intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

55
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo sau đây sẽ phân tích và luận giải một số vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong Tố tụng hình sự Việt Nam thông qua một số vấn đề lý luận về chức năng bào chữa như: chức năng bào chữa là gì, phạm vi chức năng bào chữa như thế nào, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

  1. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Cao Thị Ngọc Hà1 Tóm tắt: Chức năng của Tố tụng hình sự nói chung và chức năng bào chữa nói riêng là một trong những vấn đề quan trọng và phức tạp của Tố tụng hình sự. Một số vấn đề lý luận về chức năng bào chữa như: Chức năng bào chữa là gì, phạm vi chức năng bào chữa như thế nào, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau. Bài báo sau đây sẽ phân tích và luận giải một số vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong Tố tụng hình sự Việt Nam. Từ khóa: Chức năng bào chữa; gỡ tội; quyền và lợi ích hợp pháp. Ngày nhận bài: 10/01/2018; Ngày hoàn thành biên tập: 18/01/2018; Ngày duyệt đăng: 30/1/2018. Abstract: The functions of the Criminal Procedure in general and the defense function in particular is one of the most important and complex issues of Criminal Procedure.Some theoretical issues of defenses such as What is the defense function, the scope of the defense function…There are still many opinions and opinions. The following article will analyze and explain some of the theoretical issues of defenses in the criminal procedure in Vietnam. Keywords: the defense function, cure, legal rights and benefits. Date of receipt: 10/01/2018; Date of revision: 18/01/2018; Date of approval: 30/1/2018. Bào chữa trong tố tụng hình sự (TTHS) được chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau: Bào chữa cho bị can, bị cáo”. Những khái niệm trên tuy là quyền của người bị buộc tội, là chế định tố chưa đầy đủ, cụ thể nhưng đã chỉ rõ bản chất của tụng, là chức năng đảm bảo quyền bào chữa, theo việc bào chữa, đó là những hoạt động chống lại nguyên tắc của TTHS. việc buộc tội. Các quan điểm này đều xuất phát Dưới góc độ là chức năng tố tụng, chức năng từ nội dung bào chữa là việc dùng lý lẽ, chứng cứ bào chữa có phạm vi rộng hơn và khái niệm bào để biện minh hoặc bênh vực cho hành vi của chữa cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Nếu được người nào đó đang bị xem là phạm pháp hoặc hiểu theo nghĩa rộng thì “bào chữa là dùng lý lẽ, đang bị lên án. Xuất phát từ nhận thức về nội chứng cớ để bênh vực cho một đương sự nào đó hàm khái niệm bào chữa này, có thể hiểu “Bào thuộc một vụ án hình sự hoặc dân sự trước tòa, chữa là tổng hoà các hành vi do người bị buộc hoặc cho việc nào đó đang bị lên án.”2 Còn hiểu tội hoặc người bào chữa của họ thực hiện trên cơ bào chữa theo nghĩa là một khái niệm của khoa sở phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng học pháp lý thì “bào chữa là toàn bộ những hành hình sự nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự vi tố tụng nhằm xác định sự vô tội của bị cáo buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng, làm hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ gọi là sự bào giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của chữa.”3 Bên cạnh đó, khái niệm này còn được người bị buộc tội trong vụ án hình sự”. hiểu“Bào chữa là quyền của bị can, bị cáo được 1. Khái niệm chức năng bào chữa trong tố đưa ra các chứng cứ, lý lẽ, được đặt câu hỏi, tụng hình sự được tranh luận trong giai đoạn điều tra và giai Về chức năng bào chữa, hiện nay cũng đang đoạn xét xử”4 hay“Bào chữa là việc dùng lý lẽ, tồn tại nhiều ý kiến khác nhau: 1 Thạc sỹ, Nghiên cứu sinh, Giảng viên Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp. 2 Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 1996. 3 Ngô Thị Ngọc Vân, Luận văn tiến sĩ luật học “Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”. 4 Phạm Hồng Hải, “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”, NXB Công an nhân dân, 1999 . 26
  2. Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: “Chức năng sinh ngay sau khi có quyết định buộc tội của cơ bào chữa là khả năng mà pháp luật dành cho bị quan nhà nước và hiện diện trong cả ba giai can, bị cáo được đưa ra chứng cứ, lý lẽ, được đặt đoạn tố tụng là điều tra, truy tố và xét xử. Chủ câu hỏi, được tranh luận trong giai đoạn điều tra thể thực hiện chức năng bào chữa cũng đồng và xét xử. Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc thời là chủ thể của quyền bào chữa”7. Tác giả nhờ người khác bào chữa.”5 Theo quan điểm không đồng ý với quan điểm này bởi hai lý do: này, chức năng bào chữa chỉ xuất hiện trong giai Thứ nhất, chức năng buộc tội và chức năng bào đoạn điều tra, giai đoạn xét xử và chỉ có trong chữa xuất hiện sớm hơn chứ không chỉ hiện diện lĩnh vực TTHS. Chủ thể thực hiện chức năng bào trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Thứ hai, chữa là bị can, bị cáo và người bào chữa. Tuy nếu cho rằng chủ thể thực hiện chức năng bào nhiên, theo BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm chữa cũng đồng thời là chủ thể của quyền bào 2015 thì chức năng bào chữa xuất hiện sớm hơn, chữa là một sự nhầm lẫn, bởi chủ thể thực hiện khi một người bị bắt, hoặc bị giữ trong trường chức năng bào chữa bao gồm người bào chữa và hợp khẩn cấp thì đã xuất hiện chức năng bào người bị buộc tội, nhưng chủ thể của quyền bào chữa. Do đó, chủ thể thực hiện chức năng bào chữa chỉ bao gồm người bị buộc tội. chữa có thể bao gồm cả người bị giữ trong Loại ý kiến thứ tư cho rằng: “Chức năng bào trường hợp khẩn cấp, người bị bắt. chữa là hoạt động của Người bào chữa nhằm xác Loại ý kiến thứ hai cho rằng: “Chức năng định những tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ bào chữa là một dạng hoạt động tố tụng bằng TNHS cho bị can, bị cáo”8. (Hoàng Thị Sơn, Tạp cách dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh vực cho một chí luật học, trang 35). Theo quan điểm trên, đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay chức năng bào chữa là hoạt động của người bào dân sự trước Tòa án hoặc một việc nào đó đang chữa. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ, chức bị lên án”6. Theo quan điểm này, chức năng bào năng bào chữa không chỉ là hoạt động của người chữa không chỉ xuất hiện trong lĩnh vực h́nh sự bào chữa mà còn là hoạt động của người bị buộc mà c̣n xuất hiện trong lĩnh vực dân sự hoặc lĩnh tội, nhằm xác định những tình tiết chứng minh vực khác không liên quan đến buộc tội. Trong sự không phạm tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho TTHS, ngoài những chủ thể có quyền bào chữa người bị buộc tội. Do đó, quan điểm nêu trên như người bị buộc tội thì người bị hại, người có chưa thực sự thuyết phục. quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người bị tố Loại ý kiến thứ năm cho rằng: “Chức năng giác, người bị kiến nghị khởi tố đều có nhu cầu bào chữa là một dạng hoạt động TTHS được được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. pháp luật quy định và bảo đảm cho bên bị buộc Khi tham gia tố tụng, họ có quyền nhờ luật sư tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị bảo vệ quyền lợi. Tuy nhiên, đó không phải là cáo và người đại diện hợp pháp của họ và hoạt động thuộc chức năng bào chữa, nếu không người bào chữa) khả năng đưa ra chứng cứ và có buộc tội thì không thể có bào chữa. lý lẽ chống lại sự buộc tội và giảm nhẹ trách Loại ý kiến thứ ba cho rằng: “Chức năng bào nhiệm cho mình”9. Cũng giống quan điểm này, chữa xuất phát từ quyền được bào chữa của có ý kiến cho rằng “chức năng bào chữa là một người bị buộc tội và do đó, chức năng này phát trong những chức năng cơ bản của TTHS được 5 Phạm Hồng Hải, “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”, NXB Công an nhân dân, 1999 . 6 Từ điển tiếng việt, NXB Đà nẵng 1996 7 Nguyễn Mạnh Hùng, Luận án tiến sỹ luật học “Các chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam”, 2012. 8 Hoàng Thị Sơn (2000),“Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học số 5/2000. 9 Hoàng Thị Minh Sơn (2015), “Khái niệm, vị trí, vai trò, ý nghĩa của các chức năng trách nhiệm hình sự”, “Hội thảo khoa học “Các chức năng của trách nhiệm hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội 27
  3. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP thể hiện thông qua những phương diện hoạt nội dung. Về hình thức, phạm vi của chức năng động của chủ thể bào chữa nhằm thực hiện bào chữa là sự xác định thời điểm xuất hiện và nhiệm vụ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp thời điểm kết thúc của chức năng bào chữa. Về của người bị buộc tội, đồng thời xác định sự nội dung, phạm vi của chức năng bào chữa là thật khách quan của vụ án”10. Tác giả đồng ý việc xác định giới hạn của các hoạt động bào với loại ý kiến thứ năm này, bởi chức năng tố chữa trong việc thực hiện chức năng bào chữa. tụng được coi là một dạng chức năng nhà nước Về phạm vi của chức năng bào chữa, có ý mang tính định hướng, trong đó có sự phân định kiến cho rằng: chức năng bào chữa xuất hiện khi rõ ràng hoạt động của các chủ thể khác nhau, vụ án hình sự được khởi tố và nó đối lập với tất với những quyền hạn và nghĩa vụ khác nhau để cả các biện pháp cưỡng chế về tố tụng chứ không đạt được mục đích nhất định. Có thể thấy, phải chỉ đối lập với việc buộc tội. Cũng có ý kiến TTHS là tổng hợp của nhiều hoạt động tố tụng cho rằng, chức năng bào chữa xuất hiện sớm có những định hướng khác nhau nhưng đều hơn, vì trong việc xem xét hiện trường trước khi nhằm đến mục tiêu chung của TTHS. Trong khởi tố vụ án hình sự thì việc bảo vệ quyền lợi TTHS, các hoạt động buộc tội, hoạt động bào của những người tham gia tố tụng cũng là cần chữa, hoạt động xét xử tuy có định hướng khác thiết. Ý kiến khác cho rằng, chức năng bào chữa nhau, thậm chí hoạt động buộc tội, hoạt động xuất hiện từ khi có quyết định khởi tố bị can. bào chữa còn ngược chiều nhau, đối trọng với Theo tác giả, chức năng bào chữa chỉ xuất hiện nhau nhưng đều nhằm đến mục tiêu chung là sau khi có chức năng buộc tội. Trên thực tế, trước xác định sự thật khách quan của vụ án, không khi khởi tố bị can, có thể xảy ra các trường hợp bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Để như: bắt người phạm tội quả tang, bắt người theo thực hiện được mục tiêu đó, đòi hỏi phải tiến quyết định truy nã, bắt khẩn cấp, tạm giữ…Trong hành nhiều hoạt động do nhiều chủ thể tiến quan hệ giữa người bị bắt, người bị tạm giữ, hành, ví dụ hoạt động bào chữa do người bị người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp với các buộc tội, người bào chữa thực hiện ở những giai cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể đoạn khác nhau. Do đó, phải có sự phân định phát sinh nhiều quan hệ tố tụng, trong đó có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể hành vi tố tụng nhằm buộc tội đối với họ. Do đó, phù hợp với định hướng chủ yếu trong hoạt chức năng bào chữa phải được hiểu trên phạm vi động của các chủ thể nói chung, không phải là rộng hơn, dựa trên nguyên tắc khi có hành vi của chức năng riêng biệt của chủ thể hay hành vi tố cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tụng của chủ thể. Đồng thời, phải tiếp cận vấn có thẩm quyền tiến hành tố tụng làm hạn chế đề chức năng TTHS từ việc xem xét chức năng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội cơ bản của TTHS trong mối quan hệ với từng thì sẽ xuất hiện chức năng bào chữa. hành vi tố tụng của chủ thể khi tham gia quan hệ Việc quy định thời điểm tham gia tố tụng pháp luật TTHS. Những hoạt động chính yếu, của người bào chữa có vai trò quan trọng đối cơ bản đóng góp vào việc vận hành ổn định hệ với việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp thống TTHS được gọi là chức năng và chức của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị năng TTHS cần phải được tiếp cận trong mối cáo. Người bào chữa tham gia tố tụng ở thời quan hệ giữa cái riêng và cái chung. điểm sớm sẽ giúp bảo vệ tốt hơn những quyền 2. Phạm vi chức năng bào chữa trong tố và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, ngăn tụng hình sự ngừa được những hành vi trái pháp luật có thể Phạm vi của chức năng bào chữa có thể xảy ra trong giai đoạn tố tụng đó. Điều 74 được hiểu trên hai khía cạnh về hình thức và về BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể ba thời 10 Trần Hoài Lâm (2007),“Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự”, Luận văn thạc sỹ luật học 28
  4. Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba điểm tham gia tố tụng của người bào chữa, đó giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì chức năng bào là: (1) Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi chữa lại xuất hiện cho đến khi có một phán quyết khởi tố bị can; (2) Trường hợp bắt người trong có hiệu lực pháp luật mới. trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, đang Xét về mặt nội dung, phạm vi của chức năng bị truy nã, hoặc trong trường hợp tạm giữ người bào chữa là những hoạt động của các chủ thể thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi thực hiện việc bào chữa, nhưng không được làm người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều xấu thêm tình trạng pháp lý của người bị buộc tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một tội. Đối với chủ thể là người bị buộc tội, họ có số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào tạm giữ. (3) Trong trường hợp cần giữ bí mật chữa nhưng không có nghĩa vụ chứng minh hành điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc vi phạm tội của mình. Việc chứng minh tội phạm gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền thuộc về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng quyền tiến hành tố tụng. Đối với người bào chữa, từ khi kết thúc điều tra. So với Bộ luật Tố tụng họ được sử dụng các quyền năng mà BLTTHS hình sự (BLTTHS) năm 2003 thì thời điểm quy định để bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho tham gia tố tụng của người bào chữa trong người bị buộc tội trong khuôn khổ pháp luật và trường hợp bắt người được thực hiện sớm hơn. được bình đẳng với chủ thể buộc tội trong quá BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa trình tham gia giải quyết vụ án. có thể tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm 3. Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa giữ. Tuy nhiên, theo BLTTHS năm 2015 thì trong tố tụng hình sự người bào chữa có thể tham gia tố tụng từ lúc Khác với chủ thể của quyền bào chữa, chủ người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều thể thực hiện chức năng bào chữa là: Người bị tra hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội một số hoạt động điều tra. và người bào chữa. BLTTHS năm 2015 có quy định mới về trường 3.1. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hợp “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 58 người tham gia tố tụng mới được quy định trong BLTTHS năm 2015 thì người bị giữ trong trường BLTTHS năm 2015. Đây là người bị áp dụng các hợp khẩn cấp có quyền tự bào chữa hoặc nhờ biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp người khác bào chữa. Như vậy, ngay tư thời điểm khẩn cấp nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, có một người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đã ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, tiếp tục bỏ xuất hiện chức năng bào chữa. Từ sự phân tích trên trốn hoặc cản trở việc điều tra. Việc quy định địa có thể thấy, chức năng bào chữa xuất hiện từ khi vị pháp lý của những người này nhằm tạo cơ sở giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người, có pháp lý cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp quyết định tạm giữ hoặc từ khi khởi tố bị can. pháp của họ khi tham gia tố tụng, thậm chí ngay Thời điểm kết thúc chức năng bào chữa được cả khi vụ án chưa được khởi tố. Theo quy định tại xác định khi không còn sự buộc tội. Như vậy, điểm g khoản 1 Điều 58 BLTTHS 2015 thì người chức năng bào chữa kết thúc khi vụ án được xét bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có quyền tự bào xử và bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Do đó, họ pháp luật. Trong một số trường hợp đặc biệt, khi cũng là chủ thể thực hiện chức năng bào chữa những căn cứ của việc buộc tội không còn, chủ trong TTHS. thể có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án 3.2. Người bị buộc tội thì chức năng bào chữa sẽ kết thúc sớm hơn. Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 thì Hoặc trong trường hợp phán quyết đã có hiệu lực người bị buộc tội bao gồm: người bị bắt, người bị pháp luật bị xem xét, giải quyết lại theo thủ tục tạm giữ, bị can, bị cáo. (Xem tiếp trang 35) 29
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2