Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
MỘT CÁCH QUẢNG BÁ DU LỊCH<br />
CÁC TỈNH MIỀN TRUNG THỜI PHÁP THUỘC<br />
? Phan Thuận An *<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
C<br />
ác hoạt động dịch vụ du lịch chưa hề có ở<br />
Việt Nam trước khi người Pháp đến xâm<br />
lược nước ta. Sau khi họ chiếm xong các<br />
nước Đông Dương làm thuộc địa vào<br />
những năm đầu thế kỷ XX, ngành kỹ nghệ không khói<br />
này mới được thành lập một cách chính thức tại đây.<br />
Càng ngày họ càng phát hiện ra rằng ba nước Đông<br />
Dương nói chung, miền Trung Việt Nam nói riêng, là<br />
nơi ẩn tàng nhiều giá trị lịch sử, tiềm năng văn hóa và<br />
danh lam thắng cảnh. Để khai thác các vốn quý ấy, họ<br />
đã tổ chức guồng máy hoạt động du lịch một cách có<br />
bài bản và có hệ thống từ trung ương đến địa phương.<br />
Về hoạt động quảng bá du lịch, có những việc họ<br />
làm cách đây bảy, tám chục năm, ngày nay chúng ta<br />
vẫn chưa làm được. Chúng tôi muốn nêu ra ở đây một tài nguyên kinh tế ở xứ thuộc địa này. Từ đó trở đi, bộ<br />
ví dụ cụ thể nhất, là việc họ đã nghiên cứu, biên soạn, máy hành chính tại Đông Dương nói chung, Trung Kỳ<br />
ấn loát và phát hành tập gấp chỉ dẫn hành trình du (Annam) nói riêng, được tổ chức ngày càng chặt chẽ<br />
lịch miền Trung bằng đường bộ dọc theo Quốc lộ số 1. và có hệ thống.<br />
Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập đôi nét về Trong cơ cấu tổ chức của Phủ Toàn quyền Đông<br />
tổ chức hoạt động du lịch ở Trung Kỳ thời Pháp thuộc, Dương, có một cơ quan gọi là Sở Nghiên cứu các vấn đề<br />
giới thiệu một số ấn phẩm họ đã thực hiện và đưa ra kinh tế (Service des Affaires Économiques) được thành<br />
một đề nghị liên quan đến “con đường du lịch miền lập vào ngày 21.12.1911. Trực thuộc cơ quan này có<br />
Trung”. một bộ phận mang tên là Cục Du lịch và Tuyên truyền<br />
Đông Dương (Office Indochinoise du Tourisme et de la<br />
1. Đôi nét về du lịch miền Trung thời Pháp thuộc<br />
Propagande).2<br />
Gần một năm sau khi kinh đô Huế thất thủ vào tay<br />
Đồng thời, trong cơ cấu tổ chức của Tòa Khâm<br />
thực dân (1885), Tổng thống Pháp ký sắc lệnh ngày<br />
sứ Trung Kỳ đóng tại kinh đô triều Nguyễn có thiết<br />
3.2.1886 thiết lập Tòa Khâm sứ Trung Kỳ (Résidence<br />
lập một phòng liên quan đến vấn đề đang đề cập là<br />
Supérieure de l’Annam) đóng tại bờ nam sông Hương<br />
Phòng Du lịch Trung Kỳ (Bureau Officiel du Tourisme en<br />
(nay là địa điểm của trường Đại học Sư phạm Huế).<br />
Annam), nằm ngay trong khuôn viên của Tòa Khâm sứ<br />
Một năm sau, Tổng thống Pháp lại ký sắc lệnh ngày<br />
Huế.<br />
17.10.1887 thành lập Liên bang Đông Dương1 đóng thủ<br />
phủ tại Sài Gòn, rồi sau đó dời ra Hà Nội. Tất nhiên, Tòa Sau một thời gian tiếp cận với các nước Đông<br />
Khâm sứ Trung Kỳ ở dưới quyền của Phủ Toàn quyền Dương nói chung, Trung Kỳ nói riêng, người Pháp nhận<br />
Đông Dương. Những năm cuối thập niên 1880 là lúc ra rằng đây là vùng đất có lịch sử lâu đời, có nhiều di<br />
thực dân Pháp bắt đầu chính sách khai thác mọi loại sản văn hóa đặc biệt và nhiều cảnh đẹp thiên nhiên<br />
*<br />
Nhà nghiên cứu, thành phố Huế.<br />
<br />
40 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
hấp dẫn. chỉ trong một thời gian hạn chế, nhưng thu nhận được<br />
những hiểu biết chính xác và rõ ràng về cả phương diện<br />
Do đó, vào ngày 9.11.1921, Phủ Toàn quyền Đông<br />
lịch sử và kinh tế lẫn vẻ đẹp của các phong cảnh”.6<br />
Dương đã thành lập Ủy ban Danh thắng (Commission<br />
des Sites). Ủy ban này có nhiệm vụ tư vấn cho Toàn Bấy giờ, Huế là trung tâm du lịch quan trọng nhất<br />
quyền Đông Dương về những vấn đề liên quan đến của cả miền Trung. Ngoài sự hấp dẫn của các công<br />
việc phát hiện, bảo tồn và khai thác các danh lam trình kiến trúc cung đình và dân gian cũng như vẻ đẹp<br />
thắng cảnh cũng như các di tích kiến trúc nghệ thuật thơ mộng của các thắng cảnh ở đất Thần kinh, Huế còn<br />
trên toàn cõi Đông Dương. Hoạt động của Ủy ban được là nơi tọa lạc của Tòa Khâm sứ, thủ phủ hành chính của<br />
đặt dưới sự chỉ đạo của Toàn quyền với sự tham gia của chính quyền bảo hộ Pháp tại Trung Kỳ. Khi du khách<br />
các cơ quan chức năng như Cục Du lịch và Tuyên truyền, đến thăm thú miền núi Ngự sông Hương, điều đầu tiên<br />
Trường Viễn Đông Bác Cổ (E.F.E.O.).3 họ làm là đến tiếp xúc ngay với Phòng Du lịch Trung<br />
Kỳ được thiết lập bên trong khuôn viên Tòa Khâm sứ<br />
Sau đó gần hai năm, vào ngày 17.7.1923, Phủ<br />
để nắm bắt mọi thông tin cần thiết liên quan đến việc<br />
Toàn quyền còn thành lập Ủy ban Du lịch Đông Dương<br />
tham quan kinh đô triều Nguyễn. Phòng này còn chỉ<br />
(Comité Central du Tourisme) với nhiệm vụ tư vấn cho<br />
dẫn cho họ biết về các khách sạn, nhà hàng, các điểm<br />
Toàn quyền về ngành du lịch, việc bảo tồn các danh<br />
tham quan, khoảng cách từ trung tâm thành phố Huế<br />
thắng, tổ chức các khu nghỉ mát, xây dựng các khách<br />
đến các điểm, thời lượng đi tham quan từng điểm, các<br />
sạn, các công viên. Ủy ban này cũng do Toàn quyền<br />
phương tiện đi lại (xe kéo, ô-tô, tàu thuyền…). Ngoài<br />
đứng đầu với các thành viên gồm thủ hiến các xứ, giám<br />
ra, Phòng Du lịch Trung Kỳ còn cung cấp thêm cho du<br />
đốc Tài chính, thanh tra Công chính, cục trưởng Cục Du<br />
khách những thông tin cơ bản liên quan đến việc đi du<br />
lịch và Tuyên truyền, giám đốc Trường Viễn Đông Bác<br />
lịch các tỉnh miền Trung.<br />
Cổ.4<br />
2. Tập gấp chỉ dẫn hành trình du lịch miền Trung<br />
Cục Du lịch và Tuyên truyền Đông Dương được<br />
hoàn chỉnh về tổ chức bằng một nghị định do Toàn Dưới thời Pháp thuộc, guồng máy hoạt động du<br />
quyền tại đây ký ngày 3.4.1928. Vẫn trực thuộc văn lịch tại Đông Dương đã được tổ chức một cách hợp<br />
phòng Toàn quyền, Cục này chuyên trách hai công tác lý và vận hành một cách có hiệu quả. Bấy giờ, ngoài<br />
chính là tổ chức du lịch (như khai thác hệ thống khách Phòng Du lịch Trung Kỳ ở Huế, người Pháp còn thiết<br />
sạn, tổ chức các tuyến điểm du lịch, phát hiện và bảo lập một Phòng Du lịch Nam Kỳ ở Sài Gòn và một Phòng<br />
tồn các di tích danh thắng…) và tuyên truyền về vùng Du lịch Bắc Kỳ ở Hà Nội.7<br />
Đông Dương ra nước ngoài bằng nhiều hình thức khác<br />
Dưới đây chỉ chú trọng đến Phòng Du lịch Trung<br />
nhau.5<br />
Kỳ ở Huế với một vài hoạt động liên quan đến du lịch<br />
Cho đến bấy giờ, tuyệt đại đa số các du khách đến tại các tỉnh miền Trung mà thôi. Tên hành chính của<br />
Đông Dương nói chung, miền Trung Việt Nam nói cơ quan này là Le Bureau Officiel du Tourisme en Annam<br />
riêng, đều là người Tây phương, đặc biệt là người Pháp. de la Résidence Supérieure de Hué (Phòng Du lịch Trung<br />
Họ đã đến đây từ các thế kỷ trước đó, nhưng phần Kỳ thuộc Tòa Khâm sứ Huế). Tên gọi đó cho biết rõ văn<br />
lớn với tư cách là các giáo sĩ Thiên chúa giáo, các nhà phòng này tuy đóng tại Huế nhưng địa bàn quản lý và<br />
ngoại giao, thương nhân, sĩ quan… Phải đến những hoạt động du lịch bao trùm cả xứ An Nam, tức là tất<br />
thập niên đầu thế kỷ XX, khi guồng máy du lịch ở Đông cả các tỉnh duyên hải và cao nguyên miền Trung: từ<br />
Dương nói chung, Trung Kỳ nói riêng được hình thành Thanh Hóa đến Bình Thuận lên đến các tỉnh vùng cao<br />
chính thức và tổ chức chu đáo, số lượng du khách ấy mà ngày nay được gọi là Tây Nguyên.<br />
mới đến đây ngày càng nhiều.<br />
Ngoài việc điều hành các hoạt động du lịch trên địa<br />
Quyển sách đầu tiên giới thiệu và tuyên truyền về bàn Trung Kỳ, Phòng Du lịch Trung Kỳ còn có chức năng<br />
du lịch Trung Kỳ là quyển Guide de l’Annam của Philippe tuyên truyền và quảng bá du lịch miền Trung đến mọi<br />
Eberhardt được in tại Paris vào năm 1914. Chức vụ của du khách ở khắp nơi bằng những hình thức khác nhau.<br />
tác giả được ghi trên bìa sách là “Délégué du Tourisme Một trong những hình thức tuyên truyền và quảng bá<br />
colonial” (Ủy viên Du lịch thuộc địa). Bấy giờ, ông đã ấy là lưu hành các tập gấp do Phòng biên soạn và xuất<br />
viết: “Nay là lúc các du khách bắt đầu tăng lên mỗi năm bản. Căn cứ vào nội dung của chúng, chúng tôi tạm<br />
một nhiều trên các chiếc tàu đi Viễn Đông, cần làm ra chia các tập gấp bấy giờ ra làm 3 loại: loại từng tỉnh,<br />
những sách hướng dẫn để họ đến tham quan thuộc địa loại riêng từng điểm tham quan và loại chung cho cả<br />
của chúng ta bằng những phương cách tiện lợi nhất, và miền Trung. Chúng tôi may mắn sưu tầm được hầu hết<br />
<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
41<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
các tập gấp của cả 3 loại ấy. Donnai): 6 trang, không đề năm xuất bản.<br />
1.1. Tập gấp giới thiệu từng tỉnh 10. Tỉnh Kontum và tỉnh Pleiku: 8 trang, in tại nhà<br />
in Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội, không đề năm<br />
Từ năm 1935, Phòng Du lịch Trung Kỳ đã bắt đầu<br />
xuất bản.<br />
biên soạn và ấn hành một loạt những tập gấp thuộc<br />
một kế hoạch quảng bá du lịch dài hơi gọi là Collection Như vậy, chỉ có 4 tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình<br />
de Notices touristiques sur les Provinces de l’Annam (Bộ Định và Darlac là chưa ấn hành tập gấp như các tỉnh<br />
sưu tập các bản chỉ dẫn du lịch các tỉnh Trung Kỳ). Mỗi khác, hoặc đã ấn hành rồi nhưng chúng tôi chưa sưu<br />
tập gấp giới thiệu một tỉnh hoặc hai tỉnh liền kề nhau. tầm được.<br />
Bấy giờ, Trung Kỳ được chia thành 17 tỉnh sau đây: Mỗi tập gấp đều mang những nội dung chủ yếu<br />
1. Thanh Hóa, 2. Nghệ An, 3. Hà Tĩnh, 4. Quảng Bình, sau đây:<br />
5. Quảng Trị, 6. Thừa Thiên, 7. Quảng Nam, 8. Quảng<br />
- Một bản đồ tỉnh sở tại với tỷ lệ xích 1/500.000 hoặc<br />
Ngãi, 9. Bình Định, 10. Phú Yên, 11. Khánh Hòa, 12.<br />
1/1.000.000, giới thiệu về giao thông (đường sá đi lại),<br />
Ninh Thuận, 13. Bình Thuận, 14. Đồng Nai Thượng (tức<br />
vị trí các danh thắng và các địa điểm cần biết khác.<br />
là tỉnh Lâm Đồng ngày nay), 15. Darlac, 16. Pleiku, 17.<br />
Kontum. - Lời chỉ dẫn phương tiện đi đến tỉnh bằng đường<br />
bộ, đường tàu hỏa hoặc đường hàng không.<br />
Về hình thức, các tập gấp đều được thực hiện bằng<br />
giấy dày màu xám nhạt, in mực đen, xếp gọn lại thành - Những thông tin tổng quát về tỉnh: dân số, các<br />
6 trang, 8 trang hoặc 12 trang, trang cỡ 23 x 10,5 cm. chủng tộc, các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp,<br />
Các tập đều có ghi số trang theo thứ tự, ghi tên nhà in các đặc sản địa phương…<br />
(hoặc I.D.E.O. HANOI tức là nhà in Trường Viễn Đông - Các tour tuyến du lịch, các danh lam thắng cảnh,<br />
Bác Cổ tại Hà Nội, hoặc nhà in A.J.S. tại Huế), có ghi các di tích lịch sử hấp dẫn và nổi tiếng trong tỉnh.<br />
năm xuất bản hoặc không ghi. Nhưng, tất cả các tập<br />
gấp đều có ghi rằng đây là xuất bản phẩm của Phòng - Những khu giải trí, tiêu khiển: săn bắn, câu cá, tắm<br />
Du lịch Trung Kỳ thuộc Tòa Khâm sứ Huế (Éditions du biển, nghỉ mát, rạp chiếu phim, rạp hát…<br />
Bureau Officiel du Tourisme en Annam de la Résidence - Khách sạn, nhà nghỉ, nhà ga, bến xe, chỗ cho thuê<br />
Supérieure de Hué). xe ô-tô để đi chơi xa…<br />
Tính đến thời điểm hiện nay, chúng tôi đã sưu tầm 1.2. Tập gấp giới thiệu từng điểm tham quan<br />
được 10 tập gấp trong số các tỉnh nói trên:<br />
Trong hai năm 1938 và 1939, Phòng Du lịch Trung<br />
1. Tỉnh Thanh Hóa: 6 trang, không đề năm xuất bản. Kỳ đã biên soạn và ấn hành 3 tập gấp giới thiệu 3 khu<br />
2. Tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh: 12 trang, không đề lăng tẩm của 3 vua nhà Nguyễn ở Huế. Đó là lăng Gia<br />
năm xuất bản. Long, lăng Tự Đức và lăng Khải Định, 3 trong những<br />
công trình kiến trúc âm phần tiêu biểu nhất của hoàng<br />
3. Tỉnh Quảng Bình: 6 trang, không đề năm xuất gia tại kinh đô triều Nguyễn.<br />
bản.<br />
Về hình thức, 3 tập gấp này có cùng cỡ 23 x 10,5<br />
4. Tỉnh Thừa Thiên: 8 trang, in tại nhà in Trường Viễn cm như các tập gấp từng tỉnh nói trên; mỗi tập gấp có<br />
Đông Bác Cổ ở Hà Nội vào năm 1935. 6 trang nhưng không đánh số trang; đều in trên giấy<br />
5. Tỉnh Quảng Nam và Nhượng địa Pháp ở Đà Nẵng: trắng, nhưng giấy mỏng hơn loại giấy in các tập gấp<br />
6 trang, không đề năm xuất bản. chỉ dẫn du lịch các tỉnh. Riêng tập gấp giới thiệu về<br />
lăng Gia Long chỉ được thể hiện bằng 2 màu đen trắng<br />
6. Tỉnh Phú Yên: 6 trang, in tại Nhà in A.J.S. ở Huế<br />
và không đóng khung ở chung quanh từng trang, còn<br />
vào năm 1942.<br />
hai tập kia thì có sử dụng thêm màu đỏ ở một số dòng<br />
7. Tỉnh Khánh Hòa: 8 trang, in tại Nhà in A.J.S. ở Huế, chữ quan trọng và ở khung của mỗi trang. Ở cuối trang<br />
không đề năm xuất bản. 3 và trang 6 của mỗi tập gấp đều ghi một dòng chữ vắn<br />
tắt cho biết đây là xuất bản phẩm của Phòng Du lịch Huế<br />
8. Tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận: 8 trang, in<br />
(Édition du Bureau Officiel du Tourisme de Hué) hoặc<br />
tại nhà in Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội, không<br />
Published by the Official Tourist Bureau of Hue chứ không<br />
đề năm xuất bản.<br />
ghi nhận gì về tòa Khâm sứ Trung Kỳ cả. Nhưng, cũng tại<br />
9. Tỉnh Đồng Nai Thượng (Province du Haut - dòng cuối 2 trang ấy, ở tập lăng Gia Long có ghi thêm<br />
<br />
<br />
42 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
con số 1938 là năm ấn hành; tương tự, ở dòng cuối 2 theo Quan lộ ở Trung Kỳ, tức là đi theo Đường Thuộc<br />
trang ấy của 2 tập kia đều ghi là năm 1939. địa số 1A”10 (nay là đường Quốc lộ 1A).<br />
Về nội dung, cả 3 tập đều chứa đựng những phần Về hình thức, tập gấp chỉ dẫn hành trình du lịch<br />
tương tự nhau, bao gồm: Trung Kỳ có kích cỡ lớn hơn 2 loại trên đây: 24 x 12,8<br />
cm. Giấy tương đối dày với màu xám nhạt. Chữ in bằng<br />
- Trang 1: Một ảnh đen trắng chụp khu vực tiêu<br />
mực đen và chỉ dùng mực đỏ ở những chỗ quan trọng.<br />
biểu nhất của lăng.<br />
Tập gấp này có 8 trang (không đánh số thứ tự). Trang 1<br />
- Trang 2: Mô tả khu lăng bằng tiếng Pháp. được dùng để ghi tiêu đề của tập gấp như vừa nói, ghi<br />
- Trang 3: Sơ đồ khu lăng, vẽ khá đầy đủ các công năm ấn hành (1937), nơi xuất bản (Éditions du Bureau<br />
trình kiến trúc tại đó và được chú thích bằng cả tiếng Officiel du Tourisme de la Résidence Supérieure de<br />
Pháp lẫn tiếng Anh. Hué, nghĩa là “Xuất bản phẩm của Phòng Du lịch Trung<br />
Kỳ thuộc Tòa Khâm sứ Huế” và lời giới thiệu ngắn gọn<br />
- Trang 4: Mô tả khu lăng bằng tiếng Anh. về cách sử dụng tập gấp. Từ trang 2 đến trang 8 được<br />
- Trang 5: Mô tả chung về lăng tẩm các vua nhà chia làm 2 cột: cột bên trái dùng để vẽ bản đồ Trung<br />
Nguyễn ở Huế bằng tiếng Anh. Kỳ với tỷ lệ xích 1/1.500.000 và cột bên phải dùng để<br />
chỉ dẫn về những địa điểm và địa danh được thể hiện<br />
- Trang 6: Mô tả chung về lăng tẩm các vua nhà trên bản đồ.<br />
Nguyễn ở Huế bằng tiếng Pháp.<br />
Nội dung lời giới thiệu ở trang 1 xin được tạm dịch<br />
Về nội dung lời giới thiệu bằng tiếng Pháp lẫn tiếng như sau:<br />
Anh ở cả 3 tập gấp đều được các tác giả của chúng<br />
ghi rõ là đã dựa theo sách của Eberhardt8 hoặc sách “Hành trình dọc theo Quan lộ<br />
của Madrolle.9 Việc 3 tập gấp này có thêm phần tiếng (Đường Thuộc địa số 1)<br />
Anh chứng tỏ vào những năm cuối thập niên 1930, du<br />
khách nói tiếng Anh đến miền Trung đã khá nhiều. Tập gấp chỉ dẫn hành trình này gồm một bản đồ và<br />
một lời thuyết minh, ở đó biểu thị tất cả những điều chỉ<br />
Chúng tôi không biết bấy giờ, Phòng Du lịch Trung dẫn tóm tắt nhưng rõ ràng và chính xác, có thể làm cho<br />
Kỳ có ấn hành thêm tập gấp giới thiệu điểm tham du khách thích thú khi đi qua miền Trung bằng đường<br />
quan nào nữa hay không. Thuộc địa số 1.<br />
1.3. Tập gấp chỉ dẫn hành trình du lịch miền Trung Những điểm cây số (Points kilométriques) chỉ dẫn<br />
So với hai loại tập gấp vừa đề cập trên đây thì loại đến vị trí các thắng cảnh và các di tích đều nằm trên con<br />
tập gấp thứ ba này đáng quan tâm hơn nhiều, vì nó đường này,<br />
mang tính liên tỉnh miền Trung. Những điểm cây số chỉ dẫn đến các đường nhánh của<br />
Dưới thời Pháp thuộc, ở Trung Kỳ, loại này chỉ được đường Thuộc địa số 1 với các tỉnh lộ đều có biểu thị lối đi<br />
ấn hành một lần duy nhất. Thật vậy, vào năm 1937, đến các điểm tham quan,<br />
Phòng Du lịch Trung Kỳ đã biên soạn, in ấn và phát Các ga tàu hỏa,<br />
hành tập gấp nhan đề là Annam, Itinéraire de la Route<br />
Mandarine (Route Coloniale No1), nghĩa là “Hành trình Các trạm điện tín (Stations télégraphiques),<br />
Các khách sạn và các nhà nghỉ (bungalow),<br />
Các xưởng sửa chữa xe ô-tô,<br />
Các bến đò,<br />
Các bệnh viện, các bệnh xá hay các trạm cấp cứu,<br />
Các cây xăng.<br />
Những điểm cây số chỉ dẫn đến các thắng cảnh và<br />
các di tích, cũng như những điểm cây số chỉ rõ các đường<br />
nhánh đều được biểu thị trên bản đồ hành trình này và<br />
được miêu tả trong lời thuyết minh, tương ứng với một<br />
tín hiệu đặc biệt trên đường Quan lộ. Tín hiệu này được<br />
thiết lập bằng những cột chỉ đường màu trắng và màu<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
43<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
xanh lục cắm dọc theo đường Thuộc địa số 1. Trên mỗi b/ Đường nhánh địa phương số 89 dẫn lên chùa Thiên<br />
cột chỉ đường này đều có các chỉ dẫn du lịch cần thiết”. Mụ và Văn Miếu (km 3,5).<br />
Tuy diện tích của tập gấp khi trải ra là không lớn, c/ Đường nhánh địa phương số 80 đưa về bãi tắm<br />
nhưng các tác giả của nó đã tỏ ra khéo léo trong phần biển Thuận An (km 14).<br />
vẽ bản đồ cũng như trong phần chú dẫn. d/ Đường nhánh địa phương số 78 dẫn lên đàn Nam<br />
Từ trang 2 đến trang 5, phần bên trái tờ giấy là nơi Giao (km 3,8), núi Ngự Bình (km 4,8) là chỗ tuyệt vời để<br />
dùng để thể hiện bản đồ liên tỉnh Thanh Hóa - Nghệ ngắm toàn cảnh Huế và Kinh thành; lên lăng Tự Đức (km<br />
An - Hà Tĩnh - Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên - 5,7), lăng Đồng Khánh (km 5,8), đồi Vọng Cảnh (km 6,8) là<br />
Quảng Nam; phần còn lại bên phải được dùng để in nơi ngắm toàn cảnh hùng tráng bao quanh cả vùng lăng<br />
lời chú dẫn. tẩm, và cũng là khoảng không gian thơ mộng để ngắm<br />
cảnh sông Hương; lăng Thiệu Trị (km 6,9), lăng Khải Định<br />
Từ trang 5 đến trang 8, tức là mặt sau của tờ giấy,<br />
(km 9), lăng Minh Mạng (km 11,7 - qua đò ngang), lăng<br />
là nơi dùng để thể hiện bản đồ liên tỉnh Quảng Ngãi -<br />
Gia Long (km 13,5 - qua đò ngang. Từ bến đò lăng Gia<br />
Bình Định - Phú Yên - Khánh Hòa - Ninh Thuận - Bình<br />
Long, người ta có thể đi ngược dòng sông Hương bằng<br />
Thuận - Đồng Nai Thượng - Darlac - Pleiku - Kontum. Vì<br />
thuyền tam bản để đến Suối Nước Nóng).13<br />
ở đây có cả các tỉnh cao nguyên miền Trung, cho nên,<br />
bề ngang phần vẽ bản đồ rộng hơn gấp đôi so với bề ĐIỂM CÂY SỐ 30. - Đá Bạc - Ở đây có ga tàu hỏa.<br />
ngang của phần in lời chú dẫn ở bên phải. Đi thuyền tam bản ngang qua đầm Cầu Hai để đến<br />
Dù sao đi nữa, trên bản đồ cũng như ở lời chú dẫn, chùa Túy Vân (cách Đá Bạc 8 km - Chùa ở trên một ngọn<br />
trung tâm thành phố Huế cũng đã được chọn làm cây đồi nhỏ).<br />
số 0 để tính ra phía bắc hoặc vào phía nam. Từ Huế ra ĐIỂM CÂY SỐ 40. - Cầu Hai - Ở đây có cây xăng.<br />
đến tỉnh lỵ của tỉnh Thanh Hóa là 501 km và từ Huế vào<br />
đến Phan Thiết (tỉnh lỵ của tỉnh Bình Thuận) là 878,8 Một đường nhánh dẫn lên núi cao Bạch Mã14 (đi 3 km<br />
km. Sở dĩ Huế được chọn làm cây số 0 vì đây vừa là bằng ô-tô và 10 km bằng kiệu - Nhìn toàn cảnh đầm Cầu<br />
kinh đô của triều Nguyễn, vừa là nơi đóng Tòa Khâm Hai; khí hậu miền biển; cao độ 1.450 m).<br />
sứ, được xem như là thủ phủ của chính quyền Bảo hộ ĐIỂM CÂY SỐ 66,5. - Bãi tắm biển Lăng Cô15 - Cách<br />
Pháp ở Trung Kỳ. đường Quan lộ 200 m.<br />
Bản đồ vẽ đậm nét con đường Quốc lộ 1A và ĐIỂM CÂY SỐ 77,3. - Đèo Hải Vân - Điểm tuyệt vời để<br />
đường tàu hỏa từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Đường ngắm toàn cảnh vịnh Đà Nẵng - Cao độ 495 m”.<br />
bộ và đường sắt này chạy hầu như song song nhau<br />
từ đầu đến cuối miền Trung. Ngoài Quan lộ (Route Đó chỉ mới là nội dung của 5 trong số 94 “điểm cây<br />
Mandarine), bản đồ còn vẽ các tuyến đường quốc lộ số” (points kilométriques) được thể hiện trên bản đồ<br />
thứ yếu và các tỉnh lộ… cũng như trong phần chỉ dẫn bằng lời từ điểm cực bắc<br />
là Bỉm Sơn ở tỉnh Thanh Hóa đến điểm cực nam là cây<br />
Đáng quan tâm nhất ở đây là các tác giả của tập số 946,46 tiếp giáp với Nam Kỳ. Trên con đường thiên<br />
gấp đã chỉ dẫn cho du khách biết về các công trình lý ấy, du khách đi bằng đường bộ hoặc bằng tàu hỏa<br />
kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử và danh lam thắng có thể ghé thăm hàng trăm di tích và danh thắng nằm<br />
cảnh của cả Trung Kỳ. Các di tích danh thắng ấy đều ở hai bên đường, phía biển cũng như phía núi.<br />
được thể hiện tên gọi, địa điểm, khoảng cách từ trung<br />
tâm thành phố tỉnh lỵ hoặc tại km bao nhiêu ở Quốc lộ Tập gấp này rất gọn nhẹ và tiện lợi, có thể xếp lại để<br />
1A, đi bằng phương tiện gì (ô-tô, xe kéo, tàu thuyền...), vào túi áo, nhưng nó cung cấp cho lữ khách một lượng<br />
mất thời gian bao lâu, giá trị của điểm tham quan,... thông tin hết sức phong phú về hàng trăm tài sản văn<br />
hóa và thiên nhiên ở miền Trung.<br />
Xin nêu một ví dụ cụ thể là lời chú dẫn về các điểm<br />
tham quan du lịch ở Huế, tỉnh lỵ của Thừa Thiên, tạm Thay lời kết bằng một đề nghị<br />
dịch từ nguyên văn như sau: Du khách thời hiện đại, đặc biệt là thế hệ trẻ, trước<br />
“ĐIỂM CÂY SỐ 0. - Huế - Ở đây có ga tàu hỏa, có trạm khi bắt đầu một cuộc viễn du, thường tìm hiểu lộ trình<br />
điện tín, có bệnh viện, có cây xăng. mình sẽ đi qua mạng internet, và trong suốt cuộc hành<br />
trình, đi đến tham quan ở đâu cũng có hướng dẫn viên<br />
a/ Tham quan Kinh thành, Bảo tàng Khải Định11, Bảo du lịch (tour guide) đưa đường dẫn lối và thuyết minh<br />
tàng Kinh tế12, các khu ngoại ô thương mại xinh đẹp Gia cặn kẽ. Thêm vào đó, ở bất cứ đâu cũng có sách hướng<br />
Hội và Đông Ba.<br />
<br />
44 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
dẫn du lịch (guide book). Vậy phải chăng tập gấp liên Chú thích<br />
tỉnh như trên đã trở nên lỗi thời? Chắc hẳn là không, vì 1<br />
Dương Kinh Quốc, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam,<br />
với sự tiện ích phổ cập và sự hữu dụng đặc biệt của nó, (Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1988), 110, 166.<br />
không một thiết bị máy móc hoặc con người phục vụ 2<br />
Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (1858<br />
nào có thể thay thế nó được. - 1918), (Hà Nội: Giáo dục, 2001), 331, 434.<br />
<br />
Mặc dù tập gấp chỉ dẫn hành trình du lịch Trung Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự liện lịch sử<br />
3, 4, 5<br />
<br />
(1919 - 1945), (Hà Nội: Giáo dục, 2000), 37, 57, 143.<br />
Kỳ đã được người Pháp làm ra cách đây đúng 75 năm<br />
(1937 - 2012), nhưng, theo thiển ý, tập gấp này vẫn<br />
6<br />
Philippe Eberhardt, Guide de l’Annam, (Paris: Augustin<br />
Challamel, 1914), 7.<br />
còn có một giá trị nhất định cho đến hiện tại. Từ đó<br />
đến nay, chúng tôi chưa hề thấy cá nhân hoặc tổ chức<br />
7<br />
R.E. Hector, Tourisme en Indochine (1940), in lại trong<br />
sách Les Grands Dossiers de l’Illustration, L’Indochine, Histoire<br />
người Việt Nam nào thực hiện được một ấn phẩm<br />
d’un siècle, 1843-1944 , (Paris: Le Livre de Paris, 1993), 191.<br />
mang hình thức và nội dung tương tự.<br />
8<br />
Philippe Eberhardt, Sách đã dẫn.<br />
Trong mấy thập niên vừa qua, đã xuất hiện rất 9<br />
Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, người ta đã thấy<br />
nhiều tập gấp quảng bá du lịch, nhưng nội dung chỉ xuất hiện một bộ sách hướng dẫn du lịch Đông Dương khá<br />
giới hạn hoặc trong từng tỉnh thành hoặc trong từng dày dặn do Madrolle biên soạn, gọi tắt là Guides Madrolle. Bộ<br />
khu danh thắng riêng lẻ. Những tập gấp này đều là sách gồm 2 quyển: Indochine du Nord (Bắc Đông Dương) và<br />
những ấn phẩm thuộc dạng “mạnh ai nấy làm” cho Indochine du Sud (Nam Đông Dương) do Nhà sách Hachette<br />
từng địa phương, chứ không có sự liên kết giữa các xuất bản lần thứ 3 tại Paris vào năm 1932.<br />
tỉnh, thành hoặc vùng miền như 75 năm về trước. 10<br />
Vào ngày 18.6.1918, Toàn quyền Đông Dương ra nghị<br />
định xếp loại các tuyến đường bộ chính ở Đông Dương và<br />
Trong cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động du lịch ở gọi là Đường Thuộc địa (Routes Coloniales). Trong đó, quan<br />
Việt Nam hiện nay, chỉ thấy Tổng cục Du lịch (thuộc trọng nhất là Đường Thuộc địa số 1A, dài 2.578 km, chạy từ<br />
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) là cấp cao nhất trong biên giới Việt - Trung, qua Lạng Sơn, Hà Nội, Huế, Sài Gòn,<br />
ngành. Dưới đó là cấp tỉnh với đơn vị chủ quản là Sở Phnom Penh, đến biên giới Campuchia - Thái Lan (Dương<br />
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chứ không có cấp liên Kinh Quốc, Sách đã dẫn, 258 - 259).<br />
tỉnh (vùng miền). Nếu không có cấp chủ quản trung 11<br />
Bảo tàng Khải Định (Musée Khai Dinh) được thành lập<br />
gian giữa bộ máy du lịch quốc gia và địa phương (tỉnh) vào năm 1923. Bảo tàng này đã trải qua nhiều lần thay đổi<br />
thì không ai có trách nhiệm làm tập gấp quảng bá du tên gọi, nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, tọa lạc tại số<br />
lịch liên tỉnh như trường hợp miền Trung vừa thấy ở 3, đường Lê Trực, thành phố Huế.<br />
trên. Như vậy, trong tình hình hiện nay, trách nhiệm 12<br />
Bảo tàng Kinh tế (Musée Économique) được thành lập<br />
làm tập gấp quảng bá du lịch vùng miền như thế phải vào năm 1915 ở dãy nhà bên trái trước sân Viện Cơ Mật để<br />
được đẩy lên cho Tổng cục Du lịch. trưng bày “những nguyên liệu động vật và thực vật của Trung<br />
Kỳ” (Richard Orband, “Éphémérides annamites”, B.A.V.H., 334).<br />
Riêng ở miền Trung, thực tế đang cần một tập gấp Bảo tàng này hoạt động ngót 30 năm từ ngày 14.5.1915 đến<br />
chỉ dẫn du lịch chung như vậy. Hành trình đường bộ ngày 9.3.1945 là thời điểm Nhật đảo chính Pháp tại Đông<br />
của khách du lịch, nhất là du khách quốc tế, thường Dương.<br />
không bị xé lẻ bởi ranh giới hành chính của một tỉnh 13<br />
Suối Nước Nóng: Đây là một trong 20 thắng cảnh ở<br />
thành nào, mà tiếp diễn liên tục suốt cả một vùng miền vùng Huế (Thần kinh nhị thập cảnh) mà vua Thiệu Trị (1841<br />
văn hóa với giá trị đặc thù chung của nó. Tất nhiên, - 1847) đã chọn lựa và làm thơ để ca ngợi. Nhan đề của bài<br />
ngày nay, nếu Tổng cục Du lịch hoặc một tổ chức hay thơ là Tây lãnh thang hoằng (Suối nước nóng ở núi tây). Xem:<br />
Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải,<br />
cá nhân nào đó đứng ra làm một tập gấp như vậy cho<br />
Nguyễn Phước Hải Trung, Thần kinh nhị thập cảnh, thơ vua<br />
miền Trung chẳng hạn, thì với các vật liệu giấy má cao<br />
Thiệu Trị, (Huế: Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế - Thuận<br />
cấp và phương tiện ấn loát hiện đại, chắc hẳn tập gấp Hóa, 1997) 251-258.<br />
sẽ được thực hiện một cách khoa học, chính xác, đầy 14<br />
Núi Bạch Mã: Đây là một vùng núi nghỉ mát lý tưởng,<br />
đủ, chất lượng, cập nhật, tiện lợi và hấp dẫn hơn xưa. do kỹ sư trưởng Girard ở Sở Công chánh Trung Kỳ phát hiện<br />
Hy vọng bài viết này cung cấp kinh nghiệm về một vào năm 1932. Địa điểm này nằm cách trung tâm thành phố<br />
cách quảng bá du lịch Trung Kỳ từ thời quá khứ cần Huế 59 km đường bộ, ngày nay đã có thể lên đến Vọng Hải<br />
Đài ở đỉnh núi bằng ô-tô.<br />
tham khảo, đồng thời đóng góp một ý kiến nhỏ vào<br />
việc định hướng liên kết giữa các tỉnh trong sự nghiệp<br />
15<br />
Bãi biển Lăng Cô: Do vua Khải Định phát hiện vào năm<br />
1916, đây vừa là một bãi tắm biển lý tưởng, vừa là khu nghỉ<br />
phát triển du lịch ở miền Trung Việt Nam.<br />
dưỡng tuyệt vời, vừa là một thắng cảnh. Lăng Cô đã được<br />
P.T.A. xếp vào hàng những vịnh biển đẹp nhất thế giới.<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
45<br />