Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân Đồng bằng sông Hồng
lượt xem 3
download
Qua thời gian sinh tồn, thích nghi, cải tạo và biến đổi tự nhiên để phục vụ cho sự phát triển của mình, cư dân đồng bằng sông Hồng đã làm thay đổi điều kiện tự nhiên. Biểu hiện của cảnh quan nhân văn ngày càng chiếm ưu thế so với cảnh quan tự nhiên. Bởi vậy, nghiên cứu mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân đồng bằng sông Hồng là hoạt động có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận và thực tiễn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân Đồng bằng sông Hồng
- JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Science., 2010, Vol. 55, N◦ . 5, pp. 77-85 MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÍ VÀ ĐẶC TRƯNG SẢN XUẤT CỦA CƯ DÂN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG Cao Hoàng Hà Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Đặt vấn đề Đồng bằng sông Hồng là vùng có lịch sử khai phá lâu đời ở Việt Nam. Mỗi đặc điểm tự nhiên và nhân văn của vùng đều có những nét riêng, gắn bó và chi phối tới hoạt động sản xuất của cư dân hàng nghìn năm qua. Tính cách, tập quán sản xuất, phong tục tập quán. . . được định hình dưới tác động của điều kiện địa lí. Qua thời gian sinh tồn, thích nghi, cải tạo và biến đổi tự nhiên để phục vụ cho sự phát triển của mình, cư dân đồng bằng sông Hồng đã làm thay đổi điều kiện tự nhiên. Biểu hiện của cảnh quan nhân văn ngày càng chiếm ưu thế so với cảnh quan tự nhiên. Bởi vậy, nghiên cứu mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân đồng bằng sông Hồng là hoạt động có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận và thực tiễn. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Đặc trưng sản xuất của cư dân đồng bằng Sông Hồng dưới tác động của điều kiện địa lí 2.1.1. Tác động của điều kiện địa lí tự nhiên tới đặc trưng sản xuất a. Địa hình Đồng bằng Sông Hồng là châu thổ có địa hình cơ bản là thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, độ cao giảm từ 10 – 15m đến mực nước biển và có sự phân hóa giữa các khu vực. Sự phân hóa của địa hình cũng như các điều kiện tự nhiên khác chi phối tập quán sản xuất của dân cư. * Vùng rìa đồng bằng có 2 kiểu là đồng bằng thềm phù sa cổ xen đồi sót và đồng bằng thềm phù sa cổ. Kiểu thứ nhất phổ biến ở rìa phía Bắc và Tây Bắc đồng bằng. Địa hình phần lớn là gò đồi và bậc thềm cao ráo, mạng lưới sông suối thưa. Cư dân ở đây chọn đồng ruộng ở địa thế cao. Tại những nơi có đồi gò thì cư dân xây nhà tập trung ở chân đồi gò, để dành đất bằng cho canh tác, công tác chống xói mòn được coi trọng. Ngày nay, phương thức sản xuất có nhiều thay đổi, nhiều nông trường và trang trại hộ gia đình được hình thành, năng suất kinh tế cao hơn 77
- Cao Hoàng Hà với sản phẩm hàng hóa. Kiểu thứ hai đã xuống gần sông Hồng hoặc các chi lưu nên chịu ảnh hưởng chế độ nước sông hơn. Nông dân biết tận dụng nước để tát tưới và có thêm những cánh đồng phù sa mới phì nhiêu, kinh tế cũng trù phú hơn. * Vùng trung tâm đồng bằng chịu ảnh hưởng của chế độ nước sông và thủy triều rõ rệt hơn, được phân thành 4 kiểu. Kiểu đồng bằng phù sa mới đất cao nằm ở tả, hữu ngạn sông Hồng. Đây là khu vực bị bão lụt đe dọa nhiều nhất nhưng đất đai cũng màu mỡ nhất nên dân cư tập trung đông. Vườn nhỏ được bố trí hợp lí nhằm tiết kiệm đất, đặc biệt là có ao ở những nơi cần vượt đất làm nên nhà, sử dụng phương thức VAC (vườn – ao – chuồng) nhằm khai thác tối đa tài nguyên. Tại kiểu đồng bằng phù sa mới thấp nằm giữa hai lưu vực sông, để tránh lụt cư dân đào nhiều sông, kênh tiêu nước, đây cũng là đường giao thông thủy nội bộ nối các điểm quần cư với nhau. Phương thức VAC rất phổ biến nhưng ao rộng hơn, vườn hẹp hơn. Tại kiểu đồng bằng phù sa mới trũng rất tiêu biểu tại các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình không thể tiêu nước bằng kênh vì mực nước các sông lớn bao quanh đều cao hơn nội đồng. Thời gian ngập úng kéo dài nên nông dân chỉ làm 1 - 2 vụ trong năm. Thời gian nông vụ ít nên các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển hoặc cư dân di cư đi kiếm ăn theo thời vụ khá phổ biến. Hiện nay, người nông dân tích cực áp dụng các biện pháp cải tạo, nhất là thủy lợi nên diện tích lầy thụt thu hẹp, nhờ đó mà năng suất lúa cao hơn, cây trồng đa dạng hơn. Các bãi bồi ngoài đê gồm hai kiểu phụ: bài bồi ven sông và bãi giữa. Tại các bãi bồi không thuận lợi cho cây lúa, cư dân chuyển sang trồng hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày và nghề cá, nhất là nghề vớt cá bột trên sông. Các bãi giữa chỉ bị ngập sau khi lũ thật lớn thì cư dân tập trung thành 1 điểm quần cư có đê bao quanh. Ngoài đê trồng cây hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng thứ ba là vùng ven biển với địa hình rất thấp, bằng phẳng gồm hai kiểu phụ: đồng bằng ven biển hiện đại và đồng bằng tích tụ cửa sông. Tại đây, cư dân quai đê lấn biển, đào kênh tạo thành hệ thống giao thông thủy bộ. Trong đê họ trồng lúa, cói, ngoài đê phát triển đánh bắt hải sản và làm vận tải, kinh tế biển phát triển rõ nhất trong đồng bằng Sông Hồng. b. Khí hậu Ngoài đặc điểm chung là tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm, khí hậu đồng bằng còn có nhiều đặc điểm riêng rất chú ý. Nhiệt độ không khí, lượng mưa, tổng nhiệt đủ cho 2 vụ lúa phát triển. Vì thế theo như qui luật chung của các vùng lúa nước trên thế giới, dân số tăng nhanh và sống tập trung với mật độ cao, tạo được những thành tựu kinh tế, văn hóa to lớn. Khí hậu đồng bằng độc đáo khác hẳn với tất cả các đồng bằng khác ở miền Trung và miền Nam đó là có một mùa đông thực sự, do đó mà có dạng khí hậu 4 mùa tương đối rõ nét. Khí hậu 4 mùa với một mùa đông lạnh khiến cho mùa vụ ở 78
- Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân... đồng bằng Sông Hồng rất nghiêm ngặt. Cư dân đồng bằng rất quan tâm và hiểu rõ chế độ mưa bởi cây trồng phụ thuộc rất chặt chẽ vào sự phân bố mưa và những biến đổi trong mùa mưa. Tại đây, mùa mưa và mùa nhiệt khá trùng nhau nên việc tận dụng tài nguyên nhiệt, nước, đất... khá thuận lợi. Trong mùa khô, các cơn mưa phùn đóng vai trò rất quan trọng (trong mùa này lượng mưa thường dưới 100mm), lượng ẩm ít ỏi của nó giúp cho nông dân có thể cấy lúa vào mùa khô, gặt lúa chiêm và trồng nhiều cây khác không cần tát nước. Lượng mưa ở đây khá cao nhưng những năm ít mưa sẽ gây ra khô hạn, nông dân thích ứng bằng cách xây dựng các hệ thống thủy lợi đảm bảo nước tưới. Tính thất thường của khí hậu gây ra những trở ngại đối với sản xuất nông nghiệp của nông dân đồng bằng Sông Hồng. Các ngày bắt đầu và kết thúc của các mùa cũng như thời tiết của từng năm bị thay đổi tùy thuộc vào nhịp điệu và cường độ của các luồng gió mùa. Đợt gió mùa đông bắc lịch sử năm 2007 là một ví dụ điển hình cho nhận định này: kéo dài 45 ngày liên tục, nhiệt độ thấp, nhiều ngày liên tiếp nhiệt độ dưới 10o C khiến cho việc cấy hái, thu hoạch, làm cỏ, bón lót của nông dân bị đảo lộn; nhiều cây trồng vật nuôi bị chết khi mới gieo giống hoặc chăn thả. Tính chất của khí hậu chính là cơ sở cho hình thành phong cách cần cù, tiết kiệm, kỹ thuật canh tác cao, biết lo lắng xây dựng nhà cửa vững chắc của cư dân nơi đây. c. Thủy văn Mạng lưới sông ngòi đồng bằng khá dày đặc, bao gồm hạ lưu và chi lưu của hai sông lớn đổ ra biển là sông Hồng và sông Thái Bình, các sông nhỏ chảy trong các ô nội địa và rất nhiều kênh đào tưới tiêu lớn nhỏ. Sông Hồng có lượng nước phong phú đã góp phần bồi đắp, tạo nên đồng bằng Sông Hồng phù sa màu mỡ. Vào mùa cạn dòng chảy nhỏ, ít phù sa và mùa lũ dòng chảy lớn, phù sa nhiều. Đặc biệt, lũ sông Hồng khá thất thường và mãnh liệt. Ven bờ biển đồng bằng Sông Hồng có chế độ nhật triều, biên độ triều khá cao và có sự chênh lệch tại nhiều khu vực khác nhau, phần lớn đất đai đồng bằng Sông Hồng vẫn có thể bị ngập khi triều lên, nước mặn theo thủy triều dọc các con sông cũng có thể vào sâu trong nội địa. Chính vì vậy, thủy lợi là vấn đề đóng vai trò quan trọng đối với nông dân ở đây, thậm chí nó còn quan trọng hơn vấn đề chống hạn. Đắp đê là một giải pháp thông minh của đồng bằng. Nhờ đê điều chống lại được nước sông, nước biển mà hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông dân được thuận lợi hơn rất nhiều. Gần như toàn bộ đời sống của cư dân đều phụ thuộc vào cách giải quyết tốt vấn đề thủy lợi. Công tác thủy lợi của đồng bằng Sông Hồng hiện nay hiện đại nhất cả nước. Nhờ vậy mà phần lớn đất trồng lúa của đồng bằng có khả năng canh thác 2 – 3 vụ trong năm. d. Thổ nhưỡng Đất phù sa đóng vị trí quan trọng tại đồng bằng Sông Hồng. Đây là một hỗn hợp cát trộn với limông, có nhiều nitơ, kali, mangiê... do đó, đất ở đâu cũng xốp, dễ cày cấy và không thẩm thấu nên dễ dàng biến thành đồng ruộng được tưới nước. Tính chất mầu mỡ và đa dạng của đất rất phù hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là 79
- Cao Hoàng Hà lúa và các cây hoa màu, điều đó cũng quyết định tới việc lựa chọn cơ cấu cây trồng và phương thức canh tác của nông dân, thiết lập quần cư, số lượng và đặc trưng sản xuất của đồng bằng. 2.1.2. Tác động của điều kiện địa lí kinh tế xã hội tới đặc trưng sản xuất a. Con người đồng bằng Sông Hồng Đồng bằng Sông Hồng có mật độ dân số cao nhất trong các đồng bằng tại Việt Nam (1238 người/km2 , một số vùng tuy là nông thôn thuần nông nhưng mật độ có thể đạt trên 1500 người/km2 như Thái Bình, Nam Định. . . ). Do mật độ dân cư đông nên diện tích canh tác bình quân của đồng bằng rất thấp, điều này đã góp phần chi phối đến quá trình sản xuất của cư dân. Mặc dù nông dân đã có gắng tận dụng thâm canh đất đai nhưng bình quân lương thực quy thóc và bình quân thu nhập vẫn ở mức thấp. Do đó, bên cạnh các biện pháp chủ động giảm tốc độ gia tăng dân số và di dân thì vùng luôn chú trọng công tác thủy lợi, cải tiến kĩ thuật canh tác, lựa chọn giống thích hợp nhằm tăng mùa vụ và tăng năng suất cây trồng, cân đối được lương thực, thực phẩm, trên cơ sở đó mà nâng cao đời sống của dân cư. b. Lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội Nông nghiệp lúa nước ở đồng bằng sông Hồng có tính mùa vụ nên đòi hỏi lao động nặng nhọc và tập trung. Duy trì mật độ dân số cao lại không cho phép phát triển ngành chăn nuôi như ở các nước ôn đới, thu nhập bình quân đầu người thấp. Tính thời vụ khắt khe của hoạt động trồng lúa làm xuất hiện hiện tượng dư thừa lao động vào lúc nông nhàn và thiếu nhân lực vào lúc thời vụ (cày cấy và gặt hái) luôn luôn diễn ra. Người nông dân luôn phải phát triển các nghề thủ công và các nghề phi nông nghiệp khác để sử dụng lao động dư thừa trong lúc nông nhàn, nhưng lao động dư thừa này ngay sau đó phải quay về với sản xuất nông nghiệp lúc thời vụ. Do vậy các hoạt động phi nông nghiệp khó trở thành các hoạt động chuyên môn hóa, tiến tới cho sự hình thành công nghiệp và là cơ sở cho sự phát triển của đô thị. Công nghiệp là động lực cơ bản để chuyển dịch sự phân công lao động xã hội và quá trình đô thị hóa. Nhưng quá trình phát triển công nghiệp ở đồng bằng Sông Hồng diễn ra khá chậm chạp và gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, cư dân trong vùng đã cố gắng tìm tòi để tạo ra những chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế tại nông thôn bằng cách tăng vụ, thay đổi cơ cấu sử dụng đất, cơ cấu mùa vụ và phương thức canh tác. Cơ cấu ngành nghề tổng hợp là một cơ sở vững chắc cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Bởi vì các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp tuy giá trị không cao, tăng không nhanh nhưng khá ổn định và vững chắc. Nghề nông là một chỗ dựa vững chắc cho người nông dân khi các nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và buôn bán trở nên khó khăn, thất bát. Các làng nghề trong vùng nổi tiếng cả nước như Bát Tràng, Ngũ Xá, Kiêu Kỵ, Vạn Phúc, Đông Hồ. . . tuy hoạt động sản xuất thủ công nghiệp rất phát triển nhưng người nông dân vẫn không vứt bỏ hẳn việc trồng lúa, vừa đảm bảo nguồn lương thực, vừa sử dụng 80
- Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân... tối đa thời gian nhàn rỗi. Tại vùng nông thôn ven biển có những thuận lợi trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế với xu hướng chung là vươn ra biển, phát triển tổng hợp kinh tế biển (nghề đánh bắt và nuôi trồng hải sản, du lịch biển, giao thông vận tải ven bờ). c. Nền kinh tế tiểu nông trước đây và quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa hiện nay Nền kinh tế mang tính tiểu nông có ảnh hưởng không nhỏ tới phương thức sản xuất của cư dân. Nó thể hiện ở việc các ngành tiểu thủ công nghiệp được phát triển trong thời gian nhàn rỗi của nông dân do tính mùa vụ của trồng lúa gây ra, nhưng không thể tách ra khỏi nông nghiệp tiến tới sự phát triển của công nghiệp trên quy mô lớn bởi sau thời kì nông nhàn là thời kì mùa vụ với đòi hỏi tập trung cường độ lao động cao. Do đó, nền công nghiệp của đồng bằng Sông Hồng trước đây nhỏ bé, vừa tầm với khả năng của nông dân, một nền công nghiệp nông dân, phương tiện hạn chế, kĩ thuật tinh tế nhưng không có khả năng áp dụng trên quy mô lớn và có lãi. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra với tốc độ tương đối nhanh tại đồng bằng từ cuối những năm 90 của thế kỉ trước. Biểu hiện của nó là việc thành lập các khu công nghiệp, mở rộng diện tích các đô thị và xây dựng các khu đô thị mới. . . Tính đến năm 2007, vùng đồng bằng Sông Hồng có 34 khu công nghiệp tập trung được thành lập, trong đó 23 khu đang hoạt động và 11 khu đang triển khai xây dựng cơ bản. Tổng diện tích quy hoạch cho các KCN là 6.455 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê chiếm 66,3%. Các địa phương có nhiều KCN là Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương. Quá trình này đã góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, thay đổi các quan hệ sản xuất, phân công lao động xã hội (tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phổ biến trên 10%); cơ cấu ngành nghề và lối sống của dân cư thay đổi khá nhanh. Bộ mặt nông thôn đổi mới theo hướng văn minh, hiện đại, hệ thống Điện – Đường – Trường – Trạm hoàn thiện với mức độ cao bậc nhất cả nước. Nhiều tỉnh thuần nông trước đây nhờ phát triển KCN sẽ trở thành những tỉnh công nghiệp như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. . . Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, các khu công nghiệp tập trung của vùng đồng bằng Sông Hồng những năm qua cũng đã làm phát sinh các vấn đề xã hội nổi cộm. Quá trình thu hồi đất nông nghiệp do phát triển khu công nghiệp và xây dựng các khu đô thị mới đã làm cho hàng chục nghìn hộ nông thôn, chủ yếu là nông dân mất đất sản xuất, thiếu việc làm, thu nhập thấp và giảm dần. Người mất việc làm chủ yếu là nông dân, trình độ văn hóa, chuyên môn thấp, chưa qua đào tạo nghề phi nông nghiệp nên cơ hội tìm việc làm ngoài nông nghiệp là rất khó. Do đó, số lao động không có việc làm sau khi bị thu hồi đất tăng nhanh ở tất cả các tỉnh. Thực tế là không phải tất cả lao động dư thừa do mất đất nông nghiệp đều có việc làm mới ở các khu công nghiệp. Một bộ phận rất lớn nông dân mất đất phải tự tìm việc làm một cách tự phát không ổn định với rất nhiều ngành nghề để kiếm sống, phổ biến là sự di cư lên thành phố để làm thuê bằng các 81
- Cao Hoàng Hà loại hình dịch vụ với mức lương thấp. Hiện tượng này tập trung nhiều nhất là ở Hà Nội, Hải Phòng và các khu công nghiệp mới, đô thị mới trong vùng và cả nước. Việc thu hồi đất nông nghiệp do mở rộng các tại các vùng nông thôn tất yếu ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống dân cư vùng này. Nhà nước đã có chính sách đền bù cho họ tương đối thỏa đáng theo giá đất thị trường. Sau khi nhận tiền đền bù giải tỏa, nhiều hộ nông dân có một khoản tiền khá lớn. Một số hộ có kinh nghiệm kinh doanh, phát triển nghề phi nông nghiệp đã sử dụng nguồn vốn đó mở rộng sản xuất, kinh doanh dịch vụ nên thu nhập và đời sống tăng cao so với trước kia. Song, đại bộ phận hộ nông dân còn lại không biết cách sử dụng nguồn vốn đó một cách có hiệu quả. Đời sống được thay đổi một cách nhanh chóng nhưng không xuất phát từ nền tảng vững chắc nên có thể phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. . . Môi trường sinh thái tại nhiều khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc mở rộng diện tích đất công nghiệp và chuyên dùng làm cho đất nông nghiệp bị thu hẹp, mật độ dân số ngày càng cao; trong khi đó các yếu tố có lợi cho môi trường sinh thái như nguồn nước sạch, thảm thực vật, cây xanh giảm dần. Tại khu vực nông thôn đã có sự phân hóa thu nhập và đời sống trong nội bộ dân cư. d. Làng xã và sự thay đổi các quan hệ làng xã Cơ sở của các điểm quần cư và sản xuất ở đồng bằng Sông Hồng chính là làng xã. Sự cố kết của quan hệ làng xã là đặc trưng cơ bản của nông thôn truyền thống đồng bằng Sông Hồng nói riêng. Ở đây nổi bật nhất là các quan hệ họ hàng, tông tộc. Trong cuộc sống đô thị thực sự thì các quan hệ họ hàng, tông tộc không còn được coi trọng nữa, nó phải nhường chỗ cho các quan hệ lớn giữa cá nhân và xã hội. Trước đây, tâm lí làng xã nặng nề, kì hào, tự trị khiến cho nền sản xuất tại các làng xã đồng bằng Sông Hồng nhỏ lẻ, gắn chặt với cây lúa; khiến cho tiểu thủ công nghiệp không tách ra khỏi nông nghiệp để trở thành sản xuất lớn. Có một số làng cổ chủ yếu làm nghề công thương được đô thị hóa, nhưng chúng lại không thể chuyển hóa thành đô thị được như các làng Bát Tràng, Ninh Hiệp, Đình Bảng... Mặt khác, sự cố kết của quan hệ làng xã cũng tạo điều kiện cho sự xâm nhập của các quan hệ nông thôn vào đô thị. Tại các vùng nông thôn hiện nay, truyền thống tình làng nghĩa xóm, trọng các giá trị cộng đồng vẫn là hạt nhân cơ bản của sự phát triển làng xã, song xu hướng vươn lên làm giàu, chú trọng đến lợi ích vật chất là một giá trị phổ biến. Nhu cầu tiêu dùng không còn là một giá trị xã hội bị lên án nữa. Tính thiêng liêng của các giá trị tinh thần chung của cộng đồng, các hình thái tín ngưỡng – tôn giáo là những giá trị văn hóa được tôn trọng, song quan niệm cũng có nhiều thay đổi trong nhóm xã hội trọng sản xuất phi nông nghiệp hoặc có tính di động xã hội cao. Một xu hướng mới cần chú ý là xã hội càng tiến bộ, bộ mặt đời sống người dân càng thay đổi thì các hiện tượng sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng lại càng phát triển. Đền, chùa, miếu, hội làng. . . được tu bổ và khôi phục ở khắp mọi nơi, một mặt phục vụ nhu cầu tâm linh, một mặt phục vụ nhu cầu du lịch, tham quan. 82
- Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân... Về cơ bản, quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động – nghề nghiệp – kinh tế, đời sống cư dân tiến bộ là nhân tố thúc đẩy quá trình thay đổi tính chất các mối quan hệ xã hội trong làng xã. Chính quá trình này là nền tảng cho sự biến đổi các quan hệ xã hội trong quá trình sản xuất ngay tại từng gia đình. Khi nghề nghiệp thay đổi, nếp sống, nếp nghĩ của các thành viên trong gia đình cũng thay đổi theo dẫn đến một hệ quả làm thay đổi các quan hệ xã hội bên trong gia đình và dòng họ. Mối quan hệ xã hội gia đình đương đại đang bị ảnh hưởng bởi các quy luật kinh tế hàng hóa, các mối quan hệ hàng – tiền. Sự tính toán thiệt hơn, tính toán giá thành. . . là những yếu tố mới của sự hình thành một kiểu quan hệ xã hội khác truyền thống mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là quan hệ “duy lí”. 2.2. Những biến đổi của điều kiện địa lí dưới tác động của hoạt động sản xuất Đồng bằng Sông Hồng là vùng có những đặc điểm địa lí đặc trưng cho vùng châu Á gió mùa. Nơi mà điều kiện địa lí tự nhiên đặc trưng là sự khắc nghiệt và khắt khe của chế độ khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng và địa hình có sức chi phối lớn đến việc lựa chọn phương thức canh tác và đặc trưng sản xuất. Bên cạnh đó các đặc điểm nhân văn và các mối quan hệ phức tạp cũng mang những đặc điểm đặc trưng riêng gắn với điều kiện tự nhiên ở đây. Tự nhiên và con người có mối quan hệ hữu cơ, hài hòa và thống nhất, trong đó tự nhiên chi phối, ảnh hưởng đến phương thức sản xuất, tập tục sinh hoạt và lối sống. Về phía mình, trong quá trình thích nghi, cải tạo, biến đổi nhằm đảm bảo sự sinh tồn, con người cũng đã để lại dấu ấn lên môi trường xung quanh mà biểu hiện rõ nét nhất là sự thay đổi của điều kiện tự nhiên. Hiện nay, đồng bằng Sông Hồng có nền thâm canh nông nghiệp cao nhất cả nước, có nhiều trung tâm công nghiệp và mạng lưới đô thị phát triển, cho nên vùng đã bị xã hội hóa mạnh mẽ. Nhiều đặc điểm của điều kiện địa lí tự nhiên là do họat động sản xuất và sinh hoạt của con người chi phối nhiều hơn là do sự phát triển tự nhiên. Tác động rõ nhận thấy nhất là sự thay đổi của địa hình châu thổ theo hướng phức tạp hơn và bị phân cách rõ rệt hơn. Từ bề mặt bằng phẳng khá đồng nhất có hướng nghiêng Tây Bắc – Đông Nam ban đầu, địa hình được san bằng thành ruộng cấy lúa và giữ nước quanh năm để cấy lúa. Các con đê được hình thành để chống lại sự ảnh hưởng của nước sông và sự xâm nhập của biển. Chúng đã biến đồng bằng thành nhiều ô khép kín, cản trở quá trình bồi đắp tự nhiên. Về đại thể, nhiều dạng địa hình mới được hình thành, sự đồng nhất của một châu thổ khá bằng phẳng đã bị phá vỡ bởi sự san bằng các gò đồi và địa hình dương ở rìa đồng bằng, sự xuất hiện các địa hình dương mới. Trong quá trình khai khẩn mở rộng đồng bằng, cư dân đã làm thay đổi diện tích ban đầu vốn có. Nhiều vùng đất mới xuất hiện, nhất là vùng duyên hải nhờ biện pháp đắp đê, thau chua, rửa mặn. Tuy nhiên, một tỉ lệ lớn diện tích đất, nhất là đất nông nghiệp màu mỡ đã bị mất đi vì sự tăng lên của đất thổ cư và chuyên 83
- Cao Hoàng Hà dùng. Do cư dân đắp đê nên hầu hết đất đai trong đồng bằng không còn được bồi đắp phù sa hàng năm, do đó theo quy luật chung sẽ kém chất lượng hơn, năng suất lúa sẽ thấp hơn. Người nông dân phải khắc phục bằng cách bón nhiều phân kể cả vô cơ và hữu cơ, tuy nhiên không thể đảm bảo chất lượng đất như ban đầu. Cũng chính vì đắp đê nên một số vùng đã thấp hơn so với xung quanh, nay không thể thoát nước nên trở thành vùng ngập úng quanh năm, hình thành đất lầy thụt khác với đất phù sa bình thường. Nhìn chung, cảnh quan đồng bằng Sông Hồng đã bị thay đổi rất rõ rệt. Hiện nay người ta không còn thấy những yếu tố tự nhiên mà thay vào đó là cảnh quan do con người tác động mà thành - cảnh quan nhân văn. Quá trình khai thác, sản xuất và sinh hoạt của cư dân đồng bằng Sông Hồng diễn ra hàng nghìn năm. Rác thải sản xuất và sinh hoạt được đổ trực tiếp vào môi trường tự nhiên, nếu có qua xử lí cũng chiếm tỉ lệ nhỏ. Bởi vậy, môi trường tự nhiên của đồng bằng đã bị ô nhiễm, gây ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất của chính con người. Bằng chứng của nó là những diễn biến thất thường của khí hậu có chiều hướng thường xuyên hơn, kéo theo đó là sự thất thường và phá hoại của chế độ thủy văn. Các yếu tố nhân văn cũng bị tác động, thay đổi và hình thành đặc trưng sản xuất của cư dân đồng bằng Sông Hồng. Yếu tố có thể nhận thấy sự thay đổi nhiều nhất là lối sống của dân cư. Ngày nay, các cố kết quan hệ làng xã, dòng họ, tông tộc đã ít nhiều bị giảm đi bởi sự xuất hiện của lối sống đề cao quan hệ cá nhân với cá nhân và cá nhân với xã hội. Điểm đáng chú ý là tại nhiều vùng nông thôn các mối quan hệ truyền thống cũng đang bị công phá rất mạnh. Tại đồng bằng Sông Hồng diện tích đất có thể khai phá và mở rộng hầu như không còn trong khi đất nông nghiệp đang bị mất dần đi để dành đất cho các mục đích khác, nhất là công nghiệp. Để đối phó với sức ép này, cư dân đồng bằng Sông Hồng đã thay đổi cách tổ chức cư trú nhằm tạo ra không gian sản xuất thuận lợi. Chính vì vậy, không gian cư trú và sản xuất của đồng bằng Sông Hồng cũng thay đổi theo thời gian. Các điểm dân cư mới được hình thành bằng cách lấn đất ngay trên khu vực trước kia là nơi sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, bộ mặt của làng trong đồng bằng Sông Hồng khang trang hơn rất nhiều bởi đời sống dân cư có nhiều cải thiện. 3. Kết luận Tại đồng bằng Sông Hồng đang có sự chuyển cư của cư dân nông thôn vào đô thị. Làn sóng chuyển cư này đang ngày một rõ nét hơn và lớn hơn. Bước đầu quá trình chuyển cư cũng mang lại những kết quả nhất định, đó là bổ sung thêm nguồn lao động dồi dào cho các hoạt động kinh tế rất đa dạng tại các thành phố, là cơ sở cho việc mở rộng và phát triển quy mô các đô thị. Tuy nhiên, việc chuyển cư ồ ạt vào các thành phố cũng gây ra những khó khăn không dễ giải quyết, đó là sức ép về vấn đề việc làm và chất lượng cuộc sống của tầng lớp nông dân mới đến này, trong khi phần lớn họ là lao động tay chân, chưa qua đào tạo, có trình độ tay nghề 84
- Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân... không cao. Vấn đề này lại đặt ra những yêu cầu phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều việc làm thuộc các lĩnh vực phi nông nghiệp cho người lao động, đây chính là cơ sở cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa tại đồng bằng Sông Hồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đỗ Thị Minh Đức, 1996. Phân tích một số điều kiện kinh tế - xã hội chủ yếu chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. Thông báo khoa học số 4, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [2] Tần Thị Bích Hằng, 1999. Vấn đề dân số - lao động - việc làm ở nông thôn đồng bằng sông Hồng. Thông báo khoa học, số 5, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [3] Tô Duy Hợp, 2002. Sự biến đổi của làng – xã Việt Nam ngay ngay (ở đồng bằng sông Hồng). Nxb Khoa học Xã hội. [4] Vũ Tự Lập (chủ biên), 1991. Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng. Nxb Khoa học Xã hội. [5] Ngô Doãn Vịnh, 1983. Một số vấn đề về quan hệ liên vùng và ảnh hưởng của nó đến việc phát triển vùng. Nxb Nông nghiệp [6] Tạp chí Cộng sản số 789 – 2008. Phát triển khu công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng và vấn đề nông dân mất đất nông nghiệp. [7] Thông báo khoa học số 5 – 1999, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Xu hướng giải quyết vấn đề lao động và việc làm ở đồng bằng sông Hồng. [8] Perre Gourrou. Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ. NXB trẻ. ABSTRACT Geographical conditions with manufacturing specifics of denizen in Hong River delta Separate circumstances in physical–economic geographical conditions in the Hong River delta has formed the separate specifics in manufacturing operations. In the developing process, people have adapted and improved nature, formed suitable manufacturing habits, perfected farming techniques and live customs in a civilized manner. This process has formed the manufacturing specific in comparison with other regions in country. Geographical conditions and the environment have been changing. Natural scenery has been replaced by human scenery. 85
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Mối quan hệ giữa kinh tế với chiến tranh và quốc phòng
3 p | 488 | 44
-
Mối quan hệ giữa đô thị hóa với phát triển dân số và kinh tế – xã hội tỉnh Phú Yên
11 p | 201 | 18
-
Nghiên cứu giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai đoạn hiện nay: Phần 1
206 p | 36 | 15
-
Nghiên cứu giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai đoạn hiện nay: Phần 2
208 p | 38 | 13
-
Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam
7 p | 173 | 11
-
Cơ sở thực tiễn của mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam
8 p | 22 | 8
-
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn: Phần 1
212 p | 16 | 7
-
Nhận thức và giải quyết thành công mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị - Điều kiện tiên quyết nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam
9 p | 45 | 6
-
Một số giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước thị trường và xã hội trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng
6 p | 27 | 6
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân - giá trị lý luận và thực tiễn
7 p | 50 | 5
-
Vai trò của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế tại khu vực Đông Á: Một cuộc khảo sát
32 p | 69 | 5
-
Mối quan hệ giữa tôn giáo với đạo đức ở Việt Nam trong thời kì đổi mới
9 p | 97 | 4
-
Nghĩa của mối quan hệ cú pháp giữa hai phần đề và thuyết trong các đơn vị tục ngữ
5 p | 64 | 4
-
Mở rộng độ đo thông tin tương hỗ có điều kiện cho trường hợp nhiều biến
10 p | 30 | 3
-
Nét tương đồng về điều kiện tự nhiên – cơ sở quan trọng gắn kết mối quan hệ Hủa Phăn (Lào) và Sơn La (Việt Nam)
7 p | 49 | 2
-
Cơ sở hình thành và sự phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn
12 p | 43 | 2
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp
3 p | 78 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn