TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
Khoa học Xã hội, Số 7 (12/2016), tr 64 - 74<br />
<br />
NÂNG CAO NĂNG LỰC VÀ VỊ THẾ NGƯỜI PHỤ NỮ THÁI TRONG XÂY DỰNG<br />
NÔNG THÔN MỚI TẠI ĐIỂM TÁI ĐỊNH CƯ Ở BẢN NHẠP XÃ CHIỀNG LAO,<br />
HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA<br />
<br />
Đặng Thị Nhuần<br />
Khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc<br />
<br />
Tóm tắt: Quá trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Sơn La đã nhận được sự tham gia tích cực của phụ nữ<br />
dân tộc Thái đối với phong trào này. Bởi phụ nữ Thái là người có vai trò quan trọng trong gia đình, xã hội và cộng<br />
đồng cũng như phát triển kinh tế hộ. Bài viết dựa trên cơ sở kết quả điều tra, khảo sát những vấn đề đang đặt ra<br />
trong thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, khảo sát năng lực,vị trí của phụ nữ Thái trong phát triển<br />
nông nghiệp, nông thôn đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao vị thế và năng lực tham gia của phụ nữ Thái<br />
vào xây dựng nông thôn mới tại điểm tái định cư ở bản Nhạp xã Chiềng Lao, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.<br />
<br />
Từ khóa: Năng lực, vị thế, phụ nữ Thái, nông thôn mới, Sơn La.<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), áp dụng đối với Trung du<br />
miền núi phía bắc, bộ 19 tiêu chí bao gồm: “Quy hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông,<br />
thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư, thu<br />
nhập bình quân đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất,<br />
giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường, hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và an ninh,<br />
trật tự xã hội”[1]. Với điều kiện của khu vực tái định cư ven hồ thủy điện còn nhiều khó khăn,<br />
địa hình cao, dốc, chia tách giao thông đi lại còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn nhiều<br />
hạn chế, tỷ lệ hộ nghèo cao, trong 5 năm, từ năm 2007 đến nay khi di vén lên khu vực tái định<br />
cư ven hồ thủy điện Sơn La, các xã tái định cư của hai huyện Mường La, Quỳnh Nhai của tỉnh<br />
Sơn La, một mặt ổn định cuộc sống người dân tái định cư đồng thời đẩy nhanh thực hiện<br />
chương trình, đề án xây dựng Nông thôn mới.<br />
Bản Nhạp, xã Chiềng Lao, huyện Mường La, tỉnh Sơn La là một điểm tái định cư di<br />
vén của công trình thủy điện Sơn La có diện tích rộng 168,3 ha và gồm 103 hộ, với 393<br />
người, trong đó 96 hộ thuộc diện tái định cư di vén, 7 hộ (người Kinh) đến làm ăn, hộ trong<br />
diện nghèo chiếm 49% (năm 2015). Sinh kế chính của họ dựa vào trồng ngô, sắn, đi làm thuê<br />
và các hoạt động dịch vụ buôn bán, kinh doanh nhỏ. Họ Quàng chiếm nhiều nhất khoảng<br />
60%, sau đó đến họ Tòng, họ Lò, họ Lường, họ Cà, 90,5% cư dân là dân tộc Thái [3]. Sau 05<br />
năm tái định cư cuộc sống người Thái ở bản Nhạp dần đi vào ổn định. Người dân bản Nhạp<br />
vốn là cư dân nông nghiệp canh tác ruộng nước, canh tác nương rẫy. Môi trường canh tác lúa<br />
nước truyền thống không còn, điều kiện tự nhiên thay đổi, địa hình đồi núi cao, đất ở và canh<br />
<br />
Ngày nhận bài: 16/8/2016. Ngày nhận đăng: 25/12/2016<br />
Liên lạc: Đặng Thị Nhuần, e-mail: nhuan4899@gmail.com<br />
<br />
<br />
<br />
64<br />
tác có độ dốc lớn. Nhằm thích ứng với điều kiện sản xuất và sinh kế mới khu vực ven hồ, từng<br />
bước ổn định đời sống, các hộ gia đình người Thái bản Nhạp đã đẩy mạnh chương trình xây<br />
dựng NTM, tập trung phát triển kinh tế hộ gia đình theo các tiêu chí đã được cụ thể hóa trong<br />
Đề án xây dựng nông thôn mới của xã Chiềng Lao.<br />
Hơn nữa, muốn phát triển kinh tế hộ gia đình cần tiếp cận, nghiên cứu, đánh giá vai trò,<br />
vị thế của người phụ nữ Thái, hiện nay vai trò của người phụ nữ Thái ở bản Nhạp được nâng<br />
lên. Phụ nữ đã nhận thức và phát huy vai trò của mình trong sản xuất nông nghiệp, các hoạt<br />
động xã hội và cộng đồng nông thôn, xây dựng nông thôn mới ở Bản Nhạp đem lại nhiều cơ<br />
hội cho phụ nữ Thái. Tuy vậy, phần lớn phụ nữ Thái trình độ còn thấp (trình độ học vấn Phụ<br />
nữ ở bản Nhạp: Tiểu học 33,3%, THCS 38,4%, THPT 21,3%, chuyên nghiệp, nghề 7,0 %)<br />
nên chưa hiểu hết quyền và địa vị pháp lý của mình, công việc nương rẫy, chăm sóc con cái<br />
chiếm nhiều thời gian, nên ít có thời gian tham gia hội họp cộng đồng, ít có thời gian tiếp cận<br />
thông tin nâng cao kiến thức và hiểu biết. Điều này đòi hỏi phải có những nghiên cứu để đánh<br />
giá đúng vai trò của phụ nữ trong gia đình, trong quá trình phát triển kinh tế hộ gia đình và<br />
xây dựng nông thôn mới đồng thời có những chính sách và giải pháp nhằm phát huy năng lực<br />
của phụ nữ Thái ở nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ hoàn thành tốt trách nhiệm,<br />
vai trò của mình trong đời sống, sản xuất và các hoạt động xã hội. Nghiên cứu này được đặt ra<br />
nhằm góp phần giải quyết những vấn đề trên tại bản Nhạp, xã Chiềng Lao, Mường La, Sơn<br />
La, một địa phương thuộc vùng tái định cư ven hồ thủy điện Sơn La.<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
- Thu thập thông tin (tài liệu, báo cáo, dữ liệu) tại bản Nhạp, xã Chiềng Lao;<br />
- Phiếu điều tra, phỏng vấn sâu phụ nữ tại bản Nhạp, điều tra mẫu người dân tại bản;<br />
- Tham vấn cộng đồng: Tổ chức các cuộc họp dân, thảo luận giữa nhóm nghiên cứu và bà<br />
con trong bản.<br />
3. Kết quả nghiên cứu<br />
3.1. Đánh giá của phụ nữ Thái về mức độ quan trọng trong thực hiện 19 tiêu chí xây<br />
dựng Nông thôn mới<br />
Đề án xây dựng nông thôn của Ủy ban nhân dân (UBND) xã Chiềng Lao được thực<br />
hiện từ năm 2010 đến nay, sau 5 năm đi vào triển khai thực hiện, phụ nữ Thái bước đầu nhận<br />
thức được ý nghĩa mang lại từ quá trình xây dựng Nông thôn mới theo 19 tiêu chí. Trong các<br />
tiêu chí xây dựng Nông thôn mới, kết quả khảo sát ý kiến của phụ nữ Thái về những tiêu chí<br />
quan trọng nhất cần được ưu tiên giải quyết hiện nay ở bản Nhạp là: giao thông, hình thức tổ<br />
chức sản xuất, thu nhập, giảm hộ nghèo, y tế, chợ. (Bảng 1)<br />
Bảng 1. Phụ nữ bản Nhạp đánh giá mức độ quan trọng xây dựng Nông thôn mới<br />
<br />
Đánh giá của phụ nữ<br />
TT 19 Tiêu chí xây dựng Nông thôn mới Số tham Mức độ quan<br />
Tổng số<br />
gia trọng (%)<br />
1 Quy hoạch và thực hiện quy hoạch 52 200 26<br />
2 Giao thông 200 200 100<br />
<br />
65<br />
3 Thủy lợi 22 200 11<br />
4 Điện 33 200 16,5<br />
5 Trường học 12 200 6,0<br />
6 Cơ sở vật chất văn hóa 23 200 11,5<br />
7 Chợ nông thôn 200 200 100<br />
8 Bưu điện 18 200 9<br />
9 Nhà ở dân cư 164 200 82<br />
10 Thu nhập 200 200 100<br />
11 Hộ nghèo 67 200 33,5<br />
12 Cơ cấu lao động 78 200 39<br />
13 Hình thức tổ chức sản xuất 200 200 100<br />
14 Giáo dục 7 200 3,5<br />
15 Y tế 178 200 89<br />
16 Văn hóa 13 200 6,5<br />
17 Môi trường 22 200 11<br />
18 Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh 19 200 9,5<br />
19 An ninh, trật tự xã hội 27 200 13,5<br />
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu tại bản Nhạp, xã Chiềng Lao<br />
Kết quả điều tra khảo sát cho thấy, trên cơ sở 19 tiêu chí xây dựng Nông thôn mới<br />
được đưa ra lấy ý kiến từ phụ nữ ở bản Nhạp, tiêu chí giao thông hiện nay chưa đạt theo tiêu<br />
chí nhựa hóa, bê tông hóa trong đó 100% phụ nữ ý kiến đánh giá cao tầm quan trọng của việc<br />
xây dựng giao thông nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, nhất là vào mùa mưa lũ,<br />
hiện tượng sạt lở đất gây ách tắc giao thông đi lại nghiêm trọng. Vấn đề tổ chức sản xuất, thu<br />
nhập được phụ nữ Bản Nhạp quan tâm, hiện nay theo quan sát của chúng tôi, vấn đề nổi cộm<br />
nhất đang đặt ra là thiếu đất sản xuất nông nghiệp, trình độ canh tác của người dân còn lạc<br />
hậu. Người dân bị mất đất sản xuất do nước ngập và gặp nhiều khó khăn để thích ứng với các<br />
hoạt động sinh kế mới tại khu vực tái định cư ven hồ. Trong khi đó, phần lớn đất đai ở Bản<br />
Nhạp là đất đồi núi có độ dốc lớn (độ cao trên cốt 218 m) đã ảnh hưởng không nhỏ đến các<br />
hoạt động sinh kế và ổn định cuộc sống của các hộ gia đình. Số hộ nghèo còn chiếm tỷ lệ cao<br />
(45,4% năm 2012) cho thấy việc cải thiện sinh kế, tăng thu nhập cho các các hộ gia đình thoát<br />
nghèo đang là vấn đề cần được quan tâm ở bản Nhạp. Vấn đề y tế đang được phụ nữ Bản<br />
Nhạp quan tâm hàng đầu, đặc biệt đội ngũ cán bộ có trình độ và trang thiết bị khám chữa bệnh<br />
còn nghèo nàn. Hiện nay ở bản Nhạp chưa có chợ nông thôn, đây là vấn đề cần sớm được giải<br />
quyết đáp ứng yêu cầu trao đổi hàng hóa thiết yếu của người dân.<br />
Trong đề án xây dựng Nông thôn mới của UBND xã Chiềng Lao đánh giá: tiêu chí<br />
giao thông liên xã, liên bản là chưa đạt (so với chuẩn tiêu chí mới chỉ đạt 50%). Tỷ lệ lao<br />
động được đào tạo tập huấn kỹ thuật 9,0% (theo Bộ tiêu chí về phát triển nông thôn mới đạt<br />
trên 20%). Tiêu chí thu nhập bình quân đầu người, trình độ lao động, chất lượng lao động còn<br />
thấp chủ yếu là lao động chưa qua đào tạo, tỷ lệ lao động được đào tạo có kỹ thuật còn thấp<br />
<br />
66<br />
hơn nhiều so với chuẩn tiêu chí quy định [3]. Trong điều kiện cụ thể của xã Chiềng Lao đây là<br />
những vấn đề đang đặt ra trong đời sống hàng ngày của các hộ gia đình ven hồ nói chung và<br />
người phụ nữ nói riêng.<br />
Kết quả điều tra khảo sát cho thấy những tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo đánh<br />
giá trong đề án xây dựng Nông thôn mới được UBND xã Chiềng Lao xây dựng phù hợp với<br />
đánh giá, nhận xét của người dân được khảo sát.<br />
3.2. Vai trò của phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp<br />
Chiềng Lao là xã thuần nông, kinh tế chủ yếu dựa vào canh tác trên nương rẫy (trồng<br />
ngô, sắn, nuôi gia súc, thủy cầm ven hồ). “Thu nhập bình quân trong năm của một hộ ở bản<br />
Nhạp là 5,5 triệu đồng/người bằng 0,65 lần thu nhập bình quân của huyện (8,5 triệu<br />
đồng/người) và bằng 66,0% thu nhập bình quân vùng nông thôn của tỉnh (8,42 triệu<br />
đồng/người). Theo Bộ tiêu chí về phát triển nông thôn mới đạt 1,2 lần so với mức bình quân<br />
chung của tỉnh (hiện nay xã Chiềng Lao mới đạt 0,66 lần). Tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm<br />
88,8%, ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 4,8% và dịch vụ chiếm 6,4%. Sản lượng lương<br />
thực có hạt đạt 776,0 tấn, bình quân lương thực đầu người ước đạt 455 kg/người/năm” [3].<br />
Trong sản xuất nông nghiệp phụ nữ Thái là người đóng vai trò chính ở hầu hết các khâu<br />
quan trọng. Với trồng trọt, người phụ nữ ra quyết định chính trong các khâu lựa chọn giống<br />
(72%), việc lựa chọn kỹ thuật canh tác (81,6%), trong khi đó người chồng thể hiện vai trò cao ở<br />
các khâu ra quyết định: mua công cụ sản xuất, thuê phương tiện lao động (lần lượt là 37,1% và<br />
72,4%). Trong việc thực hiện các khâu canh tác từ làm đất, gieo trồng đến thu hoạch, bón phân,<br />
làm cỏ, tưới tiêu nước, phun thuốc sâu, thu hoạch bán sản phẩm, người vợ giữ vai trò chủ đạo<br />
trong các khâu: gieo trồng trên nương rẫy (59,67%), bón phân làm cỏ (77,49%), tưới tiêu nước<br />
(64,46%), bán sản phẩm (85,67%), người chồng là người thực hiện chính các khâu công việc:<br />
làm đất (47,12%), phun thuốc trừ sâu (52,7%). (Bảng 2).<br />
Bảng 2. Người ra quyết định và thực hiện các khâu trong trồng trọt<br />
(Đơn vị: %)<br />
Cả 2 vợ Con Con<br />
Chồng Vợ<br />
chồng nam nữ<br />
1. Người ra quyết định các khâu công việc<br />
Giống cây trồng 16,04 72,0 7,8 0,00 4,16<br />
Kỹ thuật canh tác 14,4 81,6 4,18 0,00 0,00<br />
Mua công cụ sản xuất 37,1 25,88 31,57 5,45 0,00<br />
Mua vật tư nông nghiệp (phân, thuốc...) 28,23 16,29 42,4 7,21 5,50<br />
Bán sản phẩm 23,28 21,12 55,6 0,00 0,00<br />
Thuê phương tiện, lao động 72,4 13,9 6,48 5,77 1,45<br />
2. Người thực hiện các khâu công việc<br />
Làm đất 47,12 22,81 26,35 1,22 2,5<br />
Gieo trồng trên nương rẫy 11,46 59,67 18,51 1,15 0,81<br />
Bón phân, làm cỏ 6,28 77,49 12,8 3,21 0,22<br />
<br />
67<br />
Tưới tiêu nước 22,14 64,46 12,26 0,00 1,14<br />
Phun thuốc sâu 52,7 34,68 0,00 0,00 12,62<br />
Thu hoạch 28,74 39,44 31,82 0,00 0,00<br />
Đi bán sản phẩm 2,28 85,67 7,51 4,54 00,0<br />
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu tại bản Nhạp, xã Chiềng Lao<br />
Trong chăn nuôi, việc ra quyết định chọn lựa giống, kỹ thuật, quy mô nuôi, mua vật tư,<br />
làm chuồng trại do người chồng quyết định với ý kiến đánh trên 50%. Người vợ ra quyết định<br />
chính về bán sản phẩm, với ý kiến đánh giá trên 90%. Việc trực tiếp thực hiện các khâu chăm<br />
sóc, nuôi dưỡng, vệ sinh chuồng trại, đi bán sản phẩm với 65% - 80% ý kiến cho rằng phụ nữ<br />
thực hiện là chính, người chồng chỉ đảm nhiệm mua con giống và đi mua thức ăn tinh. Trong<br />
chăn nuôi, phụ nữ thực hiện chủ yếu khâu chăm sóc, nuôi dưỡng gia súc gia cầm vốn đòi hỏi<br />
nhiều thời gian và sự tỉ mỉ, khéo léo. (Bảng 3).<br />
Bảng 3. Người ra quyết định và thực hiện các khâu trong chăn nuôi<br />
(Đơn vị: %)<br />
Cả 2 vợ Con Con<br />
Chồng Vợ<br />
chồng nam nữ<br />
1. Người ra quyết định các khâu công việc<br />
Giống nuôi 72,28 10,24 11,36 5,12 1,00<br />
Kỹ thuật nuôi 68,31 16,36 13,5 0,00 1,87<br />
Quy mô nuôi 62,28 24,09 11,36 0,00 2,27<br />
Mua vật tư nông nghiệp (thức ăn, thuốc.) 37,28 52,09 8,09 0,00 2,54<br />
<br />
Bán sản phẩm 2,61 95,45 1,94 0,00 0,00<br />
Người thực hiện các khâu chăn nuôi<br />
Làm chuồng trại 92,35 3,6 4,05 0,00 0,00<br />
Mua giống 78,84 11,20 9,96 0,00 0,00<br />
Mua thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y 65,45 30,91 3,64 0,00 0,00<br />
Cho ăn và vệ sinh chuồng trại 13,64 70,45 11,36 0,00 4,55<br />
Chăn dắt 12,50 80,00 12,50 0,00 5,00<br />
Đi bán sản phẩm 9,09 65,91 18,18 4,55 2,27<br />
Nguồn: Số liệu điều tra tại bản Nhạp, Xã Chiềng Lao<br />
3.3. Vai trò của phụ nữ trong việc kiểm soát các nguồn lực kinh tế hộ<br />
Phụ nữ Thái ở bản Nhạp có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, trong gia<br />
đình, phụ nữ Thái giữ vai trò nội trợ, chi tiêu chăm lo sinh hoạt đời sống hàng ngày cho cả gia<br />
đình, chăm lo việc học của con cái cũng như các khoản đóng góp. Việc ra quyết định chính<br />
đối với kinh tế gia đình vợ/chồng: Quyền kiểm soát kinh tế, tài sản là 27,51/ 41,26% , đứng<br />
tên sổ đỏ (12,22/ 67,98%), đứng tên đăng ký xe máy (3,14/ 89,37%). Kết quả điều tra, khảo<br />
sát cho thấy, tỷ lệ vợ chồng cùng bàn bạc, thống nhất các công việc chính cao, hai vợ chồng<br />
thống nhất quyền kiểm soát kinh tế, tài sản 30,18%, hai vợ chồng cùng đứng tên sổ đỏ<br />
15,94%. Như vậy trong gia đình người Thái hiện nay, vai trò phụ nữ ngày càng được nâng<br />
68<br />
lên, sự bình đẳng trong việc quyết định những vấn đề lớn của kinh tế gia đình là thước đo<br />
quan trọng nhất khẳng định vai trò làm vợ làm mẹ của phụ nữ Thái ở Chiềng Lao. (Bảng 4).<br />
Bảng 4. Vai trò trong kiểm soát kinh tế, tài sản hộ gia đình<br />
(Đơn vị: %)<br />
Cả 2 vợ Con Con<br />
Chỉ tiêu Chồng Vợ<br />
chồng nam nữ<br />
Quyền kiểm soát kinh tế, tài sản 41,26 27,51 30,18 1,05 0,00<br />
Đứng tên sổ đỏ 67,98 12,22 15,94 2,86 1,00<br />
Đứng tên đăng ký xe máy 89,37 3,14 2,57 3,42 1,5<br />
Đứng tên vay vốn 77,91 17,32 5,14 3,77 1,00<br />
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu tại bản Nhạp, xã Chiềng Lao<br />
3.4. Phụ nữ với tiếp cận các kênh thông tin và quan hệ xã hội nông thôn<br />
Hiện nay việc tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng của phụ nữ Thái ở bản<br />
Nhạp ngày càng tăng lên. Đặc biệt việc xem ti vi vào buổi tối, tham gia các hoạt động văn<br />
nghệ ở bản, họp phụ nữ, tham dự các lớp tập huấn sức khỏe sinh sản, chăm sóc trẻ nhỏ,<br />
khuyến nông để nắm bắt kỹ thuật mới giúp người phụ nữ ở Chiềng Lao tiếp cận với các kênh<br />
thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức và hiểu biết.<br />
Bảng 5. Phụ nữ với việc tiếp cận các kênh thông tin và quan hệ xã hội<br />
<br />
Số phụ nữ<br />
Chỉ tiêu Mức độ Tỉ lệ %<br />
tham gia<br />
Đi họp 89 Thường xuyên 44,5<br />
Tham dự tập huấn 97 Thường xuyên 48,5<br />
Xem ti vi 100 Thường xuyên 50<br />
Nghe đài phát thanh 49 Thỉnh thoảng 24,5<br />
Sử dụng điện thoại bàn 21 Thường xuyên 10,5<br />
Sử dụng điện thoại di động 54 Thường xuyên 27<br />
Xem văn nghệ (bản) 86 Thỉnh thoảng 43<br />
Tham gia công việc chung của bản (lễ hội) 77 Thỉnh thoảng 38,5<br />
Tham gia vệ sinh môi trường 100 Thỉnh thoảng 50<br />
Tham gia lao động công ích 100 Thỉnh thoảng 50<br />
Tham gia các cuộc thi (tuyên truyền) 53 Thỉnh thoảng 26,5<br />
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu tại bản Nhạp, xã Chiềng Lao<br />
Trong quan hệ xã hội, phụ nữ thường tích cực tham gia các công việc huy động của<br />
thôn xã như vệ sinh môi trường bản làng, giúp đỡ người nghèo, lao động xây dựng trường<br />
học, vệ sinh đường ống dẫn nước chung của bản, tham gia tập luyện trong các đội văn nghệ<br />
bản. Như vậy, để nâng cao hơn nữa vai trò của phụ nữ Thái trong phát triển kinh tế hộ gia<br />
đình, nâng cao quyền bình đẳng trong tiếp cận nguồn thông tin và quan hệ xã hội ở nông thôn<br />
khu vực tái định cư ven hồ thủy điện Sơn La hiện cần có những giải pháp phát huy hiệu quả,<br />
toàn diện vai trò của phụ nữ trong phong trào xây dựng nông thôn mới hiên nay.<br />
69<br />
3.5. Những thuận lợi và khó khăn của phụ Thái ở bản Nhạp xã Chiềng Lao trong việc<br />
xây dựng nông thôn mới<br />
a) Thuận lợi<br />
Khi tới nơi ở mới được sự quan tâm của các cấp chính quyền nên hệ thống cơ sở hạ tầng<br />
được đầu tư tốt hơn.<br />
Khi tới nơi ở mới sự giao thoa học hỏi văn hóa, phong tục tập quán lẫn nhau giữa các<br />
dân tộc mang đến những hệ quả tích cực, thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức của người dân<br />
tái định cư, đặc biệt là phụ nữ.<br />
b) Khó khăn<br />
- Mức sinh của phụ nữ vẫn cao, tỉ lệ sinh con thứ 3 ở bản Nhạp là 64%. Việc kết hôn<br />
sớm (tảo hôn) ở bản Nhạp là 67%, hệ quả kết hôn sớm còn gây khó khăn cho công tác nâng<br />
cao sức khỏe cho phụ nữ ở khu tái định cư.<br />
- Trình độ dân trí của cộng đồng tái định cư nói chung và phụ nữ Thái nói riêng còn<br />
thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn duy trì như: chăn nuôi dưới gầm sàn, gần nhà,<br />
chăn thả gia súc thả rông thiếu chuồng trại hợp lý nên chất thải bừa bãi, cùng với việc sinh<br />
hoạt thiếu vệ sinh ảnh hưởng tới môi trường sinh sống.<br />
- Tập quán canh tác của phụ nữ Thái trước khi tái định cư gắn liền với ruộng nương, đất<br />
đai tương đối nhiều và tốt, thuận lợi để canh tác, chăn nuôi. Nay khi tái định cư diện tích đất<br />
bị thu hẹp, buộc họ phải chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng việc đó chưa thích ứng ngay một<br />
sớm một chiều nên gây khó khăn rất lớn trong đời sống của dân tái định cư, trong đó có phụ<br />
nữ Thái.<br />
3.6. Giải pháp nâng cao năng lực và vị thế của phụ nữ Thái trong xây dựng Nông thôn<br />
mới ở bản Nhạp, Chiềng Lao<br />
Khu vực tái định cư (TĐC) ven hồ thủy điện Sơn La có nhiều lợi thế phát triển nông<br />
nghiệp nông thôn, các tiềm năng nguồn nước, rừng, đất đai đang được các hộ gia đình khai<br />
thác, sử dụng nhằm ổn định cuộc sống ở bản tái định cư gắn với phong trào xây dựng Nông<br />
thôn mới đã được UBND xã Chiềng Lao xác định trong đề án và đang triển khai trên cơ sở<br />
đánh giá các nguồn lực, tiềm năng, lợi thế của địa phương. “Đề án xây dựng Nông thôn mới ở<br />
Chiềng Lao” xác định theo 4 định hướng phát triển kinh tế:<br />
- Phát triển kinh tế Hợp tác xã gắn với xây dựng Nông thôn mới (phát triển nuôi trồng<br />
thủy sản, chăn nuôi thủy cầm, sử dụng đất bán ngập, phát triển Hợp tác xã dịch vụ du lịch<br />
lòng hồ.<br />
- Phát triển kinh tế rừng (trồng cây cao su, chăn nuôi đại gia súc).<br />
- Đảm bảo đúng tiến độ giao đất cho các hộ tái định cư ổn định sản xuất, đền bù chênh<br />
lệch giá đất.<br />
- Khôi phục phát triển giá trị văn hóa của dân tộc Thái (ví dụ như: các làn điệu dân ca<br />
Thái cổ, các trò chơi truyền thống của dân tộc Thái...).<br />
Nông nghiệp, nông thôn tái định cư đang có bước chuyển biến thay đổi quan trọng đòi<br />
hỏi sự tham gia, vào cuộc tích cực từ các hộ gia đình, trong đó có vai trò quan trọng của người<br />
<br />
70<br />
phụ nữ trong ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở<br />
khảo sát tại điểm TĐC Chiềng Lao, các giải pháp được đưa ra bao gồm:<br />
Thứ nhất: Ổn định cuộc sống các hộ gia đình khu vực tái định cư ở bản Nhạp: hoàn<br />
thiện xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, tập trung ưu tiên hoàn thiện đường giao thông tránh<br />
ngập quốc lộ 279 nối liền xã Chiềng Lao với trung tâm huyện lỵ Mường La, bê tông hóa, giải<br />
cấp phối đường trục liền UBND xã với các bản. Chú trọng việc quản lý, duy tu sửa chữa hệ<br />
thống giao thông thuộc địa bàn xã quản lý, đặc biệt hệ thống giao thông nối liền các bản với<br />
xã. Cần sớm xây dựng chợ trung tâm xã giúp người dân đi lại thuận tiện và quá trình trao đổi<br />
thông thương, mua bán. Sớm hoàn thiện công tác giao đất ven hồ trên cốt 218 m cho người<br />
dân canh tác. Bên cạnh đó cần sớm chính sách ưu tiên sớm giải quyết đất thổ cư cho những<br />
gia đình ở ven hồ bị sạt lở đất.<br />
Thứ hai: Nâng cao quyền bình đẳng phụ nữ Thái: huy động sự vào cuộc trách nhiệm<br />
các tổ chức đoàn thể địa phương: Hội liên hiệp phụ nữ xã, chi hội phụ nữ các bản, hội nông<br />
dân, đoàn thành niên, mặt trận tổ quốc tăng cường tuyên truyền, vận động trên các phương<br />
tiện và các hình thức sinh hoạt của địa phương về vị trí, vai trò của phụ nữ. Thực hiện lồng<br />
ghép tuyên truyền công tác Bình đẳng giới - Vì sự tiến bộ phụ nữ trong các hoạt động giáo<br />
dục ở cộng đồng bản làng người Thái, trong xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Vận động và<br />
tạo điều kiện cho mọi chị em phụ nữ được thường xuyên tham gia sinh hoạt, hội họp đoàn thể<br />
phụ nữ, thanh niên, hội nông dân; được học tập, có điều kiện tiếp cận với sách, báo, các<br />
phương tiện truyền thông. Tập trung vào các giải pháp giúp phụ nữ thái tiếp cận với các dịch<br />
vụ xã hội; kiến thức pháp luật; vay vốn giải quyết việc làm, phát triển kinh tế; tăng cường đề<br />
bạt phụ nữ Thái tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội, bổ nhiệm vào các chức danh chủ<br />
chốt Ủy ban nhân dân xã, các ban, các bản làng [5]. Thông tin, tuyên truyền những hạn chế<br />
mang định kiến về giới, thói quen, tập quán, nếp nghĩ từ lâu ảnh hưởng đến vị trí, địa vị của<br />
người phụ nữ Thái trong xã hội, xây dựng chuyên mục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới<br />
trên hệ thống truyền thanh từ xã đến cơ sở tại các bản làng người Thái ven hồ.<br />
Thứ ba: Quan tâm chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ Thái tái định cư ven hồ: hiện nay “có<br />
đến 78% phụ nữ Thái ở bản Nhạp có trình độ học vấn thấp, lấy chồng sớm. Do vậy, nhiều chị<br />
em phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (19-49 tuổi), ít được tiếp xúc với các dịch vụ y tế về chăm<br />
sóc sức khỏe” [6]. Theo báo cáo của Hội liên hiệp phụ nữ xã Chiềng Lao, phần lớn phụ nữ<br />
Thái dựa vào tri thức dân gian, kinh nghiệm trong việc chăm sóc thai phụ, sản phụ, trẻ nhỏ,<br />
việc tiếp cận dịch vụ y tế hiện đại chưa được nhiều phụ nữ ở đây quan tâm, điều này có ảnh<br />
hưởng không nhỏ đến sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Do đó, bên cạnh khai thác giá trị tri thức dân<br />
gian cần kết hợp các dịch vụ y tế hiện đại trong việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ Thái. Các<br />
giải pháp chú trọng tới tổ chức các đợt cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/ kế<br />
hoạch hóa gia đình, vận động đông đảo phụ nữ Thái tham gia thực hiện các gói dịch vụ, ngoài<br />
việc đưa tin, bài tuyên truyền về hoạt động Chiến dịch trên hệ thống phát thanh tại xã, bản,<br />
phòng y tế, trạm y tế chủ trì phối hợp đoàn thể các xã, bản tổ chức nhiều buổi truyền thông<br />
cung cấp thông tin, tư vấn nâng cao hiểu biết về những vấn đề dân số, chăm sóc sức khỏe sinh<br />
sản, phòng tránh bệnh nhiễm khuẩn, dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cho phụ nữ trong độ tuổi<br />
71<br />
sinh sản và gói dịch vụ siêu âm phát hiện khiếm khuyết thai nhi cho bà mẹ mang thai. Đồng<br />
thời, cung cấp và nâng cao kiến thức trong việc phòng ngừa và xử trí các bệnh thường gặp<br />
cho phụ nữ, trẻ em, giúp họ nâng cao ý thức, thái độ chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia<br />
đình.<br />
Thứ tư: Đào tạo, tập huấn nghề cho phụ nữ nông thôn khu vực ven hồ, “trình độ, năng<br />
lực và chuyên môn nghề nghiệp của lao động nữ ở khu vực tái định ven hồ còn rất thấp<br />
(99,3% làm nương rẫy)”. Chú trọng phát triển các hình thức dạy nghề và ngành nghề đào tạo<br />
ngắn hạn phù hợp với điều kiện sản xuất, lợi thế khu vực ven hồ thủy điện Sơn La [6]. Triển<br />
khai tập huấn phát triển kinh tế hộ gia đình cho phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh<br />
công tác khuyến nông, tạo điều kiện để phụ nữ Thái được tiếp cận nhiều hơn với kiến thức<br />
mới trong nông nghiệp, áp dụng kiến thức mới vào trồng trọt, chăn nuôi đạt năng suất, hiệu<br />
quả và thu nhập cao. Tập huấn chương trình xây dựng nông thôn mới cho phụ nữ, tập huấn về<br />
sinh kế, chuyển đổi sinh kế cho các hộ gia đình nhằm thích ứng điều kiện sản xuất mới khu<br />
vực ven hồ, tổ chức tập huấn các lớp khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư tập huấn chuyển<br />
giao kỹ thuật nông, lâm nghiệp, chăn nuôi cho phụ nữ Thái. Tập huấn về chuyển dịch cơ cấu<br />
cây trồng, vật nuôi theo quy mô sản xuất hàng hóa trong các hộ gia đình đẩy mạnh hoạt động<br />
hỗ trợ sản xuất, giúp nông dân vay vốn phát triển sản xuất. Xây dựng, triển khai, nhân rộng<br />
các mô hình kinh tế dựa vào lợi thế của địa phương: mô hình nuôi cá nước ngọt trên hồ, nuôi<br />
vịt thả hồ, mô hình nuôi gà thả đồi, mô hình nuôi dê ven hồ, mô hình trồng măng, mô hình<br />
trồng ngô lai, mô hình làm du lịch cộng đồng; dịch vụ lưu trú tại gia (homestay), dịch vụ phục<br />
vụ ẩm thực, cách làm các dịch vụ phục vụ nghỉ dưỡng, dịch vụ hướng dẫn, thuyết minh, giới<br />
thiệu tham quan di sản (văn hóa nhà sàn), dịch vụ phục vụ nghệ thuật truyền thống gần khu<br />
vực suối nước nóng) góp phần cải thiện đời sống cho các hộ gia đình, góp phần tạo việc làm,<br />
nâng cao thu nhập và giải phóng sức lao động cho phụ nữ Thái.<br />
4. Kết luận<br />
Quá trình xây dựng nông thôn mới ở vùng nông thôn miền núi đứng trước nhiều thách<br />
thức không nhỏ, đặc biệt đối với những vùng dân di cư do xây dựng thủy điện như xã Chiềng<br />
Lao huyện Mường La, Sơn La. Trong đó phụ nữ Thái khẳng định được vai trò quan trọng của<br />
mình trong ổn định đời sống, sản xuất, từng bước thích ứng với điều kiện môi trường, sản<br />
xuất và sinh kế mới tại khu vực ven hồ. Tại bản Nhạp, phụ nữ đóng vai trò chính trong sản<br />
xuất nông nghiệp, nhất là thực hiện các khâu công việc trồng trọt nương rẫy, chăm sóc gia<br />
súc, gia cầm.<br />
Theo truyền thống văn hóa người Thái, địa vị của người phụ nữ tương đối bình đẳng so<br />
với nam giới, truyền thống đó đến nay còn nguyên giá trị. Trong gia đình, người phụ nữ Thái ở<br />
bản Nhạp có địa vị quan trọng, họ là người quản lý kinh tế, chi tiêu của gia đình, mặc dù những<br />
công việc lớn do người chồng quyết định nhưng trong phần lớn các gia đình được khảo sát cho<br />
thấy, người vợ có quyền bình đẳng tương đối với người chồng khi vợ chồng cùng nhau quyết<br />
định, thống nhất những công việc chung, việc lớn quan trọng của gia đình. Điều này khẳng định<br />
vị trí, địa vị của người phụ Thái được coi trọng trong gia đình và cộng đồng.<br />
<br />
72<br />
Tuy nhiên, điều kiện sản xuất gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp và thói quen, tập<br />
quán đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao địa vị của người phụ nữ Thái trong ổn định<br />
đời sống, vươn lên thoát nghèo, phát triển kinh tế hộ gia đình, chăm lo cho con cái được học<br />
hành. Những giải pháp, khuyến nghị nâng cao năng lực và vị thế đưa ra phù hợp với nguyện<br />
vọng, mong muốn, đề xuất của phụ nữ ở bản Nhạp cũng như các địa phương khác ven hồ có<br />
điều kiện tương tự. Mục tiêu hướng đến ổn định đời sống các hộ gia đình tái định cư, xóa đói,<br />
giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao năng lực và vị<br />
thế quan trọng của người phụ nữ Thái, góp phần thực hiện thành công Đề án xây dựng nông<br />
thôn mới tại các địa phương tái định cư ven hồ thủy điện Sơn La.<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] Cầm Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.<br />
[2] Cổng thông tin điện tử Bộ NN & PTNT, (2013), 19 Tiêu chí xây dựng Nông thôn mới<br />
cấp xã.<br />
[3] Đỗ Xuân Đức (2013), Nghiên cứu những biến đổi điều kiện sống, đề xuất giải pháp<br />
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội các cộng đồng cư dân khu vực tái định cư thủy điện<br />
Sơn La, tỉnh Sơn La, Đề tài Đại học Quốc Gia Hà Nội, tham gia (2013-2015).<br />
[4] Đề án xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2012-2020 xã Chiềng Lao - huyện mường<br />
La- tỉnh Sơn La, UBND xã Chiềng Lao, 2016.<br />
[5] Đỗ Xuân Đức (2014), Biến đổi các vấn đề xã hội các cộng đồng cư dân tái định cư<br />
thủy điện Sơn La, tỉnh Sơn La, Báo cáo thuộc Đề tài Nghiên cứu khoa học xã hội nhân<br />
văn cấp tỉnh Sơn La, Mã số KX-09-2013, Sơn La.<br />
[6] Đỗ Xuân Đức (2014), Đánh giá mức độ bền vững cộng đồng tái định cư thủy điện<br />
bằng phương pháp thước đo BS và chỉ số LSI, Tạp chí Môi trường (số 10), [tr.54-57],<br />
Hà Nội.<br />
[7] Đỗ Xuân Đức, (2015), Nghiên cứu biến đổi điều kiện sống đến khả năng tiếp cận giáo<br />
dục và việc làm tại cộng đồng di dân tái định cư ven hồ thủy điện Sơn La, Kỷ yếu Hội<br />
Quốc tế “Chuyển biến kinh tế -xã hội và giáo dục”, Viện Khoa học giáo dục Việt<br />
Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.<br />
[8] Đặng Thị Nhuần (2015), Tìm hiểu tri thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của<br />
dân tộc Thái ở Tây Bắc, Tạp chí thiết bị giáo dục.<br />
[9] (Theo quyết định 491/QĐ-TTg, ngày 14/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ),<br />
http://www.agroviet.gov.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
73<br />
IMPROVE CAPACITIES AND POSITIONS OF THAI WOMEN<br />
IN BUILDING THE NEW RURAL AREAS IN NHAP HAMLET,<br />
CHIENG LAO COMMUNE, MUONG LA DISTRICT, SON LA<br />
PROVINCE<br />
<br />
Dang Thi Nhuan<br />
Faculty of History and Geography<br />
<br />
<br />
<br />
Abstract: In the process of building new rural areas, Son La province has received the active<br />
participation of ethnic Thai woman for this movement. Because Thai ethnic women play an important role in the<br />
family, society and community as well as development of household economy. Basing on the survey results, the<br />
article tries to point out the problems in the implementation of the new rural construction, the capacity and<br />
position of Thai women in agricultural and rural development. At the same time, it proposes some solutions to<br />
improve the position and capacities of Thai women engaging in the relocating resettlement point of Nhap hamlet<br />
Chieng Lao commune, Muong La district, Son La province.<br />
Keywords: Capacity, position, Thai women, new rural, Son La<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
74<br />