intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Chia sẻ: Mao A Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

35
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày về việc tiếp cận CMCN 4.0 mới mang lại được hiệu quả cho từng DN rồi dần lan tỏa ra cả nền kinh tế Nhà nước cần có thêm nhiều cơ chế thúc đẩy khối DN đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động; đồng thời, khuyến khích DN đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Lƣơng Xuân Minh Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh ENHANCING COMPETITIVENESS OF VIETNAMESE ENTERPRISES IN THE INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 Tóm tắt Từng bước tham gia sân chơi cuộc cách mạng công nghệ (CMCN4.0) trước hết, chúng ta cần phải thực hiện thêm nhiều nghiên cứu khoa học, nhằm trang bị cho cộng đồng danh nghiệp ( DN) những kiến thức CMCN 4.0 thực chất là gì, xu thế ra sao, gây tác động cụ thể nào đến từng ngành, lĩnh vực kinh tế. Tiếp đó cần tính toán và chọn lựa kỹ những thành quả nào có thể áp dụng hiệu quả tại Việt Nam, đặc biệt, đối tượng áp dụng ở đây phần lớn sẽ là DN. Ðến đây, phải tiếp tục phân tích cụ thể hơn thành quả của CMCN 4.0 là những gì, nếu áp dụng thì chi phí thực hiện ra sao và lợi ích mang lại như thế nào để DN tự cân nhắc. Cuối cùng, đối với các DN đã quyết định bước vào cuộc chơi thì không thể thiếu các công cụ hỗ trợ từ phía Nhà nước. Từ đó, việc tiếp cận CMCN 4.0 mới mang lại được hiệu quả cho từng DN rồi dần lan tỏa ra cả nền kinh tế.,Nhà nước cần có thêm nhiều cơ chế thúc đẩy khối DN đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động; đồng thời, khuyến khích DN đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, cần phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ; áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa,... Từ khóa: cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, cách mạng công nghiệp 4.0. Summary Step by step to participate in the revolutionary technology (CMCN4.0). First of all, we need to do more scientific research, to equip the community of enterprises (DN) the knowledge of CMCN 4.0 essence. What is the trend, how to impact specific sectors, economic sectors. Then we need to calculate and select carefully what results can be applied effectively in Vietnam, especially, the object applied here will largely be the enterprise. At present, it is necessary to continue analyzing in detail what the results of CMCN 4.0 are, if applied, how the costs will be implemented and how the benefits will help businesses to consider. Finally, for enterprises that have decided to step into the game, there is no lack of support tools from the State. Since then, the access to new CMCN 4.0 is effective for each enterprise and then gradually spread to the economy. State should have more mechanisms to promote enterprises innovation and modernization technology. and develop human resources, improve labor productivity; At the same time, encourage businesses to invest in research and development, application and transfer of advanced technology. In addition, funds should be developed to support innovation and the application of technology; To apply tax policies, financial supports and access to preferential capital sources compatible with research, innovation and modernization activities. Keywords: competition, competitiveness, industrial revolution 4.0. ĐẶT VẤN ĐỀ "Cách mạng Công nghiệp 4.0" đang diễn ra tại nhiều nước phát triển. Nó mang đến cho nhân loại cơ hội để thay đổi bộ mặt các nền kinh tế. Tuy nhiên, cơ hội luôn đi liền cùng những thách thức lớn như sự cạnh tranh gay gắt hơn không chỉ cạnh tranh về sản phẩm, thị trường mà còn cạnh tranh cả về nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội, chủ động thay đổi công nghệ sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến để tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành phù hợp mới có thể cạnh tranh trên thị trường. Chính phủ cũng cần có các chính sách cụ thể như chính sách tín dụng ưu 221
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG đãi để các doanh nghiệp có thể tiếp cận các nguồn vốn vay, từ đó họ đầu tư cải tiến cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. LÝ THUYẾT NĂNG LỰC CẠNH TRANH DOANH NGHIỆP Cạnh tranh theo khái niệm trong từ điển Bách khoa là hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá thể có chung một môi trường sống khi cùng quan tâm tới một đối tượng nào đó. Trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, người tiêu dùng) nhằm giành lấy những vị thế lợi hơn trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ cao hơn...để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Cạnh tranh làm cho người sản xuất năng động hơn, nhạy bén hơn, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của khách hàng, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, những nghiên cứu mới nhất vào sản xuất; hoàn thiện cách thức tổ chức sản xuất, quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Wesrtgren thì năng lực cạnh tranh là khả năng tạo ra và duy trì một cách tốt nhất mức lợi nhuận cao và thị phần lớn trong các thị trường trong và ngoài nước. Hiệu quả của các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh được đánh giá dựa trên mức chi phí thấp, chi phí sản xuất thấp là điệu kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh. Tóm lại theo những khái niệm và nhận định trên thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) là khả năng tận dụng những nội lực bên trong cũng như khai thác những thuận lợi của môi trường bên ngoài của doanh nghiệp để tạo ra lợi thế cạnh tranh giúp DN tồn tại và phát triển trên thị trường trong và ngoài nước. Để thực hiện các quy trình hoạt động của mình, các DN cần có những nguồn lực như nhân lực, thiết bị, vật tư, thông tin, năng lượng ... Các nguồn lực này có thể sở hữu, thuê hoặc cho thuê. Điều cốt yếu của DN là sở hữu và nuôi dưỡng những nguồn lực và năng lực cốt lõi trong kinh doanh. Michael (1985) đã đề xuất các tiêu chí năng lực cạnh tranh sản phẩm và của quốc gia. Phòng Công nghiệp Thương mại Việt Nam (VCCI) đã đề xuất bộ chỉ tiêu đánh giá năng lực canh tranh của các tỉnh. Tuy nhiên, ít có tác giả đưa ra một cách hệ thống về chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán, v.v..... Năng lực cạnh tranh của DN là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi DN phải tạo lập được lợi thế so 222
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, DN có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh. TỔNG QUAN CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Cách mạng công nghiệp bắt đầu ở nước Anh từ nửa cuối của thế kỷ 18. Đến nay đã có sự nhìn nhận thống nhất về ba cuộc cách mạng công nghiệp đã xảy ra, mỗi cuộc cách mạng đều đặc trưng bằng sự thay đổi về bản chất của sản xuất và sự thay đổi này được tạo ra bởi các đột phá của khoa học và công nghệ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào nửa cuối thế kỷ 18 và gần nửa đầu thế kỷ 19, với thay đổi từ sản xuất chân tay đến sản xuất cơ khí do phát minh ra động cơ hơi nước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra vào nửa cuối thế kỷ 19 cho đến khi đại chiến thế giới lần thứ nhất xảy ra, với thay đổi từ sản xuất đơn lẻ sang sản xuất hàng loạt bằng máy móc chạy với năng lượng điện. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra từ những năm 1970 với sự ra đời của sản xuất tự động dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và internet. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được cho là đã bắt đầu từ vài năm gần đây, đại thể là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano,… với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Theo Gartner, Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư) xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2013. "Industrie 4.0" kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong. Khái niệm "công nghiệp 4.0" đã được đưa ra từ năm 2011 tại Hội chợ Hannover, giới thiệu các dự kiến của chương trình công nghiệp 4.0 của nước Đức, nhằm nâng cao nền công nghiệp cơ khí truyền thống của Đức. Klaus Schwab- người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới có cái nhìn đơn giản hơn về Cách mạng Công nghiệp 4.0 như sau: "Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học". Mặt trái của Cách mạng Công nghiệp 4.0 là nó có thể gây ra sự bất bình đẳng. Đặc biệt là có thể phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp, nhất là những người làm trong lĩnh vực bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư vấn tài chính, vận tải. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Trong năm 2013, cả nước có 76.955 DN đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 398.681 tỷ đồng, tăng 10,1% về số DN và giảm 14,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Ta thấy tình hình DN có dấu hiệu tốt lên khi số DN thành lập mới trong năm 2013 tăng trở lại so với năm 2012. Về số DN dừng hoạt động trong năm 2013, cả nước có 60.737 DN giải thể và ngừng hoạt động (trong đó, số DN hoàn thành thủ tục giải thể là 9.818 DN, số DN gặp khó khăn và rơi vào trạng thái tạm ngừng hoạt động là 50.919 DN) tăng 11,9 % so với cùng kỳ năm trước. Về số DN gặp khó khăn rơi vào tình trạng ngừng hoạt động nay quay trở lại hoạt động trong năm 2013 là 14.402 DN. Số DN khó khăn rơi vào tình trạng ngừng hoạt động nay quay trở lại hoạt động tăng dần theo các tháng. Theo báo cáo “Đánh giá môi trường KD năm 2014” của World Bank, chỉ số xếp hạng môi trường KD thuận lợi của Việt Nam năm 2014 là 72 trên tổng số 189 quốc gia. Đây là kết 223
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG quả của việc cải thiện hệ thống thông tin tín dụng quốc gia, giảm lãi suất tín dụng. Đồng thời, trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện cho các công ty giảm bớt chi phí thuế bằng cách giảm mức thuế thu nhập DN. Những lĩnh vực mà Việt Nam đã cải cách trong quy định KD bao gồm: vay vốn (thông tin tín dụng), nộp thuế … Ngoài ra, World Bank cũng đưa ra đánh giá xếp hạng về các lĩnh vực khác trong môi trường KD của Việt Nam như điểm khởi đầu KD: 125; xin cấp giấy phép xây dựng: 22; kết nối điện: 135; đăng ký tài sản: 33; vay vốn: 36; nộp thuế: 173; giải quyết tình trạng phá sản: 104; thương mại xuyên biên giới: 75 … Căn cứ vào kết quả này, Chính phủ Việt Nam có thể điều chỉnh hoặc thay đổi nhằm cải thiện các yếu tố môi trường KD cho phù hợp. Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động chủ yếu trong các ngành nghề truyền thống. Xét theo số lượng DN, các DN Việt Nam chủ yếu tập trung vào 5 ngành sau: Thương mại (38,9%); Công nghiệp chế biến (16,24%); Xây dựng (14,07%); Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ (8,53%) và Vận tải, kho bãi (5,57%). Xét theo số lao động, các DN tập trung vào 3 ngành: Công nghiệp chế biến, chế tạo (45,02%); Xây dựng (15,96%); Thương mại (13,15%). Tỷ lệ doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực hiện đại chưa nhiều. Chẳng hạn, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính tín dụng chỉ chiếm 1,46%, kinh doanh tài sản và tư vấn chỉ chiếm 5,73%, khoa hoc và công nghệ chiếm 0,02%. Cơ cấu này đã phản ánh lĩnh vực kinh doanh ngành của các doanh nghiệp Việt Nam còn lạc hậu. Năm 2012, cả nước có 341.664 DN nhỏ và vừa theo tiêu chí quy mô lao động, chiếm 98,5% trên tổng số DN trong cả nước và có 323.844 DN có quy mô vốn dưới 50 tỷ đồng, chiếm 93,4% trên tổng số DN trong cả nước. Tuy nhiên theo thời gian, cùng với việc chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển rất mạnh, góp phần to lớn vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho toàn dân, thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động và hiệu quả hơn. Đồng thời do hoạt động trong cơ chế thị trường nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao, nhiều doanh nghiệp đứng vững trên thị trường trong nước và vươn ra cả thị trường quốc tế. Thị phần hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam được mở rộng và ngày càng được khẳng định trên thị trường quốc tế. Thị phần và năng lực chiếm lĩnh thị tường của doanh nghiệp Việt Nam tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn hạn chế. Điều đó phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, bao gồm cả từ phía các doanh nghiệp, do môi trường kinh doanh và từ phía Nhà nước các cấp. Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm vừa qua, đạt tốc độ tăng bình quân là 17,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Năm 2016, xuất khẩu của cả nước đạt 176,6 tỷ USD. Theo thống kê của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam xếp thứ 26 trong các nền kinh tế có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Năm 2017, dự kiến kim ngạch xuất khẩu sẽ vượt mốc 200 tỷ USD. Sự tăng trưởng trong xuất khẩu này đã đóng góp vai trò quan trọng trong tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động, cân bằng cán cân thương mại, ổn định tỷ giá và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, để có thể phát triển xuất khẩu bền vững đòi hỏi Việt Nam phải có giải pháp căn cơ về phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong đó, cần chú trọng nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm xuất khẩu, đồng thời chú trọng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trình độ công nghệ của DN quyết định đến tăng trưởng và phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia. Hiện trạng công nghệ của ngành và lĩnh vực sản xuất, năng lực thích ứng và khả năng đổi mới công nghệ trong các DN có thể được kiểm định bằng khả năng cạnh tranh, mức độ tiêu thụ các sản phẩm sản xuất trong nước trên thị trường trong và ngoài nước và do đó liên quan đến khả năng tồn tại và phát triển của DN. Theo kết quả điều tra đối với toàn bộ DN 224
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG năm 2011, chỉ có khoảng 8% DN chỉ tiến hành hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D), trong khi khoảng 5% chỉ cải tiến công nghệ có sẵn, có 84% DN được điều tra cho biết họ không có bất cứ chương trình cải tiến hoặc phát triển công nghệ nào. Biểu đồ 1: Xếp hạng n ng lực cạnh tranh to n cầu của một số nƣớc Đông Nam Á giai đoạn 2011-2015 Nguồn: Tổng cục thống kê 2016 Đối với lĩnh vực lao động, việc làm, Việt Nam cũng đứng trước những cơ hội và thách thức lớn.Để thực hiện cam kết có tính mới và đột phá về "tự do dịch chuyển của lao động có chứng chỉ đào tạo", 10 nước ASEAN đã thống nhất công nhận giá trị tương đương của chứng chỉ đào tạo của mỗi nước thành viên đối với tám loại nghề nghiệp: bác sỹ, nha sỹ, hộ lý, kỹ sư, kiến trúc sư, kiểm toán viên, giám sát viên và nhân viên du lịch. Tại các xếp hạng toàn cầu như môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới, năng lực cạnh tranh của Diễn đàn kinh tế thế giới,… Việt Nam chỉ xếp hạng từ thấp đến trung bình. Nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới nhưng môi trường kinh doanh của Việt Nam chậm được cải thiện. Theo báo cáo năm 2016 của Ngân hàng Thế giới xếp hạng môi trường kinh doanh, Việt Nam ở vị trí thứ 90/189 quốc gia, tăng 3 bậc so với báo cáo xếp hạng năm 2015 nhưng thứ hạng vẫn thấp hơn nhiều so với Singapore (vị trí số 1), Malaysia (vị trí 18) và Thái Lan (vị trí 49). Năng lực cạnh tranh toàn cầu do Diễn đàn kinh tế thế giới xếp hạng thì thứ hạng của kinh tế Việt Nam tuy đã tăng từ vị trí 75/144 quốc gia năm 2012 lên 70/148 quốc gia năm 2013; 68/144 quốc gia năm 2014 và 56/140 quốc gia năm 2015 nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với vị trí của nhiều nước trong khu vực. (Xem biểu đồ 1) Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các "nhà máy thông minh" hay “nhà máy số”, mà ở đó các thiết bị máy móc thông minh giao tiếp với nhau bằng hệ thống mạng, liên tục chia sẻ thông tin về lượng hàng hiện tại, lượng nguyên vật liệu và những thay đổi trong đơn đặt hàng hay về sự cố hoặc lỗi. Nhờ vậy, chuỗi cung ứng sản xuất đạt hiệu quả cao nhất về thời gian xử lý, thời gian lưu kho, nâng cao năng suất, tiết kiệm chi phí, vật liệu. Xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp cũng sẽ có những đột phá với những giống cây trồng mới. Tuy nhiên, song song với việc nhiều loại vật liệu mới; sản phẩm mới được hình thành; những giao dịch xuất khẩu thực hiện hoàn toàn qua môi trường mạng thì cơ chế, chính sách quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng cần điều chỉnh theo kịp với tình hình mới. Như vậy mới có thể đảm bảo mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu cũng như đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn môi trường, an toàn lao động và các mục tiêu công cộng chính đáng khác phù hợp với những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia. Hầu hết các DN Việt Nam, chưa chuẩn bị sẵn sàng khi CMCN 4.0 đã tới rất gần. Nhiều DN vẫn bị động với xu thế mới, chưa nắm rõ được bản chất CMCN 4.0 là gì cũng như sự liên quan của các trào lưu công nghệ mới đến ngành, lĩnh vực của mình. Một cuộc khảo sát được Hiệp hội DN nhỏ và vừa TP Hà Nội thực hiện với 2.000 hội viên cho thấy, về chiến 225
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG lược, có đến 79% số DN trong số này trả lời rằng họ chưa có động thái gì để đón làn sóng CMCN 4.0, 55% cho biết đang tìm hiểu, nghiên cứu, 19% đã xây dựng kế hoạch và chỉ có 12% DN đang triển khai. Thực chất, không phải ở đâu xa, CMCN 4.0 từ lâu đã hiện hữu trong từng ngóc ngách của cuộc sống người dân Việt Nam. Ðó là mạng xã hội, dịch vụ Mobile Banking hay đơn giản là thương mại điện tử,... Những thành tựu bước đầu của CMCN 4.0 cũng đang được không ít DN ứng dụng thành công tại nước ta. Nhưng buồn thay, đây hầu hết đều là những DN nước ngoài và lúc này, công nghệ hiện đại lại trở thành thứ vũ khí hữu hiệu nhất giúp họ chiếm lĩnh thị trường trong nước. Minh chứng sống động nhất gần đây có thể nói đến câu chuyện của Grab và Uber, hai DN ngoại đã tiến công thị trường Việt Nam bằng dịch vụ "ta-xi công nghệ". Chỉ sau gần bốn năm, với việc sử dụng công nghệ để cung cấp các dịch vụ ta-xi tiện ích, minh bạch và an toàn hơn cho khách hàng, Grab và Uber đã hoàn toàn chiếm thế thượng phong, giành phần lớn thị phần ta-xi tại các thành phố lớn, đẩy nhiều thương hiệu ta-xi truyền thống một thời lẫy lừng như Vinasun, Mai Linh,... vào cảnh điêu đứng. Trước làn sóng công nghệ đang thay đổi chóng mặt như hiện nay, nếu các DN còn tiếp tục thờ ơ, đứng ngoài cuộc chắc chắn sẽ tụt hậu. Trong thương trường, tụt hậu có nghĩa là doanh thu sụt giảm, hàng hóa, dịch vụ không bán được, mất thị trường và bị đào thải. Trong thời gian ngắn trở lại đây, chúng ta bắt đầu nghe nhiều đến CMCN 4.0 và giải pháp đưa ra cho các DN bất kể quy mô lớn hay nhỏ đều phải đầu tư vào khoa học - công nghệ. Ðây dường như là cách thức định hướng chủ đạo để bước vào CMCN 4.0. Nhưng thực tế, đầu tư thế nào lại không hề đơn giản khi phần lớn DN Việt Nam hiện nay vẫn sử dụng công nghệ cũ kỹ. Qua khảo sát, 52% số DN đang sử dụng thiết bị vô cùng lạc hậu, 38% sử dụng thiết bị trung bình và chỉ 10% sở hữu thiết bị hiện đại. Cả nước chỉ có khoảng hơn 2.000 DN khoa học - công nghệ, trong đó có khoảng 400 DN công nghệ cao (bằng 0,06% tổng số DN cả nước). Những con số này cho thấy các DN còn ở khoảng cách rất xa về năng lực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học hay công nghệ số,... trong khi cuộc CMCN 4.0 đã đến rất gần. Thêm nữa, năng lực đổi mới công nghệ của DN cũng gặp nhiều hạn chế, chủ yếu do thiếu nguồn lực về vốn. Theo thống kê của Vinasme, chi phí đầu tư cho đổi mới khoa học - công nghệ của DN Việt Nam bình quân chỉ chiếm khoảng 0,3% doanh thu, trong khi ở Ấn Ðộ là 5%, Hàn Quốc 10% và Nhật Bản 50%. Giải pháp nâng cao n ng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong cách mạng công nghiệp 4.0 Trong Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, Chính phủ đề ra mục tiêu cụ thể là trong 2 năm phải đưa nền kinh tế Việt Nam vươn đến mức trung bình của ASEAN- 6. Mới đây, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015 - 2016, trong đó xác định yêu cầu đến hết năm 2015, các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh của Việt Nam phải đạt và vượt mức này (rút ngắn thời gian nộp thuế không quá 121,5 giờ/năm; nộp bảo hiểm xã hội không quá 49,5 giờ/năm; thực hiện thủ tục kinh doanh tối đa 6 ngày; thời gian tiếp cận điện năng đối với lưới điện trung áp tối đa 36 ngày; thời gian hàng hóa nhập khẩu qua biên giới tối đa là 13 ngày với hàng hóa xuất khẩu; 14 ngày đối với hàng hóa nhập khẩu... ); và đến hết năm 2016, chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam thiểu phải đạt mức trung bình của nhóm ASEAN-4 đối với một số chỉ tiêu thông lệ quốc tế. Thứ nhất, giải pháp chung cho DN và Nhà nước là phải nắm bắt được các cam kết để thực thi, đổi mới cơ chế, nâng cao năng lực quản trị của các cấp chính quyền, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, giúp DN nâng cao năng lực cạnh tranh. Chiến lược cao nhất và thực chất nhất là nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu tăng GDP bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài thì cũng không giúp tăng năng lực cạnh tranh cho Việt Nam. DN cũng cần phải thay đổi nhận thức và 226
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG lựa chọn của khách hàng và đối tác khi ứng dụng các công nghệ mới. Mặt khác, nếu các cơ quan quản lý chậm vào cuộc trước làn sóng của cuộc cách mạng này sẽ gây ra những cản trở nhất định đối với các DN trong chiến lược thực thi cách mạng 4.0. Thứ hai, để đổi mới thể chế có hiệu quả, bên cạnh sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước còn cần có sự tham gia tích cực, chủ động của doanh nghiệp. Trong quá trình hình thành tất cả các văn bản pháp luật liên quan đến kinh doanh, cộng đồng doanh nghiệp đã tham gia rất tích cực thông qua vai trò của VCCI và các hiệp hội ngành hàng. Các cơ quan này thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại để các doanh nghiệp có cơ hội kiến nghị và những góp ý cụ thể vào từng điều, từng khoản có liên quan đến cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Thứ ba, các DN sẽ đứng trước thách thức đầu tiên về công nghệ thông tin, nên rủi ro công nghệ sẽ tăng lên. Bên cạnh đó là những thách thức liên quan đến nguồn nhân lực vì công nghiệp 4.0 đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng rất cao với kĩ năng và trình độ, kiến thức về công nghệ,… ở mức độ cao hơn cũng như ở góc độ pháp lý cũng phải ở mức cao hơn. Các doanh nghiệp cần tích cực hơn trong phát triển thị trường lao động trong nước, phối kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nước tập trung vào hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động khu vực cả về quy mô, chất lượng và cơ cấu ngành nghề. Cần phát triển lực lượng lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao, giỏi về ngoại ngữ, thông thạo môi trường khu vực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần đổi mới cơ chế quản lý tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh, khuyến khích người lao động tự động nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của mình. Kết luận Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) được đánh giá đem lại cơ hội lớn cho nước ta, khi lần đầu được tham gia một “sân chơi” không biên giới, không khoảng cách, sau ba lần lỡ nhịp các cuộc CMCN về cơ khí, điện khí hóa và tự động hóa trước đó. Nếu không chớp được cơ hội vàng này, dự báo những nguy cơ, thách thức mà chúng ta phải đối mặt sẽ hết sức khốc liệt. Ðể hỗ trợ doanh nghiệp "vượt sóng" CMCN 4.0 cần có sự phối hợp từ phía bản thân các DN và Nhà nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. C.K Prahalad and Gary Hamel (1960), The core competence of the corporation, Harvard business review. 2. Michael E. Porter (1985), The Competitive Advantage of Nations, the Free press, New York. 3. Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr.1172. 4. Một số website: vi.wikipedia.org; http://nolc.com.vn;.... 227
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0