viên để kiểm điểm
vì chuyện khiến Thân chém Hòa, bạn bè thân thiện với Chín bao năm quay
ngoắt, lạnh lùng phê phán, đao to búa lớn. Thái độ và cách xử lý nặng về định
kiến đối với người phụ nữ gây nên những ngang trái, trớ trêu. Nhà văn Dạ
Ngân Đoàn Lê miêu tả suy nghĩ, hành động của Mỹ Tiệp, của Chín khi Mỹ
Tiệp và Chín phải chịu bao điều tiếng, đòn roi về hành trình đi tìm hạnh phúc
của mình, vừa đủ để thể hiện quan điểm, cái nhìn mang tính phê phán những
định kiến xã hội áp chế lên người phụ nữ.
2.3.3. Cảm quan về con người
Từ câu chuyện về cuộc đời của hai nhân vật nữ chính trong hai tiểu
thuyết, Đoàn Lê và Dạ Ngân đã mở ra trước mắt người đọc biết bao nhiêu số
phận con người. Có những nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua, có những nhân
vật được nhắc đến khá nhiều. Qua các nhân vật trong tác phẩm, các nhà văn
đã bày tỏ quan niệm, suy nghĩ của mình về con người.
62
Có thể thấy, nhân vật trong tác phẩm chủ yếu là những người phụ nữ. Họ
là người thân, là đồng nghiệp là người thân quen, thậm chí là người vô tình
gặp gỡ trong cuộc đời hai nhân vật chính. Thế giới phụ nữ ấy có một màu sắc
chung: tối tăm, ảm đạm. Trong Gia đình bé mọn, những phụ nữ ruột thịt,
đồng nghiệp của Tiệp hầu như đều góa bụa hoặc muộn chồng hoặc có những
nỗi khổ riêng. Nỗi khổ của những người phụ nữ ấy là do hoàn cảnh, do xã hội
và một phần do chính tính cách của họ. Tư tưởng nam quyền từ bao đời ăn
sâu vào suy nghĩ, lối sống của họ, truyền từ đời này sang đời khác. Họ cam
chịu, nhẫn nhục và họ mặc định trong tư tưởng suy nghĩ: phụ nữ là phải khổ,
chịu khổ. Bản thân, họ chấp nhận, thậm chí ép mình chịu khổ, họ muốn mọi
người cũng chịu đựng cái bổn phận đó. Suy nghĩ trăn trở về cuộc đời, số phận
của mình, Tiệp nhận ra nỗi khổ, số phận và nguyên nhân khiến bao người phụ
nữ quanh mình khổ cực. Trong Tiền định, Chín khổ; bà ngoại, mẹ cho đến
chị em gái của Chín đều khổ; thậm chí là người vô tình quen biết như Tần,
như cô bé làm mẫu vẽ cho Chín, cũng đều có số phận éo le. Chứng kiến
những dâu bể trong cuộc đời Chín, anh nhà báo xót xa ”Anh thấy ngực mình
đau thắt. Cô ấy tội tình gì để trời đày đọa khốn khổ thế? Chín ơi, em chết mất
thôi!” [18, tr.114]. Hồi tưởng về những người phụ nữ, Chín bao giờ cũng bộc
bạch những suy nghĩ, tình cảm của mình. Chín xót xa cho bà, cho mẹ, cho chị
Tám, thương chị Sáu, thương Mười, tủi cho Tiếc, cay đắng cho Tần... Với chị
Cả - người mà Chín cho rằng là người đàn bà duy nhất trong gia đình được
coi là hạnh phúc – nhưng trong cảm nghĩ của Chín “Thôi cũng xong một đời
đàn bà. Nhìn chị lòng khòng ra vào ngôi nhà rộng với những đứa cháu nội
ngoại, Chín tự hỏi ý nghĩa cuộc đời chị là gì nhỉ? Xem ra chị Cả mờ nhạt
nhất trong mười hai con gái cụ Chi Lan chưa biết chừng lại là người hạnh
phúc nhất” [18, tr.190 - 191]. Không một số phận nào yên ổn, tốt đẹp. Dường
như gắn với chữ đàn bà là cuộc đời gắn vào chữ khổ. Thông qua số phận của
các nhân vật nữ trong hai tiểu thuyết, hai nhà văn đã đặt ra vấn đề nhức nhối
63
về thân phận người phụ nữ, bày tỏ sự cảm thương sâu sắc dành cho số phân
của người phụ nữ.
Cùng là tiểu thuyết tự truyện, cùng để nhân vật hồi tưởng những câu
chuyện trong cuộc đời, cùng phản ánh thế giới tinh thần phong phú, phức tạp
của con người, từ đó nhà văn bộc lộ quan niệm, suy nghĩ, thái độ về con
người nhưng trong Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, Một mình một
ngựa của Ma Văn Kháng, các nhà văn có những mối quan tâm, những quan
niệm, suy nghĩ về con người khác biệt với Đoàn Lê, Dạ Ngân. Nguyễn Khải,
Ma Văn Kháng. Vấn đề về con người mà nhà văn Nguyễn Khải, Ma Văn
Kháng quan tâm là con người với vai trò của họ trong cuộc đời, là con người
với chiều sâu của tư tưởng. Các nhà văn, nhìn con người trong mối quan hệ
với xã hội, thời cuộc, gắn với những sự kiện, soi từ nhiều chiều để khám phá
sự vận động bí ẩn của đời sống tinh thần con người, mối quan hệ giữa đời
sống tinh thần con người với hiện thực lịch sử, từ đó đúc kết lại những chân
lý về thế sự, nhân sinh. Đoàn Lê, Dạ Ngân lại quan tâm tới số phận của những
cá nhân, đặc biệt là số phận của người phụ nữ trong cuộc sống đời thường, từ
đó phơi trải những nỗi niềm phụ nữ, những day dứt, trăn trở về số phận con
người. Đó cũng là nét riêng trong đời sống của người phụ nữ nói chung, trong
tiểu thuyết tự truyện của Đoàn Lê, Dạ Ngân nói riêng.
2.4. Ý thức về cái tôi cá nhân
Tiểu thuyết tự truyện không chỉ đơn thuần phản ánh hiện thực và nói lên
số phận của con người, là quan điểm nhận thức của nhà văn về thời đại, xã
hội, con người mà còn là tiếng nói của cá nhân nhà văn về chính mình. Yếu tố
tự truyện trong tiểu thuyết thể hiện rõ nhất ở sự bộc lộ cái tôi cá nhân. Tuy
nhiên, là một chất liệu của văn học, cái tôi của nhà văn biểu hiện trong tác
phẩm là cái tôi đã được hư cấu, có sự pha trộn giữ cái thật và cái hư cấu, trở
thành cái tôi mang tính khái quát hóa. Cái tôi sự thật – sự thật về ý thức, cảm
64
xúc, tâm trạng của nhà văn, thể hiện ở những chi tiết, sự việc, quan điểm thái
độ của nhà văn về chính mình, cuộc đời mình. Từ cái tôi sự thật, nhà văn sáng
tạo dựa trên cơ sở tưởng tượng tạo nên cái tôi trong tác phẩm. Như vậy, cái
tôi từ nguyên mẫu thực tế đã trở thành nhân vật văn học. Thông qua những
câu chuyện hiện thực cuộc sống, cuộc đời, số phận nhân vật được phản ánh
trong tác phẩm, nhà văn muốn tỏ bày, muốn chia sẻ nỗi niềm của mình, về
cuộc đời của chính mình, bộc lộ cái tôi cá nhân. Qua nhân vật Mỹ Tiệp, nhân
vật Chín, câu chuyện của Mỹ Tiệp, của Chín trong Gia đình bé mọn, trong
Tiền định, Đoàn Lê, Dạ Ngân đã bộc lộ cái tôi cá nhân, một cái tôi nữ tính,
rất riêng của những người phụ nữ. Khi người phụ nữ được giải phóng về tư
tưởng, ý thức về quyền bình đẳng cũng là lúc người phụ nữ nhận thức sâu sắc
về số phận, nỗi khổ đau, khao khát hạnh phúc hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, hệ
tư tưởng cũ ăn sâu bám rễ vào đời sống, khiến con đường đi tìm hạnh phúc
không hề đơn giản, người phụ nữ phải đối mặt với nhiều chông gai, những
ràng buộc, trói buộc cố hữu. Sự thật hành trình tìm kiếm hạnh phúc trong
cuộc đời của Dạ Ngân và Đoàn Lê là một cuộc đấu tranh quyết liệt, đấu tranh
với dư luận xã hội, với gia đình, đấu tranh cả với chính mình. Xây dựng nhân
vật Mỹ Tiệp, nhân vật Chín từ chất liệu cuộc đời thực của mình, hai nữ nhà
văn đã bộc lộ rõ cái tôi cá nhân – một cái tôi vừa là cái tôi nhà văn ngoài đời
thực, vừa là cái tôi sáng tạo, hư cấu. Chính vì thế, tiếng nói của cái tôi trong
tác phẩm không chỉ là tiếng nói cái tôi của nhà văn mà đã trở thành tiếng nói
của cái tôi của những người phụ nữ có số phận éo le, khao khát hạnh phúc
cháy bỏng, phản kháng mạnh mẽ, đấu tranh quyết liệt để có hạnh phúc đích
thực xong vẫn luôn day dứt, dằn vặt, ưu tư.
2.4.1. Cái tôi cô đơn
Đoàn Lê và Dạ Ngân là hai nhà văn, hoạt động và đam mê nghệ thuật
nhưng trong tình yêu hôn nhân gặp nhiều éo le. Không thể tìm được hạnh
phúc trong hôn nhân, cả hai nhà văn đều chủ động ly hôn để đi tìm hạnh phúc
65
đích thực. Hành trình đi tìm hạnh phúc của Đoàn Lê, Dạ Ngân gian nan, gặp
nhiều khó khăn. Đoàn Lê thậm chí bất hạnh hơn Dạ Ngân, bởi, trong cuộc
hành trình kiếm tìm hạnh phúc gian nan ấy, cuối cùng Dạ Ngân đã gặp được
một nửa đích thực của mình. Còn Đoàn Lê, đến với người chồng thứ hai cũng
không trọn vẹn. Đoàn Lê hoàn tất thủ tục li hôn với người chồng sau khi tuổi
đã xế bóng mãn chiều. Điểm chung có thể nhận thấy ở hai nhà văn là sự cô
đơn trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc, trong những trở ngại của nghề
nghiệp, của đam mê. Nhân vật Mỹ Tiệp trong Gia đình bé mọn và Chín trong
Tiền định mang hình bóng của nhà văn Đoàn Lê, Dạ Ngân. Qua nhân vật
trong tiểu thuyết của mình hai nữ nhà văn bộc lộ cái tôi cô đơn. Sự cô đơn của
Mỹ Tiệp, của Chín chính là nỗi cô đơn của nhà văn trong cuộc đời thực.
Mỹ Tiệp và Chín là những người phụ nữ nhận thức sâu sắc về bản thân,
về tình yêu và hạnh phúc. Cả hai người phụ nữ đều có thiên hướng nghệ
thuật, đi theo nghệ thuật. Mỹ Tiệp yêu văn chương từ khi còn trẻ, không
ham địa vị, Mỹ Tiệp lựa chọn cho mình con đường sáng tác văn chương.
Chín tình cờ đến với nghệ thuật trong vai diễn phụ giúp bạn. Từ vai diễn
phụ, Chín có giấy gọi đi học lớp diễn viên. Bất chấp sự ngăn cản của gia
đình Chín bỏ trốn khỏi nhà đi theo đam mê của mình. Nếu quyết định của
Mỹ Tiệp đi ngược lại với sự tính toán của chồng – Tuyên, thì quyết định của
Chín đi ngược với mong muốn của cha, của cả gia đình. Mỹ Tiệp và Chín cô
đơn khi đi trên con đường của mình, khi theo đuổi đam mê nghề nghiệp.
Chồng Mỹ Tiệp mạt sát nghề viết văn của Mỹ Tiệp, đụng chạm đến những
điều mà cô tôn thờ. Cha Chín đau đớn khi con theo nghiệp “xướng ca vô
loài”. Trong khi Chín chịu cú sốc lớn về công việc, Thân – chồng Chín -
không hiểu, không nhận ra những nỗi niềm của vợ. Không phải ngẫu nhiên
mà sau này, cả hai người đàn ông mà Mỹ Tiệp và Chín tìm được người là
nhà báo, người là nhà văn. Nếu sáng tác của Mỹ Tiệp gặp phải sự chỉ trích
của dư luận thì Chín phải chịu đựng nỗi đau khổ khi phải chia tay với nghiệp
66
diễn viên của mình. Trong suốt quãng thời gian dài, Mỹ Tiệp và Chín cô
đơn, không có sự chia sẻ về đam mê của mình. Chuyện của Mỹ Tiệp, của
Chín trong tiểu thuyết như một lời giãi bày, bộc bạch về những nỗi niềm của
Đoàn Lê và Dạ Ngân, của những người phụ nữ có đam mê nghệ thuật nhưng
gặp phải những ngang trái, đơn độc đi trên con đường của mình, chịu đựng
những nghiệt ngã của nghề nghiệp, của dư luận.
Trong cuộc sống riêng tư, Mỹ Tiệp cô đơn, Chín lẻ loi. Cả hai người phụ
nữ đều gặp bất hạnh trong hôn nhân. Do hoàn cảnh đưa đẩy, Chín và Mỹ Tiệp
đều lấy chồng mà không phải xuất phát bởi tình yêu, không tìm được sự chia
sẻ, sự đồng điệu, không có hạnh phúc. Sống cùng chồng, nhưng cả Mỹ Tiệp
và Chín đều cô đơn, đều chịu những nỗi khổ về tinh thần, đều thiếu thốn hạnh
phúc. Trong những lần Mỹ Tiệp sinh con, nạo thai, sẩy thai đều không sự
chia sẻ, quan tâm của chồng. Là những phụ nữ theo nghệ thuật, tâm hồn nhạy
cảm, nhận thức sâu sắc về giá trị của tình yêu, hạnh phúc, Chín và Mỹ Tiệp
càng dằn vặt, càng đau khổ, càng cô đơn.
Sự cô đơn càng bủa vây Mỹ Tiệp và Chín khi Mỹ Tiệp và Chín quyết
tâm đi tìm hạnh phúc đích thực. Mỹ Tiệp bỏ chồng gặp sự phản đối của dư
luận, của cơ quan, đoàn thể và của cả gia đình. Chín bỏ Thân cũng không dễ
dàng. Sự níu kéo tàn nhẫn của Tuyên, của Thân khiến Mỹ Tiệp và Chín rơi
vào hoàn cảnh éo le, khốn khổ, khốn khổ cả về tinh thần cả về vật chất. Hai
người đàn bà ra khỏi nhà với đôi bàn tay trắng, với nỗi lo lắng cho cuộc sống
của mình và của con, chịu đựng búa rìu của dư luận, sự trả thù từ người chồng
cũ, sự gay gắt của cơ quan. Không có ai đứng về phía những người đàn bà bỏ
chồng. Họ cô đơn trong chính ngôi nhà của mình, gia đình dòng họ của mình,
nơi mình công tác. Họ cô đơn với hành trình đi tìm hạnh phúc chính đáng của
mình. Họ cô đơn chống chọi với sóng gió của cuộc đời. Nỗi cô đơn của Mỹ
Tiệp, của Chín cũng chính là nỗi cô đơn của Dạ Ngân, của Đoàn Lê.
67
2.4.2. Cái tôi khao khát hạnh phúc
Trong bao nỗi lo toan, mối quan tâm, quan hệ của đời một con người thì
điều mà người phụ nữ luôn đau đáu hướng tới là hạnh phúc tình yêu. Đó cũng
là điều mà Dạ Ngân và Đoàn Lê quan tâm khắc họa trong tiểu thuyết Gia
đình bé mọn, Tiền định qua nhân vật Mỹ Tiệp và Chín.
Nếu cái tôi trong các tiểu thuyết tự truyện của nhà nam giới là cái tôi
muốn khám phá thế giới hiện thức xung quanh, thể hiện sự hiểu biết của
mình về hiện thực rộng lớn, mối quan tâm của họ là những việc trọng đại thì
trong tiểu thuyết của các nhà văn nữ, cái tôi trung tâm là cái tôi khao khát
hạnh phúc, mối quan tâm lớn của họ là số phận của người phụ nữ, thế giới nội
tâm, là những khao khát hạnh phúc riêng tư.
Với cái nhìn soi chiếu từ hiện thực đời sống, từ những vấn đề xã hội, lịch
sử, thời cuộc để nhìn thấy người phụ nữ và khắc họa thế giới nội tâm phụ nữ,
Đoàn Lê và Dạ Ngân đã phản ánh một cách sâu sắc nhất, chân thực nhất
những trạng thái cảm xúc, những khao khát thầm kín riêng tư, từ đó giãi bày
một cái tôi đầy nữ tính: cái tôi khao khát hạnh phúc.
Đi qua thời chiến tranh, đi qua thời bao cấp, kinh tế thị trường, những
bom đạn, những khó khăn về kinh tế, về cuộc sống cũng chỉ thoảng qua như
những cơn gió, điều mà Mỹ Tiệp luôn day dứt, trăn trở đó là tình yêu và
hạnh phúc. Cuộc hôn nhân được định đoạt bởi chiến tranh không đem lại
hạnh phúc cho Mỹ Tiệp. Họ đến với nhau không phải xuất phát từ tình yêu
mà là bởi chiến tranh. Ra khỏi chiến tranh, người chồng chỉ mê mải chạy
theo danh vọng, vật chất. Mỹ Tiệp không thể tìm thấy cảm xúc, hạnh phúc
của tình yêu. Khoảng cách giữa vợ chồng Mỹ Tiệp càng ngày càng lớn, Mỹ
Tiệp dứt khoát bỏ chồng để đi tìm hạnh phúc cho mình dù đó không phải là
điều dễ dàng trong xã hội lúc bấy giờ, trong dư luận và trong những ràng
buộc của gia đình. Mỹ Tiệp đến với người đàn ông con công, tưởng như tìm
68
được hạnh phúc đích thực. Trong lần gặp mặt tại cuộc họp, trò chuyện, cô
nghĩ rằng cô và người đàn ông ấy là những kẻ cùng hội cùng thuyền “nàng
chưa bao giờ vui và bắt gặp một người cùng suy nghĩ như vậy” [23, tr.69].
Không hòa hợp với chồng về đời sống tâm hồn, Mỹ Tiệp gặp gỡ ở người đàn
ông con công những suy nghĩ , Mỹ Tiệp nghĩ “Mình sẽ yêu người này nàng
quả quyết nghĩ – mình sẽ giữ gìn tình cảm đơn phương thầm kín này, mình
không cần biết, không cần gì cả, không cần bờ hay bến hay mục đích trần
trụi nào cả” , Mỹ Tiệp khao khát được yêu “trái tim mình nhất thiết phải
được biết một tình yêu đích thực là thế nào” [23, tr.70]. Lao đến như một
con thiêu thân trong lúc cô đơn nhất, khao khát hạnh phúc nhất để rồi Mỹ
Tiệp bẽ bàng, thất vọng nhận ra sự thực về người đàn ông nọ và ê chề với dư
luận. Đằng sau cuộc tình vụng trộm của Mỹ Tiệp với người đàn ông con
công đó là khao khát hạnh phúc cháy bỏng của người phụ nữ khao khát một
tình yêu đích thực. Dạ Ngân với những trang viết miêu tả chân thực những
suy nghĩ, cảm xúc của Mỹ Tiệp đã tái hiện mọi ngõ ngách sâu kín trong lòng
người phụ nữ, người phụ nữ chỉ có một khao khát cháy bỏng: khao khát
hạnh phúc, sự hòa hợp cả về thể xác lẫn tinh thần.
Cuộc gặp gỡ định mệnh với Đính là lúc cơn giông bão đang kéo đến
cuộc đời Mỹ Tiệp. Đính có mà Tuyên và người đàn ông con công không có,
đó là sự chia sẻ, giúp đỡ vô tư giữa một người đàn ông với một phụ nữ yếu ớt
“ba mươi tám ky lô” tay xách nách mang hai đứa con và lỉnh kỉnh đồ đạc vật
lộn để có tấm vé thời bao cấp trở về nhà. Cuộc gặp gỡ này, dẫu Mỹ Tiệp chưa
hề rung động với Đính nhưng quả thật đã đọng lại ấn tượng về một người đàn
ông thật sự - người đàn ông biết quan tâm, chia sẻ với phụ nữ. Sau này, có lẽ
chính phẩm chất quý giá ấy trong con người Đính đã giúp cho Mỹ Tiệp vượt
qua bao khó khăn, bao đau đớn, thậm chí là tủi nhục để đến với Đính. Khi
Đính trở lại gặp Tiệp “Tiệp thấy một sức mạnh rủ rê mãnh liệt ở người đàn
ông đi cùng, anh ta đã gây cho nàng cảm giác muốn đi, muốn khám phá,
69
muốn phiêu bồng, bên nhau, chân trời góc biển” [23, tr.125]. Với Đính, Tiệp
khám phá hạnh phúc đích thực, hạnh phúc có sự hòa hợp giữa tâm hôn và thể
xác. Đó chính là hạnh phúc mà trong vô thức, trong tâm thức, Tiệp luôn
hướng tới và khao khát.
Trong tiểu thuyết Tiền định của Đoàn Lê, một cái tôi khao khát hạnh
phúc được gửi gắm qua nhân vật Chín. Nếu Mỹ Tiệp trong Gia đình bé mọn
đến với cuộc hôn nhân thứ nhất vì chiến tranh thì Chín trong Tiền định đến
với người chồng đầu tiên vì nghề nghiệp. Là một diễn viên trẻ, xinh đẹp, bao
cám dỗ vây quanh, Chín lấy chồng vì bị đe dọa. Chín sợ đến mức muốn ly dị
chồng sau đêm tân hôn. Chín không có tình yêu với Thân. Khi sống với Thân,
đêm đêm nằm ngủ, khao khát thầm kín vẫn trỗi dậy trong giấc mơ “Mỗi đêm
nàng đều chờ đợi người đó để tự nguyện hiến dâng, thỏa mãn, biết ơn…
Người ấy lúc nào cũng nồng nàn, cư xử hệt một người tình dịu dàng, bí mật.
Bí mật với cả nàng. Không có gì trọn vẹn, mãnh liệt hơn thế.” [18, tr. 73]”.
Khi phát hiện thói trăng hoa ở chồng, hai mươi mốt tuổi đã có hai con nhưng
Chín dứt khoát ly hôn. Sự níu kéo của Thân đã đẩy Chín vào tình cảnh éo le,
trớ trêu, Chín vẫn dứt khoát không chấp nhận trở về với Thân. Khi Chín gặp
Hòa - một nhạc công thổi kèn clarinet, Chín khám phá thế nào là hạnh phúc
trong tâm hồn và thể xác “Lần đầu tiên nàng biết sự rung động mãnh liệt khi
hai tâm hồn trú ngụ trong nhau, khi hai thân thể hòa lẫn làm một, chứ không
phải trong những giấc mơ bí mật nữa” [18, tr.100]. Nhưng hạnh phúc ngắn
ngủi, bởi Hòa – cũng giống như Thân – cũng lăng nhăng, thậm chí bạc bẽo,
nhẫn tâm. Với Hòa, Chín “hạnh phúc tỏa sáng ngời ngời trong đôi mắt, nàng
sẵn sàng tử vì đạo, sẵn sàng chết cho tình yêu ấy” [18, tr. 100], vì vậy Chín
càng đau đớn hơn khi chứng kiến sự thay đổi của Hòa “Sự náo nức của tình
yêu bỗng như bị dội một gáo nước lạnh khi Chín chợt nghe trên gác có tiếng
cười trẻ trung của một cô gái nào đó” [18, tr.146]. Chín ra về và viết thư dứt
khoát chia tay. Sự dứt khoát của Chín khi ly hôn Thân, chia tay Hòa xuất phát
70
từ niềm khao khát hạnh phúc đích thực. Chín không chấp nhận một mối quan
hệ không xuất phát từ tình yêu thực sự. Thái độ và hành động của Chín bộc lộ
niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng. Suốt cả cuộc đời loay hoay đi tìm hạnh
phúc, cuối cùng Chín mới phát hiện ra anh nhà báo người ngay gần kề chính
là người đàn ông tiền định của mình. Đó là người đàn ông rất hiểu và đã từng
chứng kiến và thậm chí chia sẻ cùng Chín bao nỗi niềm trong cuộc sống. Giữa
Chín và anh nhà báo đồng điệu về tâm hồn, thấu hiểu và cảm thông. Người
đàn ông luôn kí dưới bức thư viết cho Chín “Người chưa bao giờ được là
chồng em” mang đến cho Chín niềm hạnh phúc thực sự của người phụ nữ
được trân trọng, yêu thương và chia sẻ. Đó cũng là khao khát không chỉ của
riêng Chín, của nhà văn Đoàn Lê, mà đó còn là khao khát tha thiết của biết
bao người phụ nữ trên thế gian này!
Có thể thấy rằng, cả Mỹ Tiệp, cả Chín đều ý thức được giá trị của cuộc
sống, khao khát hạnh phúc và quyết tâm đi tìm kiếm hạnh phúc của mình.
Vượt lên những quan niệm trói buộc người phụ nữ, những ràng buộc để đi
tìm hạnh phúc đích thực. Niềm khao khát nhân bản của người phụ nữ đã
được nhà văn Dạ Ngân, Đoàn Lê bày tỏ thông qua nhân vật trong sáng tác
của mình.
2.4.3. Cái tôi phản kháng, đấu tranh
Hành trình đi tìm hạnh phúc của người phụ nữ không hề đơn giản. Để
vượt qua những trói buộc, rào cản, người phụ nữ phải đấu tranh, phản kháng
quyết liệt. Trước tiên, rào cản lớn nhất đó là định kiến xã hội về người phụ
nữ. Định kiến đó có từ bao đời nay đã ăn sâu vào tư tưởng của tất cả mọi
người, thậm chí ở ngay chính những người phụ nữ. Người đi trước chịu đựng
nỗi khổ vì định kiến và họ cam chịu chấp nhận. Họ cam chịu đến mức, về sau
tư tưởng ấy mặc định trong suy nghĩ của họ, họ quy chiếu lên mọi người xung
quanh, coi đó như là một lẽ đương nhiên mà người phụ nữ phải thực hiện. Với
71
những định kiến xã hội ấy, Mỹ Tiệp chịu búa rìu dư luận, bị cơ quan kỷ luật,
thậm chí người thân của Mỹ Tiệp cũng quay lưng trở lại với cô. Có thể thấy,
với Mỹ Tiệp, chính người thân của Mỹ Tiệp trở thành rào cản lớn nhất, khó
khăn nhất mà cô phải vượt qua. Mỹ Tiệp với quyết định ly hôn khiến cô cảm
thấy “Một lần nữa nàng lại thấy mình đắc tội với những người như má như cô
như chị nhưng vừa chui vào trong tàu đò thì nàng đã nghĩ khác, tâm trạng
của nàng liên tục bập bênh như vậy, nàng nghĩ cái cuống nhau gia tộc lắm
lúc giống như sợi thòng lọng dai dẳng, mình an phận thì nó nhắc nhở thúc
giục nhưng mình muốn nhốm chạy thì nó kéo lại, thít chặt vào hơn” [23,
tr.28]. Khi không thể làm thay đổi quyết định của Mỹ Tiệp, thậm chí cô Tư
Ràng đã thay mặt cho gia đình viết đơn từ Mỹ Tiệp, cắt đứt mối quan hệ, cắt
đứt luôn cả sự hỗ trợ mẹ con Mỹ Tiệp lúc khó khăn nhất. Mỹ Tiệp vẫn quyết
tâm thực hiện việc thôi thúc từ chính trái tim của mình. Mỹ Tiệp nói với anh
trai: “Em chấp nhận búa rìu. Sống với Tuyên thì sớm muộn gì em cũng có
người khác.” [23, tr.91].
Trong Tiền định, Chín quyết định ly hôn vì phát hiện thói trăng hoa
của Thân. Trong hoàn cảnh rất khó khăn, Chín mới hai mươi mốt tuổi, “Một
nách hai đứa con, trở về nhà mẹ đẻ sau khi tiêu tan sự nghiệp” [18, tr.68].
Mặc cho Thân tìm mọi cách để níu kéo, Chín không quay về, Chín “xua
người thuyết khách như xua chuột, không tha thứ cho Thân “ [18, tr.68 - 69].
Vì Thân ghen với Hòa, Chín bị kỷ luật. Chín đấu tranh quyết liệt với vị
trưởng phòng tổ chức “Riêng với cơ quan tôi chẳng có lỗi lầm để phải hối
hận. Người quyết định kỷ luật tôi mới sai” [18, tr.105]. Bao đòn roi dành cho
Chín nhưng “Cô gầy rộc, mặt cúi gằm, chỉ đôi mắt to mỗi ngày sáng quắc
hơn, dữ dội những lúc ngẩng lên nhìn ai” [18, tr.135], “Đêm đêm úp mặt vào
ngực con, Chín nghiến răng, cho phép thứ nước mắt yếu đuối của cô dây
bẩn đến thiên thần bé bỏng… Con ơi, hãy kiêu hãnh chịu khổ cùng mẹ của
con. Trên đời này chẳng ai có quyền tự hào đã bắt được mẹ sống theo ý họ.
72
Rồi có lúc họ phải hổ thẹn vì đã làm mẹ con mình đau đớn thế này”[18,
tr.135 – 136]. Vì ly hôn, vì quyết định đi tìm hạnh phúc cho mình, Chín tiêu
tan sự nghiệp, Chín bị kỷ luật, chịu đựng bao khổ cực, vật lộn với cuộc sống,
đối đầu với dư luận nhưng Chín không chịu bó tay chấp nhận, không đầu
hàng số phận. Chín gồng mình lên để vượt qua. Chín dứt khoát không viết
đơn xin nghỉ việc dù bị thuyên chuyển, dù bị giao những công việc khó
khăn. Chín xin thi lớp đạo diễn, tìm lối thoát cho sự nghiệp của mình. Chín
học vẽ, tìm niềm vui sống trong hội họa.
Sự thật người phụ nữ thường chịu nhiều thiệt thòi, những định kiến về
người phụ nữ khiến hành trình tìm kiếm hạnh phúc, được sống là chính mình
vô cùng khó khăn. Với sự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, với khao khát
hạnh phúc cháy bỏng và sự vùng dậy mạnh mẽ của cái tôi nữ quyền, bản thân
nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê trong cuộc đời thực đã dám sống là chính mình,
dám yêu say đắm, dám đấu tranh cho hạnh phúc của cá nhân, dám hết mình
với đam mê nghệ thuật. Cái tôi cá nhân ấy của hai nữ nhà văn đã hóa thân vào
hai nhân vật nữ trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn và Tiền định, trở thành
tiếng nói đấu tranh của những người phụ nữ thời đại mới, đấu tranh cho hạnh
phúc cá nhân, cho sự bình đẳng của người phụ nữ trong xã hội.
2.4.4. Cái tôi day dứt, dằn vặt
Sự vùng dậy, đấu tranh cho sự thay đổi không bao giờ dễ dàng. Trên con
đường tranh đấu, con người vừa phải tự tìm đường đi cho mình, phải lựa chọn
và phải chấp nhận những mất mát. Đối với người phụ nữ, để tìm kiếm hạnh
phúc cá nhân, không tránh khỏi những đổ vỡ, mất mát, không thể tránh khỏi
những dằn vặt, day dứt. Hành trình đi tìm hạnh phúc đích thực, nhân vật Mỹ
Tiệp và Chín đều phải trải qua những đau đớn và thử thách. Đau đớn và thử
thách lớn nhất, đó là nỗi đau của người làm mẹ nhưng không đem lại cho con
mình cuộc sống hạnh phúc, là người con, người em, người chị trong gia đình
73
nhưng không thể chiều theo mong muốn của gia đình. Nguyên nhân dẫn đến
nỗi đau ấy bắt đầu do sai lầm của Tiệp, của Chín từ khi lập gia đình. Hậu quả
là những đứa con tội nghiệp phải gánh chịu thiệt thòi, má, cô, chị, em Tiệp
thêm buồn .
Là người con, người cháu, người em, người chị trong gia đình những
người đàn bà góa, Tiệp không khỏi dằn vặt vì quyết định ly hôn của mình.
Một quyết định mà từ đó đụng chạm vào bao nhiêu nỗi đau của người thân
“Tiệp ngồi lúc lắc hết nhìn ngọn đèn ống khói tới nhìn bà cô và nhìn bà chị
cả, ánh mắt ngao ngán cùng cực. Vòng vây của nàng là những bà góa, cô
góa, má góa, cô em út cũng góa, bốn bức tường gương mà nếu nàng soi vào
thì nàng phải lập tức quên tuổi trẻ và khát vọng của mình đi để nhớ rằng
không thể so sánh nỗi bất hạnh nào với nỗi bất hạnh của những người góa
bụa” [23, tr.22]. Từ khi có ý định cho tới khi quyết định ly hôn, hình ảnh, nỗi
đau của cô Tư Ràng, của má, của chị Hoài, Út Mỹ, Mỹ Nghĩa cứ trở đi trở lại
xuất hiện trong suy nghĩ của Tiệp. Tiệp trăn trở vì thương cho cô, cho má, cho
chị và em gái của mình, không muốn làm ảnh hưởng tới gia đình, dòng tộc.
Tuy nhiên, nỗi đau và sự day dứt lớn nhất của Tiệp chính là Thu Thi, Vĩnh
Chuyên – những đứa con tội nghiệp của Tiệp với Tuyên. Việc Tiệp không
kiểm soát nổi mình khiến Thu Thi và Vĩnh Chuyên bị tổn thương vì phải
chứng kiến cảnh cha mẹ tranh cãi, sự đổ vỡ của gia đình. Sau này, khi nghe
con nói về bài văn viết về kỷ niệm sâu sắc nhất Tiệp mới nhận ra và luôn day
dứt, dằn vặt mình về điều đó “Lúc đó, lúc con nói lại không khí lớp học và bài
văn, nhìn gương mặt bệu bạo của nó nàng bỗng thấy mình thật đê tiện” “đó
là một vết đen không thể phai mờ được trong lương tâm nàng” [18. tr.86]. Sự
dằn vặt và đau đớn vì con còn theo suốt cuộc đời sau này của Tiệp. Khi đã đi
đến đích cuộc tìm kiếm hạnh phúc của mình, được chung sống cùng với
người đàn ông đích thực của mình dưới một mái nhà, Tiệp phải xa con. Nỗi
đau của người mẹ vì hạnh phúc của mình mà phải xa con khiến Tiệp đau đớn
74
tới mức “Nàng đổ xuống một cách thê thảm, quằn quại, như một cái cây trong
cơn bão, nàng muốn vạch đất xé trời để được nhìn thấy các con, giá có thể
chạy bộ mà trở về được, giá có thể nhìn thấy chúng nó một lần nữa, lúc này”
[23, tr.277]. Ở bên Đính, Tiệp luôn day dứt khi nghĩ về con, nhớ thương và
xót xa cho con “Nàng nhớ buổi hừng đông mấy ngày trước, Vình Chuyên lủi
thủi quay vào nhà, nhỏ nhắn xương xẩu thiếu thốn, Thu Thi phong phanh
trong chiếc áo váy bong lấm chấm đứng dạt dưới bóng cây trứng cá để chiếc
xe chính sách của cơ quan đưa nàng vọt đi, ngay lúc này, khi đã có Đính rồi
thì nàng không ước mình được xẻ ra, được phân thân ra mà ước được quay về
để được nhìn thấy các con một chút.” [23, tr. 278 - 279]. Sâu thẳm trong lòng
của người mẹ là những nỗi niềm, sự giằng xé “Để được sống với người mình
yêu cũng có nghĩa là phải thường xuyên gào khóc với lương tâm làm mẹ như
vầy sao, cái giá này nàng đã ước lượng hết chưa và phải trả đến bao giờ”
[23, tr.279], “Nàng khóc rỉ rả trong tay Đính và lại nghĩ, như muôn ngàn lần
trong mười mấy năm qua, rằng nếu có kiếp sau thì nàng sẽ chọn gì, tình yêu
hay mẫu tử? Phải, nếu như có cái kiếp sau ấy thì nàng sẽ chọn sao cho hai
thứ tình ấy có trong nhau, sinh ra cho nhau và vì nhau, mãi mãi, suốt đời”
[23, tr. 279]. Đau đớn, day dứt, dằn vặt hơn khi Tiệp nghe tin gia đình con gái
đổ vỡ, con gái chịu nỗi đau đớn vì chồng phụ tình. Nhận được tin từ Đính
“Nàng ngồi dậy, lưng gập xuống rõ ràng bộ dạng trời đày” [23,tr.291]. Tiệp
tự vấn, tự lên án bản thân mình “Cha ăn mặn con khát nước, nàng đang được
thì con nàng phải mất, đúng không? Bù và trừ, lẽ nào cuộc đời lại nhẫn tâm
với nàng như vậy?” [23, tr.292]. Tiệp dằn vặt bản thân “Tại vì nàng bỏ rơi
con hay vì thế giới bổng lộc của ba nó làm cho nó buông thả, uất ức, quáng
mắt, tiêm nhiễm và đã đến lúc chính nó phải trả giá?” [23, tr.292].
Cũng như Tiệp, những sai lầm trong việc kết hôn khiến Chín liên tiếp
mắc phải sai lầm. Sửa lỗi sai này thì phạm phải lỗi sai khác. Sai lầm khi kết
hôn, khi phát hiện thói trăng hoa của Thân, Chín quyết định ly hôn. Vì sự níu
75
kéo của Thân, tin lời Thân, Chín đi tìm hạnh phúc cho mình, Chín đến với
Hòa, có thai với Hòa. Sức ép từ dư luận, từ việc kỷ luật của cơ quan, Chín bỏ
đi cái thai bốn tháng tuổi để sửa sai “Này ông trưởng phòng tổ chức, tôi đã
sửa sai được một cái dại dột, tôi thách ông gây chuyện nữa với tôi nữa đấy...”
[18, tr.120]. Tuy nhiên, trong sâu thẳm cõi lòng của người mẹ dại dột, khốn
khổ, Chín đau đớn vì sự mất mát này. Trong giấc ngủ mộng mị, Chín đuổi
theo người đàn ông hay đến trong mơ đang bế đứa trẻ đi “Chạy theo không
kịp, nàng nức nở kêu gào. Lòng nàng đau thắt khi hiểu ra rằng lần chia ly này
sẽ là mãi mãi… Con thuyền chìm vào trong sương khói. Nàng gào lên thảm
thiết: Con ơi, con ơi…!” [18, tr.122]. Nỗi đau ấy trở lại, khi được gợi nhắc lại
qua câu chuyện gọi hồn. Sinh linh nhỏ bé, tội nghiệp hiện về khiến ”Chín tan
nát cả cõi lòng khi trong óc nàng chợt hiện ra cái bọc giấy báo Hòa cầm trên
tay đưa đi chôn”[18, tr.131]. Chín ân hận, dằn vặt bản thân mình, xót xa cho
con “Tí Quê Hẩm Hiu, con trai ơi, mẹ sẽ khấn tên con mỗi ngày giỗ chạp
cùng ông bà nội ngoại để con khỏi vất vưởng chen cướp miếng cháo bố thí.
Lâu nay mẹ vô tình quá! Mẹ cứ ngỡ chưa thể coi con thành một sinh linh. Xin
con đừng oán trách mẹ!”[18,tr.132].
76
Tiểu kết chương 2
Trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn và Tiền định, Đoàn Lê, Dạ Ngân đã
lấy chất liệu đời tư và trải nghiệm của bản thân để xây dựng tác phẩm. Tuy
nhiên, khi đưa vào tiểu thuyết các nhà văn đã tiểu thuyết hóa tạo nên những
chi tiết, hình tượng nghệ thuật đặc sắc, thể hiện quan điểm sâu sắc về cuộc đời
và con người. Nhân vật, hiện thực phản ánh, quan điểm trong tác phẩm không
chỉ là những sự thật gần gũi với nhà văn, là nhà văn, của nhà văn mà đã trở
thành hình tượng có sức khái quát, mang ý nghĩa xã hội lớn lao. Với sự trỗi
dậy mạnh mẽ của cái tôi cá nhân, Đoàn Lê và Dạ Ngân đã mạnh dạn đưa chất
liệu đời tư, những chi tiết tiểu sử, những trải nghiệm của mình, của người phụ
nữ để viết tiểu thuyết tạo sự hấp dẫn đặc biệt với người. Qua tác phẩm, các
nhà văn đã giúp người đọc khám phá đời sống tâm hồn người phụ nữ trong
những hoàn cảnh đặc biệt cũng như trong cuộc sống đời thường. Có thể thấy
rằng, thành công của tiểu thuyết tự truyện Gia đình bé mọn, Tiền định ở
phương diện nội dung đã góp phần không nhỏ trong sự đổi mới tiểu thuyết
Việt Nam đầu thế kỷ XXI nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
77
Chương 3: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
GIA ĐÌNH BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG
DIỆN NGHỆ THUẬT
Trong tác phẩm có yếu tố tự truyện, sức hấp dẫn ban đầu đến từ chất liệu
đời thực của nhà văn thể hiện qua nội dung cốt truyện. Là thể loại tự sự hư
cấu nên tiểu thuyết có lợi thế hơn hồi ký, nhật ký… ở khả năng “phóng chiếu”
từ câu chuyện có thật đến tác phẩm qua nghệ thuật trần thuật. Trong khuôn
khổ luận văn, chúng tôi khảo sát một số phương diện nghệ thuật tiêu biểu
trong hai tiểu thuyết này thấm đẫm yếu tố tự truyện của nhà văn là ngôi kể và
điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu.
3.1. Ngôi kể (Điểm nhìn trần thuật)
Trong lý thuyết tự sự học, người kể chuyện còn gọi là “người trần thuật”,
“là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của
người trần thuật đó mà sản phẩm là văn bản tự sự” [37, tr.17]. Trạng thái
xuất hiện của người kể chuyện trong tác phẩm là chủ ý nghệ thuật của nhà
văn. Vấn đề người kể chuyện và “điểm nhìn” thường được xem xét trong mối
quan hệ với lịch sử, tác giả, thế giới được miêu tả với những tương tác và
khoảng cách nhất định. Lý thuyết tự sự cũng coi kể chuyện theo ngôi thứ nhất
và kể chuyện theo ngôi thứ ba là hai phương thức trần thuật cơ bản. Tuy
nhiên, hai loại hình trần thuật này có sự vận động, biến đổi theo lịch sử thể
loại nói chung và trong văn xuôi Việt Nam nói riêng. Nếu như trước đây, trần
thuật từ ngôi thứ ba với người kể chuyện toàn tri là phổ biến thì trong văn học
đương đại có xu hướng người kể chuyện ở ngôi thứ ba mang sắc thái mới và
người kể chuyện ở ngôi thứ nhất xuất hiện với tần xuất lớn và ngôi kể có sự
thay đổi linh hoạt theo điểm nhìn.
Điểm nhìn nghệ thuật được xác định là: “Vị trí từ đó người trần thuật nhìn
ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thuật nếu không có
78
điểm nhìn, bởi nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong
việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần
không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc
sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ sự đổi thay điểm nhìn” [8, tr.113].
Vì vậy, trong văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng, nhà văn đương đại
không ngừng nỗ lực tạo ra điểm nhìn trần thuật đa dạng, sáng tạo. Từ đó có thể
chuyển tải đến độc giả một cách nhìn về cuộc sống và con người.
3.1.1. Ngôi thứ ba – sự khách quan hóa
Có nhà lý luận phê bình cho rằng tiểu thuyết tự truyện cũng có giá trị
thanh lọc tâm hồn như bi kịch. Thông thường, với tác phẩm có yếu tố tự
truyện, độc giả sẽ hình dung truyện được kể từ ngôi thứ nhất để nhân vật trực
tiếp thể hiện cái tôi cá nhân của mình. Điều này khá phổ biến trong văn học
thế giới, chẳng hạn như tiểu thuyết tự thuật của M.Gorki, Marcel Proust, N.
Sarraute… Theo nghiên cứu của Vũ Thị Hạnh trong bài viết Hiện tượng tự
thuật trong tiểu thuyết của các nhà văn nữ, nhà văn nữ hải ngoại thể hiện rất
rõ ý thức sử dụng tự thuật thông qua việc lựa chọn mô hình trần thuật ngôi
thứ nhất kiểu trải nghiệm nên trong tiểu thuyết của họ, kiểu trần thuật này
chiếm vị trí chủ đạo. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy, trong tiểu thuyết
có khuynh hướng tự truyện ở Việt Nam nói chung phần lớn sử dụng kiểu trần
thuật từ ngôi thứ ba. Trong Gia đình bé mọn của Dạ Ngân và Tiền định của
Đoàn Lê cũng vậy.
Người kể chuyện ngôi thứ ba (người kể chuyện hàm ẩn) được hiểu là
người kể chuyện không xuất hiện trong tác phẩm như một nhân vật mà kể câu
chuyện liên quan đến người khác. Đặc điểm của phương thức này là người kể
chuyện toàn tri về diễn biến của câu chuyện và số phận nhân vật.
Trong văn xuôi Việt Nam đương đại nói chung, hình thức kể chuyện từ
ngôi thứ ba vẫn được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, cách tổ chức điểm nhìn
79
trần thuật truyền thống đã có sự kế thừa sáng tạo. Ưu điểm của hình thức này
được phát huy như bao quát nhiều vấn đề hiện thực rộng lớn, thể hiện quan
điểm, tư tưởng, cách giải quyết vấn đề mang dấu ấn phong cách nhà văn một
cách trực tiếp qua những bình luận, phân tích, phát ngôn. Độc giả có thể tin
tưởng người kể chuyện “biết tuốt”, tiếp cận với thông điệp chủ đích của nhà
văn bằng con đường ngắn nhất qua sự “dẫn dụ” của người kể chuyện. Trong
tiểu thuyết tự truyện, sự tương đồng giữa cuộc đời được kể và cuộc đời thực
của tác giả không hoàn toàn trùng khớp bởi cuộc đời họ đã được “tiểu thuyết
hoá”. Sự lựa chọn ngôi kể và điểm nhìn trần thuật nằm trong ý đồ nghệ thuật
của nhà văn.
Trong tiếng Việt, ngôi thứ ba được sử dụng khá đa dạng như: anh, gã,
hắn, lão, y, thị, nàng, nó… Mỗi đại từ biểu thị ngôi thứ ba này lại bao hàm
thái độ của nhà văn, khi thì trung tính (tên trực tiếp, anh, cô…), khi thì mang
hơi hướng tôn xưng, lãng mạn (nàng, chàng, ngài…), khi thì hạ thấp(gã, hắn,
mụ, y, thị) đối tượng... Lựa chọn sử dụng ngôi kể này, nhà văn hướng đến sự
khách quan hoá câu chuyện, gia tăng độ gián cách, làm nhoè mờ ranh giới
giữa câu chuyện tự thuật với tác phẩm. Đồng thời, kể từ ngôi thứ ba cho phép
người trần thuật có thể tham dự vào cuộc đời của tất cả các nhân vật, di
chuyển điểm nhìn một cách linh hoạt theo các nhân vật đó. Thường người kể
chuyện hoá thân vào nhân vật để bộc lộ, ít khi đưa ra những bình luận, ý kiến
trực quan. Với điểm nhìn zero (theo cách định danh của Genette) tức là điểm
nhìn “toàn tri” - không có điểm nhìn cố định. Người kể chuyện đứng bên
ngoài sự kiện nhưng lại có tầm bao quát và toàn năng, tự do vô giới hạn.
Chính vì vậy có thể đem lại khả năng kể, miêu tả rộng rãi đời sống và cả thế
giới tinh thần của con người.
Cũng như nhiều nhà văn đề cao “ý thức viết tiểu thuyết”, Dạ Ngân và
Đoàn Lê lựa chọn kể từ ngôi thứ ba trong hai tác phẩm Gia đình bé mọn và
Tiền định. Có lẽ, viết về chuyện đời tư, như tác giả từng chia sẻ còn liên quan
80
đến những người khác trong đời thực nên viết cũng có sự nghiền ngẫm, chừng
mực. Do đó, so với kể chuyện từ ngôi thứ nhất, tiểu thuyết tự truyện mang
tính riêng tư nhiều hơn, kể từ ngôi thứ ba cho phép nhà văn vừa tự do với trải
nghiệm cá nhân vừa có thể khái quát về một hiện thực nào đó. Nhìn từ góc độ
tiếp nhận, khi nhà văn sử dụng ngôi kể thứ nhất, câu chuyện được xác nhận là
của tác giả nhưng kể từ ngôi thứ ba thì sự xác nhận đó sẽ “mập mờ” hơn, gia
tăng khả năng khái quát và hư cấu hoá trên cơ sử tư liệu đời thực tác giả.
Vì vậy, nhiều nhà văn lựa chọn ngôi kể thứ ba này trong tiểu thuyết có
khuynh hướng tự truyện như: Bùi Ngọc Tấn kể từ ngôi “hắn” trong Chuyện
kể năm 2000; Nguyễn Khải kể từ “hắn” trong Thượng đế thì cười, Ma Văn
Kháng kể từ “Toàn” trong Một mình một ngựa…
Khi nhà văn kể chuyện từ ngôi thứ ba cũng thể hiện ý thức “thoát ly
điểm nhìn mang tính chủ quan để từ đó đem đến thông điệp khái quát, sâu
rộng hơn về một lối sống, kiểu người, tránh cách tiếp nhận đồng nhất giữa
nhân vật trong tác phẩm với nhà văn. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Hoàng Thị
Tâm khi khảo sát tiểu thuyết tự truyện đã chỉ ra hai trường hợp đặc biệt: “trần
thuật từ ngôi thứ nhất với điểm nhìn khách quan và trần thuật ngôi thứ ba với
điểm nhìn chủ quan” [38, tr.98]. Đây là những cách kể cho phép độ mở liên
tưởng khác nhau về sự tương đồng giữa tác giả và người kể chuyện.
Điểm đặc biệt là ở chỗ, trong tiểu thuyết tự truyện, dù nhà văn lựa chọn
kể từ ngôi thứ ba nhưng chúng luôn hướng đến một ẩn dụ nào đó về tác giả.
Trong Gia đình bé mọn và Tiền định đều được trần thuật từ ngôi thứ ba với
điểm nhìn hạn tri (chủ quan), điểm nhìn chủ yếu đặt ở nhân vật nữ chính.
Trần thuật từ ngôi thứ ba có ưu thế là cho phép người trần thuật có thể tham
dự vào cuộc đời của tất cả các nhân vật, di chuyển điểm nhìn một cách linh
hoạt theo các nhân vật đó.
81
Ở Gia đình bé mọn – ngôi kể thứ ba nhập vào nhân vật, gắn với điểm
nhìn của Mỹ Tiệp là chủ đạo, chi phối nhưng đôi chỗ có sự di chuyển điểm
nhìn sang nhà văn Đính. Dấu ấn của tự truyện vẫn khá đậm nét với sự “nước
đôi” của ngôi nhân xưng Tiệp, nàng, anh cùng với sự vận dụng điểm nhìn bên
trong khiến người kể chuyện dễ dàng biểu đạt thế giới nội tâm của mình.
Trong đoạn Tiệp kể về cảm xúc của mình: “Lần đầu tiên nàng cảm thấy trong
bàn tay tinh nghịch của mình một sinh vật cừ khôi- trước đây với Tuyên nào
không có nhu cầu đùa giỡn với nó. Nàng trôi trên người Đính, như ban nãy
Đính cẩn trọng với từng centimet thịt da nàng. Tiệp thấy mình bạo dạn và lão
luyện, sự dịu dàng của da thịt đằm thắm, ngọt ngào…” [23, tr.157]. Dù ngôi
kể là Tiệp, nàng nhưng có thể hiểu đó là tôi bởi những cảm xúc thầm kín nhất
chỉ có thể được bởi chủ thể trực tiếp.
Xuyên suốt tiểu thuyết Tiền định cũng được trần thuật chủ yếu từ ngôi
thứ ba với điểm nhìn chi phối của nhân vật nữ chính là Chín, cũng có một số
phân đoạn, điểm nhìn chuyển sang anh- người yêu hiện tại của cô. Chỉ có một
phần nhỏ “Chuyện phụ thứ hai” trong chương sáu (8 trang) kể về đoạn đời
“sao đổi ngôi”: cô Chín bắt đầu có chút thành công khi trở thành đạo diễn,
gặp lại ông Trưởng phòng Tổ chức - kẻ thù năm xưa nay rơi vào cảnh bi kịch
thảm hại ) và “Chuyện phụ thứ tư” trong chương chín (5 trang) kể về bác
Ngọc - người kéo xích lô cho gia đình, tác giả sử dụng ngôi thứ nhất. Sự thay
đổi đột ngột ngôi kể nhưng thực ra vẫn giữ nguyên điểm nhìn từ nhân vật cô
Chín- lúc này trở thành điểm nhìn bên trong. Nhân vật là người trải nghiệm
đồng thời chứng kiến những biến cố bi kịch trong cuộc đời người khác. Sự
sắp sếp này gây chú ý, đánh dấu cột mốc một chặng đường mới của nhân vật
chính, khẳng định cái tôi cá nhân, sức sống không gì có thể khuất phục, lòng
trắc ẩn của cô (đằng sau đó là bóng dáng con người, cá tính của chính tác giả)
trong tiểu thuyết tự truyện này. Cách sử dụng ngôi kể trong Tiền định có thể
gặp trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, tác giả kể ở ngôi thứ ba
82
nhưng luôn gắn với điểm nhìn của nhân vật Kiên và đan xen vào đó là một số
trang ở ngôi thứ nhất.
Đặc biệt, trong các hai tiểu thuyết, ngôi nhân xưng là tên nhân vật tạo ấn
tượng khách quan, kể chuyện của “người khác”, nhấn mạnh cá tính nhân vật
trong vai trò một thành viên trong gia đình, một cán bộ nơi cơ quan nhà nước,
gia tăng tính khái quát hiện thực trong tác phẩm. Còn khi kể về những trải
nghiệm tình yêu, cảm xúc tính dục, ngôi kể thường linh hoạt chuyển sang
nàng với sắc thái chủ quan của điểm nhìn bên trong.
Dù được kể từ ngôi thứ ba nhưng qua điểm nhìn của nhân vật nữ chính
kết hợp với chất liệu tự thuật, hai nhà văn nữ này đã đem những câu chuyện
cuộc đời mình, của phái nữ vào trong tác phẩm một cách kín đáo, tế nhị. Ở
đó, tác giả cũng thể hiện quan niệm, cảm nhận, dấu ấn của cái tôi cá nhân
của mình. Lựa chọn mô thức kể chủ đạo từ ngôi thứ ba nhằm để người kể
chuyện dẫn độc giả đến một thế giới của người khác, “tách rời tác giả”. Tuy
nhiên, trong hai tiểu thuyết này, dù ngôi kể hướng tới sự khách quan hoá
nhưng qua điểm nhìn nhân vật nữ, nhà văn vẫn ngầm biểu thị thái độ chủ
quan của mình qua ngôi kể, tình huống, chi tiết, thực chất vẫn mang cái nhìn
của ngôi thứ nhất- giọng kể thường trùng khít với biểu hiện tâm trạng của
nhân vật nữ chính.
Lựa chọn kể từ ngôi thứ ba với điểm nhìn nhân vật được đánh giá là nét
đặc thù của tiểu thuyết tự truyện trong văn chương Việt Nam đương đại. Qua
đó nhà văn vừa hướng đến khái quát đời sống vừa gợi ra những ẩn dụ về cái
tôi tác giả trong bối cảnh xã hội còn nhiều định kiến. Dấu ấn của tự truyện
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung là điểm nhìn nghiêng về giá
trị cá nhân. Với Dạ Ngân và Đoàn Lê, điểm nhìn nghiêng về giới nữ với hành
trình đi tìm hạnh phúc riêng. Mỗi tiểu thuyết đều thể hiện một cách nhìn cá
nhân, xây dựng một hình tượng cá nhân khác biệt, thậm chí đối lập với môi
83
trường xung quanh. Đó là Mỹ Tiệp, Chín với gia đình, dòng tộc, cơ quan- mô
hình xã hội thu nhỏ trong Gia đình bé mọn và Tiền định. Qua đó đưa ra cách
đánh giá, lí giải của nhà văn trước đời sống. Nếu trong Gia đình bé mọn,
hạnh phúc của người phụ nữ là phải đấu tranh, đánh đổi thì trong Tiền định,
hành trình đi tìm hạnh phúc đó không tránh khỏi thứ gọi là tiền định.
3.1.2. Ngôi thứ ba – màu sắc lãng mạn
Trong các xu hướng sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba điểm đến ở
trên thì trong Gia đình bé mọn và Tiền định kể theo xu hướng “tô đậm màu
sắc lãng mạn nữ tính” khi sử dụng ngôi kể nàng. Trong văn học Việt Nam
hiện đại, sử dụng ngôi kể “chàng”, “nàng” được sử dụng phổ biến với màu
sắc cổ điển trong tiểu thuyết lãng mạn đầu thế kỉ XX hoặc với sắc thái giễu
nhại trong tiểu thuyết đương đại. Với hai tiểu thuyết này, bên cạnh việc sử
dụng ngôi kể là tên nhân vật, cô, đại từ nàng được sử dụng với mật độ khá
lớn. Ngôi kể này gợi về những câu chuyện tài tử - giai nhân xưa và cũng toát
lên tinh thần nữ tính, lãng mạn hoá câu chuyện qua lăng kính của nhân vật nữ.
Trong Gia đình bé mọn, câu chuyện được kể qua điểm nhìn của nhân
vật nữ chính - Tiệp và có sự thay đổi uyển chuyển với cách gọi gián tiếp là
nàng. Phần đầu của tiểu thuyết sử dụng trực tiếp tên Tiệp nhiều hơn, về phần
sau thì nàng được sử dụng với mật độ nhiều gần như ngang bằng. Những
đoạn tả về tình cảm, tình yêu, thế giới nội tâm nhân vật chính thì ngôi kể lại
chuyển thành nàng: “Một chặng xe buýt Tiệp đã từng ngồi trong lòng cô Ràng
hồi hai cô cháu vừa buôn bán vừa đi thăm nuôi ba nàng trước khi ông bị đày
ra Côn Đảo và thành liệt sĩ trong xà lim cấm cố. Đặt chân xuống đầu kia của
Sài Gòn, xa lạ thật nhưng năm đó Tiệp mới hai mươi ba tuổi, dạt dào sức
mạnh dấn bước trong từng sự việc, trong tưởng tượng và trong khát vọng của
đời mình, nàng kêu xa với Tuyên vì nàng không nghĩ mình lặn lội một mình
chứ xa hơn Bà Điểm nữa nàng cũng đi được”[23, tr. 27]. Những đoạn miêu tả
84
Tiệp trong vòng xoáy tình yêu, cảnh sex chủ yếu được sử dụng đại từ nàng: “
Nhưng nàng không ngờ chuyện chung đụng lại diễn ra ngay, trong cái Nhà
khách sừng sỏ ấy, như là sự chiếm đoạt. Nàng không thấy gì cả, ngoài cảm
giác ngạc nhiên sao lại có thể đơn giản như vậy và sao lại chỉ có một mình
Người ấy được lau chùi còn nàng thì nằm vắt trên thành giường, tê điếng vì
xấu hổ ? Nhưng nàng đã bị tiếng sét xuyên vào tận tâm can, nàng tiếp tục vài
lần như vậy với sự hy sinh một cách u mê như thần dân với vị vua của mình”
[23, tr.79].
Màu sắc lãng mạn gắn với ngôi kể nàng thể hiện ở cách nhìn, cảm nhận
cuộc sống giàu xúc cảm, ở cách sống mãnh liệt dám vượt qua những ngăn trở,
định kiến, đương đầu với thách thức để kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc của
nhân vật chính. Nàng trong Gia đình bé mọn dám sống với sở thích, đam mê,
tình yêu của mình dù luôn bị đeo bám bởi luân lí, trách nhiệm giữ truyền
thống gia tộc, uy tín trước cơ quan, làm mẹ, làm vợ... Nhân vật nữ chính được
khắc hoạ với lối hành động theo quy luật của cảm xúc chứ không phải lí trí
nên việc sử dụng ngôi kể nàng phát huy tối đa hiệu ứng thẩm mĩ của nó.
Cũng có nét tương đồng với Gia đình bé mọn, những trường đoạn kể về
nhân vật nữ chính trong Tiền định từ bé, tản cư chạy giặc, với gia đình, công
việc, tác giả thường để nguyên tên nhân vật người kể chuyện là Chín, cô, đôi
chỗ là tôi. Qua đó, đan xen với câu chuyện tình yêu hiện tại với anh nhà báo
là câu chuyện bao mảnh đời trong kí ức, những biến cố theo suốt chiều dài
cuộc đời nhân vật: “Lên bốn tuổi, Chín khao khát được đi học. Hàng ngày nó
lấy quết trầu của bà trẻ Tôm học viết chữ trên sân gạch. Bà trẻ Tôm là một bà
goá to béo, đẫy đà, cả người thơm lừng mùi trầu. Nhà bà ngay sát ngõ nhà
Chín. Sáng nào bà cũng nhổ quết trầu vào cái bát mẻ cho Chín cùng thằng
Hiên chấm que tập viết” [18, tr.168]. Mặt khác, những diễn biến cốt truyện
liên quan đến tâm tư tình cảm, đặc trưng giới tính nữ hay những phong ba
tình trường, ngôi kể chuyển sang nàng: “ Ai ngờ, thuở dậy thì nàng thường có
85
những giấc mơ quái dị. Nàng thấy mình trở thành đàn ông, vè vè lượn quanh
các cô gái đẹp… Có bận, nàng tỉnh giấc trong sự hoang mang xấu hổ đến
chết đi được”[18, tr.57]; “Vào giây phút nàng muốn nhắm nghiền mắt, ngửa
cổ đón nghe đôi môi anh lần xuống bầu ngực mình… bỗng nhiên nàng rùng
mình. Ai? Đôi mắt kia in hằn trên nền ri đô nhung xanh trong đêm? Đôi mắt
ấy rõ nét lắm, đăm đắm, mở to nghiêm nghị nhìn nàng không chớp.” [18, 207]
Cuộc đời nhân vật Chín dù nhiều chìm nổi, truân chuyên từ tấm bé sống
trong thời tao loạn đến cuộc hôn nhân không tình yêu, đau đớn và đổ vỡ trong
mối tình không danh chính ngôn thuận, làm mẹ đơn thân… nhưng ngôi kể
nàng tạo hiệu ứng như xoa dịu, làm tôn lên người phụ nữ có sức quyến rũ bí
ẩn, nghị lực sống bền bỉ.
Nếu hai tác phẩm chỉ sử dụng ngôi xưng trung tính là Tiệp, Chín, cô,
chị…thì không ảnh hưởng gì đến cốt truyện nhưng làm thay đổi sắc thái đánh
giá của tác giả với câu chuyện được kể. Sử dụng ngôi kể nàng, Dạ Ngân và
Đoàn Lê đã ngầm gửi vào đó thái độ khẳng định, nâng niu, trân trọng, xót xa
và cũng tôn lên nhân vật của mình. Bởi nhân vật mang dấu ấn tự thuật của tác
giả nên qua đó nhà văn cũng thể hiện cái tôi cá nhân. Sắc thái biểu cảm của
đại từ nhân xưng này dẫn người đọc vào thế giới của tiểu thuyết lãng mạn, gợi
lên những liên tưởng khác nhau; nhân vật được nhào nặn từ chất liệu đời tư
tác giả nhưng có sự vượt thoát, bay bổng hơn. Nếu trong tiểu thuyết tự truyện
của nhà văn nam thường bắt đầu bằng ngôi kể “hắn” hoặc tên nhân vật mà ít
khi dùng “chàng” với sắc thái lãng mạn thì trong tác phẩm của nhà văn nữ,
ngôi kể “nàng” được sử dụng khá phổ biến. Phải chăng đó là dấu ấn của tư
duy văn học nữ tính.
Cách kể mang màu sắc lãng mạn hoá trong hai tiểu thuyết này trở nên có
chiều sâu hơn bởi người thai nghén, sản sinh ra nó là những nhà văn nữ, cái
nhìn cuộc sống từ những điều bình dị và tinh tế.
86
3.2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là đơn vị cơ sở đầu tiên và cũng là đơn vị cuối cùng thể hiện
những đặc sắc trong sáng tác của nhà văn. Tiếng Việt là ngôn ngữ của quốc
gia thuộc vùng văn hoá Á Đông- vốn rất trọng tình nên rất giàu chất biểu cảm.
Trong tiến trình vận động của văn xuôi Việt Nam đương đại, ngôn ngữ là
thành tố thể hiện rõ nét sự cách tân mang hơi thở cuộc sống và tinh thần thời
đại. Trong Gia đình bé mọn và Tiền định, ngôn ngữ còn toát lên cá tính sáng
tạo, dấu ấn cảm xúc của hai nữ nhà văn trong xu hướng chung của ngôn ngữ
tiểu thuyết đương đại .
3.2.1. Ngôn ngữ giàu màu sắc biểu cảm
Trong xu hướng ngắn lại của tiểu thuyết thế kỉ XXI ( phổ biến là từ 150
đến khoảng 300 trang), ngôn ngữ tiểu thuyết nói chung đòi hỏi sự dồn nén,
chắt lọc, cô đọng, giàu giá trị biểu cảm. Tuy nhiên, nếu như nhà văn nam giới
thường sử dụng ngôn ngữ cá tính, lạnh lùng, khách quan thì trong sáng tác
của những nhà văn nữ thường để lại dấu ấn sắc thái nữ ở những câu văn mềm
mại, giàu nhịp điệu, hình ảnh, cảm xúc. Cùng với đó, tiểu thuyết tự truyện
thường lấy cuộc đời cá nhân làm trung tâm nên tác phẩm thiên về “hướng
nội” dẫn đến ngôn ngữ trần thuật giàu biểu cảm như một đặc tính tất yếu. Gắn
với cảm thức hoài niệm, ngôn ngữ trần thuật trong Gia đình bé mọn và Tiền
định có tính biểu cảm cao.
Có lẽ, khi viết về giới nữ từ trải nghiệm cuộc đời mình, Dạ Ngân và
Đoàn Lê phát huy tối đa khả năng tạo lập ngôn từ trong tiểu thuyết giàu tính
hình tượng, hình ảnh, tràn đầy cảm xúc. Chỉ một đoạn văn ngắn, Dạ Ngân đã
khái lược tình trường, tâm thế của nhân vật Tiệp khi gặp Đính trong Gia đình
bé mọn: “Trước kia, khi chưa gặp Người ấy, người đàn ông đã xuyên qua đời
nàng như một ánh chớp, người đã khiến nàng được sống lại thời trinh nguyên
khao khát và cũng đã khiến nàng rơi xuống như một con chim khờ khạo, phải,
87
trước khi gặp cái người đã khiến nàng nói toang lên với Tuyên chính nghĩa
của một cuộc ly dị để rồi phải gục xuống quy hàng vì roi vọt của gia tộc, tổ
chức và dư luận, phải, trước khi bập vào một sự kiện ghê gớm dường ấy nàng
cũng đã từng xao xuyến khi thì một giọng nói, một mái tóc, một ánh mắt...
Nhưng nàng đã nguội lạnh với những cơn cớ dọc đường ấy rồi. Với người
đàn ông ngộ nghĩnh, đặc biệt và chắc là rất phong tình đang đứng sau lưng
đây, nàng thấy tò mò vui vui mà cũng thấy sờ sợ, như đứng gần một thứ điện
cao thế”[23, tr.20]. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, cung bậc cảm xúc về con đường
tình ái của nàng ẩn chứa sự tuyệt vọng, bất lực và buông xuôi nhưng cũng gợi
mở về những gì sẽ diễn ra giữa nàng với nhân vật Đính này.
Hoặc khi kể về nhân vật Tiệp với những hồi tưởng về người chồng
“đồng sàng dị mộng”, một câu văn ngắn ngủi đủ nói lên cảm thức cô độc,
chênh vênh của cô trong cuộc hôn nhân này: “Nàng chuyển bụng trong căn
phòng không người, cả hai lần sinh đều không có Tuyên bên cạnh”[23, tr.29].
Phần cuối tác phẩm, khi Tiệp rời xa các con để đoàn viên với người yêu
ở Hà Nội, ngôn ngữ thống thiết, xót xa và day dứt. Tâm trạng người mẹ được
dồn nén: “Để được sống với người mình yêu cũng có nghĩa là phải thường
xuyên gào khóc với lương tâm làm mẹ như vầy sao, cái giá nầy nàng đã ước
lượng hết chưa và phải trả đến bao giờ?”[23, tr.141]
Xuyên suốt tiểu thuyết này của Dạ Ngân là ngôn ngữ giàu sức gợi tả với
nhiều cung bậc xúc cảm về quãng đời đã qua của Tiệp từ thiếu thời đến những
năm tháng ở Cứ trong chiến tranh và những thăng trầm trong cuộc sống hôn
nhân gia đình sau này.
Nếu ngôn ngữ người kể chuyện làm nên giọng điệu chung của tác phẩm
thì ngôn ngữ nhân vật giàu biểu cảm cho phép nhà văn khắc hoạ cá tính,
phong cách riêng của mỗi nhân vật trong tác phẩm này. Với dung lượng câu
chữ tối giản, độc giả có thể hình dung ngay cô Tư Ràng nghiêm khắc nhưng
88
thấu tình đạt lí; Tuyên tham vọng, cay nghiệt, vô tâm và hờ hững với vợ con;
Đính lãng tử, chu đáo nhưng thiếu quyết đoán; Tiệp kiêu hãnh, bản lĩnh và
sống thiên về cảm xúc…
Trong Tiền định của Đoàn Lê với dung lượng ngôn từ đồ sộ hơn cũng
thể hiện đậm nét dấu ấn của tác giả. Không chỉ sáng tác văn thơ, Đoàn Lê còn
là hoạ sĩ, diễn viên, đạo diễn điện ảnh nên ngôn ngữ trong văn của bà nói
chung và Tiền định nói riêng giàu hình ảnh, màu sắc, âm thanh, nhạc điệu,
gia tăng tính biểu cảm trong thể hiện thái độ của nhà văn trước cuộc sống.
Trong tiểu thuyết này, độc giả như bị cuốn vào một bộ phim với sự chuyển
cảnh theo dòng hồi ức vô thức của nhân vật qua sự dẫn dắt của ngôn ngữ.
Mở đầu Tiền định là những câu văn đầy cảm xúc trước chuyến đi của
Chín: “Nàng rất muốn biết anh nghĩ gì trước khi lên đường. Đây là sáng kiến
của anh, nàng không chịu trách nhiệm(…. ) Ô, nếu anh không còn hào hứng,
họ chẳng cần đi cùng nhau nữa. Nàng sẽ nhảy lên chuyến tàu trưa, sẩm tối là
có mặt ở hang ổ quen thuộc dưới chân núi Mẫu, nơi xiết bao yên ổn của
nàng.”[18, tr.7]. Người đọc có thể cảm nhận được tâm trạng của cô khi đang
có một người tri kỉ đồng hành tin cậy, về nơi cô mong ngóng trở về. Đan xen
trong hành trình về Đồ Sơn là những mảng kí ức sống động của nhân vật hiện
lên qua nhiều câu chuyện lồng ghép với nhau xoay quanh trục chính cô Chín.
Đó là chuyện về gia đình nàng với bà ngoại luôn ám ảnh: “Bố cháu có tử tế
đến mấy cũng phận con rể. Chết đi chắc bà vất vưởng kiếm cháo lá đa bên
đường, chứ lấy ai đèn hương cúng giỗ cho bà” vì không có con trai, người mẹ
“nghiến răng quyết liều với số phận” đẻ đến mười hai người con nhưng cuối
đời vẫn ám ảnh chết làm ma cũng không đi cướp được cháo lá đa…Đặc biệt,
chuyện về cuộc đời Chín được khái quát đầy cảm thán: “cái tính bướng bỉnh
đến khắc nghiệt đã gây bao sóng gió cho cuộc đời nàng”, “Ôi, tội nghiệp quá,
từ lúc bước chân rời bỏ gia đình, nàng như cái lá bị bứt khỏi cành, bị quăng
quật đến rách mướp trước những cơn gió phũ. Cả hai thằng đàn ông đến với
89
nàng đều chỉ biết chiếm dụng, không hề biết thương xót” [18, tr.115] . Chín
bước vào cuộc hôn nhân với Thân “giống như một con mồi, cô càng ngần
ngại, giãy giụa, cái mạng nhện càng quấn quýt”, cuộc tình với Hoà sau đó
cũng được người đời bình luận “ tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”. Mối tình sau
cuối tưởng chừng là bến đỗ của nàng lại thường xuyên ám ảnh bởi câu
“Người chưa bao giờ được là chồng em”…. Ngôn ngữ trần thuật trong Tiền
định là ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh, đậm đặc thứ ngôn ngữ dự báo, dự
cảm về những điều sẽ xảy ra với nhân vật. Điều đó góp phần xác lập một cách
nhìn, lí giải cuộc sống của nhà văn qua câu chuyện “tiểu thuyết hoá” cuộc đời
mình. Ngôn ngữ nhân vật ở đây cũng giàu tính đối thoại, triết luận thể hiện
những góc nhìn khác nhau về cuộc sống.
Nếu mạch ngôn ngữ trong Gia đình bé mọn của Dạ Ngân mềm mại,
chậm rãi, nhẩn nha thì trong Tiền định của Đoàn Lê ngôn ngữ có nhịp nhanh
cuốn theo nhiều sự kiện, cảm xúc pha lẫn sự mơ hồ trong vô thức của nhân
vật Chín. Điều đó cũng phần nào xuất phát từ số phận, cá tính của hai nhà văn
ngoài đời thực.
3.2.2. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi đời thường
Ngôn ngữ tiểu thuyết vốn được đánh giá “là ngôn ngữ gần gũi tới mức
tối đa với đời sống”. So với ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ tiểu thuyết có phạm vi
hoạt động tự do, linh hoạt hơn. Trong văn học Việt Nam đương đại, cùng với
sự thay đổi tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tác, chất liệu đời thường đã
ùa vào tác phẩm. Tiểu thuyết miêu tả hiện thực như “cái hiện tại đương thời
của người trần thuật” với những nhân vật gần gũi. Điều đó đưa ngôn ngữ trở
về với sự giản dị, chính xác thường ngày. Đồng thời, văn học có xu thế cá
tính hóa về mặt ngôn ngữ, tiệm cận ngôn ngữ đời sống qua việc gia tăng
thành phần khẩu ngữ, khác với lối sử dụng ngôn ngữ mực thước, quyền uy
trước đây. Nhiều nhà văn hầu như “chối từ” ngôn ngữ kiểu cách, nghi thức.
90
Việc sử dụng ngôn ngữ bình dị phù hợp với hướng khai thác cuộc sống ở góc
nhìn đời tư, số phận cá nhân trong các mối quan hệ phức tạp.
Có thể thấy trong tiểu thuyết đương đại tràn đầy ngôn ngữ đời thường,
thô mộc, góc cạnh. Ngôn ngữ vì thế gần với đời sống sinh hoạt hàng ngày, rút
ngắn khoảng cách giữa tác phẩm hiện thực. Hướng sử dụng ngôn ngữ này (ở
mức độ không bị đẩy lên cực đoan, thái quá) khắc hoạ con người tự nhiên,
chân thực, sinh động, nhiều màu sắc hơn. Không nằm ngoài dòng chảy chung
đó, ngôn ngữ trong Gia đình bé mọn và Tiền định đều mộc mạc, giản dị, đậm
chất đời thường với khẩu ngữ, phương ngữ.
Tác giả sử dụng ngôn ngữ trần thuật theo xu hướng đơn giản, hồn hậu
như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Con tàu đưa mẹ con Tiệp trở về thị trấn trong
quan sát của cô: “Quả tình hành khách quá lèo tèo như những con muỗi so
với trọng tải của tàu. Không nhìn thấy vợ chồng chủ tàu, chỉ nghe họ lục cục
trong buồng lái, thỉnh thoảng bà vợ cười ré lên như bị chọc lét và ông chồng
cũng thỉnh thoảng hé tấm ván giữa ra đếm khách.”[23, tr.13]
Và khi về đến nơi, khung cảnh thị trấn Điệp Vàng được miêu tả: “Nhà
chờ mái tôn thấp tè hầm hập khá sớm dưới ánh nắng le lói mà gay gắt của
mùa mưa. Trên sàn xi măng lỗ chỗ, bàn bán nước giải khát với quầy bán vé
và hai dãy người xếp hàng nhẫn nại trong mùi nước đái, mùi rác rến lưu cữu”
[23, tr.31].
Khu nhà ở thời bao cấp qua cái nhìn của Tiệp lần đầu ra Hà Nội là: “Khu
chung cư vàng gắt dưới màu xanh của những hàng xà cừ” với “mùi thum
thủm rên rỉ trong mọi xó xỉnh”, “hành lang nhiều dây phơi, quần lót phụ nữ
tự may, những cái khăn made quốc doanh thô nhám vàng khè, bếp lò để ở
ngoài cửa, chuồng sắt để trồng mấy thứ rau gia vị … ” [23, tr.162]
Còn trong Tiền định, khung cảnh nhìn từ cầu Chương Dương - Hà Nội
được miêu tả: “Dăm con thuyền mui rách, vá víu xanh đỏ đủ loại vật liệu, nép
91
bên doi cát nổi giữa dòng sông. Làn khói trắng lởn vởn bay trên mui thuyền
đủ để thiên hạ hình dung những thân phận bập bềnh nghèo khổ, đang tồn tại
chui lủi giữa đám thuyền nan ấy.” [18, tr.10]
Trải dài suốt tác phẩm này là ngôn ngữ trần thuật giản dị, gần gũi với lời
ăn tiếng nói của người dân đồng bằng Bắc Bộ. Độc giả thường xuyên bắt gặp
những dòng trần thuật tự nhiên, không chau chuốt: “ Đang ngồi nhấm nháp
từng thìa cháo trên cái ghế vải bé xinh, Chín bỗng giật mình vì tiếng trống
thúc ầm ầm từ đâu đó tiến tới. Một xe ô tô chạy rì rì qua phố, thành xe chăng
tấm vải quảng cáo chi chít chữ lẫn hình vẽ. Trên thùng xe không mui, một
đám người ăn mặc kỳ quặc ra sức thổi kèn đánh trống ỏm tỏi”.[18, tr.198]
hoặc “Cái xe tậm tịt đi được một đoạn lại phải dắt một đoạn, ngay sau khi
qua Nam Định khoảng chục cây số. Cuối cùng nó không gắng gượng được
nữa, hỏng hẳn. Thế đỡ sốt ruột hơn.” [18, tr.203]
Ngôn ngữ tiểu thuyết cho phép dung nạp tất cả các dạng thức lời nói của
nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội một cách nghệ thuật để nhà văn miêu tả
cuộc đời như nó vốn có. Trong hai tiểu thuyết này, Dạ Ngân và Đoàn Lê sử
dụng ngôn ngữ trần thuật một cách tự nhiên, dung dị nhất, gắn với thời đại,
vùng miền mà nhân vật sinh sống.
Hai nhà văn đã đưa nhiều ngôn ngữ mang chất khẩu ngữ, thô mộc gắn
liền với miêu tả con người với tính cách, số phận cá nhân làm cho nhân vật
trở nên sinh động, đời thường hơn. Trong Gia đình bé mọn và Tiền định ,
nhiều đại từ nhân xưng kiểu: mụ, lão, gã, mày, tao, nhà cháu, các đĩ, thằng,
lão … được sử dụng để tạo sự gần gũi, suồng sã, thân mật, dân dã... Câu
chuyện về con người thời hậu chiến, thời bao cấp trở nên tự nhiên, tạo cảm
giác chân thực hơn. Từ đó cho thấy nhà văn đương đại đã mở rộng quan niệm
về ngôn ngữ văn chương: không có giới hạn, mọi loại ngôn ngữ đều có thể
đưa vào tác phẩm, hiệu quả nghệ thuật đến đâu tuỳ thuộc vào người cầm bút.
92
Trong xu hướng kéo ngôn ngữ gần với hiện thực đời sống, trong Gia
đình bé mọn và Tiền định, phương ngữ được dùng như một cách thức chuyển
tải trọn vẹn câu chuyện số phận con người gắn với vùng miền họ sinh sống.
Đó là ngôn ngữ của miền Trung của mẹ Đính, của người phụ nữ đi nghe điện
thoại ở bưu điện; phương ngữ Nam Bộ trong câu chuyện về Tiệp và gia tộc,
các từ ngữ địa phương của vùng Nam Định, Hải Phòng trong miêu tả cuộc đời
cô Chín…
Việc sử dụng phương ngữ là sản phẩm của tương tác giữa ngôn ngữ đời
sống với văn học. Phương ngữ ở đây được sử dụng một cách có chủ ý chứ
không đơn thuần do đó là ngôn ngữ bản địa của Dạ Ngân hay Đoàn Lê . Qua
đó, nhà văn khắc hoạ nhân vật gắn với văn hoá vùng miền họ sinh sống.
Người đọc như được trải nghiệm trong môi trường giao tiếp của các vùng
ngôn ngữ khác nhau với những cách biểu đạt đặc trưng đầy lý thú. Điều đó
không những đem lại sự phong phú, đa dạng cho ngôn ngữ hai tiểu thuyết này
mà còn góp phần “định danh” chính xác cách ứng xử đặc trưng của mỗi nhân
vật ở những vùng quê khác nhau.
Ngôn ngữ nhân vật trong hai tiểu thuyết này cũng “thoát ly” khỏi tấm áo
chỉn chu, cất lên tiếng nói suồng sã, mang màu sắc khẩu ngữ, đời thường.
Ngôn ngữ giản dị giúp cho nhân vật trở nên gần gũi. Tiểu thuyết sử dụng
thoải mái thành phần khẩu ngữ, sự “xô lệch cú pháp” có chủ ý tạo nên lối diễn
đạt phóng khoáng, tự do. Từ đó lôi cuốn độc giả một cách tự nhiên vào câu
chuyện như có thể gặp nhân vật ở bất cứ đâu trong cuộc sống.
Có thể bắt gặp ngôn ngữ kiểu này như trong cuộc nói chuyện giữa ông
lão và bà bưu vụ sau đây:
“- Ai hẹn với bác đấy ? - giọng Bắc của mụ lua lua sục sạo.
Ông lão nhăn nhó:
- Con tui nó hẹn, tui già rồi thì chỉ có con nó hẹn thôi !
93
- May là người nhà bác ở Nha Trang chứ ở xa hơn, thời tiết thế nầy
chúng tôi không bảo đảm nối máy được đâu nhá !
- Nghĩa là sẽ liên lạc được hở đồng chí ?
- Đồng chí gì ở đây, khổ ! Mưa với gió khiếp !” [23, tr.4]
Hay như trong ngôn ngữ của nhân vật chị Ba với vợ Hiên (Hiên là hàng
xóm thời tản cư của Chín):
“ - Đây là bác Hiên gái. Bác giai đi đâu rồi?
- Nhà cháu phải đi đến đêm mới về. Từ dạo sắm được cái xích lô máy
chạy đường Cổ Lễ lên tỉnh, vất lắm bà ạ. Có khi ngủ đỗ luôn ngoài đó.
- Vâng, nuôi bảy đứa con lại chả vất!...” [18, tr.171]
Trong hai tiểu thuyết này, nhà văn chú ý tạo ra một giá trị mới cho ngôn
ngữ, giải phóng ngôn từ khỏi những nghi thức và định kiến cũ mòn. Ngôn
ngữ vì thế bớt đi vẻ mượt mà trau chuốt mà thô nhám, trực diện hơn, đưa độc
giả đến bối cảnh thời đại mà nhà văn đã trải qua.
3.2.3. Ngôn ngữ tính dục
Bên cạnh những đặc trưng trên, trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn và
Tiền định sử dụng nhiều ngôn ngữ phô diễn tính dục. Tính dục (sexuality)
được hiểu đơn giản là chuyện tình dục, tình yêu của một người. Khai thác
vấn đề bản năng tính dục vốn là lĩnh vực nhạy cảm, cấm kị đối với nhà văn nữ
trước đây nhưng trong văn học đương đại, nhiều nhà văn nữ đã tự cởi trói,
khẳng định mình khi hướng vào chủ đề này (Phạm Thị Hoài,Võ Thị Xuân Hà,
Dạ Ngân, Đoàn Lê …). Coi dục tính tồn tại trong mỗi con người là yếu tố
quan trọng làm nên bản thể, họ đã mạnh dạn đi sâu khám phá những khoái
cảm tính dục, ẩn ức bản năng của phụ nữ.
Dạ Ngân và Đoàn Lê trong hai tiểu thuyết tự thuật này đã viết từ những
trải nghiệm giới tính và trăn trở về thân phận con người. Bằng chất liệu thực
94
cuộc đời mình, hai nhà văn đều có điểm chung là viết về phụ nữ với khát
vọng hạnh phúc rất đàn bà. Nhân vật Mỹ Tiệp hay Chín với sự trỗi dậy của
đời sống tính dục, bản năng rồi bị tổn thương vì những định kiến, áp chế của
cộng đồng nhưng niềm kiêu hãnh và thiên tính nữ vẫn luôn mãnh liệt. Hai nhà
văn chú ý đến đời sống tình yêu, tình dục thầm kín như một tiếng nói đòi bình
quyền, khẳng định và giải phóng phụ nữ. Để chuyển tải được tư tưởng đó phải
có sự lựa chọn ngôn ngữ phù hợp. Hai tiểu thuyết có nhiều trang dành miêu tả
những cảm xúc, trạng thái liên quan đến tính dục như: cảm giác tuổi dậy thì,
trải nghiệm “lần đầu tiên” gắn với việc mất trinh tiết, nỗi đau tinh thần những
lần phá thai, thủ dâm, giấc mơ tình ái, ẩn ức tình dục…một cách chừng mực,
tinh tế. Trong “thế giới đàn bà” vốn là sở trường của nữ văn sĩ, nhà văn nam
thiếu sự nếm trải và thông hiểu nên những trang viết này như những bản trần
tình cần được thấu hiểu. Trong ngôn ngữ trần thuật Gia đình bé mọn và Tiền
định đã thể hiện được “ngôn ngữ thân thể nguyên sơ” của đàn bà trên tinh
thần nữ quyền.
Đó là cảm giác tuổi mười chín của Tiệp khi lần đầu tiên ở công sự
giữa bom đạn với Tuyên: “Nàng cười sằng sặc rồi nàng mếu máo khóc,
bỗng nàng nín bặt vì nghe thấy có hai bàn tay đang áp vào, hàng nút áo
bung ra tự bao giờ, hai trái ngực nàng đang săn lên run rẩy bởi đôi bàn
tay ngốn ngấu trong thứ nước màu sữa đục, lạ quá, cảm giác được mơn
trớn mà cũng được dày vò nâng lên hạ xuống trong mặt nước có mùi âm
phủ, lạ quá”, “Thế là có ân tình, có kỷ niệm sống chết và có cả chữ tín
trong sự trao gửi tiết trinh”. [23, tr.50]
Ngôn ngữ miêu tả đêm tân hôn của Chín gọi tên chính xác tâm lí non nớt
của cô gái vội bước vào hôn nhân khi tình yêu chưa đủ lớn: “ Cái thân thể
mười bảy tuổi chưa hề có kinh nghiệm va chạm, co rúm lại vì bỗng nhiên đau
xé. Cô không tưởng tượng được sự xâm phạm mới ê chề làm sao, dơ dáy làm
sao (…). Cô bỗng ghê tởm cái thân người xa lạ không một mảnh vải, trắng
95
trợn cọ sát, quấn xiết lấy cô. Cô ghê tởm thứ nước nhầy nhụa lẫn với màu
máu chảy ra từ cơ thể” [18, tr.97]. Tác giả sử dụng ngôn ngữ khá táo bạo,
không né tránh, phô bày trạng thái bản năng của phụ nữ khi chạm ngõ đời
sống tình dục. Chính khởi đầu không suôn sẻ này dẫn đến sự lãnh cảm, ngoại
tình và ly hôn của nhân vật về sau.
Hai nhân vật nữ chính trong Gia đình bé mọn và Tiền định đều phải trải
qua nỗi đau đớn của những lần mang thai ngoài ý muốn, phải chối bỏ một
phần thân thể của mình mà Dạ Ngân đã miêu tả khi nhân vật vào phòng thủ
thuật: “Tiệp cắn răng, cổ họng khát khô như chạy giữa sa mạc một mình,
không một lá cỏ hay một lạch nước. Nàng không thể nói rằng tôi đã vượt ra,
tôi đã tháo thân nhưng rồi tôi đã quỵ xuống và đây là ý nguyện của gia tộc,
đây là kết quả của những đêm làm lành…” [23, tr.24]. Còn với Chín: “Nàng
thậm chí chưa được nhìn kỹ đứa con bỏ đi lần ấy. Sau sự khiếp đảm vì thấy
cái khối mềm ấm tuột ra từ cơ thể mình, nàng kiệt sức nằm lịm” [18, tr.120].
Bản năng làm mẹ, mang thai và sinh nở là một phần quan trọng của thiên tính
nữ, của tính dục. Trong hai tác phẩm này, nhà văn đã không ngần ngại tả thực
nỗi đau sâu kín của người phụ nữ với nỗi day dứt, cô đơn khi phải trải qua
biến cố đó.
Khá nhiều ngôn ngữ miêu tả đời sống tình dục theo các diễn biến tình
cảm của Tiệp và Chín trong hai tiểu thuyết này. Sự thiếu hụt, chai lì cảm xúc,
không có sự đồng điệu, thăng hoa dẫn đến những ẩn ức tình dục đưa nhân vật
rơi vào những giấc mơ tình ái hoặc thủ dâm khi không được thoả mãn nhu
cầu chăn gối. Nhà văn đã dùng “ngôn ngữ thể xác” tạo những điểm nhấn táo
bạo thể hiện tư tưởng, cảm xúc, phô diễn không giấu giếm những khoái lạc
dục vọng vốn bị coi là không chuẩn mực (thủ dâm, ngoại tình…).
Tiệp trong Gia đình bé mọn “Nhiều lúc thử dùng tay để tưởng tượng nó
là Đính nhưng sau đó thì rã rời, chán ngán và đầu óc u u minh minh chứ
96
không phải là sự đánh thức tươi tỉnh và bùng nổ như với Đính, như trai trên
và gái dưới được”. [23, tr.131]
Còn Chín trong Tiền định luôn ám ảnh bởi giấc mơ nhưng đem lại khoái
cảm thực hơn cả khi bên chồng: “Con người ấy không bằng xương bằng thịt
nhưng tồn tại rành rành trong những giấc mơ (…). Mỗi đêm nàng đều chờ
đợi người đó để tự nguyện dâng hiến, thoả mãn, biết ơn” [18, tr.73].
Ngôn ngữ khắc hoạ cảm xúc của nhân vật trong cuộc kiếm tìm, phiêu
lưu tình ái với người tình cũng được thể hiện nhiều cung bậc:
Tiệp bắt đầu với tình yêu “chớp nhoáng” ngoài chồng: “ Rồi Người ấy,
người đàn ông tiếng sét của nàng xuất hiện, tình yêu đơn phương dễ chịu
nhưng chẳng đưa lại gì ngoài những đêm mơ tưởng hay những phút xao
xuyến khi bất chợt gặp nhau trong cuộc họp hay ngoài đường, nhưng khi
nàng nghe người ta cũng bất hạnh, cùng đang trục trặc với vợ thì nàng đã lao
đến như một con thiêu thân” [23, tr.79].
Những lần gặp tình nhân khi chưa danh chính ngôn thuận được miêu tả
đầy xúc cảm mời gọi: “Đính thức giấc lần hai. Tiệp thấy mình mềm mại hơn
lần trước, sự nhịp nhàng của thịt da đằm thắm, ngọt ngào. Đến lần thứ ba
vào giữa khuya thì nàng đã bừng thức, mọi thứ bồng bềnh, hoàn hảo và tận
cùng, địa ngục và thiên đường, trần trụi và thiêng liêng, nàng chưa như thế
bao giờ”.[23, tr.79]
Còn nhân vật Chín trong Tiền định tìm thấy thứ tình yêu mãnh liệt với
Hoà: “Lần đầu tiên nàng biết sự rung động mãnh liệt khi hai tâm hồn trú ngụ
trong nhau, khi hai thân thể hoà lẫn làm một, chứ không phải trong những
giấc mơ bí ẩn”; “ Với hạnh phúc sáng ngời ngời trong đôi mắt, nàng sẵn sàng
tử vì đạo, sẵn sàng chết cho tình yêu ấy” [18, tr.100].
Sử dụng ngôn ngữ một cách tự nhiên nhất khi nói về vấn đề tính dục,
nhà văn đã công khai khẳng định những điều tế nhị hiển nhiên thuộc về bản
97
năng giới tính nữ, điều mà trong văn học Việt Nam truyền thống ít ai đề cập
một cách cụ thể, trực tiếp như vậy. Với hai nhà văn nữ này, tình dục được
miêu tả như một phương tiện khẳng định bản ngã và tự do, giải thoát khỏi
những mã văn hoá mà cộng đồng đặt ra để tìm hạnh phúc. Ngôn ngữ biểu đạt
tính dục được sử dụng trong hai tác phẩm này không mang hàm ý phê phán,
chỉ trích mà khách quan, thấu hiểu khi diễn tả cả những điều vốn là “phi
chuẩn mực” như đã trình bày trên. Qua đó, tác giả bộc lộ cái tôi, cá tính sáng
tạo cũng như quan điểm nữ quyền: phụ nữ được quyền tìm kiếm tình yêu và
hạnh phúc, thoả mãn những khát khao bản năng dù có phải đạp lên những
định kiến cổ hủ và họ xứng đáng được bênh vực. Do đó, từ tư liệu thực cuộc
đời mình với những gãy đổ, vấp váp trong tình yêu, hôn nhân, Dạ Ngân và
Đoàn Lê viết như một sự giãi bày, như một tuyên ngôn về hạnh phúc của giới
mình, sử dụng ngôn ngữ phô diễn tính dục một cách nhuần nhị, tương hợp.
Viết về giới mình với điểm nhìn bên trong, những điều “nhỏ mọn”, “đàn
bà”, tất nhiên trong hai tiểu thuyết này vấn đề tính dục của nam giới cũng
được đề cập đến nhưng chỉ là chất xúc tác làm nổi bật chân dung nhân vật nữ
đầy mạnh mẽ, quyết liệt trong tình yêu.
3.3. Giọng điệu
Giọng điệu là một phương diện cơ bản tạo nên hình thức nghệ thuật của
tác phẩm, gắn liền với cá tính phong cách của nhà văn. Giọng điệu đóng vai
trò liên kết các yếu tố hình thức tạo thành âm hưởng của tác phẩm đồng thời
thể hiện tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của nhà văn. Theo M. B. Khrapchencô
trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, một
nhà văn tài năng sẽ tạo ra cho mình một giọng điệu độc đáo và “đề tài, tư
tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường và giọng điệu nhất
định đối với đối tượng sáng tác… Hiệu suất cảm xúc của lối kể chuyện, của
hành động kịch, của lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ yếu vốn
98
là đặc trưng của tác phẩm văn học với tư cách là một thể thống nhất hoàn
chỉnh”. Sự thay đổi trong giọng điệu được coi là dấu hiệu của sự đổi mới hình
thức nghệ thuật tác phẩm.
Trong văn học Việt Nam đương đại, giọng điệu trong tác phẩm văn
chương đã biến đổi đa âm, đa thanh, phù hợp với trạng thái hiện thực mới.
Đây cũng là hệ quả của sự thay đổi quan niệm sáng tác, nghệ thuật trần thuật
và xây dựng nhân vật. Có thể thấy trong tiểu thuyết tự thuật sự đan cài nhiều
giọng điệu trần thuật.
3.3.1. Giọng hoài niệm, trữ tình
Bản thân tác phẩm có khuynh hướng tự truyện đã nói lên tính hoài niệm
của câu chuyện được kể. Không gian đã mất và các sự kiện, biến cố đã thuộc
về quá khứ nhưng vẫn được bảo lưu trong kí ức và tái hiện hiện bằng giọng
điệu hoài niệm giàu cảm xúc là đặc điểm của tiểu thuyết tự truyện nói chung.
Cả hai tiểu thuyết Gia đình bé mọn và Tiền định đều được trần thuật từ hiện
tại qua ngôi thứ ba với điểm nhìn nhân vật như đã trình bày ở trên.
Bắt đầu Gia đình bé mọn là thời điểm cuộc hẹn điện thoại giữa Tiệp và
Đính ở bưu điện, khoảng thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Từ điểm nhìn hiện tại đó,
nhân vật hồi tưởng về quá khứ hoặc hướng đến tương lai với giọng điệu trần
thuật hoài niệm, đậm chất trữ tình. Thời gian trong quá khứ liên tục hiện về
với những kí ức đan xen thực tại. Đó là thị trấn những năm mới giải phóng:
“Thị trấn Điệp Vàng tháng Tư năm Bảy lăm còn là thị xã thứ hai của tỉnh,
Tuyên từ Cứ đi ra trong đoàn quân tiếp quản và Tiệp cũng từ xã nhà về lại cơ
quan cũ chỗ Tuyên sau mấy năm được phép về quê vừa hụ hợ với địa phương
vừa nuôi con nhỏ. Những đêm trăng mật muộn màng khi Thu Thi đã gần ba
tuổi, trong căn phòng của khu gia binh nguỵ có lũ chuột chạy rồ rồ trên mái
tôn” [23, tr.25].
Đến những biến cố cha nàng mất để lại khoảng trống lớn trong gia đình:
99
“ Hồi cả nhà được tin ba nàng chết ngoài Côn Đảo, cô cũng ngồi bẹp
trên nền đất thềm nhà ngẩng lên gập xuống như vầy, ông nội ra đi để lại nỗi
mồ côi cho tất cả, từng lá cây và ngọn cỏ trong vườn, cô cũng khóc la khóc
lết như vầy ”. [23, tr.49].
Rồi người cha nuôi cũng không còn: “ Cho đến khi chú Tư nằm xuống,
không cha không chú trên cõi đời nữa, lúc đó nàng mới cảm nhận một cách sâu
sắc rằng nàng đã có một số phận không giống nhiều người cùng chiến hào với
mình, nàng đơn độc tuyệt đối và nàng chỉ có thể thoát ra bằng trang viết không
vào lúc này thì cũng vào lúc nào đó, chắc chắn phải như vậy”. [23, tr.100]
Những tháng ngày bươn trải với gia đình nhỏ của Tiệp: “Lúc đó Thu Thi
mười bốn tuổi, Tiệp nhớ dạo nàng mới dọn về ngôi nhà trụ sở nầy, Thu Thi
mới hết cấp Một, nó còn để tóc búp bê, hai cái nhũ cau buồn cười dưới lớp áo
nhưng đã thành một người khác sau cái mốc đó” [23, tr.103]….
Mạch truyện thường xuyên xuất hiện trạng từ chỉ thời gian gợi về quá
khứ: “Đã mấy năm trôi qua”, “Nàng nhớ đó là một buổi trưa, một buổi trưa
thường tình và yên ả, chiến tranh đã kết thúc được hai năm”; “Nàng nhớ
một buổi sáng mùa nước ở Đồng Đưng”; “Một lần rất lâu sau, khi nàng và
Thu Thi đã ra khỏi căn nhà hình ống đó”… Mỗi mảnh kí ức, sự kiện hiện
lên gắn liền với cảm xúc buồn, vui, nhớ…còn như tươi mới của Tiệp về
cảnh và người đã đi qua cuộc đời mình. Tất cả làm nên giọng điệu hoài niệm
trữ tình da diết. Với nhà văn, viết tiểu thuyết tự thuật không chỉ là hư cấu
nghệ thuật mà còn là quá trình chiêm nghiệm lại cuộc đời mình với những
cung bậc cảm xúc riêng. Việc sắp xếp các sự kiện, nhân vật, không gian,
thời gian, ngôn ngữ… tạo nên giọng điệu hoài niệm trữ tình một cách tự
nhiên trong tác phẩm.
Trong Tiền định, câu chuyện bắt đầu từ chuyến về quê của Chín và
người yêu nhưng phần lớn nội dung kể về quá khứ với những nỗi đa đoan
100
của nàng. Các mốc thời gian, sự kiện hiện lên ngẫu nhiên, đan chéo theo
dòng hồi tưởng của cô, từ chuyện người thân trong gia đình đến chuyện
những người cô quen biết( chuyện chiếc quạt, chuyện nhà ngoại cảm đi tìm
mộ, bà điên đẻ con...)
Nổi lên trong đó là những dòng hồi tưởng về các mốc sự kiện trong cuộc
đời cô: “Không biết có phải do nghiệp chướng xui khiến, cô bé Chín như mê
muội, quyết sống chết ra đi theo Điện ảnh, ai khuyên cũng không nghe. Ngày
hẹn tựu trường, ông Chi Lan hạ lệnh nhốt Chín trên gác hai. Cô bé van lạy
khóc lóc bao nhiêu cũng không lay chuyển được ông.” [18, tr.15]
“Cô Chín mới mười bảy, bản tính nhút nhát tỉnh lẻ, đã bị săn đón, bị đe
doạ đến mức phải đồng ý bí mật đi đăng kí kết hôn với Thân. Cô rất sợ Thân
bóp cổ chết như nhiều lần, trong cơn tuyệt vọng Thân đã tìm cách rủ cô ra
vườn hoa “thử tay nghề.” [18, tr.60]…
Mỗi câu chuyện như một mắt xích độc lập được móc nối với nhau và dẫn
dắt bởi cảm thức hoài niệm qua những mốc thời gian trong quá khứ: Nàng
không bao giờ muốn nhớ đến quãng quá khứ tội nghiệp này; Hải Phòng tiêu
thổ kháng chiến, bé Chín mới lên ba; Lời hẹn ước đầu tiên trong đời trôi qua
đánh vèo hơn nửa đời người; Dạo đó mẹ già nàng bị quy địa chủ vì tội nhiều
ruộng; Dạo chị mới về, mấy cô em chồng tai quái thường để chị ngồi đầu nồi;
Năm Chín hai mươi; Chín nhớ như in tối đó thành phố mất điện…
Tất cả những sự kiện, chi tiết dù rất nhỏ, rất đời thường như được khắc
sâu trong trí nhớ của Chín từ khi là đứa trẻ lên ba đến khi trưởng thành và
hiện lên bất chợt theo dòng hồi tưởng từ hiện tại chứ không phải được kể theo
thời gian tuyến tính. Ở đó chất chứa những cảm xúc trải nghiệm, chứng kiến
của nhân vật. Trong Gia đình bé mọn là giọng hoài niệm đầy day dứt, xót xa
về hành trình dám sống, đấu tranh vì tình yêu, đam mê mà phải có lỗi với tình
thân, tình mẫu tử của nhân vật Tiệp. Còn trong Tiền định là giọng điệu hoài
101
niệm về quãng đời đa đoan mà nàng đã vượt qua mang đầy ám ảnh của thứ
gọi là định mệnh.
Trong sáng tác, khi nhà văn viết về câu chuyện liên quan đến bản thân
mình giống như thực hiện một hành trình ngược dòng thời gian trở về quá
khứ với những kỉ niệm sâu đậm, cái nhìn khắc khoải đầy tâm trạng. Vì vậy,
giọng điệu trữ tình hoài niệm này cũng có thể thấy trong nhiều tiểu thuyết
khuynh hướng tự truyện như: Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh), Chuyện kể năm 2000( Bùi Ngọc Tấn)…
3.3.2 Giọng chiêm nghiệm, triết lý
Trong văn học Việt Nam đương đại, tiểu thuyết tự truyện coi khai thác
cái tôi cá nhân là nhiệm vụ hàng đầu nên thường xuất hiện giọng điệu chiêm
nghiệm triết lý. Qua đó thể hiện cái nhìn riêng của nhà văn về đời sống trên
tinh thần “nghiền ngẫm hiện thực” và đối thoại.
Kiểu giọng điệu triết lí thường được thể hiện qua tính chất khẳng định
(phủ định) để nhấn mạnh những vấn đề mà nhà văn cần thông điệp, triết luận
với người đọc, tô đậm một ý tưởng sâu sắc nào đó. Giọng điệu chiêm
nghiệm, triết lý thường gắn với nhu cầu tổng kết trải nghiệm để nâng cái tôi
thành phổ quát nên góp phần gia tăng chiều sâu tư tưởng trong tác phẩm.
Trần thuật từ ngôi thứ ba cho phép nhân vật soi chiếu mình qua một
“cái tôi khác” để chiêm nghiệm, triết lý về cuộc sống. Trong Gia đình bé
mọn và Tiền định đề cập sâu sắc đến những vấn đề triết lí nhân sinh, về thân
phận, cuộc sống con người trong những hoàn cảnh xã hội đặc biệt. Khát vọng
khám phá chiều sâu cuộc sống đã đặt các nhân vật vào những trạng thái suy
tư, dằn vặt, tự lý giải về những vấn đề cốt lõi mang tính nhân sinh. Vì vậy,
giọng điệu chiêm nghiệm, triết lý trở thành giọng điệu nổi bật trong hai tiểu
thuyết này. Có thể nhận thấy nhiều tổng kết, chiêm nghiệm trong Gia đình
102
bé mọn và Tiền định, đó là những trải nghiệm nhân sinh sâu sắc từ những
nhân vật chính trong tác phẩm.
Trong Gia đình bé mọn, ngay từ tên tác phẩm đã gợi lên những ý nghĩa
nhân sinh sâu sắc về tổ ấm gia đình. Trong diễn biến truyện là giọng kể đầy
những chiêm nghiệm, triết lí qua cuộc đời nhân vật Tiệp: “ Vòng vây của
nàng là những bà goá, cô goá, má goá, chị goá, cô em út cũng goá, bốn bức
tường gương mà nếu nàng soi vào thì nàng phải lập tức quên tuổi trẻ và khát
vọng của mình đi để nhớ rằng không thể so sánh nỗi bất hạnh nào với nỗi bất
hạnh của những người goá bụa.” [23, tr.10] Triết lí về sự bất hạnh đã được
thêm một nghĩa mới.
Giọng điệu trần thuật đầy chiêm nghiệm về cuộc hôn nhân không tình
yêu của Tiệp: “Cuộc hôn nhân với Tuyên giống như hai cái dấu ngoặc đóng
khung số phận nàng, nó nói với chính nàng rằng hãy cứ như vậy đi, nó là
cuộc chiến nhỏ trong cuộc chiến lớn, cái này sinh ra cái kia và nàng không
thể thoát được trừ khi tự nó sẽ có cái kết thúc của nó” [23, tr.100]…Tác phẩm
là sự chiêm nghiệm về những điều đúng- sai, được- mất của cuộc đời người
phụ nữ khi dám bước qua những định kiến để tìm hạnh phúc cho mình.
Còn trong tiểu thuyết Tiền định, ngay từ tiêu đề tác phẩm Đoàn Lê đã
cho thấy một tín hiệu đầy triết lí về số phận, cơ duyên và điều này được lặp đi
lặp lại trong suốt tác phẩm. Người kể chuyện thể hiện những suy ngẫm, triết lí
về số phận con qua những truyện nhỏ lồng trong tiểu thuyết này. Ở đó có
những chiêm nghiệm, triết lí về tuổi trẻ của Chín: “ Ôi tuổi trẻ đáng thương,
tuổi trẻ cô độc không ai cứu giúp, tuổi trẻ buông xuôi chìm dần trong đầm
lầy, chết mà không kêu cứu được một tiếng...” [18, tr.60]. Đó là chiêm
nghiệm về hạnh phúc của người phụ nữ trong gia đình Tiệp: “tất cả những
người đàn bà nhà em đều không ai có hạnh phúc cả. Điều ấy giống như định
103
mệnh. Gắn bó với ai sợ làm khổ người ta” [18, tr.206]. Cho đến cuối tác phẩm
vẫn là sự trăn trở về cái gọi là “tiền định”.
Suy ngẫm và triết lí là một trong những yếu tố quan trọng của tiểu thuyết
đương đại, góp phần chủ đạo trong bản hợp âm nhiều chất giọng. Có thể thấy
giọng điệu này đậm đặc trong các tiểu thuyết của nhiều nhà văn đương đại
như: Một mình một ngựa ( Ma Văn Kháng), Chuyện kể năm 2000 (Bùi
Ngọc Tấn), Thượng đế thì cười ( Nguyễn Khải)…
Trong một tác phẩm, hiếm khi nhà văn trần thuật bằng một giọng điệu
đơn nhất. Bên cạnh những giọng điệu chủ đạo trên, trong Gia đình bé mọn
của Dạ Ngân và Tiền định của Đoàn Lê còn có sự đan xen với giọng điệu tự
thú, giễu nhại, chua xót…Điều này khiến cho mạch kể tự nhiên và thể hiện
cái nhìn đa chiều của nhà văn trong tác phẩm.
Tiểu kết chương 3
Với tiểu thuyết tự truyện, chất liệu câu chuyện đời thực của nhà văn
được “tiểu thuyết hoá” qua việc kết hợp giữa nội dung kể và nghệ thuật trần
thuật. Gia đình bé mọn của Dạ Ngân và Tiền định của Đoàn Lê được kiến
tạo từ câu chuyện đời tư khác nhau nhưng có nhiều nét tương đồng trong nghệ
thuật trần thuật. Lựa chọn ngôi kể khách quan với điểm nhìn hạn tri là chủ
yếu cho phép nhà văn gia tăng khả năng khái quát và hư cấu hoá trên cơ sử tư
liệu đời thực của mình. Ngôn ngữ trần thuật giàu biểu cảm, gần gũi với đời
thường và tinh tế trong sử dụng ngôn ngữ phô diễn tính dục đem lại cho tác
phẩm sự hiện đại và hấp dẫn. Sự kết hợp nhiều giọng điệu trần thuật với hai
giọng điệu chủ đạo thể hiện hiệu quả cảm quan của nhà văn về những vấn đề
đặt ra trong tác phẩm.
104
KẾT LUẬN
Đã có nhiều ý kiến bàn về thân phận của tiểu thuyết trong thời đại mới.
Tuy nhiên, tiểu thuyết trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng vẫn
không ngừng sáng tạo, thích ứng với thời đại bằng lối viết dồn nén nhằm thu
gọn dung lượng và tìm tòi những hướng đi mới.
Tiểu thuyết đầu thế kỉ XXI ở Việt Nam đã khẳng định mình là thể loại có
sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống văn học thể hiện ở sự đa dạng các
khuynh hướng sáng tác, loại hình tiểu thuyết với nhiều tác giả, tác phẩm gây
tiếng vang trong và ngoài nước. Điều đó thể hiện rõ nét sự thay đổi trong hệ
hình tư duy văn học. Trong xu hướng làm mới lối viết theo thi pháp truyền
thống, nhiều nhà văn đã lựa chọn đưa yếu tố tự truyện vào tác phẩm, tạo nên
một thời kỳ nở rộ của tiểu thuyết tự truyện. Khuynh hướng sáng tác này thể
hiện cái tôi cá nhân của nghệ sĩ và tài năng hư cấu hoá chất liệu đời thực của
tác giả. Đặc biệt đáng chú ý trong đó là sáng tác của các nhà văn nữ. Đó là
một điểm nhấn đáng chú ý trong bức tranh đời sống văn học đương đại. Nhiều
nhà văn nữ đã thể hiện cá tính sáng tạo mạnh mẽ, bước qua những rào cản,
định kiến về giới để giãi bày, thể nghiệm một cách tự do. Với tiểu thuyết tự
truyện, sự thành công của các nhà văn nữ để lại những dấu ấn riêng.
Dạ Ngân và Đoàn Lê là hai nhà văn nữ có hành trình sáng tác bền bỉ trên
nhiều thể loại và khẳng định vị trí của mình trong văn học Việt Nam sau 1975
đến nay. Tác giả viết tiểu thuyết tự truyện Gia đình bé mọn và Tiền định khi
đã ở dốc bên kia của đời với bao trải nghiệm, truân chuyên và độ chín trong
nghề. Tuy nhiên, như nhiều nhà văn khác, hai tác giả tạo nên đứa con tinh
thần của mình với diện mạo đặc sắc riêng chứ không lệ thuộc vào chất liệu
đời tư. Dạ Ngân và Đoàn Lê đều đã thổi vào câu chuyện thực trí tưởng tượng,
sự nghiền nghẫm và chiêm nghiệm từ cuộc đời mình để nói những điều
chung, khái quát hơn về biết bao vấn đề nhân sinh, đặc biệt là về cuộc đời
người phụ nữ. Đọc tác phẩm, người đọc có thể thấy rõ dấu ấn tự truyện từ
105
nhiều sự kiện, chi tiết, con người, không gian, thời gian có sự trùng hợp giữa
tác phẩm với đời thực nhà văn. Tuy nhiên, khác với những tác phẩm hồi ký,
tự truyện… hai tiểu thuyết này của Dạ Ngân và Đoàn Lê cho độc giả cảm
nhận về cuộc sống xa rộng hơn đằng sau đường nét có từ đời thực nhà văn.
Với Dạ Ngân là cảm quan về hành trình mệt nhọc xây dựng tổ ấm nhỏ nhoi
trong xã hội đương đại. Với Đoàn Lê là cảm nhận và lí giải có phần duy tâm
nhưng thấm thía về cuộc đời người phụ nữ.
Trong hai tác phẩm này không chỉ có sự tương đồng về mô típ người phụ
nữ đi tìm hạnh phúc mà còn có sự tương đồng trong nghệ thuật trần thuật. Dạ
Ngân và Đoàn Lê đều lựa chọn ngôi kể khách quan và điểm nhìn có chọn lọc
với màu sắc lãng mạn; ngôn ngữ hàm súc, gần gũi với đời thường và không
ngần ngại sử dụng ngôn ngữ phô diễn tính dục. Tất cả tạo nên giọng điệu hoài
niệm trữ tình đầy chiêm nghiệm, triết lí và thể hiện rõ nét cá tính sáng tạo của
nhà văn trong hai tiểu thuyết này. Thành công của tác phẩm là đem đến cho
độc giả một cách nhìn về cuộc sống đậm chất nữ tính và cá tính của hai nhà
văn chứ không phải việc phân định đâu là thực đâu là hư cấu vì trong tiểu
thuyết, mọi điều đều khả dĩ.
Rất nhiều tác giả đã thành công với tiểu thuyết tự truyện trong những
năm gần đây. Dạ Ngân và Đoàn Lê là hai nhà văn gây được ấn tượng đặc biệt
với độc giả khi viết từ câu chuyện cuộc đời mình. Trong xã hội còn ít nhiều
định kiến thì hai tiểu thuyết này góp thêm tiếng nói bênh vực nữ quyền và gợi
sự đồng cảm, sẻ chia với người phụ nữ Việt Nam.
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Tú Anh (2006), Tự truyện và tiểu thuyết trong Gia đình bé mọn, Báo
Văn nghệ, số 15.
2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội.
3. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Vũ Thùy Dung, (2010), Tiểu thuyết tự truyện Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội
5. Trần Thiện Đạo, “Gia đình bé mọn” - lời tự thú chân thật, nguồn:
http://vnexpress.net.
6. Hà Minh Đức (1997), Lý luận văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
7. Việt Hà, Tiền định khắc khoải phận người, nguồn: http://cand.vn.
8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ Văn
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Đặng Thị Hạnh (1998), Tự thuật và tiểu thuyết Pháp thế kỉ XXI, Tạp chí
văn học số 5.
10. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn Hà Nội.
11. Đỗ Đức Hiểu - chủ biên (2006), Từ điển văn học, NXB Thế giới Hà Nội.
12. Mai Hoàng, “Chị tôi” và những mật mã cuộc đời, Báo Văn hóa – Nghệ thuật.
13. Trần Thị Xuân Hợp (2006), Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Nguyễn
Khải thời kì đổi mới, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn.
14. Ma Văn Kháng (2009), Một mình một ngựa, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
15. Nguyễn Xuân Khánh, Đọc tiểu thuyết Tiền định của Đoàn Lê, nguồn:
http://vietvan.vn.
107
16. Nguyễn Khải (2003), Thượng đế thì cười, NXB Văn học, Hà Nội.
17. Phạm Ngọc Lan (2006), Tự truyện trong văn học Việt Nam hiện đại, Luận
văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hồ Chí Minh.
18. Đoàn Lê (2010), Tiền định, Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
19. Phong Lê (2005), Tiểu thuyết mở đầu thế kỷ XXI trong tiến trình văn học
Việt Nam từ tháng 8 – 1945, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (9).
20. Nguyễn Đăng Mạnh (2003) Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và
phong cách, NXB Văn học, Hà Nội.
21. Bùi Thị Mát (2013), Yếu tố tự truyện một mình một ngựa của Ma Văn
Kháng, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại học Sư
phạm Hà Nội 2.
22. Hoài Nam, Gia đình bé mọn – “bản dập” cuộc đời Dạ Ngân?, nguồn
http://tienphong.vn.
23. Dạ Ngân (2010), Gia đình bé mọn, Nhà xuất bản Thanh Niên.
24. Dương Bình Nguyên, Nhà văn Dạ Ngân: Người đàn bà mang dấu chấm
thiên di, nguồn: http://cand.com.vn.
25. An Nhi, Nữ văn sĩ Đoàn Lê: “Tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan”,
nguồn: http://vov.vn.
26. Nhiều tác giả (1997), Bộ sách phê bình và bình luận văn học – tác giả
trong nhà trường, NXB Văn học Hà Nội.
27. Nhiều tác giả (2002), Đổi mới tư duy Tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn Hà Nội.
28. Nhiều tác giả (2005), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới.
29. Nhiều tác giả (2007), Giáo trình văn học Việt Nam từ sau Cách mạng
Tháng tám 1945, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
108
30. Đỗ Hải Ninh (2012), Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học.
31. Đỗ Hải Ninh (2011), Mối quan hệ giữa tự truyện – tiểu thuyết và một số
dạng thức tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại, Tạp chí Nghiên
cứu văn học (8).
32. Vương Trí Nhàn, Phụ nữ và sáng tác văn chương (Trao đổi ý kiến), Tạp
chí Văn học số 6/1996.
33. Nguyễn Thị Khánh Minh (2013), Nghệ thuật tự sự trong văn xuôi Đoàn
Lê, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
34. Trần Đình Sử (2002), Lí luận văn học tập 2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
35. Trần Đình Sử (2003), Lí luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục Hà Nội.
36. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục Hà Nội.
37. Trần Đình Sử (chủ biên), (2007), Tự sự học và một số vấn đề lí luận và lịch
sử, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
38. Hoàng Thị Tâm (2016), Tự truyện Việt Nam đương đại: Nghiên cứu từ xã
hội học văn học, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội.
39. Hồ Anh Thái (2012), Họ trở thành nhân vật của tôi, Nhà xuất bản trẻ.
40. Hồ Anh Thái, Đoàn Lê – người đàn bà đa đoan, nguồn http://vietbao.vn.
41. Đoàn Cầm Thi (2008), Tương lai tự truyện Việt Nam, nguồn
http://demo.trieuxuan.info.
42. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học thế giới mở, NXB Trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh.
43. Bích Thu (2006), “Một cách tiếp cận tiểu thuyết thời kỳ đổi mới”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học.
44. Hà Thu, Nhà văn Đoàn Lê qua đời, http://vnexpress.net.
109
45. Nguyễn Thị Minh Thu, (2011), Tiểu thuyết tự truyện trong văn học Việt
Nam đương đại từ góc nhìn thể loại, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ Văn,
Đại học Sư phạm Hà Nội.
46. Bùi Thị Thu (2014), Yếu tố tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê, Luận văn
Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
47. Lê Ngọc Trà (2007), Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới, Tạp chí
nghiên cứu văn học.
48. Miên Tường, Vợ chồng Dạ Ngân - Nguyễn Quang Thân: Gia đình không bé mọn!,
http://thethaovanhoa.vn.
49. Phùng Văn Tửu (2004), Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Vũ Quốc Văn, Đoàn Lê một nữ sĩ đa tài, Nguồn: www.cuabien.vn.
51. Nguyễn Thị Ái Vân (2011), Đặc điểm nghệ thuật tự truyện và hồi kí của Tô
Hoài, Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam, Đại học Sư phạm Hồ Chí Minh.
52. Triệu Xuân (2008), Tự truyện không hẳn là văn học, nguồn:
http//demo.trieuxuan.info.