Nâng cao vai trò của bên mua nợ xấu hướng tới xây dựng thị trường mua bán nợ sơ cấp ở Việt Nam
lượt xem 5
download
Bài viết Nâng cao vai trò của bên mua nợ xấu hướng tới xây dựng thị trường mua bán nợ sơ cấp ở Việt Nam trình bày thực trạng pháp luật điều chỉnh về bên mua nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam; Khuyến nghị nâng cao vai trò của bên mua nợ xấu của tổ chức tín dụng trên thị trường mua bán nợ sơ cấp ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nâng cao vai trò của bên mua nợ xấu hướng tới xây dựng thị trường mua bán nợ sơ cấp ở Việt Nam
- CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Nâng cao vai trò của bên mua nợ xấu hướng tới xây dựng thị trường mua bán nợ sơ cấp ở Việt Nam Hoàng Văn Thành Ngày nhận: 19/09/2017 Ngày nhận bản sửa: 06/10/2017 Ngày duyệt đăng: 10/11/2017 Vài năm trở lại đây, tình trạng nợ xấu tăng cao đã đe dọa trực tiếp tới sự phát triển lành mạnh của hệ thống ngân hàng, đồng thời tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Để giải quyết tình trạng này, đa dạng hóa các chủ thể mua nợ xấu trên thị trường sơ cấp đang được xem là một trong những giải pháp trọng tâm được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng tới. Theo đó, tổ chức tín dụng (TCTD) có thể lựa chọn phương án bán nợ xấu cho các TCTD khác, các công ty mua bán nợ chuyên nghiệp như VAMC, DATC, AMCs, các Công ty kinh doanh dịch vụ mua bán nợ hay các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu. Mỗi bên mua nợ mặc dù đều có những đặc trưng pháp lý cũng như thế mạnh riêng, tuy nhiên có thể dễ dàng nhận thấy, Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đang giữ vai trò trọng tâm, đồng thời định hướng hoạt động của các bên mua nợ khác trong việc mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa vai trò của các chủ thể này, Chính phủ và NHNN cần xem xét các giải pháp nhằm tăng vốn cho VAMC để tăng khả năng mua nợ xấu theo giá trị thị trường hay chú trọng đến các AMC tư nhân để tạo sự liên kết hệ thống giữa các AMC này, qua đó tăng khả năng tiếp cận tới các khoản nợ xấu của các ngân hàng. Những giải pháp này khi được giải quyết sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc từng bước thúc đẩy hình thành thị trường mua bán nợ xấu ở Việt Nam. Từ khóa: nợ xấu, mua nợ xấu, thị trường mua bán nợ xấu 1. Đặt vấn đề Trong hoạt động của các hoạt động cho vay đối với TCTD, nợ xấu phát sinh từ khách hàng luôn có khả năng © Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng ISSN 1859 - 011X 44 Số 186- Tháng 11. 2017
- CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ xảy ra cho dù các TCTD đã Quan hệ mua bán nợ xấu từ được phê duyệt”. quan tâm tới các điều kiện cho hoạt động cho vay của các Như vậy, trừ trường hợp mua vay và áp dụng các biện pháp TCTD được hình thành trên nợ xấu theo phương án tái cơ phòng ngừa rủi ro. Xu hướng cơ sở thống nhất ý chí giữa cấu đã được phê duyệt, TCTD phát sinh các khoản nợ xấu bên bán nợ và bên mua nợ. có thể trở thành bên mua nợ buộc các TCTD phải đẩy mạnh Nếu như bên bán nợ chỉ có khi thỏa mãn hai điều kiện: (1) các giải pháp xử lý nợ xấu, thể là các TCTD, thì bên mua Được NHNN chấp thuận hoạt trong đó, bán nợ xấu cho các nợ rất đa dạng, đó là các cá động mua nợ tại Giấy phép; và tổ chức, cá nhân có nhu cầu nhân hoặc tổ chức có nhu cầu (2) có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%. được coi là giải pháp có tính mua khoản nợ xấu từ bên bán Trước tiên phải thấy rằng, quy khả thi. nợ để trở thành chủ sở hữu định của Thông tư 09/2015/ Giống như các quan hệ mua mới của khoản nợ xấu. Căn TT-NHNN cho phép TCTD bán tài sản nói chung, mua cứ vào khoản 4 Điều 3 Thông được quyền mua nợ xấu của bán nợ xấu từ hoạt động cho tư 09/2015/TT-NHNN của các TCTD khác là một bước vay của các TCTD được xác NHNN, bên mua nợ bao gồm: đột phá trong nỗ lực đa dạng lập trên cơ sở thống nhất ý chí - TCTD được NHNN chấp hóa các chủ thể mua nợ xấu giữa bên bán nợ và bên mua thuận hoạt động mua nợ. trên thị trường mua bán nợ. nợ về việc chuyển giao khoản - Công ty Quản lý tài sản của So với các bên mua nợ khác, nợ xấu từ bên bán nợ sang bên các TCTD Việt Nam (VAMC). các TCTD khi tham gia với tư mua nợ. Tuy nhiên, với tính - Công ty TNHH mua bán nợ cách bên mua nợ sẽ có ưu thế chất đặc thù của hoạt động Việt Nam (DATC). lớn vì hiểu rất rõ về quá trình ngân hàng nói chung và các - Công ty quản lý nợ và khai phát sinh nợ xấu từ các khoản khoản nợ xấu được mua bán thác tài sản trực thuộc các cho vay đối với khách hàng. nói riêng, quan hệ mua bán nợ TCTD (AMC). Bên cạnh đó, các TCTD cũng xấu giữa bên bán nợ và bên - Doanh nghiệp kinh doanh có ưu thế rõ ràng trong việc mua nợ chịu sự tác động rất dịch vụ mua bán nợ. tiếp cận đến các thông tin của lớn bởi các quy định của pháp - Tổ chức, cá nhân khác. các khoản cho vay, các thông luật, mà trong chừng mực nào Trong đó, mỗi chủ thể khi tin của khách hàng trên cổng đấy, các quy định này đang tham gia vào quan hệ mua bán Trung tâm thông tin tín dụng tác động tiêu cực tới khả năng nợ xấu với bên bán nợ thể hiện (CIC) so với các bên mua nợ mua bán nợ của bên bán nợ và những đặc trưng sau đây: khác. Những ưu thế vượt trội bên mua nợ trên thị trường. này có ý nghĩa rất lớn trong Trong bài viết này, tác giả tập a. Các TCTD được NHNN việc giúp các TCTD tiếp cận trung phân tích, đánh giá các chấp thuận hoạt động mua nợ và xử lý các khoản nợ xấu của quy định của pháp luật điều TCTD không chỉ tham gia vào các TCTD khác khi mua nợ. chỉnh bên mua nợ trong quan quan hệ mua bán nợ xấu với Tuy nhiên, để chủ thể này thực hệ mua bán nợ xấu từ hoạt tư cách bên bán nợ, khi thỏa sự phát huy vai trò của mình động cho vay của các TCTD mãn những điều kiện nhất với tư cách là bên mua nợ ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề định, TCTD có thể tham gia không hề đơn giản, vì một số xuất những giải pháp nâng cao với tư cách là bên mua nợ. Cụ vấn đề sau đây: vai trò của các chủ thể này, thể, khoản 3 Điều 5 Thông tư Như đã phân tích, Khoản 3 tiến tới hình thành thị trường 09/2015/TT-NHNN quy định: Điều 5 Thông tư 09/2015/TT- mua bán nợ sơ cấp trong thời “TCTD chỉ được mua nợ khi NHNN quy định về điều kiện gian tới. được NHNN chấp thuận hoạt được sự cho phép của NHNN động mua nợ tại Giấy phép trong nội dung của Giấy phép 2. Thực trạng pháp luật điều thành lập và hoạt động của và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư chỉnh về bên mua nợ của các TCTD và có tỷ lệ nợ xấu dưới nợ nằm trong ngưỡng an toàn tổ chức tín dụng ở Việt Nam 3%, trừ trường hợp mua nợ tối thiếu. Những điều kiện này theo phương án tái cơ cấu đã thoạt nhìn thì có vẻ dễ đáp Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 186- Tháng 11. 2017 45
- CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ ứng, tuy nhiên thực tế không gian này, TCTD tự phân loại thực trạng nợ xấu ngân hàng hẳn là như vậy. nợ theo quy định nội bộ. Từ tăng cao, ngày 18/5/2013, Đầu tiên, muốn mua nợ xấu đó làm phát sinh vấn đề, đó Chính phủ đã ban hành Nghị của các TCTD khác, TCTD là tại thời điểm đầu quý thực định số 53/2013/NĐ-CP về phải được sự cho phép của hiện việc phân loại nợ, TCTD thành lập, tổ chức và hoạt NHNN trong nội dung của thỏa mãn điều kiện về tỷ lệ nợ động của VAMC. Đồng thời, Giấy phép. Sự cho phép của xấu trên tổng dư nợ dưới 3% ngày 06/9/2013, Thống đốc NHNN hay không phụ thuộc nhưng điều đó không đảm bảo NHNN đã ban hành Thông vào đánh giá của NHNN đối trong cả quý, TCTD luôn đáp tư số 19/2013/TT-NHNN tạo với sự cần thiết cho các TCTD ứng điều kiện này. Điều đó có hành lanh pháp lý cho hoạt tham gia mua nợ xấu của các nghĩa những nguy cơ tiềm ẩn động mua bán nợ xấu của TCTD và khả năng thực tế của rủi ro đối với các TCTD này VAMC. mỗi TCTD khi nộp hồ sơ xin không hề nhỏ. Khác với hoạt động mua nợ phép mua nợ xấu tới NHNN. Ngoài ra, mua bán nợ xấu của xấu của các chủ thể khác, Điều đó có nghĩa, NHNN vẫn các TCTD khác với các hoạt VAMC có một quy chế pháp đang áp dụng cơ chế hành động mua bán thông thường, lý điều chỉnh riêng thể hiện ở chính xin cho đối với hoạt điển hình là thời gian để thực một số đặc trưng sau đây: động này. Từ đó ảnh hưởng hiện xong một hợp đồng mua Một là, về chủ sở hữu: VAMC trực tiếp tới khả năng tham gia bán nợ xấu từ khâu gặp gỡ là doanh nghiệp đặc biệt thuộc mua nợ xấu của các TCTD. giữa các bên cho tới việc sở hữu Nhà nước. Đặc điểm Hai là, TCTD muốn mua nợ chuyển giao nợ xấu và nhận này giúp VAMC có “những xấu phải có tỷ lệ nợ xấu trên thanh toán của các bên nhiều quyền năng” khi thực hiện tổng dư nợ nằm trong ngưỡng khi phải mất vài tháng đến vài hoạt động mua nợ xấu của các an toàn tối thiểu (dưới 3%). quý hoặc thậm chí nhiều hơn. TCTD. Tuy nhiên, hạn chế của Đây được coi là điều kiện tiên Trong khi đó, việc phân loại VAMC khi thuộc sở hữu của quyết nhằm đảm bảo an toàn nợ để xem xét TCTD thỏa mãn Nhà nước là chịu sự chi phối cho hoạt động của các TCTD. điều kiện về tỷ lệ nợ xấu trên và can thiệp của Nhà nước khi Tuy nhiên, với sự thiếu thống tổng dư nợ dưới 3% hay không thực hiện việc mua bán nợ xấu nhất giữa NHNN và các TCTD đang được thực hiện hàng quý. trên thị trường, hay VAMC trong việc áp dụng các quy Điều này sẽ gây không ít khó giống như một công cụ hành định của pháp luật về phân khăn cho các TCTD khi đàm chính của cơ quan công quyền loại và xếp hạng nợ xấu hiện phán để mua nợ xấu của các nhằm can thiệp vào thị trường. nay, việc xem xét TCTD có TCTD khác, vì có thể tại thời Chính vì vậy, hoạt động của thỏa mãn điều kiện về tỷ lệ nợ điểm đàm phán, TCTD thỏa VAMC được xem là một giải xấu hay không sẽ căn cứ trên mãn điều kiện về tỷ lệ nợ xấu pháp chính trị nhiều hơn là đánh giá của NHNN đối với khi đàm phán thành công, triển một công cụ kinh tế nhằm giải mỗi TCTD hay kết quả tự đánh khai giao kết và thực hiện hợp quyết triệt để nợ xấu của các giá của bản thân TCTD? đồng, TCTD không còn thỏa TCTD. Vì vậy, các quan hệ Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu trên mãn. Đây là những vấn đề cấp mua bán nợ xấu giữa VAMC tổng dư nợ của các TCTD bách cần được NHNN xem xét và các TCTD có sự méo mó không cố định, mà luôn có sự và giải quyết nhằm phát huy nhất định, chưa hoàn toàn biến động theo tình hình kinh được vai trò của chủ thể này tuân theo các quy luật của thị doanh, trong khi theo quy định trên thị trường mua bán nợ trường. Tuy nhiên, bài học của pháp luật, ít nhất mỗi quý xấu. thực tiễn từ quá trình giải một lần, trong 15 (mười lăm) quyết nợ xấu ở các nước Đông ngày đầu tiên của tháng đầu b. Công ty Quản lý tài sản Á và Đông Nam Á trong cuộc tiên của mỗi quý, TCTD thực của các tổ chức tín dụng Việt khủng hoảng năm 1997 cho hiện việc phân loại nợ và gửi Nam thấy, sự can thiệp này của Nhà kết quả lên CIC, ngoài thời Ở Việt Nam, để giải quyết nước vào thị trường hết sức 46 Số 186- Tháng 11. 2017 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
- CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ cần thiết giúp giải quyết nhanh lớn hay nhỏ phụ thuộc hoàn tắt là nợ và tài sản tồn đọng), chóng tình trạng nợ xấu tăng toàn vào nguồn vốn cấp từ góp phần lành mạnh hoá tình cao trong hệ thống ngân hàng. Ngân sách Nhà nước (NSNN). hình tài chính doanh nghiệp, Hai là, về hình thức pháp lý. Trong khi, để giải quyết số thúc đẩy quá trình sắp xếp và Theo quy định tại khoản 2 nợ xấu khổng lồ của hệ thống chuyển đổi DNNN. Điều 3 Nghị định số 53/2013/ ngân hàng, đòi hỏi nguồn vốn Mặc dù có chức năng tham NĐ-CP: “Công ty Quản lý của VAMC rất lớn. Đây thực gia mua nợ xấu của các TCTD tài sản là doanh nghiệp đặc sự là một vấn đề của Việt nhưng khả năng mua nợ xấu thù, được tổ chức dưới hình Nam, bởi khoảng chục năm trở thực tế của DATC rất hạn thức công ty trách nhiệm hữu lại đây, NSNN luôn rơi vào chế. Sự hạn chế này một mặt hạn một thành viên, do Nhà tình trạng bội chi, do rất nhiều xuất phát từ sự thiếu mặn mà nước sở hữu 100% vốn điều các nguyên nhân khách quan của các TCTD đối với khả lệ và chịu sự quản lý nhà và chủ quan khác nhau. Chính năng mua nợ xấu của DATC, nước, thanh tra, giám sát của vì vậy, để trích một khoản tiền mặt khác vì thiếu cơ sở pháp NHNN”. lớn từ NSNN làm vốn cho hoạt lý cho DATC tham gia vào Như vậy, giống như các công động của VAMC thực sự là thị trường mua bán nợ xấu T hực tế chỉ ra không chỉ có Việt Nam, việc tổ chức công ty mua bán nợ quốc gia hoạt động dưới hình thức công ty TNHH một thành viên đã từng được áp dụng rất thành công tại một số nước như Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia… Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của mô hình này đó chính là quy mô vốn. ty mua bán nợ chuyên nghiệp một bài toán khó. của các TCTD, bởi đối tượng đã tồn tại trên thị trường như DATC tập trung giải quyết công ty mua bán nợ trực thuộc c. Công ty TNHH mua bán là các “khoản nợ đọng”, “nợ Bộ Tài chính (DATC) hay các nợ Việt Nam (DATC) xấu” của các DNNN nói chung AMC, VAMC là doanh nghiệp Ở Việt Nam, DATC là Công và ngân hàng thương mại Nhà đặc biệt hoạt động dưới hình ty đầu tiên mang tầm quốc gia nước nói riêng. thức công ty TNHH một thành của Việt Nam về mua bán nợ Như vậy, thực tế vai trò và sự viên. và tài sản tồn đọng của doanh tham gia các DATC vào quan Thực tế chỉ ra không chỉ có nghiệp. DATC ra đời theo hệ mua bán nợ xấu phát sinh Việt Nam, việc tổ chức công Quyết định số 109/2003/QĐ- từ hoạt động cho vay của các ty mua bán nợ quốc gia hoạt TTg của Thủ tướng Chính phủ TCTD không đáng kể. động dưới hình thức công ngày 05/6/2003, với vốn điều ty TNHH một thành viên đã lệ 2.000 tỷ VND do NSNN cấp d. Các công ty quản lý nợ và từng được áp dụng rất thành và chính thức đi vào hoạt động khai thác tài sản trực thuộc công tại một số nước như Thái từ ngày 01/01/2004, được các TCTD Lan, Trung Quốc, Indonesia, công nhận doanh nghiệp Nhà Ở Việt Nam, các AMC trực Malaysia… Tuy nhiên hạn nước (DNNN) hạng đặc biệt thuộc các TCTD là loại chủ chế lớn nhất của mô hình này theo Quyết định số 55/2004/ thể chủ yếu và đầu tiên tham đó chính là quy mô vốn. Đối QĐ-TTg ngày 06/4/2004 của gia vào hoạt động mua bán nợ với VAMC, đây không phải Thủ tướng Chính phủ với mục xấu của các TCTD. Đây chính là ngoại lệ. VAMC là công ty tiêu xử lý các khoản nợ tồn là các công ty con của các TNHH một thành viên do Nhà đọng và tài sản không cần TCTD được thành lập ra để nước là chủ sở hữu. Vì vậy, dùng, chờ thanh lý, vật tư ứ thực hiện hoạt động mua bán, quy mô vốn hoạt động VAMC đọng, kém, mất phẩm chất (gọi xử lý các khoản nợ của chính Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 186- Tháng 11. 2017 47
- CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ các TCTD mẹ. quyền. Vì vậy cơ chế ra quyết nhiên tỷ lệ nợ xấu tại các ngân Việc thành lập các AMC để định của AMC tư nhân nhanh hàng vẫn có xu hướng tăng. xử lý được các TCTD đặc biệt chóng hơn rất nhiều. Nguyên nhân được đưa ra là quan tâm bởi mỗi TCTD có Hai là, về hình thức pháp lý: còn thiếu quy chế pháp lý để một chính sách, hệ thống và Tất cả các AMC đều được tổ xây dựng một thị trường mua quy trình quản lý rủi ro khác chức dưới hình thức công ty bán nợ quy mô, trong đó kết nhau. Trong khi đó, tốc độ TNHH một thành viên do tổ nối các AMC tư nhân thành tăng trưởng về quy mô cũng chức là chủ sở hữu. Ưu điểm một hệ thống có sự liên kết như dư nợ tín dụng của các của mô hình là tính tập trung chặt chẽ, chứ không phải như TCTD ngày càng tăng cao, quyền lực cao, dễ quản lý và thực tế hiện nay, đó là AMC việc xử lý nợ xấu đòi hỏi phải đưa ra các quyết định. Tuy của ngân hàng nào thì mua bán có bộ máy chuyên nghiệp thực nhiên, hạn chế của mô hình nợ của ngân hàng đó. AMC rất hiện với tư cách là một doanh này là khả năng huy động vốn khó tiếp cận các khoản nợ của nghiệp có tư cách pháp nhân thấp, hay có thể nói nguồn các ngân hàng khác, kể các các nhằm hỗ trợ TCTD về công tác vốn hoạt động của các AMC ngân hàng đó chưa thành lập quản lý nợ và khai thác tài sản. phụ thuộc hoàn toàn vào năng AMC của riêng mình. Bên cạnh đó, những hạn chế lực tài chính của TCTD mẹ, Bên cạnh đó, một trong những của Luật các TCTD 2010 đối từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới nguyên nhân được nhắc đến với hoạt động kinh doanh bất khả năng tiếp cận và xử lý các cho sự hạn chế của các AMC, động sản của các TCTD cũng khoản nợ của các AMC. đó là quy mô vốn của các là một động lực thúc đẩy các Ba là, về mục đích hoạt động: AMC với quy mô nợ xấu tại TCTD tập trung xây dựng và Nhằm chuyên nghiệp hoạt các ngân hàng rất nhỏ. Từ đó phát triển mô hình AMC1. động quản lý, xử lý nợ quá hạn ảnh hưởng trực tiếp tới khả Theo quy định của pháp luật của toàn hệ thống; xử lý nhanh năng mua nợ của các ngân hiện hành, khi mua nợ xấu của chóng các khoản nợ góp phần hàng khác. Tuy nhiên, khi nhìn các TCTD, các AMC có những tạo dựng hệ thống tài chính sang một số nước như Thái đặc trưng sau đây: lành mạnh cho TCTD. Bên Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc Một là, về chủ sở hữu: Các cạnh đó, các AMC cũng hướng trong cuộc khủng hoảng kinh AMC đều được thành lập bởi tới mục tiêu tìm kiếm lợi tế năm 1997 cho thấy rằng, 100% vốn của TCTD. Điều nhuận từ việc mua và bán các ngay tại các nước có cơ cấu này giúp AMC có khả năng khoản nợ xấu của các TCTD kinh tế phát triển, quy chế tiếp cận các khoản nợ xấu của khác trên thị trường. pháp lý tương đối hoàn chỉnh TCTD mẹ cực kỳ đơn giản, Bốn là, về nguyên tắc, các như Thái Lan và Hàn Quốc, đồng thời được TCTD hỗ trợ AMC tư nhân chỉ được mua vai trò của các AMC tại các lớn về mặt tài chính, nhân nợ của TCTD khác khi TCTD nước này cũng hết sức mờ lực, chuyên môn và thương mẹ có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, nhạt. Thậm chí Trung Quốc hiệu. Ngoài ra, ưu thế vượt trừ trường hợp mua nợ theo còn không thành lập các AMC M ặc dù đã có quy chế pháp lý tương đối đồng bộ, tuy nhiên vai trò của các AMC trên thị trường còn hết sức mờ nhạt. trội của các AMC tư nhân so phương án tái cơ cấu đã được tư nhân trực thuộc các NHTM. với VAMC hay DATC đó là phê duyệt2. không chịu sức ép và sự can Mặc dù hầu hết các ngân hàng e. Các doanh nghiệp kinh thiệp từ phía các cơ quan công lớn đều thành lập AMC, tuy doanh dịch vụ mua bán nợ Doanh nghiệp kinh doanh 1 Xem thêm: Điều 133 Luật các 2 Khoản 8 Điều 5 Thông tư 09/2015/ dịch vụ mua bán nợ là chủ thể TCTD năm 2010. TT-NHNN. 48 Số 186- Tháng 11. 2017 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
- CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ đặc biệt, được thành lập trong AMCs thực hiện. Các doanh khả năng thanh toán trực tiếp nỗ lực xây dựng thị trường nghiệp khác chỉ có thể tham bằng tiền mặt cho các TCTD, mua bán nợ của Chính phủ gia đấu giá các tài sản đảm phù hợp với nhu cầu của các và TCTD. Theo đó, loại hình bảo của TCTD mà VAMC hay TCTD khi quyết định bán nợ doanh nghiệp này tập trung bản thân các TCTD mang ra xấu. Tuy nhiên, trên thực tế, vào việc mua bán các khoản bán đấu giá. các TCTD lại không hề mặn nợ xấu phát sinh trong hoạt Như vậy, doanh nghiệp kinh mà khi lựa chọn phương án động cho vay của các TCTD. doanh dịch vụ mua bán nợ bán nợ xấu cho các tổ chức cá Theo Điều 5, 7 Nghị định hứa hẹn là bên mua nợ chuyên nhân vì sự bảo mật thông tin 69/2016/NĐ-CP, điều kiện để nghiệp, có khả năng tiếp cận trong hoạt động của các TCTD doanh nghiệp kinh doanh dịch và thu hồi các khoản nợ xấu sẽ bị phá vỡ. Thực tế đó dẫn vụ mua bán nợ bao gồm: của các TCTD hiệu quả khi tới hiện trạng các TCTD chỉ - Có mức vốn điều lệ tối thiểu trở thành chủ sở hữu mới của bán nợ xấu khi tỷ lệ nợ xấu là 100 tỷ đồng. khoản nợ xấu. So với VAMC, vượt ngưỡng an toàn tối thiểu, - Doanh nghiệp phải có quy DATC và các AMC tư nhân, nhằm tránh bị NHNN áp dụng chế quản lý nội bộ về tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh dịch các biện pháp kiểm soát đặc quy định nội bộ về hoạt động vụ mua bán nợ chịu ít sự hạn biệt. Ngay cả trong trường hợp kinh doanh dịch vụ mua bán chế pháp luật và sự can thiệp đó, lựa chọn của các TCTD là nợ phù hợp với quy định của của các cơ quan công quyền, bán nợ xấu cho VAMC, chứ pháp luật. đồng thời có khả năng tiếp cận không phải các tổ chức cá - Người quản lý của doanh nợ xấu của các TCTD đa dạng nhân khác. nghiệp phải đáp ứng các điều nhất. kiện như: (1) Có đầy đủ năng 3. Khuyến nghị nâng cao lực hành vi dân sự và không f. Các tổ chức, cá nhân khác vai trò của bên mua nợ xấu thuộc đối tượng cấm quản lý Bên cạnh các công ty mua của tổ chức tín dụng trên thị doanh nghiệp theo quy định bán nợ chuyên nghiệp, các tổ trường mua bán nợ sơ cấp ở của Luật Doanh nghiệp; (2) có chức, cá nhân trong nước và Việt Nam trình độ học vấn từ đại học trở nước ngoài đều có thể mua nợ lên thuộc một trong các ngành: xấu của các TCTD. Pháp luật Một là, bổ sung điều kiện để Kinh tế, quản trị kinh doanh, hiện hành không quy định cụ TCTD được mua nợ xấu của luật hoặc lĩnh vực chuyên môn thể về các điều kiện để các các TCTD khác mà mình sẽ đảm nhận… tổ chức, cá nhân mua nợ xấu Theo qui định, TCTD chỉ được Với những điều kiện được của các TCTD như đối với các mua nợ khi được NHNN chấp pháp luật đưa ra như trên, có doanh nghiệp kinh doanh dịch thuận hoạt động mua nợ tại thể nhận thấy không quá khó vụ mua bán nợ bởi các chủ thể Giấy phép thành lập và hoạt để thỏa mãn hết các điều kiện này không mua nợ xấu của các động của TCTD và có tỷ lệ về vốn, về quy chế quản lý nội TCTD một cách thường xuyên, nợ xấu dưới 3%, trừ trường bộ, về năng lực hành vi, về liên tục như hoạt động kinh hợp mua nợ theo phương án trình độ chuyên môn và kinh doanh nghề nghiệp, mà họ tái cơ cấu đã được phê duyệt nghiệm quản lý. Điều đó có mua nợ xấu của các TCTD đối (Khoản 3 Điều 5 Thông tư nghĩa thành lập doanh nghiệp với từng trường hợp cụ thể, 09/2015/TT-NHNN). Những kinh doanh dịch vụ mua bán từng khoản nợ xấu cụ thể khi điều kiện này được xem là cần nợ không khó. Tuy nhiên khả nhận thấy cơ hội tìm kiếm lợi thiết nhằm đảm bảo sự an toàn năng mua bán nợ xấu thực tế nhuận từ các khoản nợ xấu đó. cho các TCTD khi mua nợ của chủ thể này vẫn còn là một Lợi thế của các tổ chức, cá xấu của các TCTD khác. Tuy dấu hỏi vì thực tiễn thời gian nhân trong nước và nước ngoài nhiên, những điều kiện này qua cho thấy việc mua bán nợ khi mua nợ xấu của các TCTD vẫn chưa loại trừ hết các rủi ro xấu tương đối khép kín, chủ so với các chủ thể khác là có cho các TCTD khi không tính yếu do VAMC, DATC và các nguồn vốn thực, dồi dào, có đủ tới nguồn vốn TCTD được sử Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 186- Tháng 11. 2017 49
- CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ dụng để mua nợ xấu của các tình trạng này làm cho vai động lực thúc đẩy hoạt động TCTD khác. trò và hiệu quả hoạt động của của các AMC tư nhân, chất Bởi nếu coi mua nợ xấu như các AMC tư nhân bị giảm đi xúc tác thu hút sự chú ý vào một nghiệp vụ cấp tín dụng, nghiêm trọng. Đơn cử như ở thị trường mua bán nợ của TCTD có thể sử dụng đa Thái Lan, mặc dù đã thành lập các nhà đầu tư trong và ngoài dạng các nguồn vốn, từ vốn tới 12 AMCs tư nhân trong nước. tự có tới các nguồn vốn huy giai đoạn từ năm 1997 đến Tuy nhiên, để có thể thực động như vay tái cấp vốn của năm 2000, tuy nhiên hoạt động hiện được vai trò thúc đẩy NHNN, vay trên thị trường của 12 AMCs này cực kỳ hạn thị trường mua bán nợ, trước liên ngân hàng, nguồn vốn chế và hầu như không đáp ứng tiên Chính phủ và NHNN cần huy động từ phát hành giấy được kỳ vọng của Ngân hàng xác định thời hạn tồn tại của tờ có giá hoặc thông qua việc Trung ương Thái Lan (Bank VAMC. Nếu VAMC chỉ tồn nhận tiền gửi của các cá nhân, of Thailand). Cuối cùng buộc tại nhằm giải quyết nhất thời tổ chức trong xã hội. Nếu coi nước này phải thành lập công tình trạng nợ xấu tăng cao mua nợ xấu như một loại hình ty mua bán nợ tập trung (viết trong hệ thống ngân hàng, đến đầu tư giống hoạt động góp tắt là TAMC) vào năm 2001. khi đưa nợ xấu của toàn hệ vốn, mua cổ phần, cần thiết Tương tự như vậy là trường thống về mức an toàn tối thiếu phải quy định TCTD chỉ được hợp của Hàn Quốc. Các AMC (dưới 3% trên tổng dư nợ), sử dụng vốn tự có bao gồm tư nhân đầu tiên thậm chí đã VAMC sẽ tự giải thể giống vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và ra đời từ năm 1962 nhưng hoạt như IBRA (Indonesia) đã các khoản lợi nhuận không động rất trầm lặng và không chấm dứt hoạt động năm 2004, chia để mua nợ xấu của các phát huy được vai trò của DANAHARTA (Malaysia) TCTD khác. mình. Năm 1997, khi nước này năm 2005 và TAMC (Thái Do vậy, xét về bản chất và lâm vào khủng hoảng, Ngân Lan) năm 2011, thì NHNN cần những rủi ro mà hoạt động hàng Trung ương Hàn Quốc sớm có giải pháp nhằm khơi mua bán nợ xấu có thể mang đã phải thành lập công ty mua thông hoạt động của các AMC lại cho TCTD, cần thiết bổ bán nợ tập trung của Nhà nước tư nhân. Khi VAMC hoàn sung quy định về nguồn vốn (viết tắt là KAMCO). Những thành sứ mệnh của mình và TCTD được phép sử dụng để gì đã diễn ra ở Thái Lan, Hàn chấm dứt hoạt động, mua bán mua nợ xấu của các TCTD Quốc rất giống với những gì nợ xấu trên thị trường mua bán khác, theo hướng chỉ cho phép đang diễn ra ở Việt Nam. nợ không chỉ là nghĩa vụ của TCTD sử dụng vốn tự có, Các AMC tư nhân ra đời từ rất các TCTD nhằm đảm bảo sự không được sử dụng các nguồn sớm tuy nhiên hoạt động lại an toàn, mà còn hướng tới việc vốn huy động để mua nợ xấu rất hạn chế. Khi nợ xấu trong tìm kiếm lợi nhuận. của TCTD khác. hệ thống ngân hàng tăng cao đã buộc Chính phủ và NHNN Ba là, có giải pháp tăng vốn Hai là, thúc đẩy hoạt động của phải lựa chọn giải pháp thành cho Công ty quản lý tài sản các AMC tư nhân lập VAMC. Mặc dù sự ra đời (VAMC) Khi nhắc đến thị trường mua của VAMC đã làm lu mờ hình Theo quy định của pháp luật bán nợ xấu của các TCTD ở ảnh và vai trò của các AMC hiện hành, VAMC hoạt động mỗi quốc gia, điểm nhấn được tư nhân trong giải pháp được với hình thức pháp lý là công các nhà đầu tư quan tâm chính NHNN lựa chọn để mua bán ty TNHH một thành viên do là hoạt động của AMCs tư nợ xấu trên thị trường. Tuy Nhà nước là chủ sở hữu, vì nhân, hay các công ty mua bán nhiên, nhìn nhận trên góc độ vậy, để tăng vốn cho VAMC, nợ chuyên nghiệp. Tuy nhiên, khách quan, có thể thấy rằng con đường chủ yếu vẫn là tăng hầu hết các AMC tư nhân đều sự ra đời của VAMC đã góp nguồn cấp vốn từ NSNN. Tuy hoạt động riêng lẻ, chưa kết phần quan trọng vào việc hoàn nhiên, nhìn vào thực trạng nối thành một hệ thống như thiện thể chế thị trường mua NSNN ở nước ta hiện nay, đây hệ thống ngân hàng. Chính bán nợ xấu ở Việt Nam, là không phải là giải pháp khả 50 Số 186- Tháng 11. 2017 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
- CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ thi. Ngay cả đối với những đích “lấy thu bù chi” và phi lợi hiện theo các giai đoạn với nước có nền kinh tế phát triển nhuận sẽ rất khó để VAMC lôi mức chào bán cổ phần khác và NSNN dồi dào hơn chúng kéo được nguồn vốn ủy thác nhau nhưng vẫn giữ tỷ lệ cổ ta, thực tiễn cho thấy vốn từ của các nhà đầu tư. Trong khi phần chi phối của Nhà nước NSNN chiếm tỷ lệ rất nhỏ các kênh huy động vốn này trong VAMC. trong nguồn vốn hoạt động của không mấy khả thi thì việc sử mô hình công ty mua bán nợ dụng nguồn vốn từ các quỹ 4. Kết luận tập trung. Những phân tích này được trích lập theo quy định cho thấy, tăng vốn cho VAMC của pháp luật hoặc các công Để giải quyết triệt để tình không phải là bài toán dễ có cụ tài chính theo quy định của trạng nợ xấu của hệ thống lời giải, mặc dù đây là yêu cầu pháp luật để huy động nguồn TCTD, giải pháp trọng tâm cấp bách hiện nay. vốn cũng không thể mang tới cần được Chính phủ và NHNN Theo khoản 5 Điều 1 Quyết cho VAMC nguồn vốn thực hướng đến là phát triển thị định số 618/QĐ-NHNN đủ lớn để mua nợ xấu của các trường mua bán nợ sơ cấp ngày 12/4/2016 của NHNN, TCTD. Chính vì vậy, vốn điều hoạt động theo cơ chế của thị bên cạnh vốn điều lệ được cấp, lệ được cấp từ NSNN vẫn là trường, trong đó tập trung vào VAMC có thể sử dụng các nguồn vốn chính để VAMC việc minh bạch hóa các thông nguồn sau đây: (i) Được xem mua nợ từ các TCTD. tin về nợ xấu và đa dạng hóa xét, hợp tác với các tổ chức tài Trong trường hợp này, thu hút các chủ thể mua nợ xấu của chính quốc tế theo nguyên tắc nguồn vốn của các tổ chức tài các TCTD. Việc đa dạng hóa chia sẻ lợi ích và rủi ro (chi chính quốc tế hoặc các nhà đầu các chủ thể mua nợ xấu của phí và lợi nhuận từ mua, xử lý tư trong và ngoài nước thông các TCTD giữ vai trò then nợ sẽ được chia theo tỷ lệ của qua việc cổ phần hóa VAMC chốt trong việc tháo gỡ những các bên) để thu hút nguồn vốn có thể là một giải pháp mang nút thắt của hoạt động xử lý và kinh nghiệm định giá, xử tính cách mạng. Những giá trị nợ xấu của hệ thống TCTD. lý các khoản nợ xấu mua theo tích cực mà chúng ta có thể dễ Ở đó, cần phải xác định rõ vai giá trị thị trường; (ii) được tiếp dàng nhận thấy thông qua con trò của mỗi chủ thể trên thị nhận các nguồn vốn ủy thác đường này chính là huy động trường. VAMC mặc dù đóng của các nhà đầu tư để mua nợ được nguồn vốn lớn của các góp vai trò cực kỳ quan trọng theo giá thị trường; (iii) được tổ chức tài chính quốc tế hoặc nhưng chỉ mang tính thời sử dụng nguồn vốn từ các quỹ các nhà đầu tư, qua đó nâng điểm, vai trò trọng tâm trong được trích lập theo quy định cao năng lực mua nợ xấu theo việc mua bán nợ xấu của các của pháp luật hoặc các công giá trị thị trường của VAMC TCTD trên thị trường sơ cấp cụ tài chính theo quy định của trong khi giảm tải được những phải thuộc về các AMC trực pháp luật để huy động nguồn áp lực lên NSNN. Ngoài ra, thuộc các TCTD và các doanh vốn cho việc mua bán nợ theo khi các tổ chức tài chính quốc nghiệp kinh doanh hoạt động giá thị trường. tế hoặc các nhà đầu tư tham mua bán nợ. Vì vậy, Chính Tuy nhiên, để tiếp cận được gia đầu tư vốn vào VAMC, phủ và NHNN cần tập trung các nguồn vốn hợp tác với chúng ta còn có cơ hội để tận vào các giải pháp nhằm thúc các tổ chức tài chính quốc dụng kinh nghiệm mua bán nợ đẩy hoạt động hiệu quả của tế không hề đơn giản vì việc xấu cũng như năng lực chuyên các chủ thể này, bên cạnh việc đánh giá nợ xấu ở Việt Nam môn của các chủ thể này. Tuy tiếp tục phát huy vai trò của chưa thực chất, trong khi quy nhiên, để đảm bảo vai trò VAMC trong việc giải quyết chế pháp lý chưa đầy đủ và điều tiết của Nhà nước, việc nợ xấu của các TCTD. ■ đồng bộ. Bên cạnh đó, với mục cổ phần hóa VAMC nên thực Tài liệu tham khảo 1. Chính phủ (2012), Nghị định số 53/2012/NĐ-CP ngày 18/5/2013 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 186- Tháng 11. 2017 51
- CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 2. Chính phủ (2015), Nghị định số 69/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ. 3. LI Jiangfeng (2013), “Non-Performing Loans and Asset Management Companies in China: Legal and Regulatory Challenges for Achieving EffectiveDebt Resolution and Recovery”, Peking University School of Transnational Law. 4. Masahiro Inoguchi (2012), “Nonperforming loans and public asset management companies in Malaysia and Thailand”, No. 398. 5. Nguyễn Thị Thu Hằng (2013), “Nợ xấu ngân hàng Việt Nam: Một năm nhìn lại”, Tạp chí Ngân hàng, số 6, năm 2013. 6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 quy định về mua, bán và xử lý nợ xấu của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam. 7. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2015), Thông tư số 09/2015/TT-NHNN ngày 17/7/2015 quy định về hoạt động mua, bán nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tin tác giả Hoàng Văn Thành, Thạc sĩ Khoa Luật, Học viện Ngân hàng Email: thanhhv@hvnh.edu.vn Summary Enhance the role of bad debt buyers towards building a primary debt trading market in Vietnam Over the past few years, impacts of bad debt problems has directly influenced in development of the banking system and the economy. To address this situation, diversification of bad debt purchasers in the primary market is being considered as one of the key solutions by the Government and the State Bank of Vietnam. Accordingly, credit institutions may choose to sell bad debts to other credit institutions, professional debt trading companies such as VAMC, DATC, AMCs, Debt trading service companies or Domestic and foreign organizations and individuals who have demand. Each debt buyer has its own legal characteristics as well as advantages. However, it can easily be seen that the Asset Management Company of Vietnam Credit Institutions (VAMC) is playing a key role. At the same time, they will also orient the activities of other debt purchasers in buying bad debts of credit institutions. However, in order to further promote the role of these entities, the Government and the State Bank of Vietnam should consider measures to increase VAMC’s capital to increase their ability to buy bad debts at market price, or it can be focused in the private AMC to create a systematic link among these AMCs, thereby increasing accessibility to bad loans by banks. These solutions should be carried out to establish of the bad debt trading market in Vietnam gradually. Key word: bad debt, bad debt purchase, bad debt trading market. Thanh Van Hoang, LLM Law faculty, Banking Academy 52 Số 186- Tháng 11. 2017 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Những biện pháp nhằm nâng cao vai trò điều tiết lãi suất của NHNN trên Thị trường tiền tệ
6 p | 456 | 271
-
Kiểm toán môi trường vì sự phát triển bền vững
5 p | 63 | 21
-
Ngân hàng chính sách xã hội góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, đảm bảo an sinh xã hội và xây dựng nông thôn mới vùng ĐBSCL
4 p | 114 | 13
-
Kiểm toán nhà nước, lực lượng nòng cốt thực hiện kiểm toán môi trường
6 p | 22 | 12
-
Tăng cường vai trò của Ngân hàng Hợp tác xã trong phát triển bền vững hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam
14 p | 94 | 10
-
Giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý ngân sách nhà nước tại Sở Tài chính tỉnh Long An
8 p | 27 | 6
-
Nâng cao chất lượng thông tin kế toán quản trị chi phí tại các doanh nghiệp dược phẩm niêm yết khi áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)
5 p | 15 | 5
-
Chuỗi cung ứng xanh trong việc nâng cao năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
12 p | 18 | 4
-
Vai trò của báo cáo tích hợp trong quản lý phát triển bền vững doanh nghiệp
8 p | 81 | 4
-
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Thái Nguyên
7 p | 124 | 4
-
Kinh nghiệm giám sát tài chính doanh nghiệp nhà nước tại một số nước
3 p | 47 | 3
-
Thực thi kế toán quản trị trong các doanh nghiệp siêu nhỏ hiện nay
3 p | 28 | 3
-
Nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chia sẻ tri thức của nhân viên lĩnh vực tài chính - ngân hàng
4 p | 54 | 2
-
Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động và người sử dụng lao động
6 p | 17 | 1
-
Tài chính toàn diện - Vai trò và nhân tố tác động
7 p | 42 | 1
-
Báo cáo phát triển bền vững và vai trò của kiểm soát nội bộ trong việc đảm bảo chất lượng thông tin
10 p | 6 | 1
-
Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán - Kỳ 2 tháng 8 (số 246) - 2023
96 p | 6 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn