intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRèNH ĐÔ THỊ HOÁ

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:188

107
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: việc làm cho người lao động ngoại thành hà nội trong quá trènh đô thị hoá', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRèNH ĐÔ THỊ HOÁ

  1. Luận văn VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRèNH ĐÔ THỊ HOÁ
  2. Mục lục Lời cam đoan ..................................... i Mục lục .......................................... i Danh mục các chữ viết tắt ...................... iii Danh mục các bảng ................................ v Mở đầu ........................................... 1 Chương 1:Tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà nội trong quá trình đô thị hoá - một nhu cầu bức xúc ...................................... 7 1.1. Đô thị hoá và tác động của nó đối với vấn đề việc làm ..................................... 7 1.2. Tác động của quá trình đô thị hoá và sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hoá ở ngoại thành Hà Nội 42 1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố về tạo việc làm cho người lao động (trong đó có tạo việc làm cho người lao động ngoại thành) ....... 61 Chương 2: Thực trạng tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội ......................... 68 2.1. Những đặc điểm của thủ đô Hà Nội có ảnh hưởng đến tạo việc làm ......................... 68 2.2. Thực trạng tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong thời gian qua ......... 85 Chương 3: Những giải pháp cơ bản nhằm tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá ............................... 125 3.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội với vấn đề tạo việc làm cho người lao động ngoại thành ................................... 125 3.2. Phương hướng tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá ........................................... 129 3.3. Giải pháp để tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá ........................................... 130
  3. Kết luận ....................................... 168 Danh mục tài liệu tham khảo .................... 170 Phụ lục ........................................ 177
  4. Danh mục các chữ viết tắt CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNKT Công nhân kỹ thuật CNNT Công nghiệp nông thôn DNN&V Doanh nghiệp nhỏ và vừa DVVL Dịch vụ việc làm ĐBSH Đồng bằng sông Hồng ĐTH Đô thị hoá GDP Tổng sản phẩm quốc nội GQVL Giải quyết việc làm KCN Khu công nghiệp KH-CN Khoa học - công nghệ LĐTBXH Lao động thương binh xã hội THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TTDVVL Trung tâm dịch vụ việc làm TTLĐ Thị trường lao động UBTVQH Uỷ ban Thường vụ
  5. Quốc hội XKLĐ Xuất khẩu lao động
  6. Danh mục các bảng Bảng 2.1: Dân số trung bình của khu vực ngoại thành ........................................... 73 Bảng 2.2: Trình độ học vấn phổ thông của LLLĐ Hà Nội ......................................... 79 Bảng 2.3: Lao động đã được giải quyết việc làm khu vực thành thị .............................. 86 Bảng 2.4: Tổng hợp kết quả GQVL 5 năm (2001- 2005) Thành phố Hà Nội (Khu vực ngoại thành) .... 88 Bảng 2.5: Cơ cấu lao động ngoại thành đang làm việc chia theo nhóm ngành kinh tế .............. 95 Bảng 2.6: Cơ cấu lao động ngoại thành chia theo thành phần kinh tế ............................. 98 Bảng 2.7: Vốn vay của Quỹ quốc gia giải quyết việc làm ....................................... 100
  7. 1 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc làm cho người lao động là vấn đề kinh tế- xã hội phổ biến và luôn mang tính thời sự ở mọi quốc gia, bởi vì đảm bảo việc làm là một trong những yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề việc làm cho người lao động là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân". Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế và văn hoá của đất nước, là địa phương nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vì vậy, trong thời gian qua Hà Nội đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào phát triển kinh tế, tạo những bước chuyển biến quan trọng đối với thủ đô trên nhiều lĩnh vực trong đó có giải quyết việc làm. Tuy nhiên, do Hà Nội đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xu hướng đô thị hoá gia tăng nó đòi hỏi người lao động phải có
  8. 2 trình độ, được đào tạo phải có tác phong công nghiệp thì mới đáp ứng được yêu cầu, lao động ở ngoại thành hiện nay chưa thể đáp ứng được yêu cầu này do mặt bằng trình độ thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa cao, lao động giản đơn là chủ yếu.v.v... không có việc làm sẽ nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp vì vậy tạo việc làm cho lực lượng lao động, đặc biệt là lực lượng lao động ở khu vực ngoại thành bao gồm 5 huyện: Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh, Sóc Sơn, Từ Liêm là vấn đề cấp bách. Để đánh giá lại những kết quả đã đạt được và những tồn tại vướng mắc, trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở ngoại thành Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp hữu hiệu cho vấn đề tạo việc làm nhằm góp phần vào sự ổn định và phát triển của thủ đô trong những năm tới, tác giả đã chọn đề tài: " Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trỡnh đô thị hoá " làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm. Có thể nêu ra một số đề tài sau: - TS Nguyễn Hữu Dũng: Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn - Tạp chí Lao động - Xã hội số 247 (từ 16- 30/9/2004). Tác giả đề cập đến thực trạng về lao động và việc làm ở nông thôn trong
  9. 3 quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đồng thời đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề lao động và việc làm nông thôn. - PGS,TS Nguyễn Sinh Cúc: Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Con số và sự kiện- 2003- số 8. Trong bài viết tác giả đã đề cập những biến động của tính hình dân số ở nông thôn và những xu hướng mới tạo việc làm ở nông thôn: từ kinh tế trang trại, khôi phục và phát triển các làng nghề nông thôn, tạo việc làm mới từ phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, từ các chương trình dự án quốc gia và quốc tế. - TS Vũ Đình Thắng: Vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn, Tạp chí Kinh tế và Phát triển 2002 - số 3. Trong bài viết, tác giả đánh giá tầm quan trọng và những kết quả đã đạt được về giải quyết việc làm đặc biệt là ở khu vực nông thôn bằng cách phát triển các ngành phi nông nghiệp với phương châm: ly nông bất ly hương. - GS,TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam - Tạp chí Kinh tế và Phát triển 2002- số 64. Trong bài viết, tác giả đã đánh giá hiện trạng việc làm và thất nghiệp trên cơ sở đó đề ra những quan điểm và biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
  10. 4 - TS Nguyễn Tiệp: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các giải pháp tạo thêm việc làm, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 309 (6/2004). Trong bài viết, tác giả đề cập đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là phù hợp với yêu cầu của quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn. Là kết quả của phát triển lực lượng sản xuất và phân công lại lao động ở nông thôn. Đồng thời, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn còn chịu sức ép giải quyết việc làm, tăng mức cầu lao động trên địa bàn nông thôn. - TS Trương Văn Phúc: Thực trạng lao động việc làm qua kết quả điều tra 1- 7- 2004, Tạp chí Lao động - xã hội, số 251 (16- 30/11/2004). Trong bài viết, tác giả đề cập đến tình trạng lao động và việc làm của lực lượng lao động ở các tỉnh, thành phố cũng như ở những vùng kinh tế trọng điểm. Nó đánh giá một cách khái quát những kết quả đã đạt được về giải quyết việc làm cho lực lượng lao động. Trong đó, có đề cập đến lao động ngoại thành, một bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng lao động chung của xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá dưới góc độ kinh tế chính trị. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích:
  11. 5 - Góp phần nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề về lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực việc làm, tạo việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hoá. - Phân tích về thực trạng, chỉ ra phương hướng tạo việc làm cho lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá hiện nay. - Đề xuất những giải pháp cơ bản để tạo việc làm trong cho lao động ngoại thành trong thời gian tới. * Nhiệm vụ: - Làm rõ bản chất của việc làm, bản chất của tạo việc làm, nội dung của nó và sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động. - Tập trung phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ngoại thành: quy mô tạo việc làm cho người lao động, quá trình tạo việc làm, những nhân tố tác động đến quá trình tạo việc làm. Đồng thời đánh giá những nguyên nhân, hạn chế về kết quả tạo việc làm. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm tạo việc làm cho lao động ngoại thành trong quá trình đô thị hoá từ nay đến năm 2010. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn đề cập trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm cho toàn bộ lực lượng lao động nông nghiệp đang sinh sống ở khu vực ngoại thành do Thành phố quản lý.
  12. 6 - Luận văn tập trung vào nội dung tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá từ năm 2001 trở lại đây. Nhiệm vụ này được giao cho nhiều tổ chức thực hiện nhưng luận văn tập trung khai thác thông tin từ Sở LĐTB – XH Hà Nội. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cơ bản cho vấn đề này đến năm 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam cùng với những chủ trương và chính sách của Nhà nước về vấn đề lao động việc làm. Ngoài ra luận văn còn dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của các công trình khoa học đã được công bố, để nghiên cứu vấn đề việc làm và tạo việc làm ở ngoại thành Hà Nội - Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh… 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn, đã trình bày một số lý luận cơ bản về việc làm và tạo việc làm, đã đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh tạo việc làm cho lao động ngoại thành Hà Nội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
  13. 7 Chương 1 Tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà nội trong quá trình đô thị hoá - một nhu cầu bức xúc 1.1. Đô thị hoá và tác động của nó đối với vấn đề việc làm 1.1.1. Đô thị hoá - một xu thế tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1.1.1. Tính tất yếu, nội dung và tác động của quá trình đô thị hoá Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá (CNH, HĐH& ĐTH) là con đường phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, thời đại khoa học- công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, kinh tế tri thức đang dần đi vào cuộc sống và toàn cầu hoá là một xu thế không gì có thể cưỡng lại được thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường giúp các nước chậm phát triển rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp chưa phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có nghĩa là chúng ta đang chuyển từ một nền kinh tế tiền tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy chúng ta phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng ta là phải thực hiện CNH, HĐH đất nước.
  14. 8 Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII đã nêu định nghĩa khái quát về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng xuất lao động xã hội cao [18, tr.4]. Như vậy CNH,HĐH là một khái niệm rộng, thực hiện CNH,HĐH trong tất cả các mặt hoạt động của đời sống xã hội, trong đó nội dung nổi bật chính là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc và áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại để đạt được năng suất lao động cao. Kết quả mà quá trình này đem lại là tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật về con người và khoa học- công nghệ thúc đẩy qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. Một vấn đề quan trọng trong quá trình CNH,HĐH là phải làm sao giải quyết đồng thời mối quan hệ giữa phát triển nền sản xuất với giải quyết được các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình CNH,HĐH như vấn đề giải phóng việc làm và các vấn đề xã hội khác. Chúng ta biết rằng, đi kèm với việc áp dụng máy móc, kỹ thuật vào trong sản xuất sẽ làm thay đổi
  15. 9 tính chất của quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất chỉ sử dụng ít lao động sống và sử dụng nhiều máy móc thay thế. Hệ quả của việc này là dư thừa lao động: người lao động không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không đầy đủ. Mặt khác qúa trình CNH,HĐH cũng làm xuất hiện những ngành kinh tế mới, có thể thu hút được một số lượng lao động nhất định. Nhưng nhìn chung, tình hình người lao động không có việc làm vẫn tăng nhanh hơn tỷ lệ người lao động tìm được việc làm. Như vậy CNH,HĐH sẽ dẫn đến sự thay đổi to lớn về nhiều mặt. Về mặt kinh tế, CNH, HĐH làm thay đổi phương thức sản xuất và cơ cấu nền kinh tế, làm cho nền kinh tế có một bước phát triển mới về chất, đó là nền kinh tế dựa trên nền đại công nghiệp và dịch vụ chất lượng cao. Về mặt xã hội, đó là quá trình đô thị hoá. Trong nền kinh tế hiện đại, đô thị hoá không chỉ đơn thuần là sự hình thành các đô thị mới mà đó là một nấc thang tiến hoá vượt bậc của xã hội với một trình độ văn minh mới, một phương thức hoạt động mới. Đó là cách thức tổ chức, bố trí lực lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Có nhiều quan niệm khác nhau về đô thị hoá: Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố lại lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị theo chiều rộng và theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số ở các đô thị. Đó là quá trình tập trung, tăng cường, phân hoá các
  16. 10 hoạt động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ số dân thành thị trong các vùng, các quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, đô thị hoá cũng là quá trình phát triển của các thành phố lớn và phổ biến rộng rãi lối sống thành thị trong dân cư. Theo quan niệm trên chúng tôi cho rằng: Đô thị hoá được hiểu đó là quá trình biến đổi, chuyển biến về nhiều mặt kinh tế- xã hội của các khu vực trước đây là sản xuất nông nghiệp, khu vực nông thôn để trở thành các khu đô thị, khu chế xuất, khu công nghiệp phục vụ cho sản xuất công nghiệp và các ngành dịch vụ. Như vậy, ta thấy về bản chất của đô thị hoá là sự phát triển các cụm kinh tế công nghiệp, dịch vụ, kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển các cụm dân cư theo hình thức và điều kiện sống mang tính chất công nghiệp, đô thị sầm uất. Đây là một xu thế tất yếu xảy ra đối với tất cả các quốc gia, các thành phố lớn khi thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức, vì đô thị hoá tạo ra cơ sở thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội, cơ cấu lại kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đó có thủ đô Hà Nội. Khái niệm pháp quy về đô thị hoá ở Việt Nam: Điểm dân cư được coi là đô thị hoá phải có các tiêu chí cơ bản sau đây: - Là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong phạm
  17. 11 vi cả nước, một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh hay huyện. - Có quy mô dân số nội thị nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp hơn). - Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 60% trở lên trong tổng số lao động của nội thị, là nơi sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển. - Có kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị hoá từng phần hoặc đồng bộ. - Mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km2. Đô thị hoá có hai hình thức biểu hiện chủ yếu: Một là, đô thị hoá theo chiều rộng trong đó quá trình đô thị hoá diễn ra tại các khu vực trước đây không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới. Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị không ngừng gia tăng, các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và các hoạt động của kinh tế đô thị không ngừng mở rộng; các hoạt động sản xuất kinh doanh và điểm dân cư ngày càng tập trung. Sự hình thành các đô thị mới được tạo ra trên cơ sở phát triển các khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô là xu hướng tất yếu của sự phát triển là nhân tố mở đường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đô thị hoá theo chiều
  18. 12 rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nước đang phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Hai là, đô thị hoá theo chiều sâu, đó là quá trình hiện đại hoá và nâng cao trình độ của các đô thị hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao, phương thức và các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học kỹ thuật, công nghệ ngày càng tăng cường; hiệu quả kinh tế - xã hội cũng ngày càng được cải thiện và nâng cao. Đô thị hoá theo chiều sâu là quá trình thường xuyên, là yêu cầu tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển. Quá trình đó đòi hỏi các nhà quản lý đô thị và các thành phần kinh tế trên địa bàn đô thị thường xuyên vận động và phải biết điều tiết, tận dụng tối đa những tiềm năng sẵn có và hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở hiện đại hoá trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đô thị. Đô thị hoá là một tiến trình rất đa dạng, trong nó có chứa đựng nhiều hiện tượng và biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển. Trên quan điểm một vùng, đô thị hoá là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hoá là một quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu. Đô thị hoá là quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô
  19. 13 thị của các nhóm dân cư, gắn liền với những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ.v.v.. Do vậy, đô thị hoá gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đô thị hoá nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật; đó là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho các vùng nông thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…); Thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững. Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng, tạo ra các cụm đô thị, liên đô thị, góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn. Trong quá trình CNH, HĐH sự hình thành các đô thị hiện đại có vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh nông thôn, đô thị là hình thái quần cư cơ bản thứ hai của xã hội loài người. Trên thế giới, đô thị ra đời rất sớm nhưng chỉ thật sự phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và đến nay đô thị đã trở thành một hiện tượng xã hội, một hiện tượng kinh tế có ảnh hưởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội. Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng
  20. 14 trưởng, phát triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế thông qua quá trình phân bố lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công nghệ, văn hoá, xã hội. Với sự phát triển của hệ thống các đô thị, nhiều nước đã từng bước hình thành được những vùng lãnh thổ phát triển, không chỉ đảm nhận chức năng động lực, thúc đẩy sự phát triển toàn bộ kinh tế - xã hội đất nước mà còn đảm nhận chức năng hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa đảm nhận vai trò tiếp nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hoá của thế giới rồi lan rộng ra các vùng xung quanh (Xem phụ lục 1). Sự hình thành các đô thị có những đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia: + Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ của nền kinh tế và nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Chẳng hạn chỉ tính riêng bốn thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng năm 2004 chiếm khoảng 14% dân số, tạo ra 36,4% GDP, 45,7% giá trị sản lượng công nghiệp và gần 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Các đô thị này đã trở thành những vùng động lực có tốc độ tăng trưởng cao và có đóng góp quan trọng vào việc tăng quy mô của nền kinh tế, tăng giá trị công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu của cả nước. + Với quy mô sản xuất, diện tích, dân số lớn và không ngừng gia tăng sự tập trung lớn các năng lực sản xuất, các đô thị cũng có khả năng cung cấp một
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2