intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số nghiên cứu về khó khăn tâm lí trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường cao đẳng, đại học

Chia sẻ: Danh Nguyen Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

85
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đề cập một số nghiên cứu ở trong và ngoài nước về những khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học cho thấy, vấn đề khó khăn tâm lí này đã được các nhà khoa học xem xét dưới các góc độ khác nhau, với nhiều khách thể và lĩnh vực khác nhau nhằm xác định biểu hiện, nguyên nhân gây ra những khó khăn tâm lí trong học nghề, ảnh hưởng của những khó khăn tâm lí đó đến hiệu quả học tập của sinh viên và một số biện pháp hỗ trợ nhằm giảm thiểu những khó khăn tâm lí này ở sinh viên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số nghiên cứu về khó khăn tâm lí trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường cao đẳng, đại học

VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br /> <br /> MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÍ TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP<br /> CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC<br /> Bùi Đức Minh - Ban Tổ Chức tỉnh uỷ Sơn La<br /> Ngày nhận bài: 26/05/2018; ngày sửa chữa: 15/06/2018; ngày duyệt đăng: 18/06/2018.<br /> Abstract: The paper mentions some domestic and international studies on psychological<br /> difficulties in apprenticeship of students at colleges and universities. These studies have been<br /> considered from many different perspectives, subjects and fields in order to determine the<br /> manifestation and causes of psychological difficulties in apprenticeship of students as well as the<br /> effect of these difficulties on the learning effectiveness of students. Also, the article proposes some<br /> measures to minimize these psychological difficulties in apprenticeship of students.<br /> Keywords: Difficulties, psychological difficulties, apprenticeship, students.<br /> 1. Mở đầu<br /> Hoạt động học tập ở trường cao đẳng (CĐ), đại học<br /> (ĐH) là hoạt động học tập nghề nghiệp; nội dung học tập<br /> là hệ thống tri thức, kĩ năng liên quan đến các khoa học<br /> cơ bản, khoa học cơ sở của chuyên ngành và chuyên<br /> ngành gắn với nghề nghiệp tương lai của người học. Việc<br /> nắm vững nội dung học tập là điều kiện quan trọng giúp<br /> sinh viên (SV) trở thành những “chuyên gia” trong một<br /> lĩnh vực nghề nghiệp. Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động<br /> dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ<br /> nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được<br /> việc làm hay tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học<br /> hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp (Điều 3, khoản 2,<br /> Luật Giáo dục nghề nghiệp, 2014) [1].<br /> Vì vậy, bước vào môi trường CĐ, ĐH là bước ngoặt<br /> quan trọng đối với SV, là cơ hội để SV tích lũy tri thức<br /> và kĩ năng nghề nghiệp, tạo điều kiện cho họ có được<br /> một nghề nghiệp ổn định sau này, từ đó có được một cuộc<br /> sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, đó cũng là một quá trình<br /> học tập mà SV phải đối mặt với nhiều khó khăn tâm lí<br /> (KKTL); và bên cạnh những cố gắng nỗ lực của bản thân,<br /> SV cần nhận được những biện pháp hỗ trợ phù hợp để có<br /> thể vượt qua những khó khăn đó. Vấn đề KKTL trong<br /> học tập của SV đã được nhiều công trình nghiên cứu ở<br /> nước ngoài và Việt Nam đề cập đến dưới nhiều góc độ<br /> khác nhau. Bài viết đề cập một số nghiên cứu về KKTL<br /> trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH.<br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Phương pháp nghiên cứu<br /> Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là<br /> nghiên cứu tài liệu để phân tích, tổng hợp và khái quát<br /> các xu hướng nghiên cứu về KKTL trong học nghề của<br /> SV các trường CĐ, ĐH.<br /> <br /> 2.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài về khó khăn tâm<br /> lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên<br /> các trường cao đẳng, đại học<br /> Vấn đề KKTL trong học nghề của SV các trường CĐ,<br /> ĐH đã được các tác giả nước ngoài xem xét dưới các góc<br /> độ khác nhau, với nhiều khách thể và lĩnh vực khác nhau<br /> nhằm xác định biểu hiện, nguyên nhân gây ra những<br /> KKTL trong học nghề, ảnh hưởng của những KKTL đó<br /> đến hiệu quả học tập của SV và một số biện pháp hỗ trợ<br /> nhằm giảm thiểu những KKTL này ở SV.<br /> 2.2.1. Những nghiên cứu về các biểu hiện khó khăn tâm lí<br /> trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học<br /> Có thể khái quát thành 4 biểu hiện cụ thể:<br /> - Thứ nhất, là những xúc cảm tiêu cực nảy sinh trong<br /> quá trình học tập tại các trường CĐ và ĐH: bao gồm<br /> chán nản, lo lắng, căng thẳng, thất vọng, buồn phiền, mệt<br /> mỏi, cô độc… Khi nghiên cứu một nhóm 351 SV ở Anh,<br /> Andrew và Wilding (2004) đã phát hiện ra 40% SV có<br /> vấn đề tâm lí được đặc trưng bởi sự lo lắng và căng thẳng<br /> [2], kết quả nghiên cứu của Sarason I.G. và Sarason B.R<br /> (2002) cũng cho thấy, nhiều SV khi vào đại học vì không<br /> thể học tốt nên dẫn đến căng thẳng, từ đó họ liên tục cảm<br /> thấy thất vọng và tuyệt vọng. Họ nhận thấy những điều<br /> tiêu cực và tự coi mình là người thất bại [3]. Tác giả<br /> Palmer và Puri (2006) đã chỉ ra nhiều nhóm khó khăn mà<br /> SV thường gặp phải khi học ở trường ĐH và khó khăn<br /> trong học tập là một khó khăn lớn. Đối với khó khăn<br /> trong học tập, SV có các biểu hiện như lo lắng ngành học<br /> không phù hợp với mong ước của bản thân, các em<br /> không biết nên tiếp tục học hay chuyển nghề, chuyển<br /> trường [4].<br /> - Thứ hai, là vấn đề thích nghi với môi trường học tập<br /> trong trường CĐ, ĐH. Vấn đề tâm lí này thường xảy ra<br /> <br /> 136<br /> <br /> Email: ducminhsw@gmail.com<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br /> <br /> ở đối tượng SV năm thứ nhất. Theo Sade và Coll (2003),<br /> SV khi mới bước vào trường ĐH, ngay từ học kì đầu tiên<br /> đã phải dành thời gian điều chỉnh để phù hợp với môi<br /> trường học tập mới. Đây được coi là vấn đề chính trong<br /> bối cảnh giáo dục đặc thù bởi nhiều SV đến trường ĐH<br /> từ những môi trường khác nhau và họ phải sống trong<br /> môi trường ĐH với nền văn hóa dễ gây sốc. Vì vậy, nền<br /> tảng và sự chuẩn bị của SV đóng vai trò quan trọng đáng<br /> kể [5]. Tổng kết của Palmer và Puri (2006), các nhóm<br /> khó khăn lớn mà SV thường gặp phải khi học ở trường<br /> ĐH, đó là: 1) Khó khăn khi rời mái ấm gia đình và bắt<br /> đầu cuộc sống ở trường ĐH, xa gia đình, người thân và<br /> bạn bè; 2) Khó khăn khi sống ở môi trường mới, cùng<br /> với những người khác; 3) Khó khăn trong việc đảm bảo<br /> ăn uống có lợi cho sức khỏe với điều kiện kinh phí hạn<br /> hẹp; 4) Khó khăn liên quan đến học tập và sự mong chờ<br /> của cá nhân đối với khóa học; 5) Khó khăn liên quan đến<br /> quan hệ xã hội; 6) Khó khăn về kinh tế… [4].<br /> - Thứ ba, là những biểu hiện tâm lí nghiêm trọng và<br /> một số biểu hiện có liên quan đến rối nhiễu và rối loạn<br /> tâm lí, biểu hiện thường gặp là tự gây tổn thương cho cơ<br /> thể, rối loạn ăn uống, sử dụng các chất kích thích, tấn<br /> công tình dục ở trường học, lạm dụng tình dục sớm, tự<br /> tử… Theo kết quả nghiên cứu tại 274 trung tâm tham vấn<br /> (Gallagher, Sysko và Zhang, 2001) [6], có 85% trung<br /> tâm báo cáo rằng, có sự gia tăng các vấn đề tâm lí nghiêm<br /> trọng ở đối tượng SV trong hơn 5 năm qua, bao gồm thất<br /> bại trong học tập (71%), tự sát, tự gây tổn thương cho cơ<br /> thể (51%), rối loạn ăn uống (38%), các vấn đề về chất<br /> cồn (45%), sử dụng các chất kích thích khác (49%), tấn<br /> công tình dục ở trường học (33%) và các vấn đề liên quan<br /> tới sự lạm dụng tình dục sớm (34%). Theo đánh giá, có<br /> khoảng 16% số SV gặp các vấn đề tâm lí nghiêm trọng<br /> (Gallagher, Gill và Sysko, 2000) [7]. Theo một báo cáo<br /> khảo sát quốc gia của Mĩ, 28% SV ĐH năm thứ nhất<br /> thường xuyên cảm thấy bị áp lực và 8% cảm thấy bị suy<br /> nhược (HERI, UCLA, 2000) [8].<br /> - Thứ tư, là những khó khăn trong việc tự nhận thức,<br /> nhận thức và thái độ đối với học tập.<br /> Nghiên cứu về các khó khăn trong quá trình học tập của<br /> SV ở độ tuổi trên 25 chưa tốt nghiệp ĐH, ngoài hai khó khăn<br /> về tổ chức và khó khăn về hoàn cảnh, Cross (1978, 1986)<br /> còn phát hiện thấy một khó khăn chính nữa ở những SV này<br /> là KKTL xuất phát từ thái độ, sự tự nhận thức về chính mình<br /> trong học tập [9], [10]. Darkenwald và Merriam (1982)<br /> đánh giá rằng, các vấn đề KKTL có xu hướng liên quan chặt<br /> chẽ tới hoạt động giáo dục và học tập của người học, đặc<br /> biệt là tiềm năng của người học [11]. Merriam (1984) nhấn<br /> mạnh, KKTL được coi là rào cản mạnh hơn các khó khăn<br /> về tổ chức hay hoàn cảnh vì KKTL phản ánh những trải<br /> nghiệm tiêu cực đối với môi trường học tập [12].<br /> <br /> Như vậy, nhiều tác giả nước ngoài đã quan tâm nghiên<br /> cứu những biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập của<br /> SV. Các nhà nghiên cứu này đã chỉ ra nhiều biểu hiện<br /> KKTL khác nhau nảy sinh ở SV trong quá trình học tập ở<br /> CĐ cũng như ĐH. Tuy nhiên các biểu hiện mới chỉ được<br /> tập trung xem xét ở cấp độ xúc cảm (lo lắng, căng thẳng,<br /> mệt mỏi,…), các biểu hiện ở cấp độ nhận thức và hành vi<br /> trong đời sống tâm lí của SV còn ít được nghiên cứu.<br /> 2.2.2. Những nghiên cứu về nguyên nhân gây ra khó<br /> khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao<br /> đẳng, đại học<br /> Khi nghiên cứu về KKTL trong học tập của SV các<br /> trường CĐ, ĐH, các tác giả nước ngoài đã chỉ ra nhiều<br /> nguyên nhân dẫn đến KKTL trong hoạt động học tập của<br /> SV. Có các nguyên nhân khách quan từ bên ngoài và cả<br /> những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính các em.<br /> Trước hết là yếu tố văn hóa-xã hội như hoàn cảnh gia<br /> đình, cha mẹ thiếu kĩ năng, khả năng thích nghi kém, bạo<br /> lực, sử dụng chất kích thích, cồn và quan hệ tình dục sớm,<br /> các mối liên kết cá nhân lỏng lẻo… có thể dẫn đến tình<br /> trạng gia tăng các vấn đề tâm lí (Gallagher, Gill và Sysko,<br /> 2000) [7].<br /> Tiếp đến là kết quả học tập cũng là một trong những<br /> nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về mức độ KKTL<br /> trong học tập của SV. Nghiên cứu sự khác nhau về các<br /> vấn đề tâm lí của 120 SV trường ĐH Quốc tế Hồi giáo<br /> có học lực giỏi và yếu, Safree, Yasin, Dzulkifli nhận định<br /> rằng, thành tích học tập kém là một trong những nguyên<br /> nhân gây ra các vấn đề tâm lí ở SV. Kết quả nghiên cứu<br /> cho thấy, những SV có học lực kém thường có mức độ<br /> lo âu, căng thẳng cao hơn những SV có học lực giỏi [13].<br /> Ngoài ra, là vấn đề thiếu hụt các kĩ năng. Nghiên cứu<br /> sự thiếu hụt kĩ năng xã hội - một yếu tố làm gia tăng các<br /> vấn đề tâm lí trên 118 SV ở Mĩ đã cho phép các tác giả<br /> Segrin, Chris và Flora, Jeanne (2000) đưa ra nhận định<br /> rằng, sự thiếu hụt các kĩ năng xã hội chính là một trong<br /> những nguyên nhân dẫn đến những KKTL ở SV. Những<br /> SV có kĩ năng xã hội thấp có KKTL cao hơn các SV có<br /> kĩ năng xã hội tốt [14].<br /> Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy rằng, các tác<br /> giả nước ngoài đã chỉ ra khá nhiều nguyên nhân khác<br /> nhau dẫn đến KKTL trong học tập của SV, trong đó tập<br /> trung chủ yếu vào các nguyên nhân chủ yếu như chuyển<br /> cấp học, môi trường học tập thay đổi, sự không chuẩn bị<br /> sẵn sàng về mặt tâm lí, sự chưa trưởng thành về mặt nhân<br /> cách của SV, động cơ, thái độ học tập, thiếu sự hỗ trợ kịp<br /> thời của nhà trường, giảng viên… Tuy nhiên, KKTL của<br /> SV trong hoạt động học tập, đặc biệt là của SV dân tộc ít<br /> người trong học nghề còn bắt nguồn từ niềm tin vào khả<br /> năng học tập của chính bản thân SV, khả năng sử dụng<br /> <br /> 137<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br /> <br /> ngôn ngữ phổ thông, tính tích cực và chủ động trong học<br /> nghề, điều kiện và phương tiện thực hành nghề, năng lực<br /> và phương pháp giảng dạy hướng dẫn thực hành nghề<br /> của giảng viên, hỗ trợ từ gia đình… Những yếu tố này<br /> còn ít được các tác giả nước ngoài đề cập đến.<br /> 2.2.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của khó khăn tâm<br /> lí trong học nghề đến hiệu quả học tập của sinh viên các<br /> trường cao đẳng, đại học<br /> KKTL của SV cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực tới<br /> hiệu quả học tập, tỉ lệ lưu ban và tốt nghiệp của họ.<br /> Brackney và Karabenick (1995) phát hiện ra rằng, mức<br /> độ KKTL cao ở SV liên quan chặt chẽ đến hiệu quả học<br /> tập. SV có mức độ KKTL cao thì cảm giác lo lắng về thi<br /> cử gia tăng, khả năng tự học, hiệu quả quản lí thời gian<br /> và sử dụng các nguồn lực trong học tập thấp. Họ cũng<br /> thiếu kiên trì hơn khi phải đối mặt với khó khăn cũng như<br /> sử dụng các chiến lược học tập hiệu quả hay tìm kiếm sự<br /> hỗ trợ về học tập [15].<br /> Kết quả nghiên cứu của Goodwin (2006) trên nhóm<br /> SV dân tộc ít người cho thấy, với nhiều SV, khó khăn<br /> được nhìn nhận như là thử thách trong cuộc đời, giúp SV<br /> trưởng thành hơn khi cố gắng vượt qua. Tuy nhiên, với<br /> không ít SV, khó khăn gặp phải trong thời gian học ĐH<br /> đã để lại dấu ấn nặng nề trong tâm trí, gây căng thẳng,<br /> giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng tiêu cực đến kết<br /> quả học tập và tương lai nghề nghiệp sau này [16].<br /> Như vậy, những áp lực từ hoạt động học tập gây ra<br /> những KKTL cho SV, ngược lại, những căng thẳng, lo<br /> lắng, buồn phiền, mệt mỏi… (những KKTL) làm cho SV<br /> cảm thấy suy kiệt, thất vọng và tuyệt vọng, từ đó làm ảnh<br /> hưởng nghiêm trọng đến hoạt động học tập của SV, làm<br /> giảm hiệu quả học tập và ảnh hưởng tiêu cực đến tương<br /> lai nghề nghiệp của các em sau này. Có thể khẳng định<br /> rằng, các cá nhân có mức độ KKTL cao thường thiếu các<br /> kĩ năng xử lí thông tin - yếu tố có tính quyết định tới hiệu<br /> quả học tập và thành công của họ<br /> 2.2.4. Những nghiên cứu về biện pháp hỗ trợ để giảm<br /> thiểu khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các<br /> trường cao đẳng, đại học<br /> Trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn đến KKTL<br /> trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài cũng đã đề<br /> xuất một số biện pháp góp phần giảm thiểu KKTL trong<br /> học tập của SV.<br /> Để giảm thiểu các khó khăn, rào cản trong quá trình<br /> học tập của người học, theo các nhà tâm lí học, sự tham<br /> vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc biệt quan<br /> trọng (Caplan, 1970; Friend và Cook, 1996) [17], [18].<br /> Hoạt động tham vấn tập trung vào các khía cạnh tâm lí<br /> của hành vi con người, quá trình can thiệp và các kết quả.<br /> Mặc dù sự tham vấn chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề<br /> <br /> cá nhân của người học, song trong nhiều trường hợp, nó<br /> liên quan tới sự cộng tác của tập thể nhằm cải thiện môi<br /> trường lớp học, trường học và thúc đẩy sự phát triển tâm<br /> lí tích cực của tất cả các thành viên.<br /> Tại các trường ĐH, CĐ, bộ phận tham vấn tâm lí có<br /> nhiệm vụ hỗ trợ SV nhằm xác định và đạt được các mục<br /> tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua cung cấp<br /> tư vấn về việc phát triển, ngăn chặn và phòng ngừa. Theo<br /> truyền thống, có sự nhấn mạnh vào việc tư vấn phát triển<br /> và phòng ngừa. Tuy nhiên, vai trò và chức năng của bộ<br /> phận tham vấn thuộc các trường ĐH và CĐ tiếp tục thay<br /> đổi để đáp ứng với một loạt các yếu tố xã hội, chính trị và<br /> kinh tế (CAS, 1999) [19]. Theo Archer và Cooper (1998),<br /> việc cung cấp dịch vụ tham vấn cho SV về sự đa văn hóa<br /> và giới tính, nhu cầu phát triển và nghề nghiệp, sự thay đổi<br /> cuộc sống, sự căng thẳng, bạo lực và các vấn đề tâm lí<br /> nghiêm trọng khác là một trong những thách thức lớn của<br /> bộ phận tham vấn thuộc các trường ĐH, CĐ [15].<br /> Như vậy, trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn<br /> đến KKTL trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài<br /> nhận thấy rằng, cần phải có các biện pháp can thiệp phù<br /> hợp và hữu hiệu mới có thể hạn chế được những KKTL<br /> này ở các em. Theo các nhà tâm lí học nước ngoài, để<br /> giảm thiểu các KKTL trong quá trình học tập của người<br /> học, sự tham vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc<br /> biệt quan trọng trong việc hỗ trợ SV xác định và đạt được<br /> các mục tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua<br /> cung cấp dịch vụ tham vấn ngăn chặn và phòng ngừa<br /> KKTL.<br /> Tóm lại, dưới góc độ hoạt động học tập, nghiên cứu<br /> của các tác giả nước ngoài thường đi sâu vào lĩnh vực<br /> tâm lí của người học cũng như sự thay đổi môi trường<br /> học tập từ cấp học này sang cấp học khác. Các nghiên<br /> cứu tập trung vào những biểu hiện KKTL, nguyên nhân<br /> gây ra KKTL, ảnh hưởng của KKTL đến hiệu quả học<br /> tập của SV nói chung, SV năm thứ nhất nói riêng và bao<br /> quát đến nhóm đối tượng SV lớn tuổi và một số nhóm<br /> SV yếu thế. Đặc biệt, các tác giả nước ngoài đã nhấn<br /> mạnh tầm quan trọng của hoạt động tham vấn tâm lí<br /> trong nhà trường và vai trò cần thiết của đội ngũ các nhà<br /> tâm lí học trong việc hỗ trợ, tham vấn học đường nhằm<br /> cải thiện môi trường lớp học, trường học, thúc đẩy sự<br /> phát triển tâm lí tích cực của SV; từ đó giảm thiểu và hạn<br /> chế KKTL ở các em trong quá trình học tập.<br /> 2.3. Những nghiên cứu ở trong nước về khó khăn tâm<br /> lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên<br /> các trường cao đẳng, đại học<br /> Ở Việt Nam, KKTL trong hoạt động học tập nghề<br /> nghiệp của SV các trường CĐ và ĐH cũng đã được nhiều<br /> tác giả quan tâm nghiên cứu, tập trung vào ba hướng<br /> chính sau:<br /> <br /> 138<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br /> <br /> 2.3.1. Những nghiên cứu về các biểu hiện khó khăn tâm<br /> lí trong học nghề của sinh viên trường cao đẳng, đại học<br /> - Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động học tập của SV<br /> năm thứ nhất: nhiều tác giả trong nước đã chỉ ra rằng, đa<br /> số SV năm thứ nhất đều gặp KKTL trong học tập. KKTL<br /> của SV năm thứ nhất thường biểu hiện trên ba mặt nhận<br /> thức, thái độ và hành vi trong các khâu của hoạt động học<br /> tập. Kết quả nghiên cứu của đa số các tác giả theo hướng<br /> này đều chỉ ra rằng, SV năm thứ nhất gặp khó khăn nhiều<br /> nhất ở mặt hành vi, còn nhận thức và thái độ/xúc cảm đối<br /> với hoạt động học tập thì có thể thay đổi vị trí cho nhau.<br /> Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Thức và Đào<br /> Thị Lan Hương (2007) cho thấy, các biểu hiện KKTL<br /> trong hoạt động học tập của những SV này thể hiện chủ<br /> yếu ở ba mặt nhận thức, xúc cảm và kĩ năng học tập [20].<br /> Sử dụng phương pháp chính là điều tra viết tác giả Đặng<br /> Thị Lan (2015) đã chỉ ra những biểu hiện KKTL trong hoạt<br /> động học ngoại ngữ của SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất<br /> ở Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐH Quốc gia Hà Nội. Kết quả<br /> nghiên cứu thực tiễn cho thấy, thời gian đầu học ngoại ngữ<br /> ở Trường ĐH Ngoại ngữ, SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất<br /> còn gặp khá nhiều khó khăn trong hoạt động học ngoại ngữ<br /> cả về nhận thức, thái độ và kĩ năng, trong đó các em gặp khó<br /> khăn nhiều hơn về mặt kĩ năng [21].<br /> Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động nghiên cứu<br /> khoa học của SV trường ĐH Trà Vinh, Phạm Văn Tuân<br /> (2013) cũng đã nhận định rằng, SV hiện nay đang gặp<br /> phải nhiều KKTL khi tham gia hoạt động nghiên cứu<br /> khoa học, chính những khó khăn này đang cản trở tính<br /> tích cực nghiên cứu khoa học của SV [22].<br /> Bên cạnh những biểu hiện KKTL vừa phân tích ở trên,<br /> khi nghiên cứu về những biểu hiện KKTL của SV trong<br /> hoạt động học tập một số ít tác giả trong nước còn đưa ra<br /> các biểu hiện KKTL khác trong các nghiên cứu cụ thể của<br /> mình. Chẳng hạn, 1) Các biểu hiện KKTL cụ thể trong các<br /> khâu của quá trình học tập; 2) Các biểu hiện KKTL trong<br /> hoạt động học tập và trong các lĩnh vực khác của cuộc<br /> sống; 3) Các biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập theo<br /> hệ thống tín chỉ; 4) Các biểu hiện KKTL trong hoạt động<br /> học tập ở những nhóm SV yếu thế.<br /> - Hướng nghiên cứu về những biểu hiện KKTL trong<br /> hoạt động học tập và trong các lĩnh vực khác của cuộc<br /> sống có tác giả Đỗ Thị Hạnh Phúc và Triệu Thị Hương<br /> (2007), nghiên cứu trên 315 SV về thực trạng KKTL của<br /> SV Học viện Cảnh sát Nhân dân sát, cho thấy: hầu hết<br /> SV đôi khi đều gặp tất cả các KKTL trên tất cả các lĩnh<br /> vực của cuộc sống. Ngoài những khó khăn mang tính đặc<br /> trưng của lứa tuổi như “Tình bạn khác giới, tình yêu”;<br /> “Giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống”…, SV Học viện<br /> Cảnh sát Nhân dân còn có những khó khăn mang tính<br /> <br /> đặc thù liên quan đến những quy định của ngành, của<br /> trường như điều kiện sinh hoạt, “Quy định của trường,<br /> của ngành”… [23].<br /> Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động học tập của 82<br /> SV hệ cử tuyển Trường ĐH Sư phạm, ĐH Thái Nguyên,<br /> Nguyễn Thị Út Sáu (2009) đã chỉ ra một số KKTL mà<br /> SV gặp phải trong học tập theo hệ thống tín chỉ như:<br /> phương pháp học tập của SV còn thiếu tính chủ động,<br /> sáng tạo, chưa có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu; SV chưa<br /> có thói quen làm việc qua mạng như đăng kí thông tin<br /> qua mạng, còn có tâm lí ngại liên hệ trực tiếp với phòng<br /> đào tạo, với cán bộ phụ trách học tập; trong quá trình học<br /> tập, SV bị căng thẳng tâm lí, lo sợ vì không được thi lại<br /> và có nguy cơ bị đào thải khỏi trường [24].<br /> - Hướng nghiên cứu về các biểu hiện KKTL trong học<br /> tập ở những nhóm SV yếu thế có các tác giả Nguyễn Thị<br /> Hoài (2007), khi chuyển từ bậc phổ thông lên ĐH, CĐ,<br /> SV gặp không ít khó khăn do phải thay đổi hoạt động học<br /> tập cho phù hợp với môi trường học tập mới. Đối với<br /> nhóm đối tượng SV dân tộc thiểu số, điều đó càng khó<br /> khăn hơn bởi học lực của họ thường thấp, năng lực sử<br /> dụng ngôn ngữ phổ thông hạn chế, khó hòa nhập với<br /> phương pháp học tập ở ĐH, có tâm lí mặc cảm tự ti…<br /> Do đó, theo tác giả này, SV dân tộc thiểu số cần trải qua<br /> quá trình thích ứng, tham gia vào hoạt động học tập ở<br /> trường ĐH nhằm lĩnh hội được những yêu cầu của các<br /> hành động học tập mới và trong quá trình đó, SV sẽ chủ<br /> động tích cực vượt qua những khó khăn, trở ngại tâm lí<br /> của bản thân để tiếp nhận những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo<br /> mới, hình thành các hành động học tập phù hợp giúp cho<br /> hoạt động học tập đạt hiệu quả cao [25].<br /> Cũng đồng quan điểm trên, Trần Thị Tú Anh (2010)<br /> cho rằng, đối với nhóm SV thiệt thòi (bao gồm SV đến<br /> từ vùng sâu, vùng xa, miền núi có điều kiện KT-XH kém<br /> thuận lợi, SV là người dân tộc thiểu số, SV khuyết tật),<br /> những khó khăn trong học tập lại càng nặng nề hơn, bởi<br /> một mặt họ thường sống khép kín, phạm vi giao tiếp hẹp,<br /> kĩ năng thiết lập quan hệ xã hội hạn chế, mặt khác điều<br /> kiện kinh tế - xã hội của địa phương có khó khăn, chất<br /> lượng giáo dục phổ thông có nhiều hạn chế…, dẫn đến<br /> tri thức nền tảng thường bị thiếu hụt. Ngoài ra, với tính<br /> cách rụt rè, e ngại, nhiều SV không dám tìm kiếm sự giúp<br /> đỡ từ bên ngoài khi gặp khó khăn, khiến cho khó khăn<br /> càng trầm trọng hơn. Theo tác giả, những khó khăn lớn<br /> nhất mà SV thiệt thòi thường gặp phải tập trung chủ yếu<br /> vào năm lĩnh vực: tài chính, học tập, sự thích ứng, quan<br /> hệ và các khó khăn khác (sức khỏe, áp lực, gia đình, chỗ<br /> ở, làm thêm, xin việc) [26].<br /> Như vậy, có thể thấy, biểu hiện KKTL trong hoạt<br /> động học tập của SV là vấn đề được nhiều tác giả trong<br /> nước quan tâm nghiên cứu. Đa số tác giả cho rằng,<br /> <br /> 139<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br /> <br /> KKTL của SV rất đa dạng, phức tạp, biểu hiện chủ yếu<br /> ở ba mặt nhận thức, thái độ/xúc cảm và hành vi/kĩ năng<br /> trong các khâu của hoạt động học tập. Tuy nhiên, còn ít<br /> nghiên cứu đi sâu chỉ ra các biểu hiện KKTL trong hoạt<br /> động học tập với ba khâu cơ bản là học tập trên lớp; tự<br /> học, tự nghiên cứu và thực hành nghề, đặc biệt là hoạt<br /> động học nghề với vấn đề quan trọng nhất của hoạt động<br /> này là việc thực hiện các nhiệm vụ trong khâu thực hành<br /> nghề của SV dân tộc ít người các trường CĐ nghề.<br /> 2.3.2. Những nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến khó<br /> khăn tâm lí trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học<br /> Nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến KKTL trong<br /> hoạt động học tập của SV, các tác giả trong nước đã chỉ<br /> ra nhiều nguyên nhân khác nhau.<br /> Theo tác giả Nguyễn Thế Hùng (2008), có nhiều<br /> nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan gây ra các KKTL<br /> trong học tập của SV năm thứ nhất Trường CĐ Bến Tre,<br /> trong đó nguyên nhân chính là do chưa có phương pháp<br /> học tập hợp lí, chưa quen với môi trường học tập ở trường<br /> CĐ; do thiếu sách, giáo trình, tài liệu tham khảo [27].<br /> Nghiên cứu của tác giả của tác giả Đặng Thị Lan<br /> (2016) cho thấy nguyên nhân dẫn đến KKTL của SV dân<br /> tộc thiểu số khi học ngoại ngữ ở Trường ĐH Ngoại ngữ<br /> là chưa có phương pháp học ngoại ngữ phù hợp, những<br /> biến động lớn về môi trường học tập [21].<br /> Bên cạnh việc tìm hiểu những nguyên nhân gây ra<br /> những KKTL trong hoạt động của SV các trường CĐ,<br /> ĐH tác giả Đỗ Văn Bình (2008) còn nghiên cứu sự ảnh<br /> hưởng của những KKTL đến hoạt động học tập của SV,<br /> đó là KKTL trong hoạt động học tập có ảnh hưởng tới sự<br /> phát triển tâm lí, nhân cách của SV năm thứ nhất. Sự ảnh<br /> hưởng trải đều tới tất cả các mặt trong sự phát triển tâm<br /> lí, nhân cách của SV. Ảnh hưởng nhiều nhất là làm cho<br /> SV “không hứng thú đến lớp, bỏ giờ, bỏ tiết” và “gây tâm<br /> lí căng thẳng, stress” [28].<br /> Từ những phân tích ở trên, có thể thấy rằng, có nhiều<br /> nguyên nhân dẫn đến KKTL trong hoạt động học tập của<br /> SV các trường CĐ, ĐH. Bên cạnh những nguyên nhân<br /> chủ quan bên trong xuất phát từ chính chủ thể học tập là<br /> SV, thì những điều kiện khách quan bên ngoài cũng sẽ là<br /> những nguyên nhân khiến cho hoạt động học nảy sinh<br /> khó khăn nói chung và KKTL nói riêng.<br /> 2.3.3. Những nghiên cứu về các biện pháp giảm thiểu khó<br /> khăn tâm lí trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học<br /> Tác giả Nguyễn Thế Hùng (2008) cho rằng, để hạn<br /> chế những KKTL này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa<br /> nhà trường, giảng viên và SV, cũng như cần thường<br /> xuyên tổ chức các buổi hội thảo, hướng dẫn SV phương<br /> pháp học tập… để từ đó hình thành cho SV phương pháp<br /> học tập hợp lí [27].<br /> <br /> Tác giả Đặng Thị Lan (2016) đề xuất một số ý kiến<br /> nhằm giúp SV dân tộc thiểu số có thể giảm thiểu các<br /> KKTL để đạt kết quả cao trong hoạt động học ngoại ngữ.<br /> “Về phía nhà trường: nhà trường, các đơn vị đào tạo, các<br /> phòng ban chức năng và cán bộ, giảng viên cần giúp SV<br /> dân tộc thiểu số năm thứ nhất nhanh chóng làm quen với<br /> môi trường học tập mới ngay từ những ngày đầu tiên vào<br /> học ở trường. Phòng Đào tạo nên phối hợp với các bộ<br /> phận liên quan tổ chức cho SV dân tộc thiểu số năm thứ<br /> nhất một buổi nói chuyện về “Phương pháp học ngoại<br /> ngữ” để có thể nắm được phương pháp học ngoại ngữ<br /> phù hợp. Về phía giảng viên dạy ngoại ngữ: cần thống<br /> nhất việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng<br /> phát huy tính chủ động, tích cực, tự nghiên cứu, rèn luyện<br /> của SV dân tộc thiểu số. Mặt khác, cần quan tâm hơn đến<br /> việc hướng dẫn phương pháp học ngoại ngữ cho SV dân<br /> tộc thiểu số để giảm bớt những KKTL cho các em khi<br /> tiếp cận phương pháp giảng dạy mới ở ĐH. Về phía SV<br /> dân tộc thiểu số năm thứ nhất: cần hình thành phương<br /> pháp học ngoại ngữ trên cơ sở rèn luyện các kĩ năng học<br /> tập ở ĐH; tích cực, chủ động trong quá trình học ngoại<br /> ngữ góp phần giảm bớt KKTL để nâng cao kết quả học<br /> tập” [21; tr 16].<br /> Đỗ Thị Hạnh Phúc và Triệu Thị Hương (2007) nhận<br /> thấy rằng, để giải quyết những KKTL nảy sinh trong hoạt<br /> động học tập của SV Học viện Cảnh sát Nhân dân, “SV<br /> đã sử dụng nhiều cách ứng phó chưa thật sự mang lại<br /> hiệu quả mong muốn như sử dụng biện pháp hướng vào<br /> bản thân hoặc âm thầm chịu đựng. Do đó, theo các tác<br /> giả, vấn đề đặt ra là cần nhanh chóng xây dựng một mô<br /> hình trợ giúp tâm lí phù hợp cho SV nhằm giúp họ ứng<br /> phó hiệu quả khi gặp phải những KKTL trong học tập và<br /> rèn luyện” [23; tr 22-27].<br /> 2.4. Một số nhận xét<br /> Qua những nghiên cứu về KKTL trong học nghề của<br /> SV, chúng tôi đưa ra một số nhận xét dưới đây:<br /> Thứ nhất, bước vào môi trường ĐH, CĐ là bước<br /> ngoặt quan trọng đối với SV. Do đó, trên cơ sở xem xét<br /> các đặc điểm tâm, sinh lí của SV trong mối tương quan<br /> với hoạt động học tập, nhiều công trình nghiên cứu đã<br /> bàn luận khá sâu về những KKTL mà SV phải đối diện<br /> trong quá trình từ khi bắt đầu nhập học cho đến khi tốt<br /> nghiệp, nhấn mạnh nếu các KKTL được giải quyết thì<br /> đồng nghĩa với việc SV đã chuyển đổi từ những yêu cầu<br /> bên ngoài thành những yêu cầu bên trong bản thân họ và<br /> họ vượt qua những yêu cầu, đạt được các giá trị cuộc<br /> sống. Ngược lại, họ sẽ gặp KKTL, là một “lực cản bản<br /> thân” khiến họ khó thành công trong cuộc sống.<br /> Thứ hai, các nghiên cứu trên thế giới đã phân chia các<br /> nhóm khó khăn mà SV thường gặp phải khi học ở trường<br /> CĐ, ĐH; phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân gốc<br /> <br /> 140<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2