Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường của một số tộc người ở Tây Bắc và Tây Nguyên
lượt xem 3
download
Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã được các tộc người quan tâm chú ý từ rất lâu. Để bảo vệ, khai thác và quản lý vấn đề này, họ đã tạo ra những thế ứng xử hài hòa giữa con người và thế giới tự nhiên. Đó là những nguyên tắc, cách ứng xử được áp dụng trong cuộc sống của các dân tộc thiểu số nhằm bảo vệ môi trường thiên nhiên và bảo tồn sự hài hòa giữa con người và thế giới tự nhiên.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường của một số tộc người ở Tây Bắc và Tây Nguyên
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT LUÊÅT TUÅC BAÃO VÏå TAÂI NGUYÏN THIÏN NHIÏN, MÖI TRÛÚÂNG CUÃA MÖÅT SÖË TÖÅC NGÛÚÂI ÚÃ TÊY BÙÆC VAÂ TÊY NGUYÏN hoàNg VăN QuyNh* Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã được các tộc người quan tâm chú ý từ rất lâu. Để bảo vệ, khai thác và quản lý vấn đề này, họ đã tạo ra những thế ứng xử hài hoà giữa con người và thế giới tự nhiên. Đó là những nguyên tắc, cách ứng xử được áp dụng trong cuộc sống của các dân tộc thiểu số nhằm bảo vệ môi trường thiên nhiên và bảo tồn sự hài hòa giữa con người và thế giới tự nhiên. Các tộc người đều có những biện pháp bảo vệ môi trường riêng của mình, mà một trong những biện pháp được coi là có hiệu quả nhất chính là các điều khoản của luật tục dân gian đã tồn tại hàng ngàn đời nay. 1. Khái niệm luật tục địa phương”, “Luật dân gian”. Đây là một Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu, hiện tượng xã hội phổ quát của nhân loại ở luật tục là những phương ngôn, ngạn ngữ thời kỳ phát triển tiền công nghiệp và còn tồn diễn đạt bằng lời nói có vần điệu, chứa đựng tại đến ngày nay với những mức độ khác các quy tắc xử sự, thể hiện, phản ánh quy nhau ở nhiều tộc người trên thế giới, nhất là chuẩn phong tục, tập quán, ý chí, nguyện các tộc người châu Á và châu Phi. Luật tục vọng của cộng đồng, bảo đảm thực hiện về cơ bản là một hình thức của tri thức bản trong cộng đồng dân tộc thiểu số, được cộng địa, tri thức địa phương về cách ứng xử và đồng bảo đảm thực hiện1. quản lý cộng đồng còn tồn tại ở hầu khắp các Đối với các nhà nghiên cứu văn hoá dân dân tộc ở nước ta, không kể đó là dân tộc gì, gian, các quan niệm của họ lại đi sâu phân ít người hay đa số2. tích làm rõ nội hàm của luật tục. Thuật ngữ Ngoài ra, còn nhiều ý kiến khác về khái luật tục hay tập quán pháp ở Việt Nam có thể niệm luật tục, nhưng trên cơ sở các quan gọi với nhiều tên gọi khác nhau, như là “Luật điểm khác nhau, sau một thời gian dài tìm * ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 1 Lê Hồng Sơn: Vai trò của phong tục tập quán và việc kế thừa phong tục tập quán trong xây dựng pháp luật, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 863-875. 2 Viện Dân tộc học, Tư liệu lịch sử và xã hội dân tộc Thái. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 25-54. NGHIÏN CÛÁU 12 LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT hiểu, nghiên cứu, thảo luận, nhiều cuộc hội cưỡng chế và bắt buộc đối với những ai thảo quốc tế cũng như trong nước và các không tuân theo. Luật tục là những quy định cuộc thảo luận chuyên đề, nhiều nhà khoa của quần chúng trong cộng đồng đặt ra để học nước ta tạm thời chấp nhận khái niệm điều hoà mối quan hệ của tập thể cộng đồng luật tục như sau: “Luật tục là một hình thức một cách tự nguyện và dân chủ, không phải của tri thức bản địa, được hình thành trong là luật lệ do một tầng lớp người đặt ra và thực lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng xử với thi để bảo vệ quyền lợi của họ. môi trường và xã hội, được thể hiện dưới 2. Các quy định về bảo vệ tài nguyên thiên nhiều hình thức khác nhau và truyền từ đời nhiên và môi trường trong luật tục của này qua đời khác bằng trí nhớ qua thực hành một số tộc người ở Tây Bắc và Tây sản xuất và thực hành xã hội, nó hướng đến Nguyên việc hướng dẫn các quan hệ xã hội, quan hệ Theo kết quả nghiên cứu của ngành dân con người với thiên nhiên. Những chuẩn tộc học, Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có mực ấy của luật tục được cả cộng đồng thừa 53 dân tộc là các dân tộc thiểu số. Các dân nhận và thực hiện, nhờ đó đã tạo ra sự thống tộc này chủ yếu sống ở miền núi, như miền nhất và cân bằng trong mỗi cộng đồng. Luật núi Tây Bắc, Đông Bắc, dãy Trường Sơn và tục như hình thức phát triển cao của phong Tây Nguyên. Đây là những nơi tập trung tục, tục lệ và là hình thức sơ khai của luật nhiều tài nguyên thiên nhiên quý của đất pháp”3. nước với hàng chục ngàn loài động thực vật Từ các quan niệm trên, chúng ta có thể và đất rừng phù hợp với trồng cây công nhận thấy, đối tượng điều chỉnh của luật tục nghiệp; các nguồn khoáng sản như than đá, là những quan hệ xã hội tồn tại khách quan quặng kim loại.... Trong đó, miền núi và cao của đời sống cộng đồng. Luật tục có phạm vi nguyên chiếm 3/4 diện tích cả nước, là nơi điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu vực của đời sống xã hội như: lĩnh vực tổ số. Ở đây, có rất nhiều tiềm năng về kinh tế, chức và quản lý cộng đồng xã hội, lĩnh vực có hơn 10 triệu ha rừng và đất rừng với nhiều ổn định trật tự an ninh và bảo đảm lợi ích loại gỗ quý, trữ lượng cao và nhiều loại động cộng đồng; việc tuân thủ phong tục, tập thực vật có giá trị kinh tế và khoa học lớn4. quán; các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình; Với tiềm năng tự nhiên dồi dào, phong lĩnh vực giáo dục nếp sống văn hoá tín phú như vậy, trong một thời gian dài, các dân ngưỡng; lĩnh vực quản lý sử dụng đất đai, tộc thiểu số miền núi nước ta chủ yếu dựa bảo vệ sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và vào tự nhiên mà sống, mọi sinh hoạt cuộc môi trường. sống đều dựa vào thiên nhiên và cho đến tận Như vậy, luật tục là một hệ thống các bây giờ nhiều nơi vẫn như vậy. Môi trường quy tắc xử sự mang tính dân gian, quy định thiên nhiên có vai trò rất quan trọng đối với về mối quan hệ ứng xử của con người đối với đời sống sinh hoạt của họ, gần như trong tất môi trường tự nhiên và con người với con cả các lĩnh vực ăn, mặc, ở, sinh hoạt đều dựa người trong cộng đồng, thể hiện ý chí của vào thiên nhiên, gắn bó mật thiết với thiên toàn thể cộng đồng, được thực hiện một cách nhiên và thấy được sự tác động trở lại của tự giác, theo thói quen, nhưng vẫn có tính thiên nhiên đến đời sống sinh hoạt của họ. 3 Hoàng Xuân Tý, Vai trò của luật tục vùng cao trong công tác giao đất, khoán rừng và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 310-323. 4 Bế Viết Đẳng (chủ biên), 50 năm các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945 - 1995), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr. 109- 110. NGHIÏN CÛÁU Söë 04(308) T2/2016 LÊÅP PHAÁP 13
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Từ đó, việc hình thành những kinh nghiệm định mang tính chất phòng ngừa, dạy bảo ý và cách thức bảo vệ, khai thác môi trường tài thức của mọi người về những tác hại của vụ nguyên thiên nhiên từ rất lâu đời ở các dân việc đó gây ra cho cộng đồng, cho chính tộc thiểu số miền núi nước ta là điều hiển cuộc sống hàng ngày của họ. Điều 18 Luật nhiên. Bởi vì họ quan niệm rằng, cuộc sống tục M’nông quy định: “Rừng bị cháy mà của họ tồn tại được chính là nhờ môi trường không dập tắt, người đó sẽ không có rừng, thiên nhiên, nếu môi trường thiên nhiên bị người đó sẽ không có đất”6. huỷ hoại thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời Ngoài ra, ở một số vùng dân tộc Thái, sống của họ. vấn đề ngăn chặn nạn cháy rừng cũng được 2.1. Bảo vệ tài nguyên rừng quy định thành lệ rất cụ thể. Trước khi đốt Các dân tộc thiểu số ở nước ta sống chủ rẫy, bà con thường phát cây xung quanh rẫy yếu ở các vùng rừng núi (3/4 diện tích là hai, ba sải tay để có một khoảng cách an toàn rừng núi). Rừng rất cần thiết đối với họ, rừng nhất định tránh lửa có thể bén tới chân rừng. gần như quyết định cuộc sống của họ (với Hoặc đốt nương cũng phải chọn những ngày cuộc sống săn bắt, hái lượm trước đây). Do không có gió, còn những ngày có gió to, gió đó, họ đã có những quy định rất chặt chẽ, cụ Lào thì tuyệt đối không ai được đốt nương. thể về cách thức quản lý, khai thác và bảo vệ Trong Luật tục Thái (Hịt khòng Mường rừng, được thể hiện trong các bộ luật tục của Bản) cũng có đoạn quy định: từng tộc người. “Không nạn nào hơn nạn lửa, nạn nước Trong Luật tục Ê Đê đã có những điều Dùng nước phải biết tránh luồng nước luật về các vụ cháy rừng, quy định về việc Dùng lửa hãy giữ gìn nạn cháy”7. không đốt lửa bừa bãi, vô ý thức khi vào Như vậy, việc quy định về cách bảo vệ, rừng; khuyên răn mọi người phải hết sức chú phòng, chống nạn cháy rừng rất cụ thể, sát ý khi dùng lửa, nếu ai gây cháy sẽ bị trừng thực tiễn và mọi người rất hưởng ứng tuân phạt rất nặng. “Đàn ông thường đốt lửa bừa theo và nó ăn sâu vào trong tâm thức của bãi, đàn bà thường đốt lửa bậy bạ, có những từng người. Người dân thường rất vui khi người đốt lửa mà làm như kẻ điếc, kẻ đui, có thực hiện những quy định của cộng đồng đề những người đốt lửa mà làm như kẻ điên, ra. Đây là một vấn đề mà pháp luật bảo vệ người dại”… “E rằng đi rẫy lo việc nương tài nguyên môi trường cũng như các lĩnh vực rẫy mà không biết đi, cầm theo những đầu pháp luật khác của Nhà nước ta chưa làm dây còn cháy dở có thể huỷ diệt cả rừng. Lửa được. sẽ bén vào rừng thiêu trụi cỏ cây, mọi vật. Ngoài nạn cháy rừng, luật tục quy định Còn e rằng lửa sẽ cháy lan, thiêu trụi cả xóm rất cụ thể về quản lý, khai thác, bảo vệ các làng người ta, thiêu trụi cả chòi, cả kho lúa cánh rừng, việc vi phạm những điều luật về người ta đã dựng lên trong rừng, trong rẫy, bảo vệ rừng bị xử phạt nghiêm khắc. Thông mà xung quanh chưa kịp dọn quang”5. thường, đồng bào quan niệm rừng, môi Trong Luật tục M’nông cũng vậy, vấn đề trường thiên nhiên là tài sản chung của tất cả cháy rừng được cộng đồng rất quan tâm. Để mọi người, không phải của riêng ai và là bảo vệ tốt, trước hết thường có những quy nguồn sống không thể thiếu được của họ. Do 5 Hoàng Xuân Tý, tlđd, tr. 310-323. 6 Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Luật tục M’nông, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 268. 7 Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, Luật tục Thái (Tập quán pháp), Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1999. tr. 446. NGHIÏN CÛÁU 14 LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT vậy, mọi người phải có trách nhiệm bảo vệ tươi. Vì vậy, trong quá trình phát triển kinh rừng, bảo vệ môi trường thiên nhiên. tế thị trường hiện nay, nếu biết vận dụng tốt Luật tục M’nông quy định: “Khu rừng các phong tục, tập quán, luật lệ quản lý và sâu đâu phải của nai, khu rừng đó là của tổ bảo vệ rừng trên cơ sở của Luật Bảo vệ và tiên, khu rừng đó là của con cháu, khu rừng phát triển rừng của Nhà nước để xây dựng đó là của ông bà, khu rừng đó là của chúng nên một quy chế bảo vệ và phát triển rừng ở ta”. Do đó, nếu ai phá rừng sẽ bị lên án bằng từng cơ sở, thì việc quản lý, bảo vệ và khái cách: “Làm nhà đừng dùng cây nữa; làm thác tài nguyên rừng sẽ có hiệu quả hơn. chòi đừng đừng dùng cây nữa; làm rẫy 2.2. Bảo vệ tài nguyên nước không phát rừng nữa; khi thiếu đói đừng đào Tài nguyên nước cũng là một thành phần củ nữa…”8. cơ bản của môi trường, có vai trò rất quan Luật tục Thái quy định về sự cân bằng trọng trong đời sống của con người. Ở nước sinh thái giữa con người với rừng núi; nó thể ta, Luật Tài nguyên nước năm 2012 mới hiện trong tập quán phân loại rừng thành được ban hành và đang dần dần đi vào cuộc từng khu vực nhằm phục vụ các nhu cầu sống, nhưng ở các dân tộc thiểu số nước ta, khác nhau của cuộc sống như: rừng núi từ lâu đã có những phong tục, tập quán, luật phòng hộ nằm trên khu vực đầu nguồn nước, lệ bảo vệ và giữ gìn nguồn nước rất cụ thể. tuyệt đối cấm khai thác; rừng núi dành cho Họ đều cho rằng, có nước sẽ có tất cả. Người việc khai thác tre, gỗ để dựng nhà và phục Thái có khẩu ngữ quen thuộc là: “có nước vụ các nhu cầu cuộc sống thì tuyệt đối không mới có ruộng, có ruộng mới có lúa”, có nơi được chặt đốt làm nương; núi rừng phục vụ còn quy định “ăn cắp nước lã phải phạt 80 cuộc sống tâm linh, được gọi bằng tên chung lạng bạc, kèm theo rượu, trâu, phải cúng cho là “rừng thiêng”9. chủ hồn nước 03 đồng bạc và trả lại số nước Tóm lại, việc quản lý bảo vệ và sử dụng đã lấy”10. Để bảo vệ tốt nguồn nước, dân tộc tài nguyên rừng được quy định rất chặt chẽ Thái có những quy định rất chặt chẽ về các và cụ thể trong các điều khoản của các bộ vùng nước, các khúc sông suối, họ thường luật tục. Ngoài ra, việc bảo vệ, khai thác và quy những vùng nước, khúc sông suối cần sử dụng tài nguyên rừng này còn được thể bảo vệ thành những vùng linh thiêng như hiện rộng rãi trong các phong tục, tập quán “vũng cấm” (văng hảm) hay “vũng mường” sinh hoạt hàng ngày của từng dân tộc khác (văng mương). Đây là những chỗ sông, suối nhau mà không được ghi chép thành văn bản. sâu thẳm, xanh biếc và được mở rộng ra hai Nó được truyền miệng từ đời này đến đời bên bờ nơi có khu rừng già, nước chảy lững khác và ăn sâu trong tâm thức của từng con lờ nên có cảnh quan bề ngoài như một cái ao người. Với cách thức bảo vệ rừng như vậy trời phú. Theo tôn giáo tín ngưỡng Thái thì của các dân tộc thiểu số ở nước ta trước đây, đây là những chỗ để các siêu linh dưới nước trong một thời gian dài các dân tộc thiểu số trú ngụ và là những nơi để tế chủ nước cũng đã bảo vệ được những cánh rừng luôn xanh như tổ chức hội đánh cá. 8 Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Luật tục M’nông, sđd, tr. 268. 9 Rừng thiêng: i) nơi rừng cấm để làm lễ cúng “thần linh bản” (xên phi bản) hoặc “thần linh mường” (xên phi mường); ii) chỉ có ở đất Chiềng (xiềng) tức trung tâm của mường mới có ngọn núi được chọn để cúng khí thiêng của đất, mang ý niệm là “siêu linh cạn” (phi bốc) đối lập với “siêu linh nước” (phi nặm) mang tên là “Núi hồn mường” (pom minh mương). Bề mặt của núi thường phủ lớp rừng thiêng; iii) gồm những khu rừng già dành để chôn cất người chết. 10 Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng: Luật tục Thái (Tập quán pháp), Sđd, tr. 311. NGHIÏN CÛÁU Söë 04(308) T2/2016 LÊÅP PHAÁP 15
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Để giữ gìn, bảo vệ nguồn nước thường là bảo vệ rừng đầu nguồn, nơi tạo ra nguồn xuyên cho các con sông, suối và các mạch nước, cấp nước sinh hoạt cũng như trồng nước ngầm, người Thái đã sớm biết tạo ra và trọt. Hầu như các dân tộc đều có những quy bảo vệ các khu rừng đầu nguồn. Trên mỗi định về bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ mạch một nguồn nước là những khu rừng có nhiều nước ngầm, bảo vệ các khúc sông, suối chạy cây cối um tùm. Tín ngưỡng dân gian coi qua làng, bản của họ. Điều đặc biệt ở đây là mỗi khu rừng đó là nhà của các loại ma liên các dân tộc đều rất chú ý cấm kỵ việc làm dơ quan đến sức mạnh tạo ra nguồn nước. Cây bẩn nguồn nước. cối càng rậm rạp chúng càng thích trú ngụ. Hiện nay, vấn đề bảo vệ, gìn giữ nguồn Bởi vậy, nếu phá rừng đầu nguồn cũng có nước đã được Nhà nước luật pháp hoá bằng nghĩa là phá nhà và những người đụng chạm việc ban hành Luật Tài nguyên nước. Các đến chúng sẽ bị ma bắt mất hồn mà sinh ra vấn đề như sở hữu, quản lý nước, bảo vệ, ốm hay chết. Theo một số nhà nghiên cứu, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, tín ngưỡng dân gian quan niệm nguồn nước chống khắc phục hậu quả lũ lụt và các tác hại nào cũng có “thần chủ” gọi bằng thuật ngữ khác do nước gây ra… được pháp luật quy tôn giáo tín ngưỡng Thái là “ma đầu nguồn” định rất cụ thể, tạo ra một hành lang pháp lý (phi hua bó) hay “ma huỷ” (phi khuông) trong việc quản lý, khai thác và sử dụng tài chuyên gây cho người bệnh đau khớp xương nguyên nước. Tuy nhiên, việc ban hành là không thể chữa chạy được và đến khi khuất như vậy, nhưng việc thực thi có hiệu quả lại núi thì linh hồn không thể biến thành ma về là một vấn đề khác, vấn đề triển khai còn rất cõi trời mà phải “trực gác” nơi đầu nguồn để chậm, nội dung chung chung, không cụ thể chuyên hại người khác11. và hầu như các vùng dân tộc miền núi không Luật tục Gia Lai có những quy định rất biết đến Luật này mà các dân tộc thiểu số cụ thể về bảo vệ nguồn nước, nước sạch, nước ta chủ yếu thực hiện bảo vệ nguồn nước như: cấm làm nhà nơi nguồn nước, nơi có theo phong tục, tập quán, các luật lệ của dân mạch ngầm, mạch phun; nếu có người nào tộc và thực tế, công tác bảo vệ về tài nguyên làm dơ bẩn nơi mạch nước ngầm trong sạch nước có hiệu quả rất cao. Vì vậy, cùng với đó thì nó sẽ khiến cho con người bị to bụng, sự ra đời của Luật Tài nguyên nước, nếu biết tả lỵ. kết hợp tốt với các phong tục, tập quán, luật Ngoài ra, luật tục Gia Lai còn quy định: tục của các địa phương, các dân tộc thiểu số nước uống dùng một con sông, một dòng thì hiệu quả bảo vệ, giữ gìn tài nguyên nước suối, một hồ nước sạch… phải dùng một của cả nước sẽ cao hơn. phía, nhà ở về một phía, đi chôn người chết 2.3. Bảo vệ tài nguyên đất đai không được sang sông, sang suối, vượt nhà, Đất đai là một tài nguyên quốc gia vô vượt làng, qua rẫy, qua nương. Ai phạm vào cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là một trong các điều trên đều bị xử phạt tuỳ thành phần quan trọng hàng đầu của môi theo mức độ vi phạm mà có mức phạt nặng trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân nhẹ khác nhau. cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá - xã Nói chung, cách thức bảo vệ, gìn giữ hội, an ninh và quốc phòng. Nhà nước ta đã nguồn nước của các dân tộc thiểu số chủ yếu ban hành khá nhiều văn bản pháp luật về bảo 11 Phan Hữu Dật - Cầm Trọng, Văn hoá Thái Việt Nam. Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1995, tr. 94. NGHIÏN CÛÁU 16 LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT vệ rừng, đất rừng, đất đai nói chung nhưng số miền núi nước ta rất thành công trong việc hiệu quả đạt được lại không được như ý muốn. quản lý khai thác và sử dụng đất đai (chủ yếu Trong khi đó, ở các dân tộc thiểu số miền núi là đất rừng). Vì vậy, chúng ta nên vận dụng nước ta có rất nhiều kinh nghiệm, phong tục những quy định do đồng bào các dân tộc tập quán trong việc bảo vệ tài nguyên đất. thiểu số đặt ra và được thi hành bao đời nay Nhiều dân tộc đã hình thành những bộ luật tục để thực hiện những chính sách của Đảng và và có những quy định về bảo vệ đất đai rất cụ Nhà nước đối với việc quản lý, khai thác và thể mà chủ yếu là đất rừng. sử dụng đất đai. Trong Luật tục Ê Đê đã có hẳn một 2.4. Bảo vệ động thực vật chương quy định về đất đai và người chủ đất Cũng như việc quản lý, bảo vệ các như: chăm nom đất đai, không để mất người nguồn tài nguyên môi trường khác, động chủ đất; quyền hạn, quyền lợi và nhiệm vụ thực vật cũng được các dân tộc thiểu số miền của người chủ đất; việc lấn chiếm đất đai, núi nước ta quản lý, bảo vệ và khai thác rất xâm phạm đất đai. Ví dụ, đất đai, sông suối, hiệu quả bằng các phong tục tập quán, luật cây rừng (là) cái nong, cái nia, cái lưng của tục truyền thống từ rất lâu. ông bà12 (Điều 232 Luật tục Ê Đê). Những Trong Luật tục M’nông có đến hàng người được gọi là chủ đất có trách nhiệm rất trăm điều luật khác nhau, trong đó có khá lớn đối với đất đai thuộc quyền quản lý của nhiều điều luật liên quan đến các loại động họ, họ phải có nhiệm vụ đi thăm đất13 (Điều thực vật, như trong quan hệ sở hữu, tài sản, 233 Luật tục Ê Đê). các điều luật đã đề cập đến việc bảo vệ, gìn Luật tục M’nông quy định về tội bán đất giữ động thực vật quý hiếm. Loại động vật rừng: Bán đất bon làng khiếu nại; bán rẫy lúa được nói đến nhiều nhất là con voi, đã có mất đất làm khổ con cháu hoặc bán đất, rừng những điều luật quy định xử phạt những ai có tội với con cháu14. vi phạm như ăn thịt voi, coi khinh voi, chửi Luật tục Thái cũng có quy định về quản mắng voi, nhất là tội hành hạ voi đến mức lý, sử dụng và khai thác đất đai. Ví dụ, họ có làm cho chúng bị thương và bị chết. Người quy định rất cụ thể về việc giải quyết tranh nào sử dụng voi nhưng không chăm sóc chu chấp đất ruộng: “Nếu hai bên tranh chấp đáo hoặc cục cằn, đối xử tàn nhẫn với voi sẽ nhau thửa ruộng, luật sẽ giải quyết theo văn bị phạt rất nặng. Nếu người nào săn bắn làm tự của thửa ruộng. Nếu không có văn tự, bên chết các loài thú hiếm, Luật tục M’nông buộc nào quen “ăn” thửa ruộng đó, đã được một người đó phải nộp phạt rất nặng để tạ tội với đời không bỏ, thì cho bên đó được tiếp tục thần linh. “ăn” thửa ruộng như cũ”15. Ngoài ra, việc bắt cá bằng cách đánh Với những quy định truyền thống như thuốc, chập điện như hiện nay cũng bị coi là vậy, đã có một thời kỳ dài các dân tộc thiểu một trọng tội, phải nghiêm cấm vì nó huỷ 12 Người Ê Đê coi đất là mẹ, đất trên cao nguyên lại có cấu trúc lượn sóng nên họ quan niệm mặt đất là cái lưng của tổ tiên. Thành ngữ này thường thấy lặp đi lặp lại trong văn ngôn của tập quán pháp ca. Đất đai, rừng núi cũng được ví như cái nong, cái nia. 13 Đi thăm là để đất đai mãi mãi tốt tươi, để nước không ngừng chảy, để chuối mía mọc xum xuê. Đất nào phải đâu như con ngựa không chủ, như con bò không người chăn. 14 Ngô Đức Thịnh (chủ biên), sđd, tr. 524. 15 Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, sđd, tr. 341. 16 Ngô Đức Thịnh (chủ biên), sđd, tr. 280. NGHIÏN CÛÁU Söë 04(308) T2/2016 LÊÅP PHAÁP 17
- NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT hoại môi trường sống của các sinh vật khác. thường được gắn với một loài động thực vật Vấn đề này được Luật tục M’nông quy định nào đó như hổ, chim, khỉ… Khi đã gắn với trong điều Tội thuốc cá: “Thuốc cá làm suối loài đó như vậy thì dòng họ đó không được nghèo; muốn ăn ếch phải dùng ná bắn; muốn giết hại, cũng như ăn thịt loài đó, vì họ cho ăn cá dùng rổ mà vớt…” tức là làm gì cũng rằng đó là tổ tiên của họ. Hoặc các bà lang phải bảo vệ nòi giống, không được giết hàng khi đi hái thuốc trong rừng không bao giờ họ loạt “Làm chết sạch cả tép, cả cua; ai thuốc chặt cả cây, nhổ cả gốc, nếu cần lấy rễ cây cá có tội với làng; tội thuốc cá không ai đền thì họ chỉ đào lấy những rễ phụ không ảnh nổi”16. hưởng đến sự sống của cây, hoặc lấy lá thì Luật tục Êđê cũng có nhiều điều liên cũng không bao giờ vặt trụi cả cây… quan đến quản lý, bảo vệ, khai thác động Chỉ với những phong tục truyền thống, thực vật. Con voi cũng được Luật tục Ê Đê những quy định đơn giản như vậy, nhưng đã đề cập tới nhiều như: “Nếu làm voi đau ở có một thời kỳ dài các dân tộc thiểu số ở chân thì anh ta (người vi phạm) phải chăm nước ta rất thành công trong việc bảo vệ các sóc voi, băng bó cho voi, khấn lên bài khấn loài động thực vật quý hiếm cũng như các cầm máu cho voi, đặt cho voi các thứ thuốc loại động thực vật phục vụ đời sống hàng để lành sẹo vết thương, nếu máu vẫn chảy, ngày của họ. vết thương không khô, người ta không còn Nhìn một cách khái quát, chúng ta thấy đóng bành trên lưng voi được nữa, nếu voi rằng, các quy định của luật tục mặc dù rất không ăn cỏ (voi chết) thì anh ta phải đền lại manh mún, phạm vi áp dụng hẹp và còn lạc giá trị hoặc thay thế một con voi khác to hậu, nhưng đi sâu tìm hiểu chúng ta thấy rất bằng” (Điều 222 Luật tục Ê Đê). hợp lý, phù hợp với từng địa phương, với đời sống của từng tộc người cụ thể. Có thể khẳng Luật tục Gia Lai cũng có những điều luật định rằng, nó thể hiện tính tự quản rất cao quy định về việc bảo vệ thú rừng: trong việc quản lý xã hội nói chung và trong “Cấm săn bắt quá mức; việc bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái Thịt con khỉ, con dộc, con vượn, con khỉ phục vụ cho riêng đồng bào các dân tộc thiểu đột, con chuột, con ếch, con nhái… số. Tuy nhiên, các quy định của luật tục như Không được mang về nhà ăn, xui khiến vậy chỉ phù hợp với xã hội trong điều kiện cháy khô bắp lúa, ghẻ lở phong độc tới con thuần tuý về mặt nông nghiệp, có thành phần người, và không được săn bắn”. cư dân thuần nông. Với điều kiện phát triển Các bộ luật tục của dân tộc Thái rất ít đề nền kinh tế thị trường như hiện nay thì việc cập đến việc bảo vệ, khai thác các loài động thực hiện những quy định của luật tục cũng thực vật. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày sẽ có những biến đổi. Do đó, cùng với hệ của họ vẫn có những luật lệ rất cụ thể, mà thống pháp luật bảo vệ tài nguyên và môi gần như ai cũng biết và phải thực hiện như trường của nước ta hiện nay, chúng ta có thể là điều đương nhiên. Ví dụ: ở người Thái xây dựng quy chế dân chủ cơ sở (quy ước địa Mường Tấc (Phù Yên - Sơn La) khi con cháu phương) trên cơ sở kế thừa những yếu tố tốt lớn lên, các cụ (ông bà, bố mẹ…) thường chỉ đẹp của luật tục truyền thống (tính cộng bảo con cháu rất cẩn thận về cách thức bảo đồng, tính nhân bản, hợp lý) để bảo vệ các vệ các loại động, thực vật, như khi đi đánh thành phần quan trọng của môi trường như cá cũng phải có mùa, tránh đánh bắt cá vào rừng, nguồn nước, đất rừng, động thực vật mùa cá đẻ, tránh săn bắn thú rừng vào mùa quý hiếm có hiệu quả hơn, khuyến khích sinh nở hoặc một số dòng họ của người Thái được mọi người dân hưởng ứng tham gia n NGHIÏN CÛÁU 18 LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam - Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa: Phần 2
144 p | 132 | 21
-
Vai trò bảo vệ quyền con người và nguyên tắc trình tự pháp luật công bằng, hợp lý: Phần 2
280 p | 19 | 11
-
Giáo trình luật lao động về thời gian làm việc Th.s. Diệp Thành Nguyên - 1
21 p | 85 | 8
-
Tìm hiểu về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền theo pháp luật môi trường Việt Nam: Phần 2
100 p | 32 | 8
-
Vai trò của cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển đối với bảo vệ môi trường biển
9 p | 12 | 7
-
Giáo trình luật lao động về thời gian làm việc Th.s. Diệp Thành Nguyên - 7
21 p | 84 | 6
-
Giải pháp hoàn thiện đấu giá quyền sử dụng đất tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai
12 p | 9 | 5
-
Luật tục Ê-đê về bảo vệ tài nguyên môi trường trong mối tương quan với pháp luật hiện nay
13 p | 9 | 3
-
Một số đặc thù trong giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
8 p | 51 | 2
-
Phát huy giá trị của luật tục trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường
5 p | 34 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn