intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2023 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số biểu tượng trong dân ca Tày

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

90
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Một số biểu tượng trong dân ca Tày nghiên cứu về một số biểu tượng ngôn ngữ thường gặp trong dân ca Tày, ở ba tiểu loại dân ca: Lượn, quan lang, then. Qua đó, giúp hiểu biết được cái hay cái đẹp trong tiếng Tày, đồng thời khám phá được phần nào vốn văn hóa phi vật thể, góp phần giới thiệu, tôn vinh tâm huyết, tài năng của các nghệ sĩ dân gian Tày trong sáng tạo nghệ thuật, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống vô giá của người Tày.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số biểu tượng trong dân ca Tày

  1. Vol 8. No.1_ March 2022 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO ISSN: 2354 - 1431 http://tckh.daihoctantrao.edu.vn/ SOME SYMBOLS IN THE FOLK SONGS OF THE TAY ETHNIC Le Thi Nhu Nguyet Thai Nguyen University, Viet Nam Email address: lenguyet@tnu.edu.vn DOI: https://doi.org/10.51453/2354-1431/2022/715 Article info Abstract: Tay folk songs include phong slư, Lượn, Quan lang, then, Phuối pác, Received: 2/1/2022 Phuối rọi, Vén noọng nòn... Revised: 29/1/2022 From a linguistic point of view, this article presents some common symbols of three distinctive types of folk songs of the Tay people: Lượn, Quan lang, Accepted:5/3/2022 Then. The linguistic symbols commonly encountered in Tay folk songs are divided into two groups: the group of symbols representing “beauty, aspiration” (bjoóc ( ower), fượng/ fượng hoàng (phoenix), nổc loan (loan bird) ), ẻn (swallow), cấu (the bridge), mjầu (betel), ngoảng (cicada), vạ/ bân (heaven), phải rằm khấư (wet-dry cloth)); a group of symbols representing Keywords: “di culties and challenges” (tàng (road), kéo (pass), nặm lậc (deep water), nặm noòng ( oodwater), lần phải làn tàng (fabric rope blocking the road)) folk song, Tày, symbol, … In these two groups of symbols, the Tay people use the symbols of lượn, quan lang, then “beauty, aspiration” more. The most commonly used linguistic symbols are in lượn. In Tay folk songs, these symbols help to tell about the struggles for happiness and the aspirations of generations of Tay ethnic. |55
  2. Vol 8. No.1_ March 2022 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO ISSN: 2354 - 1431 http://tckh.daihoctantrao.edu.vn/ MỘT SỐ BIỂU TƯỢNG TRONG DÂN CA TÀY Lê Thị Như Nguyệt Đại học Thái Nguyên, Việt Nam Địa chỉ Email: lenguyet@tnu.edu.vn DOI: https://doi.org/10.51453/2354-1431/2022/715 Thông tin bài viết Tóm tắt Dân ca Tày bao gồm các loại: phong slư, lượn, quan lang, then, phuối pác, phuối rọi, vén noọng nòn... Dưới góc nhìn ngôn ngữ học, bài viết trình bày Ngày nhận bài: 2/1/2022 một số biểu tượng thường gặp trong ba tiểu loại dân ca đặc sắc của người Ngày sửa bài: 29/1/2022 Tày: lượn, quan lang, then. Các biểu tượng ngôn ngữ thường gặp trong dân ca Tày được chia thành hai nhóm: nhóm biểu tượng đại diện cho “vẻ Ngày duyệt đăng: 5/3/2022 đẹp, ước vọng” (bjoóc (hoa), fượng/ fượng hoàng (phượng hoàng), nổc loan (chim loan), ẻn (chim én), cấu (cây cầu), mjầu (trầu), ngoảng (ve), vạ/ bân (trời), phải rằm khấư (tấm vải ướt khô)); nhóm biểu tượng đại diện cho “khó khăn, thử thách” (tàng (con đường), kéo (đèo), nặm lậc (nước sâu), nặm noòng (nước lũ), lần phải làn tàng (dây vải chắn đường))… Ở Từ khóa: hai nhóm biểu tượng này, người Tày sử dụng các biểu tượng “vẻ đẹp, ước vọng” nhiều hơn. Các biểu tượng ngôn ngữ được sử dụng phổ biến nhất là Dân ca, Tày, biểu tượng, trong lượn. Trong dân ca Tày, các biểu tượng này giúp kể về những chặng lượn, quan lang, then đường phấn đấu tới hạnh phúc và những ước vọng của những thế hệ người dân Tày. 1. Đặt vấn đề Nguyễn Thị Thoa [8],...; thứ hai, nghiên cứu ngôn ngữ dân ca Tày: Đinh Thị Liên [5], Hoàng Thu Trang Dân tộc Tày ở Việt Nam có vốn văn học dân gian [9],... Tuy nhiên cho đến nay, biểu tượng ngôn ngữ khá đồ sộ, đa dạng, độc đáo. Họ có chữ viết riêng nên trong các tác phẩm dân ca Tày vẫn là một vấn đề khoa đã lưu giữ được nhiều tác phẩm cho đến nay. Là một học chưa được quan tâm, bàn luận một cách đầy đủ, bộ phận của văn học dân gian, những tác phẩm dân ca sâu sắc, chưa có công trình nào lựa chọn một số biểu đã phản ánh tinh thần, lối sống và tâm tư tình cảm của tượng trong dân ca Tày làm đối tượng nghiên cứu. người Tày. Đây là những bài ca, câu hát gắn bó mật thiết với các mặt sinh hoạt của đồng bào (sinh hoạt Lượn, quan lang, then là ba loại hình đặc sắc của lao động, sinh hoạt nghi lễ - phong tục, sinh hoạt gia dân ca Tày. đình và xã hội), phản ánh phần nào đời sống xã hội, Bài viết nghiên cứu về một số biểu tượng ngôn những tập tục và những ước vọng, tâm tư của những ngữ thường gặp trong dân ca Tày, ở ba tiểu loại dân người sáng tạo ra nó. ca: lượn, quan lang, then. Qua đó, giúp hiểu biết được Ở nước ta, dân ca Tày đã trở thành đối tượng quan cái hay cái đẹp trong tiếng Tày, đồng thời khám phá tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các nghệ nhân được phần nào vốn văn hóa phi vật thể, góp phần giới dân gian: Hoàng Triều Ân [1], Nguyễn Duy Bắc [2], thiệu, tôn vinh tâm huyết, tài năng của các nghệ sĩ Nguyễn Thiên Tứ [10],... Có hai hướng cơ bản: thứ dân gian Tày trong sáng tạo nghệ thuật, bảo tồn và nhất, sưu tầm, nghiên cứu từ góc độ văn hóa, văn học phát huy những giá trị văn hóa truyền thống vô giá nghệ thuật: Hoàng Tuấn Cư [3], Ngô Đức Thịnh [7], của người Tày. 56|
  3. Le Thi Nhu NguyetVol 8. No.1_ March 2022|p55-64 2. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu thơm. Đây là từ chỉ sự vật rất thường gặp trong dân Đối tượng nghiên cứu và tư liệu khảo sát liên quan ca Tày. Ví dụ: đến tác phẩm âm nhạc dân gian (phần lời trong các bài Bjoóc rầm phông cằn thâm đài lạn/ Lầm phặt hát dân ca: lượn, quan lang, then) nên ngoài những tri phày mọi bản mọi hom (Hoa rầm nở bờ ao vách đá/ thức ngôn ngữ làm nền tảng, bài viết có sử dụng một Gió đưa đi mọi làng mọi thơm) [3, tr. 250], Bjoóc số tri thức khác như: văn học dân gian, âm nhạc dân mạ phông nả đán rùng rường/ Nâư chạu mì tói ương gian, văn hóa học... Vì vậy, chúng tôi sử dụng phương khửn roạn/ Tấp píc quá nả đán moòng nằn (Hoa mạ pháp tiếp cận liên ngành để đáp ứng được mục đích nở vách đá lộng lẫy/ Sáng sớm có đôi chim lên rồi/ nghiên cứu. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp Vỗ cánh qua vách đá hót vang) [3, tr. 255]. miêu tả, thủ pháp phân tích văn bản, thủ pháp phân tích ngữ nghĩa... để có những nhận xét, đánh giá nhằm Người Tày quan niệm: Bjoóc không chỉ có ở làm rõ vấn đề nghiên cứu. “mường người” mà còn có ở “mường trời”, hơn thế nữa trên “mường trời” chủ yếu là “hoa”. Vẻ đẹp của Ngữ liệu trong bài viết được sử dụng từ bốn xuất bản bjoóc góp phần khắc họa cảnh nên thơ, trữ tình trong phẩm: [1], [2], [3], [10]. Các ví dụ trong bài viết được then, khiến cho đoàn quân then phấn chấn trước khi ghi bằng chữ Tày. vượt qua cửa mười hai vũ thất văn quan để vào cung 3. Nội dung nghiên cứu Ngọc Hoàng trình lễ. Ví dụ: Hăn tứ bích mọi tỉ chắn mung/ Đảy hăn cảnh hoa phông vườn đáo/ Bách hoa 3.1. Biểu tượng, biểu tượng ngôn ngữ nở hộn hạo đua xinh/ Khác nào ấy bức tranh họa đồ/ Trong Từ điển tiếng Việt, biểu tượng được hiểu là: Ong điệp bân mừa tổ đuổi hoa… (Thấy bốn phía mọi “1. Hình ảnh tượng trưng. 2. Hình thức của nhận thức, chỗ chắn đường/ Được thấy cảnh hoa nở vườn đào/ cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ Bách hoa nở hoa nào cũng xinh/ Khác nào ấy bức tranh lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác họa đồ/ Ong điệp bay về đỗ với hoa…) [1, tr. 461]. quan ta đã chấm dứt...” [6, tr. 99]. Trong hát lượn, chàng trai đã mượn bjoóc để thăm Biểu tượng là một trong những kết quả tư duy trừu dò: Bjoóc ới nhằng slương mèng rụ mí/ Rụ la slương tượng của đời sống và thường gặp trong sáng tạo nghệ chon mấư la lừm (Hoa ơi còn thương ong hay không/ thuật, có liên quan đến mặt ngữ nghĩa của từ ngữ. Hay là quên chốn mới mà quên) [3, tr. 264]. Nó được xem như là điểm sáng trong tác phẩm văn Lúc chia tay, bjoóc (hoa) - mèng (ong) (cô gái - chương, là những tín hiệu thẩm mĩ đa nghĩa và giàu chàng trai) tiễn biệt nhau quyến luyến. Ví dụ: Bjoóc tính biểu cảm. Ví dụ: “Chim bồ câu” là biểu tượng cạ mèng dá than thè rời/ Chủa Đông Quân thè vời hòa bình; “Dòng sông” là biểu tượng sự vĩnh hằng... hử mừa/ Mèng bjoóc đạ thương giờ thè phjạc/ Mèng Biểu tượng là khái niệm có tính chất liên ngành, bjoóc nặm tha lác slắng căn (Hoa rủ ong chớ than sẽ được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu với các tàn/ Chúa Đông Quân lệnh mới cho về/ Ong, hoa đã chuyên ngành khoa học khác nhau: Triết học, Tâm lí đến giờ sẽ biệt/ Ong, hoa nước mắt tuôn dặn nhau) học, Nhân học, Văn hóa học..., đặc biệt là Ngôn ngữ [3, tr. 274]. học. Nghiên cứu biểu tượng trong văn nghệ giúp đi Chàng trai mượn bjoóc khảo quang để nói tới cô sâu vào thế giới các hình tượng nghệ thuật, hiểu sâu gái xinh đẹp. “Xin trầu với hoa” chính là thể hiện mong sắc những trầm tích văn hóa trong đời sống xã hội của ước kết duyên với cô gái: Xo mjầu đuổi khảo bang gia cộng đồng. Biểu tượng ngôn ngữ là một trong những kính (Xin trầu với khảo quang giới kinh) [3, tr. 383]. loại biểu tượng nói chung, chịu sự chi phối của các quy luật ngôn ngữ học. Biểu tượng ngôn ngữ được sử Bjoóc là biểu tượng vẻ đẹp người con gái: Rườn dụng trong những văn bản cụ thể từ ngôn ngữ văn hóa cần mì sao nàng bjoóc quý/ Noọng khỏi nhằng dú lế của nhiều thế hệ người nói, là sự ẩn dụ hay hàm ý tích đan thân/ Bjoóc cần đang thì xuân phú phí/ Bjoóc lũy được qua những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. cần đang rổp thí phông hom/ Choi chỏi bặng đao bân Khi tìm hiểu biểu tượng ngôn ngữ trong dân ca slíp hả... (Nhà người có cô nàng hoa quý/ Em tôi còn Tày, phải chú ý đến ngữ cảnh, tâm lí tộc người và ở lẻ đơn thân/ Hoa người đang mùa xuân chúm chím/ trong mối quan hệ với nhân tố chủ thể và môi trường Hoa người đang gặp lúc nở thơm/ Choi chói tựa trăng văn hóa. rằm giữa tháng...) [2, tr. 142]. Hình ảnh bjoóc cần (hoa người) khẳng định vẻ đẹp thanh cao của người 3.2. Một số biểu tượng ngôn ngữ thường gặp con gái. trong dân ca Tày Bjoóc còn là biểu tượng tuổi trẻ, mùa xuân của đời 3.2.1. Nhóm biểu tượng “vẻ đẹp, ước vọng” người, là khát vọng tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Ví dụ: a. Biểu tượng “bjoóc” (hoa) Tua cần mì kỉ chiền slinh lồng/ Bjoóc mì xuân la cần Trong đời sống, bjoóc (hoa) là cơ quan sinh sản mì slí (Con người có mấy chuyến sinh xuống/ Hoa có hữu tính của thực vật, thường có màu sắc và hương xuân thì người có thì) [2, tr. 184]; Khuyên mừa puồng |57
  4. Le Thi Nhu NguyetVol 8. No.1_ March 2022|p55-64 bjoóc mạ đang phông/ Khuyên mừa puồng bjoóc rầm (Mẹ Hoa phân thượng các âm cung/ Sinh ta xuống đang slí/ Mật mèng khảm xiên lỉ mà tom... (Khuyên lương gian mới rẽ...) [3, tr. 373]. về chùm hoa mạ đang nở/ Khuyên về chùm hoa rầm Trong then kì yên, cầu chúc có một phần lễ dành đang rộ/ Ong bướm vượt nghìn dặm về đậu...) [3, tr. riêng cho những cặp vợ chồng muộn đường con cái, 330]. muốn có con thì phải làm lễ Cái kiều cầu tự để Mẻ Người con gái nhún mình, tự ví là những loài Bjoóc phân nụ, chia hoa. Mẻ Bjoóc là biểu tượng cho bjoóc bình dị: mậu đàn pàn rị (hoa mẫu đơn bờ dậu), sự sinh sản, là sức khỏe, tình yêu. Ví dụ: Bjoóc mẻ lểu hay bjoóc cút (hoa cút) - hoa cây dương xỉ: Thân păn mà/ Hoa mẻ lểu păn hẩư/ Bjoóc mẻ lồng tu tẩư tẻ noọng tồng mậu đàn pàn rị (Thân em như mẫu đơn an/ Hoa mẻ lồng dương gian tẻ đạ... (Hoa mẹ ắt chia bờ dậu) [3, tr. 226], Thân noọng tồng bjoóc cút tểnh về/ Nụ mẹ chia là được/ Nụ mẹ xuống cửa thế được khau (Thân em như hoa cút trên non) [3, tr. 228]. yên/ Hoa mẹ xuống dương gian...) [1, tr. 411]. Cách mở đầu bằng câu Thân noọng tồng… (Thân em Con người chính là nụ, là hoa, nên những người như…) khiến cho lời ca như lời than thân, trách phận, hiếm muộn luôn khao khát Mẻ Bjoóc ban nụ, ban nhưng cũng vì thế mà đối đáp trở nên uyển chuyển về hoa để hạnh phúc vẹn tròn, ấm êm cửa nhà. Nụ đã giọng điệu. về dương gian thì mong mỏi nụ được bình an, ở dưới Trên cơ sở biểu tượng “vẻ đẹp” là bjoóc nói trên, dương gian vạn đại: Bjoóc te lồng chang sóa đảy an/ người Tày xem bjoóc là tiêu chí thẩm mĩ. Từ khuôn Hoa niên phòng mà đang đoạn giá/ Cái cấu thâng mặt, dáng vẻ đến hành động,... đều có thể được hình nưa vạ đảy an/ Bjoóc te lồng dương gian vạn đại… dung là bjoóc. Bjoóc là người con trai cao quý: Thân (Nụ ấy đưa về nhà được an/ Hoa ấy nở thân nàng rồi phì tồng bjoóc kim chang xuồ (Thân anh như hoa vậy/ Bắc cầu đến mường trời được an/ Nụ đã xuống vàng trong chùa) [3, tr. 224]; là vẻ đẹp của tiên nữ dương gian vạn đại…) [1, tr. 413]. trên mường trời: Tiện nự nả khảo xóa như hoa (Tiên Bjoóc trong dân ca Tày là biểu tượng vẻ đẹp của nữ mặt trắng xóa như hoa) [1, tr. 570]; là nét chữ tài tự nhiên và con người, là tuổi trẻ, mùa xuân, hạnh hoa của chúa trạng: Trạng vương gần thật rụ sư tha phúc; cũng là ước vọng… Nét nổi bật nhất trong (Trạng vương viết chữ đẹp như hoa) [1, tr. 450]... dân ca Tày là bjoóc thường là biểu tượng cho vẻ đẹp Trong tâm linh, bjoóc còn đại diện cho vẻ đẹp cao mang tính nữ. quý. Theo quan niệm của người Tày, lễ vật dâng lên b. Biểu tượng “fượng/ fượng hoàng” (phượng Ngọc Hoàng xin cấp sắc lúc nào cũng phải có cỗ hoa, hoàng), “nổc loan” (chim loan) và “ẻn” (chim én) những loài hoa biểu tượng cho sự thanh khiết, cao quý: hoa xiên lí (hoa thiên lí), hoa liệu mai (hoa liễu Nổc (chim) rất thường gặp trong dân ca Tày, với mai), hoa bjoóc lỏng (hoa bjoóc lỏng), vặc viền (vặc nhiều loại nổc: ẻn (chim én), fượng hoàng (phượng viền), qua đó thể hiện sự nhất tâm của gường, sở kính hoàng), nổc loan (chim loan), nhạn (chim nhạn), nổc dâng lên vua. Ví dụ: Thứ sam biên hoa ngân cộ quý/ tủm (chim le le)… Biên au hoa xiên lí phông lai/ Thắp au hoa liệu mai Người Tày quan niệm: Fượng hoàng là loài chim phông ón/ Biên au hoa bjoóc lỏng, vặc viền/ Hoa nẩy huyền thoại, có vẻ đẹp rực rỡ, là loài chim quý. Trong khỉn thượng thiên tiến thảo (Thứ ba biên các hoa cỗ tín ngưỡng dân gian Tày, fượng hoàng là một trong quý/ Biên tên hoa thiên lí nở đầy/ Kiếm được cả liễu bốn tứ linh. Vì thế fượng hoàng trong quan niệm mai nở sớm/ Biên cả hoa bjoóc lỏng, vặc viền/ Hoa ấy người Tày là biểu tượng niềm vui, hạnh phúc. Cô gái dâng thượng thiên kính trọng) [1, tr. 451]. trong lời lượn vui mừng khi thấy fượng - chàng trai Bjoóc là biểu tượng cho sự toàn hảo, để thanh đến làng mình: Vằn nẩy noọng pây xa bâu mọn/ Đảy tẩy sự uế tạp: Mừng thư cáng bjoóc vàng seng sảo.../ hàn tói tượng ón bân mà/ Chắc cạ fượng bân mừa rụ Quang hẩư hom mùi hương mùi bjoóc.../ Mừng thư thồ/ Mốc slẩy noọng mồ hố ná pjầu/ Chắc cạ lượng cáng seng sảo lại quang/ Mừng thư cáng bjoóc vàng kin pjầu rụ páy… (Hôm nay em đi kiếm lá dâu/ Được lại quét... (Tay cầm cành hoa bưởi, thanh thảo.../ Tẩy thấy đôi phượng non bay lại/ Không biết phượng bay rửa thơm mùi hương mùi hoa.../ Tay cầm cành thanh về hay trọ/ Lòng dạ em xao xuyến không cơm/ Chẳng thảo lại tẩy rửa/ Tay cầm cành hoa bưởi lại quét...) [1, biết phượng ăn cơm hay chưa…) [3, tr. 188]. tr. 420, 421]. Fượng hoàng thường là biểu tượng cho phẩm chất Bjoóc còn được nâng lên thành biểu tượng thần cao quý của người con trai. Chàng trai được ví như linh - Mẻ Bjoóc (Mẹ Hoa). Mẻ Bjoóc được đặc biệt fượng hoàng, còn cô gái xem mình là nổc tủm (chim quý trọng, được thờ phụng ngang hàng với tổ tiên: le le) - loài chim bé nhỏ, tầm thường, tủi thân, thương Sổ sinh giú thượng phương Mẻ Bjoóc... (Số sinh ở phận không dám sánh với vẻ đẹp cao quý của chàng: trên phía Mẹ Hoa...) [1, tr. 444]; Mẻ bjoóc fan thượng Thân noọng nổc tủm tẩư fạng/ Thân phì tồng fượng các âm cung/ Sinh thể lồng lương đông chẳng phjạc... hoàng chang hả/ Fượng hoàng bân khẩu phả fạ kheo/ Nổc tủm bân pây theo rừ đảy (Thân em như chim le 58|
  5. Le Thi Nhu NguyetVol 8. No.1_ March 2022|p55-64 le dưới gốc rạ/ Thân anh như phượng hoàng trên cao/ đường xa/ Mời trầu đến cho ta ơn bái…) [3, tr. 389]. Phượng hoàng bay vào mây trời xanh/ Chim le le bay Ẻn được coi loài chim thiêng, sứ giả truyền thông theo sao được) [3, tr. 226]. tin giữa thánh thần, tổ tiên trên trời với con cháu hạ Fượng hoàng là con chim phượng trống, nổc loan giới. Chim én được “Pụt Luông (Phật) phong làm là con chim phượng mái, có trống có mái là có cảnh chúa cả hầu hạ các then, dẫn độ linh hồn then lên ấm êm vợ chồng. Hai hình ảnh này luôn sánh cặp thiên giới” [7, tr. 16]. tương phùng. Trong hát quan lang, đại diện cho nhà Ẻn nhạn còn là biểu tượng ước mơ, khát vọng về trai đã cất tiếng hát bày tỏ nguyện ước cho fượng loan cuộc sống hạnh phúc, vinh hoa phú quý, phúc lộc, con hội ngộ: cháu đầy nhà qua lời chúc mừng của quan lang dành Nổc loan ngầư kết đảy phượng hoàng (Chim loan cho cô dâu chú rể. Ví dụ: Căm nặm vần bjoóc/ Cóp mong kết bạn phượng hoàng) [2, tr. 144]; Boong khỏi nặm vần hoa/ Phja cải slinh lủc luồng/ Phja luông cản khảu rườn trình lẹ/ Sle loan phượng tâu tó pần slinh én nhạn/ Phja đán thảo kì lân/ Phja ngần sinh duyên (Chúng tôi vội vào nhà trình lễ/ Để loan phượng nặm bó. (Nắm nước thành hoa/ Bốc nước thành hoa/ nối sánh thành duyên) [10, tr. 34]… Núi cao sinh con rồng/ Núi lớn sinh én nhạn/ Vách đá sinh kì lân/ Núi bạc sinh nguồn nước) [10, tr. 58]. Người Tày quan niệm: Fượng loan cũng là biểu tượng sự quấn quýt, hạnh phúc. Ví dụ: Tay thợ khéo Như vậy, biểu tượng ẻn gắn với sự bay bổng, lãng bày đặt bàn cân/ Bưởng noỏc mì kì lân sư tử/ Bưởng mạn. Đó là biểu tượng của niềm vui, điềm lành, khát đâư tạc long phủ linh quy/ Bưởng tả tạc loan nghi vọng hạnh phúc của con người nơi trần thế. lồng quỳ/ Bưởng hữu tạc giao thủy minh nga… Nhà c. Biểu tượng “mjầu”(trầu) năm gian chính giữa trung ương/ Mì bàn thờ hai bên câu đối/ Có bát tiên tụ hội long phi/ Có phượng Mjầu (trầu) là thứ cây, đồng thời cũng là lá trầu đã hoàng linh quy đón giữ (Tay thợ khéo bày đặt xa gần/ têm, dùng để nhai cùng với cau cho thơm miệng, đỏ Bên ngoài có kì lân sư tử/ Bên trong tạc rồng múa rùa môi, nồng ấm, theo phong tục từ xưa. Nó gắn liền với quỳ/ Đằng trái tạc loan nghê chầu chực/ Đằng phải sự giao đãi mời mọc trong lễ hội hoặc khi khách đến tạc giao thủy thiên nga… Nhà năm gian chính giữa nhà, cũng là hàm ý trao đổi tâm tình ước nguyện. Đây trung ương/ Có bàn thờ hai bên câu đối/ Có bát tiên tụ là cơ sở để mjầu (trầu) được nhắc đến trong hát lượn, hội long phi/ Có phượng hoàng linh quy đón giữ…) quan lang và then. Ví dụ: Xui phượng loan uyên ương [1, tr. 354]… hội ngộ/ Se tơ hồng tâu tó vạn niên/ Ám mjầu tiêm hình lon thắm phượng/ Tởi đeo lan xo nguyện thủy Ẻn (chim én) được dùng như biểu tượng mùa xuân chung (Thôi thúc phượng loan uyên ương hội ngộ/ Để và tin vui. Mỗi khi xuân về, lại thấy chim én biết rằng tơ hồng nối sánh vạn năm/ Miếng trầu têm hình cánh mùa xuân đã đến với bản làng. Ẻn biểu trưng cho tình phượng/ Một đời cháu xin nguyện thủy chung) [10, yêu, cái đẹp, niềm vui, sự mong ước hạnh phúc đôi tr. 55]; Ẻn khòi khẩu xường ngần cạ nhí/ Khỏi la cần lứa. Ví dụ: Hoằn nẩy ẻn rẳp nhạn mừa rườn (Hôm xiên lỉ xo mjầu/ Xo mjầu đuối khao lâu noọng á/ Mì nay én đón nhạn về nhà) [10, tr. 64]; Ẻn phjạc ương slương thang hử cá đảy ơn… (Én hãy vào giường bạc mừa slóa sơn lâm (Én biệt ương về nơi rừng núi) [3, bảo nàng/ Tôi là người ngàn dặm xin trầu/ Xin trầu tr. 286]… với em gái trắng trong/ Có thương đến cho anh cảm Ẻn cũng là biểu tượng sứ giả của tình yêu. Ví dụ: ơn…) [3, tr.383-384]… Để ngỏ lời yêu, bày tỏ nỗi nhớ thương với cô gái Biểu tượng mjầu (trầu) gắn với sự nồng ấm và chàng trai đã nhờ ẻn về nhắn với nàng: Én hợi én píc thân mật. Đó là biểu tượng của sự giao đãi và ý lương/ Loan hợi loan pích đáo/ Ẻn hợi mà tàng nọi nguyện kết giao. phì vàn/ Loan hợi mà tàng chang phì dảo/ Ẻn khòi khảm phả đáo mừa thâng/ Ẻn khòi khẩu xường ngần d. Biểu tượng “cấu” (cây cầu) cạ nhí … (Én hỡi én cánh vàng/ Loan hỡi loan cánh Cấu (cây cầu) là phương tiện giúp con người thu hồng/ Én hỡi vào cửa nhỏ anh nhờ/ Loan hỡi vào hẹp khoảng cách về không gian địa lí, nên được dùng đường giữa anh gọi/ Én hãy vượt mây hồng về tới/ như một biểu tượng của vượt qua trở ngại, may mắn Én hãy vào giường bạc bảo nàng…) [3, tr.383-384]. và kết giao. Ví dụ: Au mạy thâng tỉ nẩy sơn lâm/ Búng Ẻn cũng là sứ giả mang thông điệp đồng ý của cô gái nẩy mì mạy rồm hom ẩu/ Au mà tẻ cái cấu bến Giang/ tới chàng trai và nhờ én gửi trầu về cho chàng. Chàng Au mà tẻ cái tàng khảm quá… (Phải lấy gỗ chốn ấy trai không quên ơn sứ giả đã gắn kết tình duyên: Ngai sơn lâm/ Nơi này có gỗ rồm thơm ngát/ Mang về mừ ton mjầu nhá đuổi nhí/ Đảy pjom ẻn xiên lỉ chậư để bắc cầu bến Giang/ Đem về để thông đường qua thâng…/ Pjom bái ẻn noọng nhí tàng xa/ Xậư mjầu hử lại…) [1, tr. 392]. thâng rà pjom bái… (Ngửa tay đón trầu cau em nhỏ/ Đươc ơn én ngàn dặm đưa cho…/ Cảm ơn én em nhỏ Trong dân ca Tày, cấu thường có ẩn ý thần bí, thiêng liêng. Người Tày quan niệm, trời đất đặt có |59
  6. Le Thi Nhu NguyetVol 8. No.1_ March 2022|p55-64 hồn số xuống cấu, con người sinh tử đều phải đi qua then đảy vạng quá khỉn lồng/ Cốc sở đảy cao lân cao chiếc cấu nối liền giữa mường trời và mường người. mạ/ Lệ mủa tầư tiến lệ mủa rầư/ Các tản cái đảy vần Muốn lên mường trời phải đi qua cấu đó. Chiếc cấu cấu lọc… (Bắc cầu đủ mọi phía đến hay/ Phản khang mà thầy then và quân then xây dựng dưới sự giúp đỡ ninh ngựa qua không động/ Đức trưởng gường nhà nọ của các thần linh tượng trưng cho cấu số phận. Cấu chức sang/ Thiên hạ được đi đường thong thả/ Quân số phận thể hiện ước mong cuộc đời sẽ suôn sẻ, bình then được xuôi ngược lại qua/ Trưởng gường được an - “qua cầu”. Chính vì vậy, trong các lễ cúng then nhiều lân nhiều ngựa/ Lễ mùa nào dâng lễ mùa ấy/ đều có nghi lễ “bắc cấu”. Đó là cấu để thầy Then lên Các bạn cùng bắc cầu lọc vía…) [1, tr. 426]. mường trời gặp các vị thần linh, là cấu để rước may Cấu còn là biểu tượng của khát vọng “bắc cầu” đón phúc, tống hạn trừ tai ương; là cấu mỉnh (cầu đến với tình yêu. Ví dụ: Với ước mong đầy thiết tha mệnh), cấu lên gặp Mẻ Bjoóc xin hoa, đón hoa về; là được kết đôi cùng cô gái, nhưng chàng trai bị cô gái cấu hào quang - cầu hồn, cầu vía của người xin cấp khước từ. Trong lòng đầy băn khoăn chàng hỏi: Hâu sắc, đồng thời cũng tượng trưng cho uy thế của người la cái cầu mây nhằng đảy/ Sloong rầu cái cầu bjoóc làm then. tắc chang/ Hắt rừ pan kha tàng pây thèo (Người ta Cấu là biểu tượng của may mắn, niềm mong ước bắc cầu chỉ còn được/ Hai ta bắc cầu hoa gẫy giữa/ được đón những đứa con do Mẻ Bjoóc ban xuống. Làm sao thành con đường đi lại) [3, tr. 244]. Cô gái Cấu miêu tả thật đẹp, vững chãi, được làm từ những trả lời: Mì slương cái cầu mây cụng đảy/ Ná slương vật liệu tốt nhất, trang trí cầu kì, thể hiện tấm lòng của cái cầu mạy tắc chang (Có thương bắc cầu chỉ cũng cha mẹ khát khao được đón hoa về trần gian. Ví dụ: thành/ Không thương bắc cầu gỗ cũng gẫy…) [3, tr. Đảy hăn quảng rộng rộng mênh mông/ Thua kiều là 245]. dạm rồng đây miảc/ Thang kiều tạc phượng hạc đây Cấu là biểu tượng của sự kết nối và may mắn. lai/ Toỏng pản thêm các vài tức thí/ Toỏng pản thêm kép chỉ cắp teng/ Hoỏng chang tẳt luồng queng mà e. Biểu tượng “ngoảng/ngoàng/ nhỏi” (con ve) giáp/ Teng bát tiên gọn lếch trường sinh/ Teng toòng Tiếng kêu của ngoảng thao thiết, miên man vang cắp teng kim hăn bóng (Thấy cầu dài lại rộng mênh xa nơi núi rừng - đặc điểm này đã được xem là cơ sở mông/ Đầu cầu lại chạm rồng khéo tạc/ Đuôi cầu tạc để ngoảng trở thành một biểu tượng mở lời hay bày phượng hạc đang bay/ Mái ngói gỗ xếp ngay thẳng tỏ và mong ước gặp mặt. tắp/ Đóng rui mè khéo sắp đủ đinh/ Gian giữa đặt rồng quanh tươm tất/ Đinh bát tiên đóng chặt trường Trong diễn xướng then Tày, giọng hát của then sinh/ Đinh đồng thêm đinh vàng bóng loáng) [1, tr. có thu hút, hấp dẫn khán thính giả, có lay động được 399]. thần linh hay không là do xúc cảm của giọng hát - thanh âm phải như tiếng ngoảng kêu. Do vậy, mỗi lần Trong lời hát then, cấu mỉnh (cầu mệnh) - cầu mở lời, thầy then phải xin giọng giống ngoảng. Ví dụ: thiêng đưa then lên gặp Mẻ Bjoóc để xin hoa, đón hoa Tẩy khỉn đạo mẻ mèng/ Khảm khỉn dinh mẻ ngoảng/ trở về. Đó là cấu tượng trưng cho số mệnh của con Xo au tiểng đuổi mèng/ Xo au heng đuổi ngoảng… người, nên nó thần bí và thiêng liêng hơn bao giờ hết (Trẩy lên đạo mẹ ong/ Vượt lên dinh mẹ ve/ Xin lấy trong tâm thức người Tày. Vì lẽ đó mà nghi lễ quan giọng với ong/ Xin lấy thanh với ve…) [1, tr. 367]. trọng và linh thiêng nhất của lễ cái cấu cầu tự (bắc cầu cầu tự) là lễ cái cấu (bắc cầu): Mà cái cấu mường Tiếng ngoảng cất lên như sự mở lời, tìm kiếm nưa nguyệt đức…/ Vượng sinh nam sản nự bình an/ đồng điệu. Ví dụ: Mèng ngoảng lồng giờ nẩy đuổi rà/ Sinh lủc lồng thế gian trường thọ…/ Cái cấu khảm Hệnh tẻ oóc tiểng mèng/ Siêng tẻ oóc tiểng ngoảng…/ hải hố lểu an/ Cái cấu chốn thiên nhan lể định/ Cái Khay pác đuổi mẻ mèng/ Khay heng đuổi mẻ ngoảng đảy đây cấu mỉnh kiều khoăn (Lợp cầu bắc mường (Giờ này cho ve xuống cùng ta/ Tiếng sẽ giống tiếng trên nguyệt đức…/ Vượng sinh nam sản nữ bình an/ ong/ Thanh sẽ tựa tiếng ve/ Mở miệng cùng cái ong/ Sinh con xuống thế gian trường thọ…/ Qua hải hồ cầu Mở lời cùng cái ve…) [1, tr. 328]. vượt bình an/ Bắc cầu chốn thiên nhan đã định/ Bắc Ngoảng là biểu tượng bày tỏ. Ví dụ: Bươn chất cầu thật hay cầu mệnh cầu hồn) [1, tr. 400]. noọng khỉn phja hất ngoảng/ Tiếng ngoảng roọng ong Cấu còn là biểu tượng của sự kết nối, là sợi dây óng nưa phja… (Tháng bảy lại lên rừng làm ve/ Tiếng nối kết con người với thần linh, là phương tiện đưa ve gọi ve ve trên ngàn…) [1, tr. 546]. đoàn quân Then lên mường trời, đem lễ vật dâng Ngoảng qua hành động “bày tỏ nỗi niềm”, còn là cúng, cầu xin phúc lộc, ước nguyện bình an, thịnh cầu nối giữa cõi thực và cõi hư. Ngoảng với người vượng cho người trần, gường sở được thăng chức có thể chuyện trò cùng nhau, đó là sự đồng điệu của ngôi sang. Ví dụ: Cái cấu đo mọi phía đến đây/ Pản con người với thiên nhiên hay với thân phận ngoảng. khang ninh mạ pây bấu sắn/ Cốc gường đức rườn tản Ví dụ: Boong ngoảng táng than thân mìn roọng/ Các chức sang/ Thiên hạ đảy pây tàng thong thả/ Quân chúa nghìn đát toọng xiết xa/ Cảm cảnh tản liện tha 60|
  7. Le Thi Nhu NguyetVol 8. No.1_ March 2022|p55-64 hất phúc/ Tua ngoảng mì gằm chúc báo ân/ Các chúa nữ nhi báo đáp ơn người… (Công mẹ nhọc mang thai khỉn mường bân tiến lệ (Bầy ve tự than thân cứ kêu/ mười tháng/ Công ơn ấy con khó đền bồi/ Có lễ vật Các chúa nghe âu sầu vào dạ/ Cám cảnh then làm của người con rể/ Thay nữ nhi báo nghĩa đáp ơn…) phúc thả ve/ Ve có lời chúc để báo ơn/ Các chúa lên [2, tr. 164]. mường trời tiến lễ) [1, tr. 547]. Trong lễ vật con rể dâng nộp cho nhà gái, có lễ Tiếng ngoảng - sự bày tỏ nỗi niềm mong ước gặp vật dành riêng cho mẹ cô dâu, là phải rằm khấư (tấm mặt, nỗi nhớ da diết khi vắng mặt. Ví dụ: Bươn chất vải ướt khô). Tục dâng phải rằm khấư được coi là noọng ước ngoảng tiểng va/ Ngoàng mưn roọng lâm nghi lễ không thể thiếu trong đám cưới, thể hiện tình sơn đại ngàn/ Nhìn tiểng roọng phăn lấư hăn nả/ Ước cảm trân trọng, biết ơn công lao sinh thành, dưỡng đuổi phì táng xạ thè slương (Tháng bảy em ước ve dục của con rể đối với mẹ cô dâu. Người Tày ở Bắc tiếng ngọt/ Ve nó kê rừng núi đại ngàn/ Nghe tiếng Kạn có giai thoại: Xa xưa, người mẹ lấy vạt áo của gọi mơ màng thấy mặt/ Ước với anh khác xã mà mình lót thay tã cho con. Khi đêm ngủ, phần vạt áo thương) [3, tr. 353]; Bươn pét thán đuổi bjoóc puồn lấy làm tã bị ướt, mẹ nằm lên, còn phần khô lót cho slương/ Mèng nhòi roọng tứ phương xảm xiết/ Mèng con yên giấc. táng roọng kéc biệt tom va… (Tháng tám than cùng hoa buồn thương/ Ve rừng kêu tứ phương thảm thiết/ Phải rằm khấư là biểu tượng cho công lao sinh Ong khác kêu cách biệt đậu hoa…) [3, tr. 353]. thành và lời nguyện đền đáp. Ngoảng/ ngoàng/ nhỏi là biểu tượng của sự bày tỏ, Ngoài ra, còn có thể kể tới một số biểu tượng mong ước gặp mặt. khác: túc mai (trúc mai) - mong ước tình cảm đôi lứa mặn nồng; khảm khắc (chim khảm khắc) - mong chờ, f. Biểu tượng “vạ/ bân” (trời) thương nhớ của đôi lứa; mạy rồm (cây rồm), mộc hương Vạ/ bân (trời) - cõi thiêng liêng: Trong then, vạ (cây mộc hương) - bền vững, đẹp đẽ… là nơi trú ngụ của những vị thần có quyền năng tối 3.2.2. Nhóm biểu tượng “khó khăn, thử thách” cao, có thể đáp ứng mọi ước vọng của con người như Ngọc Hoàng thượng đế, Phật Thích Ca. Tin như vậy, a. Biểu tượng “tàng” (con đường) nên cái đích dừng chân trong cuộc hành trình của Tàng (con đường) là lối đi được tạo ra để nối quân then là vạ/ bân (trời). Để đến được chốn này, họ liền hai địa điểm, hai nơi, cần vượt qua và đi đến phải trèo núi cao, lên thác xuống ghềnh, vượt qua núi nơi. Ví dụ: Mì tuẩy hử phì xo slắc pỏ/ Sle phì đảy tam rừng thâm u, đường đi khúc khuỷu đầy hiểm nguy. điêng quá tàng/ Kha tàng slip xúm quảng/ Xảng tàng Vạ/ bân là nơi người Tày gửi gắm những ước mơ pác và rì (Có đuốc cho anh xin một bó/ Để anh được không thực hiện được ở nơi trần thế. Và đó cũng là lí đốt soi qua đường/ Con đường mười hố rộng/ Bên do trong then ít xuất hiện những từ ngữ thuộc không đường trăm sải dài) [3, tr. 218]; Nưa tàng mì nam vai gian âm ti - nơi phán xử người có tội. Như vậy, trong lệp cạu…/ Xảng tàng mì khoác nua chắp slửa/ Nưa dân ca, người Tày tạm quên đi những khổ ải tăm tối, tàng mì co hủ bâư nam/ Xảng tàng mì co hàn bâư để con người hướng đến một ngày mai tươi sáng hơn. sláy/ Xảng tàng mì nhả vảy khát kha…/ Tàng bốc mì Ví dụ: Đẳm tản giú nưa bân ngòi quá/ Giú nưa vạ ngòi slip lặm khau phja… (Trên đường có gai mây vuốt ngàu…/ Gẳm nẩy lẹ vỏ mẻ ké khỉn tâu sổ mường bân/ cú…/ Cạnh đường cỏ may nếp bám áo/ Trên đường Mừa tâu mỉnh tâu khoăn thượng đế… (Thế tổ ở trên có cây hủ lá gai/ Cạnh đường có cây han lá nhỏ/ Bên trời xem bóng/ Ở trên trời xem dạng…/ Đêm nay lễ lạt của chủ nhà lên nối số mường trời/ Lên nối mệnh đường có cỏ vảy đứt chân…/ Đường bộ có mười nối hồn thượng đế) [1, tr. 332]. trùng núi non) [3, tr. 210]… Vạ/ bân là biểu tượng cõi thiêng liêng và sự cầu Trong then, tàng (con đường) lên mường trời mong ân huệ. mà đoàn quân then đi qua thật cách xa, nhiều cản lối. Đó cũng là quá trình đến với ước nguyện. Then g. Biểu tượng “phải rằm khấư” (tấm vải ướt khô) chính là câu chuyện dài đưa người ta đi qua những Trong lời hát quan lang, thường gặp biểu tượng chặng đường để đến mường trời. Ví dụ: Khảm khỉn phải rằm khấư (tấm vải ướt khô). Đó là biểu tượng tàng Háng Phố/ Háng Phố síp soong tàng (Vượt lên công lao sinh thành và nguyện đền đáp. Ví dụ: Phải đường Háng Phố/ Háng phố mười hai đường) [1, tr. rằm khấư sloong thước mì đo/ Pjá công mẻ vửa xưa 415]; Nhật hành xiên lí lộ pây tàng (Ngày đi thiên lí gòn gảp/ Pạng khấư sle hẩư lủc đỉ nòn/ Pạng rằm mẻ lộ đường dài) [1, tr. 459]; Tàng tiên rổc nhả/ Tàng vạ cắt đang dà hốm… (Vải ướt khô hai thước có đủ/ Đền rạo nhả nhùng/ Tàng bân pưng nhả cáng/ Vỵa nọi đáp công mẹ dưỡng dục sinh thành/ Bên khô để dành phát bấu pương/ Đang đeo chương bấu đảy (Đường cho con ngủ/ Bên ướt để cho mẹ che đắp…) [10, tr. tiên rậm cỏ/ Đường trời mọc cỏ nhùng/ Đường trời 55]; Ngậy công khỏ hoài thai thập nguyệt/ Công mỉn bịt cỏ cáng/ Dao nhỏ phát không xong/ Đan thân làm khôn xiết đền bồi/ Mì lễ vật rườn khươi mà nộp/ Thay không được) [1, tr. 473]. |61
  8. Le Thi Nhu NguyetVol 8. No.1_ March 2022|p55-64 Tàng là biểu tượng cho những xa xôi, thách thức Nặm lậc và nặm noòng là biểu tượng khó khăn, và quá trình đến với ước nguyện. trở ngại và xa cách. b. Biểu tượng “kéo” (đèo) d. Biểu tượng “lần phải làn tàng” (dây vải chắn đường) Kéo (đèo) - khó khăn, trở ngại và sự ngăn cách. Đèo là chỗ khó vượt qua ẩn chứa nhiều nguy hiểm cho Lần phải làn tàng (dây vải chắn đường) - khó đoàn quân then. Ví dụ: Tẩy khỉn tàng nổc kéo/ Khảm khăn, thử thách (tục lệ). Theo tục lệ cổ truyền, nhà gái khỉn kéo phi eng/ Đạo nổc kéo cheng mèng/ Mường sẽ chăng dây chặn đường đoàn nhà trai xin đón dâu phi eng cheng mỏ (Trẩy trên đường chim sáo/ Vượt khi bước tới cổng làng, là cái cớ hỏi danh tính. Ví dụ: lên đèo ma mãnh/ Đạo chim sáo tranh sâu bọ/ Mường Mà thâng bản rườn gần tỷ nẩy/ Bản gần mì lần phải ma mãnh tranh nhau cái nồi) [1, tr. 367]. Đèo là nơi làn tàng/ Mường gần mì lụa loan làn sloóc (Về đến ngăn cách không gian giữa anh và em. Ví dụ: Sle phì bản nhà người nơi này/ Bản người có dây vải chắn noọng khửn lồng pây thèo/ kéo slung noọng tọn kéo đường/ Mường người có lụa loan chắn lối) [10, tr. 9]. hắt tàng/ Canh slung phì tức lồng hử tắm (Để anh em Hàm ý của lần phải làn tàng (dây vải chắn đường) đi lại dễ dàng/ Đèo cao em dọn đèo làm đường/ Đèo còn là sự nhắc nhở “nhập gia phải tùy tục”, phải biết cao anh đánh xuống cho thấp) [3, tr. 245]. nhà có chủ. Trong tình huống này, quan lang phải hát để tháo gỡ thử thách. Kéo là biểu tượng khó khăn, trở ngại và sự ngăn cách. Lần phải làn tàng là biểu tượng cho thử thách của tục lệ và yêu cầu “nhập gia phải tùy tục”. c. Biểu tượng” nặm lậc” (nước sâu), “nặm noòng” (nước lũ) Ngoài ra, còn một số biểu tượng: nhục quét (cái chổi), chạm (cái nơm), tẩy to mèo (túi đựng mèo) Nặm lậc (nước sâu), nặm noòng (nước lũ) trong cũng là những biểu tượng của thử thách, khi nhà trai dân ca Tày được dùng như biểu tượng khó khăn, trở chuẩn bị bước lên nhà sàn đón dâu trong quan lang. ngại, sự xa cách. Ví dụ: Nặm lậc phì khản sang phì quá/ Thán đuổi nặm hải há phì buồn (Nước sâu anh - Trong dân ca Tày, các biểu tượng ngôn ngữ có chẳng than qua được/ Than với nước hải hà anh buồn) thể được chia làm hai nhóm: nhóm biểu tượng “vẻ [3, tr. 394]; đẹp, ước vọng” và nhóm biểu tượng “khó khăn, thử thách”. Có thể khái quát các biểu tượng thường gặp Hoặc: Nặm noòng khửn thâng thong quả đa/ trong dân ca Tày qua bảng sau: Điếp thâng bạn tàng xa khốn lọt (Nước lũ ngập đến đồng mênh mông/ Yêu đến bạn đường xa không lọt) [3, tr. 351]... Một số biểu tượng trong dân ca Tày Nhóm biểu Nghĩa biểu trưng Văn bản tượng - vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lượn, quan lang, bjoóc (hoa) - tuổi trẻ, mùa xuân, đời người then - khát vọng tình yêu, hạnh phúc - thân phận cao quý fượng hoàng và nổc loan lượn, quan lang, - mong ước kết duyên đôi lứa, hạnh phúc hôn (loan phượng) then nhân - sứ giả tình yêu “vẻ đẹp, - điềm lành, niềm vui lượn, quan lang, ẻn (én) ước - mong ước hạnh phúc lứa đôi, cuộc sống hạnh then vọng” phúc - sự giao đãi lượn, quan lang, mjầu (trầu) - ý nguyện kết giao then - sự kết nối cấu (cây cầu) - ước nguyện may mắn lượn, then - mong ước hạnh phúc - mở lời hay bày tỏ ngoảng (con ve) lượn, then - mong ước gặp mặt 62|
  9. Le Thi Nhu NguyetVol 8. No.1_ March 2022|p55-64 Nhóm biểu Nghĩa biểu trưng Văn bản tượng - cõi thiêng liêng vạ/ bân (trời) then - sự cầu mong ân huệ phải rằm khấư - công lao sinh thành quan lang (tấm vải ướt khô) - nguyện đền đáp - sự xa xôi tàng (đường đi) lượn, then - quá trình đến với ước nguyện “khó - khó khăn, trở ngại kéo (đèo) lượn, then khăn, - sự ngăn cách thử nặm lậc (nước sâu), nặm - khó khăn, trở ngại lượn, then thách” noòng (nước lũ) - sự xa cách lần phải làn tàng (dây vải - thử thách (tục lệ) quan lang... chắn đường) - “nhập gia phải tùy tục” Với hai nhóm biểu tượng “vẻ đẹp, ước vọng” và luông/ Càm kha ón mà thâng đin nẩy/ Hăn toản phải biểu tượng “khó khăn, thử thách”, người Tày sử dụng quý tỏn tàng/ Hăn mì toản lụa loan khoang so óc… nhiều hơn các biểu tượng “vẻ đẹp, ước vọng”. Điều (Xin trình đến nàng á nhà sang/ Đi đến đây đường này được lí giải bằng đặc trưng của dân ca Tày, rằng trường mệt mỏi/ Thấy có tấm lụa mới đón đường/ dân ca thường được cất lên trong những dịp vui vẻ Thấy có tấm lụa loan màu sắc…) [2, tr. 140]. hoặc linh thiêng, lời ca thường mang lại niềm vui, có Trong hệ thống biểu tượng của văn bản dân ca ý tứ lạc quan khuyến khích người nghe người xem Tày, khi nói tới vẻ đẹp, bjoóc (hoa), nổc (chim)… hành động và tiếp tục hi vọng, ít khi khuyên can dừng luôn là lựa chọn để xây dựng biểu tượng này. Ví dụ: bước. Trở ngại được kể ra là để vượt qua, chứ không Thân noọng tồng bjoóc mặn bjoóc tào/ Hăt rừ phì khiến người ta nhụt chí. ngầư au te đảy (Thân em như hoa mận hoa đào/ Làm Các biểu tượng ngôn ngữ có thể được sử dụng sao anh ước ao cho được) [3, tr. 227]; Khuyên mừa trong tất cả các tiểu loại dân ca Tày. Nhưng dùng phổ puồng bjoóc mạ đang phông/ Khuyên mừa puồng biến nhất là trong hát lượn. Có thể giải thích bằng đặc bjoóc rầm dang slí/ Mật mèng khảm xiên lỉ mà tom… trưng của loại dân ca này, rằng lượn là một lối hát đối (Khuyên về chùm hoa mạ đang nở/ Khuyên về chùm đáp giữa trai và gái, làn điệu phong phú, lời lẽ thường hoa rầm đang rộ/ Ong bướm vượt nghìn dặm về bóng gió ẩn ý. Lượn thường mượn hình ảnh của các đậu…) [3, tr. 330]; Ẻn loan bân cáp kí thèo mừa/ loài cây, các loài hoa, những hình ảnh sự vật, sự việc, Lặp lặp khẩu sluông hoa đuổi á (Én loan bay vời những tích truyện xưa để giãi bày tình cảm, tâm tư vợi lại về/ Dập dìu vào vườn hoa em đó) [3, tr. 389]; của các tầng lớp thanh niên nam nữ trong buổi gặp gỡ Thân noọng khùng ái pậu đuối nộc/ Nộc nhùng bân ban đầu và bày tỏ lời hẹn ước. tốc slung ná thả/ Nộc nhùng bân chang hả tờ xiêu… (Thân em muốn làm bạn với chim/ Chim công bay 3.3. Một số giá trị phản ánh của biểu tượng trên cao không đợi/ Chim công bay trên không cao trong dân ca Tày vợi…) [3, tr. 406]; Nổc loan ngầư hết đảy phượng Mỗi biểu tượng ngôn ngữ trong văn bản dân ca hoàng (Chim loan mong kết bạn phượng hoàng) [2, Tày là một sáng tạo độc đáo, kết quả của những liên tr. 144]… tưởng theo văn hóa truyền thống Tày. Biểu tượng Vẻ đẹp con người được lí tưởng hóa thành biểu ngôn ngữ trong hát lượn, quan lang, then phản ánh tượng thần linh Mẻ Bjoóc luôn gần gũi, gắn bó, che lối tri nhận và cách ứng xử của người Tày. chở cho cuộc sống của đồng bào, hàm chứa nhiều giá Trong hệ thống biểu tượng của hát quan lang, tục trị nhân văn sâu sắc. Mẻ Bjoóc ban phát sự sống, sức lệ Lần phải làn tàng (dây vải chắn đường) là thử thách khỏe và cuộc đời cho mỗi con người ở cõi nhân gian: nhà gái đặt ra, mang tính ước lệ cao. Lần phải làn tàng Sổ sinh giú thượng phương Mẻ Bjoóc/ Sinh lồng mà cũng là lời nhắc nhớ đến những khó khăn, cực nhọc hẩư oóc vần gường (Số sinh ở thượng phương Mẹ mà cha mẹ cô dâu đã trải qua. Sợi dây màu đỏ là sợi Hoa/ Cho xuống trần số ra gường, sở) [1, tr. 444]; Mẻ dây nối kết tình duyên, nối kết quan hệ thông gia, màu Bjoóc fân thượng fương chắng phjạc/ Sổ sinh khảm đỏ của sợi dây chính là màu của hạnh phúc lứa đôi. cầu ngoạt lồng mà/ Phjạc căn tự tang cáp Tam Kì/ Đây quả thực là một nét đẹp độc đáo trong đời sống Khoăn pì khoăn noọng nhí cụng lồng (Mẹ Hoa phân văn hóa của người Tày: Xo chiềng thâng noọng á rườn thượng phương mới lìa/ Số sinh ra cầu nguyệt xuống |63
  10. Le Thi Nhu NguyetVol 8. No.1_ March 2022|p55-64 về/ Biệt nhau từ ngã ba Tam Kì/ Vía anh, vía em nhỏ (tàng (con đường), kéo (đèo), nặm lậc (nước sâu), cùng xuống) [3, tr. 376]. nặm noòng (nước lũ), lần phải làn tàng (dây vải chắn đường))… Ở hai nhóm biểu tượng này, người Tày sử Một số biểu tượng trong dân ca Tày còn thể hiện dụng nhiều hơn các biểu tượng “vẻ đẹp, ước vọng”. sự giao đãi, lòng mến khách của người Tày. Theo tục Các biểu tượng ngôn ngữ được sử dụng trong hầu lệ của người Tày, khi khách đến chơi nhà, chén lẩu hết các loại dân ca Tày, nhưng phổ biến nhất là trong (rượu), miếng mjầu mác (trầu cau) luôn đi cùng với lượn. Trong dân ca Tày, các biểu tượng này giúp kể lời chào, lời thăm hỏi. Ví dụ: về những chặng đường phấn đấu tới hạnh phúc và Lời nhà gái: Lồng rườn liền nắng ngỉ ngơi/ Trầu những ước vọng của những thế hệ người dân Tày. lộc quế duyên oóc khuyên mời/ Trầu lộc quế duyên oóc khuyên vị/ Tính táu, đàn bàu hứ nảy chơi (Vào REFERENCES nhà liền ngồi nghỉ ngơi/ Trầu lộc quế duyên đem ra [1] An,T. - editor (2000), Then Tày songs, National mời/ Trầu lộc quế duyên đem ra mời các vị/ Đàn tính, Culture Publishing House, Hanoi. đàn bầu cứ lẩy chơi) [3, tr. 416]. Khách đã nhận mjầu [2] Bac,N.D. (2001), Folk Poetry in Lang Son, (trầu) rồi tấm tắc ngợi ca: Xo mjầu đuổi cành châm National Cultural Publishing House, Hanoi. mả mjạc/ Ná kẹo ý dưng pác khùng hom/ Kẹo nọi [3] Cu,H.T. (2018), Lượn, Phong slư, lyrical mjầu táng hom lồng toọng (Xin trầu với kình châm folk music of the Tày people in Lang Son, Writers người ngọc/ Chưa nhai trầu trong mồm thơm phức/ Association Publishing House, Hanoi. Vừa nhai trầu thơm rơi xuống bụng) [3, tr. 387]. [4] Jean Chevalier Alaingeerbrant (2002), Biểu tượng phải rằm khấư (tấm vải ướt khô) về Dictionary of World Cultural Symbols, Da Nang công lao sinh thành và nguyện đền đáp gắn với lễ vật Publishing House, Da Nang (translation). con rể dâng nộp cho nhà gái, có lễ vật dành riêng cho [5] Lien,D.T. (2012), Some linguistic features of mẹ cô dâu, nhắc nhớ tới giai thoại xúc động người mẹ Tày then, Master’s Thesis, University of Education - lấy vạt áo của mình lót thay tã cho con. Ý tại ngôn Thai Nguyen University. ngoại của biểu tượng này là một nét văn hóa làm xúc động lòng người. [6] Phe,H. (2010), Vietnamese Dictionary, Encyclopedia Publishing House, Hanoi. Một số biểu tượng như trên cũng gặp trong văn [7] Thinh,N.D. (2002), “Then - a form of Shaman hóa của người Kinh và có thể nhiều dân tộc khác: of the Tày ethnic group of Vietnam”, Folklore bjoóc (hoa), mjầu (trầu), kéo (đèo), nặm lậc (nước Magazine, no. 3. sâu)… [8] Thoa,N.T. (2015), The custom of singing 4. Kết luận Quan lang at a Tày wedding in Cao Bang, Ph.D. Các biểu tượng ngôn ngữ thường gặp trong dân thesis, Academy of Social Sciences, Hanoi. ca Tày được chia thành hai nhóm: nhóm biểu tượng [9] Trang,H.T. (2017), Symbolic system in Tày đại diện cho “vẻ đẹp, ước vọng” (bjoóc (hoa), fượng/ then, Master’s Thesis, University of Education - Thai fượng hoàng (phượng hoàng), nổc loan (chim loan), Nguyen University. ẻn (chim én), cấu (cây cầu), mjầu (trầu), ngoảng (ve), [10] Tu,N.T. (2008), Quan lang poetry, National vạ/ bân (trời), phải rằm khấư (tấm vải ướt khô)); Culture Publishing House, Hanoi. nhóm biểu tượng đại diện cho “khó khăn, thử thách” 64|
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2