intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luật văn Thạc sĩ Luật học: Chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ quản lý nhà nước

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

27
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung nghiên cứu những lý luận cơ bản về chống sản xuất và buôn bán hàng giả của Việt Nam nhìn dưới góc độ quản lý nhà nước bao gồm: cở sở lý luận của quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả; các cơ quan chức năng quản lý và đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay; nội dung quản lý nhà nước; thực trạng quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả,... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luật văn Thạc sĩ Luật học: Chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ quản lý nhà nước

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MẠNH CƯỜNG CHỐNG SẢN XUẤT VÀ BUÔN BÁN HÀNG GIẢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2007
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MẠNH CƯỜNG CHỐNG SẢN XUẤT VÀ BUÔN BÁN HÀNG GIẢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT MÃ SỐ: 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ TRỌNG HÁCH hµ néi - n¨m 2007
  3. MỤC LỤC Trang mở đầu 1 Chương 1: C¬ së lý luËn vÒ qu¶n lý nhµ n-íc trong lÜnh vùc chèng s¶n xuÊt vµ 5 bu«n b¸n hµng gi¶ 1.1. Khái quát chung về hàng giả 5 1.1.1. Quan niệm về hàng giả 5 1.1.2. Đặc điểm của hàng giả 11 1.1.3. Tình hình sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam 13 1.1.4. Vấn đề sản xuất và buôn bán hàng giả trên thế giới 17 1.1.5. Tác hại của việc sản xuất và buôn bán hàng giả đối với nền 19 kinh tế ở Việt Nam. 1.2. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng chống sản xuất 22 và buôn bán hàng giả 1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng chống sản 22 xuất, buôn bán hàng giả 1.2.2. Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng, chống sản 23 xuất và buôn bán hàng giả 1.2.2.1. Chính phủ 23 1.2.2.2. Các Bộ chuyên ngành 25 1.2.2.3. Uỷ ban nhân dân các cấp 30 1.2.3. Các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp đấu tranh chống sản 32 xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam 1.2.3.1. Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự kinh tế và 32 chức vụ (Bộ Công an) 1.2.3.2. Lực lượng Quản lý thị trường 33 1.2.3.3. Lực lượng Hải quan 34 1.2.3.4. Thanh tra chuyên ngành 35
  4. 1.2.3.5. Các tổ chức khác 38 1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán 39 hàng giả 1.2.4.1. Hoạch định chính sách và xây dựng, ban hành pháp luật về 39 chống sản xuất và buôn bán hàng giả 1.2.4.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về chống sản xuất và buôn bán 40 hàng giả 1.2.4.3. Thanh tra, kiểm tra và xử lý những vi phạm pháp luật liên 41 quan đến hàng giả 1.2.5. Ý nghÜa vµ vai trß cña qu¶n lý nhµ n-íc trong c«ng t¸c chèng s¶n xuÊt vµ bu«n b¸n hµng gi¶ ®èi víi sù æn ®Þnh vµ ph¸t 41 triÓn kinh tÕ ë n-íc ta CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC CHỐNG SẢN XUẤT 44 VÀ BUÔN BÁN HÀNG GIẢ Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về công tác chống sản 44 xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam 2.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề sản xuất và 44 buôn bán hàng giả 2.1.2. Những quy định của pháp luật nước ta về chống sản xuất và 46 buôn bán hàng giả 2.1.2.1. Ban hành các văn bản pháp quy làm cơ sở pháp lý cho công 47 tác phòng chống sản xuất và buôn bán hàng giả 2.1.2.2. Ban hành một số văn bản pháp luật quy định về sở hữu trí 49 tuệ liên quan đến hàng giả 2.1.2.3. Các văn bản pháp luật khác có liên quan đến đấu tranh chống 50 sản xuất và buôn bán hàng giả 2.1.2.4. Quy định tội phạm về hàng giả và liên quan đến hàng giả 51 2.1.2.5. Những văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam tham gia liên 52 quan đến hàng giả 2.1.3. Những tồn tại về nhận thức và quy định của pháp luật trong 53
  5. công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả 2.2 Kết quả công tác quản lý nhà nước và đấu tranh chống 58 sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam 2.2.1. Hiệu quả và hiệu lực trong quản lý nhà nước về chống sản 58 xuất và buôn bán hàng giả 2.2.2. Kết quả công tác đấu tranh, xử lý chống sản xuất và buôn 62 bán hàng giả ở nước ta 2.2.3. Những tồn tại trong công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực 66 chống sản xuất và buôn bán hàng giả 2.3 Kinh nghiệm của một số quốc gia trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. 68 2.3.1. Chống sản xuất và buôn bán hàng giả tại Hàn Quốc 68 2.3. 2. Chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Nhật Bản 71 2.3.3. Những kinh nghiệm từ thực trạng hai quốc gia trên 73 Chương 3: Mét sè gi¶i ph¸p n©ng cao hiÖu qu¶ c«ng t¸c qu¶n lý nhµ n-íc vµ ®Êu 75 tranh chèng s¶n xuÊt vµ bu«n b¸n hµng gi¶ ë ViÖt Nam 3.1 Dự báo về tình hình sản xuất và buôn bán hàng giả ở nước ta trong thời gian tới 75 3.1.1. Bối cảnh quốc tế 75 3.1.2. Bối cảnh trong nước 76 3.1.3. Phương thức, thủ đoạn trong sản xuất và buôn bán hàng giả ngày càng tinh vi và phức tạp hơn 77 3.1.4. Chủng loại hàng giả được sản xuất và buôn bán đa dạng, phức tạp hơn 77 3.1.5. Đối tượng sản xuất, buôn bán hàng giả ngày càng đa dạng, mang tính chuyên nghiệp và tinh vi hơn 78 3.1.6. Địa bàn sản xuất và buôn bán hàng giả chủ yếu tập trung ở
  6. các khu đô thị, khu công nghiệp, khu vực giáp ranh và địa 80 bàn đông dân cư 3.2. Các yêu cầu đối với việc phải nâng cao hiệu quả công tác 81 quản lý nhà nước và đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả 3.2.1. Yêu cầu khách quan 81 3.2.2. Yêu cầu chủ quan 82 3.2.3. Kết quả công tác quản lý nhà nước và đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo 83 sự ổn định và phát triển kinh tế ở nước ta 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước và đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả ở nước ta 84 3.3.1. Nâng cao hơn nữa nhận thức về hậu quả của việc sản xuất và 84 buôn bán hàng giả 3.3.2. Hoàn thiện pháp luật và cơ chế chính sách về chống sản xuất 87 và buôn bán hàng giả 3.3.3. Kiện toàn các cơ quan quản lý và đấu tranh chống sản xuất 88 và buôn bán hàng giả 3.3.4. Nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức và có chính sách thoả đáng đối với những người làm công tác chống sản xuất và 90 buôn bán hàng giả 3.3.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý trong lĩnh vực chống sản xuất và buôn bán hàng giả 91 3.3.6. Tăng cường công tác hợp tác quốc tế về chống sản xuất và 93 buôn bán hàng giả kết luận 95
  7. Tài liệu tham khảo 102
  8. MỞ ĐẦU 1- Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm vừa qua, sự phát triển vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với sự đổi mới đường lối chính sách về kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Trên thị trường các hoạt động sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hoá ngày càng diễn ra tấp nập, nhộn nhịp và cạnh tranh phát triển chạy theo nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Trong điều kiện đó, công tác quản lý nhà nước, nhất là quản lý nền kinh tế thị trường đang nảy sinh một số vấn đề phức tạp và có nhiều kẽ hở. Một trong những vấn đề đáng quan tâm là sự gia tăng nạn sản xuất, buôn bán hàng giả trong nền kinh tế thị trường. Những hoạt động này không những ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người tiêu dùng, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế mà còn làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, của toàn xã hội, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam, uy tín chính chị của Đảng và Nhà nước, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Nhà nước. Các hoạt động sản xuất và buôn bán hàng giả ở nước ta đang có chiều hướng gia tăng và ngày càng lan rộng sang nhiều ngành hàng, chủng loại hàng hoá. Trước nguy cơ gây hại của nạn hàng giả, đẩy mạnh công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả là một yêu cầu cấp bách đòi hỏi sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả còn đòi hỏi các cơ quan chức năng phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, phối hợp đồng bộ với các cơ quan hữu quan để đấu tranh hạn chế nạn hàng giả. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật quan trọng làm cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả. Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương các cấp cũng đã tích cực tổ chức kiểm tra, xử lý, đấu tranh, ngăn ngừa và làm giảm dần các vụ sản xuất buôn bán, hàng giả, góp phần lành mạnh hoá hoạt động
  9. lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, người sản xuất chân chính và người tiêu dùng. Để tìm hiểu một cách tương đối toàn diện về hoạt động sản xuất và buôn bán hàng giả nhìn dưới góc độ quản lý nhà nước, trên cơ sở phân tích thực trạng hàng giả, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xu hướng phát triển của hàng giả và những tồn tại, hạn chế để tìm ra giải pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ quản lý nhà nước” làm đề tài luận văn cao học. 2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở nước ta liên quan đến vấn đề sản xuất, buôn bán hàng giả đã có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập tới ở nhiều góc độ, ví dụ: Đề tài khoa học "Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam" năm 2005 của Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận án Phó tiến sĩ khoa học luật học "Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” năm 1996 của Lê Xuân Thảo; Luận án tiến sĩ Luật học: “Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả thực trạng và biện pháp phòng, chống” năm 2001 của Trần Ngọc Việt; Luận văn thạc sĩ "Đấu tranh phòng chống tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay" năm 1998 của Đỗ Thị Lan… Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên chủ yếu mang tính chất chuyên ngành dân sự về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc mang tính chất chuyên ngành hình sự nghiên cứu về Tội sản xuất và buôn bán hàng giả, mà chưa có công trình nào nghiên cứu về chống sản xuất và buôn bán hàng giả dưới góc độ quản lý nhà nước để làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng, ban hành các chính sách và chủ trương, biện pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Vì thế, đây là một công trình nghiên cứu đầu tiên về lĩnh vực này dưới góc độ quản lý nhà nước. 2
  10. 3- Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu những lý luận cơ bản về chống sản xuất và buôn bán hàng giả của Việt Nam nhìn dưới góc độ quản lý nhà nước bao gồm: cở sở lý luận của quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả; các cơ quan chức năng quản lý và đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay; nội dung quản lý nhà nước; thực trạng quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả bao gồm: hệ thống pháp luật về chống sản xuất và buôn bán hàng giả, những kết quả đạt được trong những năm qua, những tồn tại, yếu kém, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó; yêu cầu đối với nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả trong thời gian tới. Vì phạm vi nghiên cứu đề tài tương đối rộng, liên quan tới nhiều cơ quan khác nhau. Do vậy, Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu vấn đề sản xuất, buôn bán hàng giả nói chung dưới góc độ quản lý nhà nước qua thực tiễn hoạt động của lực lượng Quản lý thị trường - cơ quan của Bộ Thương mại. 4- Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của việc nghiên cứu là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả, từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của việc nghiên cứu là: Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam trên cơ sở pháp luật thực định của Việt Nam, tham khảo pháp luật, kinh nghiệm của một số quốc gia; đánh giá hiệu quả hoạt động thực tiễn công tác quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở nước ta trong những năm qua; phân tích, làm rõ những tồn tại hạn chế về cơ chế, chính sánh cũng như những tồn tại, yếu kém trong quá 3
  11. trình thực thi của các lực lượng chức năng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả. 5- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở những phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu khoa học nói chung và khoa học pháp lý nói riêng, như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp lôgic hình thức, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh luật học, phương pháp thống kê chuyên ngành… 6- Điểm mới khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống về cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay, những bất cập về cơ chế, chính sách cũng như thực thi của các cơ quan chức năng trong quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Từ đó đề xuất và kiến nghị nhằm xây dựng những giải pháp đồng bộ nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam. 7- Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương và 8 tiết. 4
  12. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC CHỐNG SẢN XUẤT VÀ BUÔN BÁN HÀNG GIẢ 1.1. Khái quát chung về hàng giả 1.1.1. Quan niệm về hàng giả Hàng giả đã xuất hiện trên thị trường nước ta trong nhiều năm trở lại đây, nhất là từ khi chúng ta đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ chế độ quản lý tập trung bao cấp sang quản lý hạch toán kinh doanh, đặc biệt trong thời kỳ kinh tế thị trường thì nạn làm hàng giả và buôn bán hàng giả ngày càng phát triển. Trong lý luận và thực tiễn hiện tồn tại nhiều quan niệm về hàng giả. Trước hết, tìm hiểu khái niệm về hàng hoá và thế nào là giả: “Hàng hoá là sản phẩm dùng để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi” [43, tr. 214], còn "Giả có nghĩa không phải là thật mà được làm với bề ngoài giống như cái thật để người khác tưởng là thật" [44, tr. 405]. Theo từ điển Bách khoa toàn thư: "Hàng giả là hàng làm bắt chước theo mẫu mã của loại hàng thật nào đó đang được lưu hành, nhưng không bảo đảm đủ tiêu chuẩn về phẩm chất hoặc không có giá trị sử dụng, hoặc không có giá trị sử dụng đầy đủ, nhất là đối với mặt hàng thông dụng và có nhu cầu lớn. Về hình thức, các loại hàng giả rất giống hàng thật, vì kĩ thuật làm hàng giả ngày càng tinh vi. Người làm hàng giả cũng có khi sử dụng một phần nguyên liệu, các loại bao bì, tem nhãn của hàng thật để lừa gạt người mua" [45]. Khái niệm này thực ra chỉ là giải thích về mặt ngôn ngữ, mà chưa phải là khái niệm mang tính pháp lý, thể hiện bản chất của hàng giả. Ở đây chúng tôi không đi sâu vào thuật ngữ về hàng giả nói chung, mà chỉ nghiên cứu tìm hiểu khái niệm về hàng giả được quy định trong các văn bản pháp luật. 5
  13. Nghị định số 140/HĐBT ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả nêu rõ: "Hàng giả là những sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như sản phẩm được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường, hoặc những sản phẩm, hàng hoá không có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó" (Điều 3). Sản phẩm, hàng hoá có một trong những dấu hiệu dưới đây được coi là hàng giả: - Sản phẩm, hàng hoá (kể cả hàng nhập khẩu) có nhãn sản phẩm giả mạo hoặc nhãn sản phẩm của một cơ sở sản xuất khác mà không được chủ nhãn đồng ý; - Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Cục sáng chế), hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; - Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn không đúng với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng; - Sản phẩm, hàng hoá ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam khi chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam; - Sản phẩm, hàng hoá đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng với cơ quan Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng mà có mức chất lượng thấp hơn mức tối thiểu cho phép; - Sản phẩm, hàng hoá có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất, tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó (Điều 4) [15, tr.1,2]. Trong quá trình thực hiện những quy định này đã cho thấy hàng giả được quy định tại Nghị định số 140/HĐBT ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng 6
  14. nói trên chưa thể hiện rõ các dấu hiệu về mặt bản chất của hàng giả; khái niệm về hàng giả còn được đề cập chung chung dưới dạng liệt kê. Hoạt động của thực tiễn đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng hơn về hàng giả giúp cho công tác đấu tranh ngăn ngừa, chống hàng giả tránh được những khó khăn trong xử lý các hành vi vi phạm. Đến nay, Nghị định này đã hết hiệu lực thi hành. Thông tư Liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27/4/2000 của Liên Bộ Thương mại, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả đã quy định hàng hoá có một trong các dấu hiệu sau đây bị coi là hàng giả: Một là, hàng giả chất lượng hoặc công dụng. - Hàng hoá không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đúng như bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó. - Hàng hoá đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng làm thay đổi chất lượng; không có hoặc có ít dược chất, có chứa dược chất khác với tên dược chất ghi trên nhãn hoặc bao bì; không có hoặc không đủ hoạt chất, chất hữu hiệu không đủ gây nên công dụng; có hoạt chất, chất hữu hiệu khác với tên hoạt chất, chất hữu hiệu ghi trên bao bì. - Hàng hoá không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng những nguyên liệu, phụ tùng khác không đảm bảo chất lượng so với tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá đã công bố, gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường. - Hàng hoá thuộc danh mục Tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không thực hiện gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường . 7
  15. - Hàng hoá chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà sử dụng giấy chứng nhận hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hoá bắt buộc). Hai là, giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá: - Hàng hoá có nhãn hiệu hàng hoá trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hoá kể cả nhãn hiệu hàng hoá đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, mà không được phép của chủ nhãn hiệu. - Hàng hoá có dấu hiệu hoặc có bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ. - Hàng hoá, bộ phận của hàng hoá có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng công nghiệp. - Hàng hoá có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá gây hiểu sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hoá. Ba là, giả về nhãn hàng hoá - Hàng hoá có nhãn hàng hoá giống hệt hoặc tương tự với nhãn hàng hoá của cơ sở khác đã công bố. - Những chỉ tiêu ghi trên nhãn hàng hoá không phù hợp với chất lượng hàng hoá nhằm lừa dối người tiêu dùng. - Nội dung ghi trên nhãn bị cạo, tẩy xoá, sửa đổi, ghi không đúng thời hạn sử dụng để lừa dối khách hàng . Bốn là, các loại ấn phẩm đã in sử dụng vào việc sản xuất, tiêu thụ hàng giả: 8
  16. - Các loại đề can, tem sản phẩm, nhãn hàng hoá, mẫu nhãn hiệu hàng hoá, bao bì sản phẩm có dấu hiệu vi phạm như: trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hàng hoá cùng loại, với nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ. - Các loại hoá đơn, chứng từ, chứng chỉ, tem, vé, tiền, ấn phẩm có giá trị như tiền, ấn phẩm và sản phẩm văn hoá giả mạo khác [37, tr.2, 3]. Theo Thông tư liên tịch này thì hàng giả có hai loại: giả về chất lượng, công dụng và giả về hình thức. Hàng giả về chất lượng, công dụng thường là những hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đúng với tên gọi, công dụng của nó, không đảm bảo tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật đã được quy định. Còn hàng giả về hình thức có nghĩa là giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, nhãn hàng hóa. Tuy nhiên, Thông tư này đến nay đã không còn phù hợp với thực tiễn, chưa xác định được khái niệm “hàng giả về sở hữu trí tuệ”, cho nên cũng không xác định được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong việc sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá hàng giả, chưa phân biệt được rõ ràng giữa hàng giả và hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ - tức là những hàng hoá được làm ra do hành vi sử dụng trái phép các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, mà quy định như vậy hàng giả và hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có một bộ phận bị trùng nhau. Thực chất, hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng là một loại hàng giả, song để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thực thi pháp luật có sự áp dụng đúng đắn thì việc phân biệt khái niệm hàng giả và hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là rất cần thiết. Do không có quy định cụ thể và rõ ràng về vấn đề này nên trong thực tế, không chỉ người dân mà ngay cả các cơ quan chức năng khi thực thi pháp luật vẫn chưa có sự phân định rõ giữa hàng giả và hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Điều này dẫn đến sự không thống nhất trong hoạt động áp dụng pháp luật. Khắc phục những hạn chế nêu trên, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã đề 9
  17. cập được các hành vi “Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 213 của Luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này” (Điểm c Khoản 1 Điều 211), mà các loại hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ này được quy định cụ thể tại Điều 213, Luật này như sau: 1. Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hoá sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này. 2. Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý. 3. Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan” [9, tr.75]. Với quy định này, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã xác định và quy định rõ các hành vi sản xuất, nhập khẩu, lưu thông hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ. Trên đây là những quy định của Nhà nước ta về hàng giả, đây là những quy định cơ bản nhất về hàng giả và cũng là những đặc điểm để nhận biết về hàng giả. Nhưng nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa có quy định toàn diện, tổng quát nhất khái niệm hàng giả, dấu hiệu nào để nhận biết hàng giả? Chính vì vậy cần thiết phải nghiên cứu một cách có hệ thống để đưa ra một khái niệm chung nhất về hàng giả, các dấu hiệu để nhận biết hàng giả, thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật để làm căn cứ cho các lực lượng chức năng, người dân phát hiện hàng giả, đấu tranh chống các hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả. 10
  18. Theo quan điểm của Cơ quan Phát triển kinh tế Pháp: “Hàng giả, đó là hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, có nghĩa là toàn bộ phần đầu tư mà doanh nghiệp đã bỏ ra nhằm phát triển một nhãn hiệu hàng hoá, tạo ra mẫu mã mới, sáng chế ra một giải pháp, làm cho mọi người biết đến một sản phẩm đặc biệt... đã bị đánh cắp”[65, tr.4]. Làm hàng giả là một loại tội phạm được xác định trong Luật sở hữu trí tuệ. Theo quan điểm của Uỷ ban quốc gia chống hàng giả của Úc: “Hàng giả là hàng hoá sản xuất bất hợp pháp và trái pháp luật xâm phạm sản phẩm thật đã được bảo hộ bởi Luật quyền sở hữu công nghiệp, Luật bản quyền...” [65, tr.5]. Còn theo quan điểm của Cơ quan Sở hữu trí tuệ Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, họ đều chưa có khái niệm cụ thể, chính xác nào về hàng giả mà chủ yếu họ đều coi đó là hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp. Từ những quy định pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra khái niệm tổng quát về hàng giả như sau: “Hàng giả là tất cả các loại hàng hoá được sản xuất trái pháp luật dựa trên các hàng hoá đã có trên thị trường có những đặc điểm, tính chất, kiểu dáng và các thông tin dấu hiệu của hàng thật nhưng không đủ tiêu chuẩn chất lượng quy định gây nhầm lẫn với hàng hoá đang được bảo hộ nhằm mục đích lừa dối người tiêu dùng và thu lợi bất chính”. 1.1.2. Đặc điểm của hàng giả Thứ nhất, hàng giả là những vật phẩm hàng hoá được sản xuất, nhập khẩu trái pháp luật. Hàng giả dù bất kỳ là sản phẩm nào cũng là những vật phẩm được sản xuất, nhập khẩu trái pháp luật. Tính trái pháp luật thể hiện ở chỗ: Pháp luật cấm các hành vi sản xuất, buôn bán, vận chuyển hàng giả; các hành vi vi phạm liên quan về hàng giả sẽ bị xử lý theo các quy định pháp luật. 11
  19. Nghị định số 175/2004/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại quy định xử phạt về kinh doanh hàng giả (Điều 18) và xử phạt về kinh doanh tem, nhãn, bao bì hàng hoá giả (Điều 19) ... Ngoài ra, còn một số các Nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, nhãn hàng hoá, văn hoá thông tin … đã quy định các hành vi cụ thể liên quan đến hàng giả và chế tài xử phạt. Tuỳ theo mức độ gây thiệt hại, các tổ chức và cá nhân sản xuất, buôn bán hàng giả có thể bị xử lý hành chính hoặc bị truy tố … Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội phạm về hàng giả (Điều 156: Tội sản xuất và buôn bán hàng giả, Điều 157: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh)... Thứ hai, hàng giả dựa trên các hàng hoá đã có trên thị trường có những đặc điểm, tính chất, kiểu dáng và các thông tin dấu hiệu của hàng thật nhưng không đủ tiêu chuẩn chất lượng quy định gây nhầm lẫn với hàng hoá đang được bảo hộ. Hàng thật với tư cách vật làm chuẩn phải là hàng hoá có đăng ký sản xuất ra theo nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi xuất xứ hàng hoá và đã được Nhà nước bảo hộ theo văn bằng bảo hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp (kể cả nhãn hiệu hàng hoá... của nước ngoài được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam). Tất cả hàng hoá cùng loại của nhà sản xuất khác được làm giả giống hệt hoặc tương tự nhãn hiệu, kiểu dáng hoặc tên gọi xuất xứ của hàng hoá đã được Nhà nước bảo hộ như trên thì đều bị coi là hàng giả. Hàng giả thường có đặc điểm, tính chất, kiểu dáng của hàng thật, mô phỏng, sao chép các đặc điểm của hàng thật, sao cho giống hàng thật để người tiêu dùng khó nhận biết, phân biệt. Hầu hết hàng giả được sản xuất với mẫu mã, bao bì, kiểu dáng giống như hàng thật. Về chất lượng, hàng giả thông thường không bằng hàng thật. Ngoài hàng giả về chất lượng hoặc công dụng, phần lớn các loại hàng giả về mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu, kiểu dáng v.v…chất lượng không bằng hàng thật. Tuy nhiên 12
  20. cũng có một số hàng giả chất lượng tương đương so với hàng thật, việc làm giả về mẫu mã, bao bì nhằm giảm chi phí đầu tư, rút ngắn quá trình xâm nhập thị trường. Thứ ba, hàng giả được tạo ra nhằm mục đích lừa dối người tiêu dùng Hàng giả không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng do giá trị sử dụng của loại hàng này ít hơn, thậm chí không có giá trị sử dụng so với hàng thật. Mục đích của việc làm hàng giả là làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với hàng thật để tiêu thụ hàng giả. Mục đích này đạt được từ sự cố gắng mô phỏng những đặc điểm, tính chất của hàng thật, thể hiện qua những dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn như: gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hoá; gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ; có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu dáng đang được bảo hộ; có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu; giả mạo chỉ dẫn địa lý hay có nhãn hàng hoá giống hệt hoặc tương tự với nhãn của cơ sở khác. Chính vì có các dấu hiệu, yếu tố gây nhầm lẫn với hàng thật mà hàng giả nhìn giống như hàng thật và người tiêu dùng mua nhầm hàng giả. 1.1.3. Tình hình sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam Tình trạng sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay là rất phức tạp đang đặt ra những thách thức to lớn đối với nền kinh tế khi nước ta đang đẩy nhanh quá trình hội nhập và đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Những vi phạm về hàng giả xảy ra ở hầu khắp các lĩnh vực sản xuất, ngành hàng và địa phương, dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước đây, hàng giả xuất hiện tập trung ở một số mặt hàng như bột ngọt, rượu, mỹ phẩm, hàng điện tử ... nhưng gần đây, hàng giả đã mở rộng ra nhiều mặt hàng khác như: các loại phụ tùng xe, hàng điện tử cao cấp, nước hoa, rượu ngoại, đến hàng tiêu dùng bình thường như kem đánh răng, dầu gội đầu... 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2