TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI ----------

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC

MÔ HÌNH BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

Ở XÃ NGŨ THÁI, HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP MÔ HÌNH CÔNG TY TRÁCH NHIỆM

HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH)

Mã số: ĐTSV.06.2021

Chủ nhiệm đề tài : Đỗ Tuấn Anh

Thành viên tham gia : Nguyễn Thị Hồng Ánh

Lớp : 1705QLVB

1805QLVB

Cán bộ hướng dẫn : ThS. Nghiêm Xuân Mừng

Hà Nội – tháng 06/2021

LỜI CAM ĐOAN

Chúng tôi xin cam đoan đề tài: “Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống ở

xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Nghiên cứu trường hợp mô

hình Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận Thành) là

công trình nghiên cứu của chúng tôi tự viết, không sao chép của bất cứ ai. Các số

liệu và tư liệu trong bài nghiên cứu là trung thực và chính xác.

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, nhóm tác giả xin

chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Quản lý xã hội và thầy Nghiêm Xuân

Mừng - Giảng viên hướng dẫn, đã quan tâm, chỉ bảo và tận tình hướng dẫn

nhóm tác giả hoàn thành đề tài.

Nhóm tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các ông bà lãnh đạo Đảng ủy,

HĐND, UBND xã Ngũ Thái, các đồng chí cán bộ, trưởng thôn, các nghệ nhân

và bà con nhân dân thôn Đồng Ngư, đặc biệt là ông Nguyễn Thành Lai - Giám

đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Rối nước Thuận Thành, đã

nhiệt tình tạo điều kiện, cung cấp tư liệu để nhóm tác giả hoàn thành đề tài.

Trong quá trình nghiên cứu, chắc chắn đề tài không tránh khỏi những sai

sót, nhóm tác giảrất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giảng

viên và các bạn để đề tài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.

Hà Nội, ngày 05 tháng 06 năm 2021

Thay mặt nhóm tác giả

Đỗ Tuấn Anh

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ STT Chữ viết tắt

Câu lạc bộ CLB 1

CNH - HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa 2

Di sản văn hóa DSVH 3

Trung học cơ sở THCS 4

Trung học phổ thông THPT 5

TNHH MTV Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên 6

PGS.TS Phó Giáo Sư. Tiến Sĩ 7

UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc 8

VH - TT&DL Văn hóa - Thể thao và Du lịch 9

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu..................................................................2

3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................7

4.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 7

4.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................. 7

5. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................7

6. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 8

7. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 8

8. Cấu trúc của đề tài.........................................................................................8

Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓAVÀ KHÁI

QUÁT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN

RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH.......................................................................... 10

1.1. Các khái niệm cơ bản............................................................................... 10

1.1.1. Mô hình................................................................................................10

1.1.2. Bảo tồn................................................................................................. 10

1.1.3. Văn hóa truyền thống..........................................................................11

1.1.4. Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống................................................. 11

1.2. Tiền đề và cơ sở pháp lý của việc xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa

truyền thống..................................................................................................... 12

1.2.1.Tiền đề của việc xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa.........................12

1.2.2. Cơ sở pháp lý về xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống.16

1.2.2.1. Chủ trương của Đảng.................................................................... 16

1.2.2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước............................................ 18

1.3. Tiêu chí đánh giá mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống................... 20

1.3.1. Tiêu chí đánh giá cơ sở trình diễn/ diễn xướng dân gian................ 20

1.3.2. Tiêu chí đánh giá cơ sở nghiên cứu và đào tạo về bảo tồn di sản văn

hóa.................................................................................................................. 21

1.4. Khái quát về Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước

Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.........................22

1.4.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận

Thành............................................................................................................. 22

1.4.2. Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu........................................... 25

TIỂU KẾT........................................................................................................... 26

Chương 2THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN

THỐNG CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH

VIÊN RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH TẠI KHU BẢO TỒN VĂN HÓA

DÂN GIAN LUY LÂU....................................................................................... 26

2.1. Hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa vật chất.....................................27

2.1.1. Sưu tầm các hiện vật........................................................................... 27

2.1.2. Trưng bày hiện vật và tổ chức trải nghiệm....................................... 28

2.2. Hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa tinh thần...................................30

2.2.1. Bảo tồn nghệ thuật rối nước truyền thống........................................ 30

2.2.1.1. Sưu tầm và cải tiến con rối............................................................ 31

2.2.1.2. Đào tạo diễn viên........................................................................... 35

2.2.1.3.Tổ chức biểu diễn............................................................................ 38

2.2.2. Bảo tồn các trò chơi dân gian.............................................................41

2.2.3. Bảo tồn các loại hình dân ca cổ truyền............................................. 44

2.3. Hoạt động bảo tồn thông qua tổ chức sự kiện và đầu tư xây dựng cơ

sở vật chất......................................................................................................... 48

2.3.1. Tổ chức sự kiện................................................................................... 48

2.3.2. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất.......................................................... 49

2.3.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền quảng bá................................. 51

TIỂU KẾT........................................................................................................... 52

Chương 3 BÀN LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU

TRƯỜNG HỢP MÔ HÌNH BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN RỐI

NƯỚC THUẬN THÀNH................................................................................... 53

3.1. Đánh giá những thành công và hạn chế của mô hình.......................... 53

3.1.1. Những thành công.............................................................................. 53

3.1.2. Những hạn chế.................................................................................... 55

3.2. Những bài học rút ra từ việc nghiên cứu mô hình bảo tồn văn hóa

truyền thống của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước

Thuận Thành....................................................................................................57

3.2.1. Sự đam mê nhiệt huyết và năng động sáng tạo của người sáng lập

mô hình.......................................................................................................... 57

3.2.2. Khai thác tiềm năng và thế mạnh di sản văn hóa của địa phương. 58

3.2.3. Sự quan tâm của chính quyền và cơ quan quản lý...........................60

3.2.4. Sự hưởng ứng của cộng đồng xã hội.................................................61

3.2.5. Bài học về giải quyết bài toán kinh tế, tạo nguồn thu phục vụ hoạt

động bảo tồn...................................................................................................63

3.3. Một số giải pháp phát huy mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống....64

3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa

trong mọi tầng lớp nhân dân........................................................................ 64

3.3.2.Tăng cường cơ chế chính sách............................................................65

3.3.3. Quan tâm hỗ trợ về cơ sở vật chất và chuyên môn cho mô hình..... 68

TIỂU KẾT........................................................................................................... 71

KẾT LUẬN..........................................................................................................71

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................73

PHỤ LỤC.............................................................................................................75

1. PHỎNG VẤN............................................................................................... 76

2. PHỤ LỤC ẢNH........................................................................................... 78

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn hóa truyền thống là những di sản mà ông cha ta đã sáng tạo từ ngàn

đời xưavà trao truyền cho đến ngày hôm nay, góp phần tạo nên diện mạo, cốt

cách tâm hồn con người và bản sắc của nền văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy bảo

tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống không chỉ là trách nhiệm

của các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn là sự nghiệp của quần chúng nhân dân

và toàn thể cộng đồng.

Những năm gần đây ở Việt Nam, trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá

trị di sản văn hóa truyền thống, bên cạnh hoạt động của các đơn vị, tổ chức

chuyên nghiệp nhà nước đã xuất hiện nhiều mô hình câu lạc bộ, nhóm, hội và cá

nhân quan tâm tìm hiểu, đầu tư nghiên cứu, bảo tồn các di sản văn hóa cổ truyền

của dân tộc với hoạt động khá đa dạng và phong phú như: tổ chức diễn đàn trao

đổi kiến thức, tọa đàm khoa học, phục dựng một số giá trị truyền thống, thực

hiện công trình nghiên cứu chuyên sâu... Những hoạt động này đã tạo ra hiệu

quả cao trong việc lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc,

đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu thấu đáo

để có thể đưa ra những giải pháp khoa học nhằm mục đích khơi dòng, thúc đẩy

sự phát triển của nền văn hóa, đồng thời góp phần định hướng, điều chỉnh các

hoạt động bảo tồn đó đi đúng hướng.

Từ nhiều năm nay, tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành,

tỉnh Bắc Ninh đã xuất hiện một mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống do tư

nhân thực hiện rất tích cực hiệu quả, tạo nên tiếng vang không chỉ trong trong

huyện trong tỉnh mà còn nổi tiếng với nhiều tỉnh thành lân cận. Xuất phát từ

niềm đam mê cá nhân, từ nhu cầu thực tế của cuộc sống, chủ nhân của mô hình -

ông Nguyễn Thành Lai, Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên

(TNHH MTV) Rối nước Thuận Thành, đã dày công xây dựng nên Khu bảo tồn

văn hóa dân gian Luy Lâu trên khuôn viên của gia đình và đất thuê được của địa

1

phương, hoạt động bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa dân gian rất đa dạng,

hiệu quả trên cả hai lĩnh vực: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, được chính

quyền, các cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa và nhân dân địa phương đồng

tình ủng hộ, ghi nhận.

Là sinh viên ngành Quản lý văn hóa, qua nắm bắt thông tin về mô hình

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu do ông Nguyễn Thành Lai xây dựng,

nhận thấy mô hình này không chỉ góp phần tích cực trong việc giữ lại các giá trị

văn hóa cổ truyền của dân tộc mà còn phát huy được vai trò của các giá trị ấy

trong bối cảnh hiện đại hóa hiện nay.Từ cách làm hiệu quả của mô hình này, có

thể tìm hiểu, nghiên cứu và nhân rộng ra xã hội, góp phần xây dựng và phát triển

nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như Nghị quyết của Ban

chấp hành Trung ương 5 khóa VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra.Chính vì

vậy nhóm tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Mô hình bảo tồn văn hóa truyền

thống ở xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Nghiên cứu trường

hợp mô hình Công ty Trách nhiêm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận

Thành) làm công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội năm 2021.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là đề tài được các nhà nghiên

cứu quan tâm từ rất sớm với nhiều công trình, bài viết, bài nghiên cứu…chỉ ra

những cơ sở khoa học cho việc giữ gìn di sản văn hóa dân tộc và làm cho nó có

tác dụng đối với xã hội hiện nay.

Cuốn Quản lý di sản văn hóa của tác giả Nguyễn Thị Kim Loan (2012) [8]

là giáo trình đề cập một cách toàn diện và hệ thống các vấn đề liên quan đến di

sản văn hóa dân tộc như: hệ thống di sản văn hóa Việt Nam; Vai trò của di sản

văn hóa trong đời sống xã hội đương đại; Nội dung chính của quản lý Nhà nước

về di sản văn hóa dân tộc; Các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của người làm công tác

quản lý di sản.

Cuốn sách Di sản văn hóa Việt Nam trong xã hội đương đại (2014) [11] là

2

tập hợp những bài nghiên cứu về đa dạng các loại hình di sản văn hóa vật thể và

phi vật thể của người Việt và các tộc người thiểu số trên cả ba miền Bắc, Trung,

Nam. Công trình là sự hợp tác có hiệu quả của nhiều nhà nghiên cứu để có thể

khảo sát được nhiều di sản văn hóa trên nhiều địa bàn khác nhau của cả nước

đồng thời nhìn ra các vấn đề có tính chất chung và bao quát cho các di sản văn

hóa của Việt Nam hiện nay.

Bài viết“Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn hóa và hệ thống bảo vệ di

tích ở nước ta”của tác giả Nguyễn Quốc Hùng đăng trên Tạp chí di sản văn hóa

số 9 (2004) trình bày về sự phong phú và đa dạng của tài sản văn hóa Việt Nam,

những nguy cơ hiện hữu, đẩy di sản văn hóa và thiên nhiên của nước ta đứng

trước những cơ hội và thử thách lớn lao và các khuynh hướng phát triển của môi

trường di sản trong tương lai.Từ kinh nghiệm thực tế trong công tác quản lý di

sản văn hóa ở nước ta, tác giả chỉ rõ: “Về mặt tình trạng bảo tồn, di sản văn hóa

vật thể không chỉ chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố tự nhiên và xã hội từ

bên ngoài, mà bản thân nó ngay sau khi ra đời/tu bổ đã bắt đầu một quá trình

xuống cấp. Di sản văn hóa phi vật thể còn mong manh hơn vì bản chất của nó là

luôn luôn thay đổi và phát triển. Do vậy, chúng ta phải có những cơ chế thích

hợp cho việc bảo dưỡng thườngxuyên, định kỳ các di sản vật thể và việc ghi

chép lưu trữ di sản văn hóa phi vật thể cũng phải được làm thường xuyên, định

kỳ” [7, tr.10].

Bài “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vì sự phát triển bền

vững” của tác giả LưuTrần Tiêu trên trang Thông tin điện tử của Hội đồng lý

luận Trung ương (20/12/2018) đề cập đến những thành tựu nổi bật trong bảo tồn

và phát huy giá trị di sản văn hóa ở nước ta; Nhận thức về giá trị di sản văn hóa

trong phát triển bền vững và đề xuất phương hướng giải quyết hài hòa mối quan

hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Tác giả cho rằng

“Hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội

không phải là hai mặt đối lập mà là một thể thống nhất, đều hướng tới mục tiêu

chung là vì sự phát triển bền vững”. Ở nước ta, sự “xung đột” giữa bảo tồn và

3

phát triển như nêu trên không phải hiếm gặp ở nơi này, nơi kia. Di tích lịch sử -

văn hoá là một loại tài nguyên không thể tái sinh, không thể thay thế, nên về mặt

nguyên tắc, không được huỷ hoại, không được làm ảnh hưởng đến giá trị, tính

xác thực, yếu tố gốc cấu thành di tích, tính toàn vẹn của di sản; cần thực hiện

nghiêm túc quy định của Luật Di sản văn hoá về các khu vực bảo vệ của di tích.

Đối với di tích còn nằm trong lòng đất (di tích khảo cổ học) được phát hiện khi

xây dựng các công trình kinh tế - xã hội thì phải báo cho cơ quan quản lý di sản

để phối hợp tìm các giải pháp giải quyết hài hòa giữa bảo tồn và phát triển”. Tác

giả cũng đã đề ra 6 biện pháp mang tính cấp bách nhằm tăng cường việc thống

nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di tích: 1.Thể chế hóa bằng pháp

luật các chính sách, cơ chế của nhà nước; 2.Quy hoạch toàn bộ các di tích được

công nhận; 3.Phân cấp quản lý; 4.Xã hội hóa hoạt động bảo tồn; 5.Ưu tiên đầu

tư ngân sách; 6.Nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực quản lý của đội ngũ

cán bộ [18].

Giáo sư Hà Văn Tấn trong bài viết “Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong

bối cảnh công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước” trên Tạp chí di sản số 2 (2003)

đã chỉ rõ: Các di tích lịch sử - văn hóa đang trong tình trạng SOS khẩn cấp...

Nếu chúng ta không có những chính sách bảo tồn thì ngay cả các di tích quý giá

ấy cũng sẽ bị mất đi. Tác giả phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng di

tích bị hủy hoại trong đó có mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển, quá trình đô thị

hóa dồn dập với yêu cầu bảo vệ nguyên trạng di tích. Điều này do chúng ta bị

động trước quá trình đô thị hóa, không nắm được các quy hoạch đô thị [16].

Tác giả Phạm Mai Hùng trong bài “Bảo tồn di sản văn hóa trong bối cảnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Xưa và

nay (2013) đưa ra những văn bản pháp quy của Nhà nước, di sản văn hóa phi vật

thể, xếp hạng di tích và đầu tư bảo tồn di tích, phát huy vai trò bảo tàng, hợp tác

quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa và một số nội dung khác.

Đề cập đến vấn đề tồn tại trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản,

tác giả cho rằng ở nước ta, sự phá hoại di tích của thiên nhiên còn thua xa sự phá

4

hoại của con người. Và chúng ta đang phải đối mặt với những mâu thuẫn: “Mâu

thuẫn giữa nhu cầu phát triển, quá trình đô thị hóa dồn dập với yêu cầu bảo vệ

nguyên trạng di tích lịch sử văn hóa/ Mâu thuẫn giữa nhu cầu thực tiễn của

ngành bảo tồn bảo tàng với khả năng đầu tư ngân sách hạn hẹp của Nhà nước/

Mâu thuẫn giữa nhu cầu khoa học ngày càng cao của công tác bảo tồn di tích với

khả năng của cán bộ bảo tồn bảo tàng còn hạn chế” [5, tr.19].

Ngoài các công trình nghiên cứu, bài viết về bảo tồn di sản văn hóa nói

chung là các bài viết đề cập đến hoạt động xã hội hóa bảo tồn giá trị di sản văn

hóa truyền thống trên các báo, tạp chí.

Bài “Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa ở nước ta hiện nay”

của Nguyễn Thị Bích Liên trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 29/6/2018 đề cập

đến ý nghĩa, vai trò của xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa, những kết quả đạt

được trong công tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa ở nước ta

những năm gần đây, những hạn chế cần khắc phục và một số giải pháp chủ yếu

để tăng cường hiệu quả xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa. Bài báo chỉ

rõ: “Để bảo tồn di sản văn hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cần giải

quyết đồng bộ, kịp thời, chất lượng, hiệu quả nhiều nhiệm vụ và giải pháp trước

mắt cũng như lâu dài; đặc biệt là cần có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ

giữa các bộ, ngành, các cấp chính quyền, các tổ chức, đoàn thể để huy động sức

mạnh tổng hợp của toàn xã hội cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, đưa sự

nghiệp này thiết thực góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, di sản văn hóa phải luôn gắn với con

người và cộng đồng cư dân địa phương nơi nó được sáng tạo ra và hiện đang

được thực hành, truyền dạy. Mục tiêu bảo tồn di sản văn hóa luôn phải hướng

vào việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa lành mạnh của công chúng trong xã

hội. Dù có sự quản lý của Nhà nước nhưng việc tham gia của cộng đồng vào quá

trình bảo tồn vẫn là điều kiện tiên quyết để các di sản văn hóa còn tồn tại cho

đến ngày nay” [9].

Cũng đề cập đến hoạt động xã hội hóa công tác bảo tồn phát huy giá trị di

5

sản văn hóa truyền thống, bài “Khôi phục, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền

thống” của tác giả Đặng Nam trên Website Nhân dân điện tử ngày 16 tháng 2 và

19 tháng 2 năm 2021 nêu rõ: “Mặc dù đã có những đóng góp thiết thực góp phần

khôi phục giá trị văn hóa truyền thống, nhất là sức lan tỏa trong cộng đồng, song

phần lớn hoạt động của các hội, nhóm đều tự phát, bắt nguồn từ đam mê, tình

yêu của người tham gia. Bởi thế, các hoạt động này gặp không ít khó khăn; hạn

chế trong nghiên cứu, thẩm định chuyên môn một cách bài bản, khoa học và

chuyên nghiệp, có thể dẫn tới nguy cơ sai lạc trong phổ cập kiến thức. Mặt khác,

do tổ chức, hoạt động mang tính tự phát cho nên dễ nảy sinh hiện tượng tiêu cực

trong nghiên cứu, tranh luận. Vì thế, trào lưu khôi phục văn hóa truyền thống rất

cần sự hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn” [10].

Nhìn chung các công trình và bài viết đều đề cập đến những vấn đề có

tính lý luận và khái quát về hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và

vấn đề xã hội hóa văn hóa ở Việt Nam. Đây là những tư liệu quan trọng để

nhóm tác giả kế thừa, vận dụng vào thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Và có

thể khẳng định cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu tổng thể, chuyên

sâu nào về mô hình xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa dưới góc độ

quản lý văn hóa. Vì vậy đề tài “Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống ở xã Ngũ

Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Nghiên cứu trường hợp mô hình Công

ty TNHHMTV Rối nước Thuận Thành)”của nhóm tác giả được thực hiện, hi vọng

sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.

3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu và khảo sát mô hình bảo tồn di sản văn hóa (qua trường hợp

mô hình công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành) nhằm tìm hiểu hoạt động

của mô hình xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa do

tư nhân thực hiện, nhìn nhận những thành công, hạn chế của mô hình, những bài

học kinh nghiệm rút ra từ việc xây dựng mô hình, đồng thời đưa ra một số

khuyến nghị để xây dựng, phát triển và khuyến khích nhân rộng mô hình này

trong xã hội, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa Việt Nam

6

trong bối cảnh hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động bảo tồn văn hóa truyền

thống của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành tại Khu Bảo tồn văn

hóa dân gian Luy Lâu với tư cách là mô hình xã hội hóa bảo tồn văn hóa do tư

nhân thực hiện, bao gồm các lĩnh vực và các hình thức, cách thức bảo tồn, phát

huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động bảo tồn và phát

huy giá trị văn hóa truyền thống của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận

Thành tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Từ năm 2009 đến nay (2021), thời điểm

Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành ra đời và đi vào hoạt động.

- Phạm vi thời gian khảo sát: Từ năm 2020 đến năm 2021, nhóm tác giả

đã tiến hành điền dã, khảo sát trực tiếp mô hình Khu Bảo tồn văn hóa dân gian

Luy Lâu (tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) do

Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành xây dựng, để thu thập dữ liệu, phục

vụ cho việc hoàn thành đề tài.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu tài liệu văn bản viết về hoạt động xã hội hóa bảo tồn phát

huy giá trị di sản văn hóa, các bài viết về mô hình hoạt động của Công ty TNHH

MTV Rối nước Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.

- Tìm hiểu thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của

Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian

Luy Lâu.

- Thông qua hoạt động của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành

tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, chỉ ra những cơ sở khoa học của mô

7

hình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống do tư nhân thực hiện. Từ đó đề xuất

các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của mô hình và việc nhân

rộng mô hình, góp phần bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.

6. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điền dã: Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế tại

Công ty THHH MTV Rối nước Thuận Thành. Địa chỉ: Thôn Đồng Ngư, xã Ngũ

Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

- Phương pháp phỏng vấn: Nhóm tác giả đã phỏng vấn cán bộ, nhân viên,

nghệ nhân của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành, cán bộ,nghệ nhân

và người dân thôn Đồng Ngư (xã Ngũ Thái) để làm rõ các hoạt động bảo tồn

văn hóa truyền thống của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nhóm tác giả đã tiến hành tổng hợp

các tài liệu viết về các hoạt động bảo tồn văn hóa truyền thống nói chung và bảo

tồn văn hóa truyền thống của tư nhân thực hiện nói riêng.

- Phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích,… để làm rõ thực trạng hoạt

động của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, từ đó đưa ra các khuyến nghị

từ hoạt động bảo tồn văn hóa truyền thống do tư nhân thực hiện.

7. Đóng góp của đề tài

-Đóng góp về mặt lý luận: Đề tài được thực hiện góp phần làm rõ quan

điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về việc khuyến khích

hoạt động xã hội hóa công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; cơ sở

khoa học của xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa.

-Đóng góp về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần đề ra các giải pháp nhằm đẩy

mạnh hoạt động của Công ty THHH MTV Rối nước Thuận Thành, đồng thời

thông qua đó đề xuất kiến nghị nhằm phát triển, nhân rộng mô hình xã hội hóa

bảo tồn giá trị di sản văn hóa tại các địa phương.

8. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề

8

tài bao gồm 3 chương:

Chương 1. Các vấn đề bảo tồn di sản văn hóa, mô hình xã hội hóa bảo tồn

di sản văn hóa và khái quát về Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối

nước Thuận Thành

Chương 2.Thực trạng hoạt động bảo tồn di sản văn hóa của Công ty

Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận Thành tại Khu Bảo tồn

văn hóa dân gian Luy Lâu

Chương 3. Bàn luận và khuyến nghị từ việc nghiên cứu trường hợp mô

hình bảo tồn văn hóa truyền thống của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành

9

viên Rối nước Thuận Thành

Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA

VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN

MỘT THÀNH VIÊN RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH

1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Mô hình

Theo Từ điển mở Wiktionary, danh từ mô hình có hai nghĩa:

“1. Vật cùng hình dạng nhưng làm thu nhỏ lại nhiều, mô phỏng cấu tạo và

hoạt động của một vật khác để trình bày, nghiên cứu. Ví dụ: mô hình máy bay,

triển lãm mô hình nhà ở kiểu mới...

2. Hình thức diễn đạt hết sức gọn theo một ngôn ngữ nào đó các đặc trưng chủ

yếu của một đối tượng, để nghiên cứu đối tượng ấy. Ví dụ: Mô hình câu đơn”. [4]

Còn theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Long - Quang Hùng biên soạn,

Nxb Hồng Đức, Hà Nội (2012): “Mô hình (danh từ) là kiểu mẫu làm thử để coi

đó mà làm ra cái khác to hơn” [6, tr.559].

Dù các khái niệm có khác nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm: Mô

hình là danh từ để chỉ một kiểu mẫu để theo đó mà làm ra cái khác (có thể làm

to hơn hoặc thu nhỏ lại).

1.1.2. Bảo tồn

Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (2003), “Bảo tồn là giữ lại không

để mất đi” [12, tr.39].

TheoTừ điển Tiếng Việt của Hoàng Long - Quang Hùng (2012), “Bảo tồn

(động từ): Giữ cho còn; Bảo tồn danh giá, bảo tồn cổ vật” [6, tr.44].

Như vậy cả hai cuốn từ điển đều thống nhất giải thích bảo tồn có nghĩa là

giữ lại, giữ cho còn, không để mất đi. Đối với văn hóa có hai đối tượng để bảo tồn:

giá trị văn hóa vật thể và giá trị phi vật thể. Bảo tồn giá trị di sản văn hóa tức là các

hành động nhằm bảo vệ, gìn giữ, bảo lưu lại sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng, gìn

giữ chúng để tồn tại cùng với thời gian. Bảo tồn các sự vật, hiện tượng là lưu giữ,

10

không làm cho chúng bị mai một, bị thay đổi và biến dạng.

1.1.3. Văn hóa truyền thống

Theo định nghĩa của UNESCO, văn hóa truyền thống (Traditional culture)

“Là các tập quán và biểu tượng xã hội mà theo quan niệm của một nhóm xã hội

thì được lưu giữ từ quá khứ đến hiện tại thông qua việc lưu truyền giữa các thế

hệ và có một tầm quan trong đặc biệt (ngay cả trong trường hợp các tập quán và

biểu tượng được hình thành trong khoảng thời gian không lâu) [18, tr.5]. Theo

cách định nghĩa này thì khái niệm văn hóa truyền thống được hiểu là những giá

trị văn hóa được truyền từ đời nọ sang đời kia, mang tính ổn định. Nói đến “Văn

hóa truyền thống” là nói đến những yếu tố văn hóa được hình thành trong quá

khứ, được trao truyền, kế thừa từ đời nọ sang đời kia mang tính ổn định, đặc

trưng cho một tộc người, một vùng miền, một địa phương nào đó.

1.1.4. Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống

Theo cách giải nghĩa danh từ mô hình trong các cuốn Từ điển đã trình bày ở

trên, nhóm tác giả đề tài đưa ra khái niệm về mô hình bảo văn hóa truyền thống

như sau:

Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống là một kiểu mẫu của việc bảo tồn

giá trị di sản văn hóa truyền thống do các tổ chức và các cá nhân thực hiện

nhằm lưu giữ những giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị của

người xưa để lại. Từ kiểu mẫu này có thể nhân rộng ra xã hội nhằm khuyến

khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình bảo tồn phát huy giá trị di

sản văn hóa của dân tộc.

Như vậy ở đây mô hình có nghĩa là một kiểu dạng, một cách thức làm mà

từ đó có thể đem nhân rộng ra xã hội. Hiện nay, mô hình bảo tồn văn hóa truyền

thống do tư nhân thực hiện, nói một cách khác là mô hình xã hội hóa văn hóa

đang ngày càng trở nên phổ biến ở nước ta. Nó thể hiện ở việc lập các bảo tàng

tư nhân, các viện nghiên cứu, các trung tâm thực hành văn hóa…do tư nhân tự

đứng ra thành lập có sự cho phép của Nhà nước, mà mô hình của Công ty

TNHH MTV Rối nước Thuận Thành được đề cập nghiên cứu trong đề tài là một

11

ví dụ điển hình.

1.2. Tiền đề và cơ sở pháp lý của việc xây dựng mô hình bảo tồn văn

hóa truyền thống

1.2.1.Tiền đề của việc xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa

Xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống do các cá nhân đứng ra

đảm nhiệm thực chất là quá trình xã hội hóa việc bảo tồn giá trị di sản văn hóa

truyền thống. PGS.TS Trương Quốc Bình trong bài viết “Xã hội hóa các hoạt động

bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa ở Việt Nam”,Tạp chí Di sản số

4 (năm 2008), đã nêu ra bảy tiền đề cơ bản của xã hội hóa bảo tồn giá trị di sản văn

hóa ở Việt Nam như sau:

“1. Xã hội là một trong những thuộc tính cơ bản của các di sản văn hóa và

thiên nhiên. Các di sản thiên nhiên là những bằng cớ vật chất của quá trình chinh

phục, cải tạo và sử dụng thiên nhiên vì mục đích tồn tại và phát triển của con

người. Đây cũng đồng thời là quá trình con người đã gắn kết với nhau, tập hợp

nhau từ tự phát đến tự giác - thành xã hội. Do đó, việc xác định trách nhiệm bảo

vệ và phát huy di sản này như một công việc có tính xã hội là hoàn toàn hợp lý.

Các di sản văn hóa vật thể (là động sản hay bất động sản) và các di sản phi vật

thể - đều là sản phẩm chung, là kết quả sáng tạo chung thành, tồn tại và phát

triển. Và chính vì thế, xã hội đã trở thành một trong những thuộc tính cơ bản vốn

có của các di sản văn hóa.

2. Nước ta ở vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, mưa nhiều, nắng gắt, thường

xuyên bị bão lũ và luôn luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm và sự tàn hủy

của những cuộc chiến tranh khốc liệt. Vì thế, các di sản văn hóa vật thể ở nước

ta thường xuyên chịu những tác động của thiên nhiên và con người. Nếu như

trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân ta đã chung sức sáng tạo nên một nền văn

hóa phong phú, đa dạng thì trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân

tộc, vấn đề bảo vệ quốc gia dân tộc nói chung và các di sản văn hóa dân tộc nói

riêng - bảo vệ và sửa sang “tôn miếu và xã tắc” - bao giờ cũng là mục tiêu quan

trọng hàng đầu. Chính vì vậy, việc tu sửa, phục hồi các di tích lịch sử và văn hóa

12

được đông đảo các tầng lớp nhân dân ta tự nguyện tham gia.

3. Do những đặc điểm về địa - kinh tế, địa - nhân văn và địa - chính trị,

trong quá trình tồn tại và phát triển, nhân dân các dân tộc Việt Nam đã tạo lập và

vun đắp những giá trị tinh thần cao đẹp, tiền đề và cội nguồn của sức mạnh dựng

nước và giữ nước, mà đoàn kết dân tộc là một trong những giá trị đã trở thành

truyền thống. Xuất phát từ nhu cầu đoàn kết để dựng nước và giữ nước, đồng

thời xuất phát từ những đặc điểm và dạng thức của đời sống tâm linh, từ tập tục

thờ phụng tổ tiên trong mỗi gia đình, nhân dân ta đã cùng nhau thừa nhận một

đối tượng thờ phụng chung và cùng nhau xây dựng một nơi thờ phụng chung

cho cả làng, và thậm chí cao hơn nữa còn tự coi là có chung một nguồn gốc “Bố

Rồng, Mẹ Tiên” để rồi lập nên một ngôi mộ chung, đặt ra một ngày giỗ Tổ

chung cho cả quốc gia/ dân tộc. Chính vì lẽ đó, việc bảo tồn những di sản văn

hóa mà cho ông ta đã chung sức vun đắp, sáng tạo, bảo vệ và truyền lưu trong

quá trình dựng nước và giữ nước mà thế hệ chúng ta đang thừa hưởng còn có

những ý nghĩa quan trọng không chỉ xuất phát từ trách nhiệm và nghĩa vụ mà

còn có ý nghĩa về tinh thần và tình cảm triết lý “uống nước nhớ nguồn” đối với

tiền nhân.

4. Dưới góc độ lịch sử văn hóa, từ thực tiễn địa hình, tồn tại và phát triển

của văn hóa truyền thống Việt Nam mà hạt nhân cơ bản của nó là làng xã, chúng

ta có thể xem xét và đánh giá các loại hình tổ chức hoạt động của cộng đồng

làng xã trước đây mà trong đó trung tâm là con người và các mối quan hệ cơ bản

là huyết thống và phi huyết thống để xem xét bình diện của quan hệ cộng đồng.

Trong những quan hệ này, một trong những cốt lõi để cố kết các cộng đồng là

hình thái thờ phụng thổ thần của các xóm, ngõ, cao hơn là việc thờ thành hoàng

chung ở đình xuất phát từ nhu cầu đoàn kết như đã nói ở trên. Và chính bản than

những hoạt động chung này đã xảy nảy sinh nhu cầu đóp góp nhân tài vật lực để

xây dựng những công trình công cộng chung của làng xã.

Từ những kết quả nghiên cứu về cộng đồng và phong tục, chúng ta có thể

rút ra những nhận xét: Biểu hiện của tinh thần xã hội hóa trong đời sống sản

13

xuất sinh hoạt, ứng xử trong mối quan hệ xã hội đã xuất hiện một cách tự phát,

tự nhiên. Tinh thần ấy thể hiện trong việc góp giỗ chung của làng, trong việc xây

dựng và thực hiện các hương ước, quy tắc chung, trong đó có những quy định về

bảo vệ tập tục, bảo vệ tài sản và di sản văn hóa chung, bảo vệ môi trường cảnh

quan.

5. Mặt khác, những biểu hiện nói trên còn được nâng thành mối quan hệ

giữa làng - nước. Các tổ chức xã hội trong xã hội Việt Nam cổ truyền như phe

(phe tư văn, phe tư võ) hay Hội và đặc biệt là Giáp - một tổ chức dành riêng của

những người đàn ông mà nền tảng tập hợp chủ yếu là tuổi tác gắn với tập tục

trọng xỉ, một dấu nối giữa cộng đồng làng xã với cộng đồng nhà nước hóa có vai

trò không thể phủ nhận trong việc xây dựng các công trình công cộng của làng

xã, đặc biệt là đình làng. Nhìn chung, phương thức tổ chức và nội dụng hoạt

động của các tổ chức xã hội trong xã hội Việt Nam truyền thống, dù dựa trên cơ

sở huyết thống hay phi huyết thống, đều thể hiện tinh thần xã hội hóa. Về mặt

hình thức, các tổ chức nói trên đều có những hoạt động mang tính văn hóa bởi

những hoạt động này tạo nên những mối liên kết chung, mà qua đó những

nguyện vọng chung của mỗi cá nhân được phổ cập. Với tư cách là những đơn vị

xã hội - trước khi là những đơn vị văn hóa, những tổ chức nói trên cũng đồng

thời là môi trường nuôi dưỡng và hình thành nhân cách văn hóa thông qua gia

pháp, lệ tộc, lệ làng và cuối cùng là “phép nước”. Người Việt truyền thống được

giáo dục trước hết và trên hết bởi những triết lý cộng đồng chứ không phải là

nhân cách cá thể với việc những giá trị chuẩn mực chung được phổ biến và quy

định đến từng người dân. Do đó, khai thác những đặc tính truyền thống về vấn

đề này, chúng ta cần thấy rõ vai trò quan trọng của việc kết hợp giáo dục gia

đình, tổ chức xã hội ở cơ sở, nhà trường với các hình thức giáo dục xã hội khác,

trong đó có hoạt động giáo dục truyền thống trên cơ sở các di sản văn hóa.

6. Trong thời kỳ phong kiến, bên cạnh việc tôn trọng và khuyến khích các

hình thức và biện pháp xã hội hóa vốn có trong nhân dân, nhà nước phong kiến

Việt Nam không đảm nhận việc bao cấp cho các hoạt động bảo vệ và phát huy

14

di sản văn hóa mà chỉ sử dụng quyền quản lý nhà nước của mình, can thiệp vào

các hoạt động này thông qua việc tổ chức ban sắc phong cho các đối tượng được

thờ phụng. Và đồng thời tạo những điều kiện vật chất với việc cấp một phần

“đất vua” nhằm khuyến khích các hoạt động này. Cho đến trước cách mạng

tháng Tám năm 1945, các hình thức xã hội hóa việc bảo tồn di sản văn hóa vẫn

dựa vào những tổ chức tự quản của cộng đồng làng xã với phương thức hoạt

động chủ yếu dựa theo cách đóng góp theo đầu người và đóng góp tự nguyện.

Nhờ đó, các đình, đền chùa, miếu… tiếp tục được bảo vệ với tư cách là những

trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hóa dân gian.

7. Do những đặc thù của nội dung, giá trị của các di sản văn hóa và những

bản chất đồng thời là tiềm năng của việc xã hội hóa nên ngay trong thời kỳ bao

cấp, việc xã hội hóa các hoạt động bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa đã

được thực hiện ở những mức độ và hình thức khác nhau. Nhiều khu di tích vẫn

được nhân dân địa phương cử người trông nom bảo vệ và được hưởng hoa lợi

thu được trong khu vực di tích. Nhiều cá nhân vẫn say sưa tự mình xây dựng các

bộ sưu tập cổ vật hoặc các tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Nhiều cơ

quan, trường học vẫn tổ chức những chuyến thăm quan học tập tại các di tích

lịch sử và danh lam thắng cảnh.

Đến thời kỳ đổi mới, những hoạt động này, đặc biệt là việc tu bổ phát huy

các di tích lịch sử và văn hóa đã diễn ra ở khắp mọi nơi, tạo nên một hiện tượng

không chỉ đối với ngành văn hóa mà còn trở thành một hiện tượng xã hội. Chính

vì thế, các hoạt động xã hội hóa một cách tự phát trong những năm qua cùng

những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn hoạt động đã tạo ra một trong những tiền

đề quan trọng cho việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động bảo vệ và

phát huy di sản văn hóa hiện nay” [1, tr 9 -12].

Các tiền đề cơ bản nêu trên cũng cho thấy, vấn đề xã hội hóa đã nảy sinh

và tồn tại ngay trong quá trình sáng tạo và trao truyền văn hóa qua các hình thức

bảo tồn và phát huy khác nhau. Nhà nghiên cứu Trương Quốc Bình cho rằng:

“Xã hội hóa văn hóa nói chung và bảo tồn các di sản sản văn hóa nói riêng dù

15

được dưới dạng thức phổ cập văn hóa không bao giờ là kết quả của sự áp đặt,

gán ghép mà nó là những sự tham gia tự nguyện của các cá nhân và cộng đồng

trên cơ sở nhận thức vấn đề tự mình và cho mình” [1, tr. 12].

Và như vậy có thể thấy rằng mô hình xã hội hóa bảo tồn văn hóa ra đời là

do sở thích của các cá nhân, xuất phát từ nhu cầu cá nhân và từ yêu cầu đòi hỏi

từ thực tiễn của cuộc sống. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta đang

đứng trước bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa, nhiều giá trị văn hóa truyền

thống của dân tộc đang có nguy cơ hủy hoại, biến dạng và mất đi. Có thể thấy

các hoạt động xã hội hóa một cách tự phát trong những năm qua cùng những

kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn hoạt động, đã tạo ra một trong những điều kiện

quan trọng cho việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động bảo vệ và

phát huy di sản văn hóa ở nước ta hiện nay.

1.2.2. Cơ sở pháp lý về xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống

1.2.2.1. Chủ trương của Đảng

Như đã trình bày, xã hội hóa các hoạt động bảo tồn di sản nói riêng và xã

hội hóa các hoạt động văn hóa nói chung xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trong xã

hội. Tuy nhiên khi các mô hình ra đời và đi vào hoạt động, bản thân nó lại chịu

sự định hướng, quản lý và chi phối bởi các cơ sở pháp lý. Trong thời đại của

chúng ta, với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và đất nước Việt Nam, từ

khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong các nghị quyết và cương lĩnh của

Đảng đều nhất quán chủ trương bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền

thống của dân tộc.

Cụ thể ngày 3/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và công bố Sắc lệnh

số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Sau Sắc lệnh số 65/SL, ngày

29/10/1957, Nghị định số 519-TTg về bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng

cảnh do Thủ tướng Chính phủ ban hành đã tạo điều kiện cho ngành văn hóa thể

thao tiến hành kiểm kê phổ thông các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng

cảnh ở các tỉnh và thành phố toàn miền Bắc; giúp bảo vệ những di tích quan

trọng nhất của đất nước. Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh

16

lam thắng cảnh do Hội đồng Nhà nước công bố ngày 4/4/1984, đã chứng tỏ sự

quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác giữ gìn di sản văn hóa của dân

tộc. Những nghị định, pháp lệnh này thể hiện tư duy lý luận của Đảng ta đối với

việc bảo tồn các di sản văn hóa ở những thời điểm, hoàn cảnh, những giai đoạn

lịch sử cụ thể của đất nước.

Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH và giao lưu hội nhập quốc tế, Đảng

và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương đường lối và chính sách bảo vệ và

phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân,

góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tư duy lý luận của Đảng ta về

bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ngày càng được hoàn thiện thông qua các

văn kiện, nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Tại Đại

hội VI, lần đầu tiên Đảng ta nêu lên chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn

hóa: “Nhà nước cùng với nhân dân xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật cần

thiết cho văn hoá và nghệ thuật, giữ gìn và tôn tạo những di tích lịch sử, văn

hoá” [2, tr. 92].

Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội VII,

Điều 30, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ rằng: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát

triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những

giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ

Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo

trong nhân dân…” [13, tr. 24].

Theo quan điểm Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, bản sắc văn hóa dân

tộc “bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của các cộng đồng các dân

tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước

và giữ nước” [3, tr. 56]. Theo đó, bảo vệ bản sắc văn hóa, giá trị di sản văn hóa

dân tộc là bảo vệ những tinh hoa của dân tộc được hình thành và lưu giữ qua

hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc phải

gắn với giao lưu quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu và phong

phú văn hóa dân tộc Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII khẳng định:

17

“Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu chọn

lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc

dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời, trong phong tục tập quán, lề thói

cũ” [3, tr. 57].

Đồng thời, Nghị quyết cũng đặt vấn đề và yêu cầu bảo vệ di sản văn hóa

bao gồm cả văn hóa truyền thống và văn hóa cách mạng, văn hóa vật thể và văn

hóa phi vật thể. Nghị quyết viết: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng

đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới

và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị

văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn

hóa vật thể và phi vật thể” [3, tr. 56].

Trên phương diện quan điểm của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn

hóa, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng là văn kiện toàn diện nhất, đề

cập cụ thể đến những vấn đề chung cũng như những phương hướng phát triển

nền văn hóa Việt Nam, vì vậy, nó tác động sâu sắc không chỉ đến quá trình phát

triển nền văn hóa Việt Nam nói chung mà còn định hướng cho công việc quản lý

văn hóa của ngành văn hóa, thể thao và du lịch nói riêng.

Như vậy có thể nói các văn kiện của Đảng, đặc biệt là nghị quyết Trung

ương 5 khóa VIII vừa nhấn mạnh đến vai trò, mục tiêu xây dựng nền văn hóa

Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhấn mạnh việc bảo tồn và phát huy

giá trị di sản văn hóa, vừa nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển văn hóa là

sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Đây chính là cơ sở để

khuyến khích, tạo điều kiện cho các mô hình xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa

ra đời và đi vào hoạt động.

1.2.2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước

Trên tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, hàng loạt các giải

pháp xây dựng và phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân

đã ra đời. Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị việc thực hiện

nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; Chỉ thị số 14/1998/TC-TTg

18

ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện nếp sống văn minh

trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội đã dẫn đến việc ra đời Thông tư số

04/1998/TTg-BVHTT ngày 11/7/1998 của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn

thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. (Sau đó là Thông

tưsố: 04/2011/TT-BVHTTDL ngày 21/01/ 2011 của Bộ VH - TT&DL thay thế

Thông tư số 04/1998/TTg - BVHTT).

Hệ thống pháp luật có liên quan đến di sản văn hóa truyền thống, như

những văn bản được cụ thể hóa bằng các luật như Luật Di sản văn hóa, bằng các

quy chế như Quy chế tổ chức lễ hội. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã tiến hành

đầu tư qua Chương trình Quốc gia có mục tiêu về văn hóa cho việc nghiên cứu,

sưu tầm, phục hồi các giá trị di sản văn hóa, nhờ đó, huy động được sự quan tâm

của cộng đồng đối với các di sản văn hóa.

Ngày 19/01/1993, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 25/TTg Về một

số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, trong đó

xác định việc phát triển văn hóa thể thao mang bản sắc dân tộc Việt Nam là

trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn dân, Nhà nước tạo điều kiện, xây dựng cơ sở hạ

tầng và trang bị phương tiện cho việc phát triển văn hóa nghệ thuật mang bản

sắc dân tộc. Quyết định cũng chỉ ra những chính sách cụ thể như đầu tư cho việc

sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn, bảo quản lâu dài, phổ biến văn học dân gian, các

điệu múa, các làn điện âm nhạc của các dân tộc, giữ gìn các nghề thủ công

truyền thống, các loại nhạc dân tộc, xây dựng các tiết mục dân tộc như tuồng,

chèo, dân ca, cải lương, múa rối, đồng thời khen thưởng những người có công

trong việc sưu tầm và bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc.

Để triển khai Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và các quyết định của

Chính phủ trong lĩnh vực di sản văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ban hành:

Công văn số 4432/VHTT-BTBT ngày 20/10/1998 hướng dẫn tăng cường quản

lý cổ vật; Công văn số 488/2/VHTT-BTBT ngày 18/11/1988 hướng dẫn việc

đăng ký kiểm kê bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; Chỉ thị

số 60/CT-BVHTT ngày 6/5/1999 của Bộ trưởng Bộ văn hóa - Thông tin về việc

19

tăng cường quản lý và bảo vệ di tích. Đặc biệt, Luật Di sản văn hóa được Quốc

hội khóaX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 14/6/2001, có hiệu lực từ ngày

01/01/2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn

hóa ở Việt Nam. Trong Luật Di sản văn hóa, ngoài tính hệ thống và tầm bao

quát của nó thì lần đầu tiên chúng ta đã đưa các di sản văn hóa phi vật thể vào

nội dung quản lý và điều chỉnh của bộ luật này.

Ngày 10 tháng 10 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định

Số: 1466/QĐ-TTg quy định Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu

chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế,

văn hoá, thể thao, môi trường. Đây chính là cơ sở, là tiêu chí để xác định tiêu

chuẩn của các mô hình xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, thể

thao, môi trường…trong đó có mô hình xã hội hóa các hoạt động văn hóa. [14]

Nhìn một cách tổng quát, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của

Nhà nước trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là sự phát triển tư

duy lý luận của Đảng về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc

không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có tác dụng to lớn trong việc bảo

tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, ngăn chặn tình trạng xuống cấp và

lạm dụng, lợi dụng các di tích lịch sử, di sản văn hóa của dân tộc. Đồng thời,

khuyến khích các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia vào quá trình bảo tồn,

phát huy giá trị di sản văn hóa. Từ đó tác động mạnh mẽ và có hiệu quả đến sự

nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

1.3. Tiêu chí đánh giá mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống

Như đã trình bày, ngày 10 tháng 10 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ra

Quyết định Số: 1466/QĐ-TTg quy định Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí

quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục,

dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường. Theo đó đối với lĩnh vực văn hóa,

có một số cơ sở trình diễn/diễn xướng dân gian (nằm trong các mô hình, hoạt

động bảo tồn văn hóa truyền thống) được quy định cụ thể như sau.

1.3.1. Tiêu chí đánh giá cơ sở trình diễn/ diễn xướng dân gian

20

- Về quy mô:

+ Có đội ngũ những người thực hành diễn xướng dân gian theo quy định

của loại hình nghệ thuật trình diễn trong đó ít nhất có 1 nghệ nhân và 5 người

thường xuyên tham gia trình diễn.

+ Có chương trình biểu diễn phục vụ công chúng với thời lượng chương

trình ít nhất là 45 phút.

+ Có số người học nghề từ 5 người trở lên.

+ Nơi luyện tập và trình diễn cho công chúng có diện tích tối thiểu là 100 m2

- Về chất lượng:

+ Được công nhận về mặt pháp lý và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo

quy định của pháp luật.

+ Người đứng đầu đơn vị phải hiểu biết về nghề, có năng lực quản lý và tổ

chức hoạt động thực hành trình diễn. Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp.

+ Có đội ngũ những người thực hành diễn xướng dân gian. Có nghệ nhân

nắm giữ bí quyết, kỹ năng, kỹ thuật và thực hành diễn xướng dân gian.

+ Có địa điểm để luyện tập, truyền đạt và trình diễn cho công chúng. [14]

1.3.2. Tiêu chí đánh giá cơ sở nghiên cứu và đào tạo về bảo tồn di sản

văn hóa

- Về quy mô:

+ Có số lượng học viên tham gia mỗi chương trình đào tạo tối thiểu là 45 học

viên.

+ Diện tích phòng học lý thuyết tối thiểu đạt 1,3m2/học viên. Diện tích cơ

sở thực hành bảo tồn tối thiểu đạt 2,5 m2/học viên.

+ Có tối thiểu 5 nghiên cứu viên là 10 giảng viên và cộng tác viên bảo tồn

di sản văn hóa

- Về chất lượng:

+ Được thành lập và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định của

21

pháp luật.

+ Người đứng đầu cơ sở phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo tồn, có

năng lực quản lý và tổ chức điều hành hoạt động của cơ sở theo quy định của

pháp luật.

+ Cơ sở vật chất và trang thiết bị phù hợp với việc nghiên cứu và đào tạo

về bảo tồn di sản.

+ Có đội ngũ nghiên cứu viên và giảng dạy đạt tiêu chuẩn theo quy định

của pháp luật [14].

Trên đây là những tiêu chí nhóm nghiên cứu lấy làm căn cứ đánh giá mô

hình xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa của Công ty TNHHMTV Rối nước

Thuận Thành trong đề tài.

1.4. Khái quát về Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối

nước Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

1.4.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận

Thành

Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành được thành lập và đi vào

hoạt động vào tháng 3 năm 2010, có trụ sở tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái,

huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Theo đăng ký, Công ty kinh doanh đa

ngành kết hợp, như: Biểu diễn rối nước và các loại hình nghệ thuật dân gian;

Đào tạo truyền nghề; Sản xuất, mua bán hàng thủ công mĩ nghệ; Dịch vụ dàn

dựng, thiết kế sân khấu; Cho thuê con rối,...

Sự ra đời của Công ty gắn liền với người sáng lập, đồng thời là Giám đốc,

ông Nguyễn Thành Lai, sinh năm 1971, người làng Đồng Ngư, (xã Ngũ Thái,

huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) (Phụ lục ảnh 1, tr.79). Tâm huyết với nghệ

thuật rối nước quê hương, ông tham gia phường rối ngay từ năm 1989 khi làng

khôi phục nghề truyền thống. Do tuổi trẻ còn phải lo làm ăn phát triển kinh tế

gia đình, năm 1995 ông ra Hà Nội mở xưởng cơ khí và sửa chữa xe máy. Nhưng

do yêu nghề nên đến năm 2000, ông quyết định về quê sinh sống để được cùng

22

phường biểu diễn rối nước.

Mặc dù tuổi còn trẻ, Nguyễn Thành Lai vẫn được tin cậy bầu làm Trùm phó.

Khi cụ Nguyễn Thanh Trãi, Trùm trưởng của phường qua đời, ông được bầu làm

Trùm trưởng thay thế cụ. Lúc này tiếng vang phường rối nước Đồng Ngư đã được

nhiều cơ sở kinh doanh du lịch biết tiếng, muốn liên kết hoạt động. Nhưng cơ cấu

tổ chức của phường không mang tính chuyên nghiệp biểu diễn nên khó có thể tổ

chức đi hoạt động lâu dài xa làng quê được. Mặt khác, yêu cầu bảo tồn nghệ thuật

gốc lại cần hình thức hoạt động của phường theo lối cũ đang duy trì. Vì vậy

Nguyễn Thành Lai đã nảy ra ý định một mặt ông vẫn duy trì phường hoạt động

theo mô hình cũ nhằm bảo tồn nghệ thuật gốc, một mặt ông mở công ty biểu diễn

chuyên nghiệp để phát triển nghệ thuật truyền thống.

Đầu tháng 3/2010 ông đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

với tên “Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận Thành”.

Kể từ đó Công ty đi vào hoạt động, với sự dẫn dắt của ông, Công ty đã không

ngừng phát triển. Công ty kinh doanh đa ngành kết hợp, như: Biểu diễn rối nước

và các loại hình nghệ thuật dân gian; Đào tạo truyền nghề; Sản xuất, mua bán

hàng thủ công mĩ nghệ; Dịch vụ dàn dựng, thiết kế sân khấu; Cho thuê con rối,...

Để đoàn hoạt động chuyên nghiệp, có hiệu quả, ông Nguyễn Thành Lai

còn thành lập “Phường rối nước Luy Lâu” hoạt động độc lập với “Phường rối

nước dân gian Đồng Ngư” do các nghệ nhân làng Đồng Ngư xã Ngũ Thái duy

trì hoạt động theo hướng bảo tồn làng nghề truyền thống.Phường có 31 thành

viên (7 nữ) và đội ngũ cộng tác viên gắn bó trên 30 người.

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành

23

như sau:

Phường có mặt bằng 5000m2, trong đó 1000 m2 là diện tích của gia đình,

4000 m2 là diện tích thuê của xã Ngũ Thái. Để phù hợp với hoạt động biểu diễn

cơ động, Phường rối nước Luy Lâu lập 3 Đoàn biểu diễn, mỗi đoàn 12 người:

Đoàn 1 do nghệ nhân Nguyễn Đình Hiệp là Phó phường kiêm Trưởng đoàn.

Đoàn 2 do nghệ nhân Nguyễn Văn Huy phụ trách. Đoàn 3 do nghệ nhân Nguyễn

Văn Đoàn phụ trách. Từ năm 2016, Đoàn 2 liên tục biểu diễn cố định ở Khu du

lịch Tuần Châu (Quảng Ninh) để phục vụ khách du lịch.

Bên cạnh đó, các đoàn Rối nước của Phường Rối Luy Lâu còn tham gia

biểu diễn các tiết mục Rối nước truyền thống, tổ chức các trò chơi dân gian, tổ

chức đêm hội trăng Rằm cho các em thiếu nhi tại khu đô thị Ecopack Hưng Yên,

tham gia biểu diễn, giới thiệu và trưng bày con Rối, nghệ thuật tạo hình, điều

khiển con Rối tại bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành với Phường Rối nước Luy

Lâu còn tham gia các chương trình biểu diễn giao lưu với một số phường Rối

trong cả nước như: Đào Thục (Huyện Đông Anh - Hà Nội), Chàng Sơn (Huyện

Thạch Thất - Hà Nội); ba phường rối nước của tỉnh Hải Dương: Bồ Dương

thuộc xã Hồng Phong (Huyện Ninh Giang), An Liệt thuộc xã Thanh Hải (Huyện

24

Thanh Hà) và Bùi Thượng thuộc xã Lê Lợi (Huyện Gia Lộc).

1.4.2. Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

Trên cơ sở của việc hoạt động kinh doanh có hiệu quả, với dự định đã ấp

ủ từ lâu nhằm bảo tồn giá trị các di sản văn hóa của vùng Kinh Bắc nói riêng và

của dân tộc nói chung, ông Nguyễn Thành Lai đã quyết định đầu tư xây dựng cơ

sở Phường theo hướng thành “Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu” vừa

phục vụ sinh hoạt cộng đồng, vừa phát triển thành điểm du lịch văn hóa quan

trọng của địa phương.

Hiện nay ông Lai đã phân chia toàn bộ Khu Bảo tồn thành 3 khu vực: Khu

ao nhà người Việt và Thủy đình biểu diễn; Khu tạo hình; Khu trưng bày, hội tụ

tất cả các nét văn hoá truyền thống của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ như trình

diễn múa rối nước dân gian, biểu diễn các làn điệu Quan họ và nghệ thuật hát ca

trù tại nhà chứa Quan họ, dạy cách làm tranh dân gian Đông Hồ (Phụ lục ảnh 36,

tr.96), làm giấy Đống Cao, chạm khắc Phù Khê, đúc đồng Đại Bái, tơ tằm Vọng

Nguyệt, làm đậu Trà Lâm, gốm Phù lãng,... Bên cạnh đó, tại Khu Bảo tồn văn

hóa dân gia Luy Lâu còn tổ chức các trò chơi dân gian như: Bịt mắt bắt dê, kéo

co, leo cột hái quà, ô ăn quan, đi cầu khỉ, bắt chạch trong chum, nhảy sạp, đi cà

kheo, ném còn, đội bình gốm, bịt mắt đập niêu,…

Ngoài ra ông Nguyễn Thành Lai còn xây dựng khu trưng bày hiện vật gia

dụng truyền thống, khu trải nghiệm nông trại, khu bảo tồn các giống gia cầm

quý. Đặc biệt là việc tổ chức làm các món ẩm thực dân dã, các món bánh truyền

thống của dân tộc như: Bánh đúc,bánh chưng, bánh giày, bánh nếp, bánh tẻ,

bánh trôi, bánh chay (Phụ lục ảnh 39, tr.98); một số thức quà dân gian như:

Bánh đa, kẹo lạc, kẹo dồi, kẹo kéo hay món xôi ngũ sắc độc đáo. Mục đích

nhằm bảo tồn những nét văn hóa truyền thống của làng quê Việt đang ngày càng

25

bị mai một trước bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ.

TIỂU KẾT

Trong chương 1, nhóm tác giả đã làm rõ một số vấn đề có tính chất lý

luận làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài như: các khái niệm cơ bản, bao gồm: Khái

niệm mô hình, bảo tồn, khái niệm văn hóa truyền thống và mô hình bảo tồn văn hóa

truyền thống.

Đồng thời nhóm tác giả cũng làm rõ những tiền đề và cơ sở pháp lý của

việc xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống do cá nhân đứng ra tổ chức,

thực hiện. Đó là tiền đề xã hội hóa việc bảo tồn giá trị di sản văn hóa truyền

thống, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về việc khuyến

khích các tổ chức, cá nhân đứng ra thành lập các mô hình bảo tồn văn hóa truyền

thống của dân tộc.

Nhóm tác giả cũng đã trích dẫn các tiêu chí quy định mô hình xã hội hóa

các hoạt động văn hóa, làm cơ sở đánh giá mô hình được tiến hành nghiên cứu

trong đề tài và giới thiệu khái quát về đối tượng nghiên cứu của đề tài là Công ty

TNHH MTV Rối nước Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.

Nội dung chi tiết các hoạt động của Công ty và của Khu Bảo tồn sẽ được nhóm tác

26

giả làm rõ trong chương 2.

Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VĂN HÓA

TRUYỀN THỐNG CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN

MỘT THÀNH VIÊN RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH TẠI KHU BẢO TỒN

VĂN HÓA DÂN GIAN LUY LÂU

Như chúng tôi đã trình bày tại chương 1, Công ty TNHH MTV Rối nước

Thuận Thành được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2009. Sau 10 năm, đến

năm 2019 mới khánh thành giai đoạn 1 lấy tên là Khu Bảo tồn văn hóa dân gian

Luy Lâu. Tuy nhiên, những hoạt động của Khu Bảo tồn được tiến hành khá đa

dạng, phong phú với nhiều kết quả đáng ghi nhận trên cả hai lĩnh vực: Bảo tồn

các giá trị văn hóa vật chất và bảo tồn các giá trị văn hóa tinh thần.

2.1. Hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa vật chất

2.1.1. Sưu tầm các hiện vật

Văn hóa vật chất được hiểu là những yếu tố văn hóa tồn tại dưới dạng vật

chất như đồ ăn, thức đựng, nhà cửa kiến trúc và các vật dụng sinh hoạt gắn bó từ

lâu đời đối với mỗi người dân trong quá trình sinh sống.

Một vài chục năm sau đổi mới, do quá trình hiện đại hóa, nhiều vật dụng

vốn quen thuộc với người dân từ bao đời giờ đã trở nên không còn tác dụng.

Chúng được thay thế bởi những dụng cụ, phương tiện hiện đại hơn. Nếu như

không được giữ lại, chúng sẽ bị lãng quên và trở nên xa lạ với lớp trẻ. Chính vì

vậy ông chủ của Khu Bảo tồn Nguyễn Thành Lai luôn trăn trở, đam mê sưu tầm,

phục dựng lại những giá trị ấy.

Ngay từ năm 1990, ông Nguyễn Thành Lai đã bắt đầu tiến hành tự đi đến

các gia đình trong làng, trong vùng và đến nhiều nơi để sưu tầm, mua lại các vật

dụng tưởng như rất đỗi đơn giản của người nhà quê như: nồi đồng, cối đá, mâm

đồng, mâm gỗ, bát sành, chum đất, ổng nhổ, cối giả trầu, cơi trầu, thau đồng, nồi

đồng, tích đồng, ấm đồng, đồ trưng cất nấu rượu (nồi đồng, thau đồng, nồi đất,

ống tre, mai rùa) (Phụ lục ảnh 9, tr.83),… nói chung là những đồ gia dụng của

27

người nông dân. Cho đến cả những chiếc đèn bão, điếu bát, xe trâu, cối xay lúa,

cối giã gạo và cả những chiếc cầu đá, mô hình giếng làng, bể nước mưa và cả

chiếc…“cầu tõm” một thời. Những món đồ “nhà quê” này được đưa về gia đình

và được cất giữ xung quanh nhà. Khi Khu Bảo tồn được xây dựng, các vật dụng

này được phân loại, bố trí thành các ô khác nhau trong khu bảo tồn.Không chỉ

sưu tập các hiện vật văn hóa của người Việt, ông Nguyễn Thành Lai còn mở

rộng sưu tập cả bộ cồng chiêng của người Mường ở tỉnh Hòa Bình (Phụ lục ảnh

24, tr.90).

Cho đến nay những vật dụng của người nông dân càng ngày càng được

sưu tập nhiều thêm. Để có những hiện vật này, ông Lai đã dày công đi đến các

gia đình trong làng, trong xã và đi nhiều nơi, bắt nhiều mối khác nhau để sư tầm,

xin và mua lại. Ông cho biết: có những món đồ phải mất tiền để mua, nhưng

cũng có những món đồ ông xin được hoặc được tặng, được cho không. Ví dụ như

những chiếc cối đá, những chiếc thúng, mủng, dần, sàng nong nia mà có gia đình

đã toan vứt đi vì không dùng đến nó nữa.

Nhìn chung những hiện vật được trưng bày và bảo quản tại Khu Bảo tồn

văn hóa dân gian Luy Lâu khá đa dạng, phong phú. Mỗi hiện vật gắn với một

hoạt động trong sinh hoạt văn hóa của người dân ở nông thôn xưa kia. Nếu

không có những bảo tang và những người có long đam mê nhiệt huyết như ông

Lai sưu tập lại thì chúng sẽ vĩnh viễn mất đi. Và quan trọng hơn, lớp trẻ sẽ

không có tư liệu để tìm hiểu về văn hóa truyền thống của ông cha. Nhìn ở khía

cạnh giáo dục truyền thống thì đây là một hoạt động bảo tồn rất có giá trị.

2.1.2. Trưng bày hiện vật và tổ chức trải nghiệm

Khác với nhiều bảo tàng, các hiện vật được sưu tập về và được trưng bày

trong trạng thái tĩnh. Ở Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, nhiều hiện vật

là các vật dụng sinh hoạt của người nông dân xưa được sưu tậm về, được chế tác

lại và được đưa vào trưng bày ở trạng thái động, tức là phục vụ khách tham quan

đến trải nghiệm, làm thử.

Hiện nay Khu Bảo tồn đã sưu tầm được hàng trăm hiện vật đá: cối đá,

28

chân cầu đá ở những làng quê bỏ đi được ông Lai sưu tập về. Cối xay ngô, cối

xay bột…gắn liền với đời sống nông dân (Phụ lục ảnh 13, tr.85). Riêng chiếc cối

xay ngô hiếm gặp hơn (Phụ lục ảnh 14, tr.85). Đồ gỗ gia dụng nhiều hơn như

mâm gỗ, chạn bát, âu xới cơm, đấu đong gạo, đong thóc…trưng bày vào những

dịp đón các đoàn khách. Với các nông cụ của nhà nông như: Cày bừa, cuốc xẻng,

mai,dụng cụ bắt tôm cá, gầu tát nước…được trưng bày trải nghiệm trong Khu

Bảo tồn, nghĩa là được dùng để làm thật cho khách đến tham quan trải nghiệm.

Những dụng cụ này được bố trí tại một khu vườn, ao và ruộng riêng trong

khu bảo tồn. Mỗi khi có đoàn đến tham quan đích thân ông chủ Khu Bảo tồn sẽ

tiến hành thao tác thử một vài dụng cụ cho khách xem. Hoặc du khách có thể

dùng để trải nghiệm. Tóm lại ý tưởng của ông chủ Khu Bảo tồn đây chính là một

“không gian sống” để cho du khách và các bạn trẻ trải nghiệm thực tế. Cối xay

phải xay được, cối giã phải có gạo để giã v.v… Đến với Khu Bảo tồn, du khách

có thể trải nghiệm như một người nông dân thực thụ tại khu nông trại sạch hữu

cơ với các hoạt động: Trồng rau, cấy lúa, tát nước, làm đất, nhổ cỏ, tưới hoa,

chăm gà, nhặt trứng gà, bắt cá…

Để phục vụ cho sự trải nghiệm của du khách, Khu Bảo tồn còn tiến hành

sưu tầm các giống gia cầm quý như: Gà Đông Tảo, gà Hồ, gà ác, gà tre, gà ri,

chim bồ câu, chim trĩ, vịt trời... Những loại gia cầm này đều được cho ăn thức ăn

sạch, không dùng thức ăn công nghiệp. Nếu có nhu cầu, du khách đến tham

quan Khu Bảo tồn có thể trực tiếp chế biến các nông sản sạch do tự tay mình thu

hoạch để thưởng thức cùng người thân mà hoàn toàn yên tâm về chất lượng.

Trong năm 2020, Khu Bảo tồn đã đón được tất cả hơn 30 đoàn khách về tham

quan, tìm hiểu và trải nghiệm các hoạt động văn hóa, thưởng thức ẩm thực tại

Khu Bảo tồn.

Nhìn chung, những giá trị văn hóa vật chất được bảo tồn tại Khu Bảo tồn

văn hóa dân gian Luy Lâu rất đa dạng, từ những vật dụng gắn liền với sinh hoạt

của người nông dân ở thôn quê truyền thống cho đến cả một số loại cây trồng,

vật nuôi phục vụ nhu cầu ẩm thực của người dân xưa. Những giá trị văn hóa vật

29

chất ấy được bảo tồn dưới dạng động, được tái hiện trong cuộc sống đương đại.

Đây cũng chính là nét độc đáo của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu so

với một số mô hình bảo tàng tư nhân khác. Chẳng hạn như mô hình bảo tàng

“Đồ nhà quê” của ông Nguyễn Quang Mạnh, chủ hiệu ảnh Vinh Hoa ở phường

Lê Lợi thành phố Bắc Giang.

Ở đây có rất nhiều dụng cụ sinh hoạt, sản xuất của người nông dân xưa

được ông Mạnh sưu tầm trong nhiều năm. Những năm qua, bảo tàng này đã đón

rất nhiều đoàn khách trong tỉnh và trong nước cũng như các phóng viên báo chí

đến tham quan, viết bài, làm phóng sự. Hoặc có thể kể đến bảo tàng Đồng quê ở

huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định do bà Ngô Thị Khiếu, một giáo viên về hưu

sáng lập, trưng bày hơn 1.000 hiện vật đồ dùng của người nông dân Việt truyền

thống khắp ba miền Bắc - Trung - Nam.

Tuy nhiên, mặt hạn chế của các bảo tàng này là phần lớn các vật dụng

được bảo quản và trưng bày trong trạng thái tĩnh. Khách tham quan, nhất là thế

hệ trẻ và khách nước ngoài sẽ không hình dung được người nông dân xưa đã sử

dụng các vật dụng đó như thế nào. Ở Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu,

hiện vật vừa được bảo quản, vừa được phục chế, nhiều hiện vật được đưa vào

hoạt động trải nghiệm,giúp cho khách tham quan hiểu được tính năng, tác dụng

của chúng, đồng thời thấy được sự sáng tạo của người nông dân xưa thông qua

các vật dụng ấy, khiến họ rất thích thú. Với các đạo cụ biểu diễn nghệ thuật thì

càng rõ. Tiêu biểu như các quân rối nước (mục 2.2), chúng không chỉ được sưu

tầm, phục chế mà còn được cải tiến và đưa vào hoạt động biểu diễn thường

xuyên. Chính cách làm này đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu văn hóa học, dân

tộc học, sử học…những tư liệu sống động, quý giá về di sản văn hóa truyền thống

của người Việt Nam.

2.2. Hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa tinh thần

2.2.1. Bảo tồn nghệ thuật rối nước truyền thống

Rối là loại hình văn hóa truyền thống, gắn bó chặt chẽ với cuộc sống tinh

thần từ lâu đời của nhân dân Việt Nam. Rối là một nghệ thuật sân khấu “biến

30

cách” chuyên sử dụng các con giống, các tượng gỗ, các lốt giả trang làm trò

đóng kịch trên sân khấu, cơ sở vật chất và kỹ thuật của nó là quân rối, sản phẩm

của nghệ thuật tạo hình dân tộc. Đối với Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu,

rối nước là loại hình chủ đạo được tiến hành bảo tồn trên nhiều phương diện.

2.2.1.1. Sưu tầm và cải tiến con rối

Để bảo tồn nghệ thuật múa rối nước, việc đầu tiên là sưu tầm và bảo tồn

con rối. Từ năm 2007, Bảo tàng Bắc Ninh đã sưu tầm nhiều dụng cụ, quân trò

của phường Rối nước Đồng Ngư (xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành) như: Tễu,

quân cầm cờ, quân đóng đường, tích mời trầu, múa rồng, mục đồng chăn trâu

thổi sáo, chọi trâu, rước kiệu, đánh đu, đấu vật bơi lội, cày bừa cấy lúa, đánh cá,

câu ếch đánh rắn, sư tử vờn cầu, đám cưới chuột, bố con ông chài, giã bạn, nhào

vòng, rùa.

Những quân trò này đều được chế tác từ năm 1982, 1992, 1995 để bảo tồn

nét văn hóa đặc sắc của miền Kinh Bắc. Những hiện vật này hiện đang được

trưng bày và bảo quản rất tốt tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, giới thiệu với khách

tham quan một nét văn hóa độc đáo của Bắc Ninh nói riêng và của dân tộc nói

chung. Tuy nhiên đây mới chỉ là việc bảo tồn hiện vật ở dạng tĩnh. Cần phải hảo

tồn và phát huy nó trong trạng thái động như đã trình bày, để các hiện vật đó vẫn

được dùng biểu diễn cho khán giả hôm nay, nhất là thế hệ trẻ. Cùng với đó là

việc quảng bá một nghệ thuật độc đáo của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.

Chính việc bảo tồn này đang được thực hiện rất hiệu quả ở Khu Bảo tồn văn hóa

dân gian Luy Lâu dưới sự chỉ đạo của nghệ nhân Nguyễn Thành Lai.

Ðể làm được một con rối hoàn chỉnh, phải trải qua rất nhiều công đoạn từ

đục cốt đến trang trí hóa trang và rất nhiều công đoạn mà người nghệ nhân

không thể bỏ qua. Quân rối càng hoàn hảo, càng giúp cho kỹ xảo điều khiển

nâng cao, khả năng diễn đạt phong phú. Quân rối nước làm bằng gỗ tốt sẽ nặng

và chìm, trên thực tế, gỗ sung là chất liệu thông dụng để tạc con rối, vì loại gỗ

này nhẹ lại dai, chịu được nước, và rất dễ điều khiển trong khi biểu diễn dưới

31

nước(Phụ lục ảnh 18, tr.87).

Sau khi con rối được tạc với những đường nét cách điệu riêng, chúng

được đầu óc tinh tế của các nghệ nhân thổi vào luồng sức sống mới bằng cách

gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn khác nhau để làm tôn thêm

đường nét tính cách cho từng nhân vật, làm cho nhân vật được đặc sắc hơn,

trong sáng hơn trước người xem. Quân rối nước chính là sản phẩm của nghệ

thuật điêu khắc gỗ dân gian, nó vừa giàu tính hiện thực, vừa mộc mạc, đằm thắm,

trữ tình.

Trong kho tàng quân rối nước cổ truyền ta còn thấy những người đi cày,

chú tễu, người đánh cá, dàn nhạc, cô tiên...(Phụ lục ảnh 21, tr.89).Ở đây tài năng

của nghệ nhân đã đem lại cho ta cái tươi mát, đôn hậu, hiền dịu, niềm lạc quan

yêu đời, yêu thiên nhiên, con người qua cái bình dị đơn sơ được cách điệu và

nghệ thuật hóa. Quân rối nước dù tạc liền một khối gỗ hay chắp lại đều có hai

phần gắn liền nhau đó là phần thân và phần đế. Phần thân là phần nổi lên mặt

nước thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi

bên trên và là nơi lắp máy điều khiển cho quân rối cử động.

Máy điều khiển và kỹ xảo điều khiển trong múa rối nước rất được coi

trọng, nó tạo nên hành động của quân rối nước trên sân khấu, đó chính là mấu

chốt của nghệ thuật múa rối. Quân rối đẹp mới chỉ có giá trị về mặt điêu khắc.

Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình,

hành động làm trò đóng kịch của nó. Các nghệ nhân dân gian đã dựa vào kinh

nghiệm, lần mò trong thực tế, tìm tòi, sáng tạo và để lại cho đời nay nhiều kiểu

máy rối nước phong phú và đa dạng.

Tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, khách tham quan có thể gặp

ở đây khá nhiều đồ dùng thường ngày của nghề lúa nước mà người nông dân tự

làm ra như thừng, sào, vọt... để làm máy điều khiển quân rối. Máy điều khiển rối

nước có thể được chia làm hai loại cơ bản: máy sào và máy dây đều có nhiệm vụ

làm di chuyển quân rối và tạo hành động cho nhân vật. Máy điều khiển được

giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa, đem đến cho

32

người xem nhiều điều kỳ lạ, bất ngờ, thú vị.

Người nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò để điều khiển con rối. Họ

thao tác từng cây xào hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài

hoặc dưới nước. Ngâm bùn lội nước để làm nghệ thuật không phải là một công

việc bình thường thích thú với mọi người. Nếu không phải là người sống ân tình

với nước tới mức “Sống ngâm da, chết ngâm xương” như cư dân trồng lúa nước,

thì khó có được sự truyền cảm nồng nhiệt vào hành động của nhân vật rối nước.

Nếu như trước kia việc tạo hình con rối được tiến hành hoàn toàn thủ

công thì ngày nay tại Khu Bảo tồn, công nghệ tạo hình con rối đã được cải tiến

bằng máy móc. Cụ thể cải tiến bằng cách dùng máy tiện, máy chà, máy bào,

máy “quật” cho nhẵn con rối. Bên cạnh đó các nghệ nhân xưa dùng sơn ta để

sơn con rối thì nay các nghệ nhân ở đây đã dùng thếp bạc, vàng, sơn hóa học tạo

cho con rối có màu sắc phong phú, sống động hơn. Mặt khác xưa con rối lắp

bằng sắt, đinh, nhanh bị hỏng và khó điều khiển linh hoạt. Nay đã được các nghệ

nhân của phường cải tiến dùng vật liệu mới như cao su, dây cước, vừa bền hơn,

vừa mềm dẻo hơn trong cử động, điều khiển.

Kỹ nghệ chế tác các con rối cho các tiết mục biểu diễn của các nghệ nhân

làng Đồng Ngư cũng rất đa dạng, tinh xảo và hoàn hảo. So với các phường múa

rối khác, nghệ thuật múa rối nước Đồng Ngư và phường rối nước Luy Lâu có

nhiều nét độc đáo riêng có. Vốn nổi tiếng với nghề sơn mài và tạc tượng cho

đình chùa, nên các nghệ nhân ở Đồng Ngư, bằng tay nghề tài hoa của mình đã

chế tác ra những con rối rất đa dạng, tinh xảo. Gỗ để làm các con rối là các loại

gỗ nhẹ, thớ mịn và không có mấu như gỗ xoan, gỗ duối hay gỗ sung.

Qua các thế hệ, nghệ nhân nơi đây đã sáng tạo, chế tác được hơn 200 loại

con rối để biểu diễn. Khi biểu diễn, các phường múa rối nước khác thường điều

khiển con rối bằng gậy, bằng sào nhưng múa rối nước Đồng Ngư lại điều khiển

con rối bằng sào và dây. Để điều khiển được kỹ thuật này, đòi hỏi người biểu

diễn phải trải qua quá trình tập luyện rất vất vả, có tay nghề cao, đôi bàn tay dẻo

33

dai, uyển chuyển. Nhờ vậy, người điều khiển có thể đưa rối ra xa sân khấu, đến

gần hơn với khán giả đồng thời biểu diễn được nhiều động tác linh hoạt, sống

động và đặc biệt có hồn, rất hấp dẫn người xem.

Nghệ nhân Nguyễn Thành Lai cũng cho biết “Khác biệt lớn nhất của rối nước

Đồng Ngư và Luy Lâu so với các phường rối khác trong cả nước đó là lấy câu quan

họ để lồng ghép vào tiếng hát cho con rối. Đặc biệt làm nên “thương hiệu” rối nước

Đồng Ngư còn là ở công cụ biểu diễn. Ở nhiều nơi trò rối dây bị mai một và thất

truyền rất nhiều, nhưng phường rối Đồng Ngư và Luy Lâu vẫn giữ được kỹ thuật cổ

này. Tiêu biểu là tích trò rối dây Đám cưới chuột, Mời trầu. Đây là những tiết mục

biểu diễn không một nơi nào có, khácbiệt hoàn toàn so với các phường rối khác, bởi

nó gắn liền với tranh dân gian Đông Hồ và những câu ca quan họ”.

Ngoài ra, phường rối còn sử dụng các nhạc cụ như trống, tù và, mõ và

phường bát âm. Sau này, thêm những nhạc cụ như đàn nguyệt, đàn tranh cùng

các làn điệu dân ca quan họ được đưa vào phối hợp trong chương trình biểu diễn

để tạo không khí cho các buổi biểu diễn thêm sôi động và hấp dẫn. Chính phong

cách biểu diễn này của phường rối Đồng Ngư đã càng gây được sự hứng khởi,

cuốn hút khán giả đến xem đông hơn nhiều trong các buổi biểu diễn.

Đến nay, tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, ông Nguyễn

Thành Lai đã tiến hành xây dựng thành khu chế tạo và trưng bày với tổng diện tích

khoảng 300m2, chia làm 4 phòng: phòng tạo hình, phòng sơn, phòng lắp máy,

phòng trưng bày.

Cùng với việc sưu tầm, chế tác và cải tiến con rồi, Khu Bảo tồn con tiến

hành sưu tầm lại những tích trò cổ của làng Đồng Ngư xưa bị thất truyền như:

Đám cưới chuột, nhào vòng, đốt vòng lửa (những trò chỉ có ở Đồng Ngư), tiết

mục đánh đu truyền thống. Đồng thời sáng tạo thêm một số trò mới như Tôn

Ngộ Không (Phụ lục ảnh 19, tr.88), chú mèo lười, chú voi con ở Bản Đôn được

các em thiếu nhi rất thích thú. Thông qua đó cũng nhằm để thu hút thế hệ trẻ

tham gia trải nghiệm văn hóa truyền thống, tạo cho các em có lòng đam mê

34

nghệ thuật của ông cha.

2.2.1.2. Đào tạo diễn viên

Hiện nay tình trạng múa rồi nước đều đang có những hạn chế về kỹ thuật

trong công tác đào tạo, nghệ thuật múa rối đang lâm vào tình trạng thiếu cán bộ múa

rối trầm trọng, đặc biệt là đội ngũ các nhà biên kịch, đạo diễn, diễn viên múa rối, hay

tạo hình con rối đều đang gặp khó khăn. Chính vì vậy làng Đồng Ngư và Công ty

TNHH MTV Rối nước Thuận Thành cùng phối hợp với Sở VH - TT & DL tỉnh Bắc

Ninh mở lớp đào tạo múa rối. Các lớp đào tạo, tập huấn bắt đầu được khai giảng từ

năm 2019, dưới sự hướng dẫn, chỉ dạy từ ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc công ty

TNHH MTV Rối nước Thuận Thành.

Trong quá trình tập huấn và đào tạo múa rối nước, ông Nguyễn Thành Lai

đã giới thiệu khái quát lịch sử múa rối nước Việt Nam nói chung và sự ra đời

của rối nước Đồng Ngư nói riêng tới các học viên tham gia khóa học.

Về phần truyền dạy múa rối nước, ông đã hướng dẫn cách biểu diễn (cách

điều khiển con rối). Có 2 cách điều khiển con rối đó là: Dùng hệ thống máy dây

và dùng hệ thống máy sào.

Máy dây: là hệ thống dây được giấu kín dưới mặt nước, máy dây phải

đóng cọc, căng dây, gài máy trước giờ biểu diễn. Hệ thống cọc đóng ngầm dưới

mặt nước, sân khấu để kéo một bàn máy lớn, trên có lắp các con rối. Dây chão

được căng từ trong buồng trò hoặc dài thành vòng (để đầu tha ra, đầu kéo về)

hoặc chỉ là một dây thẳng để bàn máy trượt khi bị kéo ra hay co vào.

Máy dây thường dùng cho các trò tập thể như: múa sư tử, vinh quy bái tổ

(rước kiệu), Những con rối theo bố trí của máy dây có thể đi xa và trở về từ 7

đến 10m để gần với khán giả hơn. Ở loại máy này, có thể điều khiển cùng một

lúc nhiều con rối (từ một đến vài chục con rối). Khi biểu diễn máy dây, đòi hỏi

người biểu diễn phải hiểu nguyên lý hoạt động của máy, cần có sự khéo léo, cẩn

thận, tỉ mỉ, chính xác.

Máy sào: là một cây tre hoặc gỗ dài khoảng 1 mét đến 2 mét, đều có bổ

35

phận chuyển động quân rối và các bộ phận trong thân hình nó. Máy sào lại được

chia làm 2 loại: máy sào đơn giản và máy sào phức hợp. Máy sào đơn giản chỉ giữ

và làm di chuyển toàn thân con rối như: đi lại, ra vào và xoay chuyển hướng đứng.

Máy sào phức hợp có thêm bộ phận làm cử động từng phần trên thân hình

và toàn thân con rối như: Giơ tay, đá chân, quay phải, quay trái, cúi đầu… với

sự điều khiển của nhiều người như: Người giữ sào, người kéo dây làm cho con

rối giơ tay, quay thân, với loại máy này, con rối có khả năng làm nhiều động tác

di chuyển, lại không bị buộc vào một đường dây căng sẵn như máy dây. Khi

biểu diễn máy sào đòi hỏi người biểu diễn phải có sức khỏe tốt, phải biết tận

dụng lực cản của nước để làm cho con rối trở nên linh hoạt, ngay ngắn và uyển

chuyển hơn.

Sự khác nhau giữa cách diễn của các nhà hát chuyên nghiệp và các

phường rối nước dân gian:

Cách diễn của các nhà hát chuyên nghiệp: thường nhẹ nhàng, đều đặn (ra

cùng ra, vào cùng vào, quay phải cùng quay phải, quay trái cùng quay trái,quay

tròn cùng quay tròn, lặn cùng lặn, nhảy cùng nhảy, phun nước cùng phun nước),

kịch tính, cao trào,…Vì vậy, làm nên yếu tố bất ngờ, thích thú cho người xem.

Cách diễn của các phường múa rối nước dân gian: thường không có yếu

tố nhẹ nhàng, đều đặn, kịch tính, cao trào…mạnh ai người nấy diễn, tùy theo

sức khỏe và sự đam mê của người biểu diễn. Vì vậy, làm nên sự độc đáo của

rối nước dân gian.

Tiếp đến là phần cách biểu diễn các tiết mục của phường múa rối nước

Đồng Ngư. Cũng giống như các phường múa rối nước dân gian khác, phường

múa rối nước Luy Lâu Đồng Ngư cũng có 16 tích trò cổ và có hơn 10 tích trò khác

biệt, gắn liền với miền quê Kinh Bắc, những làn điệu dân ca quan họ và tranh dân

gian Đông Hồ.

Riêng về hoạt động đào tạo, cho đến nay Khu bảo tồn đã tổ chức được nhiều

lớp dạy nghề, đào tạo hơn 30 diễn viên biểu diễn rối nước, đủ diễn viên cho 2 đoàn

36

của Công ty và có thể tham gia biểu diễn rối nước khắp mọi miền của Tổ quốc.

Cùng với việc đào tạo diễn viên biểu diễn rối nước, từ năm 2019, với sự

tài trợ của Sở VH-TT&DL tỉnh Bắc Ninh, Khu Bảo tồn cũng tổ chức đào tạo 2

lớp cho các em học sinh, một lớp 18 học sinh, một lớp 23 học sinh. Tại lớp học,

học sinh được trang bị lý thuyết cơ bản: rối nước địa phương, rối nước Việt Nam,

thực hành, thực hành trên cạn, sau đó biểu diễn dưới nhà thủy đình, biểu diễn tốt

nghiệp(Phụ lục ảnh 41, tr.99). Kết thúc khóa học, học viên được Sở VH -

TT&DL tỉnh cấp chứng chỉ (Phụ lục ảnh 37, tr.97).

Ông Nguyễn Thành Lai cho biết: Dự định bắt đầu từ năm tới (2022), Khu

Bảo tồn sẽ thường xuyên mở các lớp đào tạo rối nước, đưa hoạt động này trở

thành thường niên, không thu học phí để góp phần bảo tồn, quảng bá nghệ thuật

rối nước đối với địa phương và cả nước (Phụ lục ảnh 29, tr.93).

Về phương pháp đào tạo của giáo viên Khu Bảo tồn, theo khảo sát và tìm

hiểu của nhóm tác giả cho thấy: Từ trước tới nay, việc đào tạo trong lĩnh vực

nghệ thuật sân khấu múa rối nói chung tồn tại hai hình thức. Đào tạo theo lối

truyền nghề, đó là cách đào tạo truyền thống.

Tất cả các phường Rối cạn cũng như Rối nước tồn tại như một hình thức văn

nghệ dân gian. Nó có nhiều ưu điểm là người học nghề có khả năng bắt chước

nhanh, thuần thục những gì được học, nhưng khả năng tư duy, sáng tạo độc lập lại

hạn chế, bởi chỉ được truyền những kinh nghiệm và thủ thuật diễn một cách máy

móc và dập khuôn. Hình thức đào tạo theo trường lớp, học theo khung chương

trình, có giáo án, giáo trình, ngoài môn chuyên ngành còn phải học nhiều môn kiến

thức cơ bản và liên ngành khác.

Vì vậy, học viên khi tốt nghiệp có khả năng tư duy và sáng tạo độc lập

theo ý đồ của đạo diễn cũng như của tập thể. Hình thức theo kiểu trường lớp này

có tính khoa học nhưng thực chất không có hiệu quả bằng lối đào tạo truyền

nghề như ở mô hình đào tạo truyền thống ở một số địa phương; cũng như Tuồng,

Chèo phương pháp đào tạo tại chỗ, cha truyền con nối là hình thức có hiệu quả

37

hơn.

Múa rối nước là loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống, từ xưa tới nay

vẫn là truyền nghề là chính, vì thế mà vai trò của nghệ nhân rất quan trọng:

Nghệ nhân tạo hình con rối, làm máy móc điều khiển con rối và biểu diễn.Vì thế

nên trong chương trình đào tạo, Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu đã rất

chú trọng quan tâm đến việc sử dụng nghệ nhân, đào tạo lực lượng diễn viên

Múa rối nước trẻ. Đào tạo phải gắn với thực hành, nghĩa là phải tổ chức hoạt

động biểu diễn thường xuyên để diễn viên trẻ được thực hành, được nâng cao kỹ

năng, được tiếp cận thường xuyên với công chúng.

Thực tế có một số phường Múa rối nước đào tạo xong một lớp diễn viên

rồi chỉ chobiểu diễn mấy buổi báo cáo rồi nghỉ kéo dài vì không tổ chức biểu

diễn được, trong khi sân khấu Múa rối nước phải thường xuyên đến với quần

chúng, vì đối tượng mà nó phục vụ cũng là nguồn động viên cho nghệ thuật phát

triển.

Bên cạnh đó cũng cần phải có tài liệu giảng dạy cho học viên. Tài liệu

giảng dạy được biên soạn công phu, chi tiết, khoa học, sát với thực tế sẽ giúp

cho học viên có kiến thức bao quát hơn về rối nước nói chung và rối nước Đồng

Ngư nói riêng (Phụ lục ảnh 46, tr.103). Chính phương pháp này đã góp phần đào

tạo nên những diễn viên giỏi về nghề, đi biểu diễn rối nước ở khắp nơi. Trải qua

chiến tranh loạn lạc, cuộc sống còn nhiều khó khăn, phường rối nước Đồng Ngư

cũng dần bị mai một, tưởng chừng như thất truyền nhưng nhờ những lớp đào tạo

của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu mà sức sống của rối nước Đồng

Ngư dần hồi phục và khởi sắc.

2.2.1.3.Tổ chức biểu diễn

Theo các nhà nghiên cứu, nghệ thuật rối nước của dân tộc đã xuất hiện ít

nhất từ thời Lý, cách đây trên 1000 năm. Trải qua bao thăng trầm, đến nay,

phường rối nước Đồng Ngư (xã Ngũ Thái, Thuận Thành, Bắc Ninh) vẫn là một

trong 14 phường rối dân gian trong cả nước còn hoạt động với nhiều tiết mục

đặc sắc và phong phú, khẳng định sức sống lâu bền của loại hình nghệ thuật độc

38

đáo này.

Như đã trình bày, múa rối nước Đồng Ngư không chỉ độc đáo bởi những

tích trò mà còn cuốn hút người xem bằng những làn điệu dân ca quan họ mượt

mà, đằm thắm, không phường múa rối nước nào có được. Rối nước Đồng Ngư

cũng cuốn hút người xem với các tích trò độc đáo như: Đốt pháo bật cờ; mời

trầu; vào chùa; đánh đu; chăn trâu thổi sáo... Trong làng hiện còn lưu giữ bức

tượng phủ sơn nâu, làm bằng gỗ mít, cũng chính là tượng Tổ trò của làng, người

đã có công truyền dạy và phát triển nghệ thuật rối nước Đồng Ngư.

Với mong muốn bảo tồn nét văn hóa của địa phương, Khu Bảo tồn văn

hóa dân gian Luy Lâu ra đời bằng chính sự nhiệt huyết của cá nhân ông trùm

phường Nguyễn Thành Lai, cộng với sự đóng góp tinh thần và vật chất của

chính quyền và người dân địa phương. Từ khi đi vào hoạt động, đến nayphường

đã đi biểu diễn khắp nơi. Trung bình mỗi năm phường rối đi diễn khoảng 40-50

lượt, mang theo bản sắc quê hương đến mọi miền, quảng bá và lan tỏa dân ca

Quan họ Bắc Ninh. Sự kết hợp hài hòa giữa những điệu nhạc, câu quan họ và

nghệ thuật truyền thần cho những con rối đã thể hiện được tâm tư, tình cảm của

những người dân vùng Kinh Bắc.

Nếu như trước đây phường rối Đồng Ngư có 28 thành viên, một năm chỉ

biểu diễn dịp hội làng vào ngày 15/4 Âm lịch và 1, 2 lễ hội thuê - số lần biểu

diễn đếm trên đầu ngón tay, thì cho đến nay múa rối nước Đồng Ngư được quan

tâm hơn. Hiện, phường rối nước Đồng Ngư có khoảng 20 người, phường Luy

Lâu khoảng 40 nghệ sĩ, diễn viên và cộng tác viên. “Đất diễn” cũng rộng hơn,

không chỉ trong huyện, trong tỉnh mà vươn ra cả các lễ hội văn hóa lớn ở tỉnh,

thành bạn như Hưng Yên, Quảng Ninh, Hà Nội và cả trong các bảo tàng ở Hà

Nội, Thái Nguyên,..

Theo Trưởng phường rối nước Luy Lâu, một buổi biểudiễn rối nước hay

kết hợp giữa 4 yếu tố như con người, nghệ thuật múa, quân rối và thủy đình. Để

có màn ra sân biểu diễn, hàng chục con người phải tập trung, thống nhất với

nhau về tư tưởng, kết hợp nhuần nhuyễn, không quản ngại khó phục vụ nhân

39

dân. Điều quan trọng nhất, tất cả “nghệ sĩ” phải “cảm giác” được sân khấu, dù

có tập nhuần nhuyễn đến mấy nhưng khi diễn phải kết hợp tốt giữa tay, tai, mắt,

kết hợp trên bờ và dưới nước ăn ý nhau, không được múa trước hát sau hoặc

ngược lại.

Trong năm 2020, phường rối nước Luy Lâu đã biểu diễn được hơn 200 ca

diễn phục vụ cho các sự kiện, lễ hội và nhu cầu vui chơi, giải trí trong và ngoài

tỉnh. Cụ thể: Biểu diễn được 3 tháng đầu năm tại Khu vui chơi giải trí quốc tế

Tuần Châu (Hạ Long, Quảng Ninh) với gần 100 diễn viên tham gia biểu diễn.

Tại đây, trung bình mỗi ngày đoàn phải biểu diễn 6 ca phục vụ khách du lịch.

Tập đoàn Tuần Châu là đơn vị cộng tác thường xuyên với Khu bảo tồn văn hóa

dân gian Luy Lâu trong suốt 5 năm qua (2015 - 2020), nhưng vì tình hình dịch

Covid 19 nên phải dừng biểu diễn từ khi dịch đến nay.

Bên cạnh đó đơn vị đã biểu diễn 20 ca theo chỉ đạo của Sở VH -

TT&DLtại 7 huyện, thị xã và Thành phố của tỉnh, nhằm bảo tồn và quảng bá

hình ảnh múa Rối nước dân gian Kinh Bắc. Ngoài ra đơn vị đã tiến hành biểu

diễn hơn 50 ca diễn lưu động với sự hợp tác cùng các đơn vị du lịch như: Bảo

tàng Dân tộc học, Công ty Sun Tour, công ty Kinh Bắc, công ty Minh Tâm và

một số đơn vị khác.Múa rối được ưa chuộng, thu nhập của nghệ nhân, diễn viên

cũng nhờ đó mà được cải thiện. Một số anh em diễn viên của Khu Bảo tồn gắn

bó và tâm huyết với nghề, thu nhập 6-7 triệu đồng/tháng, quản lý khoảng 9-10

triệu đồng.

Tháng 10/2017, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt Đề án “Bảo tồn và

phát huy giá trị múa rối nước làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành,

tỉnh Bắc Ninh” Dự án triển khai từ năm 2018-2020, kinh phí gần 17 tỉ đồng,

trong đó xây dựng lại các công trình phục vụ biểu diễn rối nước như: Thủy đình,

nhà văn hóa…; Phường múa rối nước Luy Lâu cũng được tài trợ kinh phí để đầu

tư sân khấu, hệ thống âm nhạc, con trò (Phụ lục ảnh 34, tr.95).… Cùng với đó, tỉnh

Bắc Ninh đã lập hồ sơ trình Bộ VH - TT &DL ghi danh nghệ thuật rối nước của

40

làng Đồng Ngư là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng bằng sự nỗ lực của biết bao thế hệ,

nghệ thuật rối nước phường Đồng Ngư đã vượt qua khỏi lũy tre làng, mang theo

bản sắc quê hương Bắc Ninh - Kinh Bắc đến mọi miền của tổ quốc, quảng bá

nghệ thuật truyền thần cho những con rối và lan tỏa Dân ca Quan họ Bắc Ninh

thông qua các buổi biểu diễn tại nhiều liên hoan sân khấu múa rối toàn quốc và

đạt được những giải thưởng cao (Phụ lục ảnh 49, tr.105).Nổi bật là giải Nhất

trong Liên hoan nghệ thuật múa rối không chuyên năm 2002 tại Hà Nội; Giải

Nhất Liên hoan múa rối nước tại Liên hoan múa rối ở Huế năm 2004; Giải Nhì

Liên hoan múa rối toàn quốc lần thứ nhất năm 2011 tại Hải Dương và được trao

tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen của các đơn vị như Hội nghệ sĩ sân khấu Việt

Nam, Cục nghệ thuật biểu diễn, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, trong đó có

đóng góp đắc lực của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu (Phụ lục ảnh 50,

tr.105); (Phụ lục ảnh 51, tr.106); (Phụ lục ảnh 52, tr.106).

Có thể nói qua nhiều năm, bao thăng trầm, với sự nhiệt tình, tâm huyết

của các nghệ nhân ở Đồng Ngư nói chung và Khu bảo tồn văn hóa dân gian Luy

Lâu nói riêng, nghề múa rối nước Đồng Ngư đã đi vào quy củ, chuyên nghiệp,

thành đoàn, thành phường, để đem nét văn hóa truyền thống của vùng đất Kinh

Bắc đến với nhiều vùng miền trong cả nước.

2.2.2. Bảo tồn các trò chơi dân gian

Trò chơi dân gian là một trong những kho tàng của di sản văn hoá, có ý

nghĩa đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng các dân tộc. Mỗi trò chơi tuy có ý

nghĩa, cách chơi khác nhau, nhưng tựu chung đều xuất phát từ cuộc sống lao

động sản xuất hằng ngày của đồng bào, phục vụ mục đích vui chơi, giải trí, rèn

luyện sức khỏe, tăng cường đoàn kết cộng đồng.

Trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam, trò chơi dân gian không

chỉ là những sản phẩm mang tính vận động đặc trưng mà còn biểu hiện tinh thần

xuất phát từ trong lao động sản xuất của người Việt xưa. Tuy nhiên, xã hội càng

phát triển, loại hình di sản văn hóa này ngày càng mai một. Sự giao lưu và tiếp

41

biến những ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp của nhiều trào lưu văn hóa

đương đại đã dẫn tới sự đổi thay mang tính tiêu cực đối với trò chơi dân gian

của các dân tộc. Bảo tồn trò chơi dân gian vốn đã khó, phát huy nó trong xã hội

hiện đại còn nhọc nhằn hơn.

Từ khi đi vào hoạt động, Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu đã tổ

chức sưu tầm và khôi phục các trò chơi dân gian vốn rất đỗi quen thuộc với trẻ

em và cả người lớn ở nông thôn Việt Nam truyền thống. Các trò chơi dân gian

phổ biến thường xuất hiện trong các lễ hội truyền thống và cả trong sinh hoạt vui

chơi giải trí hằng ngày có thể kể đến như: Đấu vật, tổ tôm điếm, thả diều sáo,

chọi gà, thả chim bồ câu, bịt mắt bắt dê, bịt mắt đập niêu, bắt vịt dưới ao, bắt

chạch trong chum, đi cà kheo, nhảy sào, chơi ô ăn quan, chi chi chành chành,

trồng nụ trồng hoa, rồng rắn lên mây, đi cầu khỉ…được cả trẻ em và người lớn

rất yêu thích (Phụ lục ảnh 38, tr.97).Vài chục năm trở lại đây, với sự lấn át của

các trò chơi hiện đại và của Trung Quốc, các trò chơi dân gian của người Việt

dần thưa vắng bóng trong đời sống thường ngày, và cả trong các lễ hội.

Thực tế, trò chơi văn hóa dân gian của các dân tộc như: nu na nu nống, thả

đỉa ba ba, trồng nụ, bịt mắt bắt dê, chơi ô ăn quan, chắt chuyền... kèm theo các

câu đồng dao khuyến khích sự khéo léo, vui đùa tập thể chứ không hề nhàm

chán như hình thức giải trí hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ thời hiện đại.

Bên cạnh đó, các trò như: đánh khăng, trốn tìm, cướp cờ, ống phóc, nhảy dây,

nhảy baobố (Phụ lục ảnh 40, tr.99)... còn thể hiện sự khéo léo, tính tập thể. Lớn

dần lên theo lứa tuổi lại có các trò chơi có tính chuyên môn hơn như: bắn nỏ,

đẩy gậy, đi cà kheo, thi bơi, vật, ném còn...

Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, trò chơi dân gian có vai trò vô cùng

quan trọng trong sinh hoạt, góp phần giáo dục con người về tính tập thể, tinh

thần kỷ luật, ý chí vươn lên giành chiến thắng, rèn luyện thể chất, sức mạnh, dẻo

dai, khôn khéo và sức chịu đựng của con người, giúp con người ngày càng phát

triển toàn diện về trí, đức, mỹ. Nhận thức được vai trò, giá trị của trò chơi dân

42

gian truyền thống, ngay từ khi mới bắt đầu đi vào hoạt động.

Khu Bảo tồn đã tiến hành khôi phục, sưu tầm và tiến hành tổ chức lại rất

nhiều trò chơi trong khuôn viên khu bảo tồn, đồng thời liên kết với các bảo tàng,

các khu đô thị nhận ký hợp đồng đứng ra tổ chức các trò chơi dân gian xưa phục

vụ khách tham quan và khách du lịch, như Bảo tàng Dân tộc học (Hà Nội), Bảo

tàng các dân tộc Việt Nam (Thái Nguyên), Khu đô thị Ecopack (Hưng Yên), Khu

đô thị Ecoriver (Hải Dương).

Đây là những đơn vị đã ký hợp đồng với Khu Bảo tồn hoạt động thường

xuyên từ nhiều năm nay. Cụ thể đã dàn dựng và tổ chức các hoạt động trò chơi

phục vụ Hội xuân Ecopack Hưng Yên từ mùng 3 đến mùng 7 Tết, Khu đô thị

Ecoriver Hải Dương từ mùng 2 đến mùng 6 Tết…Mỗi sự kiện doanh thu bình

quân khoảng 300 triệu đồng. Điều quan trọng là các hoạt động đã đem niềm vui

tiếng cười cho hàng vạn du khách vui xuân và được sự hài lòng, tin tưởng của

đối tác. Đơn vị cũng đã dựng 2 cây đu tre truyền thống và 1 cây nêu cho Bảo

tàng Dân tộc học Việt Nam, phục vụ làm phóng sự và du khách tham quan tại

đây. Đồng thời luôn duy trì các hoạt động trải nghiệm và trò chơi dân gian tại

Khu bảo tồn trong hai ngày cuối tuần và đặc biệt các dịp lễ, tết và sự kiện của

đơn vị.

Qua thực tế việc tổ chức trò chơi tại Bảo tàng dân tộc học và các khu đô

thị mà đơn vị ký hợp đồng cho thấy hiện nay việc hướng giới trẻ tìm về với văn

hóa giải trí dân tộc không phải là một bài toán dễ, nhất là khi công nghệ đã và

đang tác động quá sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày. Vì thế, việc bảo tồn và

duy trì trò chơi dân gian trong các lễ hội dường như chưa đủ để hấp dẫn những

người trẻ.

Những năm vừa qua, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã tổ chức chương

trình hoạt động với chủ đề: Cùng chơi trò chơi dân gian các nước. Chương trình

này tạo cơ hội cho trẻ em tăng cường hiểu biết về văn hóa Việt Nam và một số

nước trên thế giới với các hoạt động vui chơi, khám phá như: trẻ em trình diễn

trang phục các nước, múa rối nước, rối cạn, làm đồ chơi dân gian, chơi trò chơi

43

dân gian…

Đây được coi là một trong những sáng tạo mới nhằm giúp trẻ em Việt

Nam có cơ hội tiếp cận với trò chơi dân gian. Bên cạnh đó, hình thức giao lưu

trò chơi dân gian giữa các nước cũng sẽ giúp trẻ em Việt Nam ý thức được trách

nhiệm của mình với di sản văn hóa của dân tộc. Trong khuôn khổ chương trình,

hoạt động khám phá các trò chơi dân gian giới thiệu đến công chúng nhỏ tuổi sự

đa dạng trò chơi của các nước.

Cùng một trò chơi, các em có thể khám phá bằng nhiều cách chơi khác

nhau như: chơi lò cò có kiểu chơi khác nhau của Ấn Độ, Indonesia, Oman,

Jordan, Việt Nam… Trò chơi kéo co có kiểu kéo hai góc của Việt Nam và ba

góc, bốn góc của Thái Lan; trò chơi ô ăn quan của Indonesia, Philippines và Việt

Nam có sự khác nhau về dụng cụ chơi, cách chơi… Những hoạt động trải

nghiệm tại Bảo tàng mà đơn vị tham gia tổ chức giúp các em khám phá

nhữngnét tương đồng và khác biệt trong văn hóa của Việt Nam và các nước,

đồng thời tự cảm nhận và thêm yêu những di sản văn hóa của quê hương mình.

Hiện nay theo đánh giá từ phía các công ty tổ chức sự kiện, Công ty

TNHH MTV Rối nước Thuận Thành là một đơn vị tổ chức trò chơi dân gian lớn

nhất miền Bắc. Mỗi sự kiện, Công ty huy động khoảng từ 30 đến 50 diễn viên,

nghệ nhân đi phục vụ việc tổ chức các trò chơi, góp phần bảo tồn một di sản văn

hóa dân gian dân tộc đang có nguy cơ bị mai một trước bối cảnh toàn cầu hóa,

hiện đại hóa.

2.2.3. Bảo tồn các loại hình dân ca cổ truyền

Thuận Thành là một vùng đất cổ của trấn Kinh Bắc xưa và Bắc Ninh ngày

nay, nơi còn lưu giữ được rất nhiều thể loại dân ca cổ truyền của dân tộc. Ngoài

quan họ còn có ca trù và hát trống quân. Đây là những loại hình nghệ thuật dân

gian truyền thống được người dân gìn giữ qua nhiều đời nay.

Thời gian qua các loại hình nghệ thuật này được các nghệ nhân ở đây lưu

truyền và gìn giữ rất tốt. Tại Khu Bảo tồn, việc phối kết hợp với các nghệ nhân

quan họ, hát ca trù, trống quân, hát xẩm…được thực hiện rất có hiệu quả. Riêng

44

với CLB hát trống quân, đến nay Khu Bảo tồn đã kết hợp với các nghệ nhân Bùi Xá

(xã Nghĩa Đạo) sưu tầm được hơn 100 bài hát trống quân cổ thường xuyên tập luyện

và truyền dạy.

Theo các nhà nghiên cứu thì lời và nhịp của hát trống quân Bùi Xá vừa ngân

nga, thong thả, vừa có độ “vang, rền, nền, nảy” của Quan họ. Hát trống quân đòi hỏi

người hát phải có niềm đam mê, khả năng đối ứng nhanh nhẹn trong các cuộc thi hát.

Nổi bật ở hát trống quân là chiếc trống để bắt nhịp điệu hát, trống gồm một thanh gỗ

nằm ngang, hai bên có hai cọc nối với nhau bằng sợi dây thép, chính giữa sợi dây đặt

trống, người nhạc công gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật vào đáy trống kêu thành

tiếng. Những câu thơ trong lời hát trống quân giúp con người hướng đến vẻ đẹp

trong tâm hồn, sống chung thủy, nghĩa tình ởđời.Với những giá trị văn hóa truyền

thống tốt đẹp, năm 2016, Bộ VH - TT&DL có quyết định công nhận hát trống quân

Bùi Xá là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Với loại hình nghệ thuật truyền thống hát ca trù được UNESCO ghi danh

là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, Thuận Thành có hơn 10

thành viên trong CLB hát ca trù Thanh Tương (xã Thanh Khương) đang tiếp tục

gìn giữ. Đây là thể loại khó hát đòi hỏi người hát phải tìm hiểu, thực hành luyện

tập rất nhiều, vì vậy khó thu hút thế hệ trẻ tham gia.

Cùng với việc bảo tồn các loại hình nghệ thuật truyền thống sẵn có, Thuận

Thành còn lan tỏa hát Dân ca Quan họ trong các thôn, xã. Hiện nơi đây có hàng trăm

người tham gia thực hành hát Quan họ ở các địa phương, trong đó có 6 CLB Quan

họ tiêu biểu được công nhận là làng Quan họ thực hành: CLB Quan họ thôn Tam Á

(Gia Đông); CLB Quan họ Sông Quê, thôn Đông Khê (Song Hồ); CLB Quan họ

thôn Bút Tháp (Đình Tổ); CLB Quan họ thôn Chợ (An Bình); CLB Quan họ Hương

Quê thôn Nghi Khúc (An Bình); CLB Quan họ Hương Quê (thị trấn Hồ).

Để thúc đẩy việc tập luyện, gìn giữ, phát huy giá trị các loại hình nghệ

thuật truyền thống, Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu thường xuyên tổ

chức các buổi giao lưu các CLB, phối hợp với Trung tâm Văn hóa tỉnh mở các

lớp truyền dạy hát ca trù, trống quân, Quan họ cho các cháu học sinh trên địa

45

bàn xã Ngũ Thái và trên địa bàn huyện Thuận Thành (Phụ lục ảnh 42, tr.100).

Từ năm 2019, Khu Bảo tồn đã kết hợp với Trường Trung cấp Văn hoá,

Nghệ thuật và Du lịch Bắc Ninh là đơn vị chuyên đào tạo, bồi dưỡng năng khiếu

văn hóa, nghệ thuật, tổ chức các lớp đào tạo Quan họ tại Khu bảo tồn.Tiêu biểu

năm 2020, đã mở một khóa 13 học sinh, một khóa 18 học sinh tiểu học và THCS.

Kết thúc khóa học, học sinh được cấp chứng chỉ đã tham gia lớp đào tạo.Thực tế

cho thấy đây là cách làm sáng tạo, các CLB dân ca nói chung và CLB Quan họ

măng non nói riêng trở thành một mô hình hiệu quả trong thực hiện chương

trình hành động bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa dân ca Quan

họ,đồng thời trực tiếp góp phần bồi đắp tâm hồn tình yêu quê hương làng xóm,

tình yêu với thầy cô, với bạn bè trong mỗi em nhỏ, làm cho Quan họ và các loại

hình dân ca của Bắc Ninh ngày càng lan tỏa, vươn xa và có sức sống bền vững

trong đời sống đương đại.

Trong hoạt động bảo tồn và phát huy di sản dân ca Quan họ, một hoạt

động vô cùng quan trọng và ý nghĩa được ông Nguyễn Thành Lai tiến hành, đó

là việc phục dựng lại ngôi nhà chứa quan họ đặc trưng vùng Kinh Bắc (Phụ lục

ảnh 6, tr.81).

Về ngôi nhà chứa Quan họ, ông Lai giải thích: Theo các nhà nghiên cứu,

quan họ có hoạt động văn hóa nghi lễ tín ngưỡng tương đối hoàn chỉnh, bao gồm

cơ sở vật chất và phương thức hoạt động. Ngoài cơ sở vật chất và địa điểm sẵn

có của làng để sinh hoạt văn hóa quan họ như đình, đền, chùa, sân đình, sân

chùa hoặc đồi, đê, ao, hồ… còn có một cơ sở vật chất quan trọng hơn cả, của

riêng từng bọn quan họ đó là “nhà chứa”.

Nhưng nhà chứa xưa là vậy nay sinh hoạt chủ yếu ở nhà văn hóa xã

phường. Vậy tốt nhất “nhà chứa” do các cá nhân làm theo phương thức xã hội

hóa. Nhà nước nâng cấp các nhà văn hóa cho hiện đại hơn, văn minh hơn để

phục vụ nhu cầu văn hóa Quan họ cho từng địa phương. Nơi chơi quan họ - “nhà

chứa” đơn giản chỉ là “ngôi nhà” để “chứa” bọn quan họ. Đây là nơi hội họp,

giao lưu, luyện tập, nơi “ngủ bọn” của bọn quan họ và thế hệ kế tiếp học nghề

46

chơi. Nhà chứa còn là địa điểm đón tiếp và mời cơm quan họ bạn, là nơi tổ chức

canh giữa bọn quan họ và bọn Quan họ kết chạ với nhau trong những dịp lễ, hội

của làng. Xưa kia, mỗi “bọn Quan họ” đều có nhà chứa riêng theo nghĩa bóng là

nơi quy ước, bởi vì đa số đều là dân nghèo nhà tranh vách đất. Nhà chứa Quan

họ là ngôi nhà rộng rãi, thoáng mát, khang trang để đáp ứng những yêu cầu sinh

hoạt văn hoá Quan họ thì chính là nhà quan làng. Họ thường là những liền anh,

liền chị cao tuổi, có uy tín nhất trong “bọn quan họ” (Phụ lục ảnh 44, tr.101).

Nhà chứa quan họ tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu được khánh

thành vào cuối năm 2019 với tổng kinh phí xây dựng gần 1 tỷ đồng. Ngôi nhà

được thiết kế gồm 5 gian, 18 cột: gian giữa có bàn thờ và trải chiếu hoa hát quan

họ giao lưu. Trong nhà còn trưng bày một số hiện vật liên quan đến hát và biểu

diễn quan họ như áo tứ thân, khăn mỏ quạ, giày, guốc, nón quai thao, ô lục soạn

(Phụ lục ảnh 8, tr.82) của liền anh, liền chị quan họ. Bên ngoài cửa tự tay ông

Nguyễn Thành Lai thiết kế đan chiếc “giại” bằng tre để che mưa, che nắng. Ông

rất thích câu đố dân gian về chiếc giại này viết thành hàng chữ treo lên đó.

“Đem thân che nắng cho người/ Rồi ra mang tiếng con người chả khôn” (cái giại

- Câu đố dân gian).

Ông Lai cho biết thêm: để làm được ngôi nhà này, ông đã được cán bộ

của Sở VH - TT&DL tỉnh giúp đỡ về kiểu dáng, mẫu mã thiết kế và cách thức

quảng bá duy trì hoạt động. Trước khi bắt tay vào xây dựng ngôi nhà, ông Lai đã

cùng với cán bộ của Sở đi tham quan mẫu một số ngôi nhà chứa quan họ cổ trên

địa bàn tỉnh Bắc Ninh như Lũng Giang (thị trấn Lim, Tiên Du); Khu Đương Xá,

phường Vạn An và làng Diềm, xã Hoà Long (thành phố Bắc Ninh) để tham khảo

mẫu nhà chứa rồi thuê thợ thiết kế. Tại ngôi nhà chứa này, Khu Bảo tồn đã tiến

hành tổ chức mời các nghệ nhân trong huyện Thuận Thành như CLB quan họ

thôn Ngọc Khám, CLB quan họ thôn Liễu Khê (xã Song Liễu) và một số CLB

quan họ tỉnh Hải Dương đến giao lưu, biểu diễn quan họ, tái hiện không gian

47

nhà chứa hát quan họ xưa.

2.3. Hoạt động bảo tồn thông qua tổ chức sự kiện và đầu tư xây dựng

cơ sở vật chất

2.3.1. Tổ chức sự kiện

Tổ chức sự kiện là một quá trình bao gồm một số hoặc toàn bộ các công

việc: nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng; lập chương trình, kế hoạch; chuẩn bị các

hạng mục cần thiết và tổ chức tiến hành các diễn biến của sự kiện trong một thời

gian và không gian cụ thể để truyền đạt những thông điệp nhất định đến người

tham gia sự kiện và xã hội, nhằm đáp ứng các mục đích khác nhau của chủ thể

tham gia vào sự kiện.

Tổ chức sự kiện nhìn chung là một loại hình kinh doanh dịch vụ rất đa

dạng và phong phú do đó nó vừa chịu sự chi phối của đặc điểm kinh doanh dịch

vụ nói chung và những điểm nổi trội của ngành truyền thông. Đối với Khu Bảo

tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, tổ chức sự kiện cũng chính là một trong những

hoạt động mang tính chủ đạo. Một mặt sự kiện nhằm tạo sân chơi cho các loại

hình nghệ thuật, trò chơi dân gian, ẩm thực, góp phần quảng bá văn hóa dân gian

Kinh Bắc, mặt khác nó cũng tạo nguồn thu nhập cho Khu Bảo tồn, giải quyết bài

toán về kinh tế trong văn hóa. Hoạt động tổ chức sự kiện của Khu Bảo tồn gồm

tổ chức sự kiện của đơn vị vàký hợp đồng tổ chức sự kiện (trò chơi, biểu diễn

các loại hình dân ca…) với các đối tác có nhu cầu.

Về sự kiện tại chỗ trong thời gian qua, Khu Bảo tồn đã tổ chức nhiều sự

kiện thu hút đông đảo quần chúng và khách tham dự. Tại Khu Bảo tồn thường

xuyên duy trì không gian ẩm thực Kinh Bắc, bao gồm các món đặc sản truyền

thống như: bánh cuốn Mão Điền, nem Bùi Vàng, bánh trẻ Yên Phong, bánhphu

thê (Đình Bảng),bánh đa, bánh đúc Đồng Ngư, bánh trôi, chay, bánh nếp,

tẻ…Tổ chức cho khách đặt hàng ăn uống: các buổi hội họp, đồng ngũ, đồng niên,

họp lớp, sự kiện giao lưu của một số gia đình. Năm 2019 đã có hơn 30 đoàn

khách về tham dự các sự kiện do Khu bảo tồn tổ chức. Doanh thu từ sự kiện tại

48

chỗ đạt khoảng 100 triệu đồng.

Cùng với đó Khu Bảo tồn còn tổ chức các sự kiện dành cho thiếu nhi.

Tiêu biểu có thể kể đến sự kiện Tết Trung Thu cho các em học sinh của địa

phương trải nghiệm ẩm thực, múa lân rồng, làm đèn ông sao, làm bánh trung thu,

tô vẽ mặt nạ, rước đèn ông sao đi quanh làng, phát quà, phá cỗ trông trăng (Phụ

lục ảnh 16, tr.86) (Phụ lục ảnh 54, tr.108) thu hút hàng nghìn học sinh và phụ

huynh. Cùng với đó trong năm 2020, đơn vị cũng đã tổ chức thành công Trại hè

cho thiếu nhi. Đây là hoạt động trải nghiệm của gần 50 bạn nhỏ ở thành phố Bắc

Ninh trong vòng 1 tuần. Tại Khu Bảo tồn, các em được trảinghiệm sống tự lập

và tìm hiểu các giá trị văn hóa dân gian truyền thống. Những sự kiện này đã gây

được tiếng vang cho Khu Bảo tồn và nhận được rất nhiều phản hồi tốt đẹp của

nhân dân địa phương cũng như du khách.

Đối với các sự kiện ngoài đơn vị, đây được xem là một trong những hoạt

động trọng tâm của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành. Từ những

hoạt động ban đầu có tiếng vang, Công ty đã ký được hợp đồng tổ chức sự kiện

với nhiều đối tác. Chẳng hạn tổ chức Lễ hội tại Công viên Nguyễn Văn Cừ và

Tượng đài Lý Thái Tổ chào mừng kỉ niệm 185 năm thành lập tỉnh và 20 năm tái

lập tỉnh Bắc Ninh; tổ chức Lễ hội hoa xuân tạiKhu đô thị Splendora - An Khánh

- Hoài Đức - Hà Nội Splendora với chủ đề “Tìm lại bản nguyên Tết Việt”;

Fetival ký họa Đông Nam Á tại thành phố Hà Nội… Nhìn chung, những sự kiện

mà Công ty ký hợp đồng tổ chức đều có chất lượng cao, tạo được sự tin cậy, uy

tín với đối tác.

2.3.2. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất

Để có cơ sở vật chất phục vụ cho việc bảo tồn các giá trị văn hóa, việc đầu

tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị luôn được chú trọng quan tâm đầu tư

xây dựng. Từ năm 2008, ông Nguyễn Thành Lai đã bắt tay vào đầu tư xây dựng

cơ sở vật chất như thuê đất, làm nhà thủy đình, vườn, ao, hồ, xây dựng khu

trưng bày, nhà chứa Quan họ…Với phương châm “Bấc đến đâu, dầu đến đấy”,

vừa xây dựng, vừa tổ chức hoạt động, lấy kinh phí từ hoạt động nọ bù cho hoạt

49

động kia. Sau hơn 10 năm vừa xây dựng, vừa hoạt động, năm 2019 Khu bảo tồn

mới khánh thành giai đoạn 1. Từ năm 2019 bắt đầu tiến hành xây dựng giai đoạn

2 với dự kiến trưng bày và quảng bá cho văn hóa làng nghề truyền thống của tỉnh

Bắc Ninh, mỗi năm sẽ đưa một mô hình vănhóa làng nghề truyền thống vào trưng

bày trải nghiệm tại Khu Bảo tồn.

Hiện tại toàn bộ Khu Bảo tồn có diện tích mặt bằng 5000 m2, trong đó

1000 m2 là diện tích của gia đình ông Lai, 4000 m2 là diện tích thuê của xã Ngũ

Thái. Khu Bảo tồn được phân chia thành 3 khu vực: Khu ao nhà người Việt và

Thủy đình biểu diễn; Khu tạo hình; Khu trưng bày. Trong năm 2020, đơn vị tiếp

tục xây dựng giai đoạn 2 và hoàn thiện các hạng mục Khu Bảo tồn văn hóa dân

gian Luy Lâu. Nhằm từng bước biến nơi đây trở thành một điểm tham quan, trải

nghiệm và học tập về văn hóa của đồng bằng Bắc Bộ. Đầu tư thêm một số trang

thiết bị, đạo cụ để phục vụ công tác biểu diễn cho chất lượng chương trình đạt

chất lượng cao hơn.

Cùng với xây dựng cơ sở hạ tầng, việc đầu tư mua sắm các trang thiết bị

như âm thanh, ánh sáng, các đạo cụ phục vụ cho công tác biểu diễn văn hóa

nghệ thuật truyền thống, trò chơi dân gian…cũng được chú trọng. Khó khăn

nhất chính là việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nghệ thuật

rối nước, từ việc đào ao, xây dựng nhà thủy đình cho đến việc đầu tư làm con

rối…phải mất hàng năm trời mới xong. Ngoài ra cũng không thể không nhắc

đến việc đầu tư mua ô tô dùng để chuyên chở các đạo cụ, trang thiết bị đi biểu

diễn, tổ chức sự kiện, ô tô để Công ty dùng vào việc giao dịch, liên hệ công việc.

Nhìn chung cho đến thời điểm hiện tại, Khu Bảo tồn văn hóa dân gian

Luy Lâu mới hoàn thiện giai đoạn 1. Giai đoạn 2 sẽ tiếp tục được triển khai từ

nay tới năm 2025 gồm các hạng mục nhà thờ dòng họ người Việt, nhà chứa

Quan họ và không gian văn hóa các làng nghề vùng quê Kinh Bắc. Mặc dù vẫn

còn nhiều hạng mục, nhiều trang thiết bị cần phải tiếp tục đầu tư xây dựng, mua

sắm, nhưng những cơ sở vật chất hiện tại được trang bị sẽ là tiền đề và điều kiện

để Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu ngày càng phát triển, tạo được hiệu quả

50

to lớn trong việc bảo tồn những giá trị di sản văn hóa truyền thống của dân tộc.

2.3.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền quảng bá

Để mô hình bảo tồn hoạt động hiệu quả thì một hoạt động không kém

phần quan trọng là tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá. Đối với Công ty

TNHH MTV Rối nước Thuận Thành, việc chủ động mời phóng viên báo đài về

đưa tin, viết bài, làm phóng sự không chỉ góp phần quảng bá cho hoạt động của

Khu bảo tồn mà còn góp phần quảng bá cho những di sản văn hóa của tỉnh Bắc

Ninh, của huyện Thuận Thành và di sản rối nước của làng Đồng Ngư. Từ khi đi

vào hoạt động, Công ty đã tiếp đón rất nhiều phóng viên các báo, đài truyền hình

Trung ương và địa phương như Đài truyền hình Việt Nam, truyền hình Truyền

hình Công An Nhân Dân, Báo Nhân Dân, truyền hình Bắc Ninh về làm phóng

sự và ghi hình trực tiếp tại Thủy đình của Khu bảo tồn nhằm giới thiệu nghệ

thuật múa Rối nước và trò chơi dân gian đến với nhân dân cả nước.

Bên cạnh đó, Công ty cũng lập một trang website, facebook để đăng tải

thông tin hoạt động (Phụ lục ảnh 53, tr.107).Ngoài ra, hoạt động tuyên truyền,

quảng bá còn được tiến hành thông qua việc tổ chức thành công các sự kiện lớn

tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu. Các sự kiện Công ty tổ chức không

chỉ thu hút khách ở địa phương mà còn thu hút đông đảo khách ở các tỉnh thành

khác về dự. Chính những sự kiện có tiếng vang mà Công ty tổ chức đã góp phần

làm cho “tiếng lành đồn xa”.

Nhiều tập đoàn, tổ chức, đơn vị biết đến Khu Bảo tồn đã ký hợp đồng

thuê biểu diễn rối nước, tổ chức các trò chơi dân gian, biểu diễn quan họ và hoạt

động trải nghiệm, ẩm thực…Bản thân ông Giám đốc Nguyễn Thành Lai cũng là

một “tuyên truyền viên” rất đắc lực. Ông Lai không bỏ lỡ một cơ hội nào để sẵn

sàng đón tiếp, giới thiệu, quảng bá cho khách tham quan và phóng viên báo chí

về hoạt động của Khu Bảo tồn cũng như những giá trị của các di sản văn hóa

truyền thống của quê hương mình. Có thể nói đây thực sự là hoạt động hiệu quả

51

trong việc phát triển hoạt động bảo tồn di sản văn hóa của đơn vị.

TIỂU KẾT

Trong chương 2 nhóm tác giả đề tài nghiên cứu đã khảo tả và làm rõ thực

trạng hoạt động của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu trên 2 phương diện:

bảo tồn những giá trị văn hóa vật chất và bảo tồn những giá trị văn hóa tinh thần

truyền thống của vùng Kinh Bắc nói riêng và của người dân Việt nói chung.

Bên cạnh đó nhóm tác giả cũng đã làm rõ nội dung bảo tồn văn hóa của

Khu Bảo tồn thông qua việc tổ chức các sự kiện và đầu tư xây dựng cơ sở vật

chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa truyền

thống. Theo đó, có 2 vấn đề nổi bật được nhóm tác giả rút ra từ thực trạng hoạt

động của Khu Bảo tồn.

Một là những giá trị văn hóa truyền thống của người dân xưa được bảo

tồn tại đây dưới dạng động, nghĩa là các giá trị đó được đưa vào hoạt động trải

nghiệm, thực hành, được tái hiện trong bối cảnh đương đại.

Hai là để bảo tồn được những giá trị văn hóa truyền thống trong cuộc

sống hiện đại hôm nay phải giải quyết được bài toán kinh tế trong văn hóa, lấy

hoạt động nọ nuôi hoạt động kia. Có như vậy việc bảo tồn các giá trị văn hóa

truyền thống mới đem lại hiệu quả. Những bàn luận rút ra từ mô hình, những

giải pháp để mô hình có thể được nhân rộng ra xã hội sẽ được nhóm tác giả làm

52

rõ trong chương 3.

Chương 3

BÀN LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU TRƯỜNG

HỢP MÔ HÌNH BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA CÔNG

TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN RỐI NƯỚC

THUẬN THÀNH

3.1. Đánh giá những thành công và hạn chế của mô hình

3.1.1. Những thành công

Như nhóm tác giả đã trình bày tại chương 2, từ khi đi vào hoạt động,

khoảng mười năm trở lại đây, từ khi chính thức đi vào hoạt động, mô hình Khu

Bảo tồn văn hóa dân gian do Luy Lâu Công ty TNHHMTV Rối nước Thuận

Thành do ông Nguyễn Thành Lai sáng lập, đã mang lại nhiều thành công và hiệu

quả, có tác động tích cực đến đời sống văn hóa và sự phát triển của địa phương, thể

hiện ở một số khía cạnh sau:

Thứ nhất: Mô hình Khu Bảo tồn là chính là nơi đã lưu giữ được nhiều hiện

vật liên quan đến văn hóa vật chất của người dân nông thôn trong truyền thống. Đó

là những vật dụng lao động và sinh hoạt hàng ngày như nồi đồng, cối xay, cối đá,

thúng, mủng, dần sàng, nong, nia, cày bừa, cuốc xẻng, gầu tác nước, dụng cụ đánh

bắt thủy sản…Những dụng cụ này không chỉ được bảo tồn ở dạng tĩnh mà còn

được dùng để đưa vào hoạt động trải nghiệm, bảo tồn ở dạng động, giới thiệu cho

người xem, nhất là lớp trẻ những công dụng, công năng của các hiện vật đó một

cách sống động. Ngoài bảo tồn những hiện vật, Công ty còn tiến hành bảo tồn cả

những giống gia cầm quý như Gà Đông Tảo, gà Hồ, gà ác, gà tre, gà ri, chim bồ

câu, chim trĩ, vịt trời... và các loại các nông sản sạch phục vụ cho văn hóa ẩm thực.

Đây cũng chính là nét độc đáo tại Khu Bảo tồn.

Thứ hai: Khu Bảo tồn đã tạo đã sân chơi và “đất diễn” cho các loại hình

nghệ thuật truyền thống của địa phương, góp phần tích cực vào chiến lược bảo

tồn di sản văn hóa phi vật thể. Ngoài nghệ thuật biểu diễn rối nước là môn nghệ

thuật chủ đạo, Khu Bảo tồn còn trưng tập và tổ chức biểu diễn các loại hình dân

53

ca cổ truyền như quát họ, ca trù, hát trống quân, hát xẩm…là những loại hình

nghệ thuật vẫn được gìn giữ ở địa phương được biểu diễn thường xuyên phục vụ

khách tham quan. Ngoài ra phải kể đến việc tổ chức các trò chơi dân gian truyền

thống tại Khu bảo tồn và hoạt động dịch vụ tổ chức cho các đối tác tại các khu

đô thị, các khu du lịch trong tỉnh và trong nước.

Thứ ba: Mô hình của Công ty đã góp phần đào tạo ra nhiều diễn viên có

tay nghề cao trực tiếp hoạt động biểu diễn nghệ thuật rối nước và các loại hình

dân ca cổ truyền, đặc biệt là dân ca Quan họ, một di sản văn hóa độc đáo của

Kinh Bắc và của Việt Nam đã được UNESCO vinh danh.

Thứ tư: Mô hình bảo tồn văn hóa dân gian đã có sự lan tỏa tích cực đối

với cộng đồng. Đó chính là việc giáo dục truyền thống văn hóa của dân tộc cho

thế hệ trẻ thêm hiểu và thêm yêu những di sản văn hóa của ông cha. Nhiều năm

qua, bản thân ông Nguyễn Thành Lai và nhân viên của Công ty đã trực tiếp biểu

diễn, giới thiệu nghệ thuật rối nước cho thiếu nhi các trường học trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh và một số tỉnh bạn.

Thứ năm: Hoạt động của mô hình đã tạo công ăn việc làm và thu nhập

cho hàng trăm diễn viên, nghệ nhân của địa phương, góp phần thúc đẩy sự phát

triển kinh tế của địa phương. Từ một phường rối nước của địa phương hoạt động

cầm chừng, có lúc tưởng như sắp tiến hành giải thể, với sự năng động nhạy bén

của mình, ông Nguyễn Thành Lai đã vực dậy đoàn rối nước của Đồng Ngư phát

triển. Hoạt động của Khu Bảo tồn đã tạo nên tiếng vang không chỉ trong tỉnh mà

còn với cả nước. Nhiều công ty, tập đoàn, đơn vị, doanh nghiệp đã tìm đến ông

Lai, mời ký hợp đồng tổ chức sự kiện văn hóa, du lịch mời ông tham gia tư vấn

đào tạo diễn viên biểu diễn rối nước.

Có thể nói các hoạt động khôi phục giá trị văn hóa truyền thống của Công

ty, đứng đầu là ông Giám đốc đam mê và ấp ủ thực hiện thành công, đã góp

phần đưa văn hóa truyền thống xưa của cha ông gần hơn với cuộc sống hôm nay,

tạo nên dòng chảy liên tục của văn hóa dân tộc. Nhờ đó, nhiều bạn trẻ từ chỗ xa

lạ với văn hóa truyền thống nay đã trở nên gắn bó, yêu thích và chủ động trở

54

thành thành viên tích cực tham gia các hoạt động, nhằm góp phần lan tỏa nhiều

giá trị văn hóa truyền thống trong cộng đồng. Đồng thời không ít người cao tuổi

vốn yêu mến văn hóa đã tìm thấy cơ hội “sân chơi” để thể hiện niềm đam mê và

mong muốn đóng góp của mình. Chính sự thay đổi trong nhận thức của cộng

đồng đã trở thành điểm tựa tinh thần để nhiều người đến với văn hóa truyền

thống, góp phần tạo ra thị trường để có thể nuôi dưỡng nhiều loại hình di sản

khác nhau.

3.1.2. Những hạn chế

Bên cạnh những thành tựu nổi bật, mô hình xã hội hóa hoạt động bảo tồn

di sản văn hóa của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành tại Khu Bảo

tồn văn hóa dân gian Luy Lâu thời gian qua vẫn còn có những hạn chế, bất cập.

Trước hết nhận thức của cán bộ và nhân viên Công ty về vai trò, ý nghĩa

của di sản văn hóa đã được nâng cao nhưng chưa sâu sắc và toàn diện, chưa

được cụ thể hóa bằng các kế hoạch và chương trình cụ thể. Nguồn lực của địa

phương cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa có nhưng chưa thật sự được quy tụ

và định hướng vào những công việc thật sự cấp bách. Trong hoạt động bảo tồn

di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương, việc xã hội hóa còn có lúc chưa tuân

thủ sự hướng dẫn và quản lý của chính quyền và cơ quan chuyên môn dẫn đến

hiện tượng thương mại hóa di sản văn hóa và nguy cơ làm biến đổi, biến dạng di

sản văn hóa theo chiều hướng tiêu cực.

Hoạt động bảo tồn các hiện vật còn tiến hành nhỏ giọt, manh mún, chưa

có sự đầu tư lớn và tập trung khiến cho việc sưu tầm, trưng bày ở đây vẫn chỉ

tiến hành ở mức tự phát, cầm chừng và khiêm tốn, chưa đa dạng các hiện vật.

Trong công tác bảo quản hiện vật vẫn chỉ dừng lại ở mức thủ công, chưa có sự

hỗ trợ của cơ quan chuyên môn cả về phương pháp bảo quản cũng như trưng

bày. Mặt khác Công ty chưa có sự chủ động liên kết hợp tác với các cơ quan

chuyên môn như Bảo tàng tỉnh để tham khảo học hỏi cách bảo quản, trưng bày.

Về phía cơ quan quản lý Nhà nhước về văn hóa tại địa phương vẫn chưa chưa

quan tâm, chưa cho phép và khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho Khu Bảo

tồn mở rộng hoạt động dịch vụ văn hóa nhằm mở rộng nguồn thu để đầu tư trở

55

lại cho các hoạt động chuyên môn.

Từ hoạt động của mô hình còn cho thấy hiện nay còn thiếu hành lang

pháp lý về chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách thuế (giảm thuế hoặc

miễn thuế hoạt động) và chính sách đãi ngộ (tôn vinh, khen thưởng) cho những

tổ chức, cá nhân đã có những đóng góp to lớn đối trong việc bảo tồn và phát huy

di sản văn hóa như cá nhân ông Nguyễn Thành Lai. Cùng với đó là việc Nhà

nước cần chú trọng tăng cường việc xét tặng danh hiệu nghệ nhân cho làng nghề

truyền thống rối nước Đồng Ngư. Trong thời gian qua, đã có 5 diễn viên của làng

Đồng Ngư được phong tặng danh hiệu nghệ nhân, tạo sự phấn khởi, tự hào cho bản

thân người làm nghề và nhân dân địa phương. Thời gian tới, vẫn còn nhiều người ở

làng đủ tiêu chuẩn đang chờ được xét và phong tặng.

Về nghiệp vụ chuyên môn, hiện nay đội ngũ nhân viên của Công ty đã

được tào tạo lành nghề, chủ yếu là về biểu diễn rối nước. Tuy nhiên muốn mở

rộng và phát triển mô hình bền vững thì người chủ của mô hình và cả đội ngũ

ngũ nhân viên cần phải được đào tạo cơ bản để nâng cao trình độ chuyên môn về

quản lý di sản, quản lý văn hóa chứ không chỉ dừng lại ở mức “thợ” như hiện nay.

Một hạn chế bất cập nữa hiện nay là do sự bùng nổ của công nghệ số cũng

như quá trình hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, nhiều loại hình sản phẩm văn hóa

mới đã và đang du nhập vào nước ta do đó tác động không nhỏ, đặt ra những

thách thức không nhỏ với những người nghệ nhân ở đây làm sao gắn bó và phát

huy hơn nữa các giá trị truyền thống của các loại hình văn hóa truyền thống như:

Rối nước, dân ca Quan họ, Ca trù, Chầu văn, hát Xẩm,.. Trong khi đó nguồn thu

và chế độ chi trả cho các nghệ nhân tại Khu Bảo tồn chưa phải cao nếu không

nói là thấp. Do thu nhập từ việc biểu diễn các loại hình văn hóa dân gian truyền

thống còn có phần hạn chế nên phần nào đã tác động đến nhận thức, suy nghĩ

của các nghệ nhân, nghệ sĩ tại Khu Bảo tồn khiến cho một số nghệ nhân, diễn

viên chưa thực sự gắn bó lâu dài với Khu Bảo tồn. Bên cạnh đó là việc mở rộng

và tìm hướng đi, phát triển bền vững cho các loại hình trò chơi dân gian của dân

tộc mà thời gian qua Công ty đã tiến hành đã đem lại một số khởi sắc bước đầu

56

vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu thấu đáo.

3.2. Những bài học rút ra từ việc nghiên cứu mô hình bảo tồn văn hóa

truyền thống của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước

Thuận Thành

3.2.1. Sự đam mê nhiệt huyết và năng động sáng tạo của người sáng lập

mô hình

Để mô hình Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu hoạt động có hiệu

quả như hôm nay, một trong những tiền đề đầu tiên không thể không nhắc tới đó

chính là niềm đam mê cháy bỏng đối với di sản văn hóa ông cha của chính

người sáng lập Công ty và mô hình - Ông Nguyễn Thành Lai.

Nghệ nhân Nguyễn Thành Lai, Trưởng phường rối nước Luy Lâu sinh

năm 1971, xuất thân nghề nông, nhưng là người có công đưa nghệ thuật biểu

diễn rối nước dân gian Đồng Ngư lên chuyên nghiệp hóa.

Tâm huyết với nghệ thuật rối nước quê hương, ông tham gia phường rối

ngay từ năm 1989 khi làng khôi phục nghề truyền thống. Do tuổi trẻ còn phải lo

làm ăn phát triển kinh tế gia đình, năm 1995 ông ra Hà Nội mở xưởng cơ khí và

sửa chữa xe máy. Nhưng tiếng đàn tiếng hát của nhà trò rối nước cứ thôi thúc

ông trở về quê hương. Năm 2000 ông quyết định về quê sinh sống để được cùng

phường biểu diễn rối nước. Phường thiếu phương tiện loa đài, tăng âm ông tự

mua sắm, vừa để nhà dùng vừa để giúp phường mỗi khi đi biểu diễn. Mặc dù

tuổi còn trẻ, Nguyễn Thành Lai đã được tin cậy bầu làm Trùm phó và sau đó là

Trùm trưởng, thay cụ Nguyễn Thanh Trãi, Trùm phường qua đời. Từ một

phường rối nước địa phương hoạt động rất bình thường, dưới sự dẫn dắt chỉ đạo

của ông đã trở nên phát triển, tiếng vang ngày một xa. Phường đã ký hợp đồng

biểu diễn với Bảo tàng dân tộc học Việt Nam và nhiều tập đoàn, Khu du lịch.

Sinh hoạt của phường ngày càng mở rộng và kết nạp được nhiều thành viên

tham gia.

Đặc biệt điều thôi thúc khiến cho ông quyết định thành lập Công ty, dấn

thân vào con đường hoạt động bảo tồn này chính là sự đau đáu với những di sản

57

văn hóa ngàn đời của ông cha đang có nguy cơ mai một và biến mất trong thời

đại hiện đại hóa. Ông chia sẻ với nhóm tác giả, thời kỳ đầu thành lập Công ty,

ông còn nhiệt tình dùng xe cải tiến đi bộ chở cây tre ra Bảo tàng dân tộc học ở Hà

Nội, giúp bảo tàng dựng cây đu truyền thống của Bắc Ninh, tái hiện mọt nét sinh

hoạt văn hóa đặc sắc của vùng Kinh Bắc.

Hiện nay, ông Lai cùng các thành viên của gia đình vừa quản lý, tổ chức

biểu diễn và kiêm luôn diễn viên. Vốn từng là thợ mộc, thợ cơ khí, ông Lai đảm

nhiệm luôn công đoạn từ chế tác con rối, đến tự thiết kế và lắp thủy đình cơ động.

Đoàn rối nước Luy Lâu khá ăn khách, được nhiều địa phương mời diễn với mỗi

năm hàng trăm suất diễn.

Nhiều lần ông tự mình đánh xe chở “Đoàn/gánh rối gia đình’’ về Hà Nội và

sang tỉnh bạn lưu diễn dài ngày. Ông cũng trải lòng, cho dù thu nhập không cao,

nhưng mình cũng đã quảng bá ngày càng rộng khắp được nghệ thuật múa rối

nước Đồng Ngư tới nhiều địa phương trong cả nước, vừa bảo tồn, phát huy vốn

văn hóa làng nghề “Nghệ thuật dân gian truyền thống” của quê hương, lại tạo

công ăn việc làm cho anh em trong làng, thêm thu nhập để cải thiện đời sống.

Một thập kỷ qua, Phường rối Đồng Ngư cùng Đoàn Nghệ thuật rối nước Luy

Lâu (rối Đồng Ngư) đã tham gia nhiều Liên hoan múa rối và đạt được giải cao. Nổi

bật là giải Nhất trong Liên hoan nghệ thuật múa rối không chuyên năm 2002 (tại

Hà Nội); giải Nhì Liên hoan múa rối nước tại Liên hoan múa rối ở Huế năm 2004;

Giải Nhì Liên hoan múa rối toàn quốc lần thứ nhất năm 2011 tại Hải Dương.

Có thể nói Nguyễn Thành Lai là người đam mê đến cháy bỏng và luôn nuôi

ước vọng bảo tồn nghệ thuật rối truyền thống. Chính nhờ những nghệ nhân đam mê

và tích cực như ông đã góp phần làm sống lại những giá trị di sản văn hóa của dân

tộc. Mới đây tỉnh Bắc Ninh đã lập hồ sơ trình Bộ VH - TT&DL ghi danh nghệ thuật

rối nước của làng Đồng Ngư là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, trong đó có

những nỗ lực đóng góp của cá nhân ông và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.

3.2.2. Khai thác tiềm năng và thế mạnh di sản văn hóa của địa phương

Thuận Thành là huyện nằm ở phía nam tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 25

58

km về phía đông. Huyện có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa với tiềm năng,

tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng. Toàn huyện có khoảng 126 điểm di

tích, tiêu biểu như thành cổ Luy Lâu, Chùa Dâu - Tổ đình của Phật giáo Việt

Nam, Khu di tích Lăng mộ và Đền thờ Kinh Dương Vương - Thủy tổ của dân

tộc Việt Nam, Lăng và Đền thờ Sĩ Nhiếp - Nam giao học tổ, Chùa Tổ - thờ Phật

và Tổ Mẫu Man Nương sinh ra Tứ Pháp, Chùa Bút Tháp - nơi lưu giữ bảo vật

quốc gia tượng Phật quan âm nghìn mắt nghìn tay, Chùa Ngọc Khám - nơi có ba

pho tượng Tam Thế đã được công nhận là bảo vật quốc gia, Thành cổ Luy

Lâu… Bên cạnh đó, Thuận Thành còn có các làng nghề truyền thống lâu đời:

gốm Luy Lâu, tranh dân gian Đông Hồ, tương Đình Tổ, nem Bùi Xá, đậu phụ

Trà Lâm, đồng Đào Viên… cùng nhiều loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian đặc

sắc như: hát Ca trù (Thanh Khương), hát Trống quân (Ninh Xá), đấu vật (Mão

Điền và Hoài Thượng), múa rối nước ở Đồng Ngư (Ngũ Thái),..

Tuy nhiên, việc khai thác các tiềm năng này trên địa bàn huyện phục vụ

cho việc phát triển du lịch và kinh tế còn hạn chế. Làm thế nào để biến những

tiềm năng, lợi thế đó thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn, thu hút được khách

tham quan và đưa du lịch trở thành ngành kinh tế có đóng góp đáng kể cho sự

phát triển của địa phương. Đó là nhiệm vụ đặt ra cho ngành du lịch của tỉnh

cũng như địa bàn huyện Thuận Thành. Thời gian qua, bằng những nỗ lực, nhạy

bén của mình, ông Nguyễn Thành Lai và Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận

Thành đã tích cực khai thác các tiềm năng di sản này vào hoạt động trải nghiệm,

thực hành và bảo tồn. Nòng cốt và hạt nhân ban đầu của Công ty chính là biểu

diễn rối nước, nghề truyền thống của làng Đồng Ngư. Dần dân trong quá trình

hoạt động, nhận thấy sự liên quan giữa các yêu tố văn hóa truyền thống, ông Lai

và Công ty đã mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực tổ chức sưu tầm hiện vật, tổ

chức trưng bày, trải nghiệm văn hóa, tổ chức các trò chơi dân gian, tổ chức các

sự kiện biểu diễn quan họ, ca trù, hát xẩm, hát trống quân…tổ chức trải nghiệm

ẩm thực truyền thống Kinh Bắc. Đây vốn là những thế mạnh tiềm năng của địa

phương. Khi đưa vào khai thác rất có lợi thế và hiệu quả, được các cơ quan quản lý

59

Nhà nước về văn hóa và nhân dân, du khách đến với Khu Bảo tồn đánh giá cao.

3.2.3. Sự quan tâm của chính quyền và cơ quan quản lý

Để hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản nói chung và mô hình hoạt

động của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành hoạt động có hiệu quả

không thể không đề cập tới sự quan tâm vào cuộc, tạo điều kiện hỗ trợ của chính

quyền địa phương cả về vật chất lẫn tinh thần và hỗ trợ về mặt chuyên môn

nghiệp vụ. Năm 2011, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt “Quy hoạch tổng thể

phát triển du lịch tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2011- 2020 và định hướng đến năm

2030”.

Quy hoạch đã nhấn mạnh việc phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù,

trong đó có gắn với các điểm di sản văn hóa tại vùng ven sông Cầu như xây

dựng khu du lịch miền Quan họ tại xã Hòa Long với loại hình du lịch nghỉ

dưỡng, sinh thái làng quê; trải nghiệm và khám phá các giá trị văn hóa làng quê

vùng Kinh Bắc, đặc biệt là dân ca Quan họ Bắc Ninh; bảo tồn các giá trị văn hóa

truyền thống dân tộc,…Đến nay, các dự án nằm trong quy hoạch đang dần được

triển khai tại các điểm trên toàn tỉnh. Tương lai gần, tỉnh Bắc Ninh là địa

phương trở thành một trong những trung tâm du lịch văn hóa lớn của vùng đồng

bằng châu thổ sông Hồng và của cả nước, tương xứng với tiềm năng và lợi thế

của tỉnh. Riêng với bộ môn nghệ thuật múa rối nước truyền thống ở Đồng Ngư,

ngày 6 tháng 10 năm 2017, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số: 528/QĐ-

UBND về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị Múa Rối nước làng

Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh”[15].

Mục tiêu của đề án nhằm tôn vinh các giá trị di sản văn hóa truyền thống

của môn nghệ thuật Múa Rối nước làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận

Thành; khích lệ, động viên sự sáng tạo các giá trị văn hóa trong cộng đồng, góp

phần xây dựng và phát triển văn hóa - xã hội bền vững; Bảo tồn và phát huy giá

trị của loại hình nghệ thuật dân gian Múa Rối nước Đồng Ngư trong giai đoạn

phát triển mới, nhằm pháp huy vai trò của chủ thể văn hóa trong việc bảo tồn và

phát triển di sản văn hóa. “Hỗ trợ trang thiết bị và kinh phí hoạt động cho các

60

phường Múa Rối nước làng Đồng Ngư”.

Dự án đã hỗ trợ cho 2 phường rối nước Đồng Ngư và Luy Lâu mỗi

phường 01 bộ thiết bị âm thanh, ánh sáng; 01 nhà thủy đình di động; làm con trò

một lần; kinh phí để mở các lớp dạy truyền nghề; Hỗ trợ kinh phí cho các

phường múa rối nước làng Đồng Ngư định kỳ tổ chức biểu diễn tại thành phố

Bắc Ninh (có luân phiên giữa các phường). Hỗ trợ kinh phí tổ chức các lớp dạy

truyền nghề (chủ yếu do Khu bảo tồn Văn hóa dân gian Luy Lâu tổ chức).

Đồng thời dự án cũng tiến hành việc “Lập hồ sơ khoa học và tư liệu hóa

các tài liệu, hiện vật liên quan đến loại hình nghệ thuật Múa Rối nước Đồng Ngư”

để lập hồ sơ khoa học đề nghị công nhận Múa Rối nước Đồng Ngư là di sản văn

hóa phi vật thể quốc gia. Tổng số tiền của đề án là 16.940.000.000đ đồng (Mười

sáu tỷ, chín trăm bốn mươi triệu đồng). Đây vừa là sự quan tâm thiết thực và hiệu

quả của tỉnh Bắc Ninh đối với di sản rối nước của làng Đồng Ngư và Khu Bảo tồn

văn hóa dân gian Luy Lâu của cá nhân ông Nguyễn Thành Lai.

Bên cạnh sự quan tâm của tỉnh, Khu Bảo tồn của ông Nguyễn Thành Lai

còn nhận được sự quan tâm của chính quyền địa phương, từ việc cho thuê mặt

bằng diện tích sử dụng đến việc tạo điều kiện để Công ty tổ chức các hoạt động sự

kiện ở Khu bảo tồn và ở địa phương. Hiện nay Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy

Lâu có tổng diện tích 5000m2, trong đó 1000m2 là của gia đình ông Lai, còn lại

4000m2 là diện tích mà UBND xã Ngũ Thái tạo điều kiện cho thuê để hoạt động.

Nhờ vậy mà Khu Bảo tồn đã có mặt bằng tương đối rộng rãi, phục vụ cho việc

trưng bày, trải nghiệm và tổ chức các sự kiện để bảo tồn văn hóa truyền thống.

3.2.4. Sự hưởng ứng của cộng đồng xã hội

Trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa thì sự

hưởng ứng, tham gia của cộng đồng là một nhân tố quan trong, đóng góp vào

thành công của mô hình tư nhân bảo tồn văn hóa truyền thống.

Với mong muốn bảo tồn nét văn hóa của địa phương, phường rối nước

Đồng Ngư ra đời từ sự đóng góp tinh thần và vật chất của người dân địa phương.

Trải qua gần 30 năm hoạt động, đến nay phường rối nước Đồng Ngư đi biểu

diễn khắp nơi. Mỗi năm phường rối đi diễn khoảng 40-50 lượt, mang theo bản

61

sắc quê hương đến mọi miền, quảng bá và lan tỏa dân ca Quan họ Bắc Ninh.

Sự kết hợp hài hòa giữa những điệu nhạc, câu Quan họ và nghệ thuật truyền

thần cho những con rối đã thể hiện được tâm tư, tình cảm của những người dân

vùng Kinh Bắc.

Ông Nguyễn Thành Lai, Trưởng phường rối nước Luy Lâu, cho biết:

“Thời gian ban đầu, khi phường rối Luy Lâu được khôi phục lại gặp rất nhiều

khó khăn, thiếu thốn. Nhà thì góp một cây tre, nhà thì khúc gỗ; người biết tạo

hình thì đục đẽo, người biết sơn thì quét sơn để cùng nhau tạo thành các con rối

để đi biểu diễn”.

Người dân tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc

Ninh đã cung cấp những thông tin cần thiết về di sản Rối nước của địa phương để

lập dự án (Dự án nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi nghề Rối nước đặc sắc của địa

phương).

Bên cạnh đó, nhân dân tại địa phương đã đóng góp quỹ để bảo tồn và phát

huy các giá trị của văn hóa truyền thống trong tổng thể chung ngân sách của dự

án. Đồng thời còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động của dự án (Đặc biệt có

đại diện của cộng đồng trong thành phần giám sát dự án).

Từ việc tham gia dự án, người dân địa phương đã có những chuyển biến

trong nhận thức đối với những di sản di sản văn hóa của cha ông từ ngàn xưa để

lại. Nghệ nhân Dương Văn Giáo – thôn Đồng Ngư cho biết, việc bảo tồn và phát

triển nghệ thuật múa rối nước Đồng Ngư gặp nhiều thuận lợi khi lớp trẻ đã quan

tâm hơn đến môn nghệ thuật truyền thống. Thế hệ nghệ nhân cao tuổi, có nhiều

kinh nghiệm, gắn bó gần như cả cuộc đời mình với những con rối như ông bây

giờ còn lại không nhiều nhưng đều dốc sức truyền dạy cho các thế hệ kế cận. Đã

gần 80 tuổi, nhưng cụ vẫn theo chân phường rối đều đặn đi biểu diễn ở khắp các

vùng miền. Nhiều khi tuổi cao, sức yếu, lại ngâm mình trong nước lâu, ảnh

hưởng đến sức khỏe, nhưng mỗi khi đón nhận những tràng pháo tay tán thưởng

của khán giả cụ lại thấy như trẻ ra, khỏe lại. Quan trọng hơn, theo cụ, biểu diễn

cũng là để truyền đạt các kỹ năng cũng như sự nhiệt huyết cho giới trẻ. Để

62

những nghệ sĩ trẻ bây giờ thấy được việc biểu diễn không chỉ vì tình yêu nghệ

thuật mà còn là trách nhiệm đối với việc gìn giữ, bảo tồn những giá trị truyền

thống quý báu, đặc sắc mà cha ông để lại.

Không chỉ dừng lại ở việc góp công sức, tiền của vào dự án khôi phục

nghệ thuật rối nước, sự hưởng ứng của người dân địa phương đối với hoạt động

bảo tồn còn thể hiện ở việc họ cho con em mình đến trải nghiệm tại Khu bảo tồn.

Như nhóm tác giả đã trình bày ở chương 2, trong năm 2020, tại Khu Bảo tồn đã

diễn ra sự kiện trại hè và Tết trung thu với hàng trăm em học sinh tham gia. Sự

kiện tết Trung thu do Công ty tổ chức thu hút hàng ngàn người tham gia cùng

với con em rước đèn ông sao xung quanh làng Đồng Ngư. Ngoài ra trong năm,

nhiều gia đình ở địa phương cũng đã đăng ký tổ chức sự kiện gia đình tại Khu

bảo tồn, thưởng thức Quan họ, rối nước và thưởng thức ẩm thực đồng quê. Điều

đó chứng tỏ hoạt động của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu đã thực sự

đáp ứng được nhu cầu của đông đảo nhân dân địa phương và du khách.

3.2.5. Bài học về giải quyết bài toán kinh tế, tạo nguồn thu phục vụ hoạt

động bảo tồn

Trong những năm qua, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn

hóa của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa

dân gian Luy Lâu đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần làm sống lại

nhiều giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của vùng Kinh Bắc xưa, đồng

thời tạo ra nguồn lực quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương.

Một bài học không kém phần quan trọng được rút ra từ mô hình bảo tồn

đó là bài học về giải quyết bài toán kinh tế, tạo nguồn thu, phục vụ cho hoạt

động bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Thật vậy, nếu chỉ dừng lại ở việc đam

mê của cá nhân ông chủ phường thì chưa đủ. Vấn đề đặt ra là phải có nguồn

kinh phí đầu tư cho việc bảo tồn. Từ việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở

vật chất, mua sắm trang thiết bị cho đến việc sưu tầm các giá trị văn hóa phi vật

thể, đào tạo và biểu diễn rối nước và các loại hình nghệ thuật truyền thống, bồi

63

dưỡng cho các nghệ nhân…Tất cả đều cần phải có nguồn tài chínhđể trang trải.

Không thể trông chờ vào nguồn kinh phí của Nhà nước hỗ trợ hay kinh phí của

các “Mạnh Thường Quân” như một số bảo tàng tư nhân.

Hiện nay, hoạt động tổ chức sự kiện và biểu diễn nghệ thuật rối nước của

Công ty là những hoạt động đem lại nguồn thu lớn nhất. Chỉ tính riêng năm

2019, từ tổ chức sự kiện, trò chơi dân gian, biểu diễn rối nước tại Khu Bảo tồn

và tổ chức dịch vụ sự kiện cho các đối tác, đơn vị cũng có doanh thu hàng trăm

triệu đồng. Nguồn thu này vừa đảm bảo thu nhập cho các thành viên của Công

ty, vừa dùng để quay vòng tiếp tục đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị, đầu

tư cơ sở vật chất và trang trải cho tất cả các hoạt động của Khu Bảo tồn. Nói như

ông Giám đốc Công ty TNHHMTV Rối nước Thuận Thành, phải “lấy cái nọ

nuôi cái kia”. Có thể nói, đây vừa là một bài học nhưng cũng vừa là một trong

những nguyên nhân, tiền đề để Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu không

những tồn tại, duy trì được hoạt động và không ngừng phát triển, tạo ra các hiệu

quả văn hóa xã hội cao.

3.3. Một số giải pháp phát huy mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống

Từ nghiên cứu trường hợp mô hình bảo tồn văn hóa của Công ty TNHH

MTV Rối nước Thuận Thành, để mô hình hoạt động thực sự có hiệu quả và

nhân rộng, phát huy được thế mạnh và tiềm năng trong quá trình phát triển kinh

tế - xã hội ở địa phương, trong quá trình đi vào hoạt động cần phải thực hiện một

cách đồng bộ một số giải pháp chủ yếu:

3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa

trong mọi tầng lớp nhân dân

Thực tế hiện nay, nhiều di sản văn hóa của dân tộc đang có nguy cơ bị

mai một. Nhiều cá nhân tiêu biểu như ông Nguyễn Thành Lai có hiểu biết, có

niềm đam mê với vốn cổ của cha ông đã tự nguyện đứng ra thành lập Công ty,

sáng tạo chủ động trong bảo tồn di sản. Tuy nhiên đối với cộng đồng, để việc

bảo tồn di sản phát huy hiệu quả, đúng định hướng lại rất cần đến sự hiểu biết về

pháp luật. Chính vì vậy việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di

64

sản văn hóa trong các tầng lớp nhân dân cần được coi trọng.

Các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành cần được kịp thời phổ biến

trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài ngành để nhanh chóng

truyền tải những quy định của pháp luật về di sản văn hóa đến với đông đảo

nhân dân, với mục tiêu ngày càng nâng cao nhận thức và thu hút được sự tham

gia tích cực của toàn xã hội, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ có hiệu quả của

dư luận xã hội đối với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Tổ chức hướng

dẫn các địa phương, đơn vị đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Luật Di sản văn

hóa và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa; một số cuộc

thi tìm hiểu pháp luật về di sản văn hóa cần được phát trên sóng truyền hình,

truyền thanh nhằm tuyên truyền sâu rộng nội dung của Luật; tăng cường xuất

bản các ấn phẩm về Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành để gửi các địa

phương…

Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về di sản

văn hóa ở các địa phương; chỉ đạo các địa phương chủ động trong công tác đấu

tranh ngăn chặn vi phạm pháp luật về di sản văn hóa. Về phương thức hoạt động,

cần tạo điều kiện tổ chức và hướng dẫn cho các tổ chức và các đơn vị xã hội ở

cơ sở, trong đó, hết sức chú trọng việc khai thác tinh thần tự nguyện tự giác của

quần chúng để mọi người coi việc bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa là vì

mình và cho mình.

3.3.2.Tăng cường cơ chế chính sách

Theo PGS.TS Trương Quốc Bình, đối với hoạt động xã hội hóa bảo tồn di

sản văn hóa “Nhà nước cần tỏ rõ sức mạnh của mình trong việc quản lý, điều tiết,

định hướng và phát huy vai trò của các cộng đồng, của các tổ chức phi nhà nước

và tư nhân trong các hoạt động xã hội hóa”. [1, tr.12]

Theo đó, đầu tư ngân sách nhà nước là một trong những nhân tố quan yếu

thúc đẩy sự phát triển của quá trình xã hội hóa. Do đó, trên quy mô toàn xã hội, nhà

nước cần thường xuyên tìm thêm các nguồn để tăng tỷ lệ chi ngân sách cho các

hoạt động này; đồng thời quản lý có hiệu quả việc dụng các nguồn kinh phí đó.

65

Thực tiễn cho thấy, việc đề cao hiệu quả tài trợ của nhà nước là vấn đề quan trọng,

nếu không, sẽ trở lại thời bao cấp, với cơ chế xin - cho, theo kiểu bình quân. Càng

xã hội hóa nhà nước càng cần tăng cường đầu tư ngân sách, nhưng việc tài trợ phải

đúng trọng điểm, để thúc đẩy quá trình xã hội hóa. Việc sử dụng các nguồn kinh

phí có hiệu quả và đúng mục đích rất cần đến vai trò của nhà nước.

Mặt khác, những kết quả của quá trình xã hội hóa sẽ góp phần làm giảm bớt

cho nhà nước những gánh nặng về tài chính, khai thác được tiềm lực của toàn xã

hội và tạo điều kiện để nhà nước đầu tư vào những công trình trọng điểm.

Muốn làm được như thế, nhà nước phải có những chính sách bền vững để

trợ giúp và đào tạo nhằm nâng cao năng lực tự quản của cộng đồng, khuyến

khích và nâng cao năng lực tham gia của nhân dân.

Thực tiễn xã hội hóa đòi hỏi sự đổi mới, đa dạng hóa và nâng cao chất

lượng hoạt động, đây là nhu cầu phát triển nội tại của các hoạt động này. Hoạt

động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa chỉ trở thành sự quan tâm chung của

toàn xã hội và có vai trò thật sự trong các lĩnh vực của đời sống xã hội khi nó có

chất lượng cao và đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Nếu chất lượng và hiệu quả

thấp thì không những không thể xã hội hóa mà còn không thể tồn tại và phát

triển. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả phải được coi là một trong

những vấn đề sống còn, là một trong những nguyên tắc cơ bản của xã hội hóa

các hoạt động bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa ở Việt Nam.

Để các hoạt động bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa thu hút sự tham

gia của toàn xã hội, được xã hội quan tâm và nuôi dưỡng, cần xác định rằng,

việc bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa không chỉ là trách nhiệm của riêng

ngành VH - TT&DL nói chung mà còn là của toàn dân và toàn xã hội.

Với mục tiêu mở rộng các nguồn đầu tư, để khai thác và sử dụng hiệu quả

tiềm năng xã hội, thực hiện xã hội hóa trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản

phải gắn liền việc nghiên cứu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù

hợp bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước; cải tiến bộ máy quản lý; đào tạo nâng

cao trình độ cán bộ, công chức; đổi mới hoạt động, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ

66

văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Thực tiễn kinh nghiệm từ công tác quản lý

Nhà nước đối với bảo tồn phát huy giá trị di sản ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua

cho thấy, xã hội hóa không đồng nghĩa với việc tự do hóa và tư nhân hóa mọi

hoạt động. Trong quá trình này, cơ quan chủ quản phải giữ vai trò quan trọng,

đó là vai trò quản lý và hướng dẫn theo đúng định hướng và chủ trương của

Ðảng và Nhà nước, trong đó các tổ chức, cá nhân được tham gia, nhưng phải

tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan.

Thực hiện hiệu quả xã hội hóa trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản

văn hóa đòi hỏi phải tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn

hóa trong mọi tầng lớp nhân dân, giúp họ chủ động tham gia, thực hiện quyền và

nghĩa vụ của mình. Các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành cần được kịp

thời phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhanh chóng cập nhật

những quy định của pháp luật về di sản văn hóa đến với đông đảo nhân dân,

nâng cao nhận thức và thu hút được sự tham gia tích cực của toàn xã hội, tranh

thủ được sự ủng hộ của dư luận đối với bảo tồn và phát huy giá trị di sản.

Ðặc biệt, ngành văn hóa cần quan tâm và thường xuyên kiểm tra, giám sát

việc thực hiện pháp luật về di sản văn hóa, chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn vi phạm

ở các địa phương. Bên cạnh cần có những quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư, hỗ

trợ, giảm hoặc miễn thuế cho các hoạt động được thực hiện từ các nguồn kinh

phí ngoài ngân sách Nhà nước. Việc xây dựng và ban hành chính sách quản lý

và sử dụng các nguồn tài chính xã hội hóa như tiền công đức, tiền bán vé, tiền

tài trợ, tiền kinh doanh dịch vụ... cần được triển khai theo hướng ưu tiên sử dụng

cho mục đích bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; đồng thời sớm ban hành

chính sách tôn vinh những nghệ nhân có nhiều đóng góp trong lĩnh vực di sản

văn hóa phi vật thể.

Về vấn đề này, ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHH MTV

Rối nước Thuận Thành chia sẻ: Phong tặng danh hiệu nghệ nhân là một việc làm

hết sức ý nghĩa, có tác dụng khích lệ, động viên các nghệ nhân rất lớn. Tuy

nhiên các cơ quan chức năng cần xem xét phong tặng đúng người, đúng công

lao đóng góp để đảm bảo sự công bằng cho những người thực sự có cống hiến,

67

đóng góp cho nghệ thuật dân gian dân tộc.

Việc khuyến khích, mở rộng xây dựng các bảo tàng hoặc các sưu tập tư

nhân, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, phù hợp với truyền thống văn

hóa, thuần phong mỹ tục của các dân tộc đã mở ra cho sự nghiệp bảo tồn di sản

văn hóa một hướng tiếp cận mới, có khả năng quy tụ các nguồn lực trong nhân

dân với mục tiêu đa dạng hóa các hình thức hoạt động, phát huy sức mạnh tổng

hợp của toàn xã hội, để đạt được hiệu quả cao nhất. Trong quá trình xã hội hóa,

Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng cho các hoạt động văn

hóa phát triển (định hướng chứ không làm thay, nhất là không khoán trắng cho

cộng đồng), đồng thời cần tăng cường đầu tư và tài trợ cho các hoạt động văn

hóa để thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa nói

chung và hoạt động bảo tồn di sản văn hóa nói riêng.

Ngoài ra việc tăng cường chính sách cho hoạt động xã hội hóa các hoạt

động văn hóa còn là việc ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài

chính từ xã hội hóa. Ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài chính

của di tích (tiền công đức, tiền bán vé, tiền tài trợ, tiền kinh doanh dịch vụ tại di

tích, bảo tàng...) theo định hướng ưu tiên sử dụng các nguồn thu từ xã hội hóa cho

việc tái đầu tư. Đối với các nguồn thu, cần có sự chỉ đạo nhất quán, minh bạch

trong công tác quản lý tài chính và phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các tổ

chức, cá nhân liên quan, tránh sự chồng chéo hoặc đùn đẩy trách nhiệm.

3.3.3. Quan tâm hỗ trợ về cơ sở vật chất và chuyên môn cho mô hình

Để hoạt mô hình xã hội hóa hoạt động bảo tồn văn hóa hoạt động có hiệu

quả, rất cần thiết có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất và hỗ trợ về đào tạo

chuyên môn cho các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng mô hình.Về cơ sở vật

chất, như nhóm tác giả đã trình bày, thời gian qua mặc dù đã được UBND tỉnh

Bắc Ninh hỗ trợ về cơ sở vật chất cho cả hai phường rối Đồng Ngư và Luy

Lâunhưng đây mới chỉ là bước đầu. Về lâu dài, mô hình cũng cần nhận được sự

quan tâm hỗ trợ của tỉnh, huyện và địa phương hơn nữa. Cụ thể vấn đề mấu chốt

nhất đối với Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu là việc tạo điều kiện cho thuê

68

mặt bằng diện tích đất lâu dài để làm không gian bảo tồn văn hóa. Hiện nay, ngoài

1000m2 diện tích đất ở của gia đình, 4000m2 còn lại Công ty TNHHMTV Rối

nước Thuận Thành của ông Nguyễn Thành Lai mới chỉ được thuê ngắn hạn 5

năm một với mục đích làm trang trại chăn nuôi, trồng rau sạch. Việc chuyển đổi

Công tyTNHHMTV Rối nước Thuận Thành thành doanh nghiệp như các doanh

nghiệp khác là khó khăn bởi đặc thù của lĩnh vực hoạt động bảo tồn di sản văn

hóa không phải mục đích lợi nhuận là hàng đầu, thêm vào đó lợi nhuận, kinh phí

thu được từ việc tổ chức các sự kiện không phải cao. Vì vậy nếu như tỉnh và

chính quyền địa phương tạo điều kiện cho thuê mặt bằng diện tích lâu dài và cho

thuê với hình thức trả chậm, trả dần thì sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho mô hình

bảo tồn di sản văn hóa của ông Lai duy trì và phát triển.

Bên cạnh về cơ sở vật chất, một thực tế đang đặt ra về chuyên môn của đội

ngũ những người tham gia vào hoạt động bảo tồn di sản cũng không kém phần

quan trọng. Những năm qua, Khu Bảo tồn Văn hóa dân gian Luy Lâu đã tiến hành

tổ chức đào tạo nhiều lớp biểu diễn rối nước và hát Quan họ cho các học viên tại

địa phương. Để hoạt động này được tiến hành mang tính chuyên nghiệp, lãnh đạo

Khu bảo tồn đã kết hợp với Sở VH - TT&DL, Trường Trung cấp VH - TT&DL

tỉnh mở các lớp đào tạo ngắn hạn cho học viên tại địa phương có nhu cầu. Bản

thân cá nhân ông Nguyễn Thành Lai cũng được Sở VH - TT&DL tư vấn về

chuyên môn nghiệp vụ cho các hoạt động. Tuy nhiên nhìn nhận một cách khách

quan, sự quan tâm này chưa được thường xuyên và liên tục, đồng thời tạo thành

một chiến lược lâu dài. Thực tế cho thấy nếu cán bộ nhân viên Khu Bảo tồn chỉ có

lòng đam mê, nhiệt huyết thì chưa đủ mà cần phải có sự đào tạo cơ bản (nếu

không nói là bài bản) về chuyên môn nghiệp vụ để có thể vừa là những nhà quản

quản lý, vừa là những nghệ sĩ, diễn viên thạo nghề trực tiếp tham gia vào quá

trình bảo tồn di sản văn hóa. Chính họ cũng sẽ là hạt nhân, là nòng cốt trong việc

bảo vệ và tuyên truyền cho mọi người dân hiểu và thực hành những giá trị văn

hóa truyền thống. Chính vì vậy cùng với những chính sách về bảo tồn, các địa

phương cũng cần có chương trình bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chuyên môn cho

69

cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và các cá nhân thuộc tổ chức tư

nhân như ông Lai để góp phần nâng cao hơn nữa việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy

các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Ngoài ra các cơ quan quản lý và chuyên môn cần quan tâm hỗ trợ mô hình

triển khai nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất

lượng, hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật

thể của địa phương đã được ghi danh trên địa bàn tỉnh; biên soạn tài liệu để bảo

tồn, lưu truyền và làm cho các di sản tiếp tục được bảo tồn và phát huy giá trị;

Bên cạnh đó, các ngành, địa phương tiếp tục tạo điều kiện để câu lạc bộ, nghệ

nhân dân gian được tham gia hoặc mở các lớp truyền dạy kỹ năng thực hành các

di sản văn hóa phi vật thể đã được ghi danh; xây dựng, ban hành cơ chế, chính

sách để hỗ trợ về vật chất, điều kiện hoạt động... nhằm góp phần động viên tinh

thần cho các nghệ nhân; tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hành, sáng tạo và

truyền dạy các giá trị di sản văn hóa trong danh mục di sản văn hóa phi vật

thể Quốc gia trong gia đình, nhà trường, câu lạc bộ và cộng đồng để bảo tồn,

70

trao truyền giá trị văn hóa.

TIỂU KẾT

Trong chương 3 nhóm tác giả đã chỉ ra những mặt thành công, hạn chế

của mô hình xã hội hóa bảo tồn giá trị di sản văn hóa qua nghiên cứu trường hợp

mô hình của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành, đồng thời rút ra

những bài học kinh nghiệm từ việc xây dựng và phát triển mô hình này. Đó là

kinh nghiệm về sự đam mê, nhiệt huyết của cá nhân người sáng lập mô hình, bài

học về việc giải quyết bài toán kinh tế, tạo nguồn thu phục vụ tái đầu tư cho hoạt

động bảo tồn, sự quan tâm vào cuộc của chính quyền và cơ quản quản lý, sự

hưởng ứng của cộng đồng xã hội.

Để mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống hoạt động có hiệu quả, nhóm

tác giả cũng đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp cơ bản: giải pháp tăng

cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa trong mọi tầng lớp

nhân dân; giải pháp tăng cường cơ chế chính sách, quan tâm hỗ trợ về chuyên

môn. Các giải pháp này cần phải được tiến hành đồng bộ. Có như vậy mô hình

xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa truyền thống mới thực sự hoạt động hiệu quả

71

và đem lại sự phát triển tích cực cho xã hội.

KẾT LUẬN

Trên cơ sở kế thừa lý luận của các công trình nghiên cứu, đề tài “Mô hình

bảo tồn văn hóa truyền thống ở xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

(Nghiên cứu trường hợp mô hình Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên

Rối nước Thuận Thành)” đã góp phần phân tích và làm rõ các khái niệm về văn

hóa truyền thống và mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống do tư nhân thực hiện.

Từ đó vận dụng vào giải quyết các vấn đề được đặt ra trong đề tài.Đó là những

nội dung được làm rõ ở chương 1.

Trong chương 2 của đề tài, nhóm tác giả đã khảo sátthực trạng và kết quả

hoạt động bảo tồn di sản văn hóa của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận

Thành với nòng cốt hoạt động là Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu. Đó là

hoạt động bảo tồn các di sản văn hóa vật chất, bảo tồn các giá trị văn hóa tinh

thần truyền thống. Nhóm tác giả cũng đã nêu ra phương thức bảo tồn di sản văn

hóa của Khu Bảo tồn: đó là bảo tồn thông qua việc tổ chức sự kiện, đầu tư xây

dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và tăng cường hoạt động tuyên truyền quảng

bá. Điều đặc biệt đáng lưu ý ở đây là việc bảo tồn sống động các giá trị văn hóa,

làm cho các giá trị văn hóa truyền thống trước kia của dân tộc được sống lại

trong ngày hôm nay thông qua các hoạt động trải nghiệm. Đó là cách làm độc

đáo của Khu Bảo tồn này.

Trong chương 3, ngoài việc làm rõ những mặt tích cực, hạn chế của mô

hình nhóm tác giả đã rút ra những bài học đồng thời rút ra những bài học kinh

nghiệm từ việc xây dựng và phát triển mô hình này. Đó là kinh nghiệm về sự

đam mê, nhiệt huyết của cá nhân người sáng lập mô hình, sự quan tâm vào cuộc

của chính quyền và cơ quản quản lý, sự hưởng ứng của cộng đồng xã hội, sự

năng động sáng tạo trong cách làm, tạo nguồn thu để trang trải cho các hoạt

động. Để mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống hoạt động có hiệu quả nhóm tác

giả cũng đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp cơ bản: giải pháp tăng cường

tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa trong mọi tầng lớp nhân dân;

tăng cường cơ chế chính sách, quan tâm hỗ trợ về chuyên môn cho các cá nhân

72

tham gia mô hình.

Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, trước sự tác động của

giao lưu văn hóa, của yếu tố hiện đại hóa đã khiến cho nền văn hóa của mỗi

quốc gia mỗi dân tộc đang đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức, trong đó có

nguy cơ mất bản sắc văn hóa dân tộc. Chính vì vậy mà vấn đề bảo tồn, phát huy

giá trị di sản văn hóa truyền thống dân tộc được đề cao hơn bao giờ hết. Ở Việt

Nam những năm gần đây, trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn

hóa truyền thống, bên cạnh các hoạt động của các đơn vị, tổ chức chuyên nghiệp

nhà nước đã xuất hiện nhiều câu lạc bộ, nhóm, hội và tổ chức tư nhân quan tâm,

nghiên cứu, thực nghiệm, trong đó Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu của

Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành ở thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái,

huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh thực hiện là một điển hình. Mô hình này vừa

đào tạo truyền nghề; Sản xuất, mua bán hàng thủ công mĩ nghệ; Dịch vụ dàn

dựng, thiết kế sân khấu; Cho thuê con rối,... không chỉ góp phần bảo tồn các giá

trị văn hóa dân tộc mà còn tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người dân, thúc

đẩy sự phát triển kinh tế của địa phương. Vìvậy,việc xây dựng mô hình xã hội

hóa bảo tồn văn hóa truyền thống cần phải được khuyến khích phát triển và nhân

rộng trong các tầng lớp nhân dân, góp phần vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam

tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5

73

khóa VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trương Quốc Bình (2008), “Xã hội hóa các hoạt động bảo tồn và phát

huy giá trị kho tàng di sản văn hóa ở Việt Nam”, Tạp chí Di sản (4), tr. 9 - 13.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. https://vi.wiktionary.org /wiki/mô_hình#Tiếng_Việt.

5. Phạm Mai Hùng (2013), “Bảo tồn di sản văn hóa trong bối cảnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Xưa và nay

(440), tr.19.

6. Hoàng Long - Quang Hùng (2012),Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức,

Hà Nội.

7. Nguyễn Quốc Hùng (2004), “Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn hóa

và hệ thống bảo vệ di tích ở nước ta”, Tạp chí di sản văn hóa (9), tr.19.

8. Nguyễn Thị Kim Loan (2012), Giáo trình Quản lý di sản văn hóa, Nxb

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

9. Nguyễn Thị Bích Liên (2018), “Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản

văn hóa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 29/6/2018.

10. Đặng Nam (2021), “Khôi phục, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền

thống” Website Nhân dân điện tử ngày 16 tháng 2 và 19 tháng 2 năm 2021.

11. Nhiều tác giả (2014), Di sản văn hóa Việt Nam trong xã hội đương đại,

Nxb Tri thức, Hà Nội,

12. Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà

Nẵng.

13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) Hiến

pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, Nxb Chính trị quốc gia,

74

Hà Nội.

14. Quyết định Số: 1466/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm 2008 của Thủ

tướng Chính phủ quy định “Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô,

tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề,

y tế, văn hoá, thể thao, môi trường”.

15. Quyết định số: 528/QĐ-UBND ngày 6 tháng 10 năm 2017 của UBND

tỉnh Bắc Ninh về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị Múa Rối

nước làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh”.

16. Hà Văn Tấn (2003), “Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong bối cảnh

công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí di sản văn hóa (2).

17. Lưu Trần Tiêu (20/12/2018), “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn

hóa vì sự phát triển bền vững”, Website Thông tin điện tử Hội đồng lý luận

Trung ương.

18. Ngô Đức Thịnh, Franhk Proschan (Chủ biên) (2005), Folklore một số

75

thuật ngữ đương đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

PHỤ LỤC

1. PHỎNG VẤN

(Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHH MTV Rối nước

Thuận Thành)

Câu hỏi 1: Thưa ông, từ lý do nào đã khiến ông quyết định gắn bó với

nghề Rối nước? Và thành lập Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành

cũng như Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu?

Trả lời: Xuất phát từ tình yêu, lòng đam mê với nghề truyền thống mà

ông cha đã để lại, cho nên tôi đã quyết định gắn bó với nghề Rối.

Sau khi tự mình tìm hiểu, đúc rút các kinh nghiệm từ thế hệ đi trước, tôi

đã quyết định thành lập Công ty và xây dựng Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy

Lâu tại làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh- Khu

Bảo Tồn là nơi lưu giữ, quảng bá, bảo tồn, giới thiệu các giá trị văn hóa truyền

thống của địa phương Đồng Ngư cũng như các nét đẹp văn hóa truyền thống của

làng quê đồng bằng Bắc Bộ tới các du khách trong nước và quốc tế.

Câu hỏi 2:Thưa ông,để có thể gắn bó với nghề Rối nước thì cần những

đức tính gì?

Trả lời: Để có thể gắn bó với nghề Rối nước thì đòi hỏi người nghệ nhân

phải hội tụ rất nhiều các yếu tố. Đó là, tình yêu nghề, đam mê với công việc.

Tiếp đến là sức khỏe, sự chịu đựng dẻo dai với điều kiện, môi trường của nghề

Rối nước; tính kiên trì, bền bỉ và đức tính cần cù, nhẫn nại học hỏi kinh nghiệm

và tự hoàn thiện bản thân mình.

Câu hỏi 3: Ông có thể cho biết: Sự khác biệt giữa múa Rối nước làng

Đồng Ngư, Luy Lâu với các phường Rối nước khác trong cả nước?

Trả lời: Khác biệt lớn nhất của Rối nước Đồng Ngư và Luy Lâu so với

các phường Rối khác trong cả nước đó là lấy câu Quan họ để lồng ghép vào

tiếng hát cho con Rối. Đặc biệt làm nên “thương hiệu” Rối nước Đồng Ngư còn

là ở công cụ biểu diễn. Ở nhiều nơi, trò Rối dây bị mai một thất truyền rất nhiều,

76

nhưng phường Rối Đồng Ngư và Luy Lâu vẫn giữ được kỹ thuật cổ này.

Câu hỏi 4: Xin ông cho biết: “Đặc trưng cơ bản của nhà chứa Quan họ

trong khuôn viên của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu?”

Trả lời: Theo các nhà nghiên cứu, Quan họ có hoạt động văn hóa nghi lễ

tín ngưỡng tương đối hoàn chỉnh, bao gồm cơ sở vật chất và phương thức hoạt

động. Ngoài cơ sở vật chất và địa điểm sẵn có của làng để sinh hoạt văn hóa

quan họ như đình, đền, chùa, sân đình, sân chùa hoặc đồi, đê, ao, hồ… còn có

một cơ sở vật chất quan trọng hơn cả, của riêng từng bọn quan họ đó là “nhà

chứa”.

Nhưng nhà chứa xưa là vậy nay sinh hoạt chủ yếu ở nhà văn hóa xã

phường. Vậy tốt nhất “nhà chứa” do các cá nhân làm theo phương thức xã hội

hóa. Nhà nước nâng cấp các nhà văn hóa cho hiện đại hơn, văn minh hơn để

phục vụ nhu cầu văn hóa Quan họ cho từng địa phương. Nơi chơi quan họ - “nhà

chứa” đơn giản chỉ là “ngôi nhà” để“chứa” bọn quan họ. Đây là nơi hội họp,

giao lưu, luyện tập, nơi “ngủ bọn” của bọn quan họ và thế hệ kế tiếp học nghề

chơi. Nhà chứa còn là địa điểm đón tiếp và mời cơm quan họ bạn, là nơi tổ chức

canh giữa bọn quan họ và bọn Quan họ kết chạ với nhau trong những dịp lễ, hội

của làng. Xưa kia, mỗi “Bọn Quan họ” đều có nhà chứa riêng theo nghĩa bóng là

nơi quy ước, bởi vì đa số đều là dân nghèo nhà tranh vách đất. Nhà chứa Quan

họ là ngôi nhà rộng rãi, thoáng mát, khang trang để đáp ứng những yêu cầu sinh

hoạt văn hoá Quan họ thì chính là nhà quan làng. Họ thường là những liền anh,

liền chị cao tuổi, có uy tín nhất trong “bọn quan họ”.

Câu hỏi 5: Vâng, thưa ông: Ngoài việc phục vụ du khách tham quan, sưu

tầm hiện vật tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, chúng tôi còn thấy ông

có sưu tầm thêm các giống gà quý, ông có thể chia sẻ thêm điều này?

Trả lời: Để phục vụ cho sự trải nghiệm của du khách, Khu bảo tồn còn

tiến hành sưu tầm các giống gia cầm quý như: Gà Đông Tảo, gà Hồ, gà ác, gà tre,

gà ri, chim bồ câu, chim trĩ, vịt trời... Những loại gia cầm này đều được cho ăn

thức ăn sạch, không dùng thức ăn công nghiệp. Nếu có nhu cầu, du khách đến

77

tham quan khu bảo tồn có thể trực tiếp chế biến các nông sản sạch do tự tay

mình thu hoạch để thưởng thức cùng người thân mà hoàn toàn yên tâm về chất

lượng. Trong năm 2020, Khu Bảo tồn đã đón được tất cả hơn 30 đoàn khách về

tham quan, tìm hiểu và trải nghiệm các hoạt động văn hóa, thưởng thức ẩm thực

tại Khu bảo tồn.

78

Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!

2. PHỤ LỤC ẢNH

Ảnh 1: Ông Nguyễn Thanh Lai (Sinh năm 1971)

Giám đốc công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 2: Biển chỉ dẫn Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

Địa chỉ: Làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

79

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 3: Quy hoạch chi tiết xây dựng, hạng mục:

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 4: Banner tại khuôn viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

80

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 5: Bộ bàn ghế được làm từ cối đá trong khuôn viên

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 6: Nhà chứa Quan họ tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

81

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 7: Quang cảnh bên trong nhà chứa Quan họ tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 8: Tủ đựng quần áo, vật dụng của liền anh, liền chị Quan họ

tại nhà chứa Quan Họ

82

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 9: Một số nhạc cụ cổ truyền và dụng cụ sinh hoạt xưa - hiện vật sưu tầm

tạiKhu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 10: Bộ sưu tập các đồ dùng thường ngày đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ

tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

83

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 11: Sưu tập đồ hút điếu cày được làm từ tre tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 12: Cối giã gạo tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

84

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 13: Cối xay ngô tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 14: Cối đá xay gạo để làm các loại bánh cổ truyền tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

85

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 15: Một số hình tượng quân rối được trưng bày tại không gian ngoài trời

của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 16: Các quân rối được sử dụng biểu diễn tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

86

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 17: Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHH MTV Rối Nước

Thuận Thành kiểm tra quân rối sau các chương trình biểu diễn

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 18: Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHHMTV Rối Nước

Thuận Thành tạo hình quân Rối tại phòng tạo hình rối nước của Khu Bảo tồn

87

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 19: Sáng tạo quân rối về chủ đề thầy trò Đường Tăng của ông

Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 20: Một số máy móc phục vụ quá trình tạo hình quân rối tại

phòng tạo hình rối của Công ty TNHH MTV Rối Nước Thuận Thành

88

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 21: Các quân rối phục vụ các buổi biểu diễn tại phòng tạo hình Rối

của Công ty TNHH MTV Rối Nước Thuận Thành

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 22: Các sản phẩm quân rối được tạo hình bán lưu niệm cho du khách

tới tham quan tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

89

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 23: Bảng giá một số loại bánh cổ truyền, đồ uống và quân rối

tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 24: Bộ sưu tập 12 chiêng của người Mường tại tỉnh Hòa Bình được

trưng bày tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

90

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 25: Ván khắc tranh dân gian Đông Hồ tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 26: Một số ván khắc tranh dân gian Đông Hồ tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

91

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 27: Tranh dân gian Đông Hồ “Vinh hoa”,“Phú Quý” tại Khu Bảo tồn văn

hóa dân gian Luy Lâu.

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 28: Tranh dân gian Đông Hồ “Chăn trâu”, “Hứng dừa” tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.

92

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 29: Khai giảng Lớp Tập huấn dạy truyền nghề múa rối nước năm 2020 tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 30: Ông Nguyễn Thành Lai giới thiệu một số kỹ năng điều khiển quân

rối tại sân khấu lưu động trong Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu với

khách tham quan.

93

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 31: Đường lát gạch nghiêng mô phỏng con đường làng ở Đồng bằng Bắc

Bộ xưa tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 32:Khuôn viên tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu -

nơi tổ chức các hoạt động sự kiện và các trò chơi dân gian truyền thống

cho du khách du lịch trong nước và quốc tế tới tham quan

94

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 33: Cây đu truyền thống trong Khuôn viên tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 34: Hệ thống ánh sáng và các quân rối phục vụ buổi biểu diễn tại

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

95

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 35: Các quân rối được trưng bày tại không gian ngoài trời của

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 36: Ông Nguyễn Thành Lai hướng dẫn các em học sinh trải nghiệm làm

tranh dân gian Đông Hồ tại Khu Bảo tồn Văn hóa dân gian Luy Lâu

96

(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)

Ảnh 37: Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHHMTV Rối Nước

Thuận Thành trao giấy chứng nhận đào tạo cho học sinh tham gia khóa học biểu

diễn rối nước tại khu Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)

Ảnh 38: Các em thiếu nhi trải nghiệm trò chơi dân gian “Bắt trạch trong chum”

tại khuôn viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

97

(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)

Ảnh 39: Hoạt động trải nghiệm làm bánh gai cổ truyền của học sinh tại khuôn

viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

98

(Nguồn: FacebookKhu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)

Ảnh 40: Hoạt động trải nghiệm trò chơi “Nhảy bao bố” của thiếu nhi tại khuôn

viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)

Ảnh 41: Các em thiếu nhi tham gia điều khiển quân rối kết thúc

khóa đào tạo Rối nước tại thủy đình trong khuôn viên

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

99

(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)

Ảnh 42:Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHHMTV

Rối nước Thuận Thành chụp ảnh lưu niệm với các liền anh, liền chị Quan họ

trước nhà chứa Quan họ tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

(Nguồn: Facebook)

Ảnh 43: Học sinh tập thổi sáo tại nhà chứa Quan họ

trong khuôn viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

100

(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)

Ảnh 44: Giao lưu Quan họ tại nhà chứa Quan họ trong khuôn viên

Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

101

(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)

Ảnh 45:Tài liệu tập huấn múa rối nước làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện

Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh do ông Nguyễn Thành Lai biên soạn

102

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 46: Tài liệu tập huấn múa rối nước do ông Nguyễn Thành Lai biên soạn

103

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 47: Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh tặng

Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành năm 2019

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 48: Bằng khen của Bộ trưởng Bộ VH - TT&DL tặng ông

Nguyễn Thành Lai năm 2008

104

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 49: Giấy khen của Trưởng Ban tổ chức Festival Bắc Ninh năm 2014 tặng

ông Nguyễn Thành Lai

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 50: Bằng khen của Bộ trưởng Bộ VH - TT&DL

tặng phường Rối nước Luy Lâu năm 2008

105

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 51:Giấy khen của Giám đốc Sở VH - TT&DL Bắc Ninh

tặng Phường Rối nước Luy Lâu năm 2012

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 52:Giấy khen của Giám đốc Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam

tặng Phường Rối nước Luy Lâu năm 2013

106

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 53: Trang Facebook- Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu

107

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Ảnh 54: Áp phích “Vui tết Trung Thu 2020” tại Khu Bảo tồn văn hóa

dân gian Luy Lâu

108

(Nguồn: Nhóm tác giả)