VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br />
<br />
MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÍ TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP<br />
CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC<br />
Bùi Đức Minh - Ban Tổ Chức tỉnh uỷ Sơn La<br />
Ngày nhận bài: 26/05/2018; ngày sửa chữa: 15/06/2018; ngày duyệt đăng: 18/06/2018.<br />
Abstract: The paper mentions some domestic and international studies on psychological<br />
difficulties in apprenticeship of students at colleges and universities. These studies have been<br />
considered from many different perspectives, subjects and fields in order to determine the<br />
manifestation and causes of psychological difficulties in apprenticeship of students as well as the<br />
effect of these difficulties on the learning effectiveness of students. Also, the article proposes some<br />
measures to minimize these psychological difficulties in apprenticeship of students.<br />
Keywords: Difficulties, psychological difficulties, apprenticeship, students.<br />
1. Mở đầu<br />
Hoạt động học tập ở trường cao đẳng (CĐ), đại học<br />
(ĐH) là hoạt động học tập nghề nghiệp; nội dung học tập<br />
là hệ thống tri thức, kĩ năng liên quan đến các khoa học<br />
cơ bản, khoa học cơ sở của chuyên ngành và chuyên<br />
ngành gắn với nghề nghiệp tương lai của người học. Việc<br />
nắm vững nội dung học tập là điều kiện quan trọng giúp<br />
sinh viên (SV) trở thành những “chuyên gia” trong một<br />
lĩnh vực nghề nghiệp. Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động<br />
dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ<br />
nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được<br />
việc làm hay tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học<br />
hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp (Điều 3, khoản 2,<br />
Luật Giáo dục nghề nghiệp, 2014) [1].<br />
Vì vậy, bước vào môi trường CĐ, ĐH là bước ngoặt<br />
quan trọng đối với SV, là cơ hội để SV tích lũy tri thức<br />
và kĩ năng nghề nghiệp, tạo điều kiện cho họ có được<br />
một nghề nghiệp ổn định sau này, từ đó có được một cuộc<br />
sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, đó cũng là một quá trình<br />
học tập mà SV phải đối mặt với nhiều khó khăn tâm lí<br />
(KKTL); và bên cạnh những cố gắng nỗ lực của bản thân,<br />
SV cần nhận được những biện pháp hỗ trợ phù hợp để có<br />
thể vượt qua những khó khăn đó. Vấn đề KKTL trong<br />
học tập của SV đã được nhiều công trình nghiên cứu ở<br />
nước ngoài và Việt Nam đề cập đến dưới nhiều góc độ<br />
khác nhau. Bài viết đề cập một số nghiên cứu về KKTL<br />
trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Phương pháp nghiên cứu<br />
Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là<br />
nghiên cứu tài liệu để phân tích, tổng hợp và khái quát<br />
các xu hướng nghiên cứu về KKTL trong học nghề của<br />
SV các trường CĐ, ĐH.<br />
<br />
2.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài về khó khăn tâm<br />
lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên<br />
các trường cao đẳng, đại học<br />
Vấn đề KKTL trong học nghề của SV các trường CĐ,<br />
ĐH đã được các tác giả nước ngoài xem xét dưới các góc<br />
độ khác nhau, với nhiều khách thể và lĩnh vực khác nhau<br />
nhằm xác định biểu hiện, nguyên nhân gây ra những<br />
KKTL trong học nghề, ảnh hưởng của những KKTL đó<br />
đến hiệu quả học tập của SV và một số biện pháp hỗ trợ<br />
nhằm giảm thiểu những KKTL này ở SV.<br />
2.2.1. Những nghiên cứu về các biểu hiện khó khăn tâm lí<br />
trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học<br />
Có thể khái quát thành 4 biểu hiện cụ thể:<br />
- Thứ nhất, là những xúc cảm tiêu cực nảy sinh trong<br />
quá trình học tập tại các trường CĐ và ĐH: bao gồm<br />
chán nản, lo lắng, căng thẳng, thất vọng, buồn phiền, mệt<br />
mỏi, cô độc… Khi nghiên cứu một nhóm 351 SV ở Anh,<br />
Andrew và Wilding (2004) đã phát hiện ra 40% SV có<br />
vấn đề tâm lí được đặc trưng bởi sự lo lắng và căng thẳng<br />
[2], kết quả nghiên cứu của Sarason I.G. và Sarason B.R<br />
(2002) cũng cho thấy, nhiều SV khi vào đại học vì không<br />
thể học tốt nên dẫn đến căng thẳng, từ đó họ liên tục cảm<br />
thấy thất vọng và tuyệt vọng. Họ nhận thấy những điều<br />
tiêu cực và tự coi mình là người thất bại [3]. Tác giả<br />
Palmer và Puri (2006) đã chỉ ra nhiều nhóm khó khăn mà<br />
SV thường gặp phải khi học ở trường ĐH và khó khăn<br />
trong học tập là một khó khăn lớn. Đối với khó khăn<br />
trong học tập, SV có các biểu hiện như lo lắng ngành học<br />
không phù hợp với mong ước của bản thân, các em<br />
không biết nên tiếp tục học hay chuyển nghề, chuyển<br />
trường [4].<br />
- Thứ hai, là vấn đề thích nghi với môi trường học tập<br />
trong trường CĐ, ĐH. Vấn đề tâm lí này thường xảy ra<br />
<br />
136<br />
<br />
Email: ducminhsw@gmail.com<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br />
<br />
ở đối tượng SV năm thứ nhất. Theo Sade và Coll (2003),<br />
SV khi mới bước vào trường ĐH, ngay từ học kì đầu tiên<br />
đã phải dành thời gian điều chỉnh để phù hợp với môi<br />
trường học tập mới. Đây được coi là vấn đề chính trong<br />
bối cảnh giáo dục đặc thù bởi nhiều SV đến trường ĐH<br />
từ những môi trường khác nhau và họ phải sống trong<br />
môi trường ĐH với nền văn hóa dễ gây sốc. Vì vậy, nền<br />
tảng và sự chuẩn bị của SV đóng vai trò quan trọng đáng<br />
kể [5]. Tổng kết của Palmer và Puri (2006), các nhóm<br />
khó khăn lớn mà SV thường gặp phải khi học ở trường<br />
ĐH, đó là: 1) Khó khăn khi rời mái ấm gia đình và bắt<br />
đầu cuộc sống ở trường ĐH, xa gia đình, người thân và<br />
bạn bè; 2) Khó khăn khi sống ở môi trường mới, cùng<br />
với những người khác; 3) Khó khăn trong việc đảm bảo<br />
ăn uống có lợi cho sức khỏe với điều kiện kinh phí hạn<br />
hẹp; 4) Khó khăn liên quan đến học tập và sự mong chờ<br />
của cá nhân đối với khóa học; 5) Khó khăn liên quan đến<br />
quan hệ xã hội; 6) Khó khăn về kinh tế… [4].<br />
- Thứ ba, là những biểu hiện tâm lí nghiêm trọng và<br />
một số biểu hiện có liên quan đến rối nhiễu và rối loạn<br />
tâm lí, biểu hiện thường gặp là tự gây tổn thương cho cơ<br />
thể, rối loạn ăn uống, sử dụng các chất kích thích, tấn<br />
công tình dục ở trường học, lạm dụng tình dục sớm, tự<br />
tử… Theo kết quả nghiên cứu tại 274 trung tâm tham vấn<br />
(Gallagher, Sysko và Zhang, 2001) [6], có 85% trung<br />
tâm báo cáo rằng, có sự gia tăng các vấn đề tâm lí nghiêm<br />
trọng ở đối tượng SV trong hơn 5 năm qua, bao gồm thất<br />
bại trong học tập (71%), tự sát, tự gây tổn thương cho cơ<br />
thể (51%), rối loạn ăn uống (38%), các vấn đề về chất<br />
cồn (45%), sử dụng các chất kích thích khác (49%), tấn<br />
công tình dục ở trường học (33%) và các vấn đề liên quan<br />
tới sự lạm dụng tình dục sớm (34%). Theo đánh giá, có<br />
khoảng 16% số SV gặp các vấn đề tâm lí nghiêm trọng<br />
(Gallagher, Gill và Sysko, 2000) [7]. Theo một báo cáo<br />
khảo sát quốc gia của Mĩ, 28% SV ĐH năm thứ nhất<br />
thường xuyên cảm thấy bị áp lực và 8% cảm thấy bị suy<br />
nhược (HERI, UCLA, 2000) [8].<br />
- Thứ tư, là những khó khăn trong việc tự nhận thức,<br />
nhận thức và thái độ đối với học tập.<br />
Nghiên cứu về các khó khăn trong quá trình học tập của<br />
SV ở độ tuổi trên 25 chưa tốt nghiệp ĐH, ngoài hai khó khăn<br />
về tổ chức và khó khăn về hoàn cảnh, Cross (1978, 1986)<br />
còn phát hiện thấy một khó khăn chính nữa ở những SV này<br />
là KKTL xuất phát từ thái độ, sự tự nhận thức về chính mình<br />
trong học tập [9], [10]. Darkenwald và Merriam (1982)<br />
đánh giá rằng, các vấn đề KKTL có xu hướng liên quan chặt<br />
chẽ tới hoạt động giáo dục và học tập của người học, đặc<br />
biệt là tiềm năng của người học [11]. Merriam (1984) nhấn<br />
mạnh, KKTL được coi là rào cản mạnh hơn các khó khăn<br />
về tổ chức hay hoàn cảnh vì KKTL phản ánh những trải<br />
nghiệm tiêu cực đối với môi trường học tập [12].<br />
<br />
Như vậy, nhiều tác giả nước ngoài đã quan tâm nghiên<br />
cứu những biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập của<br />
SV. Các nhà nghiên cứu này đã chỉ ra nhiều biểu hiện<br />
KKTL khác nhau nảy sinh ở SV trong quá trình học tập ở<br />
CĐ cũng như ĐH. Tuy nhiên các biểu hiện mới chỉ được<br />
tập trung xem xét ở cấp độ xúc cảm (lo lắng, căng thẳng,<br />
mệt mỏi,…), các biểu hiện ở cấp độ nhận thức và hành vi<br />
trong đời sống tâm lí của SV còn ít được nghiên cứu.<br />
2.2.2. Những nghiên cứu về nguyên nhân gây ra khó<br />
khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao<br />
đẳng, đại học<br />
Khi nghiên cứu về KKTL trong học tập của SV các<br />
trường CĐ, ĐH, các tác giả nước ngoài đã chỉ ra nhiều<br />
nguyên nhân dẫn đến KKTL trong hoạt động học tập của<br />
SV. Có các nguyên nhân khách quan từ bên ngoài và cả<br />
những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính các em.<br />
Trước hết là yếu tố văn hóa-xã hội như hoàn cảnh gia<br />
đình, cha mẹ thiếu kĩ năng, khả năng thích nghi kém, bạo<br />
lực, sử dụng chất kích thích, cồn và quan hệ tình dục sớm,<br />
các mối liên kết cá nhân lỏng lẻo… có thể dẫn đến tình<br />
trạng gia tăng các vấn đề tâm lí (Gallagher, Gill và Sysko,<br />
2000) [7].<br />
Tiếp đến là kết quả học tập cũng là một trong những<br />
nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về mức độ KKTL<br />
trong học tập của SV. Nghiên cứu sự khác nhau về các<br />
vấn đề tâm lí của 120 SV trường ĐH Quốc tế Hồi giáo<br />
có học lực giỏi và yếu, Safree, Yasin, Dzulkifli nhận định<br />
rằng, thành tích học tập kém là một trong những nguyên<br />
nhân gây ra các vấn đề tâm lí ở SV. Kết quả nghiên cứu<br />
cho thấy, những SV có học lực kém thường có mức độ<br />
lo âu, căng thẳng cao hơn những SV có học lực giỏi [13].<br />
Ngoài ra, là vấn đề thiếu hụt các kĩ năng. Nghiên cứu<br />
sự thiếu hụt kĩ năng xã hội - một yếu tố làm gia tăng các<br />
vấn đề tâm lí trên 118 SV ở Mĩ đã cho phép các tác giả<br />
Segrin, Chris và Flora, Jeanne (2000) đưa ra nhận định<br />
rằng, sự thiếu hụt các kĩ năng xã hội chính là một trong<br />
những nguyên nhân dẫn đến những KKTL ở SV. Những<br />
SV có kĩ năng xã hội thấp có KKTL cao hơn các SV có<br />
kĩ năng xã hội tốt [14].<br />
Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy rằng, các tác<br />
giả nước ngoài đã chỉ ra khá nhiều nguyên nhân khác<br />
nhau dẫn đến KKTL trong học tập của SV, trong đó tập<br />
trung chủ yếu vào các nguyên nhân chủ yếu như chuyển<br />
cấp học, môi trường học tập thay đổi, sự không chuẩn bị<br />
sẵn sàng về mặt tâm lí, sự chưa trưởng thành về mặt nhân<br />
cách của SV, động cơ, thái độ học tập, thiếu sự hỗ trợ kịp<br />
thời của nhà trường, giảng viên… Tuy nhiên, KKTL của<br />
SV trong hoạt động học tập, đặc biệt là của SV dân tộc ít<br />
người trong học nghề còn bắt nguồn từ niềm tin vào khả<br />
năng học tập của chính bản thân SV, khả năng sử dụng<br />
<br />
137<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br />
<br />
ngôn ngữ phổ thông, tính tích cực và chủ động trong học<br />
nghề, điều kiện và phương tiện thực hành nghề, năng lực<br />
và phương pháp giảng dạy hướng dẫn thực hành nghề<br />
của giảng viên, hỗ trợ từ gia đình… Những yếu tố này<br />
còn ít được các tác giả nước ngoài đề cập đến.<br />
2.2.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của khó khăn tâm<br />
lí trong học nghề đến hiệu quả học tập của sinh viên các<br />
trường cao đẳng, đại học<br />
KKTL của SV cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực tới<br />
hiệu quả học tập, tỉ lệ lưu ban và tốt nghiệp của họ.<br />
Brackney và Karabenick (1995) phát hiện ra rằng, mức<br />
độ KKTL cao ở SV liên quan chặt chẽ đến hiệu quả học<br />
tập. SV có mức độ KKTL cao thì cảm giác lo lắng về thi<br />
cử gia tăng, khả năng tự học, hiệu quả quản lí thời gian<br />
và sử dụng các nguồn lực trong học tập thấp. Họ cũng<br />
thiếu kiên trì hơn khi phải đối mặt với khó khăn cũng như<br />
sử dụng các chiến lược học tập hiệu quả hay tìm kiếm sự<br />
hỗ trợ về học tập [15].<br />
Kết quả nghiên cứu của Goodwin (2006) trên nhóm<br />
SV dân tộc ít người cho thấy, với nhiều SV, khó khăn<br />
được nhìn nhận như là thử thách trong cuộc đời, giúp SV<br />
trưởng thành hơn khi cố gắng vượt qua. Tuy nhiên, với<br />
không ít SV, khó khăn gặp phải trong thời gian học ĐH<br />
đã để lại dấu ấn nặng nề trong tâm trí, gây căng thẳng,<br />
giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng tiêu cực đến kết<br />
quả học tập và tương lai nghề nghiệp sau này [16].<br />
Như vậy, những áp lực từ hoạt động học tập gây ra<br />
những KKTL cho SV, ngược lại, những căng thẳng, lo<br />
lắng, buồn phiền, mệt mỏi… (những KKTL) làm cho SV<br />
cảm thấy suy kiệt, thất vọng và tuyệt vọng, từ đó làm ảnh<br />
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động học tập của SV, làm<br />
giảm hiệu quả học tập và ảnh hưởng tiêu cực đến tương<br />
lai nghề nghiệp của các em sau này. Có thể khẳng định<br />
rằng, các cá nhân có mức độ KKTL cao thường thiếu các<br />
kĩ năng xử lí thông tin - yếu tố có tính quyết định tới hiệu<br />
quả học tập và thành công của họ<br />
2.2.4. Những nghiên cứu về biện pháp hỗ trợ để giảm<br />
thiểu khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các<br />
trường cao đẳng, đại học<br />
Trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn đến KKTL<br />
trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài cũng đã đề<br />
xuất một số biện pháp góp phần giảm thiểu KKTL trong<br />
học tập của SV.<br />
Để giảm thiểu các khó khăn, rào cản trong quá trình<br />
học tập của người học, theo các nhà tâm lí học, sự tham<br />
vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc biệt quan<br />
trọng (Caplan, 1970; Friend và Cook, 1996) [17], [18].<br />
Hoạt động tham vấn tập trung vào các khía cạnh tâm lí<br />
của hành vi con người, quá trình can thiệp và các kết quả.<br />
Mặc dù sự tham vấn chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề<br />
<br />
cá nhân của người học, song trong nhiều trường hợp, nó<br />
liên quan tới sự cộng tác của tập thể nhằm cải thiện môi<br />
trường lớp học, trường học và thúc đẩy sự phát triển tâm<br />
lí tích cực của tất cả các thành viên.<br />
Tại các trường ĐH, CĐ, bộ phận tham vấn tâm lí có<br />
nhiệm vụ hỗ trợ SV nhằm xác định và đạt được các mục<br />
tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua cung cấp<br />
tư vấn về việc phát triển, ngăn chặn và phòng ngừa. Theo<br />
truyền thống, có sự nhấn mạnh vào việc tư vấn phát triển<br />
và phòng ngừa. Tuy nhiên, vai trò và chức năng của bộ<br />
phận tham vấn thuộc các trường ĐH và CĐ tiếp tục thay<br />
đổi để đáp ứng với một loạt các yếu tố xã hội, chính trị và<br />
kinh tế (CAS, 1999) [19]. Theo Archer và Cooper (1998),<br />
việc cung cấp dịch vụ tham vấn cho SV về sự đa văn hóa<br />
và giới tính, nhu cầu phát triển và nghề nghiệp, sự thay đổi<br />
cuộc sống, sự căng thẳng, bạo lực và các vấn đề tâm lí<br />
nghiêm trọng khác là một trong những thách thức lớn của<br />
bộ phận tham vấn thuộc các trường ĐH, CĐ [15].<br />
Như vậy, trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn<br />
đến KKTL trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài<br />
nhận thấy rằng, cần phải có các biện pháp can thiệp phù<br />
hợp và hữu hiệu mới có thể hạn chế được những KKTL<br />
này ở các em. Theo các nhà tâm lí học nước ngoài, để<br />
giảm thiểu các KKTL trong quá trình học tập của người<br />
học, sự tham vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc<br />
biệt quan trọng trong việc hỗ trợ SV xác định và đạt được<br />
các mục tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua<br />
cung cấp dịch vụ tham vấn ngăn chặn và phòng ngừa<br />
KKTL.<br />
Tóm lại, dưới góc độ hoạt động học tập, nghiên cứu<br />
của các tác giả nước ngoài thường đi sâu vào lĩnh vực<br />
tâm lí của người học cũng như sự thay đổi môi trường<br />
học tập từ cấp học này sang cấp học khác. Các nghiên<br />
cứu tập trung vào những biểu hiện KKTL, nguyên nhân<br />
gây ra KKTL, ảnh hưởng của KKTL đến hiệu quả học<br />
tập của SV nói chung, SV năm thứ nhất nói riêng và bao<br />
quát đến nhóm đối tượng SV lớn tuổi và một số nhóm<br />
SV yếu thế. Đặc biệt, các tác giả nước ngoài đã nhấn<br />
mạnh tầm quan trọng của hoạt động tham vấn tâm lí<br />
trong nhà trường và vai trò cần thiết của đội ngũ các nhà<br />
tâm lí học trong việc hỗ trợ, tham vấn học đường nhằm<br />
cải thiện môi trường lớp học, trường học, thúc đẩy sự<br />
phát triển tâm lí tích cực của SV; từ đó giảm thiểu và hạn<br />
chế KKTL ở các em trong quá trình học tập.<br />
2.3. Những nghiên cứu ở trong nước về khó khăn tâm<br />
lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên<br />
các trường cao đẳng, đại học<br />
Ở Việt Nam, KKTL trong hoạt động học tập nghề<br />
nghiệp của SV các trường CĐ và ĐH cũng đã được nhiều<br />
tác giả quan tâm nghiên cứu, tập trung vào ba hướng<br />
chính sau:<br />
<br />
138<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br />
<br />
2.3.1. Những nghiên cứu về các biểu hiện khó khăn tâm<br />
lí trong học nghề của sinh viên trường cao đẳng, đại học<br />
- Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động học tập của SV<br />
năm thứ nhất: nhiều tác giả trong nước đã chỉ ra rằng, đa<br />
số SV năm thứ nhất đều gặp KKTL trong học tập. KKTL<br />
của SV năm thứ nhất thường biểu hiện trên ba mặt nhận<br />
thức, thái độ và hành vi trong các khâu của hoạt động học<br />
tập. Kết quả nghiên cứu của đa số các tác giả theo hướng<br />
này đều chỉ ra rằng, SV năm thứ nhất gặp khó khăn nhiều<br />
nhất ở mặt hành vi, còn nhận thức và thái độ/xúc cảm đối<br />
với hoạt động học tập thì có thể thay đổi vị trí cho nhau.<br />
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Thức và Đào<br />
Thị Lan Hương (2007) cho thấy, các biểu hiện KKTL<br />
trong hoạt động học tập của những SV này thể hiện chủ<br />
yếu ở ba mặt nhận thức, xúc cảm và kĩ năng học tập [20].<br />
Sử dụng phương pháp chính là điều tra viết tác giả Đặng<br />
Thị Lan (2015) đã chỉ ra những biểu hiện KKTL trong hoạt<br />
động học ngoại ngữ của SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất<br />
ở Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐH Quốc gia Hà Nội. Kết quả<br />
nghiên cứu thực tiễn cho thấy, thời gian đầu học ngoại ngữ<br />
ở Trường ĐH Ngoại ngữ, SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất<br />
còn gặp khá nhiều khó khăn trong hoạt động học ngoại ngữ<br />
cả về nhận thức, thái độ và kĩ năng, trong đó các em gặp khó<br />
khăn nhiều hơn về mặt kĩ năng [21].<br />
Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động nghiên cứu<br />
khoa học của SV trường ĐH Trà Vinh, Phạm Văn Tuân<br />
(2013) cũng đã nhận định rằng, SV hiện nay đang gặp<br />
phải nhiều KKTL khi tham gia hoạt động nghiên cứu<br />
khoa học, chính những khó khăn này đang cản trở tính<br />
tích cực nghiên cứu khoa học của SV [22].<br />
Bên cạnh những biểu hiện KKTL vừa phân tích ở trên,<br />
khi nghiên cứu về những biểu hiện KKTL của SV trong<br />
hoạt động học tập một số ít tác giả trong nước còn đưa ra<br />
các biểu hiện KKTL khác trong các nghiên cứu cụ thể của<br />
mình. Chẳng hạn, 1) Các biểu hiện KKTL cụ thể trong các<br />
khâu của quá trình học tập; 2) Các biểu hiện KKTL trong<br />
hoạt động học tập và trong các lĩnh vực khác của cuộc<br />
sống; 3) Các biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập theo<br />
hệ thống tín chỉ; 4) Các biểu hiện KKTL trong hoạt động<br />
học tập ở những nhóm SV yếu thế.<br />
- Hướng nghiên cứu về những biểu hiện KKTL trong<br />
hoạt động học tập và trong các lĩnh vực khác của cuộc<br />
sống có tác giả Đỗ Thị Hạnh Phúc và Triệu Thị Hương<br />
(2007), nghiên cứu trên 315 SV về thực trạng KKTL của<br />
SV Học viện Cảnh sát Nhân dân sát, cho thấy: hầu hết<br />
SV đôi khi đều gặp tất cả các KKTL trên tất cả các lĩnh<br />
vực của cuộc sống. Ngoài những khó khăn mang tính đặc<br />
trưng của lứa tuổi như “Tình bạn khác giới, tình yêu”;<br />
“Giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống”…, SV Học viện<br />
Cảnh sát Nhân dân còn có những khó khăn mang tính<br />
<br />
đặc thù liên quan đến những quy định của ngành, của<br />
trường như điều kiện sinh hoạt, “Quy định của trường,<br />
của ngành”… [23].<br />
Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động học tập của 82<br />
SV hệ cử tuyển Trường ĐH Sư phạm, ĐH Thái Nguyên,<br />
Nguyễn Thị Út Sáu (2009) đã chỉ ra một số KKTL mà<br />
SV gặp phải trong học tập theo hệ thống tín chỉ như:<br />
phương pháp học tập của SV còn thiếu tính chủ động,<br />
sáng tạo, chưa có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu; SV chưa<br />
có thói quen làm việc qua mạng như đăng kí thông tin<br />
qua mạng, còn có tâm lí ngại liên hệ trực tiếp với phòng<br />
đào tạo, với cán bộ phụ trách học tập; trong quá trình học<br />
tập, SV bị căng thẳng tâm lí, lo sợ vì không được thi lại<br />
và có nguy cơ bị đào thải khỏi trường [24].<br />
- Hướng nghiên cứu về các biểu hiện KKTL trong học<br />
tập ở những nhóm SV yếu thế có các tác giả Nguyễn Thị<br />
Hoài (2007), khi chuyển từ bậc phổ thông lên ĐH, CĐ,<br />
SV gặp không ít khó khăn do phải thay đổi hoạt động học<br />
tập cho phù hợp với môi trường học tập mới. Đối với<br />
nhóm đối tượng SV dân tộc thiểu số, điều đó càng khó<br />
khăn hơn bởi học lực của họ thường thấp, năng lực sử<br />
dụng ngôn ngữ phổ thông hạn chế, khó hòa nhập với<br />
phương pháp học tập ở ĐH, có tâm lí mặc cảm tự ti…<br />
Do đó, theo tác giả này, SV dân tộc thiểu số cần trải qua<br />
quá trình thích ứng, tham gia vào hoạt động học tập ở<br />
trường ĐH nhằm lĩnh hội được những yêu cầu của các<br />
hành động học tập mới và trong quá trình đó, SV sẽ chủ<br />
động tích cực vượt qua những khó khăn, trở ngại tâm lí<br />
của bản thân để tiếp nhận những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo<br />
mới, hình thành các hành động học tập phù hợp giúp cho<br />
hoạt động học tập đạt hiệu quả cao [25].<br />
Cũng đồng quan điểm trên, Trần Thị Tú Anh (2010)<br />
cho rằng, đối với nhóm SV thiệt thòi (bao gồm SV đến<br />
từ vùng sâu, vùng xa, miền núi có điều kiện KT-XH kém<br />
thuận lợi, SV là người dân tộc thiểu số, SV khuyết tật),<br />
những khó khăn trong học tập lại càng nặng nề hơn, bởi<br />
một mặt họ thường sống khép kín, phạm vi giao tiếp hẹp,<br />
kĩ năng thiết lập quan hệ xã hội hạn chế, mặt khác điều<br />
kiện kinh tế - xã hội của địa phương có khó khăn, chất<br />
lượng giáo dục phổ thông có nhiều hạn chế…, dẫn đến<br />
tri thức nền tảng thường bị thiếu hụt. Ngoài ra, với tính<br />
cách rụt rè, e ngại, nhiều SV không dám tìm kiếm sự giúp<br />
đỡ từ bên ngoài khi gặp khó khăn, khiến cho khó khăn<br />
càng trầm trọng hơn. Theo tác giả, những khó khăn lớn<br />
nhất mà SV thiệt thòi thường gặp phải tập trung chủ yếu<br />
vào năm lĩnh vực: tài chính, học tập, sự thích ứng, quan<br />
hệ và các khó khăn khác (sức khỏe, áp lực, gia đình, chỗ<br />
ở, làm thêm, xin việc) [26].<br />
Như vậy, có thể thấy, biểu hiện KKTL trong hoạt<br />
động học tập của SV là vấn đề được nhiều tác giả trong<br />
nước quan tâm nghiên cứu. Đa số tác giả cho rằng,<br />
<br />
139<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142<br />
<br />
KKTL của SV rất đa dạng, phức tạp, biểu hiện chủ yếu<br />
ở ba mặt nhận thức, thái độ/xúc cảm và hành vi/kĩ năng<br />
trong các khâu của hoạt động học tập. Tuy nhiên, còn ít<br />
nghiên cứu đi sâu chỉ ra các biểu hiện KKTL trong hoạt<br />
động học tập với ba khâu cơ bản là học tập trên lớp; tự<br />
học, tự nghiên cứu và thực hành nghề, đặc biệt là hoạt<br />
động học nghề với vấn đề quan trọng nhất của hoạt động<br />
này là việc thực hiện các nhiệm vụ trong khâu thực hành<br />
nghề của SV dân tộc ít người các trường CĐ nghề.<br />
2.3.2. Những nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến khó<br />
khăn tâm lí trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học<br />
Nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến KKTL trong<br />
hoạt động học tập của SV, các tác giả trong nước đã chỉ<br />
ra nhiều nguyên nhân khác nhau.<br />
Theo tác giả Nguyễn Thế Hùng (2008), có nhiều<br />
nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan gây ra các KKTL<br />
trong học tập của SV năm thứ nhất Trường CĐ Bến Tre,<br />
trong đó nguyên nhân chính là do chưa có phương pháp<br />
học tập hợp lí, chưa quen với môi trường học tập ở trường<br />
CĐ; do thiếu sách, giáo trình, tài liệu tham khảo [27].<br />
Nghiên cứu của tác giả của tác giả Đặng Thị Lan<br />
(2016) cho thấy nguyên nhân dẫn đến KKTL của SV dân<br />
tộc thiểu số khi học ngoại ngữ ở Trường ĐH Ngoại ngữ<br />
là chưa có phương pháp học ngoại ngữ phù hợp, những<br />
biến động lớn về môi trường học tập [21].<br />
Bên cạnh việc tìm hiểu những nguyên nhân gây ra<br />
những KKTL trong hoạt động của SV các trường CĐ,<br />
ĐH tác giả Đỗ Văn Bình (2008) còn nghiên cứu sự ảnh<br />
hưởng của những KKTL đến hoạt động học tập của SV,<br />
đó là KKTL trong hoạt động học tập có ảnh hưởng tới sự<br />
phát triển tâm lí, nhân cách của SV năm thứ nhất. Sự ảnh<br />
hưởng trải đều tới tất cả các mặt trong sự phát triển tâm<br />
lí, nhân cách của SV. Ảnh hưởng nhiều nhất là làm cho<br />
SV “không hứng thú đến lớp, bỏ giờ, bỏ tiết” và “gây tâm<br />
lí căng thẳng, stress” [28].<br />
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy rằng, có nhiều<br />
nguyên nhân dẫn đến KKTL trong hoạt động học tập của<br />
SV các trường CĐ, ĐH. Bên cạnh những nguyên nhân<br />
chủ quan bên trong xuất phát từ chính chủ thể học tập là<br />
SV, thì những điều kiện khách quan bên ngoài cũng sẽ là<br />
những nguyên nhân khiến cho hoạt động học nảy sinh<br />
khó khăn nói chung và KKTL nói riêng.<br />
2.3.3. Những nghiên cứu về các biện pháp giảm thiểu khó<br />
khăn tâm lí trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học<br />
Tác giả Nguyễn Thế Hùng (2008) cho rằng, để hạn<br />
chế những KKTL này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa<br />
nhà trường, giảng viên và SV, cũng như cần thường<br />
xuyên tổ chức các buổi hội thảo, hướng dẫn SV phương<br />
pháp học tập… để từ đó hình thành cho SV phương pháp<br />
học tập hợp lí [27].<br />
<br />
Tác giả Đặng Thị Lan (2016) đề xuất một số ý kiến<br />
nhằm giúp SV dân tộc thiểu số có thể giảm thiểu các<br />
KKTL để đạt kết quả cao trong hoạt động học ngoại ngữ.<br />
“Về phía nhà trường: nhà trường, các đơn vị đào tạo, các<br />
phòng ban chức năng và cán bộ, giảng viên cần giúp SV<br />
dân tộc thiểu số năm thứ nhất nhanh chóng làm quen với<br />
môi trường học tập mới ngay từ những ngày đầu tiên vào<br />
học ở trường. Phòng Đào tạo nên phối hợp với các bộ<br />
phận liên quan tổ chức cho SV dân tộc thiểu số năm thứ<br />
nhất một buổi nói chuyện về “Phương pháp học ngoại<br />
ngữ” để có thể nắm được phương pháp học ngoại ngữ<br />
phù hợp. Về phía giảng viên dạy ngoại ngữ: cần thống<br />
nhất việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng<br />
phát huy tính chủ động, tích cực, tự nghiên cứu, rèn luyện<br />
của SV dân tộc thiểu số. Mặt khác, cần quan tâm hơn đến<br />
việc hướng dẫn phương pháp học ngoại ngữ cho SV dân<br />
tộc thiểu số để giảm bớt những KKTL cho các em khi<br />
tiếp cận phương pháp giảng dạy mới ở ĐH. Về phía SV<br />
dân tộc thiểu số năm thứ nhất: cần hình thành phương<br />
pháp học ngoại ngữ trên cơ sở rèn luyện các kĩ năng học<br />
tập ở ĐH; tích cực, chủ động trong quá trình học ngoại<br />
ngữ góp phần giảm bớt KKTL để nâng cao kết quả học<br />
tập” [21; tr 16].<br />
Đỗ Thị Hạnh Phúc và Triệu Thị Hương (2007) nhận<br />
thấy rằng, để giải quyết những KKTL nảy sinh trong hoạt<br />
động học tập của SV Học viện Cảnh sát Nhân dân, “SV<br />
đã sử dụng nhiều cách ứng phó chưa thật sự mang lại<br />
hiệu quả mong muốn như sử dụng biện pháp hướng vào<br />
bản thân hoặc âm thầm chịu đựng. Do đó, theo các tác<br />
giả, vấn đề đặt ra là cần nhanh chóng xây dựng một mô<br />
hình trợ giúp tâm lí phù hợp cho SV nhằm giúp họ ứng<br />
phó hiệu quả khi gặp phải những KKTL trong học tập và<br />
rèn luyện” [23; tr 22-27].<br />
2.4. Một số nhận xét<br />
Qua những nghiên cứu về KKTL trong học nghề của<br />
SV, chúng tôi đưa ra một số nhận xét dưới đây:<br />
Thứ nhất, bước vào môi trường ĐH, CĐ là bước<br />
ngoặt quan trọng đối với SV. Do đó, trên cơ sở xem xét<br />
các đặc điểm tâm, sinh lí của SV trong mối tương quan<br />
với hoạt động học tập, nhiều công trình nghiên cứu đã<br />
bàn luận khá sâu về những KKTL mà SV phải đối diện<br />
trong quá trình từ khi bắt đầu nhập học cho đến khi tốt<br />
nghiệp, nhấn mạnh nếu các KKTL được giải quyết thì<br />
đồng nghĩa với việc SV đã chuyển đổi từ những yêu cầu<br />
bên ngoài thành những yêu cầu bên trong bản thân họ và<br />
họ vượt qua những yêu cầu, đạt được các giá trị cuộc<br />
sống. Ngược lại, họ sẽ gặp KKTL, là một “lực cản bản<br />
thân” khiến họ khó thành công trong cuộc sống.<br />
Thứ hai, các nghiên cứu trên thế giới đã phân chia các<br />
nhóm khó khăn mà SV thường gặp phải khi học ở trường<br />
CĐ, ĐH; phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân gốc<br />
<br />
140<br />
<br />