NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
MỘT SỐ KHÓ KHĂN<br />
KHI GIẢNG DẠY TÁC PHẨM<br />
“TRUYỆN KIỀU” CHO HỌC VIÊN<br />
QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI<br />
TRẦN THỊ THU HIỀN<br />
Học viện Khoa học Quân sự<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX). Hầu<br />
như tất cả các nhà nghiên cứu, bình luận Truyện Kiều đều khẳng định Nguyễn Du là bậc thầy của ngôn<br />
ngữ dân tộc, là người đã nâng ngôn ngữ văn học dân tộc của thời đại lên một đỉnh cao chói lọi. Và có<br />
thể nói, bất cứ người Việt Nam dù ở lứa tuổi nào cũng đều đọc Truyện Kiều; có người thuộc dăm bảy câu,<br />
có người thuộc nhiều đoạn, có người thuộc cả Truyện Kiều, thậm chí có người còn “đọc ngược” Truyện<br />
Kiều. Chính vì, Truyện Kiều là một tác phẩm nổi tiếng của một giai đoạn văn học Việt Nam nên việc giảng<br />
dạy tác phẩm này cho học viên quân sự nước ngoài (chuyên ngành Việt Nam học) cũng vấp phải một số<br />
khó khăn. Vấn đề là người dạy phải tìm cách vượt qua những khó khăn ấy để chuyển tải đến người học<br />
những vấn đề thuộc về nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm. Từ đó, khơi gợi niềm yêu thích<br />
tìm hiểu, khám phá những cái hay, cái đẹp có trong mỗi tác phẩm văn học Việt Nam nói chung và văn<br />
học trung đại nói riêng.<br />
Từ khóa: giảng dạy, học viên quân sự nước ngoài , khó khăn, tác phẩm, Truyện Kiều<br />
<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU dường như học viên phải “học” tác phẩm Bình Ngô đại<br />
cáo, Truyện Kiều, Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn<br />
Một nhà sử học Ôxtrâylia đã dùng khái niệm “Sự Khuyến,… qua sự áp đặt của khung chương trình môn<br />
chuyên chế của những khoảng cách” để nói về đặc học và người giảng viên giảng dạy trên lớp. Chính mâu<br />
thù không gian của thiên nhiên trên một đất nước thuẫn này đã khiến người giảng viên văn học phải tạo<br />
đồng thời là cả một lục địa – Ôxtrâylia”. Có thể dùng ra cho học viên niềm yêu thích, sự rung cảm, hứng<br />
khái niệm đó để biểu đạt tính chất khó khăn của việc thú khi tìm hiểu tác phẩm văn học thời trung đại.<br />
đưa tác phẩm văn học quá khứ – đặc biệt là di sản văn<br />
học viết của 10 thế kỉ xây dựng quốc gia phong kiến Hơn nữa, đối tượng giảng dạy của tác phẩm Truyện<br />
độc lập (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, mà chúng ta Kiều là học viên quân sự nước ngoài được đào tạo<br />
quen gọi là Văn học trung đại Việt Nam) – đến với thế theo chương trình Cử nhân Việt Nam học tại Học<br />
hệ trẻ Việt Nam nói chung và các bạn học viên nước viện Khoa học Quân sự. Thời điểm học viên được tiếp<br />
ngoài (đang được đào tạo ở Học viện Khoa học Quân xúc với môn Văn học trung đại Việt Nam nói chung<br />
sự) nói riêng. Những người giảng viên văn học đã gặp và tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du nói riêng<br />
phải một “bi kịch” trong cuộc đời nghề nghiệp của là Học kì I của năm thứ tư – năm học trước khi kết<br />
bản thân là bởi mặc dầu thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn thúc cả quá trình đào tạo. Lúc này, học viên đã được<br />
Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…và trang bị khá nhiều vốn kiến thức về văn hóa, ngôn<br />
nhiều tác gia khác đã đạt đến giá trị kiệt tác nhưng ngữ (Trừ một số học viên gặp phải một chút khó<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 3 - 9/2016 95<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
khăn về ngôn ngữ). Đó là những điều kiện thuận Việc giảng dạy một tác phẩm văn học trung đại như<br />
lợi cho việc tiếp cận một tác phẩm văn chương. Tuy vậy đòi hỏi phải có sự “tái hiện khung cảnh không<br />
nhiên, vì Truyện Kiều là một tác phẩm được đánh giá gian và thời gian lịch sử”, phải “gây được không khí<br />
cao trong nền văn học dân tộc Việt Nam – là “kiệt lịch sử” cho các học viên. Để làm được điều này, giảng<br />
tác số một trong lịch sử văn học dân tộc” và thời viên cần phải có một vốn liếng tri thức lịch sử văn hóa<br />
gian dành cho việc học tác phẩm Truyện Kiều không xã hội để thông tin tới học viên, để họ có thể hiểu,<br />
nhiều – khoảng 15 tiết/120 tiết cho cả môn học nên “nhập thân” vào hoàn cảnh, vào cuộc sống quá khứ<br />
đòi hỏi học viên nước ngoài phải nỗ lực rất nhiều. cũng như tính cách, số phận của nhân vật, tạo nền<br />
tảng cho sự lĩnh hội tác phẩm.<br />
Như vậy, cũng như nhiều tác phẩm văn học trung<br />
đại khác, để đến được với tác phẩm Truyện Kiều, cảm Một khoảng cách cơ bản nữa cần nêu lên là sự khác<br />
nhận được những cái hay, cái đẹp của tác phẩm ấy, biệt trong phong cách nghệ thuật, nhất là sự khác<br />
học viên quân sự nước ngoài đã phải vượt qua bao biệt trong phong cách ngôn ngữ giữa văn học hiện<br />
hàng rào ngăn cách, đã phải “chống chọi” lại với “uy đại và văn học trung đại – vốn là hai phạm trù văn học<br />
quyền của những khoảng cách”…Và đó là những khác nhau. Đây là vấn đề cần xử lí trước tiên khi tiếp<br />
khoảng cách nào? cận văn bản quá khứ – bởi ngôn ngữ là yếu tố đầu<br />
tiên, là đơn vị cơ bản của một văn bản văn học. Đối<br />
2. NỘI DUNG với học viên nước ngoài, khi tìm hiểu một tác phẩm<br />
văn học nói chung đã rất khó khăn, đằng này lại là tác<br />
2.1. Những khoảng cách giữa Truyện Kiều và phẩm văn học cổ điển. Bởi khi đó, học viên vấp phải<br />
người học một hàng rào ngôn ngữ tiếng Việt (mặc dù đã được<br />
trang bị nhưng chưa đủ), những từ ngữ khó, những<br />
Trước hết, đó là khoảng cách về không gian và thời địa danh, những điển tích, điển cố, thi liệu, văn liệu…<br />
gian lịch sử. Không riêng gì học viên nước ngoài, mà xa lạ, khó hiểu. Ở đây, rất cần một khâu “trung gian<br />
ngay cả người Việt Nam ở tất cả các lứa tuổi đều gặp phiên dịch” những ngôn từ “khô khan” trong giáo<br />
phải khó khăn khi tiếp cận với một tác phẩm văn học trình hoặc cả những lời giải thích của giảng viên trên<br />
trung đại bởi chiều dài của thời gian lịch sử…Và đó bục giảng. Có những học viên không đọc các chú giải,<br />
cũng không đơn giản chỉ là câu chuyện của thời gian hoặc chỉ đọc khi buộc phải hiểu để trả lời câu hỏi của<br />
mà còn là sự khác biệt của loại hình xã hội, của cuộc giảng viên. Thậm chí, ngay cả lời giải thích của thầy<br />
sống. Thời đại Truyện Kiều là sự ngự trị của vương cô giáo, học viên cũng không hứng thú nghe, có học<br />
quyền; ngày nay chúng ta đang đấu tranh xây dựng viên còn không hiểu (mặc dù, giảng viên đã cố gắng<br />
một xã hội mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. giải thích bằng các từ ngữ đơn giản nhất). Hoặc nếu<br />
Hơn nữa, sự phát triển của lịch sử cũng đem đến biết có nghe, có hiểu thì quá trình lĩnh hội, tiếp nhận tác<br />
bao sự biến đổi mãnh liệt, sâu sắc, trong đó có sự biến phẩm cũng không liền mạch, do đó, phần nào hạn<br />
chế sự rung cảm, làm giảm đi sự hứng thú khi tìm<br />
đổi về phong cách sinh hoạt, ứng xử. Những cô gái<br />
hiểu tác phẩm văn học.<br />
ngày nay chắc khó có thể rung động trước trang phục<br />
của một Kim Trọng “Cỏ pha màu áo nhuộm non da Như vậy, có biết bao khoảng cách cần phải vượt qua<br />
trời” bởi họ chỉ biết có những chàng trai màu quần khi đưa một tác phẩm văn học cổ điển đến với học<br />
jeans, áo vest! viên quân sự nước ngoài. Tuy nhiên, trong phạm vi<br />
bài viết này, chúng tôi chỉ xin dừng lại nói sâu hơn về<br />
Tiếp đó là khoảng cách tâm lí học. Có lẽ nhịp sống<br />
ngôn ngữ văn bản, nhất là ngôn ngữ nhân vật trong<br />
“tên lửa” dồn dập, sự bùng nổ của thời đại “công nghệ<br />
tác phẩm Truyện Kiều.<br />
thông tin” cùng với biết bao lo toan của cảnh sống xa<br />
quê hương, đất nước đã khiến cho đại đa số học viên 2.2. Khoảng cách ngôn ngữ trong tác phẩm<br />
nước ngoài không có thì giờ, tâm trí và cả sự hứng<br />
thú với việc vùi đầu hàng giờ, hàng ngày vào một Có thể nói, nhân vật văn học không phải từ trên trời rơi<br />
cuốn tiểu thuyết hiện đại, chứ chưa nói gì đến Truyện xuống, mà nó bắt nguồn từ mẫu hình có thực trong<br />
kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn cuộc sống đời thường được nhà văn gia công, thổi vào<br />
Du… – những cái hoàn toàn xa lạ, khó hiểu, nhàm nó cái hồn và điển hình hóa bằng nhiều biện pháp<br />
chán đối với họ. nghệ thuật. Và việc tìm hiểu ngôn ngữ là điều quan<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
96 Số 3 - 9/2016<br />
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
trọng nhất, nếu không muốn nói là duy nhất để hiểu trong đó nhân vật “tự bạch” hay đối thoại. Cũng như<br />
nhân vật, bởi cuộc sống của nhân vật trong tác phẩm con người thực, nhân vật văn học là một chỉnh thể<br />
tùy thuộc vào khả năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả. sống động; khi tìm hiểu ngôn ngữ không thể quên<br />
chỉnh thể đó. Còn việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại<br />
Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện hay đối thoại là để góp phần minh họa thêm, làm<br />
quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện sáng tỏ hơn những yếu tố thuộc về bản chất của nhân<br />
cuộc sống và cá tính nhân vật. Trong tác phẩm, nhà vật. Tất nhiên, trước khi phân tích ngôn ngữ một nhân<br />
văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều vật nào đó, chúng ta phải hiểu đầy đủ và sâu sắc vai<br />
cách: nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm trò, vị trí và quá trình phát triển của nhân vật ấy trong<br />
đặc biệt của nhân vật; cho nhân vật lặp lại những từ, tác phẩm.<br />
câu mà nhân vật thích nói, kể cả từ vay mượn và từ<br />
địa phương… 2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại<br />
<br />
Theo ý kiến của M. Gorki, thành phần ngôn ngữ nhân Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật là lời nói mà nhân<br />
vật bao gồm: một bộ phận ngôn ngữ do “tác giả lấy từ vật trao đổi với một hay nhiều nhân vật khác để bày<br />
các nhân vật trong thực tế ra làm tài liệu”, “dùng vốn tỏ quan điểm, thái độ, ý kiến…của mình trước vấn đề<br />
kinh nghiệm tri thức bản thân gọt giũa lại” và một bộ mà mình đang quan tâm.<br />
phận khác “hư cấu” nên để nói nốt cho họ những điều<br />
mà họ chưa có dịp nói, hoặc tiếp tục nốt những hành Trong văn học trung đại Việt Nam, nếu ngôn ngữ độc<br />
động mà họ chưa kịp làm nhưng chắc chắn phải làm. thoại được sử dụng chủ yếu cho các nhân vật trong<br />
khúc ngâm (như Chinh phụ ngâm khúc của tác giả<br />
Ta có thể xem bộ phận thứ nhất là ngôn ngữ của chính Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm; Cung oán<br />
nhân vật, gồm có ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều…) thì ngôn ngữ đối<br />
thoại. Đây là phần quan trọng nhất của tác phẩm. Bộ thoại lại được sử dụng nhiều cho các nhân vật trong<br />
phận thứ hai thường được mệnh danh là ngôn ngữ truyện thơ tự sự. Do vậy, ta có thể dễ dàng lí giải tại<br />
câm – là ngôn ngữ tác giả nói thay cho nhân vật. sao ngôn ngữ đối thoại trong Truyện Kiều chiếm tỉ lệ<br />
khá cao so với ngôn ngữ độc thoại.<br />
Nhìn khái quát, ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều<br />
mang tính truyền thống rõ rệt. Tuy vậy, phần sáng tạo Hãy lấy nhân vật Tú Bà để xem xét. Mụ được miêu tả<br />
đặc sắc trên cơ sở truyền thống là công lao lớn của là người làm nghề buôn thịt bán người: “Thoắt trông<br />
Nguyễn Du. Bên cạnh ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng nhờn nhợt màu da/Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao!”. Người<br />
còn có ngôn ngữ đời sống phong phú và đậm đà màu đọc đã gặp mụ trong trong cơn tam bành, thực chất<br />
sắc hiện thực chủ nghĩa. Nói cách khác, có nhiều từ là một cuộc sát phạt ác liệt mà mụ giáng lên đầu Mã<br />
ngữ sáo mòn, ngoại lai xen lẫn vào giữa kho tàng từ Giám Sinh và Thúy Kiều. Đây mới chỉ là một khoảnh<br />
ngữ thuần Việt mộc mạc, chân chất, giản dị mà trong khắc. Để hoàn thành nốt chân dung nhân vật có một<br />
sáng, giàu chất sống hiện thực. không hai này, Nguyễn Du đã đặt nhân vật trong các<br />
màn đối thoại.<br />
Có ý kiến cho rằng: “Ngôn ngữ có nhiều tính chất<br />
ước lệ trong Truyện Kiều chủ yếu được sử dụng cho Màn 1:<br />
các nhân vật chính diện” (Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Cửa hàng buôn bán cho may,<br />
Quan, Kim Trọng,..) và “ngôn ngữ có nhiều thành Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu.<br />
phần hiện thực chủ nghĩa được sử dụng nhiều hơn Muôn nghìn người thấy đều yêu,<br />
cho các nhân vật phản diện” (Tú Bà, Mã Giám Sinh, Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai.<br />
Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh…). Đối với các nhân vật Tin nhạn vẩn, lá thơ bài,<br />
chính diện thì thành phần ước lệ trong ngôn ngữ bị Đưa người cửa trước, rước người cửa sau.<br />
phá vỡ dần và thành phần hiện thực chủ nghĩa được<br />
tăng cường khi con người đi sâu vào cuộc sống có Tú Bà đang đối thoại (khấn vái) với Thành hoàng của<br />
nhiều xung đột. nghề mụ: Thần mày trắng – đó là thần hộ mệnh. Dù<br />
vốn vô học và cộc cằn nhưng mụ cũng phải lựa chọn<br />
Vậy điều cần làm để tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật là sao cho lời khấn thể hiện được nội dung khẩn cầu,<br />
chúng ta đi sâu phân tích những hoàn cảnh cụ thể, vừa trang trọng đối với tổ nghề, vừa diễn đạt đúng và<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 3 - 9/2016 97<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
đủ điều cần thiết của “cửa hàng” để thần biết mà phù hạnh, khi nét ngài, khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười<br />
trợ. Nội dung khẩn cầu là gì? Có được món hàng mới, cợt hoa).<br />
cửa hàng sẽ phát đạt, rất đông khách (hai câu đầu);<br />
được khách quyến luyến, ưa chuộng (hai câu giữa); Nói chung, những từ ngữ trong màn đối thoại trên chỉ là<br />
câu khách và giữ được khách làng chơi không ngớt những từ ngữ thông dụng ở “miền nguyệt hoa”, dù trôi<br />
lui tới (hai câu cuối). chảy, mềm mỏng đến đâu vẫn không đánh lừa được<br />
ai, đúng như cảm nhận của Thúy Kiều: “Những nghe<br />
Dù là ngôn ngữ đời sống hay ngôn ngữ ước lệ thì nói đã thẹn thùng/Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!”<br />
cũng phải diễn đạt sao cho đúng là lời của mụ trùm<br />
nhà chứa. Vậy thì, “Cửa hàng buôn bán cho may”, “Đưa Sử dụng những từ ngữ rất đúng chỗ và đắt nghĩa<br />
người cửa trước, rước người cửa sau” là lời lẽ của mụ kể trên, nhà thơ Nguyễn Du đã dựng lên một màn<br />
chủ bán dâm đích thực, chẳng cần tô vẽ gì nữa. Còn đối thoại hết sức độc đáo và hiếm hoi: Đối thoại mà<br />
ngôn ngữ ước lệ cũng chỉ bao gồm một số từ ngữ vẫn như độc thoại! Mở màn, Tú Bà dạy cho Kiều biết<br />
như: “Hàn Thực, Nguyên Tiêu” – đó là những kì lễ tết tâm lí chung của khách làng chơi; tiếp theo, mụ trao<br />
trong năm, ai cũng biết; hoặc “anh yến, trúc mai”, “tin đổi những từng trải nghề nghiệp mà mụ đã đúc kết<br />
nhạn, lá thơ” thông dụng ở chốn lầu xanh. Ngay cả lời được suốt “đời mưa gió” của mụ, với lời súc tích mà<br />
khấn thần cũng mang dấu ấn giọng lưỡi Tú Bà không giọng hả hê; cuối cùng, mụ khép lại bằng những lời<br />
lẫn vào đâu được! khích lệ.<br />
<br />
Màn 2: Như vậy, có thế thấy Nguyễn Du đã trao cho nhân<br />
Mụ rằng: “Ai cũng như ai vật của mình dù mới chỉ là ở màn đối thoại, lời ăn<br />
Người ta ai mất tiền hoài đến đây. tiếng nói rất phù hợp với vai trò, vị trí và tính cách của<br />
Ở trong còn lắm điều hay, nhân vật trong từng văn cảnh cụ thể của tác phẩm.<br />
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.<br />
Này con thuộc lấy làm lòng, 2.2.2. Ngôn ngữ độc thoại<br />
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.<br />
Chơi cho liễu chán hoa chê, Ngôn ngữ độc thoại được xem là “tiếng lòng” của nhân<br />
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời! vật phát ra một cách trung thực sự rung cảm của mình<br />
Khi khóe hạnh, khi nét ngài, trước thiên nhiên và xã hội. Chỉ có qua ngôn ngữ độc<br />
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa. thoại, người đọc tác phẩm mới có thể cảm nhận được<br />
Đều là nghề nghiệp trong nhà, đầy đủ và sâu sắc tâm tư, tình cảm, ý nghĩ, tức là đời<br />
Đủ ngần ấy nết, mới là người soi” sống nội tâm của nhân vật.<br />
<br />
Có người gọi màn này là màn Tú Bà dạy nghề! Sau Sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm là thành tựu<br />
khi ra uy khuất phục được Thúy Kiều chịu tiếp khách, xuất sắc nhất của văn học. Các kiệt tác của nhiều đại<br />
Tú Bà đổi giọng hoàn toàn. Mụ không còn cất lên cái thi hào có tầm cỡ thế giới đều trở nên sống động, hấp<br />
giọng the thé với những lời nhiếc móc, xỉa xói tục tĩu dẫn vì các tác giả đã sử dụng kì tài ngôn ngữ độc thoại<br />
của cái thời mụ nổi cơn tam bành mà lời lẽ thẽ thọt nội tâm của các nhân vật. Đây cũng là một thành tựu<br />
trở nên lụa là, ngọt xớt với thái độ ân cần mơn trớn. nổi bật của văn học trung đại Việt Nam.<br />
Mụ tỉ tê với Kiều như những lời “tự bạch”.<br />
Truyện Kiều của Nguyễn Du là truyện thơ đỉnh cao,<br />
Nguyễn Du hầu như chỉ dùng ngôn ngữ thuần Việt đạt được nhiều thành tựu xuất sắc nhất về mặt sử<br />
nhưng hình tượng hiện lên vẫn có tính ước lệ vì nhà dụng ngôn ngữ nhân vật. Trong phần giới thiệu về<br />
thơ không muốn khui ra đủ thứ dơ dáy, bẩn thỉu của ngôn ngữ độc thoại của nhân vật, chúng ta đã phần<br />
cái nghề bán dâm của mụ. Dù vậy, cái cảnh đam mê nào thấy được thần bút của tác giả. Hơn nữa, tất cả<br />
đến trác táng vẫn cứ hiện ra nửa kín nửa hở bởi vì các nhân vật trong Truyện Kiều còn có đời sống nội<br />
ngôn ngữ thơ ở cảnh này vẫn có khả năng gợi tả tâm phong phú. Chính nhờ ngôn ngữ độc thoại nội<br />
bằng các hình thức tu từ như: ẩn dụ (khép mở, riêng tâm mà người đọc nắm được cái thần của nhân vật.<br />
chung, bảy chữ, tám nghề); nhân hóa (liễu chán hoa<br />
chê); đảo ngữ (lăn lóc đá, mê mẩn đời) và đặc biệt là Đọc Truyện Kiều, ai cũng biết Tú Bà, Sở Khanh “lưu<br />
điệp ngữ cho và khi hết sức nổi trội (cho liễu chán manh” vì những màn đối thoại. Ngược lại, nhiều nhân<br />
hoa chê, cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời; khi khóe vật khác lại trở nên bất hủ vì những màn độc thoại nội<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
98 Số 3 - 9/2016<br />
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
tâm. Hãy đến với nhân vật Thúy Kiều với một vài khúc đình. Điều đang làm cho lòng nàng “thổn thức đầy”<br />
ngoặt trong cuộc đời để thấy rõ điều đó. chưa phải là những dự cảm về những nỗi bất hạnh<br />
mà nàng gặp phải trên con đường lưu lạc. Mà nỗi<br />
Suốt nhiều chặng đường trong cuộc đời mình, Thúy ái ngại trước hết, nàng dành cho Kim Trọng. Chàng<br />
Kiều đã có bao lần thao thức trăn trở về số phận, đang ở tít tận “trời Liêu”, vậy nên nỗi ái ngại càng tăng<br />
về vận mệnh của mình. Thi hào Nguyễn Du đã ghi lên bội phần. Lời thơ, tiếng nói độc thoại của chính<br />
nhận “những biến động con tim” ấy bằng những lời nàng hết sức xao xuyến: “Vì ta khăng khít…”, “thôi đã<br />
độc thoại hoàn toàn thích hợp và sắc sảo. Mỗi chặng phũ phàng”, “Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà, tự tôi!”. Nàng<br />
đường, mỗi cảnh ngộ, tâm trạng Kiều diễn biến khác tự trách mình, tự kết tội mình! Chính vì vậy mà nỗi<br />
nhau, không lần nào giống lần nào. Kể từ sau buổi đau đến xé lòng cứ dâng lên từng đợt, đợt sau mạnh<br />
dự lễ hội Đạp thanh cho đến các chặng đường khổ hơn đợt trước. Đỉnh cao của những cơn bão lòng<br />
ải tiếp theo: bán mình, trao duyên, thất thân với Mã dồn cả vào câu: “Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà, tự tôi!”.<br />
Giám Sinh, bị mắc lừa Sở Khanh, bị đày đọa dưới Câu thơ được ngắt nhịp liên tiếp, lại được bổ sung<br />
trướng Hoạn Thư, sống tủi nhục trong lầu xanh, trẫm bằng thành ngữ “rẽ cửa, chia nhà” đầy xốn xang.<br />
mình trên sông nước Tiền Đường… Dường như lúc<br />
nào nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du cũng có mặt bên Đúng theo quy luật của phát triển tâm lí, càng ái<br />
cạnh nàng để ghi nhận bấy nhiêu tâm trạng. ngại cho chàng Kim bao nhiêu thì Thúy Kiều càng ái<br />
ngại cho mình bấy nhiêu! Nàng coi mình là kẻ đắc<br />
Diễn biến nội tâm Thúy Kiều sau buổi du xuân: tội, biết có cách nào gỡ cho được tội? Đang nói đến<br />
chàng Kim, lời thơ chuyển sang giọng thương mình<br />
Người mà đến thế thì thôi, da diết: “Kiếp này, thôi thế thì thôi, còn gì?”. Câu thơ<br />
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! vang lên như một lời tuyệt vọng. Những hình ảnh<br />
Người đâu gặp gỡ làm chi, hiện lên từ những điển cố “tái sinh”, “nợ tình” như dắt<br />
Trăm năm biết có duyên gì hay không? nhân vật vào cõi âm mịt mờ khổ ải! Đọc đến đây, ai<br />
mà không ái ngại cho một kiếp người đầy oan khuất!<br />
Hai cặp lục bát kết tinh hai nỗi vương vấn, băn khoăn<br />
về cuộc đời: Những gì đã qua sao mà phũ phàng đến Nội tâm Thúy Kiều trước giờ tự trẫm mình:<br />
thế! Những gì đang e ấp chớm nở liệu có hi vọng gì<br />
không? Hai diễn biến tâm trạng về quá khứ và hiện tại Rằng: “Từ Công hậu đãi ta,<br />
dường như là một nghịch lí gây nên nỗi băn khoăn, day Xót vì việc nước mà ra phụ lòng<br />
dứt đối với con người đa sầu đa cảm như Thúy Kiều. Giết chồng mà lại lấy chồng,<br />
Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời.<br />
Nội tâm Thúy Kiều trước lúc trao duyên: Thôi thì một thác cho rồi,<br />
Tấm lòng phó mặc trên trời, dưới sông!”<br />
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,<br />
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời. Sau khi bị Hồ Tôn Hiến phản bội, bị làm nhục, Thúy<br />
Công trình kể biết mấy mươi, Kiều hết đường tính liệu. Nàng đã quyết định đi tìm<br />
Vì ta khăng khít, cho người dở dang. cái chết! Rồi một đêm, trên sông nước Tiền Đường,<br />
Thề hoa chưa ráo chén vàng, ruột rối tơ vò, lòng tràn đầy ân hận và oan khuất, nàng<br />
Lỗi thề, thôi đã phũ phàng với hoa. đã “gieo mình xuống dòng tràng giang”. Đây là những<br />
Trời Liêu non nước bao xa, lời trăn trối cuối cùng kết thành một tấn bi kịch thê<br />
Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà, tự tôi! thảm của một kiếp người tài sắc.<br />
Biết bao duyên nợ thề bồi,<br />
Kiếp này, thôi thế thì thôi, còn gì? Lời đầu tiên đầy trang trọng, nàng dành cho ân nhân<br />
Tái sinh chưa dứt hương thề, vĩ đại Từ Hải. Cũng như lần trước, khi đối mặt với kẻ<br />
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. thù, nàng hùng hồn khẳng định: “Rằng Từ là đấng anh<br />
Nợ tình chưa trả cho ai, hùng/Dọc ngang trời rộng, vẫy vùng biển khơi”. Lần<br />
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan! này, nàng tôn vinh Từ Hải: “Rằng: Từ Công hậu đãi ta”<br />
bởi vì, trong nhận thức, trong tâm tưởng của nàng, Từ<br />
Trước cơn gia biến, những gì có thể làm được thì Hải vừa là anh hùng, vừa là ân nhân. Phải chăng, những<br />
Thúy Kiều đã làm để vãn hồi hạnh phúc cho gia đình lời tôn vinh ấy như để nàng phần nào chuộc lại cái lỗi<br />
trong muôn một. Nàng sắp phải rời khỏi tổ ấm gia lầm hết sức tai hại của mình? Tiếp đến, trở lại với mình,<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 3 - 9/2016 99<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
nàng dày vò mình, tự buộc tội mình đã làm nên tội lớn Tài liệu tham khảo:<br />
không thể dung tha! Ngôn ngữ thuần Việt mà quyết<br />
liệt, dữ dội, dứt khoát. Âm điệu câu thơ láy đi láy lại chì 1. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên), Nguyễn Hữu Sơn, Vũ<br />
chiết, thắt buộc, phản ánh chân thực tâm trạng của Thanh (1999), Nguyễn Du – về tác giả và tác phẩm, NXB<br />
người đang trăn trối: hối hận, đau đớn, tiếc thương…. Giáo dục, Hà Nội.<br />
<br />
Người đời có thể trách Thúy Kiều nhưng không ai 2. Lê Bá Hán (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc<br />
không hiểu rõ nỗi oan khuất của đời nàng. Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục,<br />
Hà Nội.<br />
Như vậy, phân chia ngôn ngữ nhân vật thành hai bộ<br />
phận: đối thoại và độc thoại là để dễ thấy ưu thế và 3. Đặng Thanh Lê (1999), Truyện Kiều và thể loại truyện<br />
đặc điểm của từng bộ phận, đồng thời nhận ra tính Nôm, NXB Giáo dục, Hà Nội.<br />
chính xác, tinh vi, tế nhị và sức biểu đạt đặc sắc của<br />
nhân vật trong từng cảnh ngộ cụ thể. Một trong 4. Đặng Thanh Lê (1999), Giảng văn Truyện Kiều, NXB<br />
những yếu tố làm nên thành công của một tác phẩm Giáo dục, Hà Nội.<br />
là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Dù là ngôn ngữ đối<br />
thoại, độc thoại của nhân vật hay ngôn ngữ trực tiếp 5. Hoàng Hữu Yên (2003), Cái hay, cái đẹp của tiếng Việt<br />
của tác giả viết về nhân vật đều nhằm mục đích trao trong Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội.<br />
cho nhân vật một diện mạo ngoại hình và đời sống<br />
nội tâm sinh động đúng như vai trò, vị trí của nhân vật<br />
trong tác phẩm. Với kiệt tác Truyện Kiều, bằng nhiều<br />
SEVERAL DIFFICULTIES IN TEACHING “TRUYEN<br />
bút pháp nghệ thuật trác tuyệt, trong đó có bút pháp<br />
KIEU” FOR FOREIGN MILITARY STUDENTS<br />
sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại chính xác,<br />
sắc sảo; thi hào Nguyễn Du đã tạo nên cả một thế giới TRAN THI THU HIEN<br />
nhân vật chân thực, sinh động, dễ nhận mặt…, sống<br />
Abstract: “Truyen Kieu” by Nguyen Du is a<br />
mãi trong lòng các thế hệ người đọc.<br />
masterpiece in Vietnamese medieval literature<br />
(from 10th to 19th century). Almost all literary<br />
3. KẾT LUẬN<br />
researchers and critics of ”Truyen Kieu” assert<br />
Những khó khăn đặt ra nói trên trong tác phẩm that Nguyen Du was a master of national<br />
Truyện Kiều của Nguyễn Du không thể được giải quyết language, who at that time raised Vietnamese<br />
một cách đầy đủ, thích đáng chỉ trong một sớm, một language to a glorious climax. It can be seen<br />
that Vietnamese people of all ages read “Truyen<br />
chiều và ở những bài viết lẻ tẻ vì yêu cầu phạm vi vấn<br />
Kieu”, some remember a few sentences, some<br />
đề cùng năng lực chủ quan của người viết. Ví dụ như,<br />
many parts, some learn “Truyen Kieu” by heart,<br />
vấn đề khoảng cách tâm lí học đòi hỏi được nghiên<br />
some even read it backward. As “Truyen Kieu” is a<br />
cứu trên quan điểm liên ngành xã hội học–văn học.<br />
well-known literary work in a period of Vietnam’s<br />
Trong các lĩnh vực tri thức nói trên, sự hiểu biết về<br />
literature, teaching it for foreign military students<br />
những phạm trù văn hóa trung đại là một vấn đề<br />
face up to a number of difficulties. The bottom<br />
quan trọng, đặc biệt là lĩnh vực triết học Nho giáo,<br />
line is that teachers have to overcome the<br />
Phật giáo và ở mức độ nhất định, còn là tư tưởng Lão-<br />
problems to help students find out the content<br />
Trang. Và vấn đề chiếm lĩnh tri thức văn hóa và triết<br />
and artistic matter of this work. Therefore, the<br />
học trung đại của người giảng viên cần được đưa vào<br />
interest in learning will be developed, the beauty<br />
một chương trình thông tin khoa học về những thành<br />
of each literary work in Vietnamese literature in<br />
tựu nghiên cứu mới trên lĩnh vực này. Trong phạm vi<br />
general and medieval literature in particular will<br />
bài viết, chúng tôi xuất phát từ góc độ bài giảng của<br />
be explored and appreciated.<br />
giảng viên với tư cách là một thông điệp trung gian<br />
giữa tác phẩm nghệ thuật (thông điệp gốc) đến với Keywords: teaching, international defense<br />
học viên quân sự nước ngoài (đối tượng tiếp nhận) students, difficult, creation, Truyen Kieu<br />
để đưa ra một vài phương hướng xử lí theo quan Ngày nhận: 03/8/2016<br />
niệm chủ quan. Có thể, bài viết chưa làm thỏa mãn Ngày phản biện: 08/9/2016<br />
thú tìm hiểu, nghiên cứu cũng như cách xử lí của độc Ngày duyệt đăng: 13/9/2016<br />
giả nhưng dẫu sao cũng đã đưa đến một cách tiếp<br />
cận khác đối với một tác phẩm vốn nổi tiếng này./.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
100 Số 3 - 9/2016<br />