Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
<br />
<br />
MỘT SỐ MÔ HÌNH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG<br />
NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY<br />
Nguyễn Văn Tuấn(1)<br />
<br />
Đ<br />
ược sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, mạng lưới các cơ sở dạy nghề cho lao động<br />
nông thôn đã được đầu tư, nâng cấp, đào tạo rất nhiều nghề phù hợp với lao động nông<br />
thôn. Việc dạy nghề đã cải thiện được đáng kể về chất lượng lao động, giải quyết việc làm, tự tạo<br />
việc làm, nâng cao năng suất lao động và thu nhập cho lao động nông thôn, góp phần thúc đẩy sự<br />
phát triển đa dạng các ngành nghề ở nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao dần mặt<br />
bằng dân trí, điều kiện dân sinh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, khơi dậy tính chủ động<br />
tích cực vươn lên trong xóa đói giảm nghèo và phát huy được thế mạnh sẵn có của địa phương. Hoạt<br />
động dạy nghề cũng đem lại lợi ích nhiều mặt của cuộc sống đến với người lao động, góp phần đẩy<br />
lùi những tập quán canh tác cũ kỹ, lạc hậu để tiếp cận với phong cách, kỹ năng lao động mới.<br />
Từ khóa: Mô hình, đào tạo nghề, lao động nông thôn.<br />
<br />
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, gắn với xây dựng làng nghề mới: Đây là mô<br />
mạng lưới các cơ sở dạy nghề cho lao động nông hình được áp dụng cho những địa phương thiếu<br />
thôn đã được đầu tư, nâng cấp, đào tạo rất nhiều ruộng đất, có nhiều lao động nhưng thiếu việc<br />
nghề phù hợp với lao động nông thôn. Việc dạy làm và chính quyền địa phương có nhu cầu hình<br />
nghề đã cải thiện được đáng kể về chất lượng lao thành làng nghề mới. Thực hiện mô hình này,<br />
động, giải quyết việc làm, tự tạo việc làm, nâng HHLNVN đã phối hợp với Công ty TNHH Phú<br />
cao năng suất lao động và thu nhập cho lao động Mỹ Lộc (Đức Giang, Long Biên, Hà Nội) đào tạo<br />
nông thôn, góp phần thúc đẩy sự phát triển đa nghề đúc đồng, gò thúc tranh đồng, chạm khảm<br />
dạng các ngành nghề ở nông thôn, vùng đồng tam khí cho 21 học viên đến từ huyện Giao Thủy<br />
bào dân tộc thiểu số, nâng cao dần mặt bằng dân (Nam Định), huyện Định Quán (Đồng Nai) và<br />
trí, điều kiện dân sinh, chuyển dịch cơ cấu kinh quận Long Biên (Hà Nội). Tham gia khóa học,<br />
tế, cơ cấu lao động, khơi dậy tính chủ động tích các học viên không chỉ được học lý thuyết với<br />
cực vươn lên trong xóa đói giảm nghèo và phát giáo trình khoa học mà còn được thợ giỏi và các<br />
huy được thế mạnh sẵn có của địa phương. Hoạt nghệ nhân trực tiếp hướng dẫn thực hành.<br />
động dạy nghề cũng đem lại lợi ích nhiều mặt - Mô hình đào tạo nghề, tổ chức việc<br />
của cuộc sống đến với người lao động, góp phần làm kết hợp phát triển vùng nguyên liệu tại địa<br />
đẩy lùi những tập quán canh tác cũ kỹ, lạc hậu để phương: Mô hình này chủ yếu được thực hiện ở<br />
tiếp cận với phong cách, kỹ năng lao động mới. những vùng có khả năng xây dựng và phát triển<br />
1. Mô hình thí điểm đào tạo nghề cho lao vùng nguyên liệu, học viên cũng là lao động<br />
động nông thôn do Hiệp hội Làng nghề Việt tại các vùng quy hoạch trồng nguyên liệu. Với<br />
Nam thực hiện mô hình này, HHLNVN đã cùng với Công ty<br />
Thực hiện đề án “Đào tạo nghề cho lao động TNHH xuất nhập khẩu Mai Bình tổ chức đào tạo<br />
nông thôn đến năm 2020” theo Quyết định 1956/ nghề trồng và chăm sóc cây tăm hương cho 70<br />
QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính lao động tại xã Mông Hóa (huyện Kỳ Sơn, Hòa<br />
phủ, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam (HHLNVN) Bình), đào tạo nghề trồng cây nguyên liệu và<br />
được Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động Thương làm chổi chít cho 70 lao động tại xã Hiền Lương<br />
binh và Xã hội (LĐTB&XH) giao thực hiện thí (huyện Đà Bắc, Hòa Bình). Hiện số lao động này<br />
điểm 3 mô hình đào tạo, tại các làng nghề: đã hoàn thành xong khóa học và được công ty<br />
tạo việc làm, thu mua sản phẩm với thu nhập từ<br />
- Mô hình đào tạo nghề, tổ chức việc làm 1 đến 1,5 triệu đồng/người/tháng.<br />
Ngày nhận bài: 4/3/2017. Ngày phản biện: 10/3/2017. Ngày duyệt đăng: 15/3/2017<br />
(1)<br />
Trường Cao đẳng nghề GTVT Trung ương I; e-mail: nguyentuancdgtvt1@gmail.com Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
- Mô hình đào tạo nghề, tổ chức việc làm Theo Báo cáo của Bộ trưởng Bộ<br />
để duy trì và phát triển các làng nghề: Đây là LĐTB&XH: “Năm 2014, các địa phương trong<br />
mô hình được áp dụng cho các làng nghề truyền toàn vùng Tây Bắc đã tuyển sinh, đào tạo cho hơn<br />
thống, các làng có nghề để duy trì và phát triển 243.000 người được học nghề, bằng 12% tổng<br />
các làng nghề. HHLNVN đã phối hợp với 18 số người được đào tạo nghề cả nước, trong đó có<br />
trung tâm dạy nghề, doanh nghiệp làng nghề tổ hơn 71.000 người dân tộc thiểu số và hơn 13.000<br />
chức đào tạo nghề và đào tạo nâng cao tay nghề người thuộc hộ nghèo”1. Dạy nghề và các chính<br />
cho khoảng 300 lao động tại các làng nghề như: sách liên quan trực tiếp đến đào tạo nhân lực địa<br />
Sơn mài Hạ Thái (Hà Nội), chạm khắc, mộc mỹ phương cũng được chú ý, nguồn nhân lực đã qua<br />
nghệ Hòa Quang Nam (Phú Yên), mộc mỹ nghệ đào tạo của Tây Bắc cũng tăng dần qua các năm.<br />
La Xuyên (Nam Định),… Tỉnh Hoà Bình và Điện Biên có tỷ lệ nhân lực<br />
trên 15 tuổi đã qua đào tạo vượt mức trung bình<br />
Đến nay, sau gần hai năm thực hiện, 3 mô<br />
cả nước. Năm 2014: Tỉnh Lai Châu đã đào tạo<br />
hình thí điểm đào tạo nghề cho lao động nông thôn nghề cho 5.077 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua<br />
do Hiệp hội Làng nghề Việt Nam thực hiện đã thu đào tạo, tập huấn lên 38%, giải quyết việc làm cho<br />
được những hiệu quả rất tích cực. Hơn 90% số lao 6.600 lao động, trong đó xuất khẩu 100 lao động;<br />
động được đào tạo đã có việc làm và thu nhập ổn Tỉnh Yên Bái tạo việc làm mới cho 18.174 lao<br />
định từ 1,5 đến 1,8 triệu đồng/người/ tháng, khả động (xuất khẩu lao động đạt 742 người)2.<br />
năng hình thành được các làng nghề mới rất khả<br />
quan. Đặc biệt, với mô hình đào tạo nghề gắn với Căn cứ vào các nghề truyền thống, vào nhu<br />
phát triển vùng nguyên liệu, không chỉ người dân cầu, vào khả năng sản xuất và bao tiêu sản phẩm<br />
có việc làm, có thu nhập ổn định, nghề tiểu thủ của địa phương trong tỉnh, các tỉnh miền núi phía<br />
công nghiệp được nhân rộng mà doanh nghiệp đã bắc đã tổ chức để các cơ sở dạy nghề đấu thầu<br />
xây dựng và phát triển được vùng nguyên liệu qua đào tạo nghề cho bà con nông dân tại các xã,<br />
đó chủ động được nguyên liệu cho sản xuất, nhất huyện, thị trấn, theo mô hình đào tạo nghề “cầm<br />
là trong tình trạng nguồn nguyên liệu tự nhiên tay, chỉ việc”, gắn các lớp dạy nghề với các cơ<br />
ngày một suy kiệt như hiện nay. sở sản xuất. Ngành nghề được đào tạo ở Tây bắc<br />
chủ yếu là nghề nông nghiệp và chế biến nông,<br />
Việc thực hiện thí điểm 3 mô hình đào lâm, thổ sản.<br />
tạo tại các làng nghề đã giải quyết được một số<br />
vướng mắc lớn trong quá trình triển khai đề án 3. Mô hình đào tạo nghề cho lao động<br />
đào tạo nghề như: Đầu ra cho người học nghề, nông thôn ở Tây Nguyên<br />
nguồn nguyên liệu cho sản xuất, bao tiêu sản Theo Thường trực Ban Chỉ đạo Tây<br />
phẩm và thu nhập của người lao động,… điều Nguyên, kết quả thực hiện Đề án 19563, các tỉnh<br />
quan trọng nhất mà hiệp hội đã đạt được trong Tây Nguyên đã tuyển sinh dạy nghề cho gần<br />
quá trình thực hiện 3 mô hình là sự liên kết chặt 90.000 lao động nông thôn. Chất lượng đào tạo<br />
chẽ của chính quyền địa phương, cơ quan nhà nghề cũng từng bước được nâng lên. Cụ thể: Từ<br />
nước có chức năng điều phối thực hiện đề án, năm 2010 đến năm 2013, tỷ lệ lao động nông thôn<br />
các hiệp hội, hội, các tổ chức xã hội và từ bản sau khi học nghề được các doanh nghiệp tuyển<br />
thân các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tham gia dụng hoặc tự tạo việc làm tại chỗ đạt trên 78%,<br />
đào tạo nghề, bao tiêu sản phẩm. Sự chung sức trong đó có trên 2.000 hộ nghèo có việc làm, thu<br />
đồng lòng của xã hội là thuận lợi lớn để đề án nhập ổn định và đã thoát nghèo; 2.687 hộ đầu tư<br />
được triển khai và thu được hiệu quả như mong mở rộng sản xuất, thành lập các tổ sản xuất kinh<br />
muốn. 3 mô hình đã đem lại triển vọng mới cho doanh dịch vụ và trở thành hộ có thu nhập khá<br />
công tác đào tạo nghề và tổ chức việc làm cho so với bình quân chung của địa phương. Hiện<br />
lao động khu vực nông thôn cũng như tạo sự hỗ 1<br />
. Báo cáo tại Hội nghị Đánh giá thực trạng thực hiện<br />
trợ cần thiết cho sự phát triển của các làng nghề. chính sách xuất khẩu lao động, dạy nghề, giảm nghèo tại<br />
các huyện khó khăn vùng Tây Bắc, Tháng 1 năm 2015.<br />
2. Mô hình đào tạo nghề cho lao động 2<br />
. Tlđd.<br />
nông thôn ở Tây Bắc 3<br />
. Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn.<br />
<br />
38 Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Tây Nguyên nghề có nhiệm vụ đào tạo các nghề theo nhu cầu,<br />
đạt khoảng 37%, trong đó qua đào tạo nghề nguyện vọng của lao động nông thôn; nhà nông<br />
khoảng 30%. Từ năm 2005 đến nay, các tỉnh Tây là những nông dân trong độ tuổi lao động có nhu<br />
Nguyên đã giải quyết việc làm cho trên 805.950 cầu, nguyện vọng học nghề, đào tạo các nghề<br />
lao động, chủ yếu là lao động ở nông thôn, trong để phục vụ sản xuất nông nghiệp hoặc phi nông<br />
đó nhiều lao động là đồng bào dân tộc thiểu số nghiệp, đào tạo xong có việc làm ổn định, có thu<br />
(DTTS). Trong những năm qua, công tác dạy nhập, vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu;<br />
nghề ở Tây Nguyên đã phát triển theo hướng gắn nhà doanh nghiệp cung cấp đầu vào, đầu ra cho<br />
với các chương trình về lao động, việc làm, xuất lao động nông thôn tham gia học nghề và đồng<br />
khẩu lao động, xoá đói, giảm nghèo nên đã có hành cùng với người học nghề, đến khi kết thúc<br />
những hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, trên thực tế, số khóa học có thể sử dụng hoặc hỗ trợ người lao<br />
lượng lao động qua đào tạo nói chung và đào tạo động đã học nghề tìm việc làm ổn định. Song<br />
nghề nói riêng ở các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn song với việc triển khai điều tra về nhu cầu học<br />
thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của nghề, nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo của<br />
vùng. Chất lượng đào tạo nghề chưa cao, trình các doanh nghiệp và thực trạng các cơ sở dạy<br />
độ người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu nghề trên địa bàn, các tỉnh đã cụ thể hóa các mô<br />
của thị trường lao động, việc xuất khẩu lao động hình dạy nghề, phát huy thế mạnh của từng địa<br />
còn nhiều hạn chế,… phương để đào tạo nghề phù hợp với lao động<br />
Giai đoạn 2011 - 2020, các tỉnh Tây nông thôn, người DTTS như: sửa chữa máy nông<br />
Nguyên tập trung đào tạo đủ nguồn nhân lực cho nghiệp; kỹ thuật chăn nuôi, thú y; kỹ thuật trồng<br />
các ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn của trọt và bảo vệ thực vật; đan mây tre; dệt thổ cẩm;<br />
vùng như công nghiệp thủy điện, khai thác trồng nấm; may dân dụng; may công nghiệp; sửa<br />
khoáng sản; chế biến nông lâm sản, nhân lực kỹ chữa xe gắn máy; xây dựng dân dụng,… Các cơ<br />
thuật phục vụ cho sự phát triển của ngành trồng sở dạy nghề chú trọng thực hiện hình thức dạy<br />
cây công nghiệp như cà phê, cao su, điều,…. Các nghề gắn với doanh nghiệp sản xuất. Trường Cao<br />
tỉnh Tây Nguyên cũng đưa ra các giải pháp nâng đẳng nghề Đắc Lắc (tỉnh Đắc Lắc) thường xuyên<br />
cao chất lượng đào tạo nghề gắn với giải quyết có khoảng 10 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh<br />
việc làm cho thanh niên, phụ nữ nông thôn như liên kết đào tạo. Các doanh nghiệp đối tác của<br />
phát triển mạng lưới đào tạo nghề, tư vấn, giới Trường Cao đẳng Nghề mỗi năm đều tiếp nhận<br />
thiệu việc làm trên địa bàn. Dự kiến, trong thời từ 20 đến 50 học sinh nghề của trường về thực<br />
gian tới, Tây Nguyên sẽ đầu tư xây dựng mới các tập, rèn luyện tay nghề,…<br />
trường dân tộc nội trú hoặc thành lập khoa dân Thực hiện liên kết “4 nhà”, giai đoạn 2007<br />
tộc nội trú tại các trường cao đẳng nghề, trung - 2010, Sở LĐTB&XH tỉnh Đắc Lắc đã ký kết<br />
cấp nghề ở 5 tỉnh Tây Nguyên. Đồng thời, tổ với các cơ sở dạy nghề trên địa bàn để đào tạo lao<br />
chức lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp động với tổng kinh phí là 28 tỷ 715 triệu đồng.<br />
ở tất cả các huyện thuộc 5 tỉnh Tây Nguyên, Mạng lưới các cơ sở dạy nghề trên địa<br />
tập trung đầu tư các thiết bị dạy nghề, bổ sung bàn tỉnh hiện nay đã tổ chức đào tạo rất nhiều<br />
đội ngũ cán bộ, giáo viên đạt chuẩn, xây dựng nghề phù hợp với lao động nông thôn. Việc dạy<br />
chương trình, giáo trình, bổ sung ngành nghề đào nghề đã cải thiện được đáng kể về chất lượng lao<br />
tạo để đảm nhiệm việc dạy nghề cho người lao động, học sinh học nghề, sau khi tốt nghiệp có<br />
động trên địa bàn. nhiều cơ hội tìm được việc làm và làm việc có<br />
Mô hình đào tạo nghề ở Tây Nguyên hiện hiệu quả hơn. Dạy nghề đã giải quyết việc làm,<br />
nay là sự phối hợp, liên kết của “4 nhà” (nhà quản tự tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động và<br />
lý, nhà trường, nhà nông và nhà doanh nghiệp). thu nhập cho học sinh tốt nghiệp trong đó có học<br />
Nhà quản lý có nhiệm vụ đảm bảo thực hiện đầy sinh DTTS. Hoạt động dạy nghề đã thúc đẩy sự<br />
đủ các chính sách của đề án hỗ trợ cho lao động phát triển đa dạng các ngành nghề ở nông thôn,<br />
nông thôn tham gia học nghề; nhà trường là các vùng đồng bào DTTS, góp phần nâng cao dần<br />
trung tâm dạy nghề, các trường nghề, cơ sở dạy mặt bằng dân trí, điều kiện dân sinh, chuyển dịch<br />
<br />
Số 17 - Tháng 3 năm 2017 39<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; khơi dậy tính nghề cho lao động nông thôn, gồm: 09 trường<br />
chủ động tích cực vươn lên trong xóa đói giảm cao đẳng nghề; 28 trường trung cấp nghề; 106<br />
nghèo và phát huy được thế mạnh sẵn có của địa trung tâm dạy nghề; 2 trung tâm kỹ thuật tổng<br />
phương. Hoạt động dạy nghề cũng đem lại lợi hợp hướng nghệp; 16 trung tâm giáo dục thường<br />
ích nhiều mặt của cuộc sống đến với người lao xuyên; 45 doanh nghiệp, hợp tác xã và 76 cơ sở<br />
động, góp phần đẩy lùi những tập quán canh tác khác. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, đã<br />
cũ kỹ, lạc hậu để tiếp cận với phong cách, kỹ có 303.298 lao động nông thôn được học nghề,<br />
năng lao động mới. trong đó có 231.273 người có việc làm sau đào<br />
4. Mô hình đào tạo nghề cho lao động tạo, đạt 76,25%. Trong số này lao động nông<br />
nông thôn ở Tây Nam bộ thôn sau học nghề được doanh nghiệp tuyển<br />
dụng là 37.462 người, số lao động tự tìm việc<br />
Trong 3 năm (2010-2012) triển khai Quyết làm là 161.811 người,... Hiện có 9.556 hộ nghèo<br />
định 1956 của Thủ tướng Chính phủ về “Đào tạo có người tham gia học nghề đã thoát được nghèo,<br />
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, trong tổng số 44.959 người nghèo tham gia học<br />
các tỉnh Tây Nam Bộ đã huy động được 282 nghề; 8.293 hộ gia đình có người tham gia học<br />
cơ sở tham gia dạy nghề cho 311.556 lao động nghề trở thành hộ khá.<br />
nông thôn. Trong đó, có 303.298 lao động đã học<br />
xong, 231.273 người có việc làm sau đào tạo, Một số địa phương đã xây dựng được mô<br />
đạt 76,25% (bình quân chung cả nước trong 3 hình dạy nghề đạt hiệu quả cần nhân rộng như:<br />
năm đạt 78,93%). Sáu tháng đầu năm 2013, toàn Tỉnh Bến Tre, xây dựng mô hình đào tạo nghề<br />
vùng đã tổ chức dạy nghề cho 38.040 lao động theo địa chỉ với nghề may công nghiệp, người<br />
nông thôn, bằng 29% kế hoạch năm 2013. học được giải quyết việc làm ngay sau khi đào<br />
tạo với mức lương tối thiểu 1,8 đồng/người/<br />
Hàng năm, các địa phương trong vùng đều tháng; dạy nghề theo mô hình trồng cây chuyên<br />
tổ chức hội nghị, triển khai, rút kinh nghiệm về canh, xen canh như nghề trồng cây dừa, nghề<br />
công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. trồng dừa và ca cao đan xen, số lao động có việc<br />
Sau ba năm triển khai thực hiện, toàn vùng đã làm ổn định sau học nghề đạt trên 80%. Hai tỉnh<br />
có 104/130 đơn vị cấp huyện có lao động nông An Giang và Hậu Giang xây dựng mô hình dạy<br />
thôn đã được bố trí cán bộ chuyên trách về dạy nghề kỹ thuật trồng lúa giống, kỹ thuật trồng lúa<br />
nghề tại Phòng LĐTB&XH; 106/130 đơn vị cấp chất lượng cao. Đồng Tháp, Tiền Giang và Trà<br />
huyện có cơ sở dạy nghề công lập đóng trên địa Vinh xây dựng mô hình dạy nghề đan ghế nhựa,<br />
bàn. Tuy nhiên, mạng lưới cơ sở dạy nghề toàn tỷ lệ lao động có việc làm sau học nghề đạt từ 70-<br />
vùng còn thiếu và nhiều bất cập; vẫn còn 26/130 80%, mức thu nhập bình quân tăng thêm 1,5 triệu<br />
huyện chưa bố trí cán bộ chuyên trách về dạy đồng/người/tháng; dạy nghề may công nghiệp,<br />
nghề tại Phòng LĐTB&XH huyện; 24 huyện lao động được giải quyết việc làm đạt 100%, thu<br />
thuộc 5 tỉnh, thành phố là Cần Thơ, Long An, nhập ổn định từ 2,5- 3 triệu đồng/ tháng. Thành<br />
Tiền Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang chưa phố Cần Thơ mở lớp dạy nghề kết cườm, trồng<br />
thành lập trung tâm dạy nghề hoặc trường trung nấm linh chi và đã được doanh nghiệp ký kết hợp<br />
cấp nghề trên địa bàn huyện. Việc tập huấn, bồi đồng gia công, bao tiêu sản phẩm giải quyết việc<br />
dưỡng nghiệp vụ quản lý dạy nghề cho lao động làm ổn định và lâu dài cho nhiều người lao động.<br />
nông thôn đạt thấp. Hai tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu đang triển khai<br />
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, tính đến mô hình dạy nghề thuyền trưởng, máy trưởng<br />
tháng 6 năm 2013 : Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, cho ngư dân trên tàu đánh bắt xa bờ. Đồng Tháp,<br />
thành phố đã phê duyệt danh mục nghề đào tạo Bạc Liêu, Trà Vinh, Kiên Giang dạy nghề nuôi<br />
gồm 757 lượt nghề, trong đó 252 lượt nghề nông trồng, chế biến thủy sản.<br />
nghiệp và 505 lượt nghề phi nông nghiệp, đồng Mô hình đào tạo nghề hiệu quả ở các tỉnh<br />
thời đã phê duyệt chi phí đào tạo nghề cho 674 Tây Nam bộ là sự gắn kết của các cấp chính<br />
lượt nghề. Từ năm 2010 đến năm 2012, toàn quyền, người lao động với các doanh nghiệp<br />
vùng đã huy động được 282 cơ sở tham gia dạy trong đào tạo, giải quyết việc làm - đào đạo nghề<br />
<br />
40 Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
gắn với giải quyết việc làm cho lao động nông cho huyện điểm, huyện miền núi có đông đồng<br />
thôn (đào tạo nghề theo địa chỉ) và dạy nghề tại bào DTTS để đẩy mạnh công tác tuyên truyền<br />
các làng nghề, tổ hợp tác tiểu thủ công nghiệp. trên địa bàn. Cụ thể, dạy kỹ thuật nuôi bò, kỹ<br />
Cách đào tạo nghề này đã giải quyết việc làm thuật trồng rau an toàn, xây dựng dân dụng ở<br />
cho 85% lao động nông thôn tại địa phương và An Giang được tổ chức, với trên 500 lao động<br />
phát triển vùng nguyên liệu tại chỗ. dân tộc thiểu số tham gia học nghề, tỉ lệ có việc<br />
Thực tế cho thấy, việc triển khai công tác làm sau khóa học đạt 64%. Thông qua các lớp<br />
đào tạo nghề gắn với chương trình xây dựng nông dạy nghề, người lao động DTTS được phổ biến<br />
thôn mới thời gian qua đã và đang phát huy hiệu kiến thức khoa học, phương pháp canh tác mới,<br />
quả bước đầu tại nhiều địa phương thuộc Tây kỹ thuật tiên tiến, giúp giảm rủi ro và chi phí sản<br />
Nam bộ. Hầu hết các mô hình thí điểm dạy nghề xuất, nâng cao hiệu quả canh tác và lợi nhuận.<br />
đã phát huy tác dụng, tạo điều kiện cho người Nghề dệt thổ cẩm Khmer và Chăm phù hợp lao<br />
học nghề có cơ hội tìm việc làm, tăng thu nhập động nữ DTTS nên được đầu tư, đào tạo ở các<br />
và ổn định cuộc sống. Nhiều hộ đã thoát nghèo tỉnh có đông chị em phụ nữ Khmer, Chăm. Các<br />
chỉ sau một năm học nghề, có hộ trở thành hộ mô hình thuộc nhóm nghề nông nghiệp, sau khi<br />
khá. Việc nhân rộng các mô hình dạy nghề này sẽ học nghề, người lao động tự tạo việc làm tại chỗ,<br />
góp phần tạo thêm nhiều chuyển biến tích cực về đồng thời chính quyền và đoàn thể địa phương<br />
đời sống cho lao động nông thôn sau học nghề. giới thiệu vay vốn, tư vấn phương pháp làm ăn,<br />
nâng cao hiệu quả kinh tế gia đình,... Việc triển<br />
Đối với các tỉnh có đông đồng bào DTTS khai thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ dạy nghề<br />
sinh sống như Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, gắn với giải quyết việc làm đã giúp cho lao động<br />
Kiên Giang,… công tác đào tạo nghề nông DTTS sau khi học nghề có việc làm, đời sống gia<br />
nghiệp như làm thủy lợi đối với các chân đất đình ngày càng nâng cao.<br />
cao, kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc cây con,…<br />
cho bà con nông dân được đặc biệt chú trọng. Sở Tài liệu tham khảo:<br />
Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Nông 1. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa<br />
dân, Đoàn thanh niên của các tỉnh phối hợp tổ XHCN Việt Nam, Quyết định số 630/QĐ-TTg<br />
chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ cơ sở, tuyên ngày 29/5/2012 phê duyệt chiến lược dạy nghề<br />
truyền về Đề án dạy nghề cho lao động nông thời kỳ 2011 - 2020;<br />
thôn; phát tờ bướm, tờ rơi in bằng các thứ tiếng<br />
như tiếng Việt và tiếng Khmer hoặc tiếng Việt và 2. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa<br />
tiếng Chăm tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa, XHCN Việt Nam, Quyết định số 1956/2009/<br />
các chính sách, chế độ hỗ trợ học nghề theo QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 phê duyệt<br />
Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ đến Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai<br />
các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, hỗ trợ kinh phí đoạn 2011-2020.<br />
<br />
<br />
ABSTRACT<br />
SOME TRAINING MODELS FOR RURAL LABOR IN VIETNAM<br />
Thanks to the attention of the Party and the State, the network of vocational training<br />
institutions for rural labor has been invested, upgraded and trained in many fields suitable for rural<br />
labor. Vocational training has significantly improved labor quality, job creation, self-employment,<br />
improved labor productivity and income for rural labor, contributing to the diversified development<br />
of rural areas and ethnic minority areas, gradually improving people’s knowledge, living conditions,<br />
economic restructuring, labor structure, hunger and poverty reduction and promoting the strengths<br />
of each local area. Vocational training also benefits many aspects of life for workers, contributing to<br />
repelling the old and outdated farming practices to gain access to new styles and labor skills.<br />
Keywords: Models; Vocational Training; Rural Labor; .<br />
<br />
Số 17 - Tháng 3 năm 2017 41<br />