intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số khó khăn khi giảng dạy tác phẩm “truyện Kiều” cho học viên quân sự nước ngoài

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

98
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX). Hầu như tất cả các nhà nghiên cứu, bình luận Truyện Kiều đều khẳng định Nguyễn Du là bậc thầy của ngôn ngữ dân tộc, là người đã nâng ngôn ngữ văn học dân tộc của thời đại lên một đỉnh cao chói lọi. Và có thể nói, bất cứ người Việt Nam dù ở lứa tuổi nào cũng đều đọc Truyện Kiều; có người thuộc dăm bảy câu, có người thuộc nhiều đoạn, có người thuộc cả Truyện Kiều, thậm chí có người còn “đọc ngược” Truyện Kiều.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số khó khăn khi giảng dạy tác phẩm “truyện Kiều” cho học viên quân sự nước ngoài

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> MỘT SỐ KHÓ KHĂN<br /> KHI GIẢNG DẠY TÁC PHẨM<br /> “TRUYỆN KIỀU” CHO HỌC VIÊN<br /> QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI<br /> TRẦN THỊ THU HIỀN<br /> Học viện Khoa học Quân sự<br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX). Hầu<br /> như tất cả các nhà nghiên cứu, bình luận Truyện Kiều đều khẳng định Nguyễn Du là bậc thầy của ngôn<br /> ngữ dân tộc, là người đã nâng ngôn ngữ văn học dân tộc của thời đại lên một đỉnh cao chói lọi. Và có<br /> thể nói, bất cứ người Việt Nam dù ở lứa tuổi nào cũng đều đọc Truyện Kiều; có người thuộc dăm bảy câu,<br /> có người thuộc nhiều đoạn, có người thuộc cả Truyện Kiều, thậm chí có người còn “đọc ngược” Truyện<br /> Kiều. Chính vì, Truyện Kiều là một tác phẩm nổi tiếng của một giai đoạn văn học Việt Nam nên việc giảng<br /> dạy tác phẩm này cho học viên quân sự nước ngoài (chuyên ngành Việt Nam học) cũng vấp phải một số<br /> khó khăn. Vấn đề là người dạy phải tìm cách vượt qua những khó khăn ấy để chuyển tải đến người học<br /> những vấn đề thuộc về nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm. Từ đó, khơi gợi niềm yêu thích<br /> tìm hiểu, khám phá những cái hay, cái đẹp có trong mỗi tác phẩm văn học Việt Nam nói chung và văn<br /> học trung đại nói riêng.<br /> Từ khóa: giảng dạy, học viên quân sự nước ngoài , khó khăn, tác phẩm, Truyện Kiều<br /> <br /> <br /> 1. MỞ ĐẦU dường như học viên phải “học” tác phẩm Bình Ngô đại<br /> cáo, Truyện Kiều, Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn<br /> Một nhà sử học Ôxtrâylia đã dùng khái niệm “Sự Khuyến,… qua sự áp đặt của khung chương trình môn<br /> chuyên chế của những khoảng cách” để nói về đặc học và người giảng viên giảng dạy trên lớp. Chính mâu<br /> thù không gian của thiên nhiên trên một đất nước thuẫn này đã khiến người giảng viên văn học phải tạo<br /> đồng thời là cả một lục địa – Ôxtrâylia”. Có thể dùng ra cho học viên niềm yêu thích, sự rung cảm, hứng<br /> khái niệm đó để biểu đạt tính chất khó khăn của việc thú khi tìm hiểu tác phẩm văn học thời trung đại.<br /> đưa tác phẩm văn học quá khứ – đặc biệt là di sản văn<br /> học viết của 10 thế kỉ xây dựng quốc gia phong kiến Hơn nữa, đối tượng giảng dạy của tác phẩm Truyện<br /> độc lập (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, mà chúng ta Kiều là học viên quân sự nước ngoài được đào tạo<br /> quen gọi là Văn học trung đại Việt Nam) – đến với thế theo chương trình Cử nhân Việt Nam học tại Học<br /> hệ trẻ Việt Nam nói chung và các bạn học viên nước viện Khoa học Quân sự. Thời điểm học viên được tiếp<br /> ngoài (đang được đào tạo ở Học viện Khoa học Quân xúc với môn Văn học trung đại Việt Nam nói chung<br /> sự) nói riêng. Những người giảng viên văn học đã gặp và tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du nói riêng<br /> phải một “bi kịch” trong cuộc đời nghề nghiệp của là Học kì I của năm thứ tư – năm học trước khi kết<br /> bản thân là bởi mặc dầu thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn thúc cả quá trình đào tạo. Lúc này, học viên đã được<br /> Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…và trang bị khá nhiều vốn kiến thức về văn hóa, ngôn<br /> nhiều tác gia khác đã đạt đến giá trị kiệt tác nhưng ngữ (Trừ một số học viên gặp phải một chút khó<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 3 - 9/2016 95<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> khăn về ngôn ngữ). Đó là những điều kiện thuận Việc giảng dạy một tác phẩm văn học trung đại như<br /> lợi cho việc tiếp cận một tác phẩm văn chương. Tuy vậy đòi hỏi phải có sự “tái hiện khung cảnh không<br /> nhiên, vì Truyện Kiều là một tác phẩm được đánh giá gian và thời gian lịch sử”, phải “gây được không khí<br /> cao trong nền văn học dân tộc Việt Nam – là “kiệt lịch sử” cho các học viên. Để làm được điều này, giảng<br /> tác số một trong lịch sử văn học dân tộc” và thời viên cần phải có một vốn liếng tri thức lịch sử văn hóa<br /> gian dành cho việc học tác phẩm Truyện Kiều không xã hội để thông tin tới học viên, để họ có thể hiểu,<br /> nhiều – khoảng 15 tiết/120 tiết cho cả môn học nên “nhập thân” vào hoàn cảnh, vào cuộc sống quá khứ<br /> đòi hỏi học viên nước ngoài phải nỗ lực rất nhiều. cũng như tính cách, số phận của nhân vật, tạo nền<br /> tảng cho sự lĩnh hội tác phẩm.<br /> Như vậy, cũng như nhiều tác phẩm văn học trung<br /> đại khác, để đến được với tác phẩm Truyện Kiều, cảm Một khoảng cách cơ bản nữa cần nêu lên là sự khác<br /> nhận được những cái hay, cái đẹp của tác phẩm ấy, biệt trong phong cách nghệ thuật, nhất là sự khác<br /> học viên quân sự nước ngoài đã phải vượt qua bao biệt trong phong cách ngôn ngữ giữa văn học hiện<br /> hàng rào ngăn cách, đã phải “chống chọi” lại với “uy đại và văn học trung đại – vốn là hai phạm trù văn học<br /> quyền của những khoảng cách”…Và đó là những khác nhau. Đây là vấn đề cần xử lí trước tiên khi tiếp<br /> khoảng cách nào? cận văn bản quá khứ – bởi ngôn ngữ là yếu tố đầu<br /> tiên, là đơn vị cơ bản của một văn bản văn học. Đối<br /> 2. NỘI DUNG với học viên nước ngoài, khi tìm hiểu một tác phẩm<br /> văn học nói chung đã rất khó khăn, đằng này lại là tác<br /> 2.1. Những khoảng cách giữa Truyện Kiều và phẩm văn học cổ điển. Bởi khi đó, học viên vấp phải<br /> người học một hàng rào ngôn ngữ tiếng Việt (mặc dù đã được<br /> trang bị nhưng chưa đủ), những từ ngữ khó, những<br /> Trước hết, đó là khoảng cách về không gian và thời địa danh, những điển tích, điển cố, thi liệu, văn liệu…<br /> gian lịch sử. Không riêng gì học viên nước ngoài, mà xa lạ, khó hiểu. Ở đây, rất cần một khâu “trung gian<br /> ngay cả người Việt Nam ở tất cả các lứa tuổi đều gặp phiên dịch” những ngôn từ “khô khan” trong giáo<br /> phải khó khăn khi tiếp cận với một tác phẩm văn học trình hoặc cả những lời giải thích của giảng viên trên<br /> trung đại bởi chiều dài của thời gian lịch sử…Và đó bục giảng. Có những học viên không đọc các chú giải,<br /> cũng không đơn giản chỉ là câu chuyện của thời gian hoặc chỉ đọc khi buộc phải hiểu để trả lời câu hỏi của<br /> mà còn là sự khác biệt của loại hình xã hội, của cuộc giảng viên. Thậm chí, ngay cả lời giải thích của thầy<br /> sống. Thời đại Truyện Kiều là sự ngự trị của vương cô giáo, học viên cũng không hứng thú nghe, có học<br /> quyền; ngày nay chúng ta đang đấu tranh xây dựng viên còn không hiểu (mặc dù, giảng viên đã cố gắng<br /> một xã hội mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. giải thích bằng các từ ngữ đơn giản nhất). Hoặc nếu<br /> Hơn nữa, sự phát triển của lịch sử cũng đem đến biết có nghe, có hiểu thì quá trình lĩnh hội, tiếp nhận tác<br /> bao sự biến đổi mãnh liệt, sâu sắc, trong đó có sự biến phẩm cũng không liền mạch, do đó, phần nào hạn<br /> chế sự rung cảm, làm giảm đi sự hứng thú khi tìm<br /> đổi về phong cách sinh hoạt, ứng xử. Những cô gái<br /> hiểu tác phẩm văn học.<br /> ngày nay chắc khó có thể rung động trước trang phục<br /> của một Kim Trọng “Cỏ pha màu áo nhuộm non da Như vậy, có biết bao khoảng cách cần phải vượt qua<br /> trời” bởi họ chỉ biết có những chàng trai màu quần khi đưa một tác phẩm văn học cổ điển đến với học<br /> jeans, áo vest! viên quân sự nước ngoài. Tuy nhiên, trong phạm vi<br /> bài viết này, chúng tôi chỉ xin dừng lại nói sâu hơn về<br /> Tiếp đó là khoảng cách tâm lí học. Có lẽ nhịp sống<br /> ngôn ngữ văn bản, nhất là ngôn ngữ nhân vật trong<br /> “tên lửa” dồn dập, sự bùng nổ của thời đại “công nghệ<br /> tác phẩm Truyện Kiều.<br /> thông tin” cùng với biết bao lo toan của cảnh sống xa<br /> quê hương, đất nước đã khiến cho đại đa số học viên 2.2. Khoảng cách ngôn ngữ trong tác phẩm<br /> nước ngoài không có thì giờ, tâm trí và cả sự hứng<br /> thú với việc vùi đầu hàng giờ, hàng ngày vào một Có thể nói, nhân vật văn học không phải từ trên trời rơi<br /> cuốn tiểu thuyết hiện đại, chứ chưa nói gì đến Truyện xuống, mà nó bắt nguồn từ mẫu hình có thực trong<br /> kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn cuộc sống đời thường được nhà văn gia công, thổi vào<br /> Du… – những cái hoàn toàn xa lạ, khó hiểu, nhàm nó cái hồn và điển hình hóa bằng nhiều biện pháp<br /> chán đối với họ. nghệ thuật. Và việc tìm hiểu ngôn ngữ là điều quan<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 96 Số 3 - 9/2016<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> trọng nhất, nếu không muốn nói là duy nhất để hiểu trong đó nhân vật “tự bạch” hay đối thoại. Cũng như<br /> nhân vật, bởi cuộc sống của nhân vật trong tác phẩm con người thực, nhân vật văn học là một chỉnh thể<br /> tùy thuộc vào khả năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả. sống động; khi tìm hiểu ngôn ngữ không thể quên<br /> chỉnh thể đó. Còn việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại<br /> Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện hay đối thoại là để góp phần minh họa thêm, làm<br /> quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện sáng tỏ hơn những yếu tố thuộc về bản chất của nhân<br /> cuộc sống và cá tính nhân vật. Trong tác phẩm, nhà vật. Tất nhiên, trước khi phân tích ngôn ngữ một nhân<br /> văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều vật nào đó, chúng ta phải hiểu đầy đủ và sâu sắc vai<br /> cách: nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm trò, vị trí và quá trình phát triển của nhân vật ấy trong<br /> đặc biệt của nhân vật; cho nhân vật lặp lại những từ, tác phẩm.<br /> câu mà nhân vật thích nói, kể cả từ vay mượn và từ<br /> địa phương… 2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại<br /> <br /> Theo ý kiến của M. Gorki, thành phần ngôn ngữ nhân Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật là lời nói mà nhân<br /> vật bao gồm: một bộ phận ngôn ngữ do “tác giả lấy từ vật trao đổi với một hay nhiều nhân vật khác để bày<br /> các nhân vật trong thực tế ra làm tài liệu”, “dùng vốn tỏ quan điểm, thái độ, ý kiến…của mình trước vấn đề<br /> kinh nghiệm tri thức bản thân gọt giũa lại” và một bộ mà mình đang quan tâm.<br /> phận khác “hư cấu” nên để nói nốt cho họ những điều<br /> mà họ chưa có dịp nói, hoặc tiếp tục nốt những hành Trong văn học trung đại Việt Nam, nếu ngôn ngữ độc<br /> động mà họ chưa kịp làm nhưng chắc chắn phải làm. thoại được sử dụng chủ yếu cho các nhân vật trong<br /> khúc ngâm (như Chinh phụ ngâm khúc của tác giả<br /> Ta có thể xem bộ phận thứ nhất là ngôn ngữ của chính Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm; Cung oán<br /> nhân vật, gồm có ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều…) thì ngôn ngữ đối<br /> thoại. Đây là phần quan trọng nhất của tác phẩm. Bộ thoại lại được sử dụng nhiều cho các nhân vật trong<br /> phận thứ hai thường được mệnh danh là ngôn ngữ truyện thơ tự sự. Do vậy, ta có thể dễ dàng lí giải tại<br /> câm – là ngôn ngữ tác giả nói thay cho nhân vật. sao ngôn ngữ đối thoại trong Truyện Kiều chiếm tỉ lệ<br /> khá cao so với ngôn ngữ độc thoại.<br /> Nhìn khái quát, ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều<br /> mang tính truyền thống rõ rệt. Tuy vậy, phần sáng tạo Hãy lấy nhân vật Tú Bà để xem xét. Mụ được miêu tả<br /> đặc sắc trên cơ sở truyền thống là công lao lớn của là người làm nghề buôn thịt bán người: “Thoắt trông<br /> Nguyễn Du. Bên cạnh ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng nhờn nhợt màu da/Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao!”. Người<br /> còn có ngôn ngữ đời sống phong phú và đậm đà màu đọc đã gặp mụ trong trong cơn tam bành, thực chất<br /> sắc hiện thực chủ nghĩa. Nói cách khác, có nhiều từ là một cuộc sát phạt ác liệt mà mụ giáng lên đầu Mã<br /> ngữ sáo mòn, ngoại lai xen lẫn vào giữa kho tàng từ Giám Sinh và Thúy Kiều. Đây mới chỉ là một khoảnh<br /> ngữ thuần Việt mộc mạc, chân chất, giản dị mà trong khắc. Để hoàn thành nốt chân dung nhân vật có một<br /> sáng, giàu chất sống hiện thực. không hai này, Nguyễn Du đã đặt nhân vật trong các<br /> màn đối thoại.<br /> Có ý kiến cho rằng: “Ngôn ngữ có nhiều tính chất<br /> ước lệ trong Truyện Kiều chủ yếu được sử dụng cho Màn 1:<br /> các nhân vật chính diện” (Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Cửa hàng buôn bán cho may,<br /> Quan, Kim Trọng,..) và “ngôn ngữ có nhiều thành Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu.<br /> phần hiện thực chủ nghĩa được sử dụng nhiều hơn Muôn nghìn người thấy đều yêu,<br /> cho các nhân vật phản diện” (Tú Bà, Mã Giám Sinh, Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai.<br /> Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh…). Đối với các nhân vật Tin nhạn vẩn, lá thơ bài,<br /> chính diện thì thành phần ước lệ trong ngôn ngữ bị Đưa người cửa trước, rước người cửa sau.<br /> phá vỡ dần và thành phần hiện thực chủ nghĩa được<br /> tăng cường khi con người đi sâu vào cuộc sống có Tú Bà đang đối thoại (khấn vái) với Thành hoàng của<br /> nhiều xung đột. nghề mụ: Thần mày trắng – đó là thần hộ mệnh. Dù<br /> vốn vô học và cộc cằn nhưng mụ cũng phải lựa chọn<br /> Vậy điều cần làm để tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật là sao cho lời khấn thể hiện được nội dung khẩn cầu,<br /> chúng ta đi sâu phân tích những hoàn cảnh cụ thể, vừa trang trọng đối với tổ nghề, vừa diễn đạt đúng và<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 3 - 9/2016 97<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> đủ điều cần thiết của “cửa hàng” để thần biết mà phù hạnh, khi nét ngài, khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười<br /> trợ. Nội dung khẩn cầu là gì? Có được món hàng mới, cợt hoa).<br /> cửa hàng sẽ phát đạt, rất đông khách (hai câu đầu);<br /> được khách quyến luyến, ưa chuộng (hai câu giữa); Nói chung, những từ ngữ trong màn đối thoại trên chỉ là<br /> câu khách và giữ được khách làng chơi không ngớt những từ ngữ thông dụng ở “miền nguyệt hoa”, dù trôi<br /> lui tới (hai câu cuối). chảy, mềm mỏng đến đâu vẫn không đánh lừa được<br /> ai, đúng như cảm nhận của Thúy Kiều: “Những nghe<br /> Dù là ngôn ngữ đời sống hay ngôn ngữ ước lệ thì nói đã thẹn thùng/Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!”<br /> cũng phải diễn đạt sao cho đúng là lời của mụ trùm<br /> nhà chứa. Vậy thì, “Cửa hàng buôn bán cho may”, “Đưa Sử dụng những từ ngữ rất đúng chỗ và đắt nghĩa<br /> người cửa trước, rước người cửa sau” là lời lẽ của mụ kể trên, nhà thơ Nguyễn Du đã dựng lên một màn<br /> chủ bán dâm đích thực, chẳng cần tô vẽ gì nữa. Còn đối thoại hết sức độc đáo và hiếm hoi: Đối thoại mà<br /> ngôn ngữ ước lệ cũng chỉ bao gồm một số từ ngữ vẫn như độc thoại! Mở màn, Tú Bà dạy cho Kiều biết<br /> như: “Hàn Thực, Nguyên Tiêu” – đó là những kì lễ tết tâm lí chung của khách làng chơi; tiếp theo, mụ trao<br /> trong năm, ai cũng biết; hoặc “anh yến, trúc mai”, “tin đổi những từng trải nghề nghiệp mà mụ đã đúc kết<br /> nhạn, lá thơ” thông dụng ở chốn lầu xanh. Ngay cả lời được suốt “đời mưa gió” của mụ, với lời súc tích mà<br /> khấn thần cũng mang dấu ấn giọng lưỡi Tú Bà không giọng hả hê; cuối cùng, mụ khép lại bằng những lời<br /> lẫn vào đâu được! khích lệ.<br /> <br /> Màn 2: Như vậy, có thế thấy Nguyễn Du đã trao cho nhân<br /> Mụ rằng: “Ai cũng như ai vật của mình dù mới chỉ là ở màn đối thoại, lời ăn<br /> Người ta ai mất tiền hoài đến đây. tiếng nói rất phù hợp với vai trò, vị trí và tính cách của<br /> Ở trong còn lắm điều hay, nhân vật trong từng văn cảnh cụ thể của tác phẩm.<br /> Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.<br /> Này con thuộc lấy làm lòng, 2.2.2. Ngôn ngữ độc thoại<br /> Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.<br /> Chơi cho liễu chán hoa chê, Ngôn ngữ độc thoại được xem là “tiếng lòng” của nhân<br /> Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời! vật phát ra một cách trung thực sự rung cảm của mình<br /> Khi khóe hạnh, khi nét ngài, trước thiên nhiên và xã hội. Chỉ có qua ngôn ngữ độc<br /> Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa. thoại, người đọc tác phẩm mới có thể cảm nhận được<br /> Đều là nghề nghiệp trong nhà, đầy đủ và sâu sắc tâm tư, tình cảm, ý nghĩ, tức là đời<br /> Đủ ngần ấy nết, mới là người soi” sống nội tâm của nhân vật.<br /> <br /> Có người gọi màn này là màn Tú Bà dạy nghề! Sau Sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm là thành tựu<br /> khi ra uy khuất phục được Thúy Kiều chịu tiếp khách, xuất sắc nhất của văn học. Các kiệt tác của nhiều đại<br /> Tú Bà đổi giọng hoàn toàn. Mụ không còn cất lên cái thi hào có tầm cỡ thế giới đều trở nên sống động, hấp<br /> giọng the thé với những lời nhiếc móc, xỉa xói tục tĩu dẫn vì các tác giả đã sử dụng kì tài ngôn ngữ độc thoại<br /> của cái thời mụ nổi cơn tam bành mà lời lẽ thẽ thọt nội tâm của các nhân vật. Đây cũng là một thành tựu<br /> trở nên lụa là, ngọt xớt với thái độ ân cần mơn trớn. nổi bật của văn học trung đại Việt Nam.<br /> Mụ tỉ tê với Kiều như những lời “tự bạch”.<br /> Truyện Kiều của Nguyễn Du là truyện thơ đỉnh cao,<br /> Nguyễn Du hầu như chỉ dùng ngôn ngữ thuần Việt đạt được nhiều thành tựu xuất sắc nhất về mặt sử<br /> nhưng hình tượng hiện lên vẫn có tính ước lệ vì nhà dụng ngôn ngữ nhân vật. Trong phần giới thiệu về<br /> thơ không muốn khui ra đủ thứ dơ dáy, bẩn thỉu của ngôn ngữ độc thoại của nhân vật, chúng ta đã phần<br /> cái nghề bán dâm của mụ. Dù vậy, cái cảnh đam mê nào thấy được thần bút của tác giả. Hơn nữa, tất cả<br /> đến trác táng vẫn cứ hiện ra nửa kín nửa hở bởi vì các nhân vật trong Truyện Kiều còn có đời sống nội<br /> ngôn ngữ thơ ở cảnh này vẫn có khả năng gợi tả tâm phong phú. Chính nhờ ngôn ngữ độc thoại nội<br /> bằng các hình thức tu từ như: ẩn dụ (khép mở, riêng tâm mà người đọc nắm được cái thần của nhân vật.<br /> chung, bảy chữ, tám nghề); nhân hóa (liễu chán hoa<br /> chê); đảo ngữ (lăn lóc đá, mê mẩn đời) và đặc biệt là Đọc Truyện Kiều, ai cũng biết Tú Bà, Sở Khanh “lưu<br /> điệp ngữ cho và khi hết sức nổi trội (cho liễu chán manh” vì những màn đối thoại. Ngược lại, nhiều nhân<br /> hoa chê, cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời; khi khóe vật khác lại trở nên bất hủ vì những màn độc thoại nội<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 98 Số 3 - 9/2016<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> tâm. Hãy đến với nhân vật Thúy Kiều với một vài khúc đình. Điều đang làm cho lòng nàng “thổn thức đầy”<br /> ngoặt trong cuộc đời để thấy rõ điều đó. chưa phải là những dự cảm về những nỗi bất hạnh<br /> mà nàng gặp phải trên con đường lưu lạc. Mà nỗi<br /> Suốt nhiều chặng đường trong cuộc đời mình, Thúy ái ngại trước hết, nàng dành cho Kim Trọng. Chàng<br /> Kiều đã có bao lần thao thức trăn trở về số phận, đang ở tít tận “trời Liêu”, vậy nên nỗi ái ngại càng tăng<br /> về vận mệnh của mình. Thi hào Nguyễn Du đã ghi lên bội phần. Lời thơ, tiếng nói độc thoại của chính<br /> nhận “những biến động con tim” ấy bằng những lời nàng hết sức xao xuyến: “Vì ta khăng khít…”, “thôi đã<br /> độc thoại hoàn toàn thích hợp và sắc sảo. Mỗi chặng phũ phàng”, “Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà, tự tôi!”. Nàng<br /> đường, mỗi cảnh ngộ, tâm trạng Kiều diễn biến khác tự trách mình, tự kết tội mình! Chính vì vậy mà nỗi<br /> nhau, không lần nào giống lần nào. Kể từ sau buổi đau đến xé lòng cứ dâng lên từng đợt, đợt sau mạnh<br /> dự lễ hội Đạp thanh cho đến các chặng đường khổ hơn đợt trước. Đỉnh cao của những cơn bão lòng<br /> ải tiếp theo: bán mình, trao duyên, thất thân với Mã dồn cả vào câu: “Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà, tự tôi!”.<br /> Giám Sinh, bị mắc lừa Sở Khanh, bị đày đọa dưới Câu thơ được ngắt nhịp liên tiếp, lại được bổ sung<br /> trướng Hoạn Thư, sống tủi nhục trong lầu xanh, trẫm bằng thành ngữ  “rẽ cửa, chia nhà” đầy xốn xang.<br /> mình trên sông nước Tiền Đường… Dường như lúc<br /> nào nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du cũng có mặt bên Đúng theo quy luật của phát triển tâm lí, càng ái<br /> cạnh nàng để ghi nhận bấy nhiêu tâm trạng. ngại cho chàng Kim bao nhiêu thì Thúy Kiều càng ái<br /> ngại cho mình bấy nhiêu! Nàng coi mình là kẻ đắc<br /> Diễn biến nội tâm Thúy Kiều sau buổi du xuân: tội, biết có cách nào gỡ cho được tội? Đang nói đến<br /> chàng Kim, lời thơ chuyển sang giọng thương mình<br /> Người mà đến thế thì thôi, da diết: “Kiếp này, thôi thế thì thôi, còn gì?”. Câu thơ<br /> Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! vang lên như một lời tuyệt vọng. Những hình ảnh<br /> Người đâu gặp gỡ làm chi, hiện lên từ những điển cố “tái sinh”, “nợ tình” như dắt<br /> Trăm năm biết có duyên gì hay không? nhân vật vào cõi âm mịt mờ khổ ải! Đọc đến đây, ai<br /> mà không ái ngại cho một kiếp người đầy oan khuất!<br /> Hai cặp lục bát kết tinh hai nỗi vương vấn, băn khoăn<br /> về cuộc đời: Những gì đã qua sao mà phũ phàng đến Nội tâm Thúy Kiều trước giờ tự trẫm mình:<br /> thế! Những gì đang e ấp chớm nở liệu có hi vọng gì<br /> không? Hai diễn biến tâm trạng về quá khứ và hiện tại Rằng: “Từ Công hậu đãi ta,<br /> dường như là một nghịch lí gây nên nỗi băn khoăn, day Xót vì việc nước mà ra phụ lòng<br /> dứt đối với con người đa sầu đa cảm như Thúy Kiều. Giết chồng mà lại lấy chồng,<br /> Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời.<br /> Nội tâm Thúy Kiều trước lúc trao duyên: Thôi thì một thác cho rồi,<br /> Tấm lòng phó mặc trên trời, dưới sông!”<br /> Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,<br /> Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời. Sau khi bị Hồ Tôn Hiến phản bội, bị làm nhục, Thúy<br /> Công trình kể biết mấy mươi, Kiều hết đường tính liệu. Nàng đã quyết định đi tìm<br /> Vì ta khăng khít, cho người dở dang. cái chết! Rồi một đêm, trên sông nước Tiền Đường,<br /> Thề hoa chưa ráo chén vàng, ruột rối tơ vò, lòng tràn đầy ân hận và oan khuất, nàng<br /> Lỗi thề, thôi đã phũ phàng với hoa. đã “gieo mình xuống dòng tràng giang”. Đây là những<br /> Trời Liêu non nước bao xa, lời trăn trối cuối cùng kết thành một tấn bi kịch thê<br /> Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà, tự tôi! thảm của một kiếp người tài sắc.<br /> Biết bao duyên nợ thề bồi,<br /> Kiếp này, thôi thế thì thôi, còn gì? Lời đầu tiên đầy trang trọng, nàng dành cho ân nhân<br /> Tái sinh chưa dứt hương thề, vĩ đại Từ Hải. Cũng như lần trước, khi đối mặt với kẻ<br /> Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. thù, nàng hùng hồn khẳng định: “Rằng Từ là đấng anh<br /> Nợ tình chưa trả cho ai, hùng/Dọc ngang trời rộng, vẫy vùng biển khơi”. Lần<br /> Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan! này, nàng tôn vinh Từ Hải: “Rằng: Từ Công hậu đãi ta”<br /> bởi vì, trong nhận thức, trong tâm tưởng của nàng, Từ<br /> Trước cơn gia biến, những gì có thể làm được thì Hải vừa là anh hùng, vừa là ân nhân. Phải chăng, những<br /> Thúy Kiều đã làm để vãn hồi hạnh phúc cho gia đình lời tôn vinh ấy như để nàng phần nào chuộc lại cái lỗi<br /> trong muôn một. Nàng sắp phải rời khỏi tổ ấm gia lầm hết sức tai hại của mình? Tiếp đến, trở lại với mình,<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 3 - 9/2016 99<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> nàng dày vò mình, tự buộc tội mình đã làm nên tội lớn Tài liệu tham khảo:<br /> không thể dung tha! Ngôn ngữ thuần Việt mà quyết<br /> liệt, dữ dội, dứt khoát. Âm điệu câu thơ láy đi láy lại chì 1. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên), Nguyễn Hữu Sơn, Vũ<br /> chiết, thắt buộc, phản ánh chân thực tâm trạng của Thanh (1999), Nguyễn Du – về tác giả và tác phẩm, NXB<br /> người đang trăn trối: hối hận, đau đớn, tiếc thương…. Giáo dục, Hà Nội.<br /> <br /> Người đời có thể trách Thúy Kiều nhưng không ai 2. Lê Bá Hán (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc<br /> không hiểu rõ nỗi oan khuất của đời nàng. Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục,<br /> Hà Nội.<br /> Như vậy, phân chia ngôn ngữ nhân vật thành hai bộ<br /> phận: đối thoại và độc thoại là để dễ thấy ưu thế và 3. Đặng Thanh Lê (1999), Truyện Kiều và thể loại truyện<br /> đặc điểm của từng bộ phận, đồng thời nhận ra tính Nôm, NXB Giáo dục, Hà Nội.<br /> chính xác, tinh vi, tế nhị và sức biểu đạt đặc sắc của<br /> nhân vật trong từng cảnh ngộ cụ thể. Một trong 4. Đặng Thanh Lê (1999), Giảng văn Truyện Kiều, NXB<br /> những yếu tố làm nên thành công của một tác phẩm Giáo dục, Hà Nội.<br /> là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Dù là ngôn ngữ đối<br /> thoại, độc thoại của nhân vật hay ngôn ngữ trực tiếp 5. Hoàng Hữu Yên (2003), Cái hay, cái đẹp của tiếng Việt<br /> của tác giả viết về nhân vật đều nhằm mục đích trao trong Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội.<br /> cho nhân vật một diện mạo ngoại hình và đời sống<br /> nội tâm sinh động đúng như vai trò, vị trí của nhân vật<br /> trong tác phẩm. Với kiệt tác Truyện Kiều, bằng nhiều<br /> SEVERAL DIFFICULTIES IN TEACHING “TRUYEN<br /> bút pháp nghệ thuật trác tuyệt, trong đó có bút pháp<br /> KIEU” FOR FOREIGN MILITARY STUDENTS<br /> sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại chính xác,<br /> sắc sảo; thi hào Nguyễn Du đã tạo nên cả một thế giới TRAN THI THU HIEN<br /> nhân vật chân thực, sinh động, dễ nhận mặt…, sống<br /> Abstract: “Truyen Kieu” by Nguyen Du is a<br /> mãi trong lòng các thế hệ người đọc.<br /> masterpiece in Vietnamese medieval literature<br /> (from 10th to 19th century). Almost all literary<br /> 3. KẾT LUẬN<br /> researchers and critics of ”Truyen Kieu” assert<br /> Những khó khăn đặt ra nói trên trong tác phẩm that Nguyen Du was a master of national<br /> Truyện Kiều của Nguyễn Du không thể được giải quyết language, who at that time raised Vietnamese<br /> một cách đầy đủ, thích đáng chỉ trong một sớm, một language to a glorious climax. It can be seen<br /> that Vietnamese people of all ages read “Truyen<br /> chiều và ở những bài viết lẻ tẻ vì yêu cầu phạm vi vấn<br /> Kieu”, some remember a few sentences, some<br /> đề cùng năng lực chủ quan của người viết. Ví dụ như,<br /> many parts, some learn “Truyen Kieu” by heart,<br /> vấn đề khoảng cách tâm lí học đòi hỏi được nghiên<br /> some even read it backward. As “Truyen Kieu” is a<br /> cứu trên quan điểm liên ngành xã hội học–văn học.<br /> well-known literary work in a period of Vietnam’s<br /> Trong các lĩnh vực tri thức nói trên, sự hiểu biết về<br /> literature, teaching it for foreign military students<br /> những phạm trù văn hóa trung đại là một vấn đề<br /> face up to a number of difficulties. The bottom<br /> quan trọng, đặc biệt là lĩnh vực triết học Nho giáo,<br /> line is that teachers have to overcome the<br /> Phật giáo và ở mức độ nhất định, còn là tư tưởng Lão-<br /> problems to help students find out the content<br /> Trang. Và vấn đề chiếm lĩnh tri thức văn hóa và triết<br /> and artistic matter of this work. Therefore, the<br /> học trung đại của người giảng viên cần được đưa vào<br /> interest in learning will be developed, the beauty<br /> một chương trình thông tin khoa học về những thành<br /> of each literary work in Vietnamese literature in<br /> tựu nghiên cứu mới trên lĩnh vực này. Trong phạm vi<br /> general and medieval literature in particular will<br /> bài viết, chúng tôi xuất phát từ góc độ bài giảng của<br /> be explored and appreciated.<br /> giảng viên với tư cách là một thông điệp trung gian<br /> giữa tác phẩm nghệ thuật (thông điệp gốc) đến với Keywords: teaching, international defense<br /> học viên quân sự nước ngoài (đối tượng tiếp nhận) students, difficult, creation, Truyen Kieu<br /> để đưa ra một vài phương hướng xử lí theo quan Ngày nhận: 03/8/2016<br /> niệm chủ quan. Có thể, bài viết chưa làm thỏa mãn Ngày phản biện: 08/9/2016<br /> thú tìm hiểu, nghiên cứu cũng như cách xử lí của độc Ngày duyệt đăng: 13/9/2016<br /> giả nhưng dẫu sao cũng đã đưa đến một cách tiếp<br /> cận khác đối với một tác phẩm vốn nổi tiếng này./.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 100 Số 3 - 9/2016<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2