NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO<br />
CHẤT LƯỢNG DẠY KỸ NĂNG VIẾT<br />
CHO HỌC VIÊN VÀ SINH VIÊN<br />
NĂM THỨ BA KHOA TIẾNG ANH,<br />
HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ<br />
PHAN CHÍ CÔNG<br />
Học viện Khoa học Quân sự<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
TÓM TẮT<br />
Việc đổi mới phương pháp dạy và học ngoại ngữ<br />
Trong những năm gần đây, việc nâng cao ngày càng được coi trọng. Lối truyền đạt một<br />
chất lượng dạy và học tiếng Anh nói chung,<br />
chiều khi mà giáo viên đóng vai trò trung tâm<br />
kỹ năng viết nói riêng tại Học viện Khoa<br />
Học Quân sự luôn được coi trọng hàng đầu.<br />
trong giờ học, đang nhường chỗ cho phương<br />
Vì vậy, nghiên cứu này tập trung vào tìm ra pháp lấy người học làm trung tâm để phát huy<br />
những giải pháp nâng cao chất lượng dạy và tính chủ động, học tập và sáng tạo cũng như khả<br />
học kỹ năng viết cho học viên và sinh viên năng tự học của người học. Trên thực tế, ở Học<br />
năm thứ ba, Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa viện Khoa học Quân sự, hầu hết việc giảng dạy<br />
học Quân sự. Nghiên cứu này đã tìm ra ba các kỹ năng ngoại ngữ nói chung, kỹ năng viết nói<br />
nhóm giải pháp chính: nhóm giải pháp từ riêng cho đối tượng học viên, sinh viên năm thứ<br />
phía người dạy, từ phía người học và các nhà<br />
3, Khoa tiếng Anh ngày càng được coi trọng và<br />
quản lý giáo dục. Những nhóm giải pháp<br />
này đã được nghiên cứu dựa trên cơ sở của kiện toàn. Tuy nhiên, chất lượng dạy và học môn<br />
câu hỏi điều tra, phỏng vấn và đã được kiểm này vẫn chưa đạt được như mong muốn. Qua kết<br />
chứng bằng thực nghiệm. Hy vọng rằng quả điều tra cho thấy tỷ lệ học viên, sinh viên thi<br />
những nhóm giải pháp này sẽ mở ra một lại và học lại kỹ năng này rất cao. Tương tự, đối<br />
hướng mới trong việc nâng cao chất lượng tượng này gặp rất nhiều khó khăn trong việc học<br />
dạy kỹ năng viết cho học viên, sinh viên năm môn học này. Vì vậy, sau khi tiến hành nghiên cứu<br />
thứ ba, Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa học<br />
thông qua điều tra, phỏng vấn và giảng dạy thực<br />
Quân sự.<br />
nghiệm, nhóm nghiên cứu đã tìm ra ba nhóm<br />
Từ khóa: giải pháp, kỹ năng viết, sửa lỗi, phương giải pháp: người dạy, người học và nhà quản lý<br />
pháp giảng dạy giáo dục nhằm nâng cao chất lượng của việc dạy<br />
và học kỹ năng viết cho đối tượng học viên, sinh<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 2 - 7/2016 89<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
viên năm thứ ba, Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa quan tâm thực sự và thái độ làm việc nghiêm túc<br />
học Quân sự. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài báo của giáo viên cũng như giúp cho bản thân giáo<br />
này, chúng tôi chỉ đưa ra sáu giải pháp chính của viên cảm thấy tự tin và chủ động hơn rất nhiều<br />
nhóm giải pháp từ phía người dạy. trong quá trình giảng dạy trên lớp. Kỹ năng viết<br />
đòi hỏi sự tương tác trực tiếp, liên tục giữa người<br />
2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NGƯỜI DẠY dạy và người học trong suốt quá trình dạy-học<br />
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC diễn ra. Do đó, việc nắm rõ tên của từng sinh viên<br />
KỸ NĂNG VIẾT CHO HỌC VIÊN VÀ SINH VIÊN trong lớp sẽ giúp cho quá trình tương tác ấy diễn<br />
NĂM THỨ BA, KHOA TIẾNG ANH,HỌC VIỆN ra thuận lợi, suôn sẻ và hiệu quả hơn rất nhiều.<br />
KHOA HỌC QUÂN SỰ<br />
Thứ hai, giáo viên cần trao đổi, chia sẻ với người<br />
Để nâng cao chất lượng dạy và học kỹ năng viết học về cuộc sống thông qua các bài viết hoặc nói<br />
cho học viên và sinh viên năm thứ ba khoa tiếng chuyện trực tiếp.<br />
Anh, Học viện Khoa học Quân sự, cần thực hiện<br />
đồng bộ những giải pháp sau: Ngoài ra, giáo viên còn có thể tiếp cận thông tin<br />
từ phía người học bằng cách thiết kế các câu hỏi,<br />
2.1. Nắm vững đối tượng người học đề viết, hoạt động tự đánh giá, lấy ý kiến phản<br />
hồi từ phía người học, thậm chí kết hợp với các<br />
Một trong những yêu cầu cơ bản của một giáo phòng, khoa, ban hệ quản lý học viên, giáo viên<br />
viên khi tiến hành giảng dạy bất cứ một môn học chủ nhiệm và các giáo viên bô môn khác để hiểu<br />
nào đều phải nắm vững đối tượng người học được tâm tư nguyện vọng, năng lực, khả năng, cá<br />
của mình. (Harmer, 2004). Theo ông, giáo viên tính, tính cách, hoàn cảnh của từng học viên một.<br />
cần phải hiểu rõ trình độ, năng lực ngôn ngữ của<br />
người học. Nhờ đó, giáo viên mới đưa ra được 2.2. Áp dụng nhiều cách sửa lỗi khác nhau vào<br />
những quyết định sáng suốt về phương pháp dạy viết<br />
giảng dạy và sử dụng tài liệu giảng dạy của mình<br />
phù hợp với từng đối tượng người học cụ thể. Sửa lỗi là một trong những nhiệm vụ quan trọng<br />
Hơn nữa, giáo viên cần nắm vững tâm lý người nhất trong việc dạy và học ngoại ngữ. Đã có<br />
học, tính cách, sở thích, phong cách học, năng lực nhiều nhà nghiên cứu đầu tư nhiều thời gian và<br />
ngôn ngữ cụ thể của từng cá nhân. Trên cơ sở đó, công sức về cách thức sửa lỗi cho người học trong<br />
giáo viên sẽ đưa ra được những hoạt động giảng việc dạy và học kỹ năng viết. Theo đó, Hedgcock<br />
dạy phù hợp với từng cá nhân như hoạt động & Lefkowitz (1996) tin rằng sửa lỗi là một công<br />
cặp, nhóm nhằm phát huy sức mạnh cá nhân và việc không thể thiếu được trong quá trình dạy và<br />
trí lực tập thể của người học và tạo động cơ học học kỹ năng viết vì thông qua hoạt động này mà<br />
tập đúng đắn cho người học vượt qua các rào cản người học tìm ra lỗi của mình và biết cách sửa lỗi.<br />
của việc học kỹ năng viết tiếng Anh. Hyland (2003) cho rằng việc sửa lỗi chú trọng quá<br />
trình viết và viết lại các bài viết của người học.<br />
Để nắm vững được đối tượng người học, giáo Chaudron (2001) lại đưa ra quan điểm rằng người<br />
viên cần thực hiện tốt những việc sau đây. học coi việc mắc lỗi là một nguồn quan trọng để<br />
tự học hỏi, tự hoàn thiện bài viết của mình. Vì<br />
Thứ nhất, việc giáo viên hiểu rõ đối tượng người vậy, kể cả người bản ngữ cũng cho rằng sửa lỗi<br />
học còn thể hiện ở những khía cạnh tưởng chừng là một công việc khó nhất trong việc dạy các kỹ<br />
như rất đơn giản như việc nắm rõ tên của từng năng ngôn ngữ, đặc biệt là dạy kỹ năng viết. Theo<br />
học viên, sinh viên trong lớp bởi thực tế là sĩ số Paulus (1999), chính bản thân người dạy cũng<br />
của các lớp học ngoại ngữ thường không quá khó tìm ra lời giải tốt nhất cho việc sửa lỗi cho<br />
đông, tối đa chỉ khoảng 30 học viên hoặc sinh người học. Ferris (1999) cho rằng việc sửa lỗi cho<br />
viên. Do vậy, việc giáo viên nắm rõ tên từng học người học là một trong những vấn đề gây tranh<br />
viên, sinh viên trong lớp làm cho họ thấy được sự cãi khá gay gắt trong giáo giới. Tuy nhiên, nếu tìm<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
90 Số 2 - 7/2016<br />
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
ra phương án sửa lỗi tốt, linh hoạt và phù hợp thì nhật ký của từng bài giảng. Công việc này rất có<br />
kết quả của nó là rất lớn trong việc tạo ra hứng ích cho việc giao nhiệm vụ cho từng cặp ở từng<br />
thú động viên khuyến khích người học học tốt kỹ buổi sửa lỗi và thay đổi luân phiên thành viên<br />
năng viết. của từng cặp. Ví dụ như buổi một là cặp của một<br />
học viên học giỏi hoặc khá với một học viên học<br />
Để thực hiện được giải pháp này, cần thực hiện yếu hoặc kém, tuần hai lại chuyển sang hai em<br />
những yêu cầu sau: Giáo viên là người đóng vai có cùng trình độ, cứ thế thay đổi thành viên từng<br />
trò định hướng và hướng dẫn thực hiện hoạt cặp luân phiên trong lớp thì mới phát huy hiệu<br />
động sửa lỗi theo cặp; vì vậy, đòi hỏi đầu tiên từ quả của hoạt động này.<br />
phía giáo viên là sự tâm huyết với nghề, với công<br />
việc. Thực vậy, ở mỗi bài, giáo viên cần phải thiết Song song với đó, phần nhật ký cũng giúp giáo<br />
kế hoạt động sửa lỗi theo cặp theo nội dung của viên thay đổi ngôn ngữ trong việc viết câu trả lời<br />
từng dạng văn cụ thể. Để làm được điều này, của tờ sửa lỗi. Ví dụ, nếu buổi một sinh viên A viết<br />
ngoài việc nắm vững phần lý thuyết của dạy viết câu trả lời bằng tiếng việt thì buổi hai sinh viên đó<br />
hàn lâm, cần phải đọc nhiều bài báo, tham luận phải viết câu trả lời bằng tiếng Anh, rồi thay đổi<br />
và sách giáo học pháp, tâm lý học để thiết kế câu luân phiên hình thức viết câu sửa lỗi. Mục đích<br />
hỏi phần sửa lỗi đạt hiệu quả. của việc thay đổi thành viên của cặp và ngôn ngữ<br />
sửa lỗi là nhằm giúp các em thực hiện hoạt động<br />
Ngoài ra, giáo viên cần phải dành thời gian để<br />
sửa lỗi dề dàng hơn, học hỏi lẫn nhau và giúp đỡ<br />
đọc lại những tờ sửa lỗi của học viên, sinh viên<br />
nhau trong học viết cũng như hun đắp tình đoàn<br />
để kiểm chứng xem những câu trả lời của người<br />
kết của lớp.<br />
sửa đã nghiêm túc, đầy đủ và đúng chưa để yêu<br />
cầu người sửa lỗi làm lại phần việc của mình vì Ngoài ra, nhật ký bài giảng này cũng giúp giáo<br />
trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi nhận<br />
viên kiểm soát lớp tốt hơn, thông thường ở các<br />
thấy rằng lúc đầu có rất nhiều em đọc bài viết của<br />
hoạt động cặp và nhóm, chủ yếu các em giỏi hoặc<br />
bạn và sửa lỗi rất sơ sài, ý thức sửa lỗi còn kém và<br />
khá là tham gia nhiều hơn, các em học yếu hơn sẽ<br />
mang tính đối phó, nhưng sau khi chúng tôi đọc<br />
có tâm lý ỷ lại, ít hoạt động hơn; vì vậy, nếu giáo<br />
kỹ từng bài và phần sửa lỗi chúng tôi đã yêu cầu<br />
viên ghi chép nhật ký đầy đủ sẽ phát hiện được<br />
các em thực hiện công việc của mình một cách<br />
những em không tích cực tham gia hoạt động và<br />
nghiêm túc và kết quả đạt được như mong đợi.<br />
thậm chí ghi lại những cặp không tích cực làm<br />
Giáo viên còn phải dành nhiều thời gian để đọc việc để có biện pháp cụ thể cho từng buổi sửa<br />
bản viết thứ nhất và thứ hai của sinh viên sau khi lỗi cụ thể.<br />
được bản sửa theo cặp để kiểm chứng xem có sự<br />
Cuối cùng, việc ghi chép nhật ký cũng là tấm<br />
tiến bộ nào giữa hai bản viết hay không và đưa ra<br />
những nhận xét của mình, đồng thời sửa lỗi cho gương phản ánh những ưu nhược điểm của giáo<br />
người học bởi vì hoạt động sửa lỗi theo cặp chỉ viên ở mỗi bài, điều mà giáo viên thường không<br />
là một hoạt động bổ trợ cho việc giúp người học thích, để từ đó giáo viên không chỉ tự điều chỉnh<br />
phát hiện và sửa lỗi sai chứ không thay thế hoàn được phương pháp giảng dạy của mình mà còn<br />
toàn vai trò của giáo viên được. Thậm chí, sau khi hiểu được tâm tư nguyện vọng của người học tốt<br />
nhận xét và sửa lỗi hoặc chỉ ra lỗi cho người học, hơn, sát sao hơn. Bên cạnh đó, tờ sửa lỗi theo cặp<br />
giáo viên còn phải yêu cầu sinh viên viết bài cho cần được thiết kế một cách chính xác, hợp lý, cụ<br />
đến khi mà giáo viên cảm thấy thỏa mãn hoàn thể, bám sát vào lý thuyết của nội dung của từng<br />
toàn với bài viết của sinh viên. Vì vậy, giáo viên dạng văn cụ thể. Tờ sửa lỗi cần phải có thêm phần<br />
cần phải tốn thời gian công sức cho việc đọc bài trình bày quan điểm của người sửa lỗi và cách<br />
và chấm bài rất nhiều lần. giúp tác giả bài viết khắc phục những khuyết<br />
điểm của. Nhờ đó, người viết sẽ có những lời<br />
Hơn nữa, người giáo viên cũng cần phải ghi lại khuyên bổ ích cho việc sửa lại bài viết ở lần sau.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 2 - 7/2016 91<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
2.3. Áp dụng hoạt động cặp và nhóm vào dạy viết thuộc vào từng điều kiện cụ thể cũng như trình<br />
độ thực tế của người học.<br />
Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao lợi ích hoạt<br />
động nhóm/cặp trong dạy viết. Long & Porter (2) Về vấn đề tiêu chí lựa chọn thành viên trong<br />
(1985) nhấn mạnh rằng hoạt động nhóm/cặp là mỗi nhóm/cặp cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng.<br />
hoạt động kích thích người học thực hành, cải Thông thường, giáo viên cần lựa chọn một số tiêu<br />
thiện chất lượng học viết, tạo ra hứng thú học chí sau để lựa chọn thành viên cho mỗi nhóm/cặp:<br />
và tạo ra không khí học viết tích cực. Theo Ur<br />
(1999), hoạt động nhóm/cặp là hoạt động giao Thứ nhất, tiêu chí hoạt động theo nhóm/cặp bạn<br />
tiếp mang lại nhiều lợi ích cho người học ngoại bè. Đây là hình thức cơ bản nhất để tạo không<br />
ngữ. Thứ nhất là, hoạt động nhóm/cặp tạo cơ hội khí thoải mái khi làm việc trong các nhóm/cặp. Có<br />
cho nhiều người học tham gia vào quá trình học hai cách thành lập nhóm/cặp. Một là giáo viên để<br />
viết cùng một lúc. Thực vậy, nếu một chủ đề trong người học tự thành lập các nhóm/cặp của mình.<br />
lớp được năm hay sáu nhóm/cặp thảo luận trong Nếu cách làm thứ nhất gặp khó khăn giáo viên có<br />
cùng một thời gian thì điều này có nghĩa là số thể chọn cách thứ hai là yêu cầu người học viết<br />
lượng người viết và thời gian thảo luận của từng tên các bạn theo nhóm/cặp; trên cơ sở đó giáo<br />
cá nhân được tăng lên từ năm đến sáu lần. Hơn viên có thể lựa chọn thành viên trong mỗi nhóm/<br />
hữa, sự tham gia của nhiều người học cùng một cặp cho luyện tập.<br />
lúc không chỉ giúp những học viên tích cực mà cả<br />
những học viên rụt rè. Vì vậy, người học sẽ thấy Thứ hai là lựa chọn theo khả năng của người học.<br />
thoải mái hơn khi giao tiếp trong các nhóm/cặp Ở tiêu chí này cũng có hai cách tổ chức. Một là<br />
và có thể tự diễn đạt những suy nghĩ của mình tổ chức nhóm/cặp hỗn hợp giữa những học viên,<br />
một cách tự nhiên hơn. Thứ hai là, thông thường sinh viên khá, giỏi với kém, trung bình. Cách<br />
người học thích hoạt động theo nhóm/cặp hơn này tạo điều kiện cho các học viên, sinh viên giúp<br />
là phải trả lời giáo viên trước lớp vì khi giao tiếp đỡ lẫn nhau trong học tập. Cách thứ hai là tổ chức<br />
trong nhóm nhỏ/cặp, người học thường dùng các nhóm/cặp học viên, sinh viên có cùng trình<br />
ngôn ngữ thân mật mà không bị áp lực từ bên độ giỏi, khá, trung bình, hoặc kém. Hình thức này<br />
ngoài. Là thành viên của một nhóm/cặp, họ sẽ có ưu điểm là giáo viên có thể giao các loại hình<br />
kiểm soát được hoạt động viết của mình tốt hơn bài tập phù hợp với trình độ từng loại học viên,<br />
và không phải chịu áp lực từ sự chuyên quyền của sinh viên; mặt khác giáo viên có điều kiện giúp đỡ<br />
bất cứ người lãnh đạo nào. Điểm lợi thứ ba của học viên, sinh viên yếu, kém.<br />
hoạt động viết theo nhóm/cặp là hoạt động giải<br />
phóng giáo viên ra khỏi vai trò của người dạy, Thứ ba là tổ chức nhóm/cặp ngẫu nhiên. Với<br />
người sửa lỗi và người kiểm soát lớp học, cho tiêu chí này, giáo viên lựa chọn thành viên ở mỗi<br />
phép người học đảm nhiệm những vai trò của nhóm/cặp một cách ngẫu nhiên, không theo một<br />
người giao tiếp tự nhiên. quy định cụ thể nào. Ví dụ: tổ chức nhóm/cặp<br />
theo chỗ ngồi như các em ngồi sát nhau, theo<br />
Để thực hiện được giải pháp này, cần tuân thủ bàn học, theo hai bàn học, theo nhóm/cặp ngồi<br />
một số yêu cầu sau: xa nhau, theo tháng sinh trong năm, theo màu<br />
sắc của áo các em đang mặc v.v… Cần lưu ý rằng<br />
(1) Trước hết, giáo viên cần hiểu rằng hoạt động sự thay đổi giữa các hình thức thành lập nhóm/<br />
nhóm/cặp không phải là phương pháp giảng dạy cặp là hết sức cần thiết để tránh sự nhàm chán<br />
mà là các cách thức tổ chức lớp học. Trong hoạt trong luyện tập. Sự thay đổi các hình thức thành<br />
động nhóm/cặp, giáo viên chia lớp thành các lập nhóm/cặp cần đựơc thực hiện thường xuyên,<br />
nhóm nhỏ hoặc cặp và tất cả các nhóm/cặp cùng liên tục qua mỗi ngày, mỗi tiết học thậm chí qua<br />
làm việc một lúc. Tuy nhiên nhiệm vụ của mỗi mỗi dạng bài tập viết.<br />
nhóm/cặp có thể khác nhau. Mỗi giáo viên có thể<br />
có những cách thức tổ chức lớp khác nhau tuỳ (3) Trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm/cặp,<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
92 Số 2 - 7/2016<br />
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
giáo viên không phải là người truyền thụ những nhóm/cặp để tìm ra lỗi sai do chính mình mắc<br />
kiến thức có sẵn cho người học mà là người định phải. Sau khi họ tìm được lỗi sai và sửa lỗi sai, giáo<br />
hướng, tổ chức hoạt động, tạo điều kiện cho họ viên nhận xét và sửa lại nếu còn có thắc mắc.<br />
tiếp cận những đối tượng khác nhau của quá<br />
trình học tập, được trao đổi, học tập lẫn nhau, thể Bước thứ hai: Người học được yêu cầu đọc một bài<br />
hiện tính độc lập và chủ động trong việc tìm kiếm viết mẫu và thảo luận theo cặp để tìm ra lý thuyết<br />
tri thức mới. Khi nhóm/cặp đứng trước những viết văn hàn lâm dựa trên các câu hỏi đã được<br />
vấn đề không thể đi đến sự thống nhất thì giáo thiết kế sẵn. Bước thứ ba: Người học được yêu<br />
viên trở thành trọng tài khoa học, người cố vấn cầu tìm ý cho một chủ đề viết đã cho theo nhóm<br />
giúp họ tìm thấy điểm chung. Như vậy, trong hoạt 4 hoặc 5 để tìm ra những ý chính cho bài viết.<br />
động nhóm/cặp, người dạy trước hết là người<br />
hướng dẫn của người học, đồng hành với người Bước thứ tư: Người học được yêu cầu viết bản<br />
học trong phương pháp học và chỉ cho họ con đầu tiên dựa theo những ý mà đã được thảo luận<br />
đường khám phá tri thức. theo nhóm.<br />
<br />
2.4. Áp dụng phương pháp dạy viết quá trình Bước thứ năm: Người học được yêu cầu thực hiện<br />
vào dạy viết hoạt động sửa lỗi hoặc đánh giá bài viết theo cặp.<br />
Sau khi người học viết xong bản đầu tiên thì được<br />
Nhiều học giả đã đánh giá phương pháp viết quá yêu cầu đổi bài cho bạn và tiến hành hoạt động<br />
trình là một phương pháp đổi mới trong việc dạy đánh giá dựa trên những câu hỏi cho sẵn. Các câu<br />
viết hiện nay. Cheung (1999) coi phương pháp hỏi này được thiết kế dựa vào lý thuyết của từng<br />
này là một bước tiến quan trọng trong dạy và học dạng văn viết hàn lâm cụ thể nên ở mỗi bài cỏc<br />
viết trong suốt những năm qua. Leki (1991) cho câu hỏi được thiết kế khác nhau. Hơn nữa, giáo<br />
rằng phương pháp này được đánh giá cao hơn viên còn thiết kế thêm các câu hỏi nhằm giúp<br />
phương pháp truyền thống (viết sản phẩm) bởi người học không chỉ học lại lý thuyết mà còn bày<br />
nó coi trọng cả quá trình viết chứ không coi trọng tỏ bài học rút ra cho bản thân mình sau khi sửa<br />
sản phẩm cuối cùng. Zamel (1983) đã chứng minh lỗi cho bạn và cách giúp bạn sửa lỗi sai của mình;<br />
rằng nhờ tập trung vào cả quá trình viết, nội dung thậm chí bày tỏ quan điểm của mình về phương<br />
bài viết và ý nghĩa truyền tải hơn mà phương pháp dạy của giáo viên, cách tiến hành bài giảng<br />
pháp viết quá trình giúp cho học viên/sinh viên của giáo viên, gợi ý cho giáo viên một số cách để<br />
tự tìm tòi khám phá những suy nghĩ của mình, tự giảng bài sau dạy tốt hơn.<br />
tìm ra ý nghĩa của việc học viết cũng như tự đánh<br />
giá bài viết của mình. Jarvis (2002) cũng có những Bước thứ sáu: Người học được yêu cầu viết bản<br />
phát hiện tương tự về lợi ích của phương pháp thứ hai dựa trên những nhận xét ở phần sửa lỗi<br />
viết quá trình; đó là, phương pháp này khuyến hoặc đánh giá theo cặp. Vì thời gian ở lớp có hạn,<br />
khích được học viên/sinh viên truyền tải những nên giáo viên yêu cầu người học thực hiện hoạt<br />
thông điệp viết của mình một cách toàn diện và động này ở nhà. Sau đó, người học được yêu cầu<br />
rõ ràng nên khả năng về viết, đọc, ngữ âm, chính nộp lại cho giáo viên bản viết thứ nhất và thứ hai<br />
tả và ngữ pháp của học viên/sinh viên đều được kèm theo cả tờ nhận xét của hoạt động sửa lỗi<br />
phát huy. hoặc đánh giá bài viết.<br />
<br />
Để thực hiện tốt giải pháp này, giáo viên thường Bước thứ bảy: Giáo viên đọc tất cả các bài viết của<br />
tiến hành các bước sau: Bước thứ nhất: Giáo viên người học cũng như tờ sửa lỗi hoặc đánh giá theo<br />
sưu tập từ 5 đến 10 lỗi điển hình mà do chính cặp và chấm điểm, nhận xét chi tiết về thái độ<br />
người học mắc phải từ các bài viết của họ sau đó thực hiện công việc và sự tiến bộ của từng người<br />
chiếu lên máy chiếu hoặc in ra và phô tô thành học qua các bài viết cũng như đưa ra những gợi ý<br />
11 bản. Trước khi bài học được tiến hành người cần thiết để giúp bài viết tiếp theo tốt hơn. Mục<br />
học được yêu cầu dành 10 phút để thảo luận theo đích của hoạt động này là kiểm tra khả năng tiếp<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 2 - 7/2016 93<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
thu lý thuyết và vận dụng lý thuyết viết vào thực tờ tự đánh giá, chấm điểm của từng bài một cách<br />
tiễn của từng người học. Bên cạnh đó, giáo viên hệ thống và theo trình tự về mặt thời gian.<br />
có thể chỉnh sửa phương pháp dạy dựa theo<br />
những nhận xét và gợi ý mà học viên/sinh viên Bước thứ mười ba: Người học được yêu cầu phô tô<br />
đưa ra. Hơn nữa, giáo viên còn kiểm tra được độ toàn bộ tập bài và nộp cho giáo viên bản phô tô.<br />
nghiêm túc, tinh thần tự học và thái độ học hỏi<br />
lẫn nhau từ những lỗi sai của chính bản thân từng 2.5. Thiết kế nhiều dạng bài tập thực hành viết<br />
người học. và các hoạt động phục vụ cho việc dạy viết<br />
<br />
Bước thứ tám: Người học được yêu cầu viết bản Krashen (1982) khẳng định rằng, việc thiết kế tài<br />
thứ ba hoặc bản cuối nếu như bài viết thứ hai đã liệu dạy học và các hoạt động dạy học chính là<br />
khá hoàn chỉnh. Hoạt động này cũng được tiến một phương tiện quan trọng trong việc tiếp thụ<br />
hành ở nhà. Sau đó nộp lại cho giáo viên để được ngoại ngữ của người học vì đây là dữ liệu đầu vào<br />
chấm và sửa lỗi. quan trọng của quá trình tiếp thụ tri thức. Nhờ<br />
vậy, người học sẽ phát huy tính tích cực, chủ động,<br />
Bước thứ chín: Người học được yêu cầu thực hiện sáng tạo của mình. Hơn nữa, người học sẽ có<br />
hoạt động tự đánh giá cho bài viết của mình dựa nhiều cơ hội học tập thông qua các hoạt động đa<br />
trên các câu hỏi cho sẵn. Các câu hỏi này được dạng, kích thích sự tìm tòi, khám phá để tiếp cận<br />
thiết kế nhằm giúp họ tự nhìn lại quá trình viết ngày càng sâu trong quá trình học tập của mình.<br />
của mình để kiểm tra sự tiến bộ cũng như thái<br />
độ học tập của mình. Hơn nữa, các câu hỏi được Để thực hiện tốt giải pháp này, giáo viên cần<br />
thiết kế nhằm giúp họ tự học được những lỗi sai chuẩn bị các hoạt động và các dạng bài tập cho<br />
của chính bản thân mình và đưa ra các giải pháp một giờ dạy học viết thật kỹ lưỡng. Đây là hoạt<br />
tự hoàn thiện các bài viết của mình. Ngoài ra, các động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài<br />
câu hỏi này còn tạo cơ hội cho họ nhận xét về học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa<br />
phương pháp dạy của giáo viên. người dạy và người học, giữa người học với nhau<br />
nhằm đạt được những mục tiêu của bài giảng.<br />
Bước thứ mười: Người học được yêu cầu tự đánh<br />
giá về những khó khăn và thuận lợi của việc áp Giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu từng bài giảng,<br />
dụng phương pháp học viết quá trình vào học nội dung trọng tâm, trọng điểm của mỗi bài, các<br />
kỹ năng viết vào tờ phản hồi và cho điểm vào tờ trang thiết bị dạy học sẵn có, trình độ của người<br />
chấm điểm đã được thiết kế sẵn. Tờ tự chấm điểm học, sĩ số lớp học, độ tuổi người học, thời điểm<br />
này được thiết kế dựa trên những yêu cầu cơ bản dạy viết, thời lượng dành cho mỗi bài dạy viết,<br />
của văn viết hàn lâm theo chuẩn IELTS và mức độ đặc điểm tâm, sinh lỹ của người học để thiết kế<br />
hoàn thành từng hoạt động của người học cũng những hoạt động học viết, những bài tập dành<br />
như những nhận xét mà giáo viên đưa ra ở từng cho từng bài cụ thể một cách phù hợp.<br />
bài viết. Mục đích của tờ chấm điểm này là tạo cơ<br />
hội cho người học nhìn nhận lại cả quá trình học Sau đây là một số bước thiết kế một hoạt động<br />
viết một cách hệ thống cũng như tạo nên sự bình dạy và học viết:<br />
đẳng trong việc chấm điểm của họ vì số điểm<br />
của môn học là điểm trung bình chung của họ tự + Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ<br />
chấm và của giáo viên chấm. vào chuẩn kiến thức, kĩ năng, trình độ, năng lực,<br />
tâm sinh lý của người học và những nội dung<br />
Bước thứ mười một: Giáo viên chấm điểm cho trọng tâm, trọng điểm của bài.<br />
người học theo tờ chấm điểm.<br />
+ Bước 2: Nghiên cứu giáo trình và các tài liệu<br />
Bước thứ mười hai: Người học được yêu cầu sắp tham khảoliên quan đến bài dạy viết để hiểu<br />
xếp tất cả các bài viết và tờ đánh giá hoặc sửa lỗi, chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học;<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
94 Số 2 - 7/2016<br />
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
xác định những kiến thức, kỹ năng cần giảng tri thức của các bộ môn khác, những cơ sở hình<br />
dạy; xác định trình tự logic của bài học. Bước này thành thế giới quan khoa học.<br />
đòi hỏi giáo viên cần đọc kĩ nội dung bài học và<br />
hướng dẫn tìm hiểu bài trong giáo trình để hiểu, Tóm lại, việc thiết kế bài tập viết cho học viên,<br />
đánh giá đúng nội dung bài học rồi mới chọn sinh viên là vô cũng cần thiết. Tuy nhiên, giáo viên<br />
đọc thêm các tài liệu tham khảo để hiểu sâu, hiểu cần cân nhắc những yếu tố trên đây khi thiết kế<br />
rộng nội dung bài học. bài tập hợp lý và phù hợp với đối tượng nghiên<br />
cứu trên đây.<br />
+ Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm<br />
vụ của người học như: khối lượng kiến thức, kỹ 3. KẾT LUẬN<br />
năng cần giảng dạy ở từng bài, những kiến thức<br />
đã giảng dạy, dự kiến những khó khăn, những Trên đây là một số giải pháp chính nhằm nâng<br />
tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải cao kỹ năng viết cho học viên, sinh viên năm thứ<br />
quyết. Bước này đòi hỏi giáo viên không những ba Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa học Quân sự.<br />
phải nắm vững nội dung bài học mà còn phải hiểu Hy vọng rằng những giải pháp trên đây góp phần<br />
đối tượng người học để lựa chọn phương pháp nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh cho<br />
dạy viết phù hợp, phương tiện dạy học, các hình đối tượng người học này tại Học viện Khoa học<br />
thức tổ chức dạy học và các hoạt động cặp nhóm, Quân sự.<br />
hoạt động sửa lỗi, hoạt động đánh giá bài viết<br />
của người học sao cho phù hợp với yêu cầu đề ra. Tài liệu tham khảo:<br />
<br />
+ Bước 4: Lựa chọn phương pháp dạy viết phù 1. Chaudron, C. (2001). Second language<br />
hợp – thường là phương pháp dạy viết quá trình, classrooms: Research on teaching and learning.<br />
phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học Cambridge: Cambridge University Press. In<br />
và cách thức sửa lỗi thích hợp nhằm giúp người Celce-Murcia, M. (Ed.), (2001). Teaching English as<br />
học học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Bước a second or foreign Language (3rd ed.). New York:<br />
này đòi hỏi giáo viên cần quan tâm tới việc phát Heinle & Heinle.<br />
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn<br />
luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần 2. Cheung, M. (1999). The process of innovation<br />
hợp tác, tinh thần học tập theo cặp, nhóm trong adoption and teacher development, Education<br />
những tình huống khác nhau trong học tập và and Research in Education, 13, 2, pp.55-75,<br />
trong thực tiễn; tác động đến tư tưởng và tình<br />
cảm để đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập 3. Ferris, D. (1999). The Case for Grammar<br />
cho người học. Correction in L2 Writing Classes: A Response<br />
to Truscott. (1996). Journal of Second Language<br />
+ Bước 5: Thiết kế bài tập và hoạt động viết. Ở Writing, 8(1), pp.1-11.<br />
bước này, giáo viên thiết kế nội dung, nhiệm vụ,<br />
cách thức hoạt động, thời gian và mục tiêu, yêu 4. Flower, L., & Hayes, J. (1981). A cognitive<br />
cầu cần đạt được cho từng hoạt động dạy của process theory of writing. College Composition<br />
giáo viên và hoạt động học tập. Về phân tích nội and Communication, 32(4), pp. 365-387.<br />
dung các bài trong giáo trình, thường phải phân<br />
tích về lý thuyết viết. Hơn nữa, cần xác định khối 5. Harmer J. (2004). How to Teach English. London:<br />
kiến thức mới và mối liện hệ với kiến thức đã học. Longman.<br />
Cuối cùng là, giáo viên cần xác định hệ thống các<br />
bài luyện tập vận dụng tri thức tại lớp và ở nhà; 6. Hedgcock, J. and Lefkowitz, N. (1996). Some<br />
cách hướng dẫn người học giải quyết thông qua Input on Input: Two Analysis on Student<br />
biện pháp liên hệ nội nội dung tài liệu học tập với Response to Expert Feedback in L2 Writing. The<br />
cuộc sống, với thực tiễn xây dựng đất nước, với Modern Language Journal, 80(3), pp. 287 – 308.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 2 - 7/2016 95<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
7. Hyland, K. (2003). Second Language Writing. MAJOR SOLUTIONS TO IMPROVING THE<br />
CUP. QUALITY OF TEACHING AND LEARNING<br />
WRITING SKILLS FOR THIRD-YEAR STUDENTS<br />
8. Jarvis, D. J. (2002). The Process Writing Method.<br />
OF THE ENGLISH DEPARTMENT AT MILITARY<br />
The Internet TESL Journal, 8(7). Available at<br />
SCIENCE ACADEMY<br />
http://iteslj.org/Techniques/Jarvis-Writing.html.<br />
Retrieved on September, 26th 2006.<br />
Abstract: Improving the quality of teaching and<br />
9. Krashen, S. (1982). Principles and practice in learning of the 4 English skills in general, writing<br />
second language acquisition. Oxford: Pergamon skills in particular has been considered one of the<br />
Press. first priorities at the Military Science Academy.<br />
This study focuses on seeking major solutions to<br />
10. Leki, I. (1991). Teaching Second Language improving the quality of teaching writing skills for<br />
Writing: Where We Seem to Be. English Teacher the third-year students at the English Department<br />
Forum. April, 8(11). – Military Science Academy (MSA). The paper<br />
11. Long, M., & Porter, P. (1985). Group work, also points out that the solutions depend mainly<br />
interlanguage talk and second language on three major groups of factors: the teaching<br />
acquisition. TESOL Quarterly, 19(2), pp. 207-227. staff, learners and education managers. All the<br />
findings are based on the results of surveys,<br />
12. Paulus, T. M. (1999). The Effect of Peer and questionnaires, interview and experiments.<br />
Teacher Feedback on Student Writing. Journal of Hence, they hopefully serve as useful references<br />
Second Language Writing, 8(3), pp. 265 – 289. for deeper studies related to teaching and writing<br />
skills at MSA.<br />
13. Ur, P. (1999). A Course in Language Teaching.<br />
Cambridge: CUP.<br />
Keywords: solution, writing skills, error correction,<br />
14. Zamel, V. (1983). The composing process of teaching methodology<br />
advanced ESL students: Six case studies. TESOL<br />
Quarterly, 17, pp.165–187. Ngày nhận: 15/7/2016<br />
Ngày phản biện: 25/7/2016<br />
Ngày duyệt đăng: 28/7/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
96 Số 2 - 7/2016<br />