Ma-két phụ trương báo in ở thành phố<br />
Hồ Chí Minh từ góc độ lý luận và thực tiễn<br />
Nguyễn Chí Hùng<br />
<br />
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Báo chí<br />
Chuyên ngành: Báo chí học; Mã số: 60 32 01<br />
Người hướng dẫn: PGS.TS Đinh Văn Hường<br />
Năm bảo vệ: 2011<br />
Abstract. Trình bày cơ sở lý luận của ma-két báo in và phụ trương báo in: Khái niệm và<br />
các thuật ngữ; Lược sử makét báo in thế giới và ở Việt Nam; Vai trò của ma-két đối với<br />
báo in và phụ trương. Nghiên cứu thực trạng ma-két phụ trương một số báo in ở thành<br />
phố Hồ Chí Minh: Quản lý nhà nước về báo in và phụ trương; Nội dung thông tin của<br />
phụ trương; Sử dụng các yếu tố hình thức của ma-két trong phụ trương và những yếu tố<br />
liên quan đến việc sử dụng này; Một số đặc điểm của ma-két phụ trương báo in ở thành<br />
phố Hồ Chí Minh. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phụ trương báo in<br />
ở thành phố Hồ Chí Minh.<br />
<br />
Keywords. Báo chí học; Phụ trương; Báo in; Phương tiện truyền thông; Ma két<br />
<br />
Content.<br />
PHẦN MỞ ĐẦU<br />
1. Tính cấp thiết của đề tài<br />
Trong dòng chảy của đời sống báo chí truyền thông hiện nay, vấn đề cạnh tranh giữa<br />
báo in và báo điện tử đã trở thành chuyện sống còn. Báo điện tử với ưu thế về tích hợp<br />
truyền thông đa phương tiện (multimedia) đã cung cấp cho độc giả những tiện nghi nghe<br />
- nhìn cực kỳ thuận tiện. Các thiết bị truy cập mạng có tính cơ động cao như điện thoại di<br />
động, laptop, netbook, kindle, ipad… giúp độc giả ngày nay có thể đọc tin tức, xem ảnh,<br />
xem phim, nghe âm thanh và truy cập vào các từ khóa, đi sâu tìm hiểu các nội dung có<br />
liên quan… gần như mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy, ở những nước có nền báo chí phát triển<br />
như Anh, Mỹ, Pháp, Thụy Điển… hiện tượng sinh viên hầu như chỉ đọc báo điện tử chứ<br />
không đọc báo in đã trở thành chuyện “thường ngày ở huyện”.<br />
Tuy nhiên, báo điện tử không phải không có những điểm yếu. Một trong những “gót<br />
chân asin” của báo điện tử là đọc nó khá bất tiện vì lúc nào cũng phải phụ thuộc vào máy<br />
móc, thiết bị, hoặc vào nguồn năng lượng điện /pin khá phiền phức. Người đọc báo điện<br />
tử lại thường bị mỏi mắt khi nhìn màn hình chói sáng quá lâu, các hình ảnh có độ phân<br />
giải thấp nhìn không rõ nét cũng khiến việc truyền thông bị hạn chế rất nhiều. Về mặt<br />
hình thức, giao diện báo điện tử thường bị bó hẹp trong một màn hình nhỏ, cố định nên<br />
cách trình bày không đa dạng, tính thẩm mỹ không cao.<br />
Hạn chế của báo điện tử may thay lại là ưu thế của báo in. Để cạnh tranh với báo điện<br />
tử, báo in có thể khai thác tối đa sở trường của mình trong việc thiết kế, dàn trang (làm<br />
ma-két), tạo ra các ấn phẩm có hình thức bắt mắt, phong cách đa dạng, tính thẩm mỹ cao.<br />
Ngoài việc có độ tương phản thị giác thích hợp, báo in dùng nhiều ảnh có độ phân giải<br />
1<br />
lớn sắc nét, màu sắc tươi tắn, hấp dẫn người đọc. Những yếu tố vừa nêu giúp cho ma-két<br />
hình thức của báo in có sức thu hút người đọc rất mạnh mẽ và trong chừng mực nào đó<br />
đã trở thành yếu tố cạnh tranh không dễ vượt qua. Các báo điện tử cũng nhìn thấy điều<br />
này nên đã phổ biến hình thức quét (scan) các trang báo in và đưa lên mạng trong các<br />
chuyên trang “Epaper” để giả lập cách đọc của báo in. Tuy nhiên, đó chỉ là biện pháp nửa<br />
vời, không thể so sánh được với hình thức nguyên bản của việc thực hiện ma-két trong<br />
báo in.<br />
Gần đây, các báo lớn ở thành phố Hồ Chí Minh như Tuổi Trẻ, Phụ Nữ, Sài Gòn giải<br />
phóng, Khoa học phổ thông, Doanh nhân…đã biết phát huy những thế mạnh của báo in<br />
như vừa trình bày để cải tiến ma-két, xuất bản nhiều phụ trương có hình thức bắt mắt,<br />
phong cách trình bày đa dạng làm tăng cường sức thu hút của ấn phẩm báo in đối với bạn<br />
đọc truyền thống.<br />
Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung nhiều tờ báo lớn của cả nước, thị<br />
trường phát hành luôn sôi động. Nơi đây có nhiều họa sĩ làm ma-két báo có tay nghề<br />
giỏi, nhiều kinh nghiệm trong thiết kế, trình bày báo chí. Tuy nhiên, khá đông người làm<br />
ma-két báo thường chỉ có chuyên môn sâu về một trong hai ngành. Hoặc họ chỉ thuần là<br />
người được đào tạo trong ngành mỹ thuật, chưa được đào tạo căn cơ về nghiệp vụ báo<br />
chí, hoặc họ là những nhà báo chuyên nghiệp có ưu thế về hiểu biết nghiệp vụ báo chí<br />
nhưng hạn chế về kiến thức thẩm mỹ trong đồ họa ứng dụng. Đó là chưa kể đến những<br />
người chỉ có nghiệp vụ ở ngành in ấn - chế bản làm họa sĩ chính của nhiều báo và tạp chí<br />
khác nhau. Vì vậy, những ma-két báo được làm ra chưa đáp ứng được tiêu chuẩn đúng<br />
nghĩa của một tác phẩm báo chí tức tác phẩm dùng hình thức có tính thẩm mỹ để chuyển<br />
tải cái quan trọng hơn là thông tin cần thiết cho cuộc sống.<br />
Mặt khác, muốn đáp ứng được yêu cầu làm ma-két tốt, buộc phải có nơi đào tạo bài<br />
bản về lý luận và thực tiễn thiết kế, trình bày báo. Nhưng trong thời điểm hiện nay ở<br />
thành phố Hồ Chí Minh, việc đào tạo nghề làm “ma-két báo” cũng rơi vào tình trạng<br />
không khá hơn. Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học quốc gia thành<br />
phố Hồ Chí Minh) nơi duy nhất đào tạo ngành báo chí ở phía Nam có các giảng viên<br />
giảng dạy về thiết kế, trình bày ma-két báo chí thường là các họa sĩ, có chuyên môn sâu<br />
về mỹ thuật nhưng chưa có thế mạnh về nghiệp vụ báo chí. Giáo trình, tài liệu chính thức<br />
chưa có dẫn đến việc chưa phát huy tốt việc đào tạo về bộ môn này.<br />
Vì vậy, việc nghiên cứu để bước đầu hình thành khung lý luận về bộ môn thiết kế,<br />
trình bày báo ở thành phố Hồ Chí minh trở nên hết sức cấp thiết. Người viết luận văn<br />
mong rằng luận văn này sẽ là tiền đề, gợi niềm hứng thú cho các nghiên cứu tiếp theo<br />
nhằm đáp ứng tốt nhu cầu về lý luận và thực tiễn của bộ môn.<br />
Từ gợi ý của Thầy hướng dẫn, cộng với niềm yêu thích về cái đẹp của ma-két hình<br />
thức báo, người viết rất thú vị khi chọn đề tài “Ma-két phụ trương báo in ở thành phố<br />
Hồ Chí Minh từ góc độ lý luận và thực tiễn (Khảo sát Tuổi trẻ cuối tuần, Phụ nữ Chủ<br />
nhật, Sài Gòn giải phóng thứ bảy, Làm bạn với máy vi tính, Doanh nhân Sài Gòn cuối<br />
tuần từ 2008 – 2011)” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học khóa<br />
2008-2011, Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại<br />
học Quốc gia Hà Nội.<br />
<br />
2<br />
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề<br />
Sài Gòn xưa, nay là thành phố Hồ chí Minh, là cái nôi của báo chí Việt Nam, nơi các<br />
hoạt động báo chí đã diễn ra hơn một thế kỷ. Từ xưa tới nay, đây vẫn là một thị trường<br />
báo chí rộng lớn, sôi động so với nhiều địa phương khác trên cả nước, nhưng vấn đề<br />
nghiên cứu về lý luận báo chí nói chung, lý luận về thiết kế trình bày báo nói riêng, vẫn<br />
như mảnh đất chưa được khai phá mấy. Năm 2003, Nhà xuất bản trẻ mở đầu cho việc<br />
cung cấp kiến thức về thiết kế, trình bày báo qua việc mua bản quyền và dịch sang tiếng<br />
Việt 2 quyển sách về Design & layout: Roger C.Parker’s, Thiết kế - tạo mẫu & dàn trang<br />
- Design & Layout (Volume 1), Nxb Trẻ, 2003; Alan Swann, Ý tưởng - bố cục & thể hiện<br />
- Design & Layout (Volume 2), Nxb trẻ, 2003. Hai quyển sách này giúp ích khá nhiều<br />
cho những ai muốn có cái nhìn tổng quan về nghề thiết kế đồ họa nói chung. Nội dung<br />
sách nêu lên khá chi tiết về kết cấu, đặc điểm và cách sử dụng các yếu tố hình thức của<br />
ma-két trong trình bày báo, đồng thời hướng dẫn cách tìm tòi ý tưởng sáng tạo và cách<br />
thể hiện chúng trong ma-két. Năm 2009, hoạ sĩ Uyên Huy-Trưởng khoa đồ họa Đại học<br />
Mỹ thuật TP.HCM cho ra đời quyển sách Màu sắc và phương pháp sử dụng cũng giúp<br />
cho người tìm hiểu nắm được phần khá quan trọng là màu sắc có liên quan đến thiết kế<br />
trình bày báo. Tháng 3/2011, ở cấp độ nghiên cứu khoa học nghiêm túc, luận văn thạc sĩ<br />
có đề tài: Dòng tạp chí chỉ dẫn – giải trí ở Việt Nam: hiệu quả và bất cập của tác giả<br />
Đinh Thu Hiền (PGS.TS Vũ Quang Hào hướng dẫn) đã chỉ ra một số vấn đề về cách thức<br />
tổ chức các chuyên trang và đặc trưng về design & layout của tạp chí chỉ dẫn ở Việt<br />
Nam. Đây cũng là tài liệu khá hữu ích cho người quan tâm đến lĩnh vực trình bày báo.<br />
Ở Hà Nội, hai cơ quan đào tạo báo chí chính quy của cả nước là Trường Đại học khoa<br />
học xã hội và nhân văn (Đại học quốc gia Hà Nội) và Học viện báo chí và tuyên truyền<br />
cũng đào tạo được một số cử nhân và thạc sĩ chọn đề tài thiết kế và trình bày báo làm đề<br />
án tốt nghiệp. Trong số này phải kể đến khóa luận tốt nghiệp cử nhân của Lưu Thiên<br />
Hương vào năm 1998 với đề tài: Maquette báo chí tiếng Việt hiện thời, những vấn đề cần<br />
thảo luận, do PGS.TS. Vũ Quang Hào (Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội)<br />
hướng dẫn. Trong khóa luận tốt nghiệp này, tác giả khóa luận đã vạch ra được những yếu<br />
tố chính yếu cấu tạo nên ma-két hình thức của báo chí như: măng-sét, bố cục trang báo,<br />
chữ tít, chữ chính văn, phi-lê, khung, nền…Năm 2002, cũng với tác giả Lưu Thiên<br />
Hương và thầy hướng dẫn cũ là PGS.TS. Vũ Quang Hào, trong luận văn cao học báo chí<br />
của mình, Lưu thiên Hương đã bảo vệ thành công đề tài Tính truyền thống và tính hiện<br />
đại của ma-két báo chí Việt Nam. Luận văn này đã nâng cao các vấn đề lý luận có liên<br />
quan đến các yếu tố hình thức của ma-két như đã đề cập trong khóa luận trước đó, đồng<br />
thời chỉ ra được biện pháp để nâng tầm việc thiết kế, trình bày báo theo phong cách hiện<br />
đại và mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.<br />
Ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền Hà Nội, bài viết vào năm 2002 của tác giả Hà<br />
Huy Phượng: Sự độc đáo của thông tin đồ họa, trong “Báo chí, những điểm nhìn từ thực<br />
tiễn” có vẻ như là bước khởi động của việc nghiên cứu về lý luận thiết kế và trình bày<br />
báo ở cơ quan này. Năm 2006, ThS. Hà Huy Phượng cho ra đời quyển sách: Tổ chức nội<br />
dung và thiết kế, trình bày báo in. Quyển sách hướng dẫn khá cụ thể việc trình bày báo<br />
như một nghề đặc biệt, trong đó, ngoài nội dung chính là những nguyên tắc và phương<br />
<br />
3<br />
pháp thiết kế báo in, các mô hình thiết kế, trình bày trang báo, tác giả còn hướng dẫn cụ<br />
thể cách thức tổ chức nội dung báo và tạp chí cũng như cách sử dụng những phần mềm<br />
tin học ứng dụng như như QuarkXpress, Photoshop để thiết kế trình bày báo.<br />
Gần đây, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt<br />
Nam đã cho ra đời tập sách mỏng 92 trang với tiêu đề: Phạm Thị Thúy Hằng – Mats<br />
Wikman, Những trang báo đẹp - Cẩm nang dành cho các nhà thiết kế (PMB-Foj, Hà<br />
Nội, 2010). Đây là tài liệu được đúc kết trong quá trình hợp tác đào tạo về trình bày báo<br />
của Viện đào tạo báo chí Fojo (Thụy Điển) với Việt Nam. Tập sách này giới thiệu một số<br />
trang báo, tạp chí đoạt giải, cách thiết kế báo hiện đại và một số phần thiết kế lại (Re<br />
design) rất thú vị.<br />
Ngoài ra, còn một số sách, tài liệu quý có nội dung liên quan đến thiết kế trình bày báo<br />
như: Vũ Quang Hào - Ngôn ngữ báo chí, Nxb ĐHQG HN, 2001 (tái bản năm 2007 ở<br />
Nxb Thông Tấn); Vũ Quang Hào - Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển, Nxb Hà Nội,<br />
2004; Báo chí- những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. ĐHQG HN 2010 (tập VII)…<br />
Những tài liệu vừa nêu đã giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quan hữu ích về ma-két báo<br />
chí nói chung, trong đó phần định danh các yếu tố hình thức của ma-két trong nhiều tài<br />
liệu là phần quan trọng đã giúp chúng tôi có được phương hướng vững chắc để kế thừa<br />
và khai thác đề tài theo trải nghiệm thực tế cũng như theo quan điểm riêng của chúng tôi.<br />
Tuy nhiên với việc sưu tầm, thống kê chưa thể đầy đủ, và số lượng tài liệu chuyên biệt<br />
hiện có còn ít ỏi, vậy nên vẫn cần nhiều nghiên cứu hơn nữa về vấn đề ma-két. Đặc biệt,<br />
ở thành phố Hồ Chí Minh với việc phát triển khá đa dạng của nhiều phụ trương trong<br />
mục đích làm kinh tế, việc khoanh vùng nghiên cứu đề tài ma-két phụ trương báo in ở<br />
thành phố này chắc chắn sẽ là một gợi ý tốt cho những nghiên cứu tiếp theo.<br />
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu<br />
Luận văn của chúng tôi khảo sát về ma-két phụ trương báo in nói chung, nhưng với<br />
khuôn khổ có hạn của một luận văn, chúng tôi chỉ đi sâu khảo sát 5 phụ trương đã xuất<br />
bản trong khoảng 3 năm trở lại đây (2008-2011) ở thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm:<br />
Tuổi Trẻ cuối tuần, Phụ Nữ Chủ nhật, Sài Gòn giải phóng thứ bảy, Làm bạn với máy vi<br />
tính, Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần. Đây là những phụ trương hướng đến những đối<br />
tượng khác biệt về lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp cũng như khác biệt về hình thức trình<br />
bày, nội dung thể hiện. Với đối tượng khảo sát khá đa dạng như vậy, hy vọng chúng tôi<br />
sẽ rút ra được những nhận xét bổ ích giúp nâng cao việc thực hiện ma-két phụ trương ở<br />
thành phố cũng như tạo niềm hứng thú cho những nghiên cứu, khảo sát tiếp theo.<br />
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu<br />
Mục đích của người viết luận văn là chỉ ra được thực trạng ma-két phụ trương báo in<br />
tại thành phố Hồ Chí Minh với những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn<br />
hoạt động về thiết kế và trình bày ma-két; nêu được những ưu, khuyết điểm cũng như về<br />
ngôn ngữ ma-két của các báo khảo sát và rút ra bài học kinh nghiệm, đề xuất giải pháp<br />
giúp nâng cao chất lượng ma-két phụ trương báo in tại thành phố Hồ Chí Minh những<br />
năm tiếp theo.<br />
Để đạt được mục đích vừa nói, chúng tôi sẽ khảo sát những nội dung cơ bản có liên<br />
quan đến lý luận về ma-két báo in nói chung, đồng thời sưu tầm, phân loại, thống kê,<br />
<br />
4<br />
định lượng, định tính các yếu tố liên quan đến ma-két phụ trương báo in tại thành phố Hồ<br />
Chí Minh nói riêng, nhưng chủ yếu các khảo sát chỉ tập trung trong 5 ấn phẩm: Tuổi Trẻ<br />
cuối tuần, Phụ Nữ Chủ nhật, Sài Gòn giải phóng thứ bảy, Làm bạn với máy vi tính,<br />
Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần. Nội dung khảo sát cụ thể là 3 nhiệm vụ sau đây: Cơ sở lý<br />
luận của ma-két báo in và phụ trương báo in; Thực trạng ma-két phụ trương một số báo<br />
in ở thành phố Hồ Chí Minh; Một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng phụ trương báo<br />
in ở thành phố Hồ Chí Minh.<br />
5. Phương pháp nghiên cứu<br />
Trong quá trình tiến hành thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng tổng hợp một số các<br />
phương pháp sau:<br />
- Phương pháp sưu tầm tài liệu, thống kê, phân loại, hệ thống hóa các sự kiện để đánh<br />
giá thông tin và đưa ra nhận xét.<br />
- Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các phụ trương và các loại ấn phẩm khác trong<br />
tương quan về cách thực hiện ma-két báo in.<br />
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn sâu: gặp trực tiếp những người có liên quan đến đề<br />
tài để tìm hiểu thông tin, thu thập các số liệu cần thiết.<br />
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn<br />
Trong tình hình còn thiếu những khảo sát, nghiên cứu có hệ thống nhiều vấn đề liên<br />
quan đến ma-két báo in nói chung và phụ trương báo in nói riêng, chúng tôi mong muốn<br />
có những đóng góp nhất định trong việc bổ sung và hoàn thiện một bước về cơ sở khoa<br />
học và lý luận ma-két, đồng thời phác thảo ra được bức tranh khái quát về thực tiễn hoạt<br />
động trong việc thiết kế, trình bày ma-két phụ trương báo in tại thành phố Hồ Chí Minh.<br />
Những vấn đề đúc rút ra được từ khảo sát hy vọng sẽ trở thành nguồn tư liệu tham khảo<br />
có hệ thống giúp ích cho những nhà nghiên cứu, nhà quản lý, các ban thư ký, các họa sĩ,<br />
phóng viên, biên tập viên trong quá trình sản xuất phụ trương báo in, đồng thời có thể<br />
dùng làm tư liệu để các giảng viên, sinh viên những ngành học liên quan tham chiếu<br />
trong chuyên môn của mình.<br />
7. Kết cấu luận văn<br />
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung<br />
chính của luận văn gồm 3 chương như sau:<br />
Chương 1 – Cơ sở lý luận của ma-két báo in và phụ trương báo in: Chương này trình<br />
bày các khái niệm về: ma-két, thiết kế (design), trình bày( layout), phụ trương báo in; các<br />
yếu tố hình thức tạo nên ma-két; lược sử ma-két báo in ở Việt Nam và thế giới, cũng như<br />
nêu bật vai trò của ma-két đối với báo in.<br />
Chương 2 – Thực trạng ma-két phụ trương một số báo in ở thành phố Hồ Chí Minh:<br />
Chương này có nội dung khái quát các vấn đề quản lý nhà nước về phụ trương báo in;<br />
các nội dung thông tin trong phụ trương báo in; việc sử dụng các yếu tố hình thức của<br />
ma-két báo in như khổ báo, măng sét, tít tựa, font chữ… và nêu đặc điểm chung của phụ<br />
trương báo in ở thành phố Hồ Chí Minh thông qua 5 phụ trương tiêu biểu đã chọn.<br />
Chương 3 – Một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng ma-két phụ trương báo in ở<br />
thành phố Hồ Chí Minh: Chương này xoay quanh việc đánh giá, nhận xét bước đầu và đề<br />
<br />
<br />
5<br />
xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của ma-két báo in ở thành phố Hồ Chí<br />
Minh những năm tiếp theo.<br />
<br />
B. PHẦN NỘI DUNG<br />
Trong chương 1 với tiêu đề “Cơ sở lý luận của báo in và phụ trương báo in”, chúng<br />
tôi nêu lên 3 mảng chính: 1. Khái niệm về các thuật ngữ. 2. Lược sử ma-két báo in thế<br />
giới và ở Việt Nam. 3. Vai trò của ma-két báo in và phụ trương.<br />
Trong cả 3 mảng vừa nêu, chúng tôi chú ý nhất đến phần khái niệm về các thuật ngữ,<br />
mà phần trọng tâm là tiểu mục 1- “Các yếu tố tạo nên ma-két báo in”. Phần này gồm 2<br />
phần nhỏ: (a) Các yếu tố nội dung trong đó bao gồm yếu tố thông tin văn tự (tin, bài viết)<br />
và thông tin phi văn tự (ảnh báo chí, bảng, biểu đồ, đồ thị, sơ đồ, bản đồ); (b) Các yếu tố<br />
hình thức của ma-két bao gồm: khổ báo, lề, bát chữ, măng sét, chữ tít, chữ chính văn,<br />
đường kẻ, khung, nền, vi-nhét, minh họa, các tín hiệu đồ họa, màu sắc, khoảng trắng,...<br />
Nội dung tiểu mục này trước hết là để nhận diện những yếu tố quan trọng cấu tạo nên<br />
ma-két, làm tiền đề cho những nhận xét sau này trong chương sau. Những yếu tố tạo nên<br />
ma-két báo in không chỉ nằm ở phương diện hình thức như: khổ báo, măng-sét, chữ, phi-<br />
lê, khung, nền… mà còn nằm ở nội dung thông tin, trong đó ngoài nội dung thông tin phi<br />
văn tự như: ảnh, bảng biểu, đồ thị, sơ đồ…còn có các nội dung thông tin văn tự chứa<br />
đựng hầu hết các thể loại báo chí đã được định danh. Đây chính là điểm quan trọng cho<br />
thấy người thiết kế, trình bày ma-két báo in cần phải am hiểu nghiệp vụ báo chí. Vì như<br />
đã phân tích, ma-két báo in là một tác phẩm báo chí, trong đó việc “đọc” thông tin quan<br />
trọng hơn việc “xem” các hình thức trình bày đơn thuần. Đòi hỏi này đặt lên vai người<br />
thiết kế, trình bày ma-két báo in một nhiệm vụ không hề dễ dàng. Thực tế là những cái<br />
nhìn thẩm mỹ chứa đựng trong nó bố cục, màu sắc, đường nét…dành cho việc thiết kế là<br />
những kiến thức đòi hỏi việc học tập bài bản cùng với việc trải nghiệm thực tế và rút<br />
kinh nghiệm liên tục. Để trở thành người thiết kế mỹ thuật chuyên nghiệp không thôi đã<br />
là chuyện khó khăn. Nay phải học hỏi thêm để đạt được trình độ nghiệp vụ báo chí khả dĩ<br />
đáp ứng được cho công việc “làm báo” buộc người làm công tác thiết kế và trình bày ma-<br />
két báo in phải học tập trên nhiều lĩnh vực và trải nghiệm thực tế không ngừng. Và kết<br />
luận này chính là điều chúng tôi muốn gửi gắm trong chương 1-“Cơ sở lý luận của báo<br />
in và phụ trương báo in”.<br />
Nội dung chủ yếu ở chương 2 chúng tôi dành cho việc phân tích cụ thể các yếu tố hình<br />
thức cấu tạo nên ma-két của những phụ trương tiêu biểu ở thành phố Hồ Chí Minh. Từ<br />
khổ báo, măng sét cho đến bố cục bìa và bố cục các trang trong bao gồm nhiều yếu tố<br />
như hệ thống chuyên trang, tít tựa, lời dẫn, ảnh, chú thích… Đặc biệt chúng tôi cũng chú<br />
ý đến yếu tố “khoảng trắng” là yếu tố ít thấy các tài liệu nghiệp vụ báo chí đề cập đến.<br />
Tất cả các yếu tố hình thức của ma-két mà chúng tôi đề cập đến không ngoài mục đích<br />
nhằm nhận diện được một số đặc điểm chung của phụ trương ở thành phố Hồ Chí Minh,<br />
làm cơ sở cho việc đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng phụ trương ở thành<br />
phố này.<br />
Chúng tôi cũng đã xét đến khía cạnh nội dung thông tin của phụ trương ở thành phố<br />
Hồ Chí Minh, cho thấy khuynh hướng thiên về nội dung chỉ dẫn - giải trí của những ấn<br />
<br />
6<br />
phẩm ở đây. Khuynh hướng này đã chi phối cách thức thiết kế trình bày phụ trương phù<br />
hợp với quy luật nội dung nào hình thức đó, đồng thời cũng ảnh hưởng đến xu hướng<br />
phát triển hình thức của phụ trương dẫn đến mô hình thiết kế chung của phụ trương là<br />
khá giống với các tạp chí chỉ dẫn - giải trí.<br />
Trong chương 2, chúng tôi cũng chú ý nêu lên thực trạng quản lý nhà nước về báo chí<br />
để có thể thấy rõ sự phân cấp và mô hình hoạt động của báo chí nói chung và phụ trương<br />
nói riêng. Chính cơ chế quản lý trong đó có cơ chế cấp giấy phép hoạt động cho phụ<br />
trương đã tạo ra “độ chênh” giữa 2 loại hình báo và tạp chí mà chúng tôi đã đề cập.<br />
Những bất cập này sẽ được kiến nghị thành những giải pháp cụ thể mà chúng tôi sẽ trình<br />
bày tiếp theo ở chương 3.<br />
Trong chương 3, chúng tôi đã cố gắng đề xuất một số vấn đề theo cái nhìn cá nhân,<br />
mong giúp nâng cao chất lượng ma-két phụ trương báo in trong chừng mực có thể. Ngoài<br />
vấn đề tạo cơ chế thông thoáng cho các tạp chí có thể ra phụ trương để tăng nguồn thu,<br />
việc định hướng nội dung thông tin mà chúng tôi đề cập trong chương này cũng là yếu tố<br />
cần xem xét. Bài học của tờ báo News of the World của Anh có truyền thống hơn 160<br />
năm, nay phải “đóng cửa” vì lý do gặp phải bê bối lớn quanh chuyện đột nhập điện thoại<br />
và bị cáo buộc trả tiền cho cảnh sát… là ví dụ điển hình cho việc chệch choạc trong quản<br />
lý và định hướng nội dung của cơ quan báo chí.<br />
Về vấn đề kỹ thuật, chúng tôi đã cố gắng đề cập đến các yếu tố hình thức thường gặp<br />
cần đổi mới của ma-két như: khổ báo, măng-sét, bìa báo và các chuyên trang, bố cục<br />
trang, tít tựa, lời dẫn, ảnh và minh họa, chữ, màu sắc, khoảng trắng, giấy in… Đây là<br />
những nhận xét mà chúng tôi rút ra được trong quá trình học hỏi trên lớp với các thầy cô<br />
cũng như trong quá trình cọ xát thực tế.<br />
Theo chúng tôi, trong các yếu tố đề xuất thay đổi, yếu tố phát triển nguồn nhân lực cần<br />
được quan tâm hơn cả. Vì nguồn lực con người chính là nhân tố quyết định sự thành bại<br />
trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, việc đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực cũng là việc<br />
khó khăn, đòi hỏi nhiều điều kiện về thời gian và chất lượng đào tạo, cũng như phải có<br />
nền vật chất đồng bộ, cơ chế chính sách thông thoáng… Các cơ quan báo chí tại thành<br />
phố Hồ Chí Minh có một thuận lợi lớn là Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ TPHCM<br />
lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010-2015 đã quyết nghị 6 chương trình đột phá, trong đó chương<br />
trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được đặt lên hàng đầu. Vấn đề là các cơ quan<br />
báo chí và các ngành chủ quản làm thế nào để hiện thực hóa việc đào tạo nguồn nhân lực<br />
của ngành qua những bước triển khai thực tế.<br />
Cùng với việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, việc lập ra các hiệp hội chuyên<br />
ngành về thiết kế, trình bày báo cũng như việc biên soạn giáo trình đào tạo chuyên ngành<br />
và đặt ra các giải thưởng liên quan đến thiết kế, trình bày báo… sẽ tạo ra không khí sinh<br />
hoạt hào hứng cho hoạt động thiết kế, trình bày báo tại thành phố Hồ chí Minh giúp phát<br />
triển mạnh về chất lượng nguồn nhân lực trong chuyên ngành hẹp này.<br />
<br />
C. KẾT LUẬN<br />
Lý luận về thiết kế và trình bày báo chí ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan<br />
điểm khác biệt. Ở các cơ quan báo chi, các thuật ngữ chuyên ngành thường dùng trong<br />
<br />
7<br />
nghề báo như phụ trương, ma-két (tiếng Pháp: maquette), lời dẫn (tiếng Pháp: chapeau),<br />
tít tựa (tiếng Pháp: titre) thiết kế (tiếng Anh: design), trình bày/dàn trang (tiếng Anh:<br />
layout),... vẫn có một số cách hiểu khác nhau theo quan điểm riêng của từng tòa soạn.<br />
Trên mạng, số lượng người dùng Internet tại Việt Nam đã lên đến gần 28 triệu người,<br />
chiếm khoảng 31% dân số. Tiếng Anh trên Internet lại là ngôn ngữ phổ biến, vì vậy các<br />
thuật ngữ báo chí được dịch từ tiếng Anh như Flag (tên báo), cutline (chú thích), headline<br />
(tít), drop (lời dẫn)...cũng được nhiều nhà báo trẻ sử dụng. Điều này góp phần làm phức<br />
tạp thêm việc dùng các thuật ngữ vốn là chìa khóa để đi vào phân tích, lý giải các vấn đề<br />
lý luận báo chí. Do vậy, trong luận văn chúng tôi đã cố gắng nêu lên những cách hiểu<br />
khác nhau về các thuật ngữ liên quan trực tiếp đến thực hiện ma-két báo chí như đã nêu,<br />
đồng thời cũng đề nghị cách sử dụng những thuật ngữ này theo nghĩa tương đối phổ dụng<br />
nhằm thống nhất việc gọi tên các hoạt động có liên quan đến đề tài, góp phần đồng bộ<br />
hóa các tên gọi và các thuật ngữ trong hệ thống lý luận báo chí.<br />
Các yếu tố tạo nên ma-két báo chí bao gồm cả nội dung và hình thức như chúng tôi đã<br />
trình bày có mục đích làm rõ vấn đề ma-két báo với tư cách là một ấn phẩm, không đơn<br />
thuần là một tác phẩm nghệ thuật để xem, mà quan trọng hơn nó là một tác phẩm báo<br />
chí, có nhiệm vụ chính là chuyển tải thông tin đến độc giả và thu hút sự quan tâm của họ<br />
bằng những kỹ thuật trình bày khoa học mà chỉ những người am hiểu nghiệp vụ báo chí<br />
lẫn nghệ thuật thị giác mới thực hiện được tốt. Đây là vấn đề thuộc về quan điểm nhìn<br />
nhận mà không ít lãnh đạo các cơ quan báo chí vẫn chưa thống nhất. Việc hiểu chưa<br />
đúng về quan điểm “trang trí đối ngược với truyền thông”(1) thường dẫn đến việc lệch<br />
hướng trong thiết kế. Theo chúng tôi, đây chính là nỗi bức xúc của những nhà báo am<br />
hiểu việc thiết kế trình bày báo nhưng không có được sự đồng thuận của lãnh đạo cơ<br />
quan báo chí. Trong chừng mực nào đó, những nhà báo – họa sĩ này vẫn phải làm theo ý<br />
lãnh đạo để bảo toàn chén cơm nhưng về mặt nghề nghiệp, họ buộc phải để vuột khỏi tay<br />
niềm vui sáng tạo đúng nghĩa.<br />
Trong các yếu tố hình thức của ma-két đã nêu, chúng tôi phần lớn kế thừa cách định<br />
danh của từng yếu tố, nhưng với trải nghiệm thực tế của người từng làm công tác thiết<br />
kế, trình bày, chúng tôi đã đi sâu lý giải những phần mà các tài liệu khác đề cập còn sơ<br />
lược. Ví dụ: về ảnh báo chí, chúng tôi đã nêu lên các kiểu dạng ảnh thường dùng trong<br />
thực tế trình bày báo như ảnh cắt bỏ một phần nền, ảnh mờ dần (fade out), ảnh ở chế độ 2<br />
màu (duo tone), tỉ lệ vàng của khung hình trong hội họa và nhiếp ảnh... Ở phần khổ báo,<br />
chúng tôi lý giải rõ ràng mục đích sử dụng lề và bát chữ có ý nghĩ thế nào trong tâm lý<br />
thị giác và trong việc chế bản. Phần tên báo (manchette), chúng tôi nêu rõ 3 cấp của các<br />
báo từ trung ương đến tỉnh thành và các cơ quan trực thuộc tỉnh thành; mã số chuẩn quốc<br />
tế (ISSN) của báo có ý nghĩa gì trong mạng thông tin toàn cầu.<br />
Trong phần màu sắc, chúng tôi nêu rất chi tiết sự khác biệt giữa màu sắc trong hội họa<br />
– máy tính – in ấn – chế bản nhằm mục đích làm rõ thêm những điều cần biết cho những<br />
người làm việc trên các phần mềm đồ họa, dàn trang vốn cần hiểu sâu các chế độ màu để<br />
có thể chuyển đổi tốt các chế độ này trong chế bản in ấn cũng như trong việc thiết kế trên<br />
máy tính.<br />
<br />
(1)<br />
Chữ dùng của Phạm Thị Thúy Hằng trong Những trang báo đẹp - cẩm nang dành cho những nhà thiết kế<br />
8<br />
Một yếu tố khác của hình thức ma-két là khoảng trắng, hầu như ít được đề cập trong<br />
các tài liệu hiện có, cũng được chúng tôi chú ý nêu rõ vai trò của nó trong tâm lý thị giác<br />
và cân bằng bố cục ma-két báo. Trong quan điểm thiết kế báo hiện đại, khoảng trắng<br />
được coi như một phần quan trọng định hình phong cách chung của ma-két báo. Yếu tố<br />
khoảng trắng là chủ đề thú vị chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để phát triển thêm luận<br />
văn sau này.<br />
Trong phần lược sử báo in ở Việt Nam, chúng tôi đã cố gắng trích xuất những mốc<br />
thời gian về sự hình thành phụ trương và các yếu tố hình thức của ma-két rải rác trong<br />
các tài liệu và đưa tập trung vào đề tài để người đọc hình dung được tiến trình này một<br />
cách rõ nét. Mặc dù thuộc về phần lịch sử, nhưng những khái quát về các giai đoạn phát<br />
triển của ma-két báo chí Việt Nam cũng giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn toàn diện<br />
hơn về vấn đề ma-két báo chí ở nước ta.<br />
Trong chương 2, chúng tôi chủ yếu nêu lên thực trạng ma-két phụ trương báo in ở<br />
thành phố Hồ Chí Minh qua 2 vấn đề: (1) Quản lý nhà nước về báo chí tại thành phố Hồ<br />
Chí Minh. (2) Việc sử dụng các yếu tố tạo nên ma-két ở các phụ trương tại thành phố Hồ<br />
Chí Minh như thế nào?<br />
Vấn đề (1), căn cứ vào thực tế làm việc với Sở Thông tin và truyền thông, Ban Tuyên<br />
giáo Thành ủy, Cục Báo chí, chúng tôi nêu rõ cách thức tổ chức, lãnh đạo các cơ quan<br />
báo chí tại thành phố Hồ Chí Minh cũng như quá trình cấp phép, phát hành tại đây. Cạnh<br />
đó, chúng tôi đã bỏ nhiều công sức sưu tầm các thông tin liên quan đến 35 phụ trương<br />
trong danh sách quản lý của Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Hồ Chí Minh. Các<br />
thông tin này liên quan đến nhiều vấn đề chung như tên gọi, cơ sở vật chất, chi tiết quản<br />
lý về nhân sự - quảng cáo – phát hành và các vấn đề chuyên sâu trong thông số thiết kế<br />
(kích cỡ lề, cột, font chữ; số cột, khoảng cách cột, canh lề...).<br />
Vấn đề (2) liên quan đến việc sử dụng các yếu tố tạo nên ma-két trong các phụ trương<br />
tại thành phố Hồ Chí Minh mà đại diện là 5 ấn phẩm: Tuổi trẻ cuối tuần, Phụ nữ chủ<br />
nhật, Sài Gòn thứ bảy, Làm bạn với máy vi tính, Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần. Nếu ở<br />
chương một, các yếu tố tạo nên ma-két được trình bày dưới dạng cơ sở lý luận thì ở<br />
chương 2 này, các yếu tố đó được cụ thể hóa qua các thông số chi tiết ở từng nhóm (khổ<br />
báo, măng sét, bố cục trang báo, hệ thống chuyên trang...) và các bảng thống kê (bảng<br />
khảo sát hệ thống chuyên mục; bảng tỉ lệ giữa chữ và hình; cách sử dụng ảnh bìa; cách<br />
dùng tít tựa).<br />
Trong chương cuối, chúng tôi cố gắng đưa ra những đề xuất nhằm đổi mới một số yếu<br />
tố hình thức của ma-két theo cách tiếp cận với hướng thiết kế, dàn trang báo chí hiện đại.<br />
Những đề xuất này tập trung vào chủ đề: xu hướng sử dụng kích thước khổ báo; việc xây<br />
dựng thương hiệu qua măng-sét báo; bài toán trang nhất; hệ thống chuyên trang và bố<br />
cục trang; việc sử dụng lời dẫn (chapeau) và ảnh báo chí. Vấn đề loại chữ, cỡ chữ,<br />
khoảng trắng, giấy in cũng được nhắc lại với những đề nghị cải tiến cụ thể. Ngoài ra,<br />
việc đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cũng như các hoạt động gợi niềm<br />
hứng thú cho các nhà thiết kế cũng là điều mà chúng tôi gửi gắm ở chương này.<br />
Trong suốt ba chương mà chúng tôi đã trình bày, có thể thấy rằng, nội dung của các<br />
chương thiên về phân tích khía cạnh khoa học, thực chứng trong tâm lý thị giác của độc<br />
<br />
9<br />
giả đối với việc thiết kế, trình bày ma-két báo chí nói chung và phụ trương báo chí thành<br />
phố Hồ chí Minh nói riêng. Đây cũng chính là cách phân tích có nhiều ưu điểm của báo<br />
chí phương Tây mà từ những năm đổi mới cho đến gần đây, được phổ biến khá rộng rãi<br />
qua việc phổ biến tài liệu cũng như việc liên kết đào tạo báo chí giữa Việt Nam và một số<br />
quốc gia có nền báo chí phát triển như Anh, Úc, Pháp, Thụy Điển...<br />
Với giới hạn của một luận văn, những phân tích của chúng tôi mặc dù đã hết sức cố<br />
gắng vẫn chưa thể đầy đủ, nhưng trong chừng mực nhất định chúng tôi vẫn hy vọng rằng<br />
đây sẽ là tài liệu hữu ích, có ý nghĩ thực tiễn, bổ ích cho những người nghiên cứu tiếp<br />
theo và những người hoạt động trong lĩnh vực thiết kế, dàn trang, làm ma-két báo chí tại<br />
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.<br />
<br />
References.<br />
<br />
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT<br />
1. Đào Duy Anh (1952 in lần thứ ba), PhápViệt từ điển, Nxb Minh Tân, Pa-ri<br />
2. Ban Tuyên giáo Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh (2010), Báo chí Việt Nam,<br />
những dấu ấn đấu tranh cách mạng, Nxb Tổng hợp TP.HCM, TP.HCM<br />
3. Bộ Thông tin và Truyền thông - Cục Báo chí (2010), Danh bạ các cơ quan báo<br />
chí in, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội<br />
4. Hoàng Đình Cúc - Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện đại, Nxb Lý<br />
luận Chính trị<br />
5. Nguyễn Đức Dân (2007), Ngôn ngữ báo chí - những vấn đề cơ bản, Nxb Giáo<br />
dục, TP.HCM<br />
6. Hà Minh Đức chủ biên (1994, tập 1; 1996 tập 2; Nxb Đại học quốc gia Hà Nội<br />
1997 tập 3; 2001 tập 4), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb Giáo dục,<br />
Hà Nội<br />
7. Vũ Quang Hào (2004), Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển, Nxb Hà Nội<br />
8. Vũ Quang Hào (2001 tái bản năm 2007 ở Nxb Thông Tấn) - Ngôn ngữ báo chí,<br />
Nxb ĐHQG HN<br />
9. Đinh Thị Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới, xu hướng phát triển, Nxb Thông<br />
Tấn, HN<br />
10. Phạm Thị Thúy Hằng – Mats Wikman (2010), Những trang báo đẹp - Cẩm nang<br />
dành cho các nhà thiết kế, PMB-Foj, Hà Nội<br />
11. Đinh Thu Hiền (2010 - GS.TS.Vũ Quang Hào hướng dẫn), Dòng tạp chí chỉ dẫn –<br />
giải trí ở Việt Nam: hiệu quả và bất cập, Luận văn Thạc sĩ báo chí,<br />
ĐHKHXH&NV, HN.,<br />
12. Uyên Huy (Huỳnh Văn Mười) (2002) – Tuyển tập Logo và các kiểu thương hiệu<br />
tập 1 và 2, Nxb Thống Kê,<br />
<br />
<br />
10<br />
13. Uyên Huy (Huỳnh Văn Mười) (2009), Màu sắc và phương pháp sử dụng, Nxb lao<br />
động xã hội, TP.HCM<br />
14. Lưu Thiên Hương (1998 - PGS.TS. Vũ Quang Hào hướng dẫn), Makét báo chí<br />
tiếng Việt hiện thời, những vấn đề cần thảo luận, Luận văn Cử nhân Báo chí,<br />
ĐHKHXH&NV, HN<br />
15. Lưu Thiên Hương (2002 - PGS.TS Vũ Quang Hào hướng dẫn), Tính truyền thống<br />
và tính hiện đại của ma-két báo chí Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ khoa học Báo chí,<br />
ĐHKHXH&NV, HN<br />
16. Đinh Văn Hường (2004, tái bản 2007, 2009), Tổ chức và hoạt động của tòa soạn,<br />
Nxb ĐHQGHN,<br />
17. Đinh Văn Hường và tập thể tác giả (2006), Nghề báo, Nxb Kim Đồng<br />
18. Khoa Báo chí và Truyền thông (2010 , Tập VII), Báo chí – Những vấn đề lý luận<br />
và thực tiễn, Nxb ĐHQG HN<br />
19. Luật báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành (2004), Nxb CTQG<br />
20. Vương Hoằng Lực (2002), Nguyên lý hội họa đen trắng,Nxb Mỹ thuật<br />
21. Nguyễn Tiến Mão (2006), Cơ sở lý luận ảnh báo chí, Nxb Thông Tấn<br />
22. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học<br />
23. Nguyễn Thế Nghĩa (2007), Những chuyên đề triết học, Nxb Khoa học Xã hội<br />
24. Nhiều tác giả (1987), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (tái bản, có sửa<br />
chữa, bổ sung), tập 2, phần văn học – báo chí – giáo dục, NXB TP.HCM<br />
25. Nhiều tác giả, Văn hóa - Văn học từ một góc nhìn, Nxb Khoa học Xã hội<br />
26. Nhiều tác giả (2005), Thể loại báo chí, Nxb ĐHQG, TP.HCM<br />
27. Hoàng Phê chủ biên (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển<br />
học,<br />
28. Hà Huy Phượng (2000), Sự độc đáo của thông tin đồ họa, trong “Báo chí, những<br />
điểm nhìn từ thực tiễn”, Khoa báo chí, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Nxb<br />
VH-TT, HN<br />
29. Hà Huy Phượng (2006), Tổ chức nội dung và thiết kế, trình bày báo in, Nxb Lý<br />
luận chính trị, Hà Nội<br />
30. Đào Duy Quát - Đỗ Quang Hưng – Vũ Duy Thông (2010), Tổng quan lịch sử báo<br />
chí cách mạng Việt Nam (1925 – 2010), Nxb Chính trị QG<br />
31. Nguyễn Ngọc Sơn (1996), Kỹ thuật chữ, Nxb Giáo dục<br />
32. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004) - Cơ sở lý luận báo chí<br />
truyền thông, Nxb ĐHQGHN<br />
33. Dương Xuân Sơn, Trịnh Đình Thắng (1995), Phương pháp biên tập sách báo,<br />
Nxb Văn hóa Thông tin, HN<br />
<br />
<br />
11<br />
34. Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1945, Nxb<br />
TP.HCM<br />
35. Trương Ngọc Tường - Nguyễn Ngọc Phan (2007), Báo chí ở thành phố Hồ Chí<br />
Minh, Nxb Tổng hợp TP.HCM, TP.HCM<br />
36. Lâm Vinh (2002), Mỹ học, Nxb TP.HCM<br />
II. TÀI LIỆU ĐƯỢC DỊCH RA TIẾNG VIỆT<br />
37. Alan Swann (2003), Ý tưởng - bố cục & thể hiện - Design & Layout (Volume 2),<br />
Nxb trẻ<br />
38. Al Ries & Laura Ries (2005) Quảng cáo thoái vị và PR lên ngôi, (Vũ Tiến Phúc,<br />
Trần Ngọc Châu, Lý Xuân Thu dịch), NXB Trẻ & Thời báo Kinh tế Sài Gòn,<br />
TP.HCM.<br />
39. Brian Horton (2004), Ảnh báo chí, Nxh Thông Tấn, HN<br />
40. Jane T.Harrigan – Karen Brown Dunlap (2011), Con mắt biên tập, Nxb Tổng hợp<br />
TP.HCM<br />
41. Philipe Gailard (2007), Nghề làm báo, Nxb Thông Tấn, HN<br />
42. X.A.Mikhailốp (2004), Báo chí hiện đại nước ngoài: Những quy tắc và nghịch lý,<br />
Nxh Thông Tấn, HN<br />
43. Roger C.Parker’s (2003), Thiết kế - tạo mẫu & dàn trang Design & Layout<br />
(Volume 1), Nxb Trẻ<br />
44. The Missouri Group - Khoa báo chí Đại học Missouri (2005) News Reporting and<br />
Writing, NXB Trẻ.<br />
III. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI<br />
45. Sara Tulloch chủ biên (1994), Wordfinder – The Reader’s Digest Oxford, Oxford<br />
University Press, Oxford – New York – Toronto,<br />
46. Tim Harrower (1997), The Newspaper designer’s Handbook, NXB MacGraw-Hill<br />
IV. THƯ MỤC BÁO VÀ TẠP CHÍ<br />
47. Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần (2008-2011)<br />
48. Làm bạn với máy vi tính (2008-2011)<br />
49. Phụ nữ chủ nhật (2008-2011)<br />
50. Sài Gòn giải phóng thứ bảy (2008-2011)<br />
51. Tuổi trẻ cuối tuần (2008-2011)<br />
V. CÁC WEBSITE<br />
52. http://www.americanpressinstitude.org<br />
53. http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn<br />
54. http:// garciamedia.com (Website của nhà thiết kế báo Mario Garcia)<br />
55. http://nghebao.vn<br />
<br />
12<br />
56. http://newseum.org/todayfrontpages (Trang chủ của các tờ báo trên thế giới cập<br />
nhật theo ngày).<br />
57. www.poynter.org (Website của Viện nghiên cứu báo chí Poynter)<br />
58. http://www.ronreason.com (Website của nhà thiết kế báo Ron Reason).<br />
59. www.snd.org (Website của Hiệp hội Thiết kế báo chí Mỹ - The society for news<br />
design)<br />
60. http://vietnam Journalism.com<br />
61. http://Wikipedia.org<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
13<br />