Một vài suy nghĩ về cách xưng hô của người Việt từ bài nghiên cứu “đại từ chỉ quyền lực và thân hữu” của R.Brown & A.Gilman
lượt xem 4
download
Bài viết này tập trung trình bày một vài suy nghĩ của chúng tôi về cách xưng hô của người Việt từ bài nghiên cứu “Đại từ chỉ quyền lực và thân hữu” của R.Brown và A.Gilman. Từ việc tóm tắt công trình trên, chúng tôi đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt về ngữ nghĩa quyền lực và ngữ nghĩa thân hữu của đại từ nhân xưng trong các ngôn ngữ Châu Âu với đại từ nhân xưng trong tiếng Việt.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một vài suy nghĩ về cách xưng hô của người Việt từ bài nghiên cứu “đại từ chỉ quyền lực và thân hữu” của R.Brown & A.Gilman
- UED Journal of Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ CÁCH XƯNG HÔ CỦA NGƯỜI VIỆT TỪ BÀI NGHIÊN CỨU “ĐẠI TỪ CHỈ QUYỀN LỰC VÀ THÂN HỮU” Nhận bài: 23 – 04 – 2015 CỦA R.BROWN & A.GILMAN Chấp nhận đăng: 01 – 11 – 2015 Hồ Trần Ngọc Oanh http://jshe.ued.udn.vn/ Tóm tắt: Bài viết này tập trung trình bày một vài suy nghĩ của chúng tôi về cách xưng hô của người Việt từ bài nghiên cứu “Đại từ chỉ quyền lực và thân hữu” của R.Brown và A.Gilman. Từ việc tóm tắt công trình trên, chúng tôi đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt về ngữ nghĩa quyền lực và ngữ nghĩa thân hữu của đại từ nhân xưng trong các ngôn ngữ Châu Âu với đại từ nhân xưng trong tiếng Việt. Qua đó, chúng tôi thấy được cách thức xưng hô của các dân tộc đều thể hiện đặc điểm ngôn ngữ, đặc trưng tâm lý, nếp suy tư và văn hoá giao tiếp của dân tộc đó. Có thể thấy, trong xưng gọi người Việt, ngữ nghĩa quyền lực không hề mất đi mà lại trở nên chiếm ưu thế hơn so với ngữ nghĩa thân hữu nhờ hệ thống các đại từ thân tộc. Từ khóa: xưng hô; đại từ; ngữ nghĩa quyền lực; ngữ nghĩa thân hữu; tiếng Việt. tình hình lại khác hẳn. 1. Đặt vấn đề Chịu định ước của xã hội, mang đậm bản sắc văn 2. Kết quả nghiên cứu hoá dân tộc, hệ thống từ xưng hô nói chung và đại từ 2.1. Sơ lược kết quả nghiên cứu trong bài báo nhân xưng (ĐTNX) nói riêng là hệ thống đặc biệt luôn “Đại từ chỉ quyền lực và thân hữu” [1] được các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Cách thức xưng Xuất phát từ sự liên tưởng mối quan hệ gần gũi của hô của các dân tộc đều thể hiện đặc điểm ngôn ngữ, đặc hai đại từ xưng gọi số ít trong tiếng Anh, Pháp, Đức,... trưng tâm lý, nếp suy tư và văn hoá giao tiếp của dân với hai bình diện cơ bản của sự phân tích toàn bộ đời tộc đó. sống xã hội - bình diện quyền lực và thân hữu, Roger Là một hiện tượng phổ quát ngôn ngữ, ĐTNX có Brown và Allbert Gilman đã tiến hành phân tích ngữ mặt ở mọi thứ tiếng với số lượng không nhiều lắm, dùng nghĩa và phong cách của hai đại từ này, từ đó có thể để trỏ và thay thế cho nhân vật giao tiếp. Việc thay thế hiểu sâu thêm về tâm lý học và xã hội học cũng như về này là cần thiết tất yếu. Tuy nhiên, trong thực tế sử dụng ngôn ngữ học và văn học. Tất cả những nội dung trên ngôn ngữ, chức năng trỏ và thay thế nhân vật hành động được tác giả trình bày rất kĩ lưỡng và rõ ràng trong bài có được thực hiện một cách chuyên nhất bởi loại đại từ viết: “Đại từ chỉ quyền lực và thân hữu”. nhân xưng hay không, đấy chính là trường hợp của Bài viết được chia thành năm phần chính. Ở ba những dị biệt và đặc thù trong mỗi thứ tiếng. Nếu như ở phần đầu, các tác giả dành để thảo luận vấn đề ngữ các ngôn ngữ Châu Âu, hệ thống các ĐTNX được triệt nghĩa của đại từ xưng gọi. Thuật ngữ ngữ nghĩa ở đây để sử dụng trong giao tiếp và có sự chuyển đổi ngữ hàm chỉ mối quan hệ đồng biến giữa đại từ được dùng nghĩa từ quyền lực sang thân hữu thì trong một số ngôn và mối quan hệ khách quan giữa người nói và người ngữ thuộc loại hình đơn lập (cụ thể ở đây là tiếng Việt), nghe. Hai phần cuối của bài viết trình bày về phong cách diễn đạt hay là mối quan hệ đồng biến giữa đại từ * Liên hệ tác giả được dùng và các đặc trưng của người nói. Ở mỗi phần, Hồ Trần Ngọc Oanh Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng R. Brown & A.Gilman đều miêu tả rất chi tiết các chứng Email: hotranngocoanh@gmail.com Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015), 83-88 | 83
- Hồ Trần Ngọc Oanh cớ (thông tin chủ yếu từ năm ngôn ngữ: Anh, Đức, Ý, người bất bình quyền và quy tắc T hoặc V tương hỗ (tùy Pháp, Tây Ban Nha) nhằm chứng minh một cách thuyết theo giai tầng xã hội) giữa những người tương đối bình phục các luận điểm mà họ đưa ra. quyền. Hai đại từ xưng gọi số ít trong các ngôn ngữ Châu Lúc đầu không có quy tắc gì để khu biệt cách xưng Âu được R.Brown & A.Gilman kí hiệu là T và V có gọi giữa những người bình quyền, nhưng dần dần, một nguồn gốc từ hai từ tu và vos trong tiếng La Tinh. Khi sự khu biệt đã được phát triển và đôi khi được gọi là T vào tiếng Ý, tu và vos trở thành tu và voi (sau đó lei lại chỉ sự thân thiện còn V chỉ sự trang trọng. Đây chính là thay thế voi); trong tiếng Pháp là tu và vous; trong tiếng bình diện được R.Brown & A.Gilman gọi là sự thân Tây Ban Nha là tu và vos (sau này là usted); trong tiếng hữu. Đức là du và lhr (sau đó lhr đã phải nhường chỗ cho er Lúc đầu chỉ có T là đại từ chỉ ngôi thứ hai số ít. và sau đó là Sie); trong tiếng Anh là thou và ye (về sau Việc dùng V vào chức năng đại từ ngôi thứ hai số ít you đã thay thế cho ye). T và V là kí hiệu chung cho đại được phát triển như một dạng xưng gọi dùng với người từ chỉ sự thân hữu và đại từ chỉ sự lịch sự trong tất cả có quyền lực tối cao. Dạng V có liên quan đến sự khác các ngôn ngữ. biệt giữa người và người. Một quy tắc tạo ra sự khác Trong tiếng Latinh cổ, chỉ có tu được dùng ở ngôi biệt trong cách dùng T và V giữa những người bình hai số ít. Đại từ ngôi thứ hai số nhiều vos được dùng lần quyền có thể được xây dựng bằng cách khái quát hóa đầu tiên trong nghĩa ngôi thứ hai số ít là để gọi hoàng ngữ nghĩa quyền lực. Như vậy, thân hữu đã hình thành đế, về sau đại từ này được dùng rộng ra với các nhân vật trong các đại từ của các ngôn ngữ Châu Âu như một có thế lực khác. Theo R.Brown & A.Gilman, mô hình phương cách để khu biệt xưng gọi giữa những người ngữ nghĩa này không được thiết lập một cách rõ ràng từ bình quyền. Do sự tồn tại lâu dài của hệ thống ngữ nhiều thế kỉ. Mãi cho tới một khoảng thời gian nào đó nghĩa bình diện quyền lực và thân hữu mà T đã có được giữa thế kỉ XII và XIV, tùy theo từng ngôn ngữ, ngữ một cách hiểu phổ biến là đại từ chỉ sự tôn kính hay nghĩa quyền lực phi tương hỗ được hình thành. trang trọng. Quyền lực là một mối quan hệ giữa ít nhất là hai Càng về sau này, ngữ nghĩa thân hữu dường như đã người, và nó có tính chất phi tương hỗ ở chỗ cả hai trở nên áp đảo so với ngữ nghĩa quyền lực. người không thể cùng có quyền lực trong cùng một địa Vì có hai bình diện ngữ nghĩa lớn chi phối cách hạt hành vi. Trong hoạt động giao tiếp, ngữ nghĩa quyền dùng T và V nên cũng có hai loại nghĩa biểu đạt chính. lực tương tự như vậy là có tính chất phi tương hỗ, tức là Phá vỡ chuẩn quyền lực thường có nghĩa là người nói người có quyền lực cao hơn sẽ dùng T và nhận lại V. coi người nghe là người dưới quyền, trên quyền hay Các tác giả đã dẫn ra một loạt các ví dụ từ các ngôn ngữ bình quyền, mặc dù theo các tiêu chí thông lệ và theo khác nhau để minh họa đặc trưng của ngữ nghĩa quyền cách dùng thành thói quen của người nói thì người nghe lực phi tương hỗ. Vì ngữ nghĩa quyền lực phi tương hỗ không phải là cái mà đại từ đó hàm chỉ. chỉ quy định cách dùng giữa những người trên quyền và Những cách dùng cổ xưa nhất của T và V để diễn tả những người thấp quyền, nó đòi hỏi một cấu trúc xã hội thái độ có vẻ như nhất loạt khắp mọi nơi là T được dùng trong đó mỗi cá nhân được xếp đặt ở một vị trí duy nhất để chỉ sự khinh bỉ hoặc tức giận còn V được dùng để chỉ trong nấc thang quyền lực. Các xã hội châu Âu thời sự thán phục hoặc kính trọng. Đại từ T chỉ sự khinh Trung cổ chưa bao giờ lại có cấu trúc phân chia chặt chẽ miệt và tức giận thường được dùng giữa những người như vậy cho nên ngữ nghĩa quyền lực chưa bao giờ là thông thường vẫn dùng V với nhau, và tất nhiên là cả quy tắc duy nhất trong việc sử dụng T và V. Chuẩn khi người thấp quyền hơn dùng nó để gọi một người xưng hô dành cho những người có quyền lực tương đối trên quyền. Khi khoảng cách xã hội trở nên lớn hơn thì ngang bằng nhau cũng đã được thiết lập, một người sự phá vỡ chuẩn mực càng trở nên dễ nhận thấy hơn và dùng một từ để gọi người khác cũng được gọi lại bằng thường thể hiện mức độ tình cảm cao nhất. chính từ ấy. Trong nhiều thế kỉ, việc sử dụng đại từ trong các tiếng Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha và Đức luôn Qua quá trình nghiên cứu, điều tra xã hội, R.Brown luôn tuân theo quy tắc phi tương hỗ T - V giữa những & A. Gilman đã đi đến kết luận: một phong cách dùng đại từ xưng gọi nhất quán ở một người sẽ bộc lộ địa vị, 84
- ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015),83-88 giai cấp và quan điểm chính trị của người đó. Luôn tồn dường như, trong xưng gọi người Việt, ngữ nghĩa quyền tại những biến thể trong phong cách đại từ liên quan đến lực không hề mất đi mà lại trở nên chiếm ưu thế hơn vị thế xã hội của người nói. Có đủ độ nhất quán trong nhờ hệ thống các đại từ thân tộc ấy. cách xưng gọi để có thể nói về một phong cách cá nhân Hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt bao gồm trong việc sử dụng đại từ với xu hướng ít nhiều nghiêng nhiều từ loại khác nhau nhằm đáp ứng tính đa dạng của về đại từ thân hữu T. Việc đại từ T, biểu tượng của tình xưng hô trong giao tiếp xã hội. Chúng tôi chia hệ thống thân hữu, đại từ của gia đình hạt nhân, được dùng rộng từ xưng hô thành hai nhóm lớn là đại từ nhân xưng và rãi cho tất cả mọi người, là thể hiện ý định của những những yếu tố phi đại từ nhân xưng (các tác giả khác gọi người cấp tiến mở rộng tư tưởng đoàn kết anh em của là nhóm từ xưng hô chuyên dụng – đại từ nhân xưng và mình. nhóm từ xưng hô lâm thời). Tóm lại, tuy vẫn chưa giải thích rõ ràng việc suy Nếu chỉ xét riêng hệ thống từ xưng hô là ĐTNX giảm rõ ràng của sự chuyển đổi nghĩa biểu cảm giữa T trong tiếng Việt, có thể nhận thấy hệ thống này có một và V nhưng qua bài “Đại từ chỉ quyền lực và thân sự chuyển đổi ngữ nghĩa rất rõ ràng. Ở đây, chúng tôi hữu”, R.Brown & A. Gilman đã chứng minh rằng chỉ đi sâu vào phân tích sự chuyển đổi ngữ nghĩa của hướng thay đổi cách dùng đại từ hiện thời thể hiện đại từ nhân xưng số ít ngôi thứ nhất (tao) và ngôi hai mong muốn mở rộng ngữ nghĩa thân hữu với tất cả mọi (mày). người [1]. Trong giao tiếp thường ngày, tao được dùng làm 2.2. Ngữ nghĩa quyền lực và ngữ nghĩa thân tiếng tự xưng khi nói với người dưới, hay người ngang hữu thể hiện qua cách xưng hô người Việt hàng có kèm theo tình cảm thái độ như căm ghét, coi Với đội ngũ cộng tác viên đông đảo cùng với phạm khinh hoặc thân mật, gần gũi và suồng sã. Trong khi đó vi nghiên cứu rộng rãi (trên 16 quốc gia), có thể nói ở ngôn ngữ Majorica (thế kỉ 17), tao chỉ được dùng làm “Đại từ chỉ quyền lực và thân hữu” của R.Brown & A. tiếng tự xưng khi nói với người dưới và rất ít trường Gilman là một công trình nghiên cứu rất công phu, có hợp biểu hiện thái độ tình cảm. Lời tự xưng có thể là giá trị về mặt lí luận và nhiều ý nghĩa trong thực tiễn. của vua xưng với thần dân, của cha nói với con, của Trong quá trình nghiên cứu, các tác giả chủ yếu dựa người thánh nói với người phàm, hay của chồng nói với vào thông tin từ năm ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với vợ. Ví dụ: (i). Cha mắng tiếng con làm vậy, liền viết thư nhau (tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Ý); chính vì gửi cho con rằng: mày bỏ tao mà làm xấu hổ cho mặt thế những kết luận của các tác giả rất thiết thực khi trắc nhà tao làm vậy [...] dù mà ở dưới đất thì tao cũng bắt nghiệm với các ngôn ngữ cùng loại hình (như Áo, Hà [...], (ii). Bởi vua yêu mẹ nó quá lẽ thì cũng yêu con, Lan,...). Trắc nghiệm những kết luận trong công trình liền khen nó mà rằng: con này xin đí gì cùng tao, dù mà trên về sự biến đổi ngữ nghĩa của đại từ xưng gọi trong nữa nước thì tao cũng cho [4]. Ở cả hai trường hợp trên, một số ngôn ngữ không cùng loại hình (như tiếng Việt, đều là lời xưng của người trên với kẻ dưới, riêng ở tiếng Jrai), chúng tôi nhận thấy có một độ chênh nhất trường hợp (i) có kèm theo thái độ tức giận. Ở các từ định nào đó. Điều này không có nghĩa là chúng tôi phủ điển, tao đều được giải thích như nhau, chung quy là nhận kết quả nghiên cứu của R.Brown & A.Gilman khi tiếng tự xưng của người trên đối với kẻ dưới. ứng dụng vào các ngôn ngữ khác loại hình. Bởi lẽ như Ngày nay, từ này đã có sự thay đổi trong cách đã nói ở trên, cách sử dụng từ xưng gọi của một dân tộc dùng: cũng là lời người trên tự xưng nhưng thường kèm nào đó luôn chịu định ước của xã hội và mang đậm bản theo một thái độ tình cảm nào đó. Giả sử tình huống đứa sắc của dân tộc ấy. Chính vì vậy, việc đem kết quả con không vâng lời ông bố, vô tình làm bể chậu hoa, nghiên cứu các ngôn ngữ Phương Tây vào ứng dụng các trong hoàn cảnh ấy ông ta có thể mắng: ấy, tao đã bảo ngôn ngữ Phương Đông nhất định sẽ tạo một khoảng mà mày không nghe, từ tao ở đây tỏ thái độ trách móc; trống về ngôn ngữ nhất định. Chẳng hạn trong tiếng còn bình thường thì sẽ dùng từ ba, bố có chức năng như Việt, chức năng trỏ và thay thế nhân vật hành động của đại từ để tự xưng. Ngoài ra, tao còn được dùng để tự ĐTNX được thực hiện không chuyên nhất, thay vào đó xưng (thường dùng trong khẩu ngữ) một cách thân mật là sự chiếm lĩnh của hệ thống các danh từ thân tộc. Và khi nói với những người có quan hệ gần gũi, ngang 85
- Hồ Trần Ngọc Oanh hàng, như: hôm nào rỗi, tao sẽ đến chơi. Tao trong tiếng này hết sức hạn chế, trong đó có nhiều từ rất ít dùng Việt là một trong những đại từ có nguồn gốc lâu đời hoặc chỉ dùng trong những điều kiện, tình huống và với nhất về phương diện xưng hô và có phạm vi sử dụng đối tượng giao tiếp nhất định. Các từ thường được dùng hạn chế hơn. Trong xưng hô chuẩn mực người ở vị trí để xưng hô trong những điều kiện giao tiếp bình thường thấp không xưng tao với người ở vị trí cao hơn, trong đều là những danh từ, trước hết là những thuật ngữ chỉ giao tiếp có quy thức nơi công sở thì từ tao cũng không quan hệ thân tộc rồi đến những thuật ngữ chỉ những được dùng. Đầu tiên, tao vốn là một ĐTNX có sắc thái chức vụ hay cương vị có ít nhiều màu sắc tôn vinh. Có biểu cảm trung hoà. Tiếp theo, khi các danh từ chỉ nhiều ý kiến khác nhau xung quanh sự phát triển của hệ người (tôi, tớ) được sử dụng như những yếu tố thay thế thống các danh từ để xưng gọi này. Có người cho rằng đại từ thì tình thái tao có sự biến đổi: biểu thị sắc thái ý cách xưng hô ấy của người Việt cho thấy một mối thâm nghĩa không lịch sự, suồng sã (Nguyễn Văn Chiến). Tuy tình gắn bó toàn dân thành một đại gia đình. Nguyễn nhiên, trong thực tế giao tiếp, tùy thuộc vào ngữ cảnh Đức Tồn thì cho rằng, việc lựa chọn sử dụng từ xưng hô giao tiếp, tuổi tác, vị thế xã hội của nhân vật giao tiếp, của người Việt tùy thuộc vào mối quan hệ ngang hay vai giao tiếp mà đôi khi từ xưng hô tao lại không hoàn quan hệ dọc giữa những người tham gia vào giao tiếp. toàn biểu thị sắc thái ý nghĩa không lịch sự, suồng sã mà lại mang sắc thái trung hòa hay thân mật. Quan hệ ngang hay còn gọi là quan hệ thân hữu là quan hệ gần gũi hay xa cách giữa những người giao tiếp. Cũng như tao, từ mày thường được dùng để gọi Quan hệ dọc là quan hệ quyền uy, tôn ti giữa những người ngang hàng, hay người dưới có kèm theo một thái người giao tiếp với nhau. Như vậy, khi các ĐTNX chính độ tình cảm nào đó; trong khi đó vào thế kỉ 17, mày danh mất đi ngữ nghĩa quyền lực và chuyển đổi dần được dùng để gọi người dưới. Ví dụ: (i). Bấy giờ, quan sang ngữ nghĩa thân hữu thì ngay lập tức ngữ nghĩa rằng: mày đã già bạc tóc, thì tao sẽ làm cho tóc mày nên đen, liền dạy nấu chám cho sôi mà đổ trên đầu, thì quyền lực được trao cho các ĐTNX lâm thời (đặc biệt là tóc người liền xanh ; (ii). [...] nhiều Thiên Thần [...] các danh từ thân tộc) để chỉ sự quyền uy, mối quan hệ cầm sách mà đọc những tội tôi làm xưa, bảo tôi rằng: thân/sơ, trên/dưới. Cũng có người thì cho rằng tồn tại cả mày muốn khỏi tội thì tin dốc lòng chịu đạo thì khỏi mặt tích cực và tiêu cực trong cách xưng gọi như thế và (trích Truyện Các Thánh-Majorica) [4]. Ở cả hai ví dụ về tỷ trọng thì hai mặt trên khó lòng mà thua kém nhau trên, mày đều là tiếng gọi người dưới: trường hợp (i) là được. Theo Cao Xuân Hạo, bên cạnh việc có thể làm tiếng gọi của quan với thần dân, trường hợp (ii) là tiếng cho những người dưng nhích lại gần nhau thì cách xưng gọi của thần linh với phàm nhân. gọi bằng danh từ thân tộc còn đưa đến “một không khí Hiện nay, mày được dùng phổ biến trong ngôn ngữ gia tộc hoàn toàn nhân tạo trong những môi trường nói ở những người ngang hàng đặc biệt là giới học sinh, không cần đến không khí gia tộc, thậm chí không thể sinh viên nhằm thể hiện một thái độ gần gũi, một tình chấp nhận thứ không khí này, vì nó quá thuận lợi cho cảm thân thiết đôi khi suồng sã; thêm nữa, khi gọi người chủ nghĩa con cháu và cho những thái độ kẻ cả của dưới thì thường dùng tên, hoặc những danh từ như con, người này và thái độ khúm núm, nịnh bợ của người cháu, em để thay thế cho mày ở cách gọi trước đó, còn kia”[6]. Tác giả cũng chỉ ra sự phân biệt sắc thái thân/sơ nếu dùng mày với người dưới thì luôn kèm theo nét và trên/dưới trong cách sử dụng từ xưng hô hiện nay của nghĩa biểu cảm nào đó. người Việt. Rõ ràng ngữ nghĩa của tao - mày trong giao tiếp hiện Như vậy, ngữ nghĩa quyền lực trong cách xưng gọi nay đã có sự khác biệt với ngữ nghĩa của tao - mày trong của người Việt không những không mất đi cùng sự biến quá khứ (cụ thể là vào thế kỉ 17). Từ việc chịu sự chi phối đổi ngữ nghĩa của các đại từ nhân xưng chính danh mà bởi quyền lực trên /dưới; tao - mày trong giao tiếp người thay vào đó nó còn phát triển một cách mạnh mẽ dựa Việt hiện nay dường như đã chuyển dần sang ngữ nghĩa vào sự “bành trướng” của các danh từ thân tộc trong thân hữu và chịu sự chi phối bởi yếu tố xã hội, tâm lí, tình giao tiếp. Theo chúng tôi, cách xưng hô bằng từ thân tộc cảm, thái độ của người tham gia giao tiếp. trong xã giao cũng đem đến những bất tiện nhất định. Như đã biết, người Việt luôn xưng và hô theo nguyên Tiếng Việt có khoảng trên dưới 20 từ ngữ là ĐTNX tắc “xưng khiêm hô tôn” tức là gọi mình thì khiêm chính danh, tuy nhiên việc sử dụng những ĐTNX gốc 86
- ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015),83-88 nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn kính. Đây là thói quen xưng hô trong giao tiếp hàng ngày của người cách xưng hô thể hiện tính tôn ti kĩ lưỡng, thận trọng. Việt lại là điều không dễ dàng. Thế nhưng, xưng hô của người Việt hiện nay thường vi Xưng hô là một phạm trù phức tạp tế nhị. Cách phạm quy tắc “xưng khiêm hô tôn” bằng sự chiếm lĩnh xưng hô có vai trò vô cùng quan trọng, nó biểu lộ tình của các danh từ thân tộc. Trong giao tiếp xã hội giữa các cảm quý mến và sự tôn trọng lẫn nhau. Việc dùng một thế hệ, khi một khách hàng đứng tuổi đến một công ti, đại từ trung hòa (không có ngữ nghĩa quyền lực) như tôi một cơ quan nào đấy để liên hệ công việc, nhân viên trẻ trong giao tiếp người Việt là một điều hết sức cần thiết thường tự xưng là cháu, và gọi họ là cô, chú hay bác. (mặc dù ban đầu có thể cảm thấy khô khan, khó chịu và Còn khách hàng thường gọi là anh, chị và xưng là tôi. khó thể hiện cảm xúc như nhiều người cảm nhận). Cách Nhưng không ít khách hàng cứ tự nhiên xưng và hô lại dùng những ĐTNX trung hòa có những mặt mạnh của theo cách người nhân viên đã xưng hô, tức là xưng bằng nó, đó là: lịch sự, đơn giản và tuân thủ những nguyên cô, chú, bác và gọi người nhân viên bằng cháu. Cách tắc xưng hô của người Việt. Qua sự đối sánh ĐTNX xưng hô sau rõ ràng đã vi phạm nguyên tắc xưng hô tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác (tiếng Anh, tiếng người Việt, thể hiện sự thiếu tôn trọng nhân viên đang Jrai), chúng tôi cũng nhận thấy, việc lựa chọn những hành chức. Trong giao tiếp giữa các đồng nghiệp, cách cách ứng xử liên quan tới ngôn ngữ văn hóa phụ thuộc xưng hô theo hệ thống thân tộc cũng tạo nên sự thiếu rất nhiều vào bản sắc cũng như tư duy của từng dân tộc. bình đẳng giữa các thế hệ. Các bác sĩ trẻ thường gọi tất cả nhân viên đứng tuổi trong bệnh viện và cả bệnh nhân 3. Kết luận hay những giáo viên trẻ thường gọi những người làm công tác hành chính, văn phòng bằng cô, chú, bác và Ban đầu, ĐTNX vốn là những đơn vị xưng hô xưng bằng cháu, con. Trong nhà trường, các giáo viên mang tính chất trung tính (không chứa đựng các nội lớn tuổi thường gọi những giáo viên trẻ tuổi hơn là con, dung tình thái). Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, do cháu và tự xưng là cô, chú, bác…Có lẽ cách xưng hô nhiều nguyên nhân khác nhau, tính chất đó rất dễ bị thay trong cơ quan hành chính công vụ, đoàn thể, trường học đổi. Thực tế ở nhiều ngôn ngữ cho thấy, từ chỗ chỉ được ... của người Việt hiện nay còn bị chi phối quá nặng bởi sử dụng với mục đích xưng hô, dần dần các ĐTNX cũng tư tưởng phong kiến gia trưởng. [2] được sử dụng như một phương tiện để biểu thị thái độ, tình cảm của người nói. Trong thực tế đời sống ngôn Có thể thấy hệ thống các từ dùng để xưng hô trong ngữ, các nhân vật hội thoại khi dùng ĐTNX bị lệ thuộc tiếng Việt thiếu hẳn những đại từ trung lập cho mọi đối vào nhiều nhân tố, như: tuổi tác, vị thế xã hội của các tượng trong mọi tầng lớp xã hội không phân biệt sang nhân vật giao tiếp, không gian giao tiếp, nhân tố giới hèn, trọng hay khinh, cấp dưới hay cấp trên. Trong giai tính, nhân tố kiêng kị… Chúng tôi nhận thấy, dù cách đoạn hiện nay, giai đoạn đổi mới, quan hệ với mọi xưng hô của người Việt có phụ thuộc vào yếu tố gì đi người trong giao dịch công vụ, trên dưới cần phải xưng nữa thì ngữ nghĩa quyền lực và ngữ nghĩa thân hữu của hô thế nào để tạo sự dân chủ, bình đẳng hơn và đỡ tự ti đại từ xưng gọi vẫn luôn tồn tại song song nhau. hơn đối với những người dân bình thường, những cán bộ cấp dưới... Bên cạnh đó, với sự phát triển kinh tế thị Đi sâu vào tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ, đặc trưng trường, việc giao tiếp trong xã hội ngày càng tăng tâm lý, cách tư duy của mỗi dân tộc được thể hiện qua cường và rộng rãi giữa các tầng lớp, các thế hệ. Những cách xưng hô chắc chắn sẽ hứa hẹn nhiều điều thú vị. từ thân tộc với sự phân biệt tôn ti rất tế nhị trong quan Chúng tôi hi vọng sẽ được trở lại nghiên cứu vấn đề này hệ gia tộc sẽ ngày càng khó thích nghi với xã hội công trong một dịp gần nhất. nghiệp hóa, hiện đại hóa sau này. Hệ thống từ xưng hô Tài liệu tham khảo cần phải từ tình trạng sử dụng những từ mang tính chất xã giao, tính chất công cộng. Như vậy, cần phải có [1] Brown R. & Gilman A (1960), Đại từ quyền lực những đại từ trung lập để xưng hô giao tiếp. Đây cũng và thân hữu. là vấn đề được rất nhiều nhà ngôn ngữ học đưa ra (Cao [2] Hoàng Thị Châu (1995), “Vài đề nghị về chuẩn hóa cách xưng hô trong xã giao”, Tạp chí Ngôn Xuân Hạo, Hoàng Thị Châu). Tuy nhiên, chọn đại từ ngữ và đời sống, số 3. nào cho phù hợp và thiết lập một trật tự mới khác với 87
- Hồ Trần Ngọc Oanh [3] Trương Thị Diễm (2002), Từ xưng hô có nguồn [5] Hiroki Tahara (1996), “Mấy nhận xét về cách gốc danh từ thân tộc trong giao tiếp tiếng Việt, xưng hô tiếng Việt qua điện thoại”, Tạp chí Ngôn Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh. ngữ và đời sống, số 3. [4] Nguyễn Quốc Dũng (2009), Ngôn ngữ trong [6] Nguyễn Phú Phong (2004), “Đi tìm cái Tôi”, Tạp “Truyện Các Thánh” của Majorica - khía cạnh từ chí Ngôn ngữ, số 8. vựng và ngữ pháp, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ [7] Nguyễn Văn Tu (1996), “Về cách xưng hô trong học, ĐHSP Huế. cơ quan nhà nước, đoàn thể, trường học”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 1. SOME THOUGHTS ON THE VIETNAMESE VOCATIVES PROVOKED FROM THE STUDY “THE PRONOUNS OF POWER AND SOLIDARITY” BY R.BROWN AND A.GILMAN Abstract: This paper focuses on presenting some of our thoughts on the Vietnamese vocatives provoked from the study “The Pronouns of Power and Solidarity” by R. Brown and A. Gilman. By making a summary of this research, we have pointed out the similarities and differences in power semantics and solidarity semantics between personal pronouns in European languages and the ones in Vietnamese. As a result, we have discovered that the vocative way of each nation expresses the characteristics of the language, psychology, thinking and communication culture of that nation. It can be seen that in the Vietnamese people’s vocative way, there is by no means loss of power semantics which even outweighs solidarity semantics owing to a system of kinship pronouns. Key words: vocative; pronoun; power semantics; solidarity semantics; Vietnamese language. 88
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn