intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta: Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và giải pháp

Chia sẻ: Minh Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

135
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mất cân bằng giới tính khi sinh là một trong những thách thức đáng kể của nước ta trong những năm tới, mà biểu hiện của nó là tỉ số giới tính khi sinh có xu hướng gia tăng. Dựa trên nguồn tài liệu tin cậy và cập nhật, bài báo đã phân tích thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta trong vòng 10 năm qua. Trên cơ sở đó, tác giả làm rõ nguyên nhân, hậu quả và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để khắc phục tình trạng này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta: Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và giải pháp

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Education Science, 2013, Vol. 58, No. 4, pp. 94-100 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH Ở NƯỚC TA: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ GIẢI PHÁP Lê Hồng Hạnh Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh Tóm tắt. Mất cân bằng giới tính khi sinh là một trong những thách thức đáng kể của nước ta trong những năm tới, mà biểu hiện của nó là tỉ số giới tính khi sinh có xu hướng gia tăng. Dựa trên nguồn tài liệu tin cậy và cập nhật, bài báo đã phân tích thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta trong vòng 10 năm qua. Trên cơ sở đó, tác giả làm rõ nguyên nhân, hậu quả và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để khắc phục tình trạng này. Từ khóa: Mất cân bằng giới tính, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. 1. Mở đầu Trong những năm gần đây, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS - KHHGĐ) của nước ta đã đạt được những kết quả tích cực. Trong vòng 7 năm liên tục, mức sinh của Việt Nam luôn ở dưới mức sinh thay thế. Năm 2012 là năm đầu tiên tốc độ gia tăng tỉ số giới tính khi sinh (TSGTKS- Sex Ratio of Newborns hoặc Sex Ratio of Births) được khống chế ở mức 0,4 điểm phần trăm/năm, trong khi đó hơn nửa thập niên vừa qua, tốc độ này là 0,7- 1,15 điểm phần trăm/năm. Cũng năm 2012 số dân của nước ta là 88,8 triệu người với số người tăng thêm hàng năm trong vài năm gần đây khoảng 90 vạn. Nếu như trong 2 năm 2014 và 2015, tốc độ gia tăng tối đa khoảng 1 triệu người/năm thì đến năm 2015, số dân nước ta sẽ là 92 triệu người. Như vậy, mục tiêu Chiến lược về quy mô dân số của Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được. Tuy nhiên, nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong công tác DS - KHHGĐ. Một trong những thách thức đó là mất cân bằng TSGTKS ở nhiều địa phương trong 5 năm gần đây và xu hướng này tiếp tục gia tăng trong thập niên tới. Trong phạm vi hạn hẹp của bài báo này, chúng tôi xin phân tích cụ thể sự mất cân bằng TSGTKS ở nước ta: thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và giải pháp. Ngày nhận bài: 4-12-2012. Ngày chấp nhận đăng: 4-5-2013 Liên hệ: Lê Hồng Hạnh, e-mail: lehanh512@yahoo.com 94
  2. Mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta... 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta 2.1.1. Quan niệm về tỉ số giới tính khi sinh Liên quan đến cơ cấu dân số của một lãnh thổ, ngoài tỉ số giới tính của toàn bộ dân số thì người ta còn chú ý đến TSGTKS [3]. Đó là phản ánh sự cân bằng giới tính của số trẻ em mới sinh ra trong một thời kì. TSGTKS là số bé trai tính bình quân trên 100 bé gái mới được sinh ra trong một thời kì nhất định. 2.1.2. Thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh a. Mất cân bằng giới tính khi sinh theo thời gian Tại Hội nghị trực tuyến triển khi Chiến lược Dân số- Sức khỏe sinh sản (DS - SKSS) giai đoạn 2011- 2020 tổ chức vào cuối năm 2011, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đã chỉ rõ: Mất cân bằng giới tính khi sinh tại nhiều địa phương diễn ra trong 5 năm gần đây và có xu hướng tiếp tục tăng trong 10 năm tới... Nếu không thực hiện các giải pháp quyết liệt thì khó có thể đưa tỉ số này trở lại mức tự nhiên (105- 106 bé trai/100 bé gái) sau năm 2020, làm tăng nguy cơ mất cân bằng giới tính (thừa nam thiếu nữ) ở độ tuổi kết hôn. Bảng 1: Tỉ số giới tính khi sinh của nước ta giai đoạn 1999- 2010 (Đơn vị tính: số bé trai/100 bé gái) Năm TSGTKS Năm TSGTKS 1999 107,0 2005 105,6 2000 107,3 2006 109,8 2001 109,0 2007 111,6 2002 107,0 2008 112,1 2003 104,0 2009 110,5 2004 108,0 2010 111,2 (Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2011. NXB Thống kê, 2012 (tr. 72)) Nhìn chung, TSGTKS của nước ta khá cao và có chiều hướng gia tăng. Theo cuộc điều tra mẫu về biến động DS - KHHGĐ toàn quốc năm 2006 với tỉ số đạt 110 thì Việt Nam là nước ở mức cao và được xếp vào hàng thứ tư trên thế giới sau Acmenia (117), Gruzia (116), Trung Quốc (112) [1]. So với mức tự nhiên trung bình là 105- 106 bé trai/100 bé gái thì TSGTKS của nước ta trong giai đoạn 1999- 2010 đều vượt mức trung bình, trừ 2 năm 2003 (104,0) và 2005 (105,6). TSGTKS đạt mức cao nhất là vào năm 2008 (112,1), tiếp theo là các năm 2007 (111,6), 2010 (111,2). Một điều đáng lưu ý là xu hướng tiếp tục tăng và luôn ở mức cao đối với TSGTKS trong 5 năm vừa qua. Trong những năm tới, dự báo TSGTKS vẫn tăng và việc thực hiện Chiến lược DS - SKSS không phải dễ dàng với mục tiêu khống chế dưới mức 113 bé trai/100 bé gái vào năm 2015. b. Mất cân bằng giới tính khi sinh theo lãnh thổ - TSGTKS có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng. Điều đó được thể hiện qua số liệu ở Bảng 2. 95
  3. Lê Hồng Hạnh Bảng 2: Tỉ số giới tính khi sinh phân theo vùng của nước ta (Đơn vị tính: số bé trai/100 bé gái) Các vùng 2005 2008 2009 2010 Cả nước 105,6 112,1 110,5 111,2 Đồng bằng sông Hồng 109,3 119,0 115,3 116,2 Trung du và miền núi Bắc Bộ 101,8 114,2 108,5 109,9 Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ 104,7 108,2 109,7 104,3 Tây Nguyên 108,5 116,7 105,6 108,2 Đông Nam Bộ 106,8 116,8 109,9 105,9 Đồng bằng sông Cửu Long 103,8 102,8 109,9 108,3 (Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2011. NXB Thống kê, 2012 (tr. 75)) Từ bảng số liệu nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét dưới đây: + Cũng giống như thực trạng chung của cả nước, TSGTKS của phần lớn các vùng, trừ vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, đều có xu hướng gia tăng với tốc độ khác nhau. Tăng nhanh nhất là Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ (+ 9,6), tiếp sau là Trung du và miền núi Bắc Bộ (+ 8,1), Đồng bằng sông Hồng (+ 6,9) và Đồng bằng sông Cửu Long (+ 4,5). Điều này chỉ ra rằng đây là các vùng có tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh nghiêm trọng và ngày càng gia tăng. Năm 2010 trên bình diện cả nước chỉ có duy nhất Đông Nam Bộ là giữ được sự cân bằng giới tính khi sinh, tuy không bền vững. + Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh diễn ra với mức độ cực kì nghiêm trọng phải kể đến Đồng bằng sông Hồng. Trong giai đoạn 2005- 2010, TSGTKS của vùng luôn dẫn đầu so với các vùng và đạt cực đại vào năm 2008 (119,0). Đứng sau vùng này là Trung du và miền núi Bắc Bộ (cực đại 114,2 vào năm 2008) và Bắc Trung Bộ & Duyên hải Nam Trung Bộ (cực đại 114,3 năm 2010). - TSGTKS còn có sự khác biệt giữa các tỉnh, thành phố. Tính đến năm 2012 thì 10/63 tỉnh, thành phố có TSGTKS cao ở mức 115, trong đó đứng đầu là tỉnh Hưng Yên. c. Mất cân bằng giới tính khi sinh ở khu vực thành thị và nông thôn TSGTKS có sự phân hóa giữa khu vực thành thị với khu vực nông thôn theo chiều hướng giảm dần cách biệt và ở mức cao. Bảng 3: Tỉ số giới tính khi sinh phân theo thành thị, nông thôn của nước ta (Đơn vị tính: số bé trai/100 bé gái) Năm Thành thị Nông thôn Năm Thành thị Nông thôn 2000 113,6 105,5 2006 109,0 110,0 2001 112,5 106,8 2007 112,7 111,3 2002 109,9 106,7 2008 114,2 111,4 2003 99,5 105,0 2009 110,6 110,5 2004 106,1 108,5 2010 108,9 112,0 2005 105,4 105,7 (Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2011. NXB Thống kê, 2012 (tr. 72)) Sự mất cân bằng giới tính khi sinh ở khu vực thành thị diễn ra phức tạp hơn. Vào nửa đầu giữa hai cuộc tổng điều tra dân số gần đây nhất (1999 - 2009), TSGTKS có xu hướng giảm, nhưng vào nửa sau lại tiếp tục gia tăng. Trong khi đó ở khu vực nông thôn, 96
  4. Mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta... TSGTKS có chiều hướng tăng liên tục, từ chỗ chưa có sự mất cân bằng giới tính khi sinh vào giai đoạn đầu đến chỗ mất cân bằng giới tính khi sinh tương đối nghiêm trọng vào giai đoạn sau. Giữa hai cuộc tổng điều tra dân số 1999- 2009 có sự thay đổi giữa các tỉnh, thành phố dẫn đầu về TSGTKS ở khu vực thành thị và nông thôn. Bảng 4: Mười tỉnh, thành phố dẫn đầu về TSGTKS năm 1999 và năm 2009 (Đơn vị tính: số bé trai/100 bé gái) Khu vực thành thị Khu vực nông thôn Tỉnh, Tỉnh, Tỉnh, Tỉnh, 1999 2009 1999 2009 thành phố thành phố thành phố thành phố Quảng Ngãi 138 Lào Cai 141 Kiên Giang 128 Hưng Yên 134 Trà Vinh 133 Hà Nam 132 An Giang 127 Hải Dương 123 An Giang 133 Vĩnh Long 129 Sóc Trăng 126 Bắc Ninh 123 Bắc Kạn 133 Bắc Giang 126 Kon Tum 126 Nam Định 119 Hòa Bình 130 Cà Mau 121 Bình Phước 123 TP. Hồ Chí Minh 118 Đà Nẵng 128 Lâm Đồng 121 Trà Vinh 123 Bình Thuận 118 Đăk Lăk 127 Đăk Nông 121 Thái Bình 122 Cần Thơ 118 Cà Mau 125 Tiền Giang 121 Bạc Liêu 122 Hòa Bình 118 Cao Bằng 122 Bình Phước 121 Ninh Thuận 121 Bình Định 117 Lai Châu 122 Quảng Ngãi 121 Cần Thơ 121 Hải Phòng 116 (Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/1999)) 2.2. Nguyên nhân, hậu quả và giải pháp chủ yếu 2.2.1. Nguyên nhân, hậu quả a. Nguyên nhân Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta diễn ra ngày càng nghiêm trọng theo hướng các bé trai nhiều hơn hẳn so với các bé gái. Điều đó là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây: Về văn hóa, quan niệm của phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng tương đối nặng nề về giới tính. Đó là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “nối dõi tông đường” và biết bao phong tục tập quán khác thấm đẫm tư tưởng Nho giáo khiến cho mọi cặp vợ chồng nhất thiết phải có con trai. Các gia đình cần có con trai để nối dõi vì thờ tự tổ tiên là trách nhiệm của đàn ông. Lễ giáo phương Đông coi trọng việc thờ tự tổ tiên. Điều này giải thích tại sao hầu hết các gia đình mong muốn có con trai để hương khói. Về kĩ thuật, sự phát triển của khoa học- kĩ thuật có thể cho phép ở mức độ nhất định sinh con theo ý muốn. Trên thực tế, người ta tác động vào quá trình thụ thai bằng các phương pháp truyền thống hay hiện đại với chế độ ăn uống riêng, tính toán thời điểm rụng trứng, tạo môi trường thuận lợi cho thụ thai nam. Phương pháp này dù không đảm bảo tuyệt đối, nhưng hiệu quả cũng đạt tới 70 - 80%. Một nghiên cứu của Viện Dân số và các vấn đề xã hội thuộc Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [2] cho biết trong số 2.304 người được điều tra tại 6 tỉnh thì có tới 20% các bà mẹ nói rằng họ biết cách sinh con trai, trong đó 58% số người được hỏi là do đọc sách báo, 40% là do trao đổi kinh nghiệm, 33% là tính thời điểm rụng trứng... Mặc dù chưa có nghiên cứu nào đánh giá chính xác hiệu quả 97
  5. Lê Hồng Hạnh của các phương pháp này, nhưng rõ ràng chúng có hiệu quả trong việc lựa chọn giới tính khi sinh. Ngoài ra, siêu âm có thể chuẩn đoán được giới tính thai nhi. Kỹ thuật xác định giới tính thai nhi ngay từ tuần thứ 12 đã tạo điều kiện cho các gia đình lựa chọn. Về mặt kĩ thuật, đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh. Về kinh tế, trong nền sản xuất nông nghiệp thủ công và ở một số ngành nhất định thì lao dộng cơ bắp của nam giới có vai trò quan trọng. Ở vùng duyên hải đối với ngành thủy sản, nhất là hoạt động đánh bắt, các gia đình cần có con trai, bởi vì nữ giới không thể ra khơi đánh bắt hàng tháng trời trên biển. Tâm lí này tồn tại chủ yếu của vùng duyên hải, nơi diễn ra các hoạt động đánh bắt thủy sản. Ngoài các nguyên nhân chính ở trên còn có nguyên nhân nữa về phương diện thống kê. Việc đăng kí dân số không đầy đủ, thống kê thiếu chính xác cũng có thể làm mất cân bằng giới tính một cách giả tạo. Đó là việc chậm khai báo đăng kí hộ tịch cho trẻ sơ sinh khi không sinh được con theo ý muốn. Thông thường, nếu sinh được bé trai, gia đình hào hứng làm khai sinh cho trẻ và ngược lại, nếu là bé gái thì có thể chậm lại hoặc... quên luôn. Hành vi này góp phần gây nên hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh một cách giả tạo. b. Hậu quả Sự mất cân bằng giới tính khi sinh tất yếu dẫn đến nhiều hậu quả không mong đợi mà quá trình khắc phục được không phải là ngày một, ngày hai. Các hậu quả chủ yếu dễ nhận thấy là khó khăn trong việc kết hôn và gia tăng tội phạm xã hội. Thứ nhất, phải kể đến khó khăn về việc tìm bạn đời của nam thanh niên trong điều kiện thiếu nữ. Theo dự báo của Tổng cục DS- KHHGĐ tại Hội thảo Quốc gia về mất cân bằng giới tính khi sinh tổ chức ở Hà Nội ngày 3/11/2012, nếu không giảm được TSGTKS thì trong khoảng 20- 25 năm tới, nước ta sẽ có 2,3- 4,3 triệu thanh niên đến tuổi xây dựng gia đình nhưng không có khả năng lấy được vợ người Việt. Điều đó có thể gây ra những bất ổn về mặt xã hội như tranh giành trong hôn nhân, kết hôn muộn; thậm chí là không thể xây dựng gia đình do khó hoặc không tìm được bạn đời... Kinh nghiệm của Trung Quốc và các nước trong khu vực chỉ ra rằng do mất cân bằng giới tính khi sinh dẫn đến số nam nhiều hơn số nữ, nhiều thanh niên không thể lấy được vợ ở trong nước. Vì thế, khả năng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân tăng lên, nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục, trong đó có HIV/AIDS khá cao. Một cách giải quyết khác là ra nước ngoài để kết hôn. Chỉ trong vòng 10 năm (1995- 2004), Đài Loan đã cấp 84.479 visa cho các cô dâu Việt Nam và hàng chục nghìn visa cho cô dâu các nước Đông Nam Á khác [1]. Hôn nhân với người nước ngoài không có tình yêu mà chỉ dựa vào tiền bạc dễ dẫn đến những bi kịch trong gia đình. Thứ hai là gia tăng tội phạm xã hội. Do mất cân bằng giới tính nên các loại tội phạm lừa đảo, bắt cóc, buôn bán trẻ em gái và phụ nữ có nguy cơ gia tăng. Theo “Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình hành động phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em (2004- 2009)” của Chính phủ, trong cả giai đoạn 1999- 2009 có 6.926 nạn nhân bị lừa bán ra nước ngoài thì riêng 5 năm gần đây (2004- 2009) có tới 4.009 nạn nhân, trong đó trên 60% vụ mua bán sang Trung Quốc, 11% vụ mua bán sang Cămpuchia; số còn lại là sang các nước khác... Kinh nghiệm của các quốc gia dư thừa nam giới cho thấy nguy cơ gia tăng bạo hành 98
  6. Mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta... đối với nữ giới. Phụ nữ có thể bị ép buộc sinh thêm con, phá thai nhi gái bất chấp sức khỏe và tính mạng của họ, rồi bị ngược đãi, phụ tình, ruồng bỏ khi không sinh được con trai... Ngoài ra, mất cân bằng giới tính khi sinh còn gây ra nhiều hậu quả khác nữa như làm gia tăng xu hướng chuyển giới và quan hệ đồng giới, thay đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu hàng hóa tiêu dùng... 2.2.2. Giải pháp chủ yếu a. Nhóm giải pháp về giáo dục, tuyên truyền - Giáo dục là một trong những giải pháp cơ bản góp phần làm giảm tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Ngành giáo dục cần đưa vấn đề giới tính vào các chương trình giảng dạy về giới và bình đẳng giới dưới dạng tích hợp trong các môn học ở phổ thông, hoặc là tích hợp hay xây dựng thành học phần riêng ở đại học. Tâm lí xã hội còn thiên về coi trọng con trai vẫn là nguyên nhân chính làm cho TSGTKS cao. Thông qua nhiều giải pháp, trong đó có giáo dục, cần định hướng lại các giá trị. Việc xóa bỏ phân biệt đối xử giữa nam và nữ là cơ sở để giảm tâm lí ưa thích con trai để từ đó giảm TSGTKS. - Cần tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách dân số. Việc tuyên truyền không chỉ đối với những cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, mà cả những người cung cấp dịch vụ tư vấn và kĩ thuật để họ hiểu rằng việc hỗ trợ lựa chọn giới tính thai nhi là bất hợp pháp. Cần vận động cả chính quyền và các đoàn thể chính trị-xã hội quan tâm giám sát việc thực thi pháp luật. - Chú ý nâng cao vị thế của người phụ nữ tiến tới bình đẳng giới, phê phán các thủ tục lạc hậu trọng nam khinh nữ. Trong xã hội nếu thực hiện được bình đẳng giới, nâng cao địa vị và quyền năng của nữ giới thì tâm lí thích con trai hơn con gái và việc lựa chọn giới tính khi sinh sẽ không còn mảnh đất để tồn tại nữa. - Xây dựng các mô hình gia đình thành đạt khi sinh con một bề, đẩy mạnh việc tổ chức các hội thi, liên hoan từ cấp cơ sở đến cấp Trung ương liên quan đến vấn đề dân số nói chung và lựa chọn giới tính nói riêng. b. Nhóm giải pháp về chính sách và luật pháp - Hoàn thiện luật pháp, chính sách DS - KHHGĐ. Cần phải tiến tới xây dựng và thực hiện Luật bình đẳng giới. Chính sách DS - KHHGĐ cũng là công cụ điều tiết các quá trình dân số. Việc thực thi có hiệu quả chính sách này trong những năm 80 và 90 của thế kỉ XX đã làm giải đáng kể tốc độ gia tăng dân số của nước ta. Còn hiện nay, đối mặt với vấn đề già hóa dân số và mất cân bằng giới tính khi sinh nghiêm trọng thì chính sách dân số phải hướng vào việc giải quyết các vấn đề cấp bách này. - Nghiêm cấm việc lưu hành, phổ biến các nội dung liên quan đến lựa chọn giới tính khi sinh. Không cho phép tuyên truyền, xuất bản các sách báo hướng dẫn có thai như ý muốn. Thu hồi các loại xuất bản phẩm có nội dung nói trên. Chỉ cho phép sử dụng trong một số trường hợp khi nghiên cứu và phải có sự cho phép của các bộ, ban, ngành liên quan. - Tăng cường giám sát thực thi pháp luật, xử lí nghiêm những trường hợp vi phạm Pháp lệnh dân số. - Quản lí chặt chẽ hệ thống các cơ sở y tế. Thành quả của y học đã giải quyết tốt vấn đề giảm mức tử, nhất là tử vong trẻ em thông qua Chương trình chăm sóc sức khỏe 99
  7. Lê Hồng Hạnh sinh sản, giảm mức sinh thông qua các biện pháp tránh thai và sàng lọc trước sinh. Mặt trái của vấn đề này lại góp phần vào việc nạo phá thai và lựa chọn giới tính trước sinh. Đây được coi là nguyên nhân trực tiếp làm tăng TSGTKS mà biểu hiện của nó là việc mất cân bằng giới tính khi sinh nghiêm trọng. Vì thế, cần giám sát chặt chẽ quá trình thực thi pháp luật ở các cơ sở y tế thông qua một số biện pháp cụ thể như tiến hành kiểm tra định kì cũng như kiểm tra đột xuất việc thông báo giới tính thai nhi cũng như phá thai lựa chọn giới tính... c. Nhóm giải pháp về nghiên cứu khoa học Trong những năm gần đây, các đề tài khoa học nghiên cứu về TSGTKS của nước ta nói chung và các tỉnh, thành phố nói riêng chưa có nhiều và chưa đồng đều. Vì thế cần có chương trình nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện để đánh giá hiện trạng, xác định rõ nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khả thi, đồng bộ nhằm khắc phục được sự mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta trong những năm tới. 3. Kết luận Cũng như nhiều quốc gia trong khu vực, Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức về tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng trở nên nghiêm trọng. Điều đó dẫn đến nhiều hậu quả không dễ khắc phục, đặc biệt về mặt xã hội. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng chủ yếu là do tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của xã hội xưa kia còn sót lại và những tiến bộ kĩ thuật của ngành y giúp cho phụ nữ có thể lựa chọn giới tính của thai nhi. Để giải quyết vấn đề này, trong Chiến lược DS- SKSS giai đoạn 2011- 2020 đã nhấn mạnh việc kiểm soát có hiệu quả TSGTKS là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Đình Cử, 2007. Những xu hướng biến đổi dân số ở Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [2] Đoàn Minh Lộc, 2009. Nghiên cứu mất cân đối giới tính khi sinh trong 5 năm qua ở một số địa phương: Thực trạng và giải pháp. Viện Dân số và các vấn đề xã hội, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. [3] Niên giám thống kê Việt Nam, 2012. Nxb Thống kê, Hà Nội. [4] Lê Thông (chủ biên), Nguyễn Minh Tuệ, Nguyễn Văn Phú, Lê Mỹ Dung, 2012. Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. (Tái bản lần thứ 6). [5] Dương Quốc Trọng, 2013. Thời cơ, vận hội mới và niềm tin. Báo “Gia đình và Xã hội”, số Xuân Quý Tỵ 2013. ABSTRACT Sex imbalance at birth of Vietnam: Real Stituation, causes, consequences and solutions Sex imbalance at birth is one of the considerable challenges of our country in the coming years, which is illustrated by an increase in the sex ratio at births. Adopted from the reliable and updated resources, the author analyzes the situation of sex imbalance at birth in the country for the past 10 years. Then, the author clarifies the causes, impacts of the sex imbalance at birth and he proposes some key measures in order to deal with the situation. 100
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1