intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số đặc điểm của mô hình giáo dục Nhật Bản và những gợi ý cho việc đổi mới giáo dục ở Việt Nam

Chia sẻ: DanhVi DanhVi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

99
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu mô hình giáo dục tiểu học ở Nhật Bản thông qua mô hình giáo dục mang phong cách, triết lí Nhật Bản, đặc biệt là mô hình giáo dục tiểu học (cụ thể ở Trường Quốc tế Nhật Bản (Japanese International School - JIS), so sánh với mô hình giáo dục tiểu học ở Việt Nam, từ đó đề xuất vận dụng mô hình giáo dục tiểu học ở Nhật Bản cho trường tiểu học ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện trong giáo dục.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số đặc điểm của mô hình giáo dục Nhật Bản và những gợi ý cho việc đổi mới giáo dục ở Việt Nam

VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 429 (Kì 1 - 5/2018), tr 61-64; 60<br /> <br /> MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH GIÁO DỤC NHẬT BẢN<br /> VÀ NHỮNG GỢI Ý CHO VIỆC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM<br /> Nguyễn Vinh Hiển - Nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo<br /> Ngày nhận bài: 22/02/2017; ngày sửa chữa: 29/03/2017; ngày duyệt đăng: 30/03/2018.<br /> Abstract: The paper presents the results of the study on the model of primary education in Japan<br /> through the model of Japanese style education, especially the model of primary education in The<br /> Japanese International School (JIS). Also, the article compares this primary education model to the<br /> models in Vietnam. Bases on the analysis, the article proposed application of the Japan primary<br /> education model to Vietnam primary education system with aim to meet requirements of<br /> fundamental and comprehensive reform of education in Vietnam today.<br /> Keyword: Primary education, Japan, education model, Japanese International School.<br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị<br /> Trung ương 8, khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện<br /> GD-ĐT; Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội về<br /> đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông,<br /> ngành Giáo dục đang triển khai đổi mới giáo dục phổ<br /> thông, trong đó quá trình đổi mới chương trình và sách<br /> giáo khoa cần được triển khai đồng bộ với việc xây dựng<br /> các mô hình giáo dục, xác định các thành tố và cách thức<br /> tổ chức thực hiện để nâng cao chất lượng giáo dục.<br /> Trong quá trình phát triển chương trình giáo dục phổ<br /> thông mới, cần tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt<br /> cần lựa chọn được những quốc gia tiêu biểu, có những<br /> điều kiện khá tương đồng với Việt Nam, đã đạt được<br /> những kết quả cao trong đổi mới chương trình giáo dục<br /> phổ thông để tiến hành nghiên cứu, phân tích, rút ra<br /> những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.<br /> Nhật Bản là một nước thuộc châu Á, có nhiều quan<br /> hệ và đặc điểm về văn hoá, xã hội gần gũi với Việt Nam.<br /> Nhiều học giả nước ngoài đã tìm thấy những phẩm chất<br /> rất giống nhau giữa con người thuộc hai dân tộc Nhật<br /> Bản và Việt Nam. Nhật Bản đã phát triển nhanh chóng,<br /> trở thành một siêu cường kinh tế, hiện đại hoá mà vẫn<br /> giữ được bản sắc truyền thống dân tộc. Hiện đại hoá đất<br /> nước ở Nhật Bản không phải là quá trình tự phát mà là<br /> một công cuộc được nhà nước chủ động tiến hành, lấy<br /> việc giáo dục nâng cao ý thức con người làm cơ sở cho<br /> sự phát triển đất nước.<br /> Việc nghiên cứu mô hình giáo dục Nhật Bản sẽ giúp<br /> chúng ta có được những kinh nghiệm tốt để áp dụng hiệu<br /> quả vào thực tiễn Việt Nam.<br /> Trong những năm gần đây, tại Việt Nam bắt đầu xuất<br /> hiện các mô hình giáo dục mang phong cách, triết lí Nhật<br /> Bản, đặc biệt là mô hình giáo dục tiểu học. Có thể kể đến<br /> các trường: Trường Quốc tế Nhật Bản (Japanese<br /> <br /> 61<br /> <br /> International School - JIS), Trường Nhật Bản Hà Nội<br /> (The Japanese School in Hanoi - JSH). Các trường này<br /> đã hoạt động trong một số năm qua và đang giúp nhiều<br /> trẻ em được tiếp nhận tinh hoa văn hóa Nhật Bản, đáp<br /> ứng nhu cầu phát triển giáo dục không chỉ của từng HS<br /> mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục<br /> của một bộ phận xã hội là các phụ huynh HS. Đồng thời,<br /> việc tổ chức, triển khai mô hình giáo dục Nhật Bản tại<br /> Việt Nam ở các trường này cũng gợi mở nhiều bài học<br /> trong việc triển khai mô hình giáo dục tiểu học Nhật Bản<br /> tại Việt Nam. Tuy nhiên, những thành tựu này còn mang<br /> tính kinh nghiệm, đơn lẻ, cần được nghiên cứu một cách<br /> hệ thống, bài bản, nhằm tìm ra cách thức vận dụng mô<br /> hình, lan tỏa các giá trị giáo dục cao đẹp một cách rộng<br /> rãi trong các trường tiểu học Việt Nam.<br /> Việc nghiên cứu mô hình giáo dục tiểu học ở Nhật<br /> Bản, so sánh với mô hình giáo dục tiểu học ở Việt Nam,<br /> từ đó đề xuất vận dụng mô hình giáo dục tiểu học ở Nhật<br /> Bản cho trường tiểu học ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi<br /> mới căn bản và toàn diện trong giáo dục là một nhiệm vụ<br /> rất cấp thiết, có ý nghĩa lớn cả về mặt lí luận và thực tiễn<br /> hiện nay.<br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> Bước đầu nghiên cứu hoạt động giáo dục tại JIS,<br /> nhóm nghiên cứu nhận thấy một số đặc điểm khác biệt,<br /> những đặc điểm mang tính đặc sắc cần nghiên cứu, chắt<br /> lọc và học tập từ mô hình giáo dục tiểu học Nhật Bản.<br /> Sau đây là một số so sánh một số nét khác biệt, với mong<br /> muốn những điều tốt đẹp được nghiên cứu, chắt lọc và<br /> dần lan toả ở Việt Nam.<br /> 2.1. Về giáo dục đạo đức<br /> Mới là năm học thứ 2, nhưng nền nếp của một ngôi<br /> trường quốc tế đã dần định hình. Với phương châm lấy<br /> giá trị cốt lõi là giáo dục đạo đức, nhân cách theo chuẩn<br /> mực của Nhật Bản, những hoạt động giáo dục đạo đức<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 429 (Kì 1 - 5/2018), tr 61-64; 60<br /> <br /> của nhà trường luôn được chú trọng ngay từ khi học sinh<br /> mới bước chân vào trường.<br /> 2.1.1. Cách tiếp cận<br /> Chương trình coi học sinh là đối tượng trực tiếp kiến<br /> tạo tri thức, thay vì nhận xét các hành vi của người khác.<br /> Chương trình giáo dục Đạo đức của Nhật tập trung giúp<br /> học sinh tự đánh giá hành động của bản thân để tự trau<br /> dồi, học hỏi. Học sinh tham gia cảm nhận về chủ đề mình<br /> đang học, từ đó có thái độ và cách ứng xử đúng đắn với<br /> đối tượng giao tiếp. Học sinh được thực hành các quy tắc<br /> ứng xử, nền nếp theo gương từ các thầy cô giáo trong<br /> hoạt động hàng ngày, trong mọi hoạt động chứ không chỉ<br /> trên sách vở, không chỉ thuộc, mà phải thực hành, rèn<br /> luyện thường xuyên để hình thành những thói quen, từ<br /> thói quen trở thành những hành động tự nhiên, từ những<br /> hành động tự nhiên biến thành tố chất của mỗi con người.<br /> Chẳng hạn, học sinh được dạy và rèn luyện: trước khi<br /> nói, trước khi hành động cần phán đoán đối tác của mình<br /> sẽ suy nghĩ, sẽ phản ứng thế nào? Nói khác hơn là phải<br /> đặt mình vào vị trí của người khác trước khi nói và hành<br /> động để không làm tổn thương đến họ.<br /> 2.1.2. Nội dung giáo dục<br /> Nội dung kiến thức Đạo đức của chương trình Nhật<br /> Bản nhìn chung có sự tương đồng so với chương trình<br /> Việt Nam, phù hợp với văn hoá, phong tục tập quán của<br /> người Việt Nam.<br /> Mỗi kiến thức, kĩ năng và biểu hiện đạo đức được học<br /> trong các tiết học ở trường đều là những điều được yêu<br /> cầu trong thực tế cuộc sống. Các em được giáo dục về sự<br /> khiêm nhường, giữ gìn truyền thống, sự hứng thú đối với<br /> học tập và công việc, sự an toàn, tiết kiệm năng lượng và<br /> về gia đình,... Đồng thời, các em còn được hướng dẫn<br /> thực hành cách cư xử đúng mức với mọi người, bên cạnh<br /> các kiến thức về chào hỏi, cách dùng từ ngữ, cách ngồi,<br /> cách ăn cơm, cách pha trà,... theo truyền thống, học sinh<br /> còn được học cảm ơn bằng một số ngôn ngữ khác nhau<br /> trên thế giới. Đây là bước đầu tiên để có thể hội nhập theo<br /> định hướng trở thành công dân toàn cầu.<br /> Chương trình phổ thông, các bài học đạo đức được<br /> phân ra làm 4 nhóm liên hệ từ gần đến xa, từ dễ đến khó.<br /> Nhóm 1 gồm các vấn đề liên quan đến bản thân, nhóm 2,<br /> liên quan đến người khác, nhóm 3 liên quan đến tập thể,<br /> xã hội và nhóm 4 liên quan với thế giới tự nhiên và những<br /> gì cao đẹp. Ở các độ tuổi, mỗi nhóm được học và thực<br /> hành ở mức độ khác nhau, từ đó, dần hình thành các đức<br /> tính cần thiết cho bất cứ hoàn cảnh nào trong đời sống<br /> như: giữ đúng cam kết, cảm nhận sự tuyệt vời khi làm<br /> việc, làm đến cùng việc mình đã làm và hiểu được tầm<br /> quan trọng của công việc mình và mọi người đang làm.<br /> <br /> 62<br /> <br /> 2.1.3. Cách biên soạn<br /> Chương trình của hai lớp kế tiếp được biên soạn trong<br /> cùng 1 cuốn sách. Cuối chương trình đều có bản thu hoạch<br /> với từng lớp. Học sinh cuối lớp 2, 4 và 6, sau khi hoàn<br /> thành bản thu hoạch, có thể đối chiếu với những điều mình<br /> đã thu hoạch từ năm học trước, từ đó nhận thấy sự lớn lên<br /> và hoàn thiện hơn của bản thân về phẩm chất đạo đức.<br /> 2.1.4. Về việc xây dựng chuẩn mực đạo đức<br /> Chương trình Đạo đức Nhật Bản tập trung hình thành<br /> những phẩm chất, đạo đức cần thiết trong cuộc sống hiện<br /> đại của các em sau này.<br /> - Nhóm 1 (liên quan đến bản thân): Các lớp đầu học<br /> sinh được học và thực hành về sức khỏe, an toàn; coi<br /> trọng vật và tiền; gọn gàng, ngăn nắp; cuộc sống với<br /> những quy tắc thực thi nghĩa vụ; phán đoán thiện ác;<br /> chính trực; phát triển nhân cách và thái độ sáng tạo; sự<br /> nhận thức về tầm quan trọng của cách ứng xử văn minh.<br /> Các lớp cuối cấp được học và thực hành về tự chủ; cuộc<br /> sống điều độ; suy nghĩ sâu sắc; xin lỗi và hối cải; cương<br /> quyết, bất khuất; dũng cảm, chính trực và trong sáng.<br /> - Nhóm 2 (liên quan đến người khác): Các lớp đầu<br /> cấp được học và thực hành về chào hỏi; sử dụng từ ngữ;<br /> động tác; tình cảm thân thiện với trẻ nhỏ, người già; tình<br /> bạn; sự biết ơn. Các lớp cuối cấp được học và thực hành<br /> về nghi lễ; sự quan tâm; hiểu biết, tin cậy và giúp đỡ lẫn<br /> nhau; sự khiêm tốn; lòng tôn kính, biết ơn và trả ơn.<br /> - Nhóm 3 (liên quan đến tập thể và xã hội): Các lớp<br /> đầu cấp được học và thực hành về tôn trọng pháp luật;<br /> bảo vệ của công; tôn kính cha mẹ; yêu gia đình; trường<br /> lớp; yêu quê hương. Các lớp cuối cấp được học và thực<br /> hành thêm về công đức; chăm chỉ lao động; yêu đất nước;<br /> thực hành về hoạt động tập thể, thực hiện nghĩa vụ; công<br /> bằng và hiểu biết quốc tế.<br /> - Nhóm 4 (liên quan với thế giới tự nhiên và những gì<br /> cao đẹp): Các lớp đầu cấp được học và thực hành về lòng<br /> thương yêu, bảo vệ động thực vật; coi trọng sinh mạng;<br /> lòng mộ đạo. Các lớp cuối cấp được học và thực hành về<br /> sự rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên; trước những gì<br /> cao đẹp; thực hành về bảo vệ môi trường tự nhiên; tôn<br /> trọng sinh mệnh của mình và người khác; lòng cảm động;<br /> lòng tôn kính.<br /> Việc giáo dục đạo đức không chỉ thực hiện qua các<br /> tiết dạy của môn Đạo đức mà xuyên suốt trong mọi hoạt<br /> động của thầy và trò (Chẳng hạn: Giờ ăn trưa của học<br /> sinh cũng là một tiết học, nơi trẻ em được dạy tính tự lập;<br /> biết vệ sinh cá nhân và vệ sinh tập thể; biết chăm sóc bản<br /> thân; biết phục vụ bạn bè và thể hiện lòng biết ơn). Giáo<br /> viên là những tấm gương cho học sinh về đạo đức, tác<br /> phong trong cuộc sống và trực tiếp uốn nắn tư thế, tác<br /> phong, nền nếp sinh hoạt và lời ăn tiếng nói hàng ngày.<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 429 (Kì 1 - 5/2018), tr 61-64; 60<br /> <br /> Các lớp học trong trường đều không có lớp trưởng,<br /> hàng ngày, học sinh lần lượt thay phiên nhau làm các<br /> công việc điều hành lớp. Các hoạt động khác ở lớp, ở<br /> trường, tất cả học sinh đều được tham gia như nhau, do<br /> đó, mọi học sinh đều được tạo những cơ hội để bộc lộ và<br /> rèn luyện năng lực trong mọi hoạt động, trong điều hành<br /> công việc chung, những học sinh có đôi chút hạn chế ở<br /> một số mặt, sẽ xóa dần mặc cảm và từng bước hòa đồng<br /> với mọi thành viên trong tập thể.<br /> 2.2. Về môn Toán và các môn Khoa học<br /> 2.2.1. Môn Toán<br /> Nội dung kiến thức toán của cấp tiểu học nhìn chung<br /> có sự tương đồng giữa 2 chương trình Nhật Bản và Việt<br /> Nam về chuẩn kiến thức và kĩ năng. Tuy nhiên, chương<br /> trình Toán Nhật Bản học sớm hơn, tổng hợp hơn, xuyên<br /> suốt quá trình học tập, được nhắc đi nhắc lại theo vòng<br /> tròn xoắn ốc, sâu dần theo từng lớp và từng cấp. Điều<br /> quan trọng nhất trong dạy toán là để giúp học sinh rèn<br /> luyện tư duy logic, để phát triển trí tuệ, chứ không đơn<br /> thuần chỉ là dạy cách tìm ra kết quả nhanh.<br /> a) Cách tiếp cận: Tất cả các khái niệm đều xuất phát<br /> từ trực quan, thực tế cuộc sống, rồi mới dẫn dắt đến lí<br /> thuyết và sau đó là thực hành (làm thủ công) để củng cố<br /> kiến thức. Từng phần kiến thức được đưa ra và giải quyết<br /> một cách triệt để; đặc biệt học sinh được gợi mở để tự<br /> tìm cách giải quyết các vấn đề, tự tìm tòi lĩnh hội kiến<br /> thức mới một cách chủ động, sáng tạo... và tự mình kiến<br /> tạo tri thức mới. Điều này giúp các em hiểu bài ngay tại<br /> lớp, cảm thấy toán học gần gũi và có thể áp dụng rộng rãi<br /> trong cuộc sống hàng ngày và nhớ lâu.<br /> b) Nội dung: Chương trình toán của Nhật Bản được<br /> xây dựng sớm hơn theo chiều rộng, được lặp đi lặp lại<br /> theo từng lớp và cấp học với sự tiếp nối và chiều sâu kiến<br /> thức tăng dần giống như một vòng tròn xoắn ốc, giúp học<br /> sinh dễ nhớ, nhớ lâu và hiểu biết sâu rộng hơn sau mỗi<br /> bài học. Ngoài ra những bài toán thực tế, bài tập thủ công<br /> giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn vấn đề.<br /> Ví dụ: Kiến thức về hình học không gian như, tọa độ<br /> của điểm trong mặt phẳng và trong không gian, hình trụ<br /> tròn, hình trụ đứng, diện tích của các loại hình trụ... được<br /> đưa vào ngay từ lớp 4 (học sinh VN được học ở lớp 910). Trong sách giáo khoa lớp 4 mở rộng, học sinh được<br /> dạy về sự thay đổi thời gian trên cùng một đồng hồ khi<br /> thay đổi vị trí của đồng hồ làm nền tảng để sau này các<br /> em có thể dễ dàng hiểu về sự chênh lệch về thời gian giữa<br /> các quốc gia, các múi giờ, từ đó thêm kĩ năng để có thể<br /> hội nhập toàn cầu. Ngoài ra học sinh được học về đơn vị<br /> đo tốc độ km/h, m/phút, m/giây, cách làm tròn số. (học<br /> sinh VN được học ở lớp 7). Phần hình học phẳng, chương<br /> trình của Nhật Bản mở rộng hơn của Việt Nam. Các nội<br /> <br /> 63<br /> <br /> dung hình đa giác đều, các hình bằng nhau hình phóng to<br /> và thu nhỏ, hình đồng dạng, hình đối xứng (đối xứng<br /> trục, đối xứng tâm) đều được học từ cấp tiểu học và được<br /> nhắc lại sâu hơn ở các cấp học trên (ở Việt Nam phải tới<br /> trung học cơ sở và trung học phổ thông). Điều đó giúp<br /> học sinh phát triển trí tưởng tượng, quan sát tổng thể, bao<br /> quát, tổng hợp ngay từ khi còn nhỏ và do được nhắc đi<br /> nhắc lại, học sinh nhớ chắc và nhớ lâu. Chương trình của<br /> Nhật Bản có những tiết học về ghép hình, qua nội dung<br /> này, học sinh được hình thành và phát triển khả năng<br /> tưởng tượng, sáng tạo tốt hơn.<br /> c) Cách biên soạn: Tiêu chuẩn hóa cao về nội dung và<br /> tính thực tiễn, các đơn vị kiến thức được sắp xếp khoa học,<br /> logic... Kênh hình sinh động, phong phú, gần gũi. Kênh<br /> chữ ngắn gọn dễ hiểu; nội dung chủ yếu là sự gợi ý về<br /> phương pháp học tập giúp học sinh tiếp cận thông tin một<br /> cách dễ dàng, tự chiếm lĩnh kiến thức với tất cả sự hứng<br /> thú trải nghiệm và khám phá,... Ở mỗi phần kiến thức, đều<br /> ghi rõ những điều liên quan đã học ở lớp trước và sẽ được<br /> học ở lớp sau. Đặc biệt “Góc sổ tay toán học” trong sách<br /> giáo khoa ở từng lớp rèn cho học sinh có cách học, nếp<br /> học chủ động, phương pháp ghi nhớ, so sánh, diễn đạt...<br /> d) Kĩ năng: Chương trình toán Nhật Bản rất chú trọng<br /> việc hình thành những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống<br /> ngay từ những lớp đầu cấp ngoài những kĩ năng giải toán<br /> cơ bản của chương trình. Tuy nhiên, các kĩ năng không<br /> máy móc để nhằm tìm kết quả một bài toán cụ thể mà giúp<br /> các em tăng cường suy nghĩ logic để phát triển trí tuệ.<br /> Ví dụ: Kĩ năng đếm nhanh nhóm đồ vật bằng cách<br /> đếm cách 2, đếm cách 5; So sánh độ dài của 2 vật trong<br /> trường hợp không có thước hoặc đơn vị chuẩn; So sánh<br /> sức chứa của 2 vật bằng các cách đơn giản trong cuộc<br /> sống; Kĩ năng tính nhanh, tính nhẩm, kĩ năng làm tròn và<br /> tách số được vận dụng trong việc tính toán trong thực tiễn<br /> cuộc sống; Kĩ năng quan sát tổng thể, bao quát, tổng hợp,<br /> kĩ năng hội nhập toàn cầu; Kĩ năng vẽ hình; ghép hình,<br /> phát triển khả năng tưởng tượng của học sinh thông qua<br /> những bài học gắn với nội dung hình học trong thực tế,<br /> thuận lợi việc học tập các bài toán tích phân sau này.<br /> 2.2.2. Các môn khoa học<br /> Chương trình các môn khoa học của Việt Nam và<br /> Nhật Bản không có những sai khác lớn, nhưng nội dung<br /> trong sách của Nhật Bản đều sâu hơn về bản chất và quan<br /> trọng nhất là luôn hướng cho học sinh tự tìm tòi, rút ra<br /> kết luận của riêng mình thông qua việc hướng dẫn học<br /> sinh làm quen với việc tự nghiên cứu từ lớp 3.<br /> Về cách tiếp cận, học sinh được trực tiếp tham gia<br /> vào các thí nghiệm, tự mình rút ra được các kết luận và<br /> giải thích được các hiện tượng trong cuộc sống. Chương<br /> trình các môn học đều quan tâm nâng cao năng lực suy<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 429 (Kì 1 - 5/2018), tr 61-64; 60<br /> <br /> nghĩ, sáng tạo của các em hơn là hướng dẫn các em tìm<br /> ra những kết quả cụ thể một cách máy móc.<br /> Cũng giống như toán học, các nội dung được đưa vào<br /> sớm, được nhắc lại qua nhiều lớp, nhiều cấp, càng lên lớp<br /> trên, kiến thức càng sâu hơn. Từ đó, giúp học sinh nắm<br /> kiến thức một cách có hệ thống, kiến thức không ngừng<br /> được củng cố và khó quên (Ví dụ: Nội dung về hóa học<br /> được đưa vào lớp 5, lớp 6, ở Việt Nam bắt đầu dạy từ lớp<br /> 8). Không chỉ truyền thụ kiến thức mới, chương trình và<br /> sách giáo khoa rất chú trọng việc củng cố và hệ thống<br /> hóa. Ở mỗi phần kiến thức cũng đều ghi rõ những điều<br /> đã học ở lớp trước và sẽ được học ở lớp sau. Cuối mỗi<br /> cuốn sách đều ghi lại những kiến thức quan trọng nhất<br /> trong năm học. Bên cạnh phần kiến thức phổ cập, ở từng<br /> phần, sách giáo khoa đều có nội dung nâng cao dành cho<br /> học sinh khá giỏi và có lòng ham thích với môn học.<br /> Rất coi trọng thực hành và vận dụng kiến thức đã học<br /> vào đời sống: từ lớp 2, 3, học sinh đã được học cách<br /> khám phá tìm hiểu cuộc sống xung quanh mình như: tìm<br /> hiểu về địa phương nơi cư trú và xác định những địa điểm<br /> quan trọng trên bản đồ; phân biệt các cửa hàng tiện lợi<br /> với các siêu thị; cách tổ chức phục vụ của siêu thị nhằm<br /> đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Khi học về cây cối, học<br /> sinh đều được thực hành trồng và tìm hiểu trong thực tế<br /> cuộc sống. Nói chung, các kiến thức đều không bị áp đặt<br /> từ chủ quan giáo viên mà học sinh được từng bước nhận<br /> ra vấn đề trước khi rút ra kết luận cuối cùng.<br /> 2.3. Về các hoạt động trải nghiệm và ngoại khóa<br /> Có hai loại hoạt động thường xuyên được áp dụng ở<br /> trường. Trước hết là những hoạt động xen kẽ trong các<br /> buổi học hàng ngày, hàng tuần: Sau giờ học buổi sáng,<br /> trước khi ăn bữa trưa, học sinh toàn trường đều có thời<br /> gian để làm vệ sinh lớp học, nhặt rác, lau chùi bàn ghế,<br /> khuôn cửa,... Sau mỗi ngày học tập, học sinh có 1 giờ để<br /> tham gia các câu lạc bộ thể thao, hội hoạ và âm nhạc.<br /> Hàng tuần, học sinh các lớp tham gia vệ sinh, quét dọn<br /> trạm dừng xe bus gần trường; bữa ăn hàng ngày, học sinh<br /> thay nhau chia thức ăn và tự thu dọn sau khi ăn xong,...<br /> Các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, Nhật Bản và trên thế<br /> giới (Trung thu, Nguyên đán của Việt Nam, lễ hội giã<br /> bánh dầy, Tanabaca,... của Nhật Bản, Halloween...),<br /> ngày Hội thể thao, liên hoan văn nghệ và các buổi dã<br /> ngoại ngoài trường.<br /> Điều quan trọng ở đây là tất cả những hoạt động này<br /> đều được chuẩn bị, kiểm tra rất chu đáo về mọi mặt nên<br /> trở thành những cơ hội để học sinh tìm hiểu phong tục,<br /> tập quán, truyền thống văn hóa của các nước. Không chỉ<br /> được nghe giới thiệu, mà tất cả học sinh còn trực tiếp làm<br /> từ việc chuẩn bị đến thực hành,... từ đó hiểu được những<br /> thông điệp mà người xưa gửi gắm tới thế hệ mai sau từ<br /> <br /> 64<br /> <br /> những chi tiết của đạo cụ hay nghi thức... Những hoạt<br /> động này làm tăng thêm niềm vui của học sinh hàng ngày<br /> tới trường và những phẩm chất tốt đẹp như trung thực,<br /> dũng cảm, yêu lao động, lòng nhân ái, ý thức tập thể và<br /> cộng đồng,... cùng các kĩ năng sống, kĩ năng tổ chức, hoạt<br /> động tập thể, cách phối hợp làm việc theo nhóm được<br /> thường xuyên rèn luyện, giúp học sinh có ý thức với công<br /> việc chung, trân trọng sức lao động của người khác và<br /> tăng cường tính hợp tác trong sinh hoạt tập thể.<br /> 2.4. Sự nhất quán giữa các môn học và lĩnh vực giáo dục<br /> Giáo dục tiểu học Nhật Bản chủ trương hướng tới có<br /> được những thế hệ công dân có Đức, Trí, Thể, Thực và<br /> những thế hệ công dân toàn cầu, điều đó được nhất quán<br /> trong tất cả các môn học, lĩnh vực giáo dục. Quan điểm<br /> đó đã được thể hiện trong sự thống nhất ở chương trình<br /> học tập, tất cả các môn học, kết hợp với môn giáo dục<br /> đạo đức để rèn luyện cho các em trở thành những người<br /> có khả năng nắm bắt được bản chất của sự vật, sự việc,<br /> có khả năng hợp tác, sự nhanh nhạy và sắc sảo về trí tuệ,<br /> khả năng giao tiếp và thuyết phục, năng lực xử lí và phân<br /> tích thông tin, sáng kiến, khởi xướng và sự sáng tạo.<br /> Những con người đó có năng lực tự nhận thức được vai<br /> trò của bản thân, không chỉ hành động vì đất nước mình<br /> mà còn vì một thế giới tốt đẹp hơn.<br /> 3. Kết luận<br /> Những kinh nghiệm nổi bật được rút ra từ nghiên cứu<br /> mô hình giáo dục tiểu học thông qua nghiên cứu trường<br /> hợp ở JIS trình bày ở trên có thể được nghiên cứu áp dụng<br /> một cách thích hợp vào thực tiễn giáo dục của Việt Nam.<br /> Trước hết, có thể có những một số kết luận sau: - Việc<br /> giáo dục đạo đức của nhà trường Nhật Bản là một điểm<br /> nhấn quan trọng. Rõ ràng cần xây dựng hệ thống các hoạt<br /> động để học sinh tự mình hoàn thành các công việc, tự<br /> đánh giá các hành vi của mình, từ đó rút ra được những<br /> giá trị đạo đức; - Những lựa chọn, sắp xếp nội dung dạy<br /> học cũng như cách thức tổ chức dạy học các môn Toán<br /> và Khoa học cũng nên được cân nhắc theo hướng gắn tới<br /> cuộc sống hiện tại và sau này của học sinh. Quan điểm<br /> quán triệt tính hệ thống của các kiến thức trong từng môn<br /> học cũng là một nét khá khác biệt; - Cần nghiên cứu về<br /> và tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh một cách<br /> thường xuyên, liên tục rất thực tế và gắn liền với giáo dục<br /> đạo đức, với các môn học khác; - Một điểm đáng lưu ý<br /> là những quan điểm, cách tiếp cận và cách thức tổ chức<br /> các hoạt động học tập của học sinh đã nêu trên có thể<br /> được lựa chọn và thực hiện phù hợp ngay cả ở các trường<br /> có cơ sở vật chất không tốt bằng trường JIS.<br /> (Đây là sản phẩm nghiên cứu của Đề tài nghiên<br /> cứu khoa học mã số ĐTĐL.XH-03/17)<br /> (Xem tiếp trang 60)<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 429 (Kì 1 - 5/2018), tr 57-60<br /> <br /> và chính sách động viên cho người nghiên cứu”.<br /> (Nguyễn Thư H. - Trường ĐH Đồng Tháp), hay “Cần<br /> minh bạch trong lựa chọn đề tài; chất lượng của đề tài<br /> đăng kí (sản phẩm đầu ra); kinh phí cho đề tài”<br /> (Nguyễn Trung K. - Trường ĐH Cần Thơ).<br /> Như vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động nghiên<br /> cứu KHGD và KHCB tại các trường ĐH vùng ĐBSCL<br /> cần tăng cường các nguồn lực phục vụ cho hoạt động<br /> nghiên cứu KHGD và KHCB của GV. Cụ thể: Tăng kinh<br /> phí NCKH, trang bị cơ sở vật chất (tài liệu, trang thiết<br /> bị...); GV không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn,<br /> bồi dưỡng kĩ năng NCKH... Ngoài ra, cần có cơ chế,<br /> chính sách tạo động lực cho GV tham gia NCKH, chú<br /> trọng đến việc chuyển giao, ứng dụng các kết quả NCKH<br /> vào thực tiễn.<br /> 3. Kết luận<br /> Kết quả khảo sát đã chỉ ra: đa số GV của 03 trường<br /> ĐH vùng ĐBSCL đều nhận thức được vai trò quan<br /> trọng của hoạt động NCKH; nhiều GV đã xác định<br /> được mục đích tham gia NCKH là phục vụ cho công<br /> việc giảng dạy và nâng cao chuyên môn; các yếu tố về<br /> cơ chế chính sách, nguồn lực phục vụ cho NCKH có<br /> ảnh hưởng lớn đến công tác NCKH, tuy nhiên, kinh phí<br /> NCKH và cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động nghiên<br /> cứu KHCB tại các trường ĐH ở ĐBSCL chỉ ở mức trên<br /> trung bình nên chưa đáp ứng được yêu cầu của thực<br /> tiễn; các hình thức công bố kết quả NCKH phổ biến<br /> nhất là đăng bài trên các tạp chí chuyên ngành trong<br /> nước; việc chuyển giao và ứng dụng kết quả nghiên cứu<br /> KHGD và KHCB vào thực tiễn còn nhiều hạn chế. Vì<br /> vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu<br /> KHGD và KHCB, các trường ĐH vùng ĐBSCL cần<br /> tăng cường các nguồn lực phục vụ cho hoạt động<br /> NCKH, cần tạo động lực cho GV tham gia NCKH, chú<br /> trọng đến việc chuyển giao, ứng dụng các kết quả<br /> NCKH vào thực tiễn.<br /> Tài liệu tham khảo<br /> [1] Quốc hội (2013). Luật Khoa học và Công nghệ sửa<br /> đổi (Số: 29/2013/QH13 ngày 18/06/2013).<br /> [2] Bộ GD-ĐT. Thông tư số 22/2011/TT-BGDĐT ngày<br /> 30/05/2011, quy định về hoạt động khoa học và công<br /> nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học.<br /> [3] Trần Thanh Ái (2014). Yếu kém của nghiên cứu<br /> khoa học giáo dục Việt Nam: Nguyên nhân và giải<br /> pháp. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ,<br /> số 33, tr 128-137.<br /> [4] Đỗ Lê Bình (2017). Đề tài cấp cơ sở: “Đánh giá các<br /> kết quả nghiên cứu về khoa học giáo dục và khoa<br /> <br /> 60<br /> <br /> học cơ bản ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai<br /> đoạn 2000-2015 làm cơ sở định hướng nghiên cứu<br /> đến năm 2020”. Trường Đại học Kiên Giang.<br /> [5] Nguyễn Kim Dung (2013). Đánh giá công tác<br /> nghiên cứu khoa học giáo dục tại các trường đại học<br /> sư phạm Việt Nam. Tạp chí Khoa học, Trường Đại<br /> học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 50, tr 23-31.<br /> [6] Nguyễn Hữu Gọn (2103). Thực trạng, giải pháp<br /> tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học của cán<br /> bộ, giảng viên Trường Đại học Đồng Tháp giai<br /> đoạn 2006-2011. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học<br /> Cần Thơ, số 25, tr 43-51.<br /> [7] Phan Thị Tú Nga (2011). Thực trạng và các biện<br /> pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa<br /> học của giảng viên Đại học Huế. Tạp chí Khoa học,<br /> Đại học Huế, số 68, tr 67-78.<br /> <br /> MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH...<br /> (Tiếp theo trang 64)<br /> Tài liệu tham khảo<br /> [1] Bộ Giáo dục Nhật Bản (2009). Tài liệu hướng dẫn<br /> học sinh tiểu học môn Xã hội. www.mext.go.jp/<br /> component/a_menu/education/micro_detail/icsFile<br /> s/afieldfile/2009/06/16/1234931_003.pdf.<br /> [2] Kaigo Tokiomi (chủ biên, 1975). Cải cách giáo dục<br /> Nhật Bản thời hậu chiến - Cải cách giáo dục I. NXB<br /> Đại học Tokyo.<br /> [3] Bộ Giáo dục Nhật Bản (2017). Chương trình học tập<br /> và giảng dạy tiểu học (小学校学習指導要領).<br /> [4] Bộ sách giáo khoa Toán tiểu học (2015). NXB<br /> Tokio Shoseki.<br /> [5] Bộ sách giáo khoa môn Tự nhiên tiểu học (2015).<br /> NXB Tokio Shoseki.<br /> [6] Bộ Giáo dục Nhật Bản (2015). Nâng cao năng lực,<br /> phẩm chất của giáo viên trong nhà trường tương lai.<br /> [7] Matsubara, K. - Hagiwara, Y. - Saruta, Y. (2016). A<br /> statistical analysis of the characteristics of the<br /> intended curriculum for Japanese primary science<br /> and its relationship to the attained curriculum.<br /> Large-scale Assess Education, Vol. 4(13), pp. 1-18.<br /> [8] Ozaki Mugen (2017). Cải cách giáo dục Nhật Bản.<br /> NXB Lao động.<br /> [9] Bộ Giáo dục Nhật Bản (Nguyễn Quốc Vương dịch,<br /> 2016). Hướng dẫn học tập môn Xã hội. NXB Đại<br /> học Sư phạm.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1