TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI ----------
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
MÔ HÌNH BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Ở XÃ NGŨ THÁI, HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP MÔ HÌNH CÔNG TY TRÁCH NHIỆM
HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH)
Mã số: ĐTSV.06.2021
Chủ nhiệm đề tài : Đỗ Tuấn Anh
Thành viên tham gia : Nguyễn Thị Hồng Ánh
Lớp : 1705QLVB
1805QLVB
Cán bộ hướng dẫn : ThS. Nghiêm Xuân Mừng
Hà Nội – tháng 06/2021
LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đề tài: “Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống ở
xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Nghiên cứu trường hợp mô
hình Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận Thành) là
công trình nghiên cứu của chúng tôi tự viết, không sao chép của bất cứ ai. Các số
liệu và tư liệu trong bài nghiên cứu là trung thực và chính xác.
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, nhóm tác giả xin
chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Quản lý xã hội và thầy Nghiêm Xuân
Mừng - Giảng viên hướng dẫn, đã quan tâm, chỉ bảo và tận tình hướng dẫn
nhóm tác giả hoàn thành đề tài.
Nhóm tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các ông bà lãnh đạo Đảng ủy,
HĐND, UBND xã Ngũ Thái, các đồng chí cán bộ, trưởng thôn, các nghệ nhân
và bà con nhân dân thôn Đồng Ngư, đặc biệt là ông Nguyễn Thành Lai - Giám
đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Rối nước Thuận Thành, đã
nhiệt tình tạo điều kiện, cung cấp tư liệu để nhóm tác giả hoàn thành đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, chắc chắn đề tài không tránh khỏi những sai
sót, nhóm tác giảrất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giảng
viên và các bạn để đề tài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, ngày 05 tháng 06 năm 2021
Thay mặt nhóm tác giả
Đỗ Tuấn Anh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ STT Chữ viết tắt
Câu lạc bộ CLB 1
CNH - HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa 2
Di sản văn hóa DSVH 3
Trung học cơ sở THCS 4
Trung học phổ thông THPT 5
TNHH MTV Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên 6
PGS.TS Phó Giáo Sư. Tiến Sĩ 7
UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc 8
VH - TT&DL Văn hóa - Thể thao và Du lịch 9
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu..................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................7
4.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................. 7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................7
6. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 8
7. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 8
8. Cấu trúc của đề tài.........................................................................................8
Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓAVÀ KHÁI
QUÁT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN
RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH.......................................................................... 10
1.1. Các khái niệm cơ bản............................................................................... 10
1.1.1. Mô hình................................................................................................10
1.1.2. Bảo tồn................................................................................................. 10
1.1.3. Văn hóa truyền thống..........................................................................11
1.1.4. Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống................................................. 11
1.2. Tiền đề và cơ sở pháp lý của việc xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa
truyền thống..................................................................................................... 12
1.2.1.Tiền đề của việc xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa.........................12
1.2.2. Cơ sở pháp lý về xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống.16
1.2.2.1. Chủ trương của Đảng.................................................................... 16
1.2.2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước............................................ 18
1.3. Tiêu chí đánh giá mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống................... 20
1.3.1. Tiêu chí đánh giá cơ sở trình diễn/ diễn xướng dân gian................ 20
1.3.2. Tiêu chí đánh giá cơ sở nghiên cứu và đào tạo về bảo tồn di sản văn
hóa.................................................................................................................. 21
1.4. Khái quát về Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước
Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.........................22
1.4.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận
Thành............................................................................................................. 22
1.4.2. Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu........................................... 25
TIỂU KẾT........................................................................................................... 26
Chương 2THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH
VIÊN RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH TẠI KHU BẢO TỒN VĂN HÓA
DÂN GIAN LUY LÂU....................................................................................... 26
2.1. Hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa vật chất.....................................27
2.1.1. Sưu tầm các hiện vật........................................................................... 27
2.1.2. Trưng bày hiện vật và tổ chức trải nghiệm....................................... 28
2.2. Hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa tinh thần...................................30
2.2.1. Bảo tồn nghệ thuật rối nước truyền thống........................................ 30
2.2.1.1. Sưu tầm và cải tiến con rối............................................................ 31
2.2.1.2. Đào tạo diễn viên........................................................................... 35
2.2.1.3.Tổ chức biểu diễn............................................................................ 38
2.2.2. Bảo tồn các trò chơi dân gian.............................................................41
2.2.3. Bảo tồn các loại hình dân ca cổ truyền............................................. 44
2.3. Hoạt động bảo tồn thông qua tổ chức sự kiện và đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất......................................................................................................... 48
2.3.1. Tổ chức sự kiện................................................................................... 48
2.3.2. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất.......................................................... 49
2.3.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền quảng bá................................. 51
TIỂU KẾT........................................................................................................... 52
Chương 3 BÀN LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU
TRƯỜNG HỢP MÔ HÌNH BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN RỐI
NƯỚC THUẬN THÀNH................................................................................... 53
3.1. Đánh giá những thành công và hạn chế của mô hình.......................... 53
3.1.1. Những thành công.............................................................................. 53
3.1.2. Những hạn chế.................................................................................... 55
3.2. Những bài học rút ra từ việc nghiên cứu mô hình bảo tồn văn hóa
truyền thống của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước
Thuận Thành....................................................................................................57
3.2.1. Sự đam mê nhiệt huyết và năng động sáng tạo của người sáng lập
mô hình.......................................................................................................... 57
3.2.2. Khai thác tiềm năng và thế mạnh di sản văn hóa của địa phương. 58
3.2.3. Sự quan tâm của chính quyền và cơ quan quản lý...........................60
3.2.4. Sự hưởng ứng của cộng đồng xã hội.................................................61
3.2.5. Bài học về giải quyết bài toán kinh tế, tạo nguồn thu phục vụ hoạt
động bảo tồn...................................................................................................63
3.3. Một số giải pháp phát huy mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống....64
3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa
trong mọi tầng lớp nhân dân........................................................................ 64
3.3.2.Tăng cường cơ chế chính sách............................................................65
3.3.3. Quan tâm hỗ trợ về cơ sở vật chất và chuyên môn cho mô hình..... 68
TIỂU KẾT........................................................................................................... 71
KẾT LUẬN..........................................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................73
PHỤ LỤC.............................................................................................................75
1. PHỎNG VẤN............................................................................................... 76
2. PHỤ LỤC ẢNH........................................................................................... 78
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa truyền thống là những di sản mà ông cha ta đã sáng tạo từ ngàn
đời xưavà trao truyền cho đến ngày hôm nay, góp phần tạo nên diện mạo, cốt
cách tâm hồn con người và bản sắc của nền văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy bảo
tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống không chỉ là trách nhiệm
của các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn là sự nghiệp của quần chúng nhân dân
và toàn thể cộng đồng.
Những năm gần đây ở Việt Nam, trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa truyền thống, bên cạnh hoạt động của các đơn vị, tổ chức
chuyên nghiệp nhà nước đã xuất hiện nhiều mô hình câu lạc bộ, nhóm, hội và cá
nhân quan tâm tìm hiểu, đầu tư nghiên cứu, bảo tồn các di sản văn hóa cổ truyền
của dân tộc với hoạt động khá đa dạng và phong phú như: tổ chức diễn đàn trao
đổi kiến thức, tọa đàm khoa học, phục dựng một số giá trị truyền thống, thực
hiện công trình nghiên cứu chuyên sâu... Những hoạt động này đã tạo ra hiệu
quả cao trong việc lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc,
đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu thấu đáo
để có thể đưa ra những giải pháp khoa học nhằm mục đích khơi dòng, thúc đẩy
sự phát triển của nền văn hóa, đồng thời góp phần định hướng, điều chỉnh các
hoạt động bảo tồn đó đi đúng hướng.
Từ nhiều năm nay, tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh đã xuất hiện một mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống do tư
nhân thực hiện rất tích cực hiệu quả, tạo nên tiếng vang không chỉ trong trong
huyện trong tỉnh mà còn nổi tiếng với nhiều tỉnh thành lân cận. Xuất phát từ
niềm đam mê cá nhân, từ nhu cầu thực tế của cuộc sống, chủ nhân của mô hình -
ông Nguyễn Thành Lai, Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên
(TNHH MTV) Rối nước Thuận Thành, đã dày công xây dựng nên Khu bảo tồn
văn hóa dân gian Luy Lâu trên khuôn viên của gia đình và đất thuê được của địa
1
phương, hoạt động bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa dân gian rất đa dạng,
hiệu quả trên cả hai lĩnh vực: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, được chính
quyền, các cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa và nhân dân địa phương đồng
tình ủng hộ, ghi nhận.
Là sinh viên ngành Quản lý văn hóa, qua nắm bắt thông tin về mô hình
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu do ông Nguyễn Thành Lai xây dựng,
nhận thấy mô hình này không chỉ góp phần tích cực trong việc giữ lại các giá trị
văn hóa cổ truyền của dân tộc mà còn phát huy được vai trò của các giá trị ấy
trong bối cảnh hiện đại hóa hiện nay.Từ cách làm hiệu quả của mô hình này, có
thể tìm hiểu, nghiên cứu và nhân rộng ra xã hội, góp phần xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như Nghị quyết của Ban
chấp hành Trung ương 5 khóa VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra.Chính vì
vậy nhóm tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Mô hình bảo tồn văn hóa truyền
thống ở xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Nghiên cứu trường
hợp mô hình Công ty Trách nhiêm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận
Thành) làm công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội năm 2021.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là đề tài được các nhà nghiên
cứu quan tâm từ rất sớm với nhiều công trình, bài viết, bài nghiên cứu…chỉ ra
những cơ sở khoa học cho việc giữ gìn di sản văn hóa dân tộc và làm cho nó có
tác dụng đối với xã hội hiện nay.
Cuốn Quản lý di sản văn hóa của tác giả Nguyễn Thị Kim Loan (2012) [8]
là giáo trình đề cập một cách toàn diện và hệ thống các vấn đề liên quan đến di
sản văn hóa dân tộc như: hệ thống di sản văn hóa Việt Nam; Vai trò của di sản
văn hóa trong đời sống xã hội đương đại; Nội dung chính của quản lý Nhà nước
về di sản văn hóa dân tộc; Các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của người làm công tác
quản lý di sản.
Cuốn sách Di sản văn hóa Việt Nam trong xã hội đương đại (2014) [11] là
2
tập hợp những bài nghiên cứu về đa dạng các loại hình di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể của người Việt và các tộc người thiểu số trên cả ba miền Bắc, Trung,
Nam. Công trình là sự hợp tác có hiệu quả của nhiều nhà nghiên cứu để có thể
khảo sát được nhiều di sản văn hóa trên nhiều địa bàn khác nhau của cả nước
đồng thời nhìn ra các vấn đề có tính chất chung và bao quát cho các di sản văn
hóa của Việt Nam hiện nay.
Bài viết“Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn hóa và hệ thống bảo vệ di
tích ở nước ta”của tác giả Nguyễn Quốc Hùng đăng trên Tạp chí di sản văn hóa
số 9 (2004) trình bày về sự phong phú và đa dạng của tài sản văn hóa Việt Nam,
những nguy cơ hiện hữu, đẩy di sản văn hóa và thiên nhiên của nước ta đứng
trước những cơ hội và thử thách lớn lao và các khuynh hướng phát triển của môi
trường di sản trong tương lai.Từ kinh nghiệm thực tế trong công tác quản lý di
sản văn hóa ở nước ta, tác giả chỉ rõ: “Về mặt tình trạng bảo tồn, di sản văn hóa
vật thể không chỉ chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố tự nhiên và xã hội từ
bên ngoài, mà bản thân nó ngay sau khi ra đời/tu bổ đã bắt đầu một quá trình
xuống cấp. Di sản văn hóa phi vật thể còn mong manh hơn vì bản chất của nó là
luôn luôn thay đổi và phát triển. Do vậy, chúng ta phải có những cơ chế thích
hợp cho việc bảo dưỡng thườngxuyên, định kỳ các di sản vật thể và việc ghi
chép lưu trữ di sản văn hóa phi vật thể cũng phải được làm thường xuyên, định
kỳ” [7, tr.10].
Bài “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vì sự phát triển bền
vững” của tác giả LưuTrần Tiêu trên trang Thông tin điện tử của Hội đồng lý
luận Trung ương (20/12/2018) đề cập đến những thành tựu nổi bật trong bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa ở nước ta; Nhận thức về giá trị di sản văn hóa
trong phát triển bền vững và đề xuất phương hướng giải quyết hài hòa mối quan
hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Tác giả cho rằng
“Hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội
không phải là hai mặt đối lập mà là một thể thống nhất, đều hướng tới mục tiêu
chung là vì sự phát triển bền vững”. Ở nước ta, sự “xung đột” giữa bảo tồn và
3
phát triển như nêu trên không phải hiếm gặp ở nơi này, nơi kia. Di tích lịch sử -
văn hoá là một loại tài nguyên không thể tái sinh, không thể thay thế, nên về mặt
nguyên tắc, không được huỷ hoại, không được làm ảnh hưởng đến giá trị, tính
xác thực, yếu tố gốc cấu thành di tích, tính toàn vẹn của di sản; cần thực hiện
nghiêm túc quy định của Luật Di sản văn hoá về các khu vực bảo vệ của di tích.
Đối với di tích còn nằm trong lòng đất (di tích khảo cổ học) được phát hiện khi
xây dựng các công trình kinh tế - xã hội thì phải báo cho cơ quan quản lý di sản
để phối hợp tìm các giải pháp giải quyết hài hòa giữa bảo tồn và phát triển”. Tác
giả cũng đã đề ra 6 biện pháp mang tính cấp bách nhằm tăng cường việc thống
nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di tích: 1.Thể chế hóa bằng pháp
luật các chính sách, cơ chế của nhà nước; 2.Quy hoạch toàn bộ các di tích được
công nhận; 3.Phân cấp quản lý; 4.Xã hội hóa hoạt động bảo tồn; 5.Ưu tiên đầu
tư ngân sách; 6.Nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực quản lý của đội ngũ
cán bộ [18].
Giáo sư Hà Văn Tấn trong bài viết “Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong
bối cảnh công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước” trên Tạp chí di sản số 2 (2003)
đã chỉ rõ: Các di tích lịch sử - văn hóa đang trong tình trạng SOS khẩn cấp...
Nếu chúng ta không có những chính sách bảo tồn thì ngay cả các di tích quý giá
ấy cũng sẽ bị mất đi. Tác giả phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng di
tích bị hủy hoại trong đó có mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển, quá trình đô thị
hóa dồn dập với yêu cầu bảo vệ nguyên trạng di tích. Điều này do chúng ta bị
động trước quá trình đô thị hóa, không nắm được các quy hoạch đô thị [16].
Tác giả Phạm Mai Hùng trong bài “Bảo tồn di sản văn hóa trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Xưa và
nay (2013) đưa ra những văn bản pháp quy của Nhà nước, di sản văn hóa phi vật
thể, xếp hạng di tích và đầu tư bảo tồn di tích, phát huy vai trò bảo tàng, hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa và một số nội dung khác.
Đề cập đến vấn đề tồn tại trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản,
tác giả cho rằng ở nước ta, sự phá hoại di tích của thiên nhiên còn thua xa sự phá
4
hoại của con người. Và chúng ta đang phải đối mặt với những mâu thuẫn: “Mâu
thuẫn giữa nhu cầu phát triển, quá trình đô thị hóa dồn dập với yêu cầu bảo vệ
nguyên trạng di tích lịch sử văn hóa/ Mâu thuẫn giữa nhu cầu thực tiễn của
ngành bảo tồn bảo tàng với khả năng đầu tư ngân sách hạn hẹp của Nhà nước/
Mâu thuẫn giữa nhu cầu khoa học ngày càng cao của công tác bảo tồn di tích với
khả năng của cán bộ bảo tồn bảo tàng còn hạn chế” [5, tr.19].
Ngoài các công trình nghiên cứu, bài viết về bảo tồn di sản văn hóa nói
chung là các bài viết đề cập đến hoạt động xã hội hóa bảo tồn giá trị di sản văn
hóa truyền thống trên các báo, tạp chí.
Bài “Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa ở nước ta hiện nay”
của Nguyễn Thị Bích Liên trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 29/6/2018 đề cập
đến ý nghĩa, vai trò của xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa, những kết quả đạt
được trong công tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa ở nước ta
những năm gần đây, những hạn chế cần khắc phục và một số giải pháp chủ yếu
để tăng cường hiệu quả xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa. Bài báo chỉ
rõ: “Để bảo tồn di sản văn hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cần giải
quyết đồng bộ, kịp thời, chất lượng, hiệu quả nhiều nhiệm vụ và giải pháp trước
mắt cũng như lâu dài; đặc biệt là cần có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ
giữa các bộ, ngành, các cấp chính quyền, các tổ chức, đoàn thể để huy động sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, đưa sự
nghiệp này thiết thực góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, di sản văn hóa phải luôn gắn với con
người và cộng đồng cư dân địa phương nơi nó được sáng tạo ra và hiện đang
được thực hành, truyền dạy. Mục tiêu bảo tồn di sản văn hóa luôn phải hướng
vào việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa lành mạnh của công chúng trong xã
hội. Dù có sự quản lý của Nhà nước nhưng việc tham gia của cộng đồng vào quá
trình bảo tồn vẫn là điều kiện tiên quyết để các di sản văn hóa còn tồn tại cho
đến ngày nay” [9].
Cũng đề cập đến hoạt động xã hội hóa công tác bảo tồn phát huy giá trị di
5
sản văn hóa truyền thống, bài “Khôi phục, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền
thống” của tác giả Đặng Nam trên Website Nhân dân điện tử ngày 16 tháng 2 và
19 tháng 2 năm 2021 nêu rõ: “Mặc dù đã có những đóng góp thiết thực góp phần
khôi phục giá trị văn hóa truyền thống, nhất là sức lan tỏa trong cộng đồng, song
phần lớn hoạt động của các hội, nhóm đều tự phát, bắt nguồn từ đam mê, tình
yêu của người tham gia. Bởi thế, các hoạt động này gặp không ít khó khăn; hạn
chế trong nghiên cứu, thẩm định chuyên môn một cách bài bản, khoa học và
chuyên nghiệp, có thể dẫn tới nguy cơ sai lạc trong phổ cập kiến thức. Mặt khác,
do tổ chức, hoạt động mang tính tự phát cho nên dễ nảy sinh hiện tượng tiêu cực
trong nghiên cứu, tranh luận. Vì thế, trào lưu khôi phục văn hóa truyền thống rất
cần sự hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn” [10].
Nhìn chung các công trình và bài viết đều đề cập đến những vấn đề có
tính lý luận và khái quát về hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và
vấn đề xã hội hóa văn hóa ở Việt Nam. Đây là những tư liệu quan trọng để
nhóm tác giả kế thừa, vận dụng vào thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Và có
thể khẳng định cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu tổng thể, chuyên
sâu nào về mô hình xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa dưới góc độ
quản lý văn hóa. Vì vậy đề tài “Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống ở xã Ngũ
Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Nghiên cứu trường hợp mô hình Công
ty TNHHMTV Rối nước Thuận Thành)”của nhóm tác giả được thực hiện, hi vọng
sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và khảo sát mô hình bảo tồn di sản văn hóa (qua trường hợp
mô hình công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành) nhằm tìm hiểu hoạt động
của mô hình xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa do
tư nhân thực hiện, nhìn nhận những thành công, hạn chế của mô hình, những bài
học kinh nghiệm rút ra từ việc xây dựng mô hình, đồng thời đưa ra một số
khuyến nghị để xây dựng, phát triển và khuyến khích nhân rộng mô hình này
trong xã hội, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa Việt Nam
6
trong bối cảnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động bảo tồn văn hóa truyền
thống của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành tại Khu Bảo tồn văn
hóa dân gian Luy Lâu với tư cách là mô hình xã hội hóa bảo tồn văn hóa do tư
nhân thực hiện, bao gồm các lĩnh vực và các hình thức, cách thức bảo tồn, phát
huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa truyền thống của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận
Thành tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Từ năm 2009 đến nay (2021), thời điểm
Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành ra đời và đi vào hoạt động.
- Phạm vi thời gian khảo sát: Từ năm 2020 đến năm 2021, nhóm tác giả
đã tiến hành điền dã, khảo sát trực tiếp mô hình Khu Bảo tồn văn hóa dân gian
Luy Lâu (tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) do
Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành xây dựng, để thu thập dữ liệu, phục
vụ cho việc hoàn thành đề tài.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu văn bản viết về hoạt động xã hội hóa bảo tồn phát
huy giá trị di sản văn hóa, các bài viết về mô hình hoạt động của Công ty TNHH
MTV Rối nước Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.
- Tìm hiểu thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của
Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian
Luy Lâu.
- Thông qua hoạt động của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành
tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, chỉ ra những cơ sở khoa học của mô
7
hình bảo tồn di sản văn hóa truyền thống do tư nhân thực hiện. Từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của mô hình và việc nhân
rộng mô hình, góp phần bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã: Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế tại
Công ty THHH MTV Rối nước Thuận Thành. Địa chỉ: Thôn Đồng Ngư, xã Ngũ
Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
- Phương pháp phỏng vấn: Nhóm tác giả đã phỏng vấn cán bộ, nhân viên,
nghệ nhân của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành, cán bộ,nghệ nhân
và người dân thôn Đồng Ngư (xã Ngũ Thái) để làm rõ các hoạt động bảo tồn
văn hóa truyền thống của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nhóm tác giả đã tiến hành tổng hợp
các tài liệu viết về các hoạt động bảo tồn văn hóa truyền thống nói chung và bảo
tồn văn hóa truyền thống của tư nhân thực hiện nói riêng.
- Phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích,… để làm rõ thực trạng hoạt
động của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, từ đó đưa ra các khuyến nghị
từ hoạt động bảo tồn văn hóa truyền thống do tư nhân thực hiện.
7. Đóng góp của đề tài
-Đóng góp về mặt lý luận: Đề tài được thực hiện góp phần làm rõ quan
điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về việc khuyến khích
hoạt động xã hội hóa công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; cơ sở
khoa học của xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa.
-Đóng góp về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần đề ra các giải pháp nhằm đẩy
mạnh hoạt động của Công ty THHH MTV Rối nước Thuận Thành, đồng thời
thông qua đó đề xuất kiến nghị nhằm phát triển, nhân rộng mô hình xã hội hóa
bảo tồn giá trị di sản văn hóa tại các địa phương.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề
8
tài bao gồm 3 chương:
Chương 1. Các vấn đề bảo tồn di sản văn hóa, mô hình xã hội hóa bảo tồn
di sản văn hóa và khái quát về Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối
nước Thuận Thành
Chương 2.Thực trạng hoạt động bảo tồn di sản văn hóa của Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận Thành tại Khu Bảo tồn
văn hóa dân gian Luy Lâu
Chương 3. Bàn luận và khuyến nghị từ việc nghiên cứu trường hợp mô
hình bảo tồn văn hóa truyền thống của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành
9
viên Rối nước Thuận Thành
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
MỘT THÀNH VIÊN RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Mô hình
Theo Từ điển mở Wiktionary, danh từ mô hình có hai nghĩa:
“1. Vật cùng hình dạng nhưng làm thu nhỏ lại nhiều, mô phỏng cấu tạo và
hoạt động của một vật khác để trình bày, nghiên cứu. Ví dụ: mô hình máy bay,
triển lãm mô hình nhà ở kiểu mới...
2. Hình thức diễn đạt hết sức gọn theo một ngôn ngữ nào đó các đặc trưng chủ
yếu của một đối tượng, để nghiên cứu đối tượng ấy. Ví dụ: Mô hình câu đơn”. [4]
Còn theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Long - Quang Hùng biên soạn,
Nxb Hồng Đức, Hà Nội (2012): “Mô hình (danh từ) là kiểu mẫu làm thử để coi
đó mà làm ra cái khác to hơn” [6, tr.559].
Dù các khái niệm có khác nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm: Mô
hình là danh từ để chỉ một kiểu mẫu để theo đó mà làm ra cái khác (có thể làm
to hơn hoặc thu nhỏ lại).
1.1.2. Bảo tồn
Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (2003), “Bảo tồn là giữ lại không
để mất đi” [12, tr.39].
TheoTừ điển Tiếng Việt của Hoàng Long - Quang Hùng (2012), “Bảo tồn
(động từ): Giữ cho còn; Bảo tồn danh giá, bảo tồn cổ vật” [6, tr.44].
Như vậy cả hai cuốn từ điển đều thống nhất giải thích bảo tồn có nghĩa là
giữ lại, giữ cho còn, không để mất đi. Đối với văn hóa có hai đối tượng để bảo tồn:
giá trị văn hóa vật thể và giá trị phi vật thể. Bảo tồn giá trị di sản văn hóa tức là các
hành động nhằm bảo vệ, gìn giữ, bảo lưu lại sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng, gìn
giữ chúng để tồn tại cùng với thời gian. Bảo tồn các sự vật, hiện tượng là lưu giữ,
10
không làm cho chúng bị mai một, bị thay đổi và biến dạng.
1.1.3. Văn hóa truyền thống
Theo định nghĩa của UNESCO, văn hóa truyền thống (Traditional culture)
“Là các tập quán và biểu tượng xã hội mà theo quan niệm của một nhóm xã hội
thì được lưu giữ từ quá khứ đến hiện tại thông qua việc lưu truyền giữa các thế
hệ và có một tầm quan trong đặc biệt (ngay cả trong trường hợp các tập quán và
biểu tượng được hình thành trong khoảng thời gian không lâu) [18, tr.5]. Theo
cách định nghĩa này thì khái niệm văn hóa truyền thống được hiểu là những giá
trị văn hóa được truyền từ đời nọ sang đời kia, mang tính ổn định. Nói đến “Văn
hóa truyền thống” là nói đến những yếu tố văn hóa được hình thành trong quá
khứ, được trao truyền, kế thừa từ đời nọ sang đời kia mang tính ổn định, đặc
trưng cho một tộc người, một vùng miền, một địa phương nào đó.
1.1.4. Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống
Theo cách giải nghĩa danh từ mô hình trong các cuốn Từ điển đã trình bày ở
trên, nhóm tác giả đề tài đưa ra khái niệm về mô hình bảo văn hóa truyền thống
như sau:
Mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống là một kiểu mẫu của việc bảo tồn
giá trị di sản văn hóa truyền thống do các tổ chức và các cá nhân thực hiện
nhằm lưu giữ những giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị của
người xưa để lại. Từ kiểu mẫu này có thể nhân rộng ra xã hội nhằm khuyến
khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình bảo tồn phát huy giá trị di
sản văn hóa của dân tộc.
Như vậy ở đây mô hình có nghĩa là một kiểu dạng, một cách thức làm mà
từ đó có thể đem nhân rộng ra xã hội. Hiện nay, mô hình bảo tồn văn hóa truyền
thống do tư nhân thực hiện, nói một cách khác là mô hình xã hội hóa văn hóa
đang ngày càng trở nên phổ biến ở nước ta. Nó thể hiện ở việc lập các bảo tàng
tư nhân, các viện nghiên cứu, các trung tâm thực hành văn hóa…do tư nhân tự
đứng ra thành lập có sự cho phép của Nhà nước, mà mô hình của Công ty
TNHH MTV Rối nước Thuận Thành được đề cập nghiên cứu trong đề tài là một
11
ví dụ điển hình.
1.2. Tiền đề và cơ sở pháp lý của việc xây dựng mô hình bảo tồn văn
hóa truyền thống
1.2.1.Tiền đề của việc xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa
Xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống do các cá nhân đứng ra
đảm nhiệm thực chất là quá trình xã hội hóa việc bảo tồn giá trị di sản văn hóa
truyền thống. PGS.TS Trương Quốc Bình trong bài viết “Xã hội hóa các hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa ở Việt Nam”,Tạp chí Di sản số
4 (năm 2008), đã nêu ra bảy tiền đề cơ bản của xã hội hóa bảo tồn giá trị di sản văn
hóa ở Việt Nam như sau:
“1. Xã hội là một trong những thuộc tính cơ bản của các di sản văn hóa và
thiên nhiên. Các di sản thiên nhiên là những bằng cớ vật chất của quá trình chinh
phục, cải tạo và sử dụng thiên nhiên vì mục đích tồn tại và phát triển của con
người. Đây cũng đồng thời là quá trình con người đã gắn kết với nhau, tập hợp
nhau từ tự phát đến tự giác - thành xã hội. Do đó, việc xác định trách nhiệm bảo
vệ và phát huy di sản này như một công việc có tính xã hội là hoàn toàn hợp lý.
Các di sản văn hóa vật thể (là động sản hay bất động sản) và các di sản phi vật
thể - đều là sản phẩm chung, là kết quả sáng tạo chung thành, tồn tại và phát
triển. Và chính vì thế, xã hội đã trở thành một trong những thuộc tính cơ bản vốn
có của các di sản văn hóa.
2. Nước ta ở vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, mưa nhiều, nắng gắt, thường
xuyên bị bão lũ và luôn luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm và sự tàn hủy
của những cuộc chiến tranh khốc liệt. Vì thế, các di sản văn hóa vật thể ở nước
ta thường xuyên chịu những tác động của thiên nhiên và con người. Nếu như
trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân ta đã chung sức sáng tạo nên một nền văn
hóa phong phú, đa dạng thì trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân
tộc, vấn đề bảo vệ quốc gia dân tộc nói chung và các di sản văn hóa dân tộc nói
riêng - bảo vệ và sửa sang “tôn miếu và xã tắc” - bao giờ cũng là mục tiêu quan
trọng hàng đầu. Chính vì vậy, việc tu sửa, phục hồi các di tích lịch sử và văn hóa
12
được đông đảo các tầng lớp nhân dân ta tự nguyện tham gia.
3. Do những đặc điểm về địa - kinh tế, địa - nhân văn và địa - chính trị,
trong quá trình tồn tại và phát triển, nhân dân các dân tộc Việt Nam đã tạo lập và
vun đắp những giá trị tinh thần cao đẹp, tiền đề và cội nguồn của sức mạnh dựng
nước và giữ nước, mà đoàn kết dân tộc là một trong những giá trị đã trở thành
truyền thống. Xuất phát từ nhu cầu đoàn kết để dựng nước và giữ nước, đồng
thời xuất phát từ những đặc điểm và dạng thức của đời sống tâm linh, từ tập tục
thờ phụng tổ tiên trong mỗi gia đình, nhân dân ta đã cùng nhau thừa nhận một
đối tượng thờ phụng chung và cùng nhau xây dựng một nơi thờ phụng chung
cho cả làng, và thậm chí cao hơn nữa còn tự coi là có chung một nguồn gốc “Bố
Rồng, Mẹ Tiên” để rồi lập nên một ngôi mộ chung, đặt ra một ngày giỗ Tổ
chung cho cả quốc gia/ dân tộc. Chính vì lẽ đó, việc bảo tồn những di sản văn
hóa mà cho ông ta đã chung sức vun đắp, sáng tạo, bảo vệ và truyền lưu trong
quá trình dựng nước và giữ nước mà thế hệ chúng ta đang thừa hưởng còn có
những ý nghĩa quan trọng không chỉ xuất phát từ trách nhiệm và nghĩa vụ mà
còn có ý nghĩa về tinh thần và tình cảm triết lý “uống nước nhớ nguồn” đối với
tiền nhân.
4. Dưới góc độ lịch sử văn hóa, từ thực tiễn địa hình, tồn tại và phát triển
của văn hóa truyền thống Việt Nam mà hạt nhân cơ bản của nó là làng xã, chúng
ta có thể xem xét và đánh giá các loại hình tổ chức hoạt động của cộng đồng
làng xã trước đây mà trong đó trung tâm là con người và các mối quan hệ cơ bản
là huyết thống và phi huyết thống để xem xét bình diện của quan hệ cộng đồng.
Trong những quan hệ này, một trong những cốt lõi để cố kết các cộng đồng là
hình thái thờ phụng thổ thần của các xóm, ngõ, cao hơn là việc thờ thành hoàng
chung ở đình xuất phát từ nhu cầu đoàn kết như đã nói ở trên. Và chính bản than
những hoạt động chung này đã xảy nảy sinh nhu cầu đóp góp nhân tài vật lực để
xây dựng những công trình công cộng chung của làng xã.
Từ những kết quả nghiên cứu về cộng đồng và phong tục, chúng ta có thể
rút ra những nhận xét: Biểu hiện của tinh thần xã hội hóa trong đời sống sản
13
xuất sinh hoạt, ứng xử trong mối quan hệ xã hội đã xuất hiện một cách tự phát,
tự nhiên. Tinh thần ấy thể hiện trong việc góp giỗ chung của làng, trong việc xây
dựng và thực hiện các hương ước, quy tắc chung, trong đó có những quy định về
bảo vệ tập tục, bảo vệ tài sản và di sản văn hóa chung, bảo vệ môi trường cảnh
quan.
5. Mặt khác, những biểu hiện nói trên còn được nâng thành mối quan hệ
giữa làng - nước. Các tổ chức xã hội trong xã hội Việt Nam cổ truyền như phe
(phe tư văn, phe tư võ) hay Hội và đặc biệt là Giáp - một tổ chức dành riêng của
những người đàn ông mà nền tảng tập hợp chủ yếu là tuổi tác gắn với tập tục
trọng xỉ, một dấu nối giữa cộng đồng làng xã với cộng đồng nhà nước hóa có vai
trò không thể phủ nhận trong việc xây dựng các công trình công cộng của làng
xã, đặc biệt là đình làng. Nhìn chung, phương thức tổ chức và nội dụng hoạt
động của các tổ chức xã hội trong xã hội Việt Nam truyền thống, dù dựa trên cơ
sở huyết thống hay phi huyết thống, đều thể hiện tinh thần xã hội hóa. Về mặt
hình thức, các tổ chức nói trên đều có những hoạt động mang tính văn hóa bởi
những hoạt động này tạo nên những mối liên kết chung, mà qua đó những
nguyện vọng chung của mỗi cá nhân được phổ cập. Với tư cách là những đơn vị
xã hội - trước khi là những đơn vị văn hóa, những tổ chức nói trên cũng đồng
thời là môi trường nuôi dưỡng và hình thành nhân cách văn hóa thông qua gia
pháp, lệ tộc, lệ làng và cuối cùng là “phép nước”. Người Việt truyền thống được
giáo dục trước hết và trên hết bởi những triết lý cộng đồng chứ không phải là
nhân cách cá thể với việc những giá trị chuẩn mực chung được phổ biến và quy
định đến từng người dân. Do đó, khai thác những đặc tính truyền thống về vấn
đề này, chúng ta cần thấy rõ vai trò quan trọng của việc kết hợp giáo dục gia
đình, tổ chức xã hội ở cơ sở, nhà trường với các hình thức giáo dục xã hội khác,
trong đó có hoạt động giáo dục truyền thống trên cơ sở các di sản văn hóa.
6. Trong thời kỳ phong kiến, bên cạnh việc tôn trọng và khuyến khích các
hình thức và biện pháp xã hội hóa vốn có trong nhân dân, nhà nước phong kiến
Việt Nam không đảm nhận việc bao cấp cho các hoạt động bảo vệ và phát huy
14
di sản văn hóa mà chỉ sử dụng quyền quản lý nhà nước của mình, can thiệp vào
các hoạt động này thông qua việc tổ chức ban sắc phong cho các đối tượng được
thờ phụng. Và đồng thời tạo những điều kiện vật chất với việc cấp một phần
“đất vua” nhằm khuyến khích các hoạt động này. Cho đến trước cách mạng
tháng Tám năm 1945, các hình thức xã hội hóa việc bảo tồn di sản văn hóa vẫn
dựa vào những tổ chức tự quản của cộng đồng làng xã với phương thức hoạt
động chủ yếu dựa theo cách đóng góp theo đầu người và đóng góp tự nguyện.
Nhờ đó, các đình, đền chùa, miếu… tiếp tục được bảo vệ với tư cách là những
trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hóa dân gian.
7. Do những đặc thù của nội dung, giá trị của các di sản văn hóa và những
bản chất đồng thời là tiềm năng của việc xã hội hóa nên ngay trong thời kỳ bao
cấp, việc xã hội hóa các hoạt động bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa đã
được thực hiện ở những mức độ và hình thức khác nhau. Nhiều khu di tích vẫn
được nhân dân địa phương cử người trông nom bảo vệ và được hưởng hoa lợi
thu được trong khu vực di tích. Nhiều cá nhân vẫn say sưa tự mình xây dựng các
bộ sưu tập cổ vật hoặc các tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Nhiều cơ
quan, trường học vẫn tổ chức những chuyến thăm quan học tập tại các di tích
lịch sử và danh lam thắng cảnh.
Đến thời kỳ đổi mới, những hoạt động này, đặc biệt là việc tu bổ phát huy
các di tích lịch sử và văn hóa đã diễn ra ở khắp mọi nơi, tạo nên một hiện tượng
không chỉ đối với ngành văn hóa mà còn trở thành một hiện tượng xã hội. Chính
vì thế, các hoạt động xã hội hóa một cách tự phát trong những năm qua cùng
những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn hoạt động đã tạo ra một trong những tiền
đề quan trọng cho việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa hiện nay” [1, tr 9 -12].
Các tiền đề cơ bản nêu trên cũng cho thấy, vấn đề xã hội hóa đã nảy sinh
và tồn tại ngay trong quá trình sáng tạo và trao truyền văn hóa qua các hình thức
bảo tồn và phát huy khác nhau. Nhà nghiên cứu Trương Quốc Bình cho rằng:
“Xã hội hóa văn hóa nói chung và bảo tồn các di sản sản văn hóa nói riêng dù
15
được dưới dạng thức phổ cập văn hóa không bao giờ là kết quả của sự áp đặt,
gán ghép mà nó là những sự tham gia tự nguyện của các cá nhân và cộng đồng
trên cơ sở nhận thức vấn đề tự mình và cho mình” [1, tr. 12].
Và như vậy có thể thấy rằng mô hình xã hội hóa bảo tồn văn hóa ra đời là
do sở thích của các cá nhân, xuất phát từ nhu cầu cá nhân và từ yêu cầu đòi hỏi
từ thực tiễn của cuộc sống. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta đang
đứng trước bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa, nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc đang có nguy cơ hủy hoại, biến dạng và mất đi. Có thể thấy
các hoạt động xã hội hóa một cách tự phát trong những năm qua cùng những
kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn hoạt động, đã tạo ra một trong những điều kiện
quan trọng cho việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa ở nước ta hiện nay.
1.2.2. Cơ sở pháp lý về xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống
1.2.2.1. Chủ trương của Đảng
Như đã trình bày, xã hội hóa các hoạt động bảo tồn di sản nói riêng và xã
hội hóa các hoạt động văn hóa nói chung xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trong xã
hội. Tuy nhiên khi các mô hình ra đời và đi vào hoạt động, bản thân nó lại chịu
sự định hướng, quản lý và chi phối bởi các cơ sở pháp lý. Trong thời đại của
chúng ta, với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và đất nước Việt Nam, từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong các nghị quyết và cương lĩnh của
Đảng đều nhất quán chủ trương bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc.
Cụ thể ngày 3/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và công bố Sắc lệnh
số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Sau Sắc lệnh số 65/SL, ngày
29/10/1957, Nghị định số 519-TTg về bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng
cảnh do Thủ tướng Chính phủ ban hành đã tạo điều kiện cho ngành văn hóa thể
thao tiến hành kiểm kê phổ thông các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng
cảnh ở các tỉnh và thành phố toàn miền Bắc; giúp bảo vệ những di tích quan
trọng nhất của đất nước. Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh
16
lam thắng cảnh do Hội đồng Nhà nước công bố ngày 4/4/1984, đã chứng tỏ sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác giữ gìn di sản văn hóa của dân
tộc. Những nghị định, pháp lệnh này thể hiện tư duy lý luận của Đảng ta đối với
việc bảo tồn các di sản văn hóa ở những thời điểm, hoàn cảnh, những giai đoạn
lịch sử cụ thể của đất nước.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH và giao lưu hội nhập quốc tế, Đảng
và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương đường lối và chính sách bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân,
góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tư duy lý luận của Đảng ta về
bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ngày càng được hoàn thiện thông qua các
văn kiện, nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Tại Đại
hội VI, lần đầu tiên Đảng ta nêu lên chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn
hóa: “Nhà nước cùng với nhân dân xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật cần
thiết cho văn hoá và nghệ thuật, giữ gìn và tôn tạo những di tích lịch sử, văn
hoá” [2, tr. 92].
Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội VII,
Điều 30, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ rằng: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát
triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những
giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo
trong nhân dân…” [13, tr. 24].
Theo quan điểm Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, bản sắc văn hóa dân
tộc “bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của các cộng đồng các dân
tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước” [3, tr. 56]. Theo đó, bảo vệ bản sắc văn hóa, giá trị di sản văn hóa
dân tộc là bảo vệ những tinh hoa của dân tộc được hình thành và lưu giữ qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc phải
gắn với giao lưu quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu và phong
phú văn hóa dân tộc Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII khẳng định:
17
“Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu chọn
lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc
dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời, trong phong tục tập quán, lề thói
cũ” [3, tr. 57].
Đồng thời, Nghị quyết cũng đặt vấn đề và yêu cầu bảo vệ di sản văn hóa
bao gồm cả văn hóa truyền thống và văn hóa cách mạng, văn hóa vật thể và văn
hóa phi vật thể. Nghị quyết viết: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng
đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới
và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn
hóa vật thể và phi vật thể” [3, tr. 56].
Trên phương diện quan điểm của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn
hóa, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng là văn kiện toàn diện nhất, đề
cập cụ thể đến những vấn đề chung cũng như những phương hướng phát triển
nền văn hóa Việt Nam, vì vậy, nó tác động sâu sắc không chỉ đến quá trình phát
triển nền văn hóa Việt Nam nói chung mà còn định hướng cho công việc quản lý
văn hóa của ngành văn hóa, thể thao và du lịch nói riêng.
Như vậy có thể nói các văn kiện của Đảng, đặc biệt là nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII vừa nhấn mạnh đến vai trò, mục tiêu xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhấn mạnh việc bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa, vừa nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển văn hóa là
sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Đây chính là cơ sở để
khuyến khích, tạo điều kiện cho các mô hình xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa
ra đời và đi vào hoạt động.
1.2.2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước
Trên tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, hàng loạt các giải
pháp xây dựng và phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân
đã ra đời. Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị việc thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; Chỉ thị số 14/1998/TC-TTg
18
ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội đã dẫn đến việc ra đời Thông tư số
04/1998/TTg-BVHTT ngày 11/7/1998 của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn
thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. (Sau đó là Thông
tưsố: 04/2011/TT-BVHTTDL ngày 21/01/ 2011 của Bộ VH - TT&DL thay thế
Thông tư số 04/1998/TTg - BVHTT).
Hệ thống pháp luật có liên quan đến di sản văn hóa truyền thống, như
những văn bản được cụ thể hóa bằng các luật như Luật Di sản văn hóa, bằng các
quy chế như Quy chế tổ chức lễ hội. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã tiến hành
đầu tư qua Chương trình Quốc gia có mục tiêu về văn hóa cho việc nghiên cứu,
sưu tầm, phục hồi các giá trị di sản văn hóa, nhờ đó, huy động được sự quan tâm
của cộng đồng đối với các di sản văn hóa.
Ngày 19/01/1993, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 25/TTg Về một
số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, trong đó
xác định việc phát triển văn hóa thể thao mang bản sắc dân tộc Việt Nam là
trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn dân, Nhà nước tạo điều kiện, xây dựng cơ sở hạ
tầng và trang bị phương tiện cho việc phát triển văn hóa nghệ thuật mang bản
sắc dân tộc. Quyết định cũng chỉ ra những chính sách cụ thể như đầu tư cho việc
sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn, bảo quản lâu dài, phổ biến văn học dân gian, các
điệu múa, các làn điện âm nhạc của các dân tộc, giữ gìn các nghề thủ công
truyền thống, các loại nhạc dân tộc, xây dựng các tiết mục dân tộc như tuồng,
chèo, dân ca, cải lương, múa rối, đồng thời khen thưởng những người có công
trong việc sưu tầm và bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc.
Để triển khai Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và các quyết định của
Chính phủ trong lĩnh vực di sản văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ban hành:
Công văn số 4432/VHTT-BTBT ngày 20/10/1998 hướng dẫn tăng cường quản
lý cổ vật; Công văn số 488/2/VHTT-BTBT ngày 18/11/1988 hướng dẫn việc
đăng ký kiểm kê bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; Chỉ thị
số 60/CT-BVHTT ngày 6/5/1999 của Bộ trưởng Bộ văn hóa - Thông tin về việc
19
tăng cường quản lý và bảo vệ di tích. Đặc biệt, Luật Di sản văn hóa được Quốc
hội khóaX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 14/6/2001, có hiệu lực từ ngày
01/01/2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa ở Việt Nam. Trong Luật Di sản văn hóa, ngoài tính hệ thống và tầm bao
quát của nó thì lần đầu tiên chúng ta đã đưa các di sản văn hóa phi vật thể vào
nội dung quản lý và điều chỉnh của bộ luật này.
Ngày 10 tháng 10 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định
Số: 1466/QĐ-TTg quy định Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu
chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế,
văn hoá, thể thao, môi trường. Đây chính là cơ sở, là tiêu chí để xác định tiêu
chuẩn của các mô hình xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, thể
thao, môi trường…trong đó có mô hình xã hội hóa các hoạt động văn hóa. [14]
Nhìn một cách tổng quát, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là sự phát triển tư
duy lý luận của Đảng về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc
không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có tác dụng to lớn trong việc bảo
tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, ngăn chặn tình trạng xuống cấp và
lạm dụng, lợi dụng các di tích lịch sử, di sản văn hóa của dân tộc. Đồng thời,
khuyến khích các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia vào quá trình bảo tồn,
phát huy giá trị di sản văn hóa. Từ đó tác động mạnh mẽ và có hiệu quả đến sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.3. Tiêu chí đánh giá mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống
Như đã trình bày, ngày 10 tháng 10 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định Số: 1466/QĐ-TTg quy định Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí
quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục,
dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường. Theo đó đối với lĩnh vực văn hóa,
có một số cơ sở trình diễn/diễn xướng dân gian (nằm trong các mô hình, hoạt
động bảo tồn văn hóa truyền thống) được quy định cụ thể như sau.
1.3.1. Tiêu chí đánh giá cơ sở trình diễn/ diễn xướng dân gian
20
- Về quy mô:
+ Có đội ngũ những người thực hành diễn xướng dân gian theo quy định
của loại hình nghệ thuật trình diễn trong đó ít nhất có 1 nghệ nhân và 5 người
thường xuyên tham gia trình diễn.
+ Có chương trình biểu diễn phục vụ công chúng với thời lượng chương
trình ít nhất là 45 phút.
+ Có số người học nghề từ 5 người trở lên.
+ Nơi luyện tập và trình diễn cho công chúng có diện tích tối thiểu là 100 m2
- Về chất lượng:
+ Được công nhận về mặt pháp lý và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo
quy định của pháp luật.
+ Người đứng đầu đơn vị phải hiểu biết về nghề, có năng lực quản lý và tổ
chức hoạt động thực hành trình diễn. Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp.
+ Có đội ngũ những người thực hành diễn xướng dân gian. Có nghệ nhân
nắm giữ bí quyết, kỹ năng, kỹ thuật và thực hành diễn xướng dân gian.
+ Có địa điểm để luyện tập, truyền đạt và trình diễn cho công chúng. [14]
1.3.2. Tiêu chí đánh giá cơ sở nghiên cứu và đào tạo về bảo tồn di sản
văn hóa
- Về quy mô:
+ Có số lượng học viên tham gia mỗi chương trình đào tạo tối thiểu là 45 học
viên.
+ Diện tích phòng học lý thuyết tối thiểu đạt 1,3m2/học viên. Diện tích cơ
sở thực hành bảo tồn tối thiểu đạt 2,5 m2/học viên.
+ Có tối thiểu 5 nghiên cứu viên là 10 giảng viên và cộng tác viên bảo tồn
di sản văn hóa
- Về chất lượng:
+ Được thành lập và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định của
21
pháp luật.
+ Người đứng đầu cơ sở phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo tồn, có
năng lực quản lý và tổ chức điều hành hoạt động của cơ sở theo quy định của
pháp luật.
+ Cơ sở vật chất và trang thiết bị phù hợp với việc nghiên cứu và đào tạo
về bảo tồn di sản.
+ Có đội ngũ nghiên cứu viên và giảng dạy đạt tiêu chuẩn theo quy định
của pháp luật [14].
Trên đây là những tiêu chí nhóm nghiên cứu lấy làm căn cứ đánh giá mô
hình xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa của Công ty TNHHMTV Rối nước
Thuận Thành trong đề tài.
1.4. Khái quát về Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối
nước Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
1.4.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận
Thành
Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành được thành lập và đi vào
hoạt động vào tháng 3 năm 2010, có trụ sở tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Theo đăng ký, Công ty kinh doanh đa
ngành kết hợp, như: Biểu diễn rối nước và các loại hình nghệ thuật dân gian;
Đào tạo truyền nghề; Sản xuất, mua bán hàng thủ công mĩ nghệ; Dịch vụ dàn
dựng, thiết kế sân khấu; Cho thuê con rối,...
Sự ra đời của Công ty gắn liền với người sáng lập, đồng thời là Giám đốc,
ông Nguyễn Thành Lai, sinh năm 1971, người làng Đồng Ngư, (xã Ngũ Thái,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) (Phụ lục ảnh 1, tr.79). Tâm huyết với nghệ
thuật rối nước quê hương, ông tham gia phường rối ngay từ năm 1989 khi làng
khôi phục nghề truyền thống. Do tuổi trẻ còn phải lo làm ăn phát triển kinh tế
gia đình, năm 1995 ông ra Hà Nội mở xưởng cơ khí và sửa chữa xe máy. Nhưng
do yêu nghề nên đến năm 2000, ông quyết định về quê sinh sống để được cùng
22
phường biểu diễn rối nước.
Mặc dù tuổi còn trẻ, Nguyễn Thành Lai vẫn được tin cậy bầu làm Trùm phó.
Khi cụ Nguyễn Thanh Trãi, Trùm trưởng của phường qua đời, ông được bầu làm
Trùm trưởng thay thế cụ. Lúc này tiếng vang phường rối nước Đồng Ngư đã được
nhiều cơ sở kinh doanh du lịch biết tiếng, muốn liên kết hoạt động. Nhưng cơ cấu
tổ chức của phường không mang tính chuyên nghiệp biểu diễn nên khó có thể tổ
chức đi hoạt động lâu dài xa làng quê được. Mặt khác, yêu cầu bảo tồn nghệ thuật
gốc lại cần hình thức hoạt động của phường theo lối cũ đang duy trì. Vì vậy
Nguyễn Thành Lai đã nảy ra ý định một mặt ông vẫn duy trì phường hoạt động
theo mô hình cũ nhằm bảo tồn nghệ thuật gốc, một mặt ông mở công ty biểu diễn
chuyên nghiệp để phát triển nghệ thuật truyền thống.
Đầu tháng 3/2010 ông đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
với tên “Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước Thuận Thành”.
Kể từ đó Công ty đi vào hoạt động, với sự dẫn dắt của ông, Công ty đã không
ngừng phát triển. Công ty kinh doanh đa ngành kết hợp, như: Biểu diễn rối nước
và các loại hình nghệ thuật dân gian; Đào tạo truyền nghề; Sản xuất, mua bán
hàng thủ công mĩ nghệ; Dịch vụ dàn dựng, thiết kế sân khấu; Cho thuê con rối,...
Để đoàn hoạt động chuyên nghiệp, có hiệu quả, ông Nguyễn Thành Lai
còn thành lập “Phường rối nước Luy Lâu” hoạt động độc lập với “Phường rối
nước dân gian Đồng Ngư” do các nghệ nhân làng Đồng Ngư xã Ngũ Thái duy
trì hoạt động theo hướng bảo tồn làng nghề truyền thống.Phường có 31 thành
viên (7 nữ) và đội ngũ cộng tác viên gắn bó trên 30 người.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành
23
như sau:
Phường có mặt bằng 5000m2, trong đó 1000 m2 là diện tích của gia đình,
4000 m2 là diện tích thuê của xã Ngũ Thái. Để phù hợp với hoạt động biểu diễn
cơ động, Phường rối nước Luy Lâu lập 3 Đoàn biểu diễn, mỗi đoàn 12 người:
Đoàn 1 do nghệ nhân Nguyễn Đình Hiệp là Phó phường kiêm Trưởng đoàn.
Đoàn 2 do nghệ nhân Nguyễn Văn Huy phụ trách. Đoàn 3 do nghệ nhân Nguyễn
Văn Đoàn phụ trách. Từ năm 2016, Đoàn 2 liên tục biểu diễn cố định ở Khu du
lịch Tuần Châu (Quảng Ninh) để phục vụ khách du lịch.
Bên cạnh đó, các đoàn Rối nước của Phường Rối Luy Lâu còn tham gia
biểu diễn các tiết mục Rối nước truyền thống, tổ chức các trò chơi dân gian, tổ
chức đêm hội trăng Rằm cho các em thiếu nhi tại khu đô thị Ecopack Hưng Yên,
tham gia biểu diễn, giới thiệu và trưng bày con Rối, nghệ thuật tạo hình, điều
khiển con Rối tại bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành với Phường Rối nước Luy
Lâu còn tham gia các chương trình biểu diễn giao lưu với một số phường Rối
trong cả nước như: Đào Thục (Huyện Đông Anh - Hà Nội), Chàng Sơn (Huyện
Thạch Thất - Hà Nội); ba phường rối nước của tỉnh Hải Dương: Bồ Dương
thuộc xã Hồng Phong (Huyện Ninh Giang), An Liệt thuộc xã Thanh Hải (Huyện
24
Thanh Hà) và Bùi Thượng thuộc xã Lê Lợi (Huyện Gia Lộc).
1.4.2. Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
Trên cơ sở của việc hoạt động kinh doanh có hiệu quả, với dự định đã ấp
ủ từ lâu nhằm bảo tồn giá trị các di sản văn hóa của vùng Kinh Bắc nói riêng và
của dân tộc nói chung, ông Nguyễn Thành Lai đã quyết định đầu tư xây dựng cơ
sở Phường theo hướng thành “Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu” vừa
phục vụ sinh hoạt cộng đồng, vừa phát triển thành điểm du lịch văn hóa quan
trọng của địa phương.
Hiện nay ông Lai đã phân chia toàn bộ Khu Bảo tồn thành 3 khu vực: Khu
ao nhà người Việt và Thủy đình biểu diễn; Khu tạo hình; Khu trưng bày, hội tụ
tất cả các nét văn hoá truyền thống của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ như trình
diễn múa rối nước dân gian, biểu diễn các làn điệu Quan họ và nghệ thuật hát ca
trù tại nhà chứa Quan họ, dạy cách làm tranh dân gian Đông Hồ (Phụ lục ảnh 36,
tr.96), làm giấy Đống Cao, chạm khắc Phù Khê, đúc đồng Đại Bái, tơ tằm Vọng
Nguyệt, làm đậu Trà Lâm, gốm Phù lãng,... Bên cạnh đó, tại Khu Bảo tồn văn
hóa dân gia Luy Lâu còn tổ chức các trò chơi dân gian như: Bịt mắt bắt dê, kéo
co, leo cột hái quà, ô ăn quan, đi cầu khỉ, bắt chạch trong chum, nhảy sạp, đi cà
kheo, ném còn, đội bình gốm, bịt mắt đập niêu,…
Ngoài ra ông Nguyễn Thành Lai còn xây dựng khu trưng bày hiện vật gia
dụng truyền thống, khu trải nghiệm nông trại, khu bảo tồn các giống gia cầm
quý. Đặc biệt là việc tổ chức làm các món ẩm thực dân dã, các món bánh truyền
thống của dân tộc như: Bánh đúc,bánh chưng, bánh giày, bánh nếp, bánh tẻ,
bánh trôi, bánh chay (Phụ lục ảnh 39, tr.98); một số thức quà dân gian như:
Bánh đa, kẹo lạc, kẹo dồi, kẹo kéo hay món xôi ngũ sắc độc đáo. Mục đích
nhằm bảo tồn những nét văn hóa truyền thống của làng quê Việt đang ngày càng
25
bị mai một trước bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ.
TIỂU KẾT
Trong chương 1, nhóm tác giả đã làm rõ một số vấn đề có tính chất lý
luận làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài như: các khái niệm cơ bản, bao gồm: Khái
niệm mô hình, bảo tồn, khái niệm văn hóa truyền thống và mô hình bảo tồn văn hóa
truyền thống.
Đồng thời nhóm tác giả cũng làm rõ những tiền đề và cơ sở pháp lý của
việc xây dựng mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống do cá nhân đứng ra tổ chức,
thực hiện. Đó là tiền đề xã hội hóa việc bảo tồn giá trị di sản văn hóa truyền
thống, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về việc khuyến
khích các tổ chức, cá nhân đứng ra thành lập các mô hình bảo tồn văn hóa truyền
thống của dân tộc.
Nhóm tác giả cũng đã trích dẫn các tiêu chí quy định mô hình xã hội hóa
các hoạt động văn hóa, làm cơ sở đánh giá mô hình được tiến hành nghiên cứu
trong đề tài và giới thiệu khái quát về đối tượng nghiên cứu của đề tài là Công ty
TNHH MTV Rối nước Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.
Nội dung chi tiết các hoạt động của Công ty và của Khu Bảo tồn sẽ được nhóm tác
26
giả làm rõ trong chương 2.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
MỘT THÀNH VIÊN RỐI NƯỚC THUẬN THÀNH TẠI KHU BẢO TỒN
VĂN HÓA DÂN GIAN LUY LÂU
Như chúng tôi đã trình bày tại chương 1, Công ty TNHH MTV Rối nước
Thuận Thành được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2009. Sau 10 năm, đến
năm 2019 mới khánh thành giai đoạn 1 lấy tên là Khu Bảo tồn văn hóa dân gian
Luy Lâu. Tuy nhiên, những hoạt động của Khu Bảo tồn được tiến hành khá đa
dạng, phong phú với nhiều kết quả đáng ghi nhận trên cả hai lĩnh vực: Bảo tồn
các giá trị văn hóa vật chất và bảo tồn các giá trị văn hóa tinh thần.
2.1. Hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa vật chất
2.1.1. Sưu tầm các hiện vật
Văn hóa vật chất được hiểu là những yếu tố văn hóa tồn tại dưới dạng vật
chất như đồ ăn, thức đựng, nhà cửa kiến trúc và các vật dụng sinh hoạt gắn bó từ
lâu đời đối với mỗi người dân trong quá trình sinh sống.
Một vài chục năm sau đổi mới, do quá trình hiện đại hóa, nhiều vật dụng
vốn quen thuộc với người dân từ bao đời giờ đã trở nên không còn tác dụng.
Chúng được thay thế bởi những dụng cụ, phương tiện hiện đại hơn. Nếu như
không được giữ lại, chúng sẽ bị lãng quên và trở nên xa lạ với lớp trẻ. Chính vì
vậy ông chủ của Khu Bảo tồn Nguyễn Thành Lai luôn trăn trở, đam mê sưu tầm,
phục dựng lại những giá trị ấy.
Ngay từ năm 1990, ông Nguyễn Thành Lai đã bắt đầu tiến hành tự đi đến
các gia đình trong làng, trong vùng và đến nhiều nơi để sưu tầm, mua lại các vật
dụng tưởng như rất đỗi đơn giản của người nhà quê như: nồi đồng, cối đá, mâm
đồng, mâm gỗ, bát sành, chum đất, ổng nhổ, cối giả trầu, cơi trầu, thau đồng, nồi
đồng, tích đồng, ấm đồng, đồ trưng cất nấu rượu (nồi đồng, thau đồng, nồi đất,
ống tre, mai rùa) (Phụ lục ảnh 9, tr.83),… nói chung là những đồ gia dụng của
27
người nông dân. Cho đến cả những chiếc đèn bão, điếu bát, xe trâu, cối xay lúa,
cối giã gạo và cả những chiếc cầu đá, mô hình giếng làng, bể nước mưa và cả
chiếc…“cầu tõm” một thời. Những món đồ “nhà quê” này được đưa về gia đình
và được cất giữ xung quanh nhà. Khi Khu Bảo tồn được xây dựng, các vật dụng
này được phân loại, bố trí thành các ô khác nhau trong khu bảo tồn.Không chỉ
sưu tập các hiện vật văn hóa của người Việt, ông Nguyễn Thành Lai còn mở
rộng sưu tập cả bộ cồng chiêng của người Mường ở tỉnh Hòa Bình (Phụ lục ảnh
24, tr.90).
Cho đến nay những vật dụng của người nông dân càng ngày càng được
sưu tập nhiều thêm. Để có những hiện vật này, ông Lai đã dày công đi đến các
gia đình trong làng, trong xã và đi nhiều nơi, bắt nhiều mối khác nhau để sư tầm,
xin và mua lại. Ông cho biết: có những món đồ phải mất tiền để mua, nhưng
cũng có những món đồ ông xin được hoặc được tặng, được cho không. Ví dụ như
những chiếc cối đá, những chiếc thúng, mủng, dần, sàng nong nia mà có gia đình
đã toan vứt đi vì không dùng đến nó nữa.
Nhìn chung những hiện vật được trưng bày và bảo quản tại Khu Bảo tồn
văn hóa dân gian Luy Lâu khá đa dạng, phong phú. Mỗi hiện vật gắn với một
hoạt động trong sinh hoạt văn hóa của người dân ở nông thôn xưa kia. Nếu
không có những bảo tang và những người có long đam mê nhiệt huyết như ông
Lai sưu tập lại thì chúng sẽ vĩnh viễn mất đi. Và quan trọng hơn, lớp trẻ sẽ
không có tư liệu để tìm hiểu về văn hóa truyền thống của ông cha. Nhìn ở khía
cạnh giáo dục truyền thống thì đây là một hoạt động bảo tồn rất có giá trị.
2.1.2. Trưng bày hiện vật và tổ chức trải nghiệm
Khác với nhiều bảo tàng, các hiện vật được sưu tập về và được trưng bày
trong trạng thái tĩnh. Ở Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, nhiều hiện vật
là các vật dụng sinh hoạt của người nông dân xưa được sưu tậm về, được chế tác
lại và được đưa vào trưng bày ở trạng thái động, tức là phục vụ khách tham quan
đến trải nghiệm, làm thử.
Hiện nay Khu Bảo tồn đã sưu tầm được hàng trăm hiện vật đá: cối đá,
28
chân cầu đá ở những làng quê bỏ đi được ông Lai sưu tập về. Cối xay ngô, cối
xay bột…gắn liền với đời sống nông dân (Phụ lục ảnh 13, tr.85). Riêng chiếc cối
xay ngô hiếm gặp hơn (Phụ lục ảnh 14, tr.85). Đồ gỗ gia dụng nhiều hơn như
mâm gỗ, chạn bát, âu xới cơm, đấu đong gạo, đong thóc…trưng bày vào những
dịp đón các đoàn khách. Với các nông cụ của nhà nông như: Cày bừa, cuốc xẻng,
mai,dụng cụ bắt tôm cá, gầu tát nước…được trưng bày trải nghiệm trong Khu
Bảo tồn, nghĩa là được dùng để làm thật cho khách đến tham quan trải nghiệm.
Những dụng cụ này được bố trí tại một khu vườn, ao và ruộng riêng trong
khu bảo tồn. Mỗi khi có đoàn đến tham quan đích thân ông chủ Khu Bảo tồn sẽ
tiến hành thao tác thử một vài dụng cụ cho khách xem. Hoặc du khách có thể
dùng để trải nghiệm. Tóm lại ý tưởng của ông chủ Khu Bảo tồn đây chính là một
“không gian sống” để cho du khách và các bạn trẻ trải nghiệm thực tế. Cối xay
phải xay được, cối giã phải có gạo để giã v.v… Đến với Khu Bảo tồn, du khách
có thể trải nghiệm như một người nông dân thực thụ tại khu nông trại sạch hữu
cơ với các hoạt động: Trồng rau, cấy lúa, tát nước, làm đất, nhổ cỏ, tưới hoa,
chăm gà, nhặt trứng gà, bắt cá…
Để phục vụ cho sự trải nghiệm của du khách, Khu Bảo tồn còn tiến hành
sưu tầm các giống gia cầm quý như: Gà Đông Tảo, gà Hồ, gà ác, gà tre, gà ri,
chim bồ câu, chim trĩ, vịt trời... Những loại gia cầm này đều được cho ăn thức ăn
sạch, không dùng thức ăn công nghiệp. Nếu có nhu cầu, du khách đến tham
quan Khu Bảo tồn có thể trực tiếp chế biến các nông sản sạch do tự tay mình thu
hoạch để thưởng thức cùng người thân mà hoàn toàn yên tâm về chất lượng.
Trong năm 2020, Khu Bảo tồn đã đón được tất cả hơn 30 đoàn khách về tham
quan, tìm hiểu và trải nghiệm các hoạt động văn hóa, thưởng thức ẩm thực tại
Khu Bảo tồn.
Nhìn chung, những giá trị văn hóa vật chất được bảo tồn tại Khu Bảo tồn
văn hóa dân gian Luy Lâu rất đa dạng, từ những vật dụng gắn liền với sinh hoạt
của người nông dân ở thôn quê truyền thống cho đến cả một số loại cây trồng,
vật nuôi phục vụ nhu cầu ẩm thực của người dân xưa. Những giá trị văn hóa vật
29
chất ấy được bảo tồn dưới dạng động, được tái hiện trong cuộc sống đương đại.
Đây cũng chính là nét độc đáo của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu so
với một số mô hình bảo tàng tư nhân khác. Chẳng hạn như mô hình bảo tàng
“Đồ nhà quê” của ông Nguyễn Quang Mạnh, chủ hiệu ảnh Vinh Hoa ở phường
Lê Lợi thành phố Bắc Giang.
Ở đây có rất nhiều dụng cụ sinh hoạt, sản xuất của người nông dân xưa
được ông Mạnh sưu tầm trong nhiều năm. Những năm qua, bảo tàng này đã đón
rất nhiều đoàn khách trong tỉnh và trong nước cũng như các phóng viên báo chí
đến tham quan, viết bài, làm phóng sự. Hoặc có thể kể đến bảo tàng Đồng quê ở
huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định do bà Ngô Thị Khiếu, một giáo viên về hưu
sáng lập, trưng bày hơn 1.000 hiện vật đồ dùng của người nông dân Việt truyền
thống khắp ba miền Bắc - Trung - Nam.
Tuy nhiên, mặt hạn chế của các bảo tàng này là phần lớn các vật dụng
được bảo quản và trưng bày trong trạng thái tĩnh. Khách tham quan, nhất là thế
hệ trẻ và khách nước ngoài sẽ không hình dung được người nông dân xưa đã sử
dụng các vật dụng đó như thế nào. Ở Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu,
hiện vật vừa được bảo quản, vừa được phục chế, nhiều hiện vật được đưa vào
hoạt động trải nghiệm,giúp cho khách tham quan hiểu được tính năng, tác dụng
của chúng, đồng thời thấy được sự sáng tạo của người nông dân xưa thông qua
các vật dụng ấy, khiến họ rất thích thú. Với các đạo cụ biểu diễn nghệ thuật thì
càng rõ. Tiêu biểu như các quân rối nước (mục 2.2), chúng không chỉ được sưu
tầm, phục chế mà còn được cải tiến và đưa vào hoạt động biểu diễn thường
xuyên. Chính cách làm này đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu văn hóa học, dân
tộc học, sử học…những tư liệu sống động, quý giá về di sản văn hóa truyền thống
của người Việt Nam.
2.2. Hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa tinh thần
2.2.1. Bảo tồn nghệ thuật rối nước truyền thống
Rối là loại hình văn hóa truyền thống, gắn bó chặt chẽ với cuộc sống tinh
thần từ lâu đời của nhân dân Việt Nam. Rối là một nghệ thuật sân khấu “biến
30
cách” chuyên sử dụng các con giống, các tượng gỗ, các lốt giả trang làm trò
đóng kịch trên sân khấu, cơ sở vật chất và kỹ thuật của nó là quân rối, sản phẩm
của nghệ thuật tạo hình dân tộc. Đối với Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu,
rối nước là loại hình chủ đạo được tiến hành bảo tồn trên nhiều phương diện.
2.2.1.1. Sưu tầm và cải tiến con rối
Để bảo tồn nghệ thuật múa rối nước, việc đầu tiên là sưu tầm và bảo tồn
con rối. Từ năm 2007, Bảo tàng Bắc Ninh đã sưu tầm nhiều dụng cụ, quân trò
của phường Rối nước Đồng Ngư (xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành) như: Tễu,
quân cầm cờ, quân đóng đường, tích mời trầu, múa rồng, mục đồng chăn trâu
thổi sáo, chọi trâu, rước kiệu, đánh đu, đấu vật bơi lội, cày bừa cấy lúa, đánh cá,
câu ếch đánh rắn, sư tử vờn cầu, đám cưới chuột, bố con ông chài, giã bạn, nhào
vòng, rùa.
Những quân trò này đều được chế tác từ năm 1982, 1992, 1995 để bảo tồn
nét văn hóa đặc sắc của miền Kinh Bắc. Những hiện vật này hiện đang được
trưng bày và bảo quản rất tốt tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, giới thiệu với khách
tham quan một nét văn hóa độc đáo của Bắc Ninh nói riêng và của dân tộc nói
chung. Tuy nhiên đây mới chỉ là việc bảo tồn hiện vật ở dạng tĩnh. Cần phải hảo
tồn và phát huy nó trong trạng thái động như đã trình bày, để các hiện vật đó vẫn
được dùng biểu diễn cho khán giả hôm nay, nhất là thế hệ trẻ. Cùng với đó là
việc quảng bá một nghệ thuật độc đáo của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.
Chính việc bảo tồn này đang được thực hiện rất hiệu quả ở Khu Bảo tồn văn hóa
dân gian Luy Lâu dưới sự chỉ đạo của nghệ nhân Nguyễn Thành Lai.
Ðể làm được một con rối hoàn chỉnh, phải trải qua rất nhiều công đoạn từ
đục cốt đến trang trí hóa trang và rất nhiều công đoạn mà người nghệ nhân
không thể bỏ qua. Quân rối càng hoàn hảo, càng giúp cho kỹ xảo điều khiển
nâng cao, khả năng diễn đạt phong phú. Quân rối nước làm bằng gỗ tốt sẽ nặng
và chìm, trên thực tế, gỗ sung là chất liệu thông dụng để tạc con rối, vì loại gỗ
này nhẹ lại dai, chịu được nước, và rất dễ điều khiển trong khi biểu diễn dưới
31
nước(Phụ lục ảnh 18, tr.87).
Sau khi con rối được tạc với những đường nét cách điệu riêng, chúng
được đầu óc tinh tế của các nghệ nhân thổi vào luồng sức sống mới bằng cách
gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn khác nhau để làm tôn thêm
đường nét tính cách cho từng nhân vật, làm cho nhân vật được đặc sắc hơn,
trong sáng hơn trước người xem. Quân rối nước chính là sản phẩm của nghệ
thuật điêu khắc gỗ dân gian, nó vừa giàu tính hiện thực, vừa mộc mạc, đằm thắm,
trữ tình.
Trong kho tàng quân rối nước cổ truyền ta còn thấy những người đi cày,
chú tễu, người đánh cá, dàn nhạc, cô tiên...(Phụ lục ảnh 21, tr.89).Ở đây tài năng
của nghệ nhân đã đem lại cho ta cái tươi mát, đôn hậu, hiền dịu, niềm lạc quan
yêu đời, yêu thiên nhiên, con người qua cái bình dị đơn sơ được cách điệu và
nghệ thuật hóa. Quân rối nước dù tạc liền một khối gỗ hay chắp lại đều có hai
phần gắn liền nhau đó là phần thân và phần đế. Phần thân là phần nổi lên mặt
nước thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi
bên trên và là nơi lắp máy điều khiển cho quân rối cử động.
Máy điều khiển và kỹ xảo điều khiển trong múa rối nước rất được coi
trọng, nó tạo nên hành động của quân rối nước trên sân khấu, đó chính là mấu
chốt của nghệ thuật múa rối. Quân rối đẹp mới chỉ có giá trị về mặt điêu khắc.
Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình,
hành động làm trò đóng kịch của nó. Các nghệ nhân dân gian đã dựa vào kinh
nghiệm, lần mò trong thực tế, tìm tòi, sáng tạo và để lại cho đời nay nhiều kiểu
máy rối nước phong phú và đa dạng.
Tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, khách tham quan có thể gặp
ở đây khá nhiều đồ dùng thường ngày của nghề lúa nước mà người nông dân tự
làm ra như thừng, sào, vọt... để làm máy điều khiển quân rối. Máy điều khiển rối
nước có thể được chia làm hai loại cơ bản: máy sào và máy dây đều có nhiệm vụ
làm di chuyển quân rối và tạo hành động cho nhân vật. Máy điều khiển được
giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa, đem đến cho
32
người xem nhiều điều kỳ lạ, bất ngờ, thú vị.
Người nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò để điều khiển con rối. Họ
thao tác từng cây xào hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài
hoặc dưới nước. Ngâm bùn lội nước để làm nghệ thuật không phải là một công
việc bình thường thích thú với mọi người. Nếu không phải là người sống ân tình
với nước tới mức “Sống ngâm da, chết ngâm xương” như cư dân trồng lúa nước,
thì khó có được sự truyền cảm nồng nhiệt vào hành động của nhân vật rối nước.
Nếu như trước kia việc tạo hình con rối được tiến hành hoàn toàn thủ
công thì ngày nay tại Khu Bảo tồn, công nghệ tạo hình con rối đã được cải tiến
bằng máy móc. Cụ thể cải tiến bằng cách dùng máy tiện, máy chà, máy bào,
máy “quật” cho nhẵn con rối. Bên cạnh đó các nghệ nhân xưa dùng sơn ta để
sơn con rối thì nay các nghệ nhân ở đây đã dùng thếp bạc, vàng, sơn hóa học tạo
cho con rối có màu sắc phong phú, sống động hơn. Mặt khác xưa con rối lắp
bằng sắt, đinh, nhanh bị hỏng và khó điều khiển linh hoạt. Nay đã được các nghệ
nhân của phường cải tiến dùng vật liệu mới như cao su, dây cước, vừa bền hơn,
vừa mềm dẻo hơn trong cử động, điều khiển.
Kỹ nghệ chế tác các con rối cho các tiết mục biểu diễn của các nghệ nhân
làng Đồng Ngư cũng rất đa dạng, tinh xảo và hoàn hảo. So với các phường múa
rối khác, nghệ thuật múa rối nước Đồng Ngư và phường rối nước Luy Lâu có
nhiều nét độc đáo riêng có. Vốn nổi tiếng với nghề sơn mài và tạc tượng cho
đình chùa, nên các nghệ nhân ở Đồng Ngư, bằng tay nghề tài hoa của mình đã
chế tác ra những con rối rất đa dạng, tinh xảo. Gỗ để làm các con rối là các loại
gỗ nhẹ, thớ mịn và không có mấu như gỗ xoan, gỗ duối hay gỗ sung.
Qua các thế hệ, nghệ nhân nơi đây đã sáng tạo, chế tác được hơn 200 loại
con rối để biểu diễn. Khi biểu diễn, các phường múa rối nước khác thường điều
khiển con rối bằng gậy, bằng sào nhưng múa rối nước Đồng Ngư lại điều khiển
con rối bằng sào và dây. Để điều khiển được kỹ thuật này, đòi hỏi người biểu
diễn phải trải qua quá trình tập luyện rất vất vả, có tay nghề cao, đôi bàn tay dẻo
33
dai, uyển chuyển. Nhờ vậy, người điều khiển có thể đưa rối ra xa sân khấu, đến
gần hơn với khán giả đồng thời biểu diễn được nhiều động tác linh hoạt, sống
động và đặc biệt có hồn, rất hấp dẫn người xem.
Nghệ nhân Nguyễn Thành Lai cũng cho biết “Khác biệt lớn nhất của rối nước
Đồng Ngư và Luy Lâu so với các phường rối khác trong cả nước đó là lấy câu quan
họ để lồng ghép vào tiếng hát cho con rối. Đặc biệt làm nên “thương hiệu” rối nước
Đồng Ngư còn là ở công cụ biểu diễn. Ở nhiều nơi trò rối dây bị mai một và thất
truyền rất nhiều, nhưng phường rối Đồng Ngư và Luy Lâu vẫn giữ được kỹ thuật cổ
này. Tiêu biểu là tích trò rối dây Đám cưới chuột, Mời trầu. Đây là những tiết mục
biểu diễn không một nơi nào có, khácbiệt hoàn toàn so với các phường rối khác, bởi
nó gắn liền với tranh dân gian Đông Hồ và những câu ca quan họ”.
Ngoài ra, phường rối còn sử dụng các nhạc cụ như trống, tù và, mõ và
phường bát âm. Sau này, thêm những nhạc cụ như đàn nguyệt, đàn tranh cùng
các làn điệu dân ca quan họ được đưa vào phối hợp trong chương trình biểu diễn
để tạo không khí cho các buổi biểu diễn thêm sôi động và hấp dẫn. Chính phong
cách biểu diễn này của phường rối Đồng Ngư đã càng gây được sự hứng khởi,
cuốn hút khán giả đến xem đông hơn nhiều trong các buổi biểu diễn.
Đến nay, tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, ông Nguyễn
Thành Lai đã tiến hành xây dựng thành khu chế tạo và trưng bày với tổng diện tích
khoảng 300m2, chia làm 4 phòng: phòng tạo hình, phòng sơn, phòng lắp máy,
phòng trưng bày.
Cùng với việc sưu tầm, chế tác và cải tiến con rồi, Khu Bảo tồn con tiến
hành sưu tầm lại những tích trò cổ của làng Đồng Ngư xưa bị thất truyền như:
Đám cưới chuột, nhào vòng, đốt vòng lửa (những trò chỉ có ở Đồng Ngư), tiết
mục đánh đu truyền thống. Đồng thời sáng tạo thêm một số trò mới như Tôn
Ngộ Không (Phụ lục ảnh 19, tr.88), chú mèo lười, chú voi con ở Bản Đôn được
các em thiếu nhi rất thích thú. Thông qua đó cũng nhằm để thu hút thế hệ trẻ
tham gia trải nghiệm văn hóa truyền thống, tạo cho các em có lòng đam mê
34
nghệ thuật của ông cha.
2.2.1.2. Đào tạo diễn viên
Hiện nay tình trạng múa rồi nước đều đang có những hạn chế về kỹ thuật
trong công tác đào tạo, nghệ thuật múa rối đang lâm vào tình trạng thiếu cán bộ múa
rối trầm trọng, đặc biệt là đội ngũ các nhà biên kịch, đạo diễn, diễn viên múa rối, hay
tạo hình con rối đều đang gặp khó khăn. Chính vì vậy làng Đồng Ngư và Công ty
TNHH MTV Rối nước Thuận Thành cùng phối hợp với Sở VH - TT & DL tỉnh Bắc
Ninh mở lớp đào tạo múa rối. Các lớp đào tạo, tập huấn bắt đầu được khai giảng từ
năm 2019, dưới sự hướng dẫn, chỉ dạy từ ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc công ty
TNHH MTV Rối nước Thuận Thành.
Trong quá trình tập huấn và đào tạo múa rối nước, ông Nguyễn Thành Lai
đã giới thiệu khái quát lịch sử múa rối nước Việt Nam nói chung và sự ra đời
của rối nước Đồng Ngư nói riêng tới các học viên tham gia khóa học.
Về phần truyền dạy múa rối nước, ông đã hướng dẫn cách biểu diễn (cách
điều khiển con rối). Có 2 cách điều khiển con rối đó là: Dùng hệ thống máy dây
và dùng hệ thống máy sào.
Máy dây: là hệ thống dây được giấu kín dưới mặt nước, máy dây phải
đóng cọc, căng dây, gài máy trước giờ biểu diễn. Hệ thống cọc đóng ngầm dưới
mặt nước, sân khấu để kéo một bàn máy lớn, trên có lắp các con rối. Dây chão
được căng từ trong buồng trò hoặc dài thành vòng (để đầu tha ra, đầu kéo về)
hoặc chỉ là một dây thẳng để bàn máy trượt khi bị kéo ra hay co vào.
Máy dây thường dùng cho các trò tập thể như: múa sư tử, vinh quy bái tổ
(rước kiệu), Những con rối theo bố trí của máy dây có thể đi xa và trở về từ 7
đến 10m để gần với khán giả hơn. Ở loại máy này, có thể điều khiển cùng một
lúc nhiều con rối (từ một đến vài chục con rối). Khi biểu diễn máy dây, đòi hỏi
người biểu diễn phải hiểu nguyên lý hoạt động của máy, cần có sự khéo léo, cẩn
thận, tỉ mỉ, chính xác.
Máy sào: là một cây tre hoặc gỗ dài khoảng 1 mét đến 2 mét, đều có bổ
35
phận chuyển động quân rối và các bộ phận trong thân hình nó. Máy sào lại được
chia làm 2 loại: máy sào đơn giản và máy sào phức hợp. Máy sào đơn giản chỉ giữ
và làm di chuyển toàn thân con rối như: đi lại, ra vào và xoay chuyển hướng đứng.
Máy sào phức hợp có thêm bộ phận làm cử động từng phần trên thân hình
và toàn thân con rối như: Giơ tay, đá chân, quay phải, quay trái, cúi đầu… với
sự điều khiển của nhiều người như: Người giữ sào, người kéo dây làm cho con
rối giơ tay, quay thân, với loại máy này, con rối có khả năng làm nhiều động tác
di chuyển, lại không bị buộc vào một đường dây căng sẵn như máy dây. Khi
biểu diễn máy sào đòi hỏi người biểu diễn phải có sức khỏe tốt, phải biết tận
dụng lực cản của nước để làm cho con rối trở nên linh hoạt, ngay ngắn và uyển
chuyển hơn.
Sự khác nhau giữa cách diễn của các nhà hát chuyên nghiệp và các
phường rối nước dân gian:
Cách diễn của các nhà hát chuyên nghiệp: thường nhẹ nhàng, đều đặn (ra
cùng ra, vào cùng vào, quay phải cùng quay phải, quay trái cùng quay trái,quay
tròn cùng quay tròn, lặn cùng lặn, nhảy cùng nhảy, phun nước cùng phun nước),
kịch tính, cao trào,…Vì vậy, làm nên yếu tố bất ngờ, thích thú cho người xem.
Cách diễn của các phường múa rối nước dân gian: thường không có yếu
tố nhẹ nhàng, đều đặn, kịch tính, cao trào…mạnh ai người nấy diễn, tùy theo
sức khỏe và sự đam mê của người biểu diễn. Vì vậy, làm nên sự độc đáo của
rối nước dân gian.
Tiếp đến là phần cách biểu diễn các tiết mục của phường múa rối nước
Đồng Ngư. Cũng giống như các phường múa rối nước dân gian khác, phường
múa rối nước Luy Lâu Đồng Ngư cũng có 16 tích trò cổ và có hơn 10 tích trò khác
biệt, gắn liền với miền quê Kinh Bắc, những làn điệu dân ca quan họ và tranh dân
gian Đông Hồ.
Riêng về hoạt động đào tạo, cho đến nay Khu bảo tồn đã tổ chức được nhiều
lớp dạy nghề, đào tạo hơn 30 diễn viên biểu diễn rối nước, đủ diễn viên cho 2 đoàn
36
của Công ty và có thể tham gia biểu diễn rối nước khắp mọi miền của Tổ quốc.
Cùng với việc đào tạo diễn viên biểu diễn rối nước, từ năm 2019, với sự
tài trợ của Sở VH-TT&DL tỉnh Bắc Ninh, Khu Bảo tồn cũng tổ chức đào tạo 2
lớp cho các em học sinh, một lớp 18 học sinh, một lớp 23 học sinh. Tại lớp học,
học sinh được trang bị lý thuyết cơ bản: rối nước địa phương, rối nước Việt Nam,
thực hành, thực hành trên cạn, sau đó biểu diễn dưới nhà thủy đình, biểu diễn tốt
nghiệp(Phụ lục ảnh 41, tr.99). Kết thúc khóa học, học viên được Sở VH -
TT&DL tỉnh cấp chứng chỉ (Phụ lục ảnh 37, tr.97).
Ông Nguyễn Thành Lai cho biết: Dự định bắt đầu từ năm tới (2022), Khu
Bảo tồn sẽ thường xuyên mở các lớp đào tạo rối nước, đưa hoạt động này trở
thành thường niên, không thu học phí để góp phần bảo tồn, quảng bá nghệ thuật
rối nước đối với địa phương và cả nước (Phụ lục ảnh 29, tr.93).
Về phương pháp đào tạo của giáo viên Khu Bảo tồn, theo khảo sát và tìm
hiểu của nhóm tác giả cho thấy: Từ trước tới nay, việc đào tạo trong lĩnh vực
nghệ thuật sân khấu múa rối nói chung tồn tại hai hình thức. Đào tạo theo lối
truyền nghề, đó là cách đào tạo truyền thống.
Tất cả các phường Rối cạn cũng như Rối nước tồn tại như một hình thức văn
nghệ dân gian. Nó có nhiều ưu điểm là người học nghề có khả năng bắt chước
nhanh, thuần thục những gì được học, nhưng khả năng tư duy, sáng tạo độc lập lại
hạn chế, bởi chỉ được truyền những kinh nghiệm và thủ thuật diễn một cách máy
móc và dập khuôn. Hình thức đào tạo theo trường lớp, học theo khung chương
trình, có giáo án, giáo trình, ngoài môn chuyên ngành còn phải học nhiều môn kiến
thức cơ bản và liên ngành khác.
Vì vậy, học viên khi tốt nghiệp có khả năng tư duy và sáng tạo độc lập
theo ý đồ của đạo diễn cũng như của tập thể. Hình thức theo kiểu trường lớp này
có tính khoa học nhưng thực chất không có hiệu quả bằng lối đào tạo truyền
nghề như ở mô hình đào tạo truyền thống ở một số địa phương; cũng như Tuồng,
Chèo phương pháp đào tạo tại chỗ, cha truyền con nối là hình thức có hiệu quả
37
hơn.
Múa rối nước là loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống, từ xưa tới nay
vẫn là truyền nghề là chính, vì thế mà vai trò của nghệ nhân rất quan trọng:
Nghệ nhân tạo hình con rối, làm máy móc điều khiển con rối và biểu diễn.Vì thế
nên trong chương trình đào tạo, Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu đã rất
chú trọng quan tâm đến việc sử dụng nghệ nhân, đào tạo lực lượng diễn viên
Múa rối nước trẻ. Đào tạo phải gắn với thực hành, nghĩa là phải tổ chức hoạt
động biểu diễn thường xuyên để diễn viên trẻ được thực hành, được nâng cao kỹ
năng, được tiếp cận thường xuyên với công chúng.
Thực tế có một số phường Múa rối nước đào tạo xong một lớp diễn viên
rồi chỉ chobiểu diễn mấy buổi báo cáo rồi nghỉ kéo dài vì không tổ chức biểu
diễn được, trong khi sân khấu Múa rối nước phải thường xuyên đến với quần
chúng, vì đối tượng mà nó phục vụ cũng là nguồn động viên cho nghệ thuật phát
triển.
Bên cạnh đó cũng cần phải có tài liệu giảng dạy cho học viên. Tài liệu
giảng dạy được biên soạn công phu, chi tiết, khoa học, sát với thực tế sẽ giúp
cho học viên có kiến thức bao quát hơn về rối nước nói chung và rối nước Đồng
Ngư nói riêng (Phụ lục ảnh 46, tr.103). Chính phương pháp này đã góp phần đào
tạo nên những diễn viên giỏi về nghề, đi biểu diễn rối nước ở khắp nơi. Trải qua
chiến tranh loạn lạc, cuộc sống còn nhiều khó khăn, phường rối nước Đồng Ngư
cũng dần bị mai một, tưởng chừng như thất truyền nhưng nhờ những lớp đào tạo
của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu mà sức sống của rối nước Đồng
Ngư dần hồi phục và khởi sắc.
2.2.1.3.Tổ chức biểu diễn
Theo các nhà nghiên cứu, nghệ thuật rối nước của dân tộc đã xuất hiện ít
nhất từ thời Lý, cách đây trên 1000 năm. Trải qua bao thăng trầm, đến nay,
phường rối nước Đồng Ngư (xã Ngũ Thái, Thuận Thành, Bắc Ninh) vẫn là một
trong 14 phường rối dân gian trong cả nước còn hoạt động với nhiều tiết mục
đặc sắc và phong phú, khẳng định sức sống lâu bền của loại hình nghệ thuật độc
38
đáo này.
Như đã trình bày, múa rối nước Đồng Ngư không chỉ độc đáo bởi những
tích trò mà còn cuốn hút người xem bằng những làn điệu dân ca quan họ mượt
mà, đằm thắm, không phường múa rối nước nào có được. Rối nước Đồng Ngư
cũng cuốn hút người xem với các tích trò độc đáo như: Đốt pháo bật cờ; mời
trầu; vào chùa; đánh đu; chăn trâu thổi sáo... Trong làng hiện còn lưu giữ bức
tượng phủ sơn nâu, làm bằng gỗ mít, cũng chính là tượng Tổ trò của làng, người
đã có công truyền dạy và phát triển nghệ thuật rối nước Đồng Ngư.
Với mong muốn bảo tồn nét văn hóa của địa phương, Khu Bảo tồn văn
hóa dân gian Luy Lâu ra đời bằng chính sự nhiệt huyết của cá nhân ông trùm
phường Nguyễn Thành Lai, cộng với sự đóng góp tinh thần và vật chất của
chính quyền và người dân địa phương. Từ khi đi vào hoạt động, đến nayphường
đã đi biểu diễn khắp nơi. Trung bình mỗi năm phường rối đi diễn khoảng 40-50
lượt, mang theo bản sắc quê hương đến mọi miền, quảng bá và lan tỏa dân ca
Quan họ Bắc Ninh. Sự kết hợp hài hòa giữa những điệu nhạc, câu quan họ và
nghệ thuật truyền thần cho những con rối đã thể hiện được tâm tư, tình cảm của
những người dân vùng Kinh Bắc.
Nếu như trước đây phường rối Đồng Ngư có 28 thành viên, một năm chỉ
biểu diễn dịp hội làng vào ngày 15/4 Âm lịch và 1, 2 lễ hội thuê - số lần biểu
diễn đếm trên đầu ngón tay, thì cho đến nay múa rối nước Đồng Ngư được quan
tâm hơn. Hiện, phường rối nước Đồng Ngư có khoảng 20 người, phường Luy
Lâu khoảng 40 nghệ sĩ, diễn viên và cộng tác viên. “Đất diễn” cũng rộng hơn,
không chỉ trong huyện, trong tỉnh mà vươn ra cả các lễ hội văn hóa lớn ở tỉnh,
thành bạn như Hưng Yên, Quảng Ninh, Hà Nội và cả trong các bảo tàng ở Hà
Nội, Thái Nguyên,..
Theo Trưởng phường rối nước Luy Lâu, một buổi biểudiễn rối nước hay
kết hợp giữa 4 yếu tố như con người, nghệ thuật múa, quân rối và thủy đình. Để
có màn ra sân biểu diễn, hàng chục con người phải tập trung, thống nhất với
nhau về tư tưởng, kết hợp nhuần nhuyễn, không quản ngại khó phục vụ nhân
39
dân. Điều quan trọng nhất, tất cả “nghệ sĩ” phải “cảm giác” được sân khấu, dù
có tập nhuần nhuyễn đến mấy nhưng khi diễn phải kết hợp tốt giữa tay, tai, mắt,
kết hợp trên bờ và dưới nước ăn ý nhau, không được múa trước hát sau hoặc
ngược lại.
Trong năm 2020, phường rối nước Luy Lâu đã biểu diễn được hơn 200 ca
diễn phục vụ cho các sự kiện, lễ hội và nhu cầu vui chơi, giải trí trong và ngoài
tỉnh. Cụ thể: Biểu diễn được 3 tháng đầu năm tại Khu vui chơi giải trí quốc tế
Tuần Châu (Hạ Long, Quảng Ninh) với gần 100 diễn viên tham gia biểu diễn.
Tại đây, trung bình mỗi ngày đoàn phải biểu diễn 6 ca phục vụ khách du lịch.
Tập đoàn Tuần Châu là đơn vị cộng tác thường xuyên với Khu bảo tồn văn hóa
dân gian Luy Lâu trong suốt 5 năm qua (2015 - 2020), nhưng vì tình hình dịch
Covid 19 nên phải dừng biểu diễn từ khi dịch đến nay.
Bên cạnh đó đơn vị đã biểu diễn 20 ca theo chỉ đạo của Sở VH -
TT&DLtại 7 huyện, thị xã và Thành phố của tỉnh, nhằm bảo tồn và quảng bá
hình ảnh múa Rối nước dân gian Kinh Bắc. Ngoài ra đơn vị đã tiến hành biểu
diễn hơn 50 ca diễn lưu động với sự hợp tác cùng các đơn vị du lịch như: Bảo
tàng Dân tộc học, Công ty Sun Tour, công ty Kinh Bắc, công ty Minh Tâm và
một số đơn vị khác.Múa rối được ưa chuộng, thu nhập của nghệ nhân, diễn viên
cũng nhờ đó mà được cải thiện. Một số anh em diễn viên của Khu Bảo tồn gắn
bó và tâm huyết với nghề, thu nhập 6-7 triệu đồng/tháng, quản lý khoảng 9-10
triệu đồng.
Tháng 10/2017, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt Đề án “Bảo tồn và
phát huy giá trị múa rối nước làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh” Dự án triển khai từ năm 2018-2020, kinh phí gần 17 tỉ đồng,
trong đó xây dựng lại các công trình phục vụ biểu diễn rối nước như: Thủy đình,
nhà văn hóa…; Phường múa rối nước Luy Lâu cũng được tài trợ kinh phí để đầu
tư sân khấu, hệ thống âm nhạc, con trò (Phụ lục ảnh 34, tr.95).… Cùng với đó, tỉnh
Bắc Ninh đã lập hồ sơ trình Bộ VH - TT &DL ghi danh nghệ thuật rối nước của
40
làng Đồng Ngư là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng bằng sự nỗ lực của biết bao thế hệ,
nghệ thuật rối nước phường Đồng Ngư đã vượt qua khỏi lũy tre làng, mang theo
bản sắc quê hương Bắc Ninh - Kinh Bắc đến mọi miền của tổ quốc, quảng bá
nghệ thuật truyền thần cho những con rối và lan tỏa Dân ca Quan họ Bắc Ninh
thông qua các buổi biểu diễn tại nhiều liên hoan sân khấu múa rối toàn quốc và
đạt được những giải thưởng cao (Phụ lục ảnh 49, tr.105).Nổi bật là giải Nhất
trong Liên hoan nghệ thuật múa rối không chuyên năm 2002 tại Hà Nội; Giải
Nhất Liên hoan múa rối nước tại Liên hoan múa rối ở Huế năm 2004; Giải Nhì
Liên hoan múa rối toàn quốc lần thứ nhất năm 2011 tại Hải Dương và được trao
tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen của các đơn vị như Hội nghệ sĩ sân khấu Việt
Nam, Cục nghệ thuật biểu diễn, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, trong đó có
đóng góp đắc lực của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu (Phụ lục ảnh 50,
tr.105); (Phụ lục ảnh 51, tr.106); (Phụ lục ảnh 52, tr.106).
Có thể nói qua nhiều năm, bao thăng trầm, với sự nhiệt tình, tâm huyết
của các nghệ nhân ở Đồng Ngư nói chung và Khu bảo tồn văn hóa dân gian Luy
Lâu nói riêng, nghề múa rối nước Đồng Ngư đã đi vào quy củ, chuyên nghiệp,
thành đoàn, thành phường, để đem nét văn hóa truyền thống của vùng đất Kinh
Bắc đến với nhiều vùng miền trong cả nước.
2.2.2. Bảo tồn các trò chơi dân gian
Trò chơi dân gian là một trong những kho tàng của di sản văn hoá, có ý
nghĩa đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng các dân tộc. Mỗi trò chơi tuy có ý
nghĩa, cách chơi khác nhau, nhưng tựu chung đều xuất phát từ cuộc sống lao
động sản xuất hằng ngày của đồng bào, phục vụ mục đích vui chơi, giải trí, rèn
luyện sức khỏe, tăng cường đoàn kết cộng đồng.
Trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam, trò chơi dân gian không
chỉ là những sản phẩm mang tính vận động đặc trưng mà còn biểu hiện tinh thần
xuất phát từ trong lao động sản xuất của người Việt xưa. Tuy nhiên, xã hội càng
phát triển, loại hình di sản văn hóa này ngày càng mai một. Sự giao lưu và tiếp
41
biến những ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp của nhiều trào lưu văn hóa
đương đại đã dẫn tới sự đổi thay mang tính tiêu cực đối với trò chơi dân gian
của các dân tộc. Bảo tồn trò chơi dân gian vốn đã khó, phát huy nó trong xã hội
hiện đại còn nhọc nhằn hơn.
Từ khi đi vào hoạt động, Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu đã tổ
chức sưu tầm và khôi phục các trò chơi dân gian vốn rất đỗi quen thuộc với trẻ
em và cả người lớn ở nông thôn Việt Nam truyền thống. Các trò chơi dân gian
phổ biến thường xuất hiện trong các lễ hội truyền thống và cả trong sinh hoạt vui
chơi giải trí hằng ngày có thể kể đến như: Đấu vật, tổ tôm điếm, thả diều sáo,
chọi gà, thả chim bồ câu, bịt mắt bắt dê, bịt mắt đập niêu, bắt vịt dưới ao, bắt
chạch trong chum, đi cà kheo, nhảy sào, chơi ô ăn quan, chi chi chành chành,
trồng nụ trồng hoa, rồng rắn lên mây, đi cầu khỉ…được cả trẻ em và người lớn
rất yêu thích (Phụ lục ảnh 38, tr.97).Vài chục năm trở lại đây, với sự lấn át của
các trò chơi hiện đại và của Trung Quốc, các trò chơi dân gian của người Việt
dần thưa vắng bóng trong đời sống thường ngày, và cả trong các lễ hội.
Thực tế, trò chơi văn hóa dân gian của các dân tộc như: nu na nu nống, thả
đỉa ba ba, trồng nụ, bịt mắt bắt dê, chơi ô ăn quan, chắt chuyền... kèm theo các
câu đồng dao khuyến khích sự khéo léo, vui đùa tập thể chứ không hề nhàm
chán như hình thức giải trí hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ thời hiện đại.
Bên cạnh đó, các trò như: đánh khăng, trốn tìm, cướp cờ, ống phóc, nhảy dây,
nhảy baobố (Phụ lục ảnh 40, tr.99)... còn thể hiện sự khéo léo, tính tập thể. Lớn
dần lên theo lứa tuổi lại có các trò chơi có tính chuyên môn hơn như: bắn nỏ,
đẩy gậy, đi cà kheo, thi bơi, vật, ném còn...
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, trò chơi dân gian có vai trò vô cùng
quan trọng trong sinh hoạt, góp phần giáo dục con người về tính tập thể, tinh
thần kỷ luật, ý chí vươn lên giành chiến thắng, rèn luyện thể chất, sức mạnh, dẻo
dai, khôn khéo và sức chịu đựng của con người, giúp con người ngày càng phát
triển toàn diện về trí, đức, mỹ. Nhận thức được vai trò, giá trị của trò chơi dân
42
gian truyền thống, ngay từ khi mới bắt đầu đi vào hoạt động.
Khu Bảo tồn đã tiến hành khôi phục, sưu tầm và tiến hành tổ chức lại rất
nhiều trò chơi trong khuôn viên khu bảo tồn, đồng thời liên kết với các bảo tàng,
các khu đô thị nhận ký hợp đồng đứng ra tổ chức các trò chơi dân gian xưa phục
vụ khách tham quan và khách du lịch, như Bảo tàng Dân tộc học (Hà Nội), Bảo
tàng các dân tộc Việt Nam (Thái Nguyên), Khu đô thị Ecopack (Hưng Yên), Khu
đô thị Ecoriver (Hải Dương).
Đây là những đơn vị đã ký hợp đồng với Khu Bảo tồn hoạt động thường
xuyên từ nhiều năm nay. Cụ thể đã dàn dựng và tổ chức các hoạt động trò chơi
phục vụ Hội xuân Ecopack Hưng Yên từ mùng 3 đến mùng 7 Tết, Khu đô thị
Ecoriver Hải Dương từ mùng 2 đến mùng 6 Tết…Mỗi sự kiện doanh thu bình
quân khoảng 300 triệu đồng. Điều quan trọng là các hoạt động đã đem niềm vui
tiếng cười cho hàng vạn du khách vui xuân và được sự hài lòng, tin tưởng của
đối tác. Đơn vị cũng đã dựng 2 cây đu tre truyền thống và 1 cây nêu cho Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam, phục vụ làm phóng sự và du khách tham quan tại
đây. Đồng thời luôn duy trì các hoạt động trải nghiệm và trò chơi dân gian tại
Khu bảo tồn trong hai ngày cuối tuần và đặc biệt các dịp lễ, tết và sự kiện của
đơn vị.
Qua thực tế việc tổ chức trò chơi tại Bảo tàng dân tộc học và các khu đô
thị mà đơn vị ký hợp đồng cho thấy hiện nay việc hướng giới trẻ tìm về với văn
hóa giải trí dân tộc không phải là một bài toán dễ, nhất là khi công nghệ đã và
đang tác động quá sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày. Vì thế, việc bảo tồn và
duy trì trò chơi dân gian trong các lễ hội dường như chưa đủ để hấp dẫn những
người trẻ.
Những năm vừa qua, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã tổ chức chương
trình hoạt động với chủ đề: Cùng chơi trò chơi dân gian các nước. Chương trình
này tạo cơ hội cho trẻ em tăng cường hiểu biết về văn hóa Việt Nam và một số
nước trên thế giới với các hoạt động vui chơi, khám phá như: trẻ em trình diễn
trang phục các nước, múa rối nước, rối cạn, làm đồ chơi dân gian, chơi trò chơi
43
dân gian…
Đây được coi là một trong những sáng tạo mới nhằm giúp trẻ em Việt
Nam có cơ hội tiếp cận với trò chơi dân gian. Bên cạnh đó, hình thức giao lưu
trò chơi dân gian giữa các nước cũng sẽ giúp trẻ em Việt Nam ý thức được trách
nhiệm của mình với di sản văn hóa của dân tộc. Trong khuôn khổ chương trình,
hoạt động khám phá các trò chơi dân gian giới thiệu đến công chúng nhỏ tuổi sự
đa dạng trò chơi của các nước.
Cùng một trò chơi, các em có thể khám phá bằng nhiều cách chơi khác
nhau như: chơi lò cò có kiểu chơi khác nhau của Ấn Độ, Indonesia, Oman,
Jordan, Việt Nam… Trò chơi kéo co có kiểu kéo hai góc của Việt Nam và ba
góc, bốn góc của Thái Lan; trò chơi ô ăn quan của Indonesia, Philippines và Việt
Nam có sự khác nhau về dụng cụ chơi, cách chơi… Những hoạt động trải
nghiệm tại Bảo tàng mà đơn vị tham gia tổ chức giúp các em khám phá
nhữngnét tương đồng và khác biệt trong văn hóa của Việt Nam và các nước,
đồng thời tự cảm nhận và thêm yêu những di sản văn hóa của quê hương mình.
Hiện nay theo đánh giá từ phía các công ty tổ chức sự kiện, Công ty
TNHH MTV Rối nước Thuận Thành là một đơn vị tổ chức trò chơi dân gian lớn
nhất miền Bắc. Mỗi sự kiện, Công ty huy động khoảng từ 30 đến 50 diễn viên,
nghệ nhân đi phục vụ việc tổ chức các trò chơi, góp phần bảo tồn một di sản văn
hóa dân gian dân tộc đang có nguy cơ bị mai một trước bối cảnh toàn cầu hóa,
hiện đại hóa.
2.2.3. Bảo tồn các loại hình dân ca cổ truyền
Thuận Thành là một vùng đất cổ của trấn Kinh Bắc xưa và Bắc Ninh ngày
nay, nơi còn lưu giữ được rất nhiều thể loại dân ca cổ truyền của dân tộc. Ngoài
quan họ còn có ca trù và hát trống quân. Đây là những loại hình nghệ thuật dân
gian truyền thống được người dân gìn giữ qua nhiều đời nay.
Thời gian qua các loại hình nghệ thuật này được các nghệ nhân ở đây lưu
truyền và gìn giữ rất tốt. Tại Khu Bảo tồn, việc phối kết hợp với các nghệ nhân
quan họ, hát ca trù, trống quân, hát xẩm…được thực hiện rất có hiệu quả. Riêng
44
với CLB hát trống quân, đến nay Khu Bảo tồn đã kết hợp với các nghệ nhân Bùi Xá
(xã Nghĩa Đạo) sưu tầm được hơn 100 bài hát trống quân cổ thường xuyên tập luyện
và truyền dạy.
Theo các nhà nghiên cứu thì lời và nhịp của hát trống quân Bùi Xá vừa ngân
nga, thong thả, vừa có độ “vang, rền, nền, nảy” của Quan họ. Hát trống quân đòi hỏi
người hát phải có niềm đam mê, khả năng đối ứng nhanh nhẹn trong các cuộc thi hát.
Nổi bật ở hát trống quân là chiếc trống để bắt nhịp điệu hát, trống gồm một thanh gỗ
nằm ngang, hai bên có hai cọc nối với nhau bằng sợi dây thép, chính giữa sợi dây đặt
trống, người nhạc công gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật vào đáy trống kêu thành
tiếng. Những câu thơ trong lời hát trống quân giúp con người hướng đến vẻ đẹp
trong tâm hồn, sống chung thủy, nghĩa tình ởđời.Với những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp, năm 2016, Bộ VH - TT&DL có quyết định công nhận hát trống quân
Bùi Xá là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Với loại hình nghệ thuật truyền thống hát ca trù được UNESCO ghi danh
là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, Thuận Thành có hơn 10
thành viên trong CLB hát ca trù Thanh Tương (xã Thanh Khương) đang tiếp tục
gìn giữ. Đây là thể loại khó hát đòi hỏi người hát phải tìm hiểu, thực hành luyện
tập rất nhiều, vì vậy khó thu hút thế hệ trẻ tham gia.
Cùng với việc bảo tồn các loại hình nghệ thuật truyền thống sẵn có, Thuận
Thành còn lan tỏa hát Dân ca Quan họ trong các thôn, xã. Hiện nơi đây có hàng trăm
người tham gia thực hành hát Quan họ ở các địa phương, trong đó có 6 CLB Quan
họ tiêu biểu được công nhận là làng Quan họ thực hành: CLB Quan họ thôn Tam Á
(Gia Đông); CLB Quan họ Sông Quê, thôn Đông Khê (Song Hồ); CLB Quan họ
thôn Bút Tháp (Đình Tổ); CLB Quan họ thôn Chợ (An Bình); CLB Quan họ Hương
Quê thôn Nghi Khúc (An Bình); CLB Quan họ Hương Quê (thị trấn Hồ).
Để thúc đẩy việc tập luyện, gìn giữ, phát huy giá trị các loại hình nghệ
thuật truyền thống, Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu thường xuyên tổ
chức các buổi giao lưu các CLB, phối hợp với Trung tâm Văn hóa tỉnh mở các
lớp truyền dạy hát ca trù, trống quân, Quan họ cho các cháu học sinh trên địa
45
bàn xã Ngũ Thái và trên địa bàn huyện Thuận Thành (Phụ lục ảnh 42, tr.100).
Từ năm 2019, Khu Bảo tồn đã kết hợp với Trường Trung cấp Văn hoá,
Nghệ thuật và Du lịch Bắc Ninh là đơn vị chuyên đào tạo, bồi dưỡng năng khiếu
văn hóa, nghệ thuật, tổ chức các lớp đào tạo Quan họ tại Khu bảo tồn.Tiêu biểu
năm 2020, đã mở một khóa 13 học sinh, một khóa 18 học sinh tiểu học và THCS.
Kết thúc khóa học, học sinh được cấp chứng chỉ đã tham gia lớp đào tạo.Thực tế
cho thấy đây là cách làm sáng tạo, các CLB dân ca nói chung và CLB Quan họ
măng non nói riêng trở thành một mô hình hiệu quả trong thực hiện chương
trình hành động bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa dân ca Quan
họ,đồng thời trực tiếp góp phần bồi đắp tâm hồn tình yêu quê hương làng xóm,
tình yêu với thầy cô, với bạn bè trong mỗi em nhỏ, làm cho Quan họ và các loại
hình dân ca của Bắc Ninh ngày càng lan tỏa, vươn xa và có sức sống bền vững
trong đời sống đương đại.
Trong hoạt động bảo tồn và phát huy di sản dân ca Quan họ, một hoạt
động vô cùng quan trọng và ý nghĩa được ông Nguyễn Thành Lai tiến hành, đó
là việc phục dựng lại ngôi nhà chứa quan họ đặc trưng vùng Kinh Bắc (Phụ lục
ảnh 6, tr.81).
Về ngôi nhà chứa Quan họ, ông Lai giải thích: Theo các nhà nghiên cứu,
quan họ có hoạt động văn hóa nghi lễ tín ngưỡng tương đối hoàn chỉnh, bao gồm
cơ sở vật chất và phương thức hoạt động. Ngoài cơ sở vật chất và địa điểm sẵn
có của làng để sinh hoạt văn hóa quan họ như đình, đền, chùa, sân đình, sân
chùa hoặc đồi, đê, ao, hồ… còn có một cơ sở vật chất quan trọng hơn cả, của
riêng từng bọn quan họ đó là “nhà chứa”.
Nhưng nhà chứa xưa là vậy nay sinh hoạt chủ yếu ở nhà văn hóa xã
phường. Vậy tốt nhất “nhà chứa” do các cá nhân làm theo phương thức xã hội
hóa. Nhà nước nâng cấp các nhà văn hóa cho hiện đại hơn, văn minh hơn để
phục vụ nhu cầu văn hóa Quan họ cho từng địa phương. Nơi chơi quan họ - “nhà
chứa” đơn giản chỉ là “ngôi nhà” để “chứa” bọn quan họ. Đây là nơi hội họp,
giao lưu, luyện tập, nơi “ngủ bọn” của bọn quan họ và thế hệ kế tiếp học nghề
46
chơi. Nhà chứa còn là địa điểm đón tiếp và mời cơm quan họ bạn, là nơi tổ chức
canh giữa bọn quan họ và bọn Quan họ kết chạ với nhau trong những dịp lễ, hội
của làng. Xưa kia, mỗi “bọn Quan họ” đều có nhà chứa riêng theo nghĩa bóng là
nơi quy ước, bởi vì đa số đều là dân nghèo nhà tranh vách đất. Nhà chứa Quan
họ là ngôi nhà rộng rãi, thoáng mát, khang trang để đáp ứng những yêu cầu sinh
hoạt văn hoá Quan họ thì chính là nhà quan làng. Họ thường là những liền anh,
liền chị cao tuổi, có uy tín nhất trong “bọn quan họ” (Phụ lục ảnh 44, tr.101).
Nhà chứa quan họ tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu được khánh
thành vào cuối năm 2019 với tổng kinh phí xây dựng gần 1 tỷ đồng. Ngôi nhà
được thiết kế gồm 5 gian, 18 cột: gian giữa có bàn thờ và trải chiếu hoa hát quan
họ giao lưu. Trong nhà còn trưng bày một số hiện vật liên quan đến hát và biểu
diễn quan họ như áo tứ thân, khăn mỏ quạ, giày, guốc, nón quai thao, ô lục soạn
(Phụ lục ảnh 8, tr.82) của liền anh, liền chị quan họ. Bên ngoài cửa tự tay ông
Nguyễn Thành Lai thiết kế đan chiếc “giại” bằng tre để che mưa, che nắng. Ông
rất thích câu đố dân gian về chiếc giại này viết thành hàng chữ treo lên đó.
“Đem thân che nắng cho người/ Rồi ra mang tiếng con người chả khôn” (cái giại
- Câu đố dân gian).
Ông Lai cho biết thêm: để làm được ngôi nhà này, ông đã được cán bộ
của Sở VH - TT&DL tỉnh giúp đỡ về kiểu dáng, mẫu mã thiết kế và cách thức
quảng bá duy trì hoạt động. Trước khi bắt tay vào xây dựng ngôi nhà, ông Lai đã
cùng với cán bộ của Sở đi tham quan mẫu một số ngôi nhà chứa quan họ cổ trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh như Lũng Giang (thị trấn Lim, Tiên Du); Khu Đương Xá,
phường Vạn An và làng Diềm, xã Hoà Long (thành phố Bắc Ninh) để tham khảo
mẫu nhà chứa rồi thuê thợ thiết kế. Tại ngôi nhà chứa này, Khu Bảo tồn đã tiến
hành tổ chức mời các nghệ nhân trong huyện Thuận Thành như CLB quan họ
thôn Ngọc Khám, CLB quan họ thôn Liễu Khê (xã Song Liễu) và một số CLB
quan họ tỉnh Hải Dương đến giao lưu, biểu diễn quan họ, tái hiện không gian
47
nhà chứa hát quan họ xưa.
2.3. Hoạt động bảo tồn thông qua tổ chức sự kiện và đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất
2.3.1. Tổ chức sự kiện
Tổ chức sự kiện là một quá trình bao gồm một số hoặc toàn bộ các công
việc: nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng; lập chương trình, kế hoạch; chuẩn bị các
hạng mục cần thiết và tổ chức tiến hành các diễn biến của sự kiện trong một thời
gian và không gian cụ thể để truyền đạt những thông điệp nhất định đến người
tham gia sự kiện và xã hội, nhằm đáp ứng các mục đích khác nhau của chủ thể
tham gia vào sự kiện.
Tổ chức sự kiện nhìn chung là một loại hình kinh doanh dịch vụ rất đa
dạng và phong phú do đó nó vừa chịu sự chi phối của đặc điểm kinh doanh dịch
vụ nói chung và những điểm nổi trội của ngành truyền thông. Đối với Khu Bảo
tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, tổ chức sự kiện cũng chính là một trong những
hoạt động mang tính chủ đạo. Một mặt sự kiện nhằm tạo sân chơi cho các loại
hình nghệ thuật, trò chơi dân gian, ẩm thực, góp phần quảng bá văn hóa dân gian
Kinh Bắc, mặt khác nó cũng tạo nguồn thu nhập cho Khu Bảo tồn, giải quyết bài
toán về kinh tế trong văn hóa. Hoạt động tổ chức sự kiện của Khu Bảo tồn gồm
tổ chức sự kiện của đơn vị vàký hợp đồng tổ chức sự kiện (trò chơi, biểu diễn
các loại hình dân ca…) với các đối tác có nhu cầu.
Về sự kiện tại chỗ trong thời gian qua, Khu Bảo tồn đã tổ chức nhiều sự
kiện thu hút đông đảo quần chúng và khách tham dự. Tại Khu Bảo tồn thường
xuyên duy trì không gian ẩm thực Kinh Bắc, bao gồm các món đặc sản truyền
thống như: bánh cuốn Mão Điền, nem Bùi Vàng, bánh trẻ Yên Phong, bánhphu
thê (Đình Bảng),bánh đa, bánh đúc Đồng Ngư, bánh trôi, chay, bánh nếp,
tẻ…Tổ chức cho khách đặt hàng ăn uống: các buổi hội họp, đồng ngũ, đồng niên,
họp lớp, sự kiện giao lưu của một số gia đình. Năm 2019 đã có hơn 30 đoàn
khách về tham dự các sự kiện do Khu bảo tồn tổ chức. Doanh thu từ sự kiện tại
48
chỗ đạt khoảng 100 triệu đồng.
Cùng với đó Khu Bảo tồn còn tổ chức các sự kiện dành cho thiếu nhi.
Tiêu biểu có thể kể đến sự kiện Tết Trung Thu cho các em học sinh của địa
phương trải nghiệm ẩm thực, múa lân rồng, làm đèn ông sao, làm bánh trung thu,
tô vẽ mặt nạ, rước đèn ông sao đi quanh làng, phát quà, phá cỗ trông trăng (Phụ
lục ảnh 16, tr.86) (Phụ lục ảnh 54, tr.108) thu hút hàng nghìn học sinh và phụ
huynh. Cùng với đó trong năm 2020, đơn vị cũng đã tổ chức thành công Trại hè
cho thiếu nhi. Đây là hoạt động trải nghiệm của gần 50 bạn nhỏ ở thành phố Bắc
Ninh trong vòng 1 tuần. Tại Khu Bảo tồn, các em được trảinghiệm sống tự lập
và tìm hiểu các giá trị văn hóa dân gian truyền thống. Những sự kiện này đã gây
được tiếng vang cho Khu Bảo tồn và nhận được rất nhiều phản hồi tốt đẹp của
nhân dân địa phương cũng như du khách.
Đối với các sự kiện ngoài đơn vị, đây được xem là một trong những hoạt
động trọng tâm của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành. Từ những
hoạt động ban đầu có tiếng vang, Công ty đã ký được hợp đồng tổ chức sự kiện
với nhiều đối tác. Chẳng hạn tổ chức Lễ hội tại Công viên Nguyễn Văn Cừ và
Tượng đài Lý Thái Tổ chào mừng kỉ niệm 185 năm thành lập tỉnh và 20 năm tái
lập tỉnh Bắc Ninh; tổ chức Lễ hội hoa xuân tạiKhu đô thị Splendora - An Khánh
- Hoài Đức - Hà Nội Splendora với chủ đề “Tìm lại bản nguyên Tết Việt”;
Fetival ký họa Đông Nam Á tại thành phố Hà Nội… Nhìn chung, những sự kiện
mà Công ty ký hợp đồng tổ chức đều có chất lượng cao, tạo được sự tin cậy, uy
tín với đối tác.
2.3.2. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
Để có cơ sở vật chất phục vụ cho việc bảo tồn các giá trị văn hóa, việc đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị luôn được chú trọng quan tâm đầu tư
xây dựng. Từ năm 2008, ông Nguyễn Thành Lai đã bắt tay vào đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất như thuê đất, làm nhà thủy đình, vườn, ao, hồ, xây dựng khu
trưng bày, nhà chứa Quan họ…Với phương châm “Bấc đến đâu, dầu đến đấy”,
vừa xây dựng, vừa tổ chức hoạt động, lấy kinh phí từ hoạt động nọ bù cho hoạt
49
động kia. Sau hơn 10 năm vừa xây dựng, vừa hoạt động, năm 2019 Khu bảo tồn
mới khánh thành giai đoạn 1. Từ năm 2019 bắt đầu tiến hành xây dựng giai đoạn
2 với dự kiến trưng bày và quảng bá cho văn hóa làng nghề truyền thống của tỉnh
Bắc Ninh, mỗi năm sẽ đưa một mô hình vănhóa làng nghề truyền thống vào trưng
bày trải nghiệm tại Khu Bảo tồn.
Hiện tại toàn bộ Khu Bảo tồn có diện tích mặt bằng 5000 m2, trong đó
1000 m2 là diện tích của gia đình ông Lai, 4000 m2 là diện tích thuê của xã Ngũ
Thái. Khu Bảo tồn được phân chia thành 3 khu vực: Khu ao nhà người Việt và
Thủy đình biểu diễn; Khu tạo hình; Khu trưng bày. Trong năm 2020, đơn vị tiếp
tục xây dựng giai đoạn 2 và hoàn thiện các hạng mục Khu Bảo tồn văn hóa dân
gian Luy Lâu. Nhằm từng bước biến nơi đây trở thành một điểm tham quan, trải
nghiệm và học tập về văn hóa của đồng bằng Bắc Bộ. Đầu tư thêm một số trang
thiết bị, đạo cụ để phục vụ công tác biểu diễn cho chất lượng chương trình đạt
chất lượng cao hơn.
Cùng với xây dựng cơ sở hạ tầng, việc đầu tư mua sắm các trang thiết bị
như âm thanh, ánh sáng, các đạo cụ phục vụ cho công tác biểu diễn văn hóa
nghệ thuật truyền thống, trò chơi dân gian…cũng được chú trọng. Khó khăn
nhất chính là việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nghệ thuật
rối nước, từ việc đào ao, xây dựng nhà thủy đình cho đến việc đầu tư làm con
rối…phải mất hàng năm trời mới xong. Ngoài ra cũng không thể không nhắc
đến việc đầu tư mua ô tô dùng để chuyên chở các đạo cụ, trang thiết bị đi biểu
diễn, tổ chức sự kiện, ô tô để Công ty dùng vào việc giao dịch, liên hệ công việc.
Nhìn chung cho đến thời điểm hiện tại, Khu Bảo tồn văn hóa dân gian
Luy Lâu mới hoàn thiện giai đoạn 1. Giai đoạn 2 sẽ tiếp tục được triển khai từ
nay tới năm 2025 gồm các hạng mục nhà thờ dòng họ người Việt, nhà chứa
Quan họ và không gian văn hóa các làng nghề vùng quê Kinh Bắc. Mặc dù vẫn
còn nhiều hạng mục, nhiều trang thiết bị cần phải tiếp tục đầu tư xây dựng, mua
sắm, nhưng những cơ sở vật chất hiện tại được trang bị sẽ là tiền đề và điều kiện
để Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu ngày càng phát triển, tạo được hiệu quả
50
to lớn trong việc bảo tồn những giá trị di sản văn hóa truyền thống của dân tộc.
2.3.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền quảng bá
Để mô hình bảo tồn hoạt động hiệu quả thì một hoạt động không kém
phần quan trọng là tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá. Đối với Công ty
TNHH MTV Rối nước Thuận Thành, việc chủ động mời phóng viên báo đài về
đưa tin, viết bài, làm phóng sự không chỉ góp phần quảng bá cho hoạt động của
Khu bảo tồn mà còn góp phần quảng bá cho những di sản văn hóa của tỉnh Bắc
Ninh, của huyện Thuận Thành và di sản rối nước của làng Đồng Ngư. Từ khi đi
vào hoạt động, Công ty đã tiếp đón rất nhiều phóng viên các báo, đài truyền hình
Trung ương và địa phương như Đài truyền hình Việt Nam, truyền hình Truyền
hình Công An Nhân Dân, Báo Nhân Dân, truyền hình Bắc Ninh về làm phóng
sự và ghi hình trực tiếp tại Thủy đình của Khu bảo tồn nhằm giới thiệu nghệ
thuật múa Rối nước và trò chơi dân gian đến với nhân dân cả nước.
Bên cạnh đó, Công ty cũng lập một trang website, facebook để đăng tải
thông tin hoạt động (Phụ lục ảnh 53, tr.107).Ngoài ra, hoạt động tuyên truyền,
quảng bá còn được tiến hành thông qua việc tổ chức thành công các sự kiện lớn
tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu. Các sự kiện Công ty tổ chức không
chỉ thu hút khách ở địa phương mà còn thu hút đông đảo khách ở các tỉnh thành
khác về dự. Chính những sự kiện có tiếng vang mà Công ty tổ chức đã góp phần
làm cho “tiếng lành đồn xa”.
Nhiều tập đoàn, tổ chức, đơn vị biết đến Khu Bảo tồn đã ký hợp đồng
thuê biểu diễn rối nước, tổ chức các trò chơi dân gian, biểu diễn quan họ và hoạt
động trải nghiệm, ẩm thực…Bản thân ông Giám đốc Nguyễn Thành Lai cũng là
một “tuyên truyền viên” rất đắc lực. Ông Lai không bỏ lỡ một cơ hội nào để sẵn
sàng đón tiếp, giới thiệu, quảng bá cho khách tham quan và phóng viên báo chí
về hoạt động của Khu Bảo tồn cũng như những giá trị của các di sản văn hóa
truyền thống của quê hương mình. Có thể nói đây thực sự là hoạt động hiệu quả
51
trong việc phát triển hoạt động bảo tồn di sản văn hóa của đơn vị.
TIỂU KẾT
Trong chương 2 nhóm tác giả đề tài nghiên cứu đã khảo tả và làm rõ thực
trạng hoạt động của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu trên 2 phương diện:
bảo tồn những giá trị văn hóa vật chất và bảo tồn những giá trị văn hóa tinh thần
truyền thống của vùng Kinh Bắc nói riêng và của người dân Việt nói chung.
Bên cạnh đó nhóm tác giả cũng đã làm rõ nội dung bảo tồn văn hóa của
Khu Bảo tồn thông qua việc tổ chức các sự kiện và đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa truyền
thống. Theo đó, có 2 vấn đề nổi bật được nhóm tác giả rút ra từ thực trạng hoạt
động của Khu Bảo tồn.
Một là những giá trị văn hóa truyền thống của người dân xưa được bảo
tồn tại đây dưới dạng động, nghĩa là các giá trị đó được đưa vào hoạt động trải
nghiệm, thực hành, được tái hiện trong bối cảnh đương đại.
Hai là để bảo tồn được những giá trị văn hóa truyền thống trong cuộc
sống hiện đại hôm nay phải giải quyết được bài toán kinh tế trong văn hóa, lấy
hoạt động nọ nuôi hoạt động kia. Có như vậy việc bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống mới đem lại hiệu quả. Những bàn luận rút ra từ mô hình, những
giải pháp để mô hình có thể được nhân rộng ra xã hội sẽ được nhóm tác giả làm
52
rõ trong chương 3.
Chương 3
BÀN LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU TRƯỜNG
HỢP MÔ HÌNH BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA CÔNG
TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN RỐI NƯỚC
THUẬN THÀNH
3.1. Đánh giá những thành công và hạn chế của mô hình
3.1.1. Những thành công
Như nhóm tác giả đã trình bày tại chương 2, từ khi đi vào hoạt động,
khoảng mười năm trở lại đây, từ khi chính thức đi vào hoạt động, mô hình Khu
Bảo tồn văn hóa dân gian do Luy Lâu Công ty TNHHMTV Rối nước Thuận
Thành do ông Nguyễn Thành Lai sáng lập, đã mang lại nhiều thành công và hiệu
quả, có tác động tích cực đến đời sống văn hóa và sự phát triển của địa phương, thể
hiện ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất: Mô hình Khu Bảo tồn là chính là nơi đã lưu giữ được nhiều hiện
vật liên quan đến văn hóa vật chất của người dân nông thôn trong truyền thống. Đó
là những vật dụng lao động và sinh hoạt hàng ngày như nồi đồng, cối xay, cối đá,
thúng, mủng, dần sàng, nong, nia, cày bừa, cuốc xẻng, gầu tác nước, dụng cụ đánh
bắt thủy sản…Những dụng cụ này không chỉ được bảo tồn ở dạng tĩnh mà còn
được dùng để đưa vào hoạt động trải nghiệm, bảo tồn ở dạng động, giới thiệu cho
người xem, nhất là lớp trẻ những công dụng, công năng của các hiện vật đó một
cách sống động. Ngoài bảo tồn những hiện vật, Công ty còn tiến hành bảo tồn cả
những giống gia cầm quý như Gà Đông Tảo, gà Hồ, gà ác, gà tre, gà ri, chim bồ
câu, chim trĩ, vịt trời... và các loại các nông sản sạch phục vụ cho văn hóa ẩm thực.
Đây cũng chính là nét độc đáo tại Khu Bảo tồn.
Thứ hai: Khu Bảo tồn đã tạo đã sân chơi và “đất diễn” cho các loại hình
nghệ thuật truyền thống của địa phương, góp phần tích cực vào chiến lược bảo
tồn di sản văn hóa phi vật thể. Ngoài nghệ thuật biểu diễn rối nước là môn nghệ
thuật chủ đạo, Khu Bảo tồn còn trưng tập và tổ chức biểu diễn các loại hình dân
53
ca cổ truyền như quát họ, ca trù, hát trống quân, hát xẩm…là những loại hình
nghệ thuật vẫn được gìn giữ ở địa phương được biểu diễn thường xuyên phục vụ
khách tham quan. Ngoài ra phải kể đến việc tổ chức các trò chơi dân gian truyền
thống tại Khu bảo tồn và hoạt động dịch vụ tổ chức cho các đối tác tại các khu
đô thị, các khu du lịch trong tỉnh và trong nước.
Thứ ba: Mô hình của Công ty đã góp phần đào tạo ra nhiều diễn viên có
tay nghề cao trực tiếp hoạt động biểu diễn nghệ thuật rối nước và các loại hình
dân ca cổ truyền, đặc biệt là dân ca Quan họ, một di sản văn hóa độc đáo của
Kinh Bắc và của Việt Nam đã được UNESCO vinh danh.
Thứ tư: Mô hình bảo tồn văn hóa dân gian đã có sự lan tỏa tích cực đối
với cộng đồng. Đó chính là việc giáo dục truyền thống văn hóa của dân tộc cho
thế hệ trẻ thêm hiểu và thêm yêu những di sản văn hóa của ông cha. Nhiều năm
qua, bản thân ông Nguyễn Thành Lai và nhân viên của Công ty đã trực tiếp biểu
diễn, giới thiệu nghệ thuật rối nước cho thiếu nhi các trường học trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh và một số tỉnh bạn.
Thứ năm: Hoạt động của mô hình đã tạo công ăn việc làm và thu nhập
cho hàng trăm diễn viên, nghệ nhân của địa phương, góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của địa phương. Từ một phường rối nước của địa phương hoạt động
cầm chừng, có lúc tưởng như sắp tiến hành giải thể, với sự năng động nhạy bén
của mình, ông Nguyễn Thành Lai đã vực dậy đoàn rối nước của Đồng Ngư phát
triển. Hoạt động của Khu Bảo tồn đã tạo nên tiếng vang không chỉ trong tỉnh mà
còn với cả nước. Nhiều công ty, tập đoàn, đơn vị, doanh nghiệp đã tìm đến ông
Lai, mời ký hợp đồng tổ chức sự kiện văn hóa, du lịch mời ông tham gia tư vấn
đào tạo diễn viên biểu diễn rối nước.
Có thể nói các hoạt động khôi phục giá trị văn hóa truyền thống của Công
ty, đứng đầu là ông Giám đốc đam mê và ấp ủ thực hiện thành công, đã góp
phần đưa văn hóa truyền thống xưa của cha ông gần hơn với cuộc sống hôm nay,
tạo nên dòng chảy liên tục của văn hóa dân tộc. Nhờ đó, nhiều bạn trẻ từ chỗ xa
lạ với văn hóa truyền thống nay đã trở nên gắn bó, yêu thích và chủ động trở
54
thành thành viên tích cực tham gia các hoạt động, nhằm góp phần lan tỏa nhiều
giá trị văn hóa truyền thống trong cộng đồng. Đồng thời không ít người cao tuổi
vốn yêu mến văn hóa đã tìm thấy cơ hội “sân chơi” để thể hiện niềm đam mê và
mong muốn đóng góp của mình. Chính sự thay đổi trong nhận thức của cộng
đồng đã trở thành điểm tựa tinh thần để nhiều người đến với văn hóa truyền
thống, góp phần tạo ra thị trường để có thể nuôi dưỡng nhiều loại hình di sản
khác nhau.
3.1.2. Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu nổi bật, mô hình xã hội hóa hoạt động bảo tồn
di sản văn hóa của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành tại Khu Bảo
tồn văn hóa dân gian Luy Lâu thời gian qua vẫn còn có những hạn chế, bất cập.
Trước hết nhận thức của cán bộ và nhân viên Công ty về vai trò, ý nghĩa
của di sản văn hóa đã được nâng cao nhưng chưa sâu sắc và toàn diện, chưa
được cụ thể hóa bằng các kế hoạch và chương trình cụ thể. Nguồn lực của địa
phương cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa có nhưng chưa thật sự được quy tụ
và định hướng vào những công việc thật sự cấp bách. Trong hoạt động bảo tồn
di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương, việc xã hội hóa còn có lúc chưa tuân
thủ sự hướng dẫn và quản lý của chính quyền và cơ quan chuyên môn dẫn đến
hiện tượng thương mại hóa di sản văn hóa và nguy cơ làm biến đổi, biến dạng di
sản văn hóa theo chiều hướng tiêu cực.
Hoạt động bảo tồn các hiện vật còn tiến hành nhỏ giọt, manh mún, chưa
có sự đầu tư lớn và tập trung khiến cho việc sưu tầm, trưng bày ở đây vẫn chỉ
tiến hành ở mức tự phát, cầm chừng và khiêm tốn, chưa đa dạng các hiện vật.
Trong công tác bảo quản hiện vật vẫn chỉ dừng lại ở mức thủ công, chưa có sự
hỗ trợ của cơ quan chuyên môn cả về phương pháp bảo quản cũng như trưng
bày. Mặt khác Công ty chưa có sự chủ động liên kết hợp tác với các cơ quan
chuyên môn như Bảo tàng tỉnh để tham khảo học hỏi cách bảo quản, trưng bày.
Về phía cơ quan quản lý Nhà nhước về văn hóa tại địa phương vẫn chưa chưa
quan tâm, chưa cho phép và khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho Khu Bảo
tồn mở rộng hoạt động dịch vụ văn hóa nhằm mở rộng nguồn thu để đầu tư trở
55
lại cho các hoạt động chuyên môn.
Từ hoạt động của mô hình còn cho thấy hiện nay còn thiếu hành lang
pháp lý về chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách thuế (giảm thuế hoặc
miễn thuế hoạt động) và chính sách đãi ngộ (tôn vinh, khen thưởng) cho những
tổ chức, cá nhân đã có những đóng góp to lớn đối trong việc bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa như cá nhân ông Nguyễn Thành Lai. Cùng với đó là việc Nhà
nước cần chú trọng tăng cường việc xét tặng danh hiệu nghệ nhân cho làng nghề
truyền thống rối nước Đồng Ngư. Trong thời gian qua, đã có 5 diễn viên của làng
Đồng Ngư được phong tặng danh hiệu nghệ nhân, tạo sự phấn khởi, tự hào cho bản
thân người làm nghề và nhân dân địa phương. Thời gian tới, vẫn còn nhiều người ở
làng đủ tiêu chuẩn đang chờ được xét và phong tặng.
Về nghiệp vụ chuyên môn, hiện nay đội ngũ nhân viên của Công ty đã
được tào tạo lành nghề, chủ yếu là về biểu diễn rối nước. Tuy nhiên muốn mở
rộng và phát triển mô hình bền vững thì người chủ của mô hình và cả đội ngũ
ngũ nhân viên cần phải được đào tạo cơ bản để nâng cao trình độ chuyên môn về
quản lý di sản, quản lý văn hóa chứ không chỉ dừng lại ở mức “thợ” như hiện nay.
Một hạn chế bất cập nữa hiện nay là do sự bùng nổ của công nghệ số cũng
như quá trình hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, nhiều loại hình sản phẩm văn hóa
mới đã và đang du nhập vào nước ta do đó tác động không nhỏ, đặt ra những
thách thức không nhỏ với những người nghệ nhân ở đây làm sao gắn bó và phát
huy hơn nữa các giá trị truyền thống của các loại hình văn hóa truyền thống như:
Rối nước, dân ca Quan họ, Ca trù, Chầu văn, hát Xẩm,.. Trong khi đó nguồn thu
và chế độ chi trả cho các nghệ nhân tại Khu Bảo tồn chưa phải cao nếu không
nói là thấp. Do thu nhập từ việc biểu diễn các loại hình văn hóa dân gian truyền
thống còn có phần hạn chế nên phần nào đã tác động đến nhận thức, suy nghĩ
của các nghệ nhân, nghệ sĩ tại Khu Bảo tồn khiến cho một số nghệ nhân, diễn
viên chưa thực sự gắn bó lâu dài với Khu Bảo tồn. Bên cạnh đó là việc mở rộng
và tìm hướng đi, phát triển bền vững cho các loại hình trò chơi dân gian của dân
tộc mà thời gian qua Công ty đã tiến hành đã đem lại một số khởi sắc bước đầu
56
vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu thấu đáo.
3.2. Những bài học rút ra từ việc nghiên cứu mô hình bảo tồn văn hóa
truyền thống của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Rối nước
Thuận Thành
3.2.1. Sự đam mê nhiệt huyết và năng động sáng tạo của người sáng lập
mô hình
Để mô hình Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu hoạt động có hiệu
quả như hôm nay, một trong những tiền đề đầu tiên không thể không nhắc tới đó
chính là niềm đam mê cháy bỏng đối với di sản văn hóa ông cha của chính
người sáng lập Công ty và mô hình - Ông Nguyễn Thành Lai.
Nghệ nhân Nguyễn Thành Lai, Trưởng phường rối nước Luy Lâu sinh
năm 1971, xuất thân nghề nông, nhưng là người có công đưa nghệ thuật biểu
diễn rối nước dân gian Đồng Ngư lên chuyên nghiệp hóa.
Tâm huyết với nghệ thuật rối nước quê hương, ông tham gia phường rối
ngay từ năm 1989 khi làng khôi phục nghề truyền thống. Do tuổi trẻ còn phải lo
làm ăn phát triển kinh tế gia đình, năm 1995 ông ra Hà Nội mở xưởng cơ khí và
sửa chữa xe máy. Nhưng tiếng đàn tiếng hát của nhà trò rối nước cứ thôi thúc
ông trở về quê hương. Năm 2000 ông quyết định về quê sinh sống để được cùng
phường biểu diễn rối nước. Phường thiếu phương tiện loa đài, tăng âm ông tự
mua sắm, vừa để nhà dùng vừa để giúp phường mỗi khi đi biểu diễn. Mặc dù
tuổi còn trẻ, Nguyễn Thành Lai đã được tin cậy bầu làm Trùm phó và sau đó là
Trùm trưởng, thay cụ Nguyễn Thanh Trãi, Trùm phường qua đời. Từ một
phường rối nước địa phương hoạt động rất bình thường, dưới sự dẫn dắt chỉ đạo
của ông đã trở nên phát triển, tiếng vang ngày một xa. Phường đã ký hợp đồng
biểu diễn với Bảo tàng dân tộc học Việt Nam và nhiều tập đoàn, Khu du lịch.
Sinh hoạt của phường ngày càng mở rộng và kết nạp được nhiều thành viên
tham gia.
Đặc biệt điều thôi thúc khiến cho ông quyết định thành lập Công ty, dấn
thân vào con đường hoạt động bảo tồn này chính là sự đau đáu với những di sản
57
văn hóa ngàn đời của ông cha đang có nguy cơ mai một và biến mất trong thời
đại hiện đại hóa. Ông chia sẻ với nhóm tác giả, thời kỳ đầu thành lập Công ty,
ông còn nhiệt tình dùng xe cải tiến đi bộ chở cây tre ra Bảo tàng dân tộc học ở Hà
Nội, giúp bảo tàng dựng cây đu truyền thống của Bắc Ninh, tái hiện mọt nét sinh
hoạt văn hóa đặc sắc của vùng Kinh Bắc.
Hiện nay, ông Lai cùng các thành viên của gia đình vừa quản lý, tổ chức
biểu diễn và kiêm luôn diễn viên. Vốn từng là thợ mộc, thợ cơ khí, ông Lai đảm
nhiệm luôn công đoạn từ chế tác con rối, đến tự thiết kế và lắp thủy đình cơ động.
Đoàn rối nước Luy Lâu khá ăn khách, được nhiều địa phương mời diễn với mỗi
năm hàng trăm suất diễn.
Nhiều lần ông tự mình đánh xe chở “Đoàn/gánh rối gia đình’’ về Hà Nội và
sang tỉnh bạn lưu diễn dài ngày. Ông cũng trải lòng, cho dù thu nhập không cao,
nhưng mình cũng đã quảng bá ngày càng rộng khắp được nghệ thuật múa rối
nước Đồng Ngư tới nhiều địa phương trong cả nước, vừa bảo tồn, phát huy vốn
văn hóa làng nghề “Nghệ thuật dân gian truyền thống” của quê hương, lại tạo
công ăn việc làm cho anh em trong làng, thêm thu nhập để cải thiện đời sống.
Một thập kỷ qua, Phường rối Đồng Ngư cùng Đoàn Nghệ thuật rối nước Luy
Lâu (rối Đồng Ngư) đã tham gia nhiều Liên hoan múa rối và đạt được giải cao. Nổi
bật là giải Nhất trong Liên hoan nghệ thuật múa rối không chuyên năm 2002 (tại
Hà Nội); giải Nhì Liên hoan múa rối nước tại Liên hoan múa rối ở Huế năm 2004;
Giải Nhì Liên hoan múa rối toàn quốc lần thứ nhất năm 2011 tại Hải Dương.
Có thể nói Nguyễn Thành Lai là người đam mê đến cháy bỏng và luôn nuôi
ước vọng bảo tồn nghệ thuật rối truyền thống. Chính nhờ những nghệ nhân đam mê
và tích cực như ông đã góp phần làm sống lại những giá trị di sản văn hóa của dân
tộc. Mới đây tỉnh Bắc Ninh đã lập hồ sơ trình Bộ VH - TT&DL ghi danh nghệ thuật
rối nước của làng Đồng Ngư là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, trong đó có
những nỗ lực đóng góp của cá nhân ông và Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.
3.2.2. Khai thác tiềm năng và thế mạnh di sản văn hóa của địa phương
Thuận Thành là huyện nằm ở phía nam tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 25
58
km về phía đông. Huyện có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa với tiềm năng,
tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng. Toàn huyện có khoảng 126 điểm di
tích, tiêu biểu như thành cổ Luy Lâu, Chùa Dâu - Tổ đình của Phật giáo Việt
Nam, Khu di tích Lăng mộ và Đền thờ Kinh Dương Vương - Thủy tổ của dân
tộc Việt Nam, Lăng và Đền thờ Sĩ Nhiếp - Nam giao học tổ, Chùa Tổ - thờ Phật
và Tổ Mẫu Man Nương sinh ra Tứ Pháp, Chùa Bút Tháp - nơi lưu giữ bảo vật
quốc gia tượng Phật quan âm nghìn mắt nghìn tay, Chùa Ngọc Khám - nơi có ba
pho tượng Tam Thế đã được công nhận là bảo vật quốc gia, Thành cổ Luy
Lâu… Bên cạnh đó, Thuận Thành còn có các làng nghề truyền thống lâu đời:
gốm Luy Lâu, tranh dân gian Đông Hồ, tương Đình Tổ, nem Bùi Xá, đậu phụ
Trà Lâm, đồng Đào Viên… cùng nhiều loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian đặc
sắc như: hát Ca trù (Thanh Khương), hát Trống quân (Ninh Xá), đấu vật (Mão
Điền và Hoài Thượng), múa rối nước ở Đồng Ngư (Ngũ Thái),..
Tuy nhiên, việc khai thác các tiềm năng này trên địa bàn huyện phục vụ
cho việc phát triển du lịch và kinh tế còn hạn chế. Làm thế nào để biến những
tiềm năng, lợi thế đó thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn, thu hút được khách
tham quan và đưa du lịch trở thành ngành kinh tế có đóng góp đáng kể cho sự
phát triển của địa phương. Đó là nhiệm vụ đặt ra cho ngành du lịch của tỉnh
cũng như địa bàn huyện Thuận Thành. Thời gian qua, bằng những nỗ lực, nhạy
bén của mình, ông Nguyễn Thành Lai và Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận
Thành đã tích cực khai thác các tiềm năng di sản này vào hoạt động trải nghiệm,
thực hành và bảo tồn. Nòng cốt và hạt nhân ban đầu của Công ty chính là biểu
diễn rối nước, nghề truyền thống của làng Đồng Ngư. Dần dân trong quá trình
hoạt động, nhận thấy sự liên quan giữa các yêu tố văn hóa truyền thống, ông Lai
và Công ty đã mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực tổ chức sưu tầm hiện vật, tổ
chức trưng bày, trải nghiệm văn hóa, tổ chức các trò chơi dân gian, tổ chức các
sự kiện biểu diễn quan họ, ca trù, hát xẩm, hát trống quân…tổ chức trải nghiệm
ẩm thực truyền thống Kinh Bắc. Đây vốn là những thế mạnh tiềm năng của địa
phương. Khi đưa vào khai thác rất có lợi thế và hiệu quả, được các cơ quan quản lý
59
Nhà nước về văn hóa và nhân dân, du khách đến với Khu Bảo tồn đánh giá cao.
3.2.3. Sự quan tâm của chính quyền và cơ quan quản lý
Để hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản nói chung và mô hình hoạt
động của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành hoạt động có hiệu quả
không thể không đề cập tới sự quan tâm vào cuộc, tạo điều kiện hỗ trợ của chính
quyền địa phương cả về vật chất lẫn tinh thần và hỗ trợ về mặt chuyên môn
nghiệp vụ. Năm 2011, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt “Quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2011- 2020 và định hướng đến năm
2030”.
Quy hoạch đã nhấn mạnh việc phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù,
trong đó có gắn với các điểm di sản văn hóa tại vùng ven sông Cầu như xây
dựng khu du lịch miền Quan họ tại xã Hòa Long với loại hình du lịch nghỉ
dưỡng, sinh thái làng quê; trải nghiệm và khám phá các giá trị văn hóa làng quê
vùng Kinh Bắc, đặc biệt là dân ca Quan họ Bắc Ninh; bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc,…Đến nay, các dự án nằm trong quy hoạch đang dần được
triển khai tại các điểm trên toàn tỉnh. Tương lai gần, tỉnh Bắc Ninh là địa
phương trở thành một trong những trung tâm du lịch văn hóa lớn của vùng đồng
bằng châu thổ sông Hồng và của cả nước, tương xứng với tiềm năng và lợi thế
của tỉnh. Riêng với bộ môn nghệ thuật múa rối nước truyền thống ở Đồng Ngư,
ngày 6 tháng 10 năm 2017, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số: 528/QĐ-
UBND về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị Múa Rối nước làng
Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh”[15].
Mục tiêu của đề án nhằm tôn vinh các giá trị di sản văn hóa truyền thống
của môn nghệ thuật Múa Rối nước làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận
Thành; khích lệ, động viên sự sáng tạo các giá trị văn hóa trong cộng đồng, góp
phần xây dựng và phát triển văn hóa - xã hội bền vững; Bảo tồn và phát huy giá
trị của loại hình nghệ thuật dân gian Múa Rối nước Đồng Ngư trong giai đoạn
phát triển mới, nhằm pháp huy vai trò của chủ thể văn hóa trong việc bảo tồn và
phát triển di sản văn hóa. “Hỗ trợ trang thiết bị và kinh phí hoạt động cho các
60
phường Múa Rối nước làng Đồng Ngư”.
Dự án đã hỗ trợ cho 2 phường rối nước Đồng Ngư và Luy Lâu mỗi
phường 01 bộ thiết bị âm thanh, ánh sáng; 01 nhà thủy đình di động; làm con trò
một lần; kinh phí để mở các lớp dạy truyền nghề; Hỗ trợ kinh phí cho các
phường múa rối nước làng Đồng Ngư định kỳ tổ chức biểu diễn tại thành phố
Bắc Ninh (có luân phiên giữa các phường). Hỗ trợ kinh phí tổ chức các lớp dạy
truyền nghề (chủ yếu do Khu bảo tồn Văn hóa dân gian Luy Lâu tổ chức).
Đồng thời dự án cũng tiến hành việc “Lập hồ sơ khoa học và tư liệu hóa
các tài liệu, hiện vật liên quan đến loại hình nghệ thuật Múa Rối nước Đồng Ngư”
để lập hồ sơ khoa học đề nghị công nhận Múa Rối nước Đồng Ngư là di sản văn
hóa phi vật thể quốc gia. Tổng số tiền của đề án là 16.940.000.000đ đồng (Mười
sáu tỷ, chín trăm bốn mươi triệu đồng). Đây vừa là sự quan tâm thiết thực và hiệu
quả của tỉnh Bắc Ninh đối với di sản rối nước của làng Đồng Ngư và Khu Bảo tồn
văn hóa dân gian Luy Lâu của cá nhân ông Nguyễn Thành Lai.
Bên cạnh sự quan tâm của tỉnh, Khu Bảo tồn của ông Nguyễn Thành Lai
còn nhận được sự quan tâm của chính quyền địa phương, từ việc cho thuê mặt
bằng diện tích sử dụng đến việc tạo điều kiện để Công ty tổ chức các hoạt động sự
kiện ở Khu bảo tồn và ở địa phương. Hiện nay Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy
Lâu có tổng diện tích 5000m2, trong đó 1000m2 là của gia đình ông Lai, còn lại
4000m2 là diện tích mà UBND xã Ngũ Thái tạo điều kiện cho thuê để hoạt động.
Nhờ vậy mà Khu Bảo tồn đã có mặt bằng tương đối rộng rãi, phục vụ cho việc
trưng bày, trải nghiệm và tổ chức các sự kiện để bảo tồn văn hóa truyền thống.
3.2.4. Sự hưởng ứng của cộng đồng xã hội
Trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa thì sự
hưởng ứng, tham gia của cộng đồng là một nhân tố quan trong, đóng góp vào
thành công của mô hình tư nhân bảo tồn văn hóa truyền thống.
Với mong muốn bảo tồn nét văn hóa của địa phương, phường rối nước
Đồng Ngư ra đời từ sự đóng góp tinh thần và vật chất của người dân địa phương.
Trải qua gần 30 năm hoạt động, đến nay phường rối nước Đồng Ngư đi biểu
diễn khắp nơi. Mỗi năm phường rối đi diễn khoảng 40-50 lượt, mang theo bản
61
sắc quê hương đến mọi miền, quảng bá và lan tỏa dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Sự kết hợp hài hòa giữa những điệu nhạc, câu Quan họ và nghệ thuật truyền
thần cho những con rối đã thể hiện được tâm tư, tình cảm của những người dân
vùng Kinh Bắc.
Ông Nguyễn Thành Lai, Trưởng phường rối nước Luy Lâu, cho biết:
“Thời gian ban đầu, khi phường rối Luy Lâu được khôi phục lại gặp rất nhiều
khó khăn, thiếu thốn. Nhà thì góp một cây tre, nhà thì khúc gỗ; người biết tạo
hình thì đục đẽo, người biết sơn thì quét sơn để cùng nhau tạo thành các con rối
để đi biểu diễn”.
Người dân tại thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh đã cung cấp những thông tin cần thiết về di sản Rối nước của địa phương để
lập dự án (Dự án nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi nghề Rối nước đặc sắc của địa
phương).
Bên cạnh đó, nhân dân tại địa phương đã đóng góp quỹ để bảo tồn và phát
huy các giá trị của văn hóa truyền thống trong tổng thể chung ngân sách của dự
án. Đồng thời còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động của dự án (Đặc biệt có
đại diện của cộng đồng trong thành phần giám sát dự án).
Từ việc tham gia dự án, người dân địa phương đã có những chuyển biến
trong nhận thức đối với những di sản di sản văn hóa của cha ông từ ngàn xưa để
lại. Nghệ nhân Dương Văn Giáo – thôn Đồng Ngư cho biết, việc bảo tồn và phát
triển nghệ thuật múa rối nước Đồng Ngư gặp nhiều thuận lợi khi lớp trẻ đã quan
tâm hơn đến môn nghệ thuật truyền thống. Thế hệ nghệ nhân cao tuổi, có nhiều
kinh nghiệm, gắn bó gần như cả cuộc đời mình với những con rối như ông bây
giờ còn lại không nhiều nhưng đều dốc sức truyền dạy cho các thế hệ kế cận. Đã
gần 80 tuổi, nhưng cụ vẫn theo chân phường rối đều đặn đi biểu diễn ở khắp các
vùng miền. Nhiều khi tuổi cao, sức yếu, lại ngâm mình trong nước lâu, ảnh
hưởng đến sức khỏe, nhưng mỗi khi đón nhận những tràng pháo tay tán thưởng
của khán giả cụ lại thấy như trẻ ra, khỏe lại. Quan trọng hơn, theo cụ, biểu diễn
cũng là để truyền đạt các kỹ năng cũng như sự nhiệt huyết cho giới trẻ. Để
62
những nghệ sĩ trẻ bây giờ thấy được việc biểu diễn không chỉ vì tình yêu nghệ
thuật mà còn là trách nhiệm đối với việc gìn giữ, bảo tồn những giá trị truyền
thống quý báu, đặc sắc mà cha ông để lại.
Không chỉ dừng lại ở việc góp công sức, tiền của vào dự án khôi phục
nghệ thuật rối nước, sự hưởng ứng của người dân địa phương đối với hoạt động
bảo tồn còn thể hiện ở việc họ cho con em mình đến trải nghiệm tại Khu bảo tồn.
Như nhóm tác giả đã trình bày ở chương 2, trong năm 2020, tại Khu Bảo tồn đã
diễn ra sự kiện trại hè và Tết trung thu với hàng trăm em học sinh tham gia. Sự
kiện tết Trung thu do Công ty tổ chức thu hút hàng ngàn người tham gia cùng
với con em rước đèn ông sao xung quanh làng Đồng Ngư. Ngoài ra trong năm,
nhiều gia đình ở địa phương cũng đã đăng ký tổ chức sự kiện gia đình tại Khu
bảo tồn, thưởng thức Quan họ, rối nước và thưởng thức ẩm thực đồng quê. Điều
đó chứng tỏ hoạt động của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu đã thực sự
đáp ứng được nhu cầu của đông đảo nhân dân địa phương và du khách.
3.2.5. Bài học về giải quyết bài toán kinh tế, tạo nguồn thu phục vụ hoạt
động bảo tồn
Trong những năm qua, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành và Khu Bảo tồn văn hóa
dân gian Luy Lâu đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần làm sống lại
nhiều giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của vùng Kinh Bắc xưa, đồng
thời tạo ra nguồn lực quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
Một bài học không kém phần quan trọng được rút ra từ mô hình bảo tồn
đó là bài học về giải quyết bài toán kinh tế, tạo nguồn thu, phục vụ cho hoạt
động bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Thật vậy, nếu chỉ dừng lại ở việc đam
mê của cá nhân ông chủ phường thì chưa đủ. Vấn đề đặt ra là phải có nguồn
kinh phí đầu tư cho việc bảo tồn. Từ việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở
vật chất, mua sắm trang thiết bị cho đến việc sưu tầm các giá trị văn hóa phi vật
thể, đào tạo và biểu diễn rối nước và các loại hình nghệ thuật truyền thống, bồi
63
dưỡng cho các nghệ nhân…Tất cả đều cần phải có nguồn tài chínhđể trang trải.
Không thể trông chờ vào nguồn kinh phí của Nhà nước hỗ trợ hay kinh phí của
các “Mạnh Thường Quân” như một số bảo tàng tư nhân.
Hiện nay, hoạt động tổ chức sự kiện và biểu diễn nghệ thuật rối nước của
Công ty là những hoạt động đem lại nguồn thu lớn nhất. Chỉ tính riêng năm
2019, từ tổ chức sự kiện, trò chơi dân gian, biểu diễn rối nước tại Khu Bảo tồn
và tổ chức dịch vụ sự kiện cho các đối tác, đơn vị cũng có doanh thu hàng trăm
triệu đồng. Nguồn thu này vừa đảm bảo thu nhập cho các thành viên của Công
ty, vừa dùng để quay vòng tiếp tục đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị, đầu
tư cơ sở vật chất và trang trải cho tất cả các hoạt động của Khu Bảo tồn. Nói như
ông Giám đốc Công ty TNHHMTV Rối nước Thuận Thành, phải “lấy cái nọ
nuôi cái kia”. Có thể nói, đây vừa là một bài học nhưng cũng vừa là một trong
những nguyên nhân, tiền đề để Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu không
những tồn tại, duy trì được hoạt động và không ngừng phát triển, tạo ra các hiệu
quả văn hóa xã hội cao.
3.3. Một số giải pháp phát huy mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống
Từ nghiên cứu trường hợp mô hình bảo tồn văn hóa của Công ty TNHH
MTV Rối nước Thuận Thành, để mô hình hoạt động thực sự có hiệu quả và
nhân rộng, phát huy được thế mạnh và tiềm năng trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương, trong quá trình đi vào hoạt động cần phải thực hiện một
cách đồng bộ một số giải pháp chủ yếu:
3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa
trong mọi tầng lớp nhân dân
Thực tế hiện nay, nhiều di sản văn hóa của dân tộc đang có nguy cơ bị
mai một. Nhiều cá nhân tiêu biểu như ông Nguyễn Thành Lai có hiểu biết, có
niềm đam mê với vốn cổ của cha ông đã tự nguyện đứng ra thành lập Công ty,
sáng tạo chủ động trong bảo tồn di sản. Tuy nhiên đối với cộng đồng, để việc
bảo tồn di sản phát huy hiệu quả, đúng định hướng lại rất cần đến sự hiểu biết về
pháp luật. Chính vì vậy việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di
64
sản văn hóa trong các tầng lớp nhân dân cần được coi trọng.
Các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành cần được kịp thời phổ biến
trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài ngành để nhanh chóng
truyền tải những quy định của pháp luật về di sản văn hóa đến với đông đảo
nhân dân, với mục tiêu ngày càng nâng cao nhận thức và thu hút được sự tham
gia tích cực của toàn xã hội, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ có hiệu quả của
dư luận xã hội đối với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Tổ chức hướng
dẫn các địa phương, đơn vị đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Luật Di sản văn
hóa và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa; một số cuộc
thi tìm hiểu pháp luật về di sản văn hóa cần được phát trên sóng truyền hình,
truyền thanh nhằm tuyên truyền sâu rộng nội dung của Luật; tăng cường xuất
bản các ấn phẩm về Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành để gửi các địa
phương…
Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về di sản
văn hóa ở các địa phương; chỉ đạo các địa phương chủ động trong công tác đấu
tranh ngăn chặn vi phạm pháp luật về di sản văn hóa. Về phương thức hoạt động,
cần tạo điều kiện tổ chức và hướng dẫn cho các tổ chức và các đơn vị xã hội ở
cơ sở, trong đó, hết sức chú trọng việc khai thác tinh thần tự nguyện tự giác của
quần chúng để mọi người coi việc bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa là vì
mình và cho mình.
3.3.2.Tăng cường cơ chế chính sách
Theo PGS.TS Trương Quốc Bình, đối với hoạt động xã hội hóa bảo tồn di
sản văn hóa “Nhà nước cần tỏ rõ sức mạnh của mình trong việc quản lý, điều tiết,
định hướng và phát huy vai trò của các cộng đồng, của các tổ chức phi nhà nước
và tư nhân trong các hoạt động xã hội hóa”. [1, tr.12]
Theo đó, đầu tư ngân sách nhà nước là một trong những nhân tố quan yếu
thúc đẩy sự phát triển của quá trình xã hội hóa. Do đó, trên quy mô toàn xã hội, nhà
nước cần thường xuyên tìm thêm các nguồn để tăng tỷ lệ chi ngân sách cho các
hoạt động này; đồng thời quản lý có hiệu quả việc dụng các nguồn kinh phí đó.
65
Thực tiễn cho thấy, việc đề cao hiệu quả tài trợ của nhà nước là vấn đề quan trọng,
nếu không, sẽ trở lại thời bao cấp, với cơ chế xin - cho, theo kiểu bình quân. Càng
xã hội hóa nhà nước càng cần tăng cường đầu tư ngân sách, nhưng việc tài trợ phải
đúng trọng điểm, để thúc đẩy quá trình xã hội hóa. Việc sử dụng các nguồn kinh
phí có hiệu quả và đúng mục đích rất cần đến vai trò của nhà nước.
Mặt khác, những kết quả của quá trình xã hội hóa sẽ góp phần làm giảm bớt
cho nhà nước những gánh nặng về tài chính, khai thác được tiềm lực của toàn xã
hội và tạo điều kiện để nhà nước đầu tư vào những công trình trọng điểm.
Muốn làm được như thế, nhà nước phải có những chính sách bền vững để
trợ giúp và đào tạo nhằm nâng cao năng lực tự quản của cộng đồng, khuyến
khích và nâng cao năng lực tham gia của nhân dân.
Thực tiễn xã hội hóa đòi hỏi sự đổi mới, đa dạng hóa và nâng cao chất
lượng hoạt động, đây là nhu cầu phát triển nội tại của các hoạt động này. Hoạt
động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa chỉ trở thành sự quan tâm chung của
toàn xã hội và có vai trò thật sự trong các lĩnh vực của đời sống xã hội khi nó có
chất lượng cao và đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Nếu chất lượng và hiệu quả
thấp thì không những không thể xã hội hóa mà còn không thể tồn tại và phát
triển. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả phải được coi là một trong
những vấn đề sống còn, là một trong những nguyên tắc cơ bản của xã hội hóa
các hoạt động bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa ở Việt Nam.
Để các hoạt động bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa thu hút sự tham
gia của toàn xã hội, được xã hội quan tâm và nuôi dưỡng, cần xác định rằng,
việc bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa không chỉ là trách nhiệm của riêng
ngành VH - TT&DL nói chung mà còn là của toàn dân và toàn xã hội.
Với mục tiêu mở rộng các nguồn đầu tư, để khai thác và sử dụng hiệu quả
tiềm năng xã hội, thực hiện xã hội hóa trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản
phải gắn liền việc nghiên cứu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù
hợp bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước; cải tiến bộ máy quản lý; đào tạo nâng
cao trình độ cán bộ, công chức; đổi mới hoạt động, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ
66
văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Thực tiễn kinh nghiệm từ công tác quản lý
Nhà nước đối với bảo tồn phát huy giá trị di sản ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua
cho thấy, xã hội hóa không đồng nghĩa với việc tự do hóa và tư nhân hóa mọi
hoạt động. Trong quá trình này, cơ quan chủ quản phải giữ vai trò quan trọng,
đó là vai trò quản lý và hướng dẫn theo đúng định hướng và chủ trương của
Ðảng và Nhà nước, trong đó các tổ chức, cá nhân được tham gia, nhưng phải
tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan.
Thực hiện hiệu quả xã hội hóa trong bảo tồn, phát huy các giá trị di sản
văn hóa đòi hỏi phải tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn
hóa trong mọi tầng lớp nhân dân, giúp họ chủ động tham gia, thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình. Các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành cần được kịp
thời phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhanh chóng cập nhật
những quy định của pháp luật về di sản văn hóa đến với đông đảo nhân dân,
nâng cao nhận thức và thu hút được sự tham gia tích cực của toàn xã hội, tranh
thủ được sự ủng hộ của dư luận đối với bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Ðặc biệt, ngành văn hóa cần quan tâm và thường xuyên kiểm tra, giám sát
việc thực hiện pháp luật về di sản văn hóa, chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn vi phạm
ở các địa phương. Bên cạnh cần có những quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư, hỗ
trợ, giảm hoặc miễn thuế cho các hoạt động được thực hiện từ các nguồn kinh
phí ngoài ngân sách Nhà nước. Việc xây dựng và ban hành chính sách quản lý
và sử dụng các nguồn tài chính xã hội hóa như tiền công đức, tiền bán vé, tiền
tài trợ, tiền kinh doanh dịch vụ... cần được triển khai theo hướng ưu tiên sử dụng
cho mục đích bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; đồng thời sớm ban hành
chính sách tôn vinh những nghệ nhân có nhiều đóng góp trong lĩnh vực di sản
văn hóa phi vật thể.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHH MTV
Rối nước Thuận Thành chia sẻ: Phong tặng danh hiệu nghệ nhân là một việc làm
hết sức ý nghĩa, có tác dụng khích lệ, động viên các nghệ nhân rất lớn. Tuy
nhiên các cơ quan chức năng cần xem xét phong tặng đúng người, đúng công
lao đóng góp để đảm bảo sự công bằng cho những người thực sự có cống hiến,
67
đóng góp cho nghệ thuật dân gian dân tộc.
Việc khuyến khích, mở rộng xây dựng các bảo tàng hoặc các sưu tập tư
nhân, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, phù hợp với truyền thống văn
hóa, thuần phong mỹ tục của các dân tộc đã mở ra cho sự nghiệp bảo tồn di sản
văn hóa một hướng tiếp cận mới, có khả năng quy tụ các nguồn lực trong nhân
dân với mục tiêu đa dạng hóa các hình thức hoạt động, phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội, để đạt được hiệu quả cao nhất. Trong quá trình xã hội hóa,
Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng cho các hoạt động văn
hóa phát triển (định hướng chứ không làm thay, nhất là không khoán trắng cho
cộng đồng), đồng thời cần tăng cường đầu tư và tài trợ cho các hoạt động văn
hóa để thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa nói
chung và hoạt động bảo tồn di sản văn hóa nói riêng.
Ngoài ra việc tăng cường chính sách cho hoạt động xã hội hóa các hoạt
động văn hóa còn là việc ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài
chính từ xã hội hóa. Ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài chính
của di tích (tiền công đức, tiền bán vé, tiền tài trợ, tiền kinh doanh dịch vụ tại di
tích, bảo tàng...) theo định hướng ưu tiên sử dụng các nguồn thu từ xã hội hóa cho
việc tái đầu tư. Đối với các nguồn thu, cần có sự chỉ đạo nhất quán, minh bạch
trong công tác quản lý tài chính và phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các tổ
chức, cá nhân liên quan, tránh sự chồng chéo hoặc đùn đẩy trách nhiệm.
3.3.3. Quan tâm hỗ trợ về cơ sở vật chất và chuyên môn cho mô hình
Để hoạt mô hình xã hội hóa hoạt động bảo tồn văn hóa hoạt động có hiệu
quả, rất cần thiết có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất và hỗ trợ về đào tạo
chuyên môn cho các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng mô hình.Về cơ sở vật
chất, như nhóm tác giả đã trình bày, thời gian qua mặc dù đã được UBND tỉnh
Bắc Ninh hỗ trợ về cơ sở vật chất cho cả hai phường rối Đồng Ngư và Luy
Lâunhưng đây mới chỉ là bước đầu. Về lâu dài, mô hình cũng cần nhận được sự
quan tâm hỗ trợ của tỉnh, huyện và địa phương hơn nữa. Cụ thể vấn đề mấu chốt
nhất đối với Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu là việc tạo điều kiện cho thuê
68
mặt bằng diện tích đất lâu dài để làm không gian bảo tồn văn hóa. Hiện nay, ngoài
1000m2 diện tích đất ở của gia đình, 4000m2 còn lại Công ty TNHHMTV Rối
nước Thuận Thành của ông Nguyễn Thành Lai mới chỉ được thuê ngắn hạn 5
năm một với mục đích làm trang trại chăn nuôi, trồng rau sạch. Việc chuyển đổi
Công tyTNHHMTV Rối nước Thuận Thành thành doanh nghiệp như các doanh
nghiệp khác là khó khăn bởi đặc thù của lĩnh vực hoạt động bảo tồn di sản văn
hóa không phải mục đích lợi nhuận là hàng đầu, thêm vào đó lợi nhuận, kinh phí
thu được từ việc tổ chức các sự kiện không phải cao. Vì vậy nếu như tỉnh và
chính quyền địa phương tạo điều kiện cho thuê mặt bằng diện tích lâu dài và cho
thuê với hình thức trả chậm, trả dần thì sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho mô hình
bảo tồn di sản văn hóa của ông Lai duy trì và phát triển.
Bên cạnh về cơ sở vật chất, một thực tế đang đặt ra về chuyên môn của đội
ngũ những người tham gia vào hoạt động bảo tồn di sản cũng không kém phần
quan trọng. Những năm qua, Khu Bảo tồn Văn hóa dân gian Luy Lâu đã tiến hành
tổ chức đào tạo nhiều lớp biểu diễn rối nước và hát Quan họ cho các học viên tại
địa phương. Để hoạt động này được tiến hành mang tính chuyên nghiệp, lãnh đạo
Khu bảo tồn đã kết hợp với Sở VH - TT&DL, Trường Trung cấp VH - TT&DL
tỉnh mở các lớp đào tạo ngắn hạn cho học viên tại địa phương có nhu cầu. Bản
thân cá nhân ông Nguyễn Thành Lai cũng được Sở VH - TT&DL tư vấn về
chuyên môn nghiệp vụ cho các hoạt động. Tuy nhiên nhìn nhận một cách khách
quan, sự quan tâm này chưa được thường xuyên và liên tục, đồng thời tạo thành
một chiến lược lâu dài. Thực tế cho thấy nếu cán bộ nhân viên Khu Bảo tồn chỉ có
lòng đam mê, nhiệt huyết thì chưa đủ mà cần phải có sự đào tạo cơ bản (nếu
không nói là bài bản) về chuyên môn nghiệp vụ để có thể vừa là những nhà quản
quản lý, vừa là những nghệ sĩ, diễn viên thạo nghề trực tiếp tham gia vào quá
trình bảo tồn di sản văn hóa. Chính họ cũng sẽ là hạt nhân, là nòng cốt trong việc
bảo vệ và tuyên truyền cho mọi người dân hiểu và thực hành những giá trị văn
hóa truyền thống. Chính vì vậy cùng với những chính sách về bảo tồn, các địa
phương cũng cần có chương trình bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chuyên môn cho
69
cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và các cá nhân thuộc tổ chức tư
nhân như ông Lai để góp phần nâng cao hơn nữa việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ngoài ra các cơ quan quản lý và chuyên môn cần quan tâm hỗ trợ mô hình
triển khai nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật
thể của địa phương đã được ghi danh trên địa bàn tỉnh; biên soạn tài liệu để bảo
tồn, lưu truyền và làm cho các di sản tiếp tục được bảo tồn và phát huy giá trị;
Bên cạnh đó, các ngành, địa phương tiếp tục tạo điều kiện để câu lạc bộ, nghệ
nhân dân gian được tham gia hoặc mở các lớp truyền dạy kỹ năng thực hành các
di sản văn hóa phi vật thể đã được ghi danh; xây dựng, ban hành cơ chế, chính
sách để hỗ trợ về vật chất, điều kiện hoạt động... nhằm góp phần động viên tinh
thần cho các nghệ nhân; tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hành, sáng tạo và
truyền dạy các giá trị di sản văn hóa trong danh mục di sản văn hóa phi vật
thể Quốc gia trong gia đình, nhà trường, câu lạc bộ và cộng đồng để bảo tồn,
70
trao truyền giá trị văn hóa.
TIỂU KẾT
Trong chương 3 nhóm tác giả đã chỉ ra những mặt thành công, hạn chế
của mô hình xã hội hóa bảo tồn giá trị di sản văn hóa qua nghiên cứu trường hợp
mô hình của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành, đồng thời rút ra
những bài học kinh nghiệm từ việc xây dựng và phát triển mô hình này. Đó là
kinh nghiệm về sự đam mê, nhiệt huyết của cá nhân người sáng lập mô hình, bài
học về việc giải quyết bài toán kinh tế, tạo nguồn thu phục vụ tái đầu tư cho hoạt
động bảo tồn, sự quan tâm vào cuộc của chính quyền và cơ quản quản lý, sự
hưởng ứng của cộng đồng xã hội.
Để mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống hoạt động có hiệu quả, nhóm
tác giả cũng đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp cơ bản: giải pháp tăng
cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa trong mọi tầng lớp
nhân dân; giải pháp tăng cường cơ chế chính sách, quan tâm hỗ trợ về chuyên
môn. Các giải pháp này cần phải được tiến hành đồng bộ. Có như vậy mô hình
xã hội hóa bảo tồn di sản văn hóa truyền thống mới thực sự hoạt động hiệu quả
71
và đem lại sự phát triển tích cực cho xã hội.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở kế thừa lý luận của các công trình nghiên cứu, đề tài “Mô hình
bảo tồn văn hóa truyền thống ở xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
(Nghiên cứu trường hợp mô hình Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên
Rối nước Thuận Thành)” đã góp phần phân tích và làm rõ các khái niệm về văn
hóa truyền thống và mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống do tư nhân thực hiện.
Từ đó vận dụng vào giải quyết các vấn đề được đặt ra trong đề tài.Đó là những
nội dung được làm rõ ở chương 1.
Trong chương 2 của đề tài, nhóm tác giả đã khảo sátthực trạng và kết quả
hoạt động bảo tồn di sản văn hóa của Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận
Thành với nòng cốt hoạt động là Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu. Đó là
hoạt động bảo tồn các di sản văn hóa vật chất, bảo tồn các giá trị văn hóa tinh
thần truyền thống. Nhóm tác giả cũng đã nêu ra phương thức bảo tồn di sản văn
hóa của Khu Bảo tồn: đó là bảo tồn thông qua việc tổ chức sự kiện, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và tăng cường hoạt động tuyên truyền quảng
bá. Điều đặc biệt đáng lưu ý ở đây là việc bảo tồn sống động các giá trị văn hóa,
làm cho các giá trị văn hóa truyền thống trước kia của dân tộc được sống lại
trong ngày hôm nay thông qua các hoạt động trải nghiệm. Đó là cách làm độc
đáo của Khu Bảo tồn này.
Trong chương 3, ngoài việc làm rõ những mặt tích cực, hạn chế của mô
hình nhóm tác giả đã rút ra những bài học đồng thời rút ra những bài học kinh
nghiệm từ việc xây dựng và phát triển mô hình này. Đó là kinh nghiệm về sự
đam mê, nhiệt huyết của cá nhân người sáng lập mô hình, sự quan tâm vào cuộc
của chính quyền và cơ quản quản lý, sự hưởng ứng của cộng đồng xã hội, sự
năng động sáng tạo trong cách làm, tạo nguồn thu để trang trải cho các hoạt
động. Để mô hình bảo tồn văn hóa truyền thống hoạt động có hiệu quả nhóm tác
giả cũng đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp cơ bản: giải pháp tăng cường
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa trong mọi tầng lớp nhân dân;
tăng cường cơ chế chính sách, quan tâm hỗ trợ về chuyên môn cho các cá nhân
72
tham gia mô hình.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, trước sự tác động của
giao lưu văn hóa, của yếu tố hiện đại hóa đã khiến cho nền văn hóa của mỗi
quốc gia mỗi dân tộc đang đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức, trong đó có
nguy cơ mất bản sắc văn hóa dân tộc. Chính vì vậy mà vấn đề bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hóa truyền thống dân tộc được đề cao hơn bao giờ hết. Ở Việt
Nam những năm gần đây, trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa truyền thống, bên cạnh các hoạt động của các đơn vị, tổ chức chuyên nghiệp
nhà nước đã xuất hiện nhiều câu lạc bộ, nhóm, hội và tổ chức tư nhân quan tâm,
nghiên cứu, thực nghiệm, trong đó Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu của
Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành ở thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh thực hiện là một điển hình. Mô hình này vừa
đào tạo truyền nghề; Sản xuất, mua bán hàng thủ công mĩ nghệ; Dịch vụ dàn
dựng, thiết kế sân khấu; Cho thuê con rối,... không chỉ góp phần bảo tồn các giá
trị văn hóa dân tộc mà còn tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người dân, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của địa phương. Vìvậy,việc xây dựng mô hình xã hội
hóa bảo tồn văn hóa truyền thống cần phải được khuyến khích phát triển và nhân
rộng trong các tầng lớp nhân dân, góp phần vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5
73
khóa VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Quốc Bình (2008), “Xã hội hóa các hoạt động bảo tồn và phát
huy giá trị kho tàng di sản văn hóa ở Việt Nam”, Tạp chí Di sản (4), tr. 9 - 13.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. https://vi.wiktionary.org /wiki/mô_hình#Tiếng_Việt.
5. Phạm Mai Hùng (2013), “Bảo tồn di sản văn hóa trong bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Xưa và nay
(440), tr.19.
6. Hoàng Long - Quang Hùng (2012),Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức,
Hà Nội.
7. Nguyễn Quốc Hùng (2004), “Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn hóa
và hệ thống bảo vệ di tích ở nước ta”, Tạp chí di sản văn hóa (9), tr.19.
8. Nguyễn Thị Kim Loan (2012), Giáo trình Quản lý di sản văn hóa, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Bích Liên (2018), “Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản
văn hóa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 29/6/2018.
10. Đặng Nam (2021), “Khôi phục, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền
thống” Website Nhân dân điện tử ngày 16 tháng 2 và 19 tháng 2 năm 2021.
11. Nhiều tác giả (2014), Di sản văn hóa Việt Nam trong xã hội đương đại,
Nxb Tri thức, Hà Nội,
12. Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà
Nẵng.
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) Hiến
pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, Nxb Chính trị quốc gia,
74
Hà Nội.
14. Quyết định Số: 1466/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm 2008 của Thủ
tướng Chính phủ quy định “Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô,
tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề,
y tế, văn hoá, thể thao, môi trường”.
15. Quyết định số: 528/QĐ-UBND ngày 6 tháng 10 năm 2017 của UBND
tỉnh Bắc Ninh về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị Múa Rối
nước làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh”.
16. Hà Văn Tấn (2003), “Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong bối cảnh
công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí di sản văn hóa (2).
17. Lưu Trần Tiêu (20/12/2018), “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa vì sự phát triển bền vững”, Website Thông tin điện tử Hội đồng lý luận
Trung ương.
18. Ngô Đức Thịnh, Franhk Proschan (Chủ biên) (2005), Folklore một số
75
thuật ngữ đương đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
PHỤ LỤC
1. PHỎNG VẤN
(Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHH MTV Rối nước
Thuận Thành)
Câu hỏi 1: Thưa ông, từ lý do nào đã khiến ông quyết định gắn bó với
nghề Rối nước? Và thành lập Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành
cũng như Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu?
Trả lời: Xuất phát từ tình yêu, lòng đam mê với nghề truyền thống mà
ông cha đã để lại, cho nên tôi đã quyết định gắn bó với nghề Rối.
Sau khi tự mình tìm hiểu, đúc rút các kinh nghiệm từ thế hệ đi trước, tôi
đã quyết định thành lập Công ty và xây dựng Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy
Lâu tại làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh- Khu
Bảo Tồn là nơi lưu giữ, quảng bá, bảo tồn, giới thiệu các giá trị văn hóa truyền
thống của địa phương Đồng Ngư cũng như các nét đẹp văn hóa truyền thống của
làng quê đồng bằng Bắc Bộ tới các du khách trong nước và quốc tế.
Câu hỏi 2:Thưa ông,để có thể gắn bó với nghề Rối nước thì cần những
đức tính gì?
Trả lời: Để có thể gắn bó với nghề Rối nước thì đòi hỏi người nghệ nhân
phải hội tụ rất nhiều các yếu tố. Đó là, tình yêu nghề, đam mê với công việc.
Tiếp đến là sức khỏe, sự chịu đựng dẻo dai với điều kiện, môi trường của nghề
Rối nước; tính kiên trì, bền bỉ và đức tính cần cù, nhẫn nại học hỏi kinh nghiệm
và tự hoàn thiện bản thân mình.
Câu hỏi 3: Ông có thể cho biết: Sự khác biệt giữa múa Rối nước làng
Đồng Ngư, Luy Lâu với các phường Rối nước khác trong cả nước?
Trả lời: Khác biệt lớn nhất của Rối nước Đồng Ngư và Luy Lâu so với
các phường Rối khác trong cả nước đó là lấy câu Quan họ để lồng ghép vào
tiếng hát cho con Rối. Đặc biệt làm nên “thương hiệu” Rối nước Đồng Ngư còn
là ở công cụ biểu diễn. Ở nhiều nơi, trò Rối dây bị mai một thất truyền rất nhiều,
76
nhưng phường Rối Đồng Ngư và Luy Lâu vẫn giữ được kỹ thuật cổ này.
Câu hỏi 4: Xin ông cho biết: “Đặc trưng cơ bản của nhà chứa Quan họ
trong khuôn viên của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu?”
Trả lời: Theo các nhà nghiên cứu, Quan họ có hoạt động văn hóa nghi lễ
tín ngưỡng tương đối hoàn chỉnh, bao gồm cơ sở vật chất và phương thức hoạt
động. Ngoài cơ sở vật chất và địa điểm sẵn có của làng để sinh hoạt văn hóa
quan họ như đình, đền, chùa, sân đình, sân chùa hoặc đồi, đê, ao, hồ… còn có
một cơ sở vật chất quan trọng hơn cả, của riêng từng bọn quan họ đó là “nhà
chứa”.
Nhưng nhà chứa xưa là vậy nay sinh hoạt chủ yếu ở nhà văn hóa xã
phường. Vậy tốt nhất “nhà chứa” do các cá nhân làm theo phương thức xã hội
hóa. Nhà nước nâng cấp các nhà văn hóa cho hiện đại hơn, văn minh hơn để
phục vụ nhu cầu văn hóa Quan họ cho từng địa phương. Nơi chơi quan họ - “nhà
chứa” đơn giản chỉ là “ngôi nhà” để“chứa” bọn quan họ. Đây là nơi hội họp,
giao lưu, luyện tập, nơi “ngủ bọn” của bọn quan họ và thế hệ kế tiếp học nghề
chơi. Nhà chứa còn là địa điểm đón tiếp và mời cơm quan họ bạn, là nơi tổ chức
canh giữa bọn quan họ và bọn Quan họ kết chạ với nhau trong những dịp lễ, hội
của làng. Xưa kia, mỗi “Bọn Quan họ” đều có nhà chứa riêng theo nghĩa bóng là
nơi quy ước, bởi vì đa số đều là dân nghèo nhà tranh vách đất. Nhà chứa Quan
họ là ngôi nhà rộng rãi, thoáng mát, khang trang để đáp ứng những yêu cầu sinh
hoạt văn hoá Quan họ thì chính là nhà quan làng. Họ thường là những liền anh,
liền chị cao tuổi, có uy tín nhất trong “bọn quan họ”.
Câu hỏi 5: Vâng, thưa ông: Ngoài việc phục vụ du khách tham quan, sưu
tầm hiện vật tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu, chúng tôi còn thấy ông
có sưu tầm thêm các giống gà quý, ông có thể chia sẻ thêm điều này?
Trả lời: Để phục vụ cho sự trải nghiệm của du khách, Khu bảo tồn còn
tiến hành sưu tầm các giống gia cầm quý như: Gà Đông Tảo, gà Hồ, gà ác, gà tre,
gà ri, chim bồ câu, chim trĩ, vịt trời... Những loại gia cầm này đều được cho ăn
thức ăn sạch, không dùng thức ăn công nghiệp. Nếu có nhu cầu, du khách đến
77
tham quan khu bảo tồn có thể trực tiếp chế biến các nông sản sạch do tự tay
mình thu hoạch để thưởng thức cùng người thân mà hoàn toàn yên tâm về chất
lượng. Trong năm 2020, Khu Bảo tồn đã đón được tất cả hơn 30 đoàn khách về
tham quan, tìm hiểu và trải nghiệm các hoạt động văn hóa, thưởng thức ẩm thực
tại Khu bảo tồn.
78
Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!
2. PHỤ LỤC ẢNH
Ảnh 1: Ông Nguyễn Thanh Lai (Sinh năm 1971)
Giám đốc công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 2: Biển chỉ dẫn Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
Địa chỉ: Làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
79
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 3: Quy hoạch chi tiết xây dựng, hạng mục:
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 4: Banner tại khuôn viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
80
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 5: Bộ bàn ghế được làm từ cối đá trong khuôn viên
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 6: Nhà chứa Quan họ tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
81
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 7: Quang cảnh bên trong nhà chứa Quan họ tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 8: Tủ đựng quần áo, vật dụng của liền anh, liền chị Quan họ
tại nhà chứa Quan Họ
82
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 9: Một số nhạc cụ cổ truyền và dụng cụ sinh hoạt xưa - hiện vật sưu tầm
tạiKhu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 10: Bộ sưu tập các đồ dùng thường ngày đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ
tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
83
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 11: Sưu tập đồ hút điếu cày được làm từ tre tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 12: Cối giã gạo tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
84
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 13: Cối xay ngô tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 14: Cối đá xay gạo để làm các loại bánh cổ truyền tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
85
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 15: Một số hình tượng quân rối được trưng bày tại không gian ngoài trời
của Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 16: Các quân rối được sử dụng biểu diễn tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
86
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 17: Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHH MTV Rối Nước
Thuận Thành kiểm tra quân rối sau các chương trình biểu diễn
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 18: Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHHMTV Rối Nước
Thuận Thành tạo hình quân Rối tại phòng tạo hình rối nước của Khu Bảo tồn
87
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 19: Sáng tạo quân rối về chủ đề thầy trò Đường Tăng của ông
Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 20: Một số máy móc phục vụ quá trình tạo hình quân rối tại
phòng tạo hình rối của Công ty TNHH MTV Rối Nước Thuận Thành
88
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 21: Các quân rối phục vụ các buổi biểu diễn tại phòng tạo hình Rối
của Công ty TNHH MTV Rối Nước Thuận Thành
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 22: Các sản phẩm quân rối được tạo hình bán lưu niệm cho du khách
tới tham quan tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
89
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 23: Bảng giá một số loại bánh cổ truyền, đồ uống và quân rối
tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 24: Bộ sưu tập 12 chiêng của người Mường tại tỉnh Hòa Bình được
trưng bày tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
90
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 25: Ván khắc tranh dân gian Đông Hồ tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 26: Một số ván khắc tranh dân gian Đông Hồ tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
91
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 27: Tranh dân gian Đông Hồ “Vinh hoa”,“Phú Quý” tại Khu Bảo tồn văn
hóa dân gian Luy Lâu.
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 28: Tranh dân gian Đông Hồ “Chăn trâu”, “Hứng dừa” tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.
92
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 29: Khai giảng Lớp Tập huấn dạy truyền nghề múa rối nước năm 2020 tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu.
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 30: Ông Nguyễn Thành Lai giới thiệu một số kỹ năng điều khiển quân
rối tại sân khấu lưu động trong Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu với
khách tham quan.
93
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 31: Đường lát gạch nghiêng mô phỏng con đường làng ở Đồng bằng Bắc
Bộ xưa tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 32:Khuôn viên tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu -
nơi tổ chức các hoạt động sự kiện và các trò chơi dân gian truyền thống
cho du khách du lịch trong nước và quốc tế tới tham quan
94
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 33: Cây đu truyền thống trong Khuôn viên tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 34: Hệ thống ánh sáng và các quân rối phục vụ buổi biểu diễn tại
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
95
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 35: Các quân rối được trưng bày tại không gian ngoài trời của
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 36: Ông Nguyễn Thành Lai hướng dẫn các em học sinh trải nghiệm làm
tranh dân gian Đông Hồ tại Khu Bảo tồn Văn hóa dân gian Luy Lâu
96
(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)
Ảnh 37: Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHHMTV Rối Nước
Thuận Thành trao giấy chứng nhận đào tạo cho học sinh tham gia khóa học biểu
diễn rối nước tại khu Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)
Ảnh 38: Các em thiếu nhi trải nghiệm trò chơi dân gian “Bắt trạch trong chum”
tại khuôn viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
97
(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)
Ảnh 39: Hoạt động trải nghiệm làm bánh gai cổ truyền của học sinh tại khuôn
viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
98
(Nguồn: FacebookKhu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)
Ảnh 40: Hoạt động trải nghiệm trò chơi “Nhảy bao bố” của thiếu nhi tại khuôn
viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)
Ảnh 41: Các em thiếu nhi tham gia điều khiển quân rối kết thúc
khóa đào tạo Rối nước tại thủy đình trong khuôn viên
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
99
(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)
Ảnh 42:Ông Nguyễn Thành Lai - Giám đốc Công ty TNHHMTV
Rối nước Thuận Thành chụp ảnh lưu niệm với các liền anh, liền chị Quan họ
trước nhà chứa Quan họ tại Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
(Nguồn: Facebook)
Ảnh 43: Học sinh tập thổi sáo tại nhà chứa Quan họ
trong khuôn viên Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
100
(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)
Ảnh 44: Giao lưu Quan họ tại nhà chứa Quan họ trong khuôn viên
Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
101
(Nguồn: Facebook Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu)
Ảnh 45:Tài liệu tập huấn múa rối nước làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh do ông Nguyễn Thành Lai biên soạn
102
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 46: Tài liệu tập huấn múa rối nước do ông Nguyễn Thành Lai biên soạn
103
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 47: Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh tặng
Công ty TNHH MTV Rối nước Thuận Thành năm 2019
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 48: Bằng khen của Bộ trưởng Bộ VH - TT&DL tặng ông
Nguyễn Thành Lai năm 2008
104
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 49: Giấy khen của Trưởng Ban tổ chức Festival Bắc Ninh năm 2014 tặng
ông Nguyễn Thành Lai
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 50: Bằng khen của Bộ trưởng Bộ VH - TT&DL
tặng phường Rối nước Luy Lâu năm 2008
105
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 51:Giấy khen của Giám đốc Sở VH - TT&DL Bắc Ninh
tặng Phường Rối nước Luy Lâu năm 2012
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 52:Giấy khen của Giám đốc Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam
tặng Phường Rối nước Luy Lâu năm 2013
106
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 53: Trang Facebook- Khu Bảo tồn văn hóa dân gian Luy Lâu
107
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ảnh 54: Áp phích “Vui tết Trung Thu 2020” tại Khu Bảo tồn văn hóa
dân gian Luy Lâu
108
(Nguồn: Nhóm tác giả)