TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 (34) - Thaùng 11/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nâng cao hiệu quả đào tạo Tiến sỹ theo hệ thống tín chỉ<br />
ở các cơ sở đào tạo sau đại học hiện nay<br />
Increasing effectiveness of recent doctoral training under credit system in<br />
postgraduate education institutes<br />
<br />
ThS. Lã Thành Trung<br />
Trường Đại học Sài Gòn<br />
<br />
M.B. La Thanh Trung<br />
Sai Gon University<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Việc áp dụng đào tạo tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ là một tất yếu, phù hợp xu thế của giáo dục thế giới.<br />
Tuy nhiên, song song với đó, những câu hỏi về chất lượng đào tạo cũng liên tiếp được đặt ra, đòi hỏi các<br />
cơ sở đào tạo sau đại học phải xem xét lại quy trình đào tạo tiến sĩ và cách thức tổ chức, quản lý phù<br />
hợp. Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ trong các cơ sở đào tạo sau đại<br />
học hiện nay ở nước ta, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.<br />
Từ khóa: đào tạo tiến sỹ theo hệ thống tín chỉ, cơ sở đào tạo sau đại học…<br />
Abstreet<br />
The application of credit system in doctoral training becomes inevitable, compactible with worldwide<br />
education trending. However, the quality of these programs is frequently questioned, which requires<br />
postgraduate education institutes to review their procedures and management. Based on practical<br />
analysis of doctoral training under credit system in postgraduate education institutes in Viet Nam, the<br />
author proposes some solutions to improve the effectiveness of this situation.<br />
Keywords: doctoral training under credit system, postgraduate education institutes…<br />
<br />
<br />
<br />
1. Đào tạo tiến sĩ theo hệ thống theo triết lý “Tôn trọng người học, xem<br />
tín chỉ - sự lựa chọn tất yếu cho đào tạo người học là trung tâm của quá trình đào<br />
nguồn nhân lực chất lượng cao tạo”, tuân theo quy luật giá trị, cạnh tranh<br />
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo làm động lực không ngừng nâng cao chất<br />
toàn bộ thời gian bắt buộc của một người lượng nguồn nhân lực (người học được<br />
học bình thường để học một môn học cụ chọn thầy, chọn môn học…) và có khả năng<br />
thể, bao gồm thời gian lên lớp; thời gian ở chuyển đổi ngành nghề nhanh.<br />
trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các Hình thức đào tạo này lần đầu tiên<br />
phần việc khác đã được quy định ở thời được tổ chức tại trường Đại học Harvard<br />
khóa biểu; thời gian dành cho đọc sách, vào năm 1872 sau đó nó lan rộng ra khắp<br />
nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc Bắc Mỹ và thế giới. Đến nay, đào tạo theo<br />
chuẩn bị bài… Đây là phương thức đào tạo hệ thống tín chỉ đã khẳng định tính ưu việt,<br />
<br />
58<br />
hiệu quả không chỉ đối với các nước phát cách khác, đào tạo theo hệ thống tín chỉ<br />
triển mà còn đối với các nước đang phát giúp NCS phát huy hết các tố chất tiềm<br />
triển. Ở Việt Nam, năm 2007, Bộ Giáo dục năng của mình trong việc tự học và nghiên<br />
và Đào tạo ban hành “Quy chế Đào tạo cứu khoa học.<br />
Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo hệ Thông thường, NCS là những người<br />
thống tín chỉ” và năm 2011 là hạn cuối đã có công việc ổn định (tại các trường Đại<br />
cùng để các trường liên quan phải chuyển học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu,...). Dẫu<br />
đổi sang hệ thống đào tạo mới này. Hiện rằng tham gia chương trình đào tạo trình độ<br />
nay, các cơ sở giáo dục không chỉ áp dụng tiến sĩ tập trung thì NCS vẫn chịu sự quản<br />
đào tạo theo tín chỉ cho sinh viên bậc Đại lý của cơ quan cử đi học, đồng nghĩa với<br />
học mà còn cho học viên, NCS sau Đại học khó chủ động về thời gian, công việc. Nếu<br />
như: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, đào tạo theo hệ thống tín chỉ, NCS sẽ chủ<br />
Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ động, linh hoạt hoàn toàn về mặt thời gian,<br />
Chí Minh, Đại học Cần Thơ, Đại học Quốc sắp xếp công việc để đạt kết quả học tập,<br />
gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố nghiên cứu cao nhất. Bên cạnh đó, NCS<br />
Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Hà cũng sẽ chủ động trong việc kéo dài hoặc<br />
Nội… Việc lựa chọn đào tạo theo hệ thống rút ngắn thời gian đào tạo. Trên thực tế, đã<br />
tín chỉ đối với đào tạo sau Đại học nói có nhiều NCS chỉ mất gần 3 năm để hoàn<br />
chung và đào tạo tiến sĩ nói riêng là sự lựa thành chương trình đào tạo tiến sĩ.<br />
chọn tối ưu, là con đường tất yếu để đào Trong bối cảnh quốc tế hóa đào tạo<br />
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tại sao như hiện nay, các trường Đại học, các cơ<br />
lại như vậy? sở đào tạo sau đại học trong nước có khả<br />
Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ do Bộ năng mở các chương trình đào tạo liên kết<br />
Giáo dục và Đào tạo ban hành theo Thông với các trường Đại học trong khu vực và<br />
tư số 10/2009/TTBGĐT ngày 17/05/2009 trên thế giới theo một chuẩn thống nhất.<br />
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo xác Nếu áp dụng hình thức đào tạo theo hệ<br />
định mục tiêu đào tạo trình độ tiến sĩ là đào thống tín chỉ, NCS có thể hoàn thành một<br />
tạo những nhà khoa học, có trình độ cao về số tín chỉ cần thiết trong giai đoạn đầu của<br />
lý thuyết và năng lực thực hành phù hợp, chương trình đào tạo trong nước và sau đó<br />
có khả năng nghiên cứu độc lập, sáng tạo, tiếp tục học tập, nghiên cứu tại trường Đại<br />
khả năng phát hiện và giải quyết những vấn học, cơ sở đào tạo sau đại học ở nước<br />
đề mới có ý nghĩa khoa học, công nghệ và ngoài mà nhà trường liên kết đào tạo để<br />
hướng dẫn nghiên cứu khoa học. Trước hoàn thành những tín chỉ còn lại theo yêu<br />
đây, đào tạo trình độ tiến sĩ chưa phát huy cầu của trường Đại học đó qui định.<br />
được khả năng nghiên cứu độc lập của Như vậy, rõ ràng, so với đào tạo theo<br />
NCS bởi mối quan hệ chặt chẽ, có phần học phần, niên chế, đào tạo trình độ tiến sĩ<br />
“công thức”, áp đặt giữa NCS với nhà theo hệ thống tín chỉ dù mới mẻ nhưng<br />
trường, với khoa đào tạo và người hướng cũng đã đem lại kết quả bước đầu, khẳng<br />
dẫn. Thế nhưng, đào tạo theo hệ thống tín định tính ưu việt của hình thức đào tạo này<br />
chỉ đáp ứng được mục tiêu này bởi đây là nói chung và sự phù hợp của nó với đào<br />
hình thức tạo điều kiện cho người học tự tạo trình độ tiến sĩ nói riêng. Chính vì vậy,<br />
học, tự nghiên cứu ở mức độ cao nhất. Nói các trường Đại học, các cơ sở đào tạo sau<br />
<br />
59<br />
đại học trong nước đã áp dụng hình thức học tập, nghiên cứu độc lập cũng không có<br />
đào tạo này không chỉ với sinh viên mà còn nhiều nên hoặc là người hướng dẫn phải<br />
với học viên Cao học và NCS. “cầm tay chỉ việc” hoặc là để NCS “tự<br />
2. Thực trạng đào tạo trình độ bơi”. Rất nhiều NCS chỉ gói gọn hoạt động<br />
tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ ở một số của mình trong một số công việc như: tham<br />
trường Đại học, cơ sở đào tạo sau đại học gia các học phần, hoàn thành chuyên đề,<br />
ở nước ta hiện nay hoàn thành tiểu luận tổng quan và nộp luận<br />
Hiện nay, hầu hết các trường Đại học án… mà không có sự tự học, tự nghiên cứu<br />
trong nước ta đều đã áp dụng đào tạo tiến trong phạm vi chuyên ngành. Kết quả là<br />
sĩ theo hệ thống tín chỉ và ban hành quy sau 3 - 4 năm theo học tiến sĩ, năng lực<br />
định cụ thể để đảm bảo hiệu quả của hình nghiên cứu của NCS không được cải thiện<br />
thức này. Tuy nhiên, khi số lượng NCS ngoài việc hoàn thành luận án - một phạm<br />
tăng nhanh đáng kể, cùng với đó là thêm vi nghiên cứu rất nhỏ trong phạm vi<br />
rất nhiều cơ sở được cấp phép đào tạo trình chuyên ngành rộng lớn.<br />
độ tiến sĩ thì việc quản lý (ở tầm vĩ mô) sẽ Thứ hai, theo quy định, NCS chỉ phải<br />
rất khó khăn. Thêm vào đó, đào tạo theo tín trải qua các học phần ở trình độ tiến sĩ, một<br />
chỉ là hình thức đào tạo tương đối tự do, số chuyên đề, tiểu luận tổng quan. Sau khi<br />
“mở”, buộc các cơ sở đào tạo sau đại học hoàn thành các nội dung quy định trong<br />
phải đổi mới quy trình, phương thức quản chương trình đào tạo (thường chiếm chưa<br />
lý sao cho vừa đảm bảo sự linh hoạt, mềm đến 1/3 tổng thời gian đào tạo), NCS<br />
dẻo, vừa đảm bảo tính chặt chẽ, ràng buộc không cần đến trường cho đến khi hoàn<br />
người dạy và người học. Thế nhưng thực tế thành luận án. Như vậy, một vấn đề nảy<br />
cho thấy, trình độ quản lý của chúng ta còn sinh là NCS được “tự do” trong một<br />
đôi lúc chưa theo kịp sự đổi mới của khoảng thời gian rất lớn mà không có sự<br />
chương trình đào tạo. Chính vì vậy, nó tạo theo sát, quản lý chặt chẽ về chuyên môn.<br />
ra nhiều kẽ hở dẫn đến một số hạn chế, bất Cơ sở đào tạo sau đại học chỉ quản lý kết<br />
cập như: quả (là tiểu luận, chuyên đề) chứ không<br />
Trước hết, một hạn chế dễ thấy là việc kiểm soát được quá trình nghiên cứu, học<br />
áp dụng đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ tập diễn ra như thế nào? Nhiều NCS đã<br />
thống tín chỉ để thay thế đào tạo theo niên dùng khoảng thời gian này để tiếp tục làm<br />
chế ở một số trường Đại học thực chất chỉ việc tại các cơ quan, đơn vị gốc hoặc nghỉ<br />
là “bình mới rượu cũ”. Bởi để có thể áp ngơi ở gia đình trong khi đáng lẽ họ phải<br />
dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ cần phải toàn tâm cho việc nghiên cứu trong thời<br />
có các điều kiện về: số lượng, chất lượng gian theo học NCS. Nói cách khác, NCS<br />
đội ngũ giảng viên; số lượng NCS tham gia không được sống trong “môi trường học<br />
các lớp học; cơ sở vật chất phục vụ giảng thuật” thực thụ nên họ cũng không có<br />
dạy, nghiên cứu… Tuy nhiên, số giảng nghĩa vụ phải nghiên cứu nghiêm túc, liên<br />
viên có thể giảng dạy NCS không nhiều; số tục. Cũng chính vì sự “tự do” và lỏng lẻo<br />
lượng NCS trong một cơ sở giáo dục cũng trong quản lý như thế này nên hiện tượng<br />
có hạn. Do đó, khó có thể tổ chức thành viết hộ luận án diễn ra phổ biến mà bản<br />
các lớp tín chỉ khác nhau để NCS lựa chọn. thân người hướng dẫn, khoa/phòng Sau<br />
Bên cạnh đó, những điều kiện hỗ trợ NCS Đại học không thể kiểm soát được.<br />
<br />
60<br />
Một trong những ưu việt nổi trội của được mình cần cán bộ hướng dẫn trợ giúp<br />
quá trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ là điều gì. Rất nhiều NCS phải “tự lực cánh<br />
người học được phát huy khả năng tự học, sinh” hoàn toàn và luận án chỉ nhằm đối<br />
tự nghiên cứu. Nếu không tự học, tự phó với cán bộ hướng dẫn và hội đồng<br />
nghiên cứu được thì không phải là đào tạo khoa học mà không hướng đến tính khả thi<br />
theo hệ thống tín chỉ, lại càng không cần hoặc giá trị thực tiễn của luận án. Bên cạnh<br />
đến đào tạo tiến sĩ. Đối với NCS, điều này đó, những hạn chế về hệ thống thư viện,<br />
là cần thiết (nếu không nói là bắt buộc). phòng thí nghiệm và khả năng ngoại ngữ<br />
Tuy nhiên, để nghiên cứu độc lập, NCS của NCS cũng ngăn cản họ nghiên cứu<br />
cũng cần phải có sự chỉ đạo, định hướng từ khoa học độc lập theo đúng nghĩa.<br />
phía cán bộ hướng dẫn. Nếu không, việc Yếu tố trung tâm của quá trình đào tạo<br />
nghiên cứu “độc lập” sẽ trở thành tùy tiện, theo hệ thống tín chỉ chính là người học.<br />
không phương hướng. Ví như cán bộ Đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ thống tín<br />
hướng dẫn phải giao nhiệm vụ cho NCS, chỉ, NCS sẽ được làm chủ quá trình học<br />
hỗ trợ NCS các thông tin liên quan đến đề tập, đào tạo của mình theo đúng nghĩa. Tuy<br />
tài (ở nhiều nước, NCS được tham gia vào nhiên, như trên đã nói, điều này sẽ dẫn đến<br />
dự án nghiên cứu dài hơi của cán bộ hướng sự tùy tiện trong hoạt động đào tạo nếu<br />
dẫn). Để làm được điều ấy, đòi hỏi cán bộ không được quản lý chặt chẽ và khoa học.<br />
hướng dẫn phải có trình độ, năng lực Trong khi đó, sự quản lý của khoa/phòng<br />
nghiên cứu nhất định (ít nhất cán bộ hướng Sau Đại học chỉ thuần túy hình thức, chưa<br />
dẫn cũng phải có dự án, chiến lược hướng quản lý sâu về chuyên môn bằng các tiêu<br />
dẫn NCS nghiên cứu), cùng sự hỗ trợ của chí, tiêu chuẩn được “lượng hóa” một cách<br />
hệ thống thông tin thư viện đầy đủ, các cụ thể. Ví như: “khả năng nghiên cứu độc<br />
phòng thí nghiệm hiện đại. NCS cũng cần lập” của NCS trong quá trình đào tạo là gì?<br />
có trình độ ngoại ngữ thông thạo để tiếp NCS nắm vững “kiến thức nền tảng, vững<br />
cận với các tài liệu khoa học nước ngoài. chắc về các học thuyết và lý luận của<br />
Thế nhưng, những điều này lại khó có ngành” thì nên hiểu “nền tảng”, “vững<br />
thể thực hiện được ở nước ta. Thực tế cho chắc” này ở mức độ nào? Ai là người kiểm<br />
thấy có rất nhiều giáo viên/cán bộ hướng chứng? Luận án là “công trình nghiên cứu<br />
dẫn khoa học vẫn đồng ý hướng dẫn NCS khoa học sáng tạo” của NCS, sự “sáng tạo”<br />
những đề tài nằm ngoài lĩnh vực nghiên này như thế nào thì đạt yêu cầu tối thiểu?<br />
cứu của mình. NCS đề xuất người hướng Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ mà Bộ<br />
dẫn cũng vì “độ nổi tiếng” hay vị trí chính Giáo dục và Đào tạo ban hành rất khoa học<br />
trị của họ chứ không hẳn vì định hướng nhưng đó chỉ là để quản lý ở tầm vĩ mô,<br />
nghiên cứu của bản thân phù hợp với người chung cho các trường Đại học và viện<br />
hướng dẫn. Nhất là ở các trường Đại học, nghiên cứu. Các cơ sở đào tạo trình độ tiến<br />
dù số lượng giảng viên có học hàm, học vị sĩ phải có trách nhiệm cụ thể hóa quy định<br />
GS, PGS, TS nhiều nhưng những người có ấy và các khoa chuyên ngành lại phải tiếp<br />
thể nghiên cứu khoa học và hướng dẫn tục cụ thể hóa quy định ấy một mức nữa để<br />
nghiên cứu không nhiều. Rất nhiều trường xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn đặc thù<br />
hợp người hướng dẫn không có gì để với chuyên ngành. Thế nhưng khi được<br />
“hướng dẫn” và NCS cũng không xác định triển khai, quy định đào tạo trình độc tiến<br />
<br />
61<br />
sĩ của trường lại vẫn chung chung, khái là rất cần thiết bởi nếu không trải qua thí<br />
quát. Mục được cụ thể hóa thì lại triển khai nghiệm thì sẽ không có kết luận khoa học,<br />
rất hình thức trên thực tế (ví như báo cáo không có phát hiện mới. Đối với NCS các<br />
tiến độ thực hiện đề tài, bảo vệ chuyên đề, chuyên ngành khoa học xã hội, hệ thống<br />
tiểu luận…). Vì sự lỏng lẻo này nên rất thông tin thư viện cần phải được kiện toàn,<br />
nhiều NCS không đủ năng lực vẫn được cập nhật thêm nhiều tài liệu mới ở trong<br />
công nhận là tiến sĩ. nước và trên thế giới (thư viện các trường<br />
Như vậy, có thể thấy, đào tạo trình độ hiện nay còn thiếu tài liệu về các chuyên<br />
tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ đã chứng tỏ ngành hẹp). Đặc biệt, các thư viện cần tăng<br />
tính ưu việt, tất yếu của nó so với hình thức cường liên kết, hợp tác để NCS có thể sử<br />
đào tạo truyền thống. Tuy nhiên, khi áp dụng nguồn học liệu phong phú ở các<br />
dụng vào thực tiễn, nó lại bộc lộ nhiều bất trường khác nhau. Thư viện cũng cần có<br />
cập, mà một trong những tồn tại nổi bật là chế độ “chăm sóc” khi bạn đọc sử dụng tài<br />
quy trình quản lý đào tạo khá lỏng lẻo, liệu trong thời gian dài (ví như các phòng<br />
không phát huy được tính tích cực, khả đọc đặc thù; chỗ nghỉ ngơi buổi trưa,<br />
năng tự học, tự nghiên cứu của NCS. Việc phương tiện đưa đón khi thời tiết bất lợi,<br />
kiểm tra, giám sát quá trình học tập, nghiên khi đọc tài liệu muộn…).<br />
cứu, thẩm định kết quả nghiên cứu của Thứ hai, đổi mới nội dung chương<br />
NCS còn chưa đáng tin cậy. Nếu các cơ sở trình, hình thức đào tạo<br />
đào tạo sau đại học không kịp thời điều Để quá trình đào tạo trình độ tiến sĩ<br />
chỉnh thì việc đào tạo trình độ tiến sĩ theo thực chất là đào tạo những người làm khoa<br />
hệ thống tín chỉ không những không đạt học thì việc đào tạo theo mô hình tập trung<br />
được mục tiêu mong đợi mà còn trở nên là điều cần thiết. Theo mô hình này, NCS<br />
tùy tiện, hình thức, không đem lại hiệu quả phải có mặt ở trường hay viện nghiên cứu<br />
đào tạo trên thực tế. toàn thời gian. Trong thời gian theo<br />
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả học/nghiên cứu, NCS phải dự các buổi<br />
đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ thống giảng của các chuyên gia theo định kỳ,<br />
tín chỉ hiện nay phải tham gia tất cả các hội thảo liên quan<br />
Để có thể nâng cao hiệu quả đào tạo tiến đến lĩnh vực nghiên cứu (dù với tư cách là<br />
sĩ theo hệ thống tín chỉ, theo chúng tôi, các người nghe) và phải báo cáo tiến độ thực<br />
trường Đại học, các cơ sở đào tạo sau đại học hiện các nhiệm vụ nghiên cứu được giao<br />
nên tập trung làm tốt một số việc sau: với giáo viên hướng dẫn hàng tháng.<br />
Thứ nhất, tăng cường cơ sở vật chất Tương ứng, giáo viên hướng dẫn phải đưa<br />
(đặc biệt là hệ thống thông tin, thư viện, ra các nhiệm vụ cụ thể trong quá trình<br />
phòng thí nghiệm) nghiên cứu và yêu cầu NCS hoàn thành<br />
Đào tạo trình độ tiến sĩ là đào tạo nhà trong khoảng thời gian nhất định. Các<br />
khoa học. Muốn vậy, các trường, các cơ sở nhiệm vụ này không nhất thiết là nội dung<br />
đào tạo sau đại học phải xây dựng cơ sở cụ thể của các phần trong luận án mà có<br />
vật chất hiện đại, đầu tư công nghệ cao cho thể là những vấn đề liên quan, có phạm vi<br />
các phòng nghiên cứu. Đối với NCS các gần gũi. Nói cách khác, tất cả đều được<br />
chuyên ngành khoa học tự nhiên, hệ thống thiết kế để NCS hoà mình trong thế giới<br />
phòng thí nghiệm với các thiết bị tiên tiến học thuật và khoa học để nâng cao khả<br />
<br />
62<br />
năng nghiên cứu và luyện sự độc lập của sáng tạo của đề tài so với các công trình<br />
nghiên cứu sinh.. nghiên cứu trước đó.<br />
Chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào Trong quá trình học tập, nghiên cứu,<br />
tạo bắt buộc nghiên cứu sinh phải có chứng các trường cũng cần đánh giá năng lực của<br />
chỉ quốc tế về tiếng Anh và có bài báo NCS dựa trên kết quả nghiên cứu đa dạng,<br />
đăng trên các tạp chí quốc tế là một yêu ví như: khả năng hợp tác trong nhóm<br />
cầu rất cao, khó thực hiện nhưng cần thiết nghiên cứu (cùng với nhóm NCS thực hiện<br />
để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo một hoặc một số đề tài trong phạm vi<br />
trình độ tiến sĩ và góp phần nâng cao chất chuyên ngành), khả năng nghiên cứu độc<br />
lượng nghiên cứu khoa học ở Viêt Nam. lập (tự triển khai một hoặc một số đề tài),<br />
Đối với các ngành khoa học tự nhiên, điều khả năng nghiên cứu dưới sự định hướng<br />
này nên bắt buộc (vì tri thức của khoa học của người hướng dẫn (thực hiện một nhiệm<br />
tự nhiên là tri thức phổ quát). Đối với NCS vụ nghiên cứu mà người hướng dẫn<br />
các ngành khoa học xã hội, các bài báo có giao)… Những kết quả nghiên cứu này sẽ<br />
thể được đăng ở một số tạp chí chuyên chiếm khoảng 30 - 40% trong việc quyết<br />
ngành uy tín và phải được kiểm duyệt bởi định NCS có được công nhận học vị tiến sĩ<br />
hội đồng khoa học một cách nghiêm túc. hay không (cùng với luận án).<br />
Việc đào tạo trình độ tiến sĩ không đơn Bên cạnh đó, các trường, cơ sở đào tạo<br />
thuần là việc tổ chức các lớp học phần, sau đại học cần xây dựng các tiêu chí đánh<br />
giao chuyên đề và bảo vệ luận án mà nên giá cụ thể về năng lực nghiên cứu của<br />
tăng cường tích hợp nghiên cứu khoa học NCS; tiêu chuẩn đánh giá luận án; ý thức,<br />
với đào tạo bằng cách hướng các NCS vào thái độ trong quá trình học tập… Trong<br />
việc nghiên cứu giải quyết các tình huống phạm vi có thể, những tiêu chuẩn này cần<br />
lý luận và thực tiễn, đặc biệt là những tình được “lượng hóa” cụ thể đến mức tối đa để<br />
huống mới cần tư duy sáng tạo để giải dễ dàng cho việc đánh giá, tránh tình trạng<br />
quyết vấn đề. “mập mờ”, chung chung dẫn đến để lọt<br />
Thứ ba, đổi mới quy trình kiểm tra, những nghiên cứu kém giá trị.<br />
đánh giá theo hướng chú trọng năng lực tự Các cơ sở đào tạo sau đại học cũng cần<br />
học, tự nghiên cứu kết hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng<br />
Để làm được điều này, các trường, cơ cơ quan nơi tiến sĩ làm việc xem xét lại<br />
sở đào tạo sau đại học cần bổ sung một tiêu những trường hợp sau thời gian bảo vệ 2 -<br />
chí xét tuyển là NCS cần phải có một số 3 năm không có công trình nghiên cứu nào<br />
bài báo khoa học đăng trên các tạp chí mới để tránh tâm lý cho rằng bảo vệ luận<br />
trong nước, tức là phải được tập dượt án tiến sĩ là “xong”, chấm dứt quá trình<br />
nghiên cứu và có trình độ nghiên cứu ở nghiên cứu, thay vào đó là tập trung vào<br />
một mức độ nhất định trước khi tham gia những việc làm khác… không liên quan<br />
đào tạo tiến sĩ. Đào tạo trình độ tiến sĩ là đến học vị.<br />
quá trình làm cho các năng lực, kỹ năng ấy Thứ tư, tăng cường vai trò, trách<br />
trở nên nhuần nhuyễn, hệ thống chứ không nhiệm của cán bộ hướng dẫn đối với hoạt<br />
phải là “tập dượt” nghiên cứu nữa. Bên động chuyên môn của NCS<br />
cạnh đó, việc đánh giá dự định nghiên cứu Một chân lý thực tiễn là muốn có trò<br />
của NCS phải tập trung ở những điểm mới, giỏi phải có thầy giỏi. Trong một môi<br />
<br />
63<br />
trường đòi hỏi sử dụng tri thức và năng lực câu hỏi về chất lượng đào tạo sẽ tiếp tục<br />
nghiên cứu ở mức độ cao như đào tạo trình được đặt ra, đòi hỏi các trường Đại học, cơ<br />
độ tiến sĩ thì điều này càng đúng hơn bao sở đào tạo sau đại học cần phải xem xét lại<br />
giờ hết. Trước hết, người được trao nhiệm quy trình đào tạo, cách thức quản lý của<br />
vụ hướng dẫn NCS nhất thiết phải có bài mình. Phải làm sao để quản lý NCS phải là<br />
báo trên tạp chí quốc tế (đối với khoa học quản lý về chuyên môn, học thuật nhằm<br />
tự nhiên) và các tạp chí chuyên ngành uy nâng cao trình độ chuyên môn, nghiên cứu<br />
tín trong nước (đối với khoa học xã hội). khoa học của NCS chứ không đơn thuần<br />
Cán bộ hướng dẫn phải có dự án nghiên chỉ là quản lý về thủ tục hành chính. Có<br />
cứu gần gũi hoặc am hiểu về lĩnh vực NCS như vậy, việc đào tạo trình độ tiến sĩ mới<br />
nghiên cứu. Trong quá trình NCS học tập thực hiện được mục tiêu đề ra là đào tạo<br />
và nghiên cứu, giáo viên hướng dẫn phải những nhà khoa học làm động lực cho sự<br />
chịu trách nhiệm thay khoa/phòng Sau Đại phát triển khoa học công nghệ nước nhà.<br />
học quản lý NCS về chuyên môn, nhất là<br />
việc định hướng, kiểm tra, đánh giá quá Tài liệu tham khảo<br />
trình nghiên cứu khoa học của NCS mình<br />
hướng dẫn (bởi số lượng NCS/giáo viên 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Quy chế đào<br />
hướng dẫn không nhiều, đôi khi tỉ lệ là 1/1 tạo tiến sĩ ban hành theo Thông tư số<br />
nên rất dễ quản lý. Hơn ai hết, giáo viên 10/2009/TTBGĐT ngày 17/05/2009.<br />
hướng dẫn là người gần gũi NCS nhất, chứ 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư số<br />
05/2012/TT-BGDĐT Về việc sửa đổi, bổ sung<br />
không phải là khoa/phòng Sau Đại học). một số điều của Quy chế đào tạo trình độ tiến<br />
Chất lượng NCS trước hết phải do cán bộ sĩ ban hành kèm theo Thông tư số<br />
hướng dẫn chịu trách nhiệm (chứ không 10/2009/TT-BGDĐT ngày 07 tháng 5 năm<br />
đơn thuần chỉ là chịu trách nhiệm chất 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.<br />
lượng luận án). Nếu không phát huy tinh 3. Học viện Kỹ thuật quân sự (2009), Báo cáo<br />
tham luận Hội nghị Tổng kết 30 năm đào tạo<br />
thần trách nhiệm của cán bộ hướng dẫn thì tiến sĩ tại Học viện Kỹ thuật quân sự, Hà Nội.<br />
việc lơi lỏng quản lý, để NCS “bơi” tự do<br />
4. Phạm Thị Ly (2006), “Chuyển đổi sang hệ<br />
dẫn đến giảm sút chất lượng đào tạo sẽ vẫn thống đào tạo theo tín chỉ - kinh nghiệm của<br />
tiếp tục diễn ra. Trung Quốc”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học<br />
Giáo dục Việt Nam đang tiến những thường niên Đào tạo theo hệ thống tín chỉ -<br />
nhận thức và kinh nghiệm triển khai tại các<br />
bước dài và có nhiều chủ trương mang tính<br />
trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam, Ban<br />
đột phá. Một trong những chủ trương có Liên lạc các trường Đại học, Cao đẳng Việt<br />
phần táo bạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo là Nam, Đà Nẵng.<br />
đến năm 2020 sẽ đào tạo bổ sung được 20 5. Đỗ Đức Minh (2014), “Thành tựu và một số<br />
000 tiến sĩ, góp phần nâng cao chất lượng hạn chế của đào tạo sau Đại học ở nước ta”<br />
truy cập tại: http://www.tapchicongsan.org.vn<br />
giáo dục Đại học Việt Nam. Việc chuyển<br />
đổi đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ thống tín 6. Lâm Quang Thiệp (2006), Về việc áp dụng<br />
học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam,<br />
chỉ là bước đi đúng để có thể đào tạo Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng chương trình đào<br />
“nhiều” và “nhanh” số lượng tiến sĩ như kế tạo theo hệ thống tín chỉ có sử dụng Internet,<br />
hoạch. Tuy nhiên, song song với đó, những Viện Nghiên cứu Giáo dục.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 22/7/2015 Biên tập xong: 05/11/2015 Duyệt đăng: 10/11/2015<br />
<br />
64<br />