Một số vấn đề về bảo đảm thực hiện pháp luật trong quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam
lượt xem 7
download
Bài viết Một số vấn đề về bảo đảm thực hiện pháp luật trong quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam bước đầu đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số vấn đề về bảo đảm thực hiện pháp luật trong quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam
- TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 63/2022 117 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ CÔNG CHỨC THAM MƯU Ở CÁC CƠ QUAN ĐẢNG CẤP TỈNH CỦA VIỆT NAM Phan Công Thành Trường Chính trị tỉnh Bình Dương Tóm tắt: Để có một đội ngũ công chức tham mưu tốt, cần có các điều kiện và qui phạm pháp luật cụ thể, nghiêm minh. Thực hiện pháp luật về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam cần nhiều yếu tố bảo đảm như mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật; năng lực tổ chức thực hiện pháp luật quản lý công chức; điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Trên cơ sở phân tích các điều kiện, yêu cầu và mức độ đảm bảo của pháp luật về quản lý công chức tham mưu trong các cơ quan Đảng hiện tại, bài viết bước đầu đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam. Từ khóa: Đảm bảo thực hiện pháp luật; công chức tham mưu; cơ quan Đảng cấp tỉnh. Nhận bài ngày 5.8.2022; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 23.8.2022 Liên hệ tác giả: Phan Công Thành; Email: phanthanhvptu@gmail.com 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Cơ quan Đảng ở cấp tỉnh (hay còn gọi là cơ quan tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy, Thành ủy) là cơ quan do Ban Bí thư quy định thành lập để giúp Tỉnh ủy, mà trực tiếp và thường xuyên là Ban Thường vụ Tỉnh ủy, thường trực Tỉnh ủy thực hiện vai trò lãnh đạo chính quyền và xã hội trên địa bàn tỉnh, nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng chính quyền và các vấn đề khác theo chức năng, nhiệm vụ được quy định [1]. Công tác tham mưu của các cơ quan Đảng cấp tỉnh được quy định cụ thể tại các Quy định, Quyết định của Ban Bí thư, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan. Thực tiễn cho thấy, hoạt động quản lý, lãnh đạo của bất kỳ ngành và lĩnh vực nào đều rất cần đến công tác tham mưu. Việc lãnh đạo thực hiện Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh, thành phố; các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và chính sách, pháp luật của Nhà nước và giải quyết các vấn đề của tỉnh đều cần có sự tham mưu của các cơ quan Đảng cấp tỉnh [2]. Các cơ quan Đảng cấp tỉnh thực hiện công tác tham mưu, cả chiến lược và sách lược, trước mắt và lâu dài cho Tỉnh ủy, Thành ủy. Đây là những công việc có tầm quan trọng, có vai trò quyết định, ảnh hưởng đến đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh trật tự, an toàn xã hội của tỉnh,
- 118 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI thành phố. Chất lượng tham mưu, tư vấn của các cơ quan Đảng cấp tỉnh ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả lãnh đạo của Tỉnh ủy, Thành ủy. Đương nhiên, kết quả công tác của các cơ quan Đảng cấp tỉnh phụ thuộc nhiều vào chất lượng các sản phẩm tham mưu do đội ngũ công chức tham mưu của chính các cơ quan Đảng cấp tỉnh tạo ra. Mặt khác, muốn có được đội ngũ công chức tham mưu của các cơ quan Đảng cấp tỉnh đảm bảo về số lượng; hợp lý về cơ cấu; tốt về chất lượng; môi trường làm việc an toàn, dân chủ, được tôn trọng; có đủ điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì việc thực hiện pháp luật (THPL) về quản lý công chức tham mưu phải được đáp ứng, nghiêm túc và công minh. 2. NỘI DUNG 2.1. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam 2.1.1. Điều kiện về mức độ hoàn thiện của pháp luật quản lý công chức tham mưu Để có đội ngũ công chức tham mưu tốt, hệ thống pháp luật về quản lý công chức tham mưu phải hoàn thiện. Việc đánh giá hệ thống quy phạm pháp luật có hoàn thiện hay không cần phải xét trên các phương diện sau: Tính toàn diện; tính thống nhất và đồng bộ; tính phù hợp và khả thi, tính quyền lực, tính hiệu quả trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về quản lý công chức. Nghĩa là chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý công chức tham mưu phải phù hợp với thực tiễn quản lý công chức, đảm bảo tính khả thi, có tính ổn định tương đối, không chồng chéo, với chất lượng, kỹ thuật lập pháp cao và ngôn ngữ, văn phong diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, logic. - Tính toàn diện: Tính toàn diện của các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý công chức tham mưu “thể hiện ở cấu trúc hình thức của nó” [3, tr.354], nghĩa là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trên các mặt của hoạt động quản lý công chức tham mưu, đa dạng cả về số lượng và chất lượng nhằm kịp thời giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn quản lý đội ngũ công chức tham mưu. - Tính thống nhất và đồng bộ: Tính thống nhất và đồng bộ thể hiện ở chỗ “Giữa các bộ phận hợp thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật không chỉ có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ mà còn luôn có sự thống nhất nội tại với nhau” [3, tr.355]. Nghĩa là khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý công chức tham mưu như: Tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá…, phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp và tương quan với các quy phạm pháp luật khác, không chồng chéo, vênh nhau, phải thống nhất về mặt nội dung và hình thức theo quy chuẩn. - Tính phù hợp và khả thi: Tính phù hợp và khả thi “Thể hiện ở nội dung của hệ thống văn bản pháp luật luôn có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” [3, tr.356]. Hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý công chức tham mưu phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Vì vậy, khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý công chức tham mưu phải đảm bảo các tiêu chí, tiêu chuẩn, quy phạm phù hợp với sự phát triển, phù hợp thực tế khách
- TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 63/2022 119 quan, giải quyết được các vấn đề phát sinh từ thực tiễn quản lý công chức. Cần rà soát các văn bản đã lỗi thời, lạc hậu để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế; các vấn đề thực tiễn nào trong quản lý công chức tham mưu mà chưa được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý công chức thì cần phải xây dựng và ban hành đảm bảo phù hợp với thực tiễn của đất nước. Ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với lợi ích của các bên khi tham gia quan hệ pháp luật về quản lý công chức tham mưu. - Tính bảo đảm thực hiện (hay còn gọi là tính quyền lực, tính bắt buộc chung) của các quy phạm pháp luật thể hiện ở việc: Mọi hành vi vi phạm pháp luật về quản lý công chức tham mưu đều có các chế tài xử phạt cụ thể và đều được bảo đảm thực hiện nghiêm minh bằng quyền lực nhà nước. Việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật không phụ thuộc vào bất cứ chủ thể nào. Mọi tổ chức, cá nhân đều phải tôn trọng và tuân thủ theo pháp luật. Quy định về các chế tài xử phạt trong các chế định về quản lý công chức tham mưu cũng là một trong các yếu tố của tính bảo đảm thực hiện. - Tính hiệu quả: Nghĩa là cần xem xét “mục đích đề ra của hệ thống văn bản pháp luật về quản lý công chức tham mưu có thể đạt được trên thực tế hay không; số lượng và chất lượng của các kết quả thực tế đạt được, chi phí cho việc đạt được các kết quả đó” [3, tr.357] … Hay nói cách khác là mục đích đề ra cho văn bản qui phạm pháp luật về công chức tham mưu đã đạt được trên thực tế với những chi phí thấp trong những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội hiện tại. 2.1.2. Điều kiện về năng lực tổ chức thực hiện pháp luật quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật về quản lý công chức tham mưu là sự hạn chế về trình độ hiểu biết, ý thức, năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý công chức tham mưu của các chủ thể được giao thẩm quyền quản lý công chức tham mưu. Thực tế cho thấy, ở nơi nào ý thức, hiểu biết pháp luật của chủ thể thực hiện pháp luật cao thì hiệu quả THPL nói chung cao và ngược lại, ở những nơi nào mà ý thức pháp luật của các cá nhân, tổ chức chưa được nâng cao thì hiệu quả THPL thấp. Ý thức pháp luật là sự phản ánh một cách tích cực và sáng tạo đời sống xã hội mà trực tiếp là đời sống pháp luật, con người tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với pháp luật, tuân thủ và tôn trọng pháp luật do có ý thức pháp luật. “Ý thức pháp luật là tổng thể các học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm, thái độ, tình cảm của con người..., thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp… đối với các hành vi, lợi ích hoặc quan hệ từ thực tiễn đời sống pháp lý và xã hội” [3, tr.442]. Ý thức pháp luật của các chủ thể quản lý công chức tham mưu quyết định việc thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm trong quan hệ pháp luật về quản lý công chức. Khi ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về quản lý công chức tham mưu chưa đầy đủ thì hành vi vi phạm pháp luật về quản lý công chức tham mưu xảy ra nhiều hơn, với mức độ nghiêm trọng hơn. Do vậy, dù pháp luật về quản lý công chức tham mưu đã được xây dựng hoàn chỉnh và đầy đủ cũng sẽ không được thực hiện nghiêm chỉnh nếu ý thức pháp luật của các chủ thể quản lý công chức chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Đối với các công chức, ý thức pháp luật của họ được thể hiện ở chỗ họ nhận thức được đúng quyền và nghĩa vụ của mình để tự giác thực hiện nghiêm túc. Ví dụ: Họ được Nhà nước trả lương, đảm bảo điều kiện làm việc nên họ phải thực hiện
- 120 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI nghĩa vụ như chấp hành nghiêm pháp luật quản lý công chức, tinh thần thái độ trách nhiệm tận tụy trong thực thi công vụ, làm việc công tâm, khách quan, minh bạch,… Hiểu biết, có ý thức tuân thủ pháp luật nên tự nguyện THPL; thiếu hiểu biết pháp luật nên không THPL hoặc thực hiện không đầy đủ, không hiệu quả, thậm chí là không đúng, đây chính là khía cạnh tâm lý xã hội của cơ chế THPL. Vì vậy, cần đảm bảo tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, năng lực tổ chức THPL về quản lý công chức, góp phần hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý công chức cho đội ngũ công chức tham mưu. Từ việc nâng cao nhận thức, năng lực của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật quản lý công chức, hiệu quả công tác tổ chức THPL quản lý công chức sẽ được đảm bảo. 2.1.3. Điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội - Kinh tế là điều kiện bảo đảm quan trọng tác động đến ý thức pháp luật và trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về quản lý công chức tham mưu. Vì vậy, muốn THPL về quản lý công chức tham mưu đạt hiệu quả và mục tiêu mong muốn, cần phải có điều kiện bảo đảm về kinh tế. Để tác động hiệu quả đến ý thức pháp luật và phát huy vai trò trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quản lý công chức tham mưu, cần đảm bảo các điều kiện về kinh tế như cơ sở vật chất, điều kiện, môi trường làm việc của công chức; quyền, lợi ích vật chất, chế độ chính sách đãi ngộ về tiền lương, thu nhập… cho họ. Để triển khai đưa pháp luật về quản lý công chức tham mưu trở thành hành vi thực tế của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh, thì ngoài việc sử dụng kinh phí thường xuyên cho việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật, còn cần có nguồn tài chính hợp pháp để tạo động lực, khuyến khích các chủ thể thực hiện nghiêm minh pháp luật về quản lý công chức, nhất là tạo môi trường làm việc tốt, điều kiện, phương tiện làm việc, chế độ, chính sách đãi ngộ... - Chính trị là yếu tố có ảnh hưởng đặc biệt đến hoạt động THPL quản lý công chức tham mưu. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước hoạt động tuân theo đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì vậy, điều kiện đảm bảo về mặt chính trị được thể hiện ở vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong giới hạn nghiên cứu, điều kiện bảo đảm về chính trị đối với THPL về quản lý công chức chính là thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, công tác nhân sự. Đường lối chính trị của Đảng cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự chỉ đạo việc xây dựng, tuyên truyền, giáo dục và THPL. Pháp luật về quản lý công chức tham mưu là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý công chức thành ý chí chung, ý chí của Nhà nước. - Điều kiện bảo đảm về văn hóa là một yếu tố quan trọng đảm bảo THPL về quản lý công chức tham mưu ở cơ quan Đảng cấp tỉnh có hiệu quả và mang tính bền vững, lâu dài. Văn hóa nước ta có nguồn gốc trong khu vực Đông Nam Á - văn hóa nông nghiệp lúa nước. Do đó tạo nên tính cách chung của con người Việt Nam là trọng tình cảm, đoàn kết, yêu thương,... Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng để xác lập bản sắc riêng về THPL quản lý công chức của mỗi quốc gia. Văn hóa được hình thành do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, không nằm ngoài sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội. Để hình thành nên một chuẩn mực văn hóa trong thực thi công vụ, trong tổ chức THPL quản lý công
- TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 63/2022 121 chức, trong quản lý, chấp hành và điều hành của đội ngũ công chức là một quá trình tích lũy lâu dài và cần có vai trò của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đây là điều kiện quan trọng tác động, lan tỏa đến nhận thức và hành động của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về quản lý công chức. Đặc trưng của văn hóa là có tính hệ thống, có tính giá trị, có tính nhân văn và có tính lịch sử. Chức năng cơ bản của văn hóa là điều chỉnh xã hội và giáo dục. Vì vậy, văn hóa là điều kiện quan trọng bảo đảm THPL quản lý công chức, được biểu hiện ở nhiều khía cạnh, nhưng khía cạnh cơ bản nhất thể hiện qua nhận thức, hành vi của công chức được quy định và hình thành thói quen trong tập thể, được số đông thừa nhận và cùng thực hiện nhằm THPL về quản lý công chức hiệu quả. - Điều kiện bảo đảm về xã hội được thể hiện ở các khía cạnh sau: Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức đoàn thể trong cơ quan đơn vị có thẩm quyền về quản lý công chức là một trong những yếu tố chính trị bảo đảm cho hoạt động THPL về quản lý công chức tham mưu. Trong đó, chúng ta cần phân tích sâu mối quan hệ giữa tổ chức Đảng, tổ chức Công đoàn đối với hoạt động của cơ quan Đảng cấp tỉnh về THPL quản lý công chức tham mưu và bảo đảm quyền lợi của công chức tham mưu trong hoạt động thực thi công vụ. Đồng thời, trong quá trình tổ chức tuyên truyền, giáo dục phố biến pháp luật, vai trò của các tổ chức đoàn thể trong cơ quan, đơn vị là yếu tố quan trọng góp phần triển khai có hiệu quả công tác THPL về quản lý công chức tham mưu. Là một phạm trù ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật chứa đựng các giá trị xã hội vốn có; đồng thời, giá trị đó còn được quy định bởi thuộc tính điều chỉnh và tính quy phạm riêng có của pháp luật. Pháp luật là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, là một trong những yếu tố bảo đảm và bảo vệ sự ổn định trật tự của xã hội, đồng thời xã hội cũng là cơ sở cho sự tồn tại của pháp luật về quản lý công chức tham mưu trong đời sống xã hội. 2.2. Một số vấn đề đặt ra trong bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý công chức tham mưu của các cơ quan Đảng cấp tỉnh ở Việt Nam Nhìn chung, việc bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu cơ bản sau: - Các văn bản quy phạm pháp luật đã tăng cả về số lượng và chất lượng. Nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh về công chức tham mưu sau khi ban hành đã đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò tác dụng trong việc quản lý công chức. Cụ thể: 1) Đã có sự phân biệt quản lý cán bộ với quản lý công chức tham mưu, quản lý công chức tham mưu với quản lý công chức cấp xã. 2) Bổ sung một số nguyên tắc quản lý công chức tham mưu, trong đó, đáng chú ý là nguyên tắc kết hợp tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Nguyên tắc này tạo cơ sở khoa học đồng thời mang tính thực tiễn cao; giúp xóa bỏ hoàn toàn cơ chế “xin- cho” trong quản lý biên chế cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả, đúng mục đích công tác tổ chức thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc xác định biên chế được thực hiện trên cơ sở khoa học, không chỉ dựa vào nhu cầu công việc, nhiệm vụ của cơ quan, mà còn căn cứ vào tiêu chuẩn, vị trí việc làm.
- 122 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 3) Quy định khá rõ về phương thức quản lý công chức tham mưu, theo đó, các quy định cụ thể về tuyển dụng, sử dụng, nâng ngạch, bổ nhiệm, từ chức, khen thưởng, kỷ luật, tiền lương, đãi ngộ, thôi việc, nghỉ hưu... đối với những người được xác định là công chức tham mưu, đều được thống nhất quản lý và thực hiện theo các quy định của Chính phủ. 4) Về các vấn đề liên quan đến sử dụng công chức tham mưu: Đào tạo, bồi dưỡng công chức tham mưu được đổi mới theo hướng căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý; tiêu chuẩn ngạch công chức tham mưu và phải phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Việc kịp thời ban hành Nghị định 101/NĐ-CP [4] thay thế Nghị định 18/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức là một trong những ưu điểm được ghi nhận để kịp thời nâng cao chất lượng đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu thực thi công vụ. Các nội dung quy định liên quan đến bổ nhiệm, luân chuyển, biệt phái, từ chức, miễn nhiệm công chức tham mưu chỉ có ở các văn bản dưới luật nay được đưa vào Luật, đã khẳng định thêm giá trị pháp lý của các quy định này. Riêng về biệt phái, Luật bổ sung thêm thời hạn biệt phái công chức tham mưu có thể trên 3 năm đối với một số ngành, lĩnh vực và do Chính phủ quy định để phù hợp với yêu cầu của một số ngành, nghề. Việc đánh giá đối với công chức tham mưu có thêm một số nội dung mang tính cụ thể hơn như tiến độ và tinh thần phối hợp thực hiện nhiệm vụ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ nhân dân… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều hạn chế như: 1) Chưa quy định rõ tiêu chuẩn, điều kiện về đạo đức công vụ của công chức tham mưu, đặc biệt, trong bối cảnh đời sống kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi như hiện nay, đã phát sinh thêm nhiều quan hệ xã hội, nhiều vấn đề mới liên quan tới đạo đức công vụ của công chức tham mưu như: Tình trạng sắp xếp, bố trí người thân quen trong tuyển dụng, bổ nhiệm công chức tham mưu; việc công chức tham mưu có nhiều tài sản đứng tên những người trong gia đình; các hành vi tham nhũng liên quan đến quản lý tài sản công; vấn đề trách nhiệm giải trình của công chức tham mưu; trách nhiệm của công chức tham mưu và của cơ quan, tổ chức, đơn vị… 2) Quy định về chế độ, chính sách đãi ngộ còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ giữa các cấp, các ngành; chính sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để công chức tham mưu toàn tâm, toàn ý với công việc; quy định về khuyến khích và bảo vệ công chức tham mưu năng động, sáng tạo vì lợi ích chung chưa được ban hành cụ thể, do đó tinh thần đổi mới sáng tạo của công chức tham mưu hiện nay gặp không ít rào cản, nhất là trong lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu tổ chức thực hiện bởi dễ gây rủi ro về pháp lý… 3) Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức tham mưu còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. 4) Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tham mưu chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với kỹ năng, nghiệp vụ theo vị trí việc làm, nhiều nơi chưa gắn với quy hoạch và yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; công chức tham mưu tham gia bồi dưỡng chưa xuất phát từ nhu cầu nâng cao năng lực, yêu cầu làm việc. Một số chương trình đào tạo còn trùng lặp về nội dung, chưa được cập nhật, bổ sung, chưa sát với yêu cầu công việc của công chức tham mưu.
- TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 63/2022 123 5) Quy định về đánh giá, xếp loại chất lượng công chức tham mưu vẫn còn tình trạng chủ quan, cảm tính, nể nang, chưa phản ánh đúng thực chất trong đánh giá; nhiều nội dung chưa thực sự rõ ràng, khó đánh giá, như rất khó để xây dựng một tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá phẩm chất đạo đức của công chức tham mưu; có công chức lúc trước có thể sai lầm nhưng không phải vì thế mà quy chụp họ hiện nay thiếu năng lực; có công chức đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, nhưng quyết định mang tính đột phá đó chưa mang lại hiệu quả ngay lập tức,... Các văn bản pháp luật được ban hành vẫn còn nhiều quy định mang tính nguyên tắc, thiếu cụ thể nên phải chờ văn bản hướng dẫn quy định chi tiết mới có hiệu lực thi hành trong thực tiễn, trong khi các văn bản hướng dẫn lại không thể ban hành ngay sau khi văn bản pháp luật được ban hành. Thực tế cho thấy hiện nay việc thực hiện rà soát, đánh giá văn bản chưa tốt, chưa kịp thời. Việc hệ thống hoá, rà soát, đánh giá, loại trừ những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật nói chung với những quy định về quản lý, sử dụng công chức tham mưu chưa được làm một cách bài bản, khoa học và cũng chưa được coi trọng, nhiều khi còn mang tính chất đối phó nên không đảm bảo được tính đồng bộ, thống nhất, khả thi bởi vì bất kỳ một quy phạm hay văn bản pháp luật nào cũng được tạo ra và tác động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ mà trong một tổng thể những mối liên hệ và những sự ràng buộc nhất định. Đồng thời, với khối lượng văn bản quá lớn và cồng kềnh, nhiều tầng nấc (Nghị định hướng dẫn Luật, Thông tư hướng dẫn Nghị định…) cùng với việc thiếu tính toàn diện trên các lĩnh vực pháp luật khác nhau nên mâu thuẫn, chồng chéo là khó tránh khỏi. Tính thay đổi thường xuyên của các văn bản pháp luật có nguyên nhân ở sự thiếu vắng những tầm nhìn, tính dự báo và quan điểm chiến lược đối với sự phát triển của các vấn đề về quản lý, sử dụng công chức tham mưu. Nhiều văn bản pháp luật tuổi thọ rất ngắn, có văn bản pháp luật mới ban hành đã phải phải sửa đổi, bổ sung. Kỹ thuật pháp lý khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật chưa được đảm bảo yêu cầu. Các quy phạm pháp luật về vấn đề quản lý, sử dụng công chức còn chưa chặt chẽ, logic, rõ ràng, chính xác, dẫn đến còn nhiều sơ hở, thiếu sót, khó hiểu, khó áp dụng. 2.3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam Việc bảo đảm THPL về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh ở Việt Nam cần quán triệt các quan điểm cơ bản sau: - Phải đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý trong THPL về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh của Việt Nam; trong đó, việc tổ chức thực hiện phải cụ thể hóa kịp thời, đúng đắn, chính xác các quan điểm chỉ đạo, đường lối, quy định của Đảng và nhà nước trong THPL về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh. - Đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong THPL về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh ở Việt Nam. Trong đó phải lưu ý thực hiện thượng tôn pháp luật, bảo vệ tính nghiêm minh trong THPL trong quản lý công chức; đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng trong tổ chức triển khai THPL; đảm bảo nguyên tắc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công chức, công dân trong tổ chức THPLvề quản lý công chức.
- 124 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI - Phải đảm bảo tính minh bạch, trách nhiệm, hiệu quả trong THPL về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh. Để thực hiện điều này, đòi hỏi phải tập trung nâng cao nhận thức của đội ngũ được giao thẩm quyền quản lý công chức về tính minh bạch, trách nhiệm, hiệu quả trong THPL về quản lý công chức; phải xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổ chức THPL về quản lý công chức để từ đó định hướng được các nhiệm vụ cần triển khai trong tổ chức THPL về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh; đồng thời phải tăng cường hiệu lực của hoạt động kiểm tra, giám sát việc THPL về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh. Trên cơ sở đó, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp bảo đảm THPL về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh ở Việt Nam như sau: Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý công chức và các văn bản quản lý quy định về quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh, cụ thể là: 1) Phải khẩn trương nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật về đạo đức công vụ trên cơ sở tập hợp các quy định về đạo đức của công chức, thực thi giao tiếp…; trên cơ sở đó, chỉnh sửa, bổ sung, xây dựng một văn bản pháp luật mới, đó là “Luật Đạo đức công vụ”. 2) Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan đến đạo đức công vụ như: Về tặng quà và nhận quà tặng tại Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018; các quy định của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí về trách nhiệm và ý thức trong sử dụng tài sản, công sản… (3) Nghiên cứu xây dựng thể chế giám sát và xử lý vi phạm đạo đức công vụ… Hai là, để giúp công chức tham mưu hoàn thành tốt nhiệm vụ, ngoài việc đảm bảo các quyền theo quy định pháp luật, cần cải cách chế độ tiền lương, cải thiện môi trường làm việc; kịp thời ban hành quy định về khuyến khích và bảo vệ công chức năng động, sáng tạo vì lợi ích chung... Đồng thời, khuyến khích, động viên công chức nêu cao trách nhiệm, tận tâm, sáng tạo trong công việc thông qua việc bố trí, sử dụng, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật công chức tham mưu. Quá trình này cần sự tham gia thường xuyên, có trách nhiệm của các chủ thể mới tạo được động lực thực sự cho công chức tham mưu. Ba là, tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng công chức tham mưu. Theo đó, phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng công chức phải theo hướng tuyển dụng công chức phù hợp với vị trí việc làm. Tiếp tục thực hiện quy định pháp luật về kiểm định chất lượng đầu vào công chức (kiểm định chung hay đặc thù) để các cơ quan Đảng cấp tỉnh lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ. Bốn là, phải hoàn thiện quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức tham mưu theo vị trí việc làm, chức vụ, chức danh. Theo đó, phải tích cực đổi mới các chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức theo hướng gắn với vị trí việc làm, chức danh công chức đảm nhận trên cơ sở năng lực công chức để bổ sung, hoàn thiện về kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để họ thực hiện tốt công việc được giao. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức quản lý chuyên ngành, chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ và kiến thức hội nhập quốc tế, chuyển đổi số phù hợp với định hướng chính trị, quy định pháp luật và yêu cầu của công việc theo vị trí việc làm và chức danh đảm nhận. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần được xây dựng đa dạng, phong phú và cập nhật kiến thức thường xuyên, phù
- TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 63/2022 125 hợp, trong đó, ưu tiên thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày và tập trung vào các nội dung thiết thực, phù hợp với tính chất công việc của công chức tham mưu. Chú trọng áp dụng phương pháp đào tạo, bồi dưỡng mang tính gợi mở theo tình huống thực tế hoạt động trong cơ quan Đảng cấp tỉnh. Năm là, phải hoàn thiện quy định về công tác đánh giá, xếp loại chất lượng công chức tham mưu. Đây là nội dung cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện pháp luật về công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh. Làm tốt công tác đánh giá sẽ tạo nên môi trường làm việc tốt trong mỗi cơ quan, đơn vị; sẽ khuyến khích công chức làm việc hiệu quả, đồng thời sàng lọc, loại bỏ những người không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; là căn cứ để lựa chọn, sắp xếp, bố trí, đề bạt, sử dụng đúng với năng lực, sở trường, từ đó chủ động trong việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và bổ nhiệm công chức tham mưu.Vì vậy, việc đánh giá kết quả thực hiện công vụ, nhiệm vụ của công chức cần được tiến hành thường xuyên và xem xét trên ba phương diện là: chấp hành các quy định chung và quy định cụ thể của cơ quan, đơn vị; mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao theo vị trí việc làm về số lượng, chất lượng, kỳ hạn và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực; có tác phong làm việc khoa học, có thái độ tôn trọng, biết lắng nghe, tận tụy đối với đối tượng phục vụ và đồng nghiệp. 3. KẾT LUẬN Tóm lại, THPLvề quản lý công chức tham mưu ở các cơ quan Đảng cấp tỉnh ở Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng, là cơ sở pháp lý để các cơ quan Đảng cấp tỉnh tiến hành các hoạt động để quản lý công chức tham mưu thực sự hiệu lực, hiệu quả nhằm xây dựng được một đội ngũ công chức tham mưu có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; từ đó, tiến hành các hoạt động tham mưu giúp Thành ủy, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Thành ủy, Tỉnh ủy, Thường trực Thành ủy, Tỉnh ủy thực hiện tốt vai trò lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng chính quyền và các vấn đề khác theo chức năng, nhiệm vụ được giao; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo mục tiêu, định hướng Đảng ta đã đề ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quy định số 04-QĐi/TW, ngày 25/7/2018 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy, Thành ủy. 2. Bộ Chính trị, Quy định số 10-QĐ/TU, ngày 12/12/2018 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 3. Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 4. Chính phủ, Nghị định số 89/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
- 126 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI REGARDING THE IMPLEMENTATION OF THE LAW ON THE MANAGEMENT OF CONSULTANTS IN THE PROVINCIAL PARTY ORGANIZATION OF VIETNAM Abstract: To have an excellent civil servant team, there must be specific and strict legal conditions and regulations. The implementation of the Civil Servants and Consultants Management Law of Provincial Authorities in Vietnam requires many factors to ensure, such as the perfection of the legal system, the ability to organize the implementation of the Civil Servant Management Law, economic, political, cultural, social conditions, etc. On the basis of analyzing the conditions, requirements and guarantee level of the Civil Service Management Law, and making suggestions for the current party organs, the article initially proposes some solutions to ensure the implementation of the Civil Service and Consultant Management Law in Vietnam's provincial agencies. Keywords: Ensuring compliance with laws, consulting civil servant, provincial party organs.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số vấn đề về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay
4 p | 161 | 21
-
Một số vấn đề về vai trò kinh tế và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
5 p | 124 | 18
-
Một số vấn đề về đời sống văn hóa xã hội nông thôn Việt Nam hiện nay
14 p | 100 | 14
-
Trao đổi một số vấn đề về kỹ năng của luật sư khi tham gia giải quyết vụ án hình sự
5 p | 16 | 11
-
Một số vấn đề về chính sách an sinh xã hội trong nông thôn Việt Nam - Mai Ngọc Anh
11 p | 88 | 10
-
Một số vấn đề về tiến trình xây dựng chính quyền đô thị ở thành phố Cần Thơ
5 p | 101 | 9
-
Một số vấn đề về trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay
7 p | 120 | 8
-
Pháp luật về đăng ký và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Một số vấn đề doanh nghiệp nhỏ và vừa cần quan tâm
167 p | 19 | 7
-
Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước - Một số vấn đề về nguyên tắc và phương pháp tiếp cận
8 p | 95 | 6
-
Một số vấn đề về vận động chính sách công
10 p | 62 | 6
-
Một số vấn đề về bảo vệ quyền của người lao động trong pháp luật Việt Nam theo cam kết của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
12 p | 44 | 6
-
Một số vấn đề về đổi mới và phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay
9 p | 8 | 4
-
Một số vấn đề về chính sách, pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ở Trung Quốc và gợi mở cho Việt Nam
8 p | 19 | 4
-
Một số vấn đề về việc tham gia bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam - Mạc Văn Tiến
7 p | 69 | 4
-
Bài giảng Một số vấn đề về thanh tra hoạt động nghiên cứu KH&CN
64 p | 71 | 4
-
Bài giảng Một số vấn đề về tư vấn pháp luật - Tư vấn mua bán nhà
20 p | 48 | 2
-
Một số vấn đề về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
8 p | 1 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn