Tạ Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
133(03)/1: 127 - 131<br />
<br />
MỐI QUAN HỆ GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI SÁN CHỈ<br />
(Khảo sát tại xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, tỉnh Bắc Kạn)<br />
Tạ Thị Thảo*<br />
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Để hướng tới những chính sách đặc thù về giới cho vùng sâu vùng xa và vùng dân tộc thiểu số<br />
(DTTS), việc nghiên cứu về thực trạng mối quan hệ giới trong gia đình DTTS được xem là cấp<br />
thiết. Ở cả xã hội mẫu hệ và phụ hệ, trong mối quan hệ giới, người phụ nữ DTTS là người thiệt<br />
thòi hơn nam giới trên hầu hết mọi phương diện. Bài viết xem xét về mối quan hệ giới trong gia<br />
đình người Sán Chỉ, qua đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm giải quyết mối quan hệ giới trong<br />
gia đình và nâng cao vị thế của người phụ nữ Sán Chỉ. Số liệu trong bài viết được xử lý bằng phần<br />
mềm thống kê SPSS version 11.5, dựa trên nghiên cứu thực địa với người Sán Chỉ ở thôn Khuổi<br />
Bẻ và thôn Nà Lẩy, xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, tỉnh Bắc Kạn.<br />
Từ khoá: mối quan hệ giới, phụ nữ Sán Chỉ, bình đẳng giới, phân công lao động, tiếp cận và kiểm<br />
soát nguồn lực<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ*<br />
Quan hệ giới được hiểu là những tương tác xã<br />
hội ổn định giữa nam giới và phụ nữ trong gia<br />
đình và ngoài xã hội, do con người, xã hội<br />
thiết lập nhằm quy định về quyền lợi, trách<br />
nhiệm, vị trí, vai trò, hành vi, thái độ … của<br />
nam giới và phụ nữ.<br />
Theo đó, quan hệ giới trong gia đình DTTS<br />
được hiểu là mối tương quan giữa thành niên<br />
nam và thành viên nữ của gia đình về thực<br />
hiện các chức năng của gia đình thông qua<br />
hoạt động phân công lao động theo giới, sự<br />
kiểm soát các nguồn lực và vai trò quyết định<br />
của phụ nữ và nam giới trong gia đình DTTS.<br />
Sán Chỉ là nhóm dân tộc ít người sinh tụ chủ<br />
yếu ở Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên,<br />
Cao Bằng, Quảng Ninh,… Nghiên cứu này<br />
được khảo sát trong cộng đồng người Sán Chỉ<br />
khu trú chủ yếu tại thôn Khuổi Bẻ và thôn Nà<br />
Lẩy (Xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, tỉnh Bắc<br />
Kạn). Trong giới hạn bài viết này, chúng tôi<br />
xem xét tới: 1. Quan hệ giới trong việc thực<br />
hiện chức năng kinh tế gia đình; 2. Quan hệ<br />
giới trong kiểm soát và ra quyết định đối với<br />
các nguồn lực của gia đình; 3. Một số khuyến<br />
nghị hướng tới giải quyết mối quan hệ giới<br />
trong gia đình.<br />
*<br />
<br />
Tel: 0988 820020, Email: thaotathi@gmail.com<br />
<br />
Quan hệ giới trong thực hiện chức năng<br />
kinh tế gia đình<br />
Xét về phương diện kinh tế, gia đình được<br />
xem là đơn vị sản xuất và đơn vị tiêu dùng<br />
sản phẩm xã hội. Gia đình tạo ra lao động và<br />
có tính chất kép, bên trong và bên ngoài, tại<br />
gia và được trả lương. Từ thực tế phong trào<br />
giải phóng phụ nữ diễn ra nửa cuối thế kỷ XX<br />
đã tạo ra hiện tượng phụ nữ tham gia vào các<br />
quá trình sản xuất, và kể từ sau chiến tranh<br />
thế giới thứ hai, ngoài chức năng làm mẹ, phụ<br />
nữ có thêm chức năng sản xuất bên cạnh nam<br />
giới. Và phương thức sản xuất tư bản chủ<br />
nghĩa có thể được xem là nguyên nhân làm<br />
nảy sinh sự phân công lao động theo giới tính,<br />
phụ nữ là nạn nhân trong khuôn khổ của sự<br />
bóc lột mang tính gia trưởng.<br />
Hôn nhân trong cộng đồng người DTTS làm<br />
thay đổi không những thân phận của người phụ<br />
và nam giới về mặt xã hội, mà nó còn tạo cơ<br />
hội cho họ thực hiện các chức năng, vai trò của<br />
mỗi giới: người vợ, người chồng, người cha,<br />
người mẹ trong gia đình. Sự phân công lao<br />
động theo giới tính và tuổi tác là yếu tố quan<br />
trọng chi phối đời sống xã hội của họ. Sự phân<br />
công này diễn ra một cách tự nhiên, gắn liền<br />
với cấu tạo cơ thể và chức năng sinh học của<br />
phụ nữ và nam giới. Theo đó, phụ nữ do có<br />
chức năng sinh con, nuôi con, sức khoẻ yếu<br />
127<br />
<br />
Tạ Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nên nên phụ trách những “việc nhẹ”, còn nam<br />
giới do có thể chất khoẻ hơn nên đảm nhận<br />
những “việc nặng”, vai trò là người chồng,<br />
người cha trong gia đình, họ trở thành lao động<br />
chính và có trách nhiệm với vợ con. Mặc dù cả<br />
phụ nữ và nam giới người Sán Chỉ đều tham<br />
gia vào tất cả các khâu của hoạt động sản xuất,<br />
nhưng những việc được cho là “việc đàn ông”<br />
gồm: phát nương, cày bừa, bón phân, thu<br />
hoạch; “việc đàn bà” gồm có: tỉa trồng, chăm<br />
sóc mùa vụ, phụ việc, cắt cỏ, chăn nuôi lợn,<br />
gia cầm. Việc chăn nuôi chủ yếu do phụ nữ<br />
đảm nhiệm vì chăn nuôi không được xem là<br />
công việc sản xuất hàng hoá, mà chỉ được coi<br />
là “việc nhà”. Họ cho rằng sự phân công trách<br />
nhiệm kinh tế này là hoàn toàn hợp lý bởi<br />
trong gia đình người đàn ông nắm vai trò chủ<br />
đạo. Một quy tắc được đặt ra dù là trong xã<br />
hội mẫu hệ hay phụ hệ thì nam giới vẫn giữ vai<br />
trò chính trong sản xuất, và quan niệm này cho<br />
đến nay vẫn chưa hề thay đổi.<br />
Trong gia đình người Sán Chỉ, mối quan hệ<br />
giới trong lao động sản xuất ngoài việc được<br />
quy định bởi tính chất “nặng – nhẹ”, còn<br />
được phân biệt về không gian. “Việc đàn<br />
ông” không chỉ đòi hỏi nhiều sức lao động<br />
mà còn bao gồm trách nhiệm liên quan tới<br />
giao tiếp xã hội. Số liệu khảo sát cho thấy<br />
82.6% nam giới đảm nhiệm công việc buôn<br />
bán, trao đổi sản phẩm kinh tế, chỉ có dưới<br />
20% phụ nữ cho biết họ đảm nhận công việc<br />
này (chủ yếu rơi vào nhóm gia đình thiếu<br />
vắng đàn ông trong nhà với lý do đã mất hoặc<br />
đi làm ăn xa).<br />
Khi được hỏi về cơ sở của sự phân công các<br />
công việc trong sản xuất kinh tế, người dân<br />
cho biết:<br />
<br />
133(03)/1: 127 - 131<br />
<br />
“Các công việc cứ phân tự nhiên thôi, đàn<br />
ông khỏe hơn thì làm việc nặng hơn, cày bừa<br />
xong thì về, còn đàn bà yếu hơn thì làm việc<br />
nhẹ hơn, ở lại tỉa cây, nhặt cỏ, lấy củi, rồi về<br />
cơm nước, chăn lợn. Với lại nhà nào cũng<br />
phải có đàn ông thì mới giàu được, đàn ông<br />
mới làm ra tiền” (Phỏng vấn sâu, nam giới<br />
Sán Chỉ, 45 tuổi, nông dân)<br />
Lao động phụ nữ gắn liền với khuôn viên gia<br />
đình, nên sự hạn chế về không gian dẫn tới<br />
việc họ bị hạn chế cả về năng lực nhận thức<br />
cũng như cơ hội tiếp cận các cơ hội phát triển<br />
cũng như các nguồn thông tin xã hội.<br />
Quan hệ giới trong kiểm soát nguồn lực và<br />
lợi ích<br />
Đất đai là một vấn đề xã hội nhạy cảm, liên<br />
quan sâu sắc đến những vấn đề đáng quan<br />
ngại như sự an toàn, vị thế và cả đặc tính của<br />
từng cá nhân. Nó cũng là tài sản kinh tế chủ<br />
yếu quyết định vị thế của cả nam giới và phụ<br />
nữ. Ở khu vực Đông Á Thái Bình Dương, đất<br />
đai hoàn toàn do nam giới sở hữu và việc<br />
đứng tên được truyền từ đời này sang đời<br />
khác thông qua khung pháp lý mà từ xưa đến<br />
nay vốn không có lợi cho phụ nữ. Ở nhiều<br />
nhóm DTTS, theo phong tục chỉ có nam giới<br />
được thừa kế đất đai và việc phụ nữ thiếu hiểu<br />
biết về quyền hợp pháp của mình càng làm<br />
trầm trọng vấn đề. Hiến pháp, Luật dân sự,<br />
Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai<br />
(2003) đã quy định phụ nữ có các quyền bình<br />
đẳng với nam giới về sử dụng đất đai và sở<br />
hữu tài sản. Tuy vậy, theo phong tục truyền<br />
thống người phụ nữ còn gặp nhiều khó khăn<br />
trong việc đứng tên sở hữu loại tài sản này. Họ<br />
vẫn bị coi là phụ thuộc vào gia đình hoặc gia<br />
đình chồng, khi tiếp cận với đất đai, họ phải<br />
thông qua người cha, chồng hoặc anh/em trai.<br />
<br />
Bảng 1. Phân công lao động trong gia đình người Sán Chỉ phân theo giới tính (%)<br />
Hoạt động lao động<br />
Chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm<br />
Chăm sóc cây trồng, mùa vụ<br />
Cày bừa, trồng rừng<br />
Buôn bán, trao đổi sản phẩm kinh tế<br />
<br />
128<br />
<br />
Nam giới<br />
36.4<br />
22.2<br />
52.5<br />
82.6<br />
<br />
Phụ nữ<br />
63.6<br />
77.8<br />
47.5<br />
17.4<br />
<br />
Tạ Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
133(03)/1: 127 - 131<br />
<br />
“Từ trước tới nay con gái đi lấy chồng chưa bao giờ được chia đất, chỉ con trai được chia khi<br />
lập gia đình riêng, hoặc con trai được bố mẹ để lại đất đai cho, vì con trai phải ở lại để trông<br />
nom bố mẹ nên được có đất, còn con gái đã có nhà chồng lo, điều này không có gì sai cả”<br />
(Phỏng vấn sâu, nam giới Sán Chỉ, 54 tuổi, thầy mo).<br />
Khác với người Sán Chỉ, Điều 229 Luật tục Ê Đê (dân tộc Ê Đê đại diện cho chế độ mẫu hệ)<br />
khẳng định rất rõ: “con gái như hạt giống cây lúa, chính con gái là người khoác áo choàng khăn,<br />
là người giữ gìn cái nong, cái nia, cái lưng của tổ tiên, ông bà” [6; 229].<br />
Bảng 2. Hiện trạng kiểm soát các nguồn lực trong gia đình người Sán Chỉ phân theo giới tính (%)<br />
Nguồn lực<br />
Đất đai sản xuất<br />
Vốn/tín dụng<br />
Thu nhập/sổ tiết kiệm<br />
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ đất ở)<br />
Giấy tờ xe máy<br />
Không đứng tên bất kỳ tài sản nào<br />
<br />
Nam giới<br />
67.9<br />
74.1<br />
62.5<br />
91.3<br />
100.0<br />
15.0<br />
<br />
Phụ nữ<br />
32.1<br />
25.9<br />
37.5<br />
8.7<br />
0<br />
85.0<br />
<br />
Khi được hỏi về sự quyết định các công việc trong gia đình, người dân cho biết:<br />
“Đàn ông họ biết nhiều hơn mình, họ định làm gì cũng cân nhắc rồi mới hỏi mình. Mình là vợ nó,<br />
phải tin nó, nên khi nó hỏi thì cũng phải gật đầu thôi” (Phỏng vấn sâu, phụ nữ Sán Chỉ, 28 tuổi,<br />
nông dân)<br />
Bảng 3. Quyết định các công việc liên quan đến lao động sản xuất (%)<br />
Hoạt động lao động sản xuất<br />
Cơ cấu vật nuôi, cây trồng<br />
Kỹ thuật canh tác<br />
Định hướng sản xuất, kinh doanh<br />
Mua vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu ...)<br />
Buôn bán sản phẩm<br />
<br />
Mặc dù cả phụ nữ và nam giới đều tham gia<br />
vào quá trình sản xuất nhưng phần lớn các<br />
quyết định lại do nam giới đưa ra, điều này<br />
cho thấy hiện tượng coi trọng kiến thức người<br />
đàn ông và coi thường kiến thức phụ nữ khá<br />
phổ biến, đây được xem là nguyên nhân ảnh<br />
hưởng tới tiếng nói trong gia đình của phụ nữ<br />
Sán Chỉ.<br />
Tiếng Việt – Vị thế của phụ nữ Sán Chỉ<br />
Trong cộng đồng người Sán Chỉ, khi nam giới<br />
đến tuổi trưởng thành sẽ được tiến hành lễ<br />
Cấp sắc (phụ nữ không được tiến hành nghi lễ<br />
này); các vị trí quan trọng trong cộng đồng<br />
chủ yếu do nam giới nắm giữ: thầy mo, thầy<br />
cúng, trưởng thôn. Có nhiều lý do để kết luận<br />
rằng tiếng nói và vị thế của người phụ nữ<br />
DTTS nói chung và phụ nữ Sán Chỉ nói riêng<br />
phụ thuộc vào khả năng biết tiếng Việt của<br />
họ. Mù chữ hay khả năng giao tiếp bằng tiếng<br />
Việt hạn chế là khó khăn được nhắc đến nhiều<br />
<br />
Nam giới<br />
75.04<br />
51.85<br />
91.3<br />
59.26<br />
82.6<br />
<br />
Phụ nữ<br />
21.7<br />
37.04<br />
6.7<br />
29.63<br />
15.4<br />
<br />
Cả 2<br />
3.26<br />
9.26<br />
2.0<br />
9.26<br />
2.0<br />
<br />
nhất của nhóm này. Thực tế cho thấy xuất<br />
phát từ khó khăn về kinh tế trong gia đình dẫn<br />
tới việc các bậc cha mẹ phải cân nhắc giữa<br />
việc cho con trai hay con gái đi học.<br />
“Con gái học nhiều làm gì, mà có khi chả cần<br />
đi học, nhà khó khăn quá thì phải ở nhà giúp<br />
bố giúp mẹ, rồi lấy chồng, rồi đẻ con, thế<br />
thôi. Ở đây nhà nào chả thế” (Phỏng vấn sâu,<br />
nam giới Sán Chỉ, 40 tuổi, nông dân).<br />
Hạn chế về khả năng nói tiếng Việt đã ảnh<br />
hưởng tới sự tự tin và khả năng tham gia của<br />
phụ nữ Sán Chỉ vào các hoạt động cộng đồng,<br />
các buổi họp thôn cũng như các lớp tập huấn.<br />
Tỷ lệ mù chữ rơi nhiều nhất vào nhóm phụ nữ<br />
đã có gia đình, trong độ tuổi từ trên 30. Việc<br />
giao tiếp thường xuyên trong xã hội tạo cho<br />
đàn ông những lợi thế mà phụ nữ không có<br />
được, giúp họ củng cố quyền lực đối với các<br />
nguồn lực trong gia đình cũng như vị thế của<br />
họ trước phụ nữ. Không có điều kiện tham gia<br />
129<br />
<br />
Tạ Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
vào các hoạt động xã hội (do bận, ngại, không<br />
được phép), người phụ nữ thường chỉ dựa vào<br />
ý kiến của người chồng để lựa chọn và tuân<br />
thủ theo các quyết định của họ.<br />
Khuyến nghị<br />
- Trước hiện trạng được phân tích ở trên, để<br />
thực hiện bình đẳng hoá mối quan hệ giới<br />
trong gia đình người Sán Chỉ cần nâng cao<br />
nhận thức của cộng đồng và các thành viên<br />
trong gia đình về quyền và trách nhiệm của cả<br />
hai giới thông qua các buổi sinh hoạt cộng<br />
đồng như họp thôn, xóm, nội dung liên quan<br />
đến quyền con người, quyền của phụ nữ. Tuy<br />
nhiên do địa bàn khảo sát là vùng sâu vùng<br />
xa, vùng đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí<br />
hạn chế, công tác thông tin, truyền thông yếu<br />
kém. Do vậy việc phát huy vai trò của Chi hội<br />
phụ nữ thôn, Hội phụ nữ xã và các tổ chức<br />
đoàn thể cấp cơ sở là việc làm mang lại hiệu<br />
quả thiết thực.<br />
- Qua khảo sát, sự hạn chế về ngôn ngữ đã<br />
ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu thực tế và<br />
nhu cầu chiến lược của người phụ nữ Sán<br />
Chỉ, đến chất lượng cuộc sống gia đình, sức<br />
khỏe của con cái và thế hệ tương lai. Phụ nữ<br />
Sán Chỉ gặp không ít những trở ngại để bày tỏ<br />
nhu cầu của mình với người khác, để được<br />
học tập, nâng cao năng lực của bản thân,<br />
khiến họ tự ti, mặc cảm và ngại giao tiếp với<br />
mọi người, mất cơ hội được tiếp cận với các<br />
dịch vụ và nguồn lực xã hội. Do đó chính<br />
quyền địa phương cần phối hợp cùng trường<br />
tiểu học trên địa bàn tổ chức các lớp bổ túc<br />
văn hoá để dạy chữ cho phụ nữ. Các lớp học<br />
nên được tổ chức vào buổi tối, chia thành<br />
nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm không quá 10 phụ<br />
nữ tham gia học tập. Trong các buổi học có<br />
thể lồng ghép vừa dạy chữ, vừa nói chuyện,<br />
thảo luận về các quyền của phụ nữ để buổi<br />
học thêm sinh động, hiệu quả.<br />
- Tổ chức các lớp tập huấn phổ biến kiến thức<br />
chăn nuôi, trồng trọt để phát triển kinh tế hộ<br />
gia đình, giúp phụ nữ làm chủ kinh tế bởi phát<br />
triển kinh tế là điều kiện quan trọng để xây<br />
dựng mối quan hệ giới bình đẳng trong gia<br />
đình người Sán Chỉ.<br />
130<br />
<br />
133(03)/1: 127 - 131<br />
<br />
- Thực hiện kế hoạch hoá gia đình có hiệu<br />
quả, xây dựng quan hệ giới bình đẳng trong<br />
gia đình gắn liền với chiến lược xây dựng gia<br />
đình văn hoá, phát triển văn hoá – xã hội là<br />
điều kiện đủ để xây dựng quan hệ giới bình<br />
đẳng trong gia đình người Sán Chỉ nói riêng<br />
và gia đình DTTS nói chung.<br />
KẾT LUẬN<br />
Giải quyết quan hệ giới, thực hiện bình đẳng<br />
giới trong gia đình người Sán Chỉ góp phần<br />
quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ<br />
DTTS và phát triển bền vững các lĩnh vực của<br />
đời sống xã hội. Trong những năm qua thực<br />
hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp<br />
luật của Nhà nước, mối quan hệ giới trong gia<br />
đình người Sán Chỉ nói riêng đã có những<br />
chiều hướng tiến bộ, song vẫn tồn tại sự<br />
không bình đẳng, phụ nữ vẫn thiệt thòi hơn so<br />
với nam giới, nguyên nhân chính là do đói<br />
nghèo, định kiến giới, gánh nặng công việc<br />
gia đình, một bộ phận phụ nữ an phận, mù<br />
chữ đã tác động tiêu cực đến phụ nữ. Do vậy,<br />
các khuyến nghị đặt ra cần được xem xét cẩn<br />
trọng và thực hiện từng bước đồng bộ mang<br />
lại hiệu quả thiết thực.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Trần Thị Vân Anh, Đỗ Thị Bình (2001), Giới và<br />
công tác giảm nghèo, Nxb Khoa học xã hội, H.<br />
2. Quyền Đình Hà và cộng sự (2006), Khảo sát vai<br />
trò của phụ nữ trong nông nghiệp và nông thôn xã<br />
Nghĩa Hiệp, Yên Mỹ, Hưng Yên, 2005<br />
3. Hoàng Xuân Thành và cộng sự (2009), Theo dõi<br />
nghèo - Phương pháp cùng tham gia tại một số<br />
cộng đồng cư dân nông thôn Việt Nam. Báo cáo<br />
tổng hợp trong vòng 2 năm 2008/2009<br />
4. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối<br />
cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà<br />
Nội. tr.234-243.<br />
5. Hoàng Bá Thịnh, Lê Thái Thị Băng Tâm<br />
(2007), Báo cáo phân tích giới: Nghiên cứu định<br />
tính tại hai xã Xuân Lạc và Bản Thi, huyện Chợ<br />
Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Hợp phần nâng cao năng lực<br />
cộng đồng trong quản lý rừng. Chương trình CASI<br />
(CEFM) (Dao)<br />
6. Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu<br />
Thấu (2001), Luật tục Ê Đê, Nxb Văn hoá Dân tộc.<br />
<br />
Tạ Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
133(03)/1: 127 - 131<br />
<br />
SUMMARY<br />
GENDER RELATIONSHIIP IN FAMILY OF SAN CHI PEOPLE<br />
(Survey at Boc Bo commune, Pac Nam district, Bac Kan province)<br />
Ta Thi Thao*<br />
College of Science - TNU<br />
<br />
To towards the gender specific policies for remote areas and ethnic minorities, the study on the<br />
status of gender relations in ethnic minority families are considered urgent. In the matriarchal<br />
society and patriarchy, in gender relations, women of ethnic minorities are disadvantaged than men<br />
in almost all respects. This article reviewed the gender relations in families San Chi, which<br />
proposed a number of recommendations to resolve gender relations in the San Chi family and<br />
empowerment of women San Chi. The data in this article are processed by SPSS statistical<br />
software version 11.5, based on fieldwork with the San Chi in Khuoi Be and Na Lay commune,<br />
Pac Nam district, Bac Kan province.<br />
Key words: gender relations, San Chi women, gender equality, the division of labor, access and<br />
control resources.<br />
<br />
Ngày nhận bài:31/01/2015; Ngày phản biện: 25/02/2015; Ngày duyệt đăng: 03/4/2015<br />
Phản biện khoa học: TS. Phạm Thị Phương Thái – Trường Đại học Khoa học - ĐHTN<br />
*<br />
<br />
Tel: 0988 820020, Email: thaotathi@gmail.com<br />
<br />
131<br />
<br />