YOMEDIA
ADSENSE
Nét đặc sắc về trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh
95
lượt xem 7
download
lượt xem 7
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nhân cách Hồ Chí Minh là những phẩm chất và năng lực của một anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà hoạt động chính trị, lãnh tụ của Đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam. Một trong những biểu hiện của đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh là sự uyên bác về trí tuệ, được biểu hiện qua mẫn cảm chính trị, nhãn quan chính trị thiên tài và khả năng dự báo thiên tài về các vấn đề liên quan đến cách mạng Việt Nam.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nét đặc sắc về trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh
NÉT ĐẶC SẮC VỀ TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH<br />
NGUYỄN VĂN QUANG<br />
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Nhân cách Hồ Chí Minh là những phẩm chất và năng lực của một<br />
anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà hoạt động chính trị, lãnh<br />
tụ của Đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam. Một trong những biểu hiện của<br />
đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh là sự uyên bác về trí tuệ, được biểu hiện<br />
qua mẫn cảm chính trị, nhãn quan chính trị thiên tài và khả năng dự báo<br />
thiên tài về các vấn đề liên quan đến cách mạng Việt Nam.<br />
Từ khóa: nhân cách, Hồ Chí Minh, trí tuệ<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc của cách mạng Việt Nam,<br />
mà còn là một chiến sĩ cống hiến không mệt mỏi cho hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa<br />
các dân tộc; một nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà văn hóa ghi dấu ấn trong lịch sử phát<br />
triển nhân loại… Nhân cách Hồ Chí Minh được kết tinh từ truyền thống văn hóa - giáo<br />
dục của gia đình, quê hương, đất nước; từ sự tác động đa chiều của điều kiện văn hóa, xã<br />
hội, lịch sử và con người của dân tộc và thời đại; từ giáo dục của nhà trường và quá trình<br />
tự giáo dục của bản thân, sự khổ công tu dưỡng, rèn luyện; từ tư chất, năng lực của con<br />
người Hồ Chí Minh; từ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, của các học thuyết, tư<br />
tưởng tiến bộ của nhân loại; từ gương sáng của các nhà hoạt động chính trị tiến bộ, nhà<br />
văn hóa trên thế giới.<br />
Nhân cách Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình tự ý thức về sứ mệnh của chính mình<br />
mà nền giáo dục, trước hết là gia đình với người cha giàu lòng yêu nước, điều kiện sống<br />
của môi trường và xã hội xung quanh, không khí tư tưởng - chính trị đương thời ở một<br />
xứ sở bao giờ cũng sôi sục ý chí kiên cường bất khuất. Nhân cách Hồ Chí Minh được<br />
định hình, bồi đắp và không ngừng hoàn thiện trong cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ<br />
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người để hướng<br />
con người tới giá trị chân, thiện, mỹ.<br />
Với những đặc trưng về trí tuệ, phẩm chất, năng lực và phong cách, nhân cách Hồ Chí<br />
Minh có giá trị to lớn trong việc soi sáng con đường phát triển của dân tộc, định hướng<br />
xây dựng con người mới và sự tu dưỡng không ngừng nghỉ của nhiều thế hệ người Việt<br />
Nam. Nhân cách bao gồm nhiều mặt, tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi tập trung<br />
vào mặt trí tuệ của nhân cách Hồ Chí Minh.<br />
2. TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH<br />
2.1. Nhân cách<br />
Nhân cách là một chủ đề được nghiên cứu từ rất sớm ở cả phương Đông và phương<br />
Tây. Khổng Tử quan niệm về nhân cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 02(34)/2015: tr. 105-113<br />
<br />
106<br />
<br />
NGUYỄN VĂN QUANG<br />
<br />
Trong đó Nhân là gốc. Ở phương Tây, B.G.Ananhiep cho rằng nhân cách là cá thể có<br />
tính chất xã hội, là khách thể và chủ thể của từng bước tiến lịch sử. Học giả<br />
X.L.Rubinstein coi nhân cách là ý thức và thái độ của chủ thể đối với thế giới xung<br />
quanh, người khác và chính bản thân.<br />
Ở Việt Nam, thuật ngữ nhân cách được luận giải theo nhiều góc độ khác nhau: (1) Nhân<br />
cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng lực hoặc là con<br />
người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động); (2) Nhân cách được hiểu như<br />
các phẩm chất và năng lực của con người; (3) Nhân cách được hiểu như phẩm chất của<br />
con người mới: làm chủ, yêu nước, nhân ái, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động;<br />
(4) Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người… Trong<br />
công trình Tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn xác định nhân cách là tổ hợp<br />
những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội<br />
của con người. Nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể của con người<br />
mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên<br />
bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Từ điển tiếng Việt<br />
ghi rõ nhân cách là “tư cách và phẩm chất con người” và “phẩm chất” đó được Hồ Chí<br />
Minh nêu rõ là các “tư cách của người cách mạng với 23 điều ngắn gọn, thuộc về ba<br />
cách ứng xử của người cách mạng với: chính bản thân, với người khác và với công việc.<br />
Từ sự luận dẫn các quan niệm, quan điểm nêu trên, có thể khẳng định: Nhân cách là hệ<br />
thống những phẩm giá của một người được hình thành và phát triển trong tương tác<br />
giữa con người với xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất<br />
bên trong con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.<br />
2.2. Nhân cách Hồ Chí Minh<br />
Dưới góc độ tâm lý học, “Nhân cách của Hồ Chí Minh không tách rời quá trình hình sự<br />
tự ý thức, ý thức về sứ mệnh của chính mình mà nền giáo dục, trước hết là ở gia đình<br />
với người cha giàu lòng yêu nước, điều kiện sống của môi trường và xã hội xung quanh,<br />
không khí tư tưởng - chính trị đương thời ở một xứ sở bao giờ cũng sôi sục ý chí kiên<br />
cường bất khuất” [7, tr. 8]. Theo cách tiếp cận này, nhân cách Hồ Chí Minh có thể hiểu<br />
là “sự tự ý thức về bản thân mình đối với cuộc sống do những tác động đa chiều của<br />
thực tiễn xã hội”. Nhà nghiên cứu Mạch Quang Thắng khái quát Nhân cách Hồ Chí<br />
Minh là: “chuẩn mực giá trị của dân tộc Việt Nam và thời đại Hồ Chí Minh”. Nhà văn<br />
học Đức Eđuard Claudius (1911-1976) cho rằng nhân cách Hồ Chí Minh là sự thống<br />
nhất giữa tư tưởng và hành động, sự thống nhất giữa hoạt động và nhân cách chính trị<br />
với thái độ rất giản dị, khiêm tốn, nhân hậu.<br />
Xét về nội dung, nhân cách Hồ Chí Minh được biểu hiện qua các biểu hiện như: Ưu tiên<br />
đạo đức; Tận tụy quên mình; Kiên trì, bất khuất; Khiêm tốn, giản dị; Hài hòa, kết hợp;<br />
Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý; Yêu thiên nhiên, hòa hợp với<br />
thiên nhiên. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi viết về nhân cách Hồ Chí Minh đã nêu<br />
lên một nội dung quan trọng - một thuật ngữ khoa học là “chất Người” trong nhân cách<br />
Hồ Chí Minh. Theo Phạm Minh Hạc, nhân cách Hồ Chí Minh chính là 23 giá trị nhân<br />
<br />
MỘT VÀI NÉT ĐẶC SẮC CỦA NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH...<br />
<br />
107<br />
<br />
cách đúc kết trong những thành tố tiểu cấu trúc nhân cách bao gồm: “Tâm, tài, lực”…<br />
về sau khái quát thành lý thuyết “cấu trúc vĩ mô của nhân cách bao gồm tài, đức”, trong<br />
đó đức là gốc.<br />
Từ các cách tiếp cận nhân cách Hồ Chí Minh nêu trên, có thể hiểu: Nhân cách Hồ Chí<br />
Minh là những phẩm chất, năng lực, lý tưởng, ý chí kiên cường, trí tuệ sáng suốt và tầm<br />
nhìn xa của một nhà chính trị thiên tài, có sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ đối với quần<br />
chúng, được thể hiện qua phong cách, lối sống của Người. Nhân cách Hồ Chí Minh là<br />
biểu trưng sáng ngời về phẩm chất và năng lực con người Việt Nam.<br />
2.3. Trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh<br />
Cho đến nay, các nhà khoa học Việt Nam và thế giới tiếp cận nhân cách Hồ Chí Minh tập<br />
trung chủ yếu vào khía cạnh “đạo đức” - phần “phẩm chất” nhiều hơn là khía cạnh “trí<br />
tuệ” - phần “năng lực”. Do đó, hiện nay vẫn chưa có khái niệm “nhân cách Hồ Chí Minh<br />
về trí tuệ”, cũng như chưa xác định nội hàm “trí tuệ” trong nhân cách Hồ Chí Minh.<br />
Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, Người không chỉ sáng ngời<br />
về phẩm chất đạo đức, phương pháp, phong cách và lối sống, mà còn là hình tượng mẫu<br />
mực về trí tuệ uyên bác, nhãn quan sắc bén và am tường nhiều giá trị văn hóa dân tộc và<br />
thế giới.<br />
Từ khái niệm nhân cách (2.1) và nhân cách Hồ Chí Minh (2.2), ta có thể hiểu trí tuệ trong<br />
nhân cách Hồ Chí Minh là những năng lực đặc biệt của Hồ Chí Minh, được thể hiện qua<br />
sự uyên bác về trí tuệ, lối tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, mẫn cảm với cái mới, khả năng<br />
tiếp biến và thâu hóa các giá trị văn hóa, nhãn quan chính trị sắc bén và tầm nhìn chiến<br />
lược của một thiên tài.<br />
3. NÉT ĐẶC SẮC VỀ TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH<br />
Nét đặc sắc về trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh được thể hiện rất phong phú. Từ kết<br />
quả nghiên cứu, chúng tôi khái quát những nội dung như: sự uyên bác về trí tuệ, nhãn<br />
quan chính trị sắc bén; mẫn cảm với cái mới, khả năng thâu hóa các giá trị tinh hoa văn<br />
hóa dân tộc và nhân loại; khả năng dự báo và nắm vững quy luật vận động của cách<br />
mạng Việt Nam…<br />
3.1. Trí tuệ mẫn tiệp, nhãn quan chính trị thiên tài trong việc lựa chọn con đường<br />
cứu nước, giải phóng dân tộc<br />
Với khả năng tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nhãn quan chính trị thiên tài, Hồ Chí<br />
Minh đã vượt qua “sự hạn chế” về tầm nhìn và phương pháp đấu tranh của các chí sĩ<br />
như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… trong việc tìm kiếm con đường cứu nước và<br />
giải phóng dân tộc. Người đã xác định đúng phương hướng và phương thức cứu nước,<br />
kiên trì và dũng cảm thực hiện lý tưởng cao đẹp giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh<br />
phúc cho nhân dân.<br />
Ở độ tuổi thanh thiếu niên, Hồ Chí Minh đã chứng kiến những làn sóng đấu tranh mạnh<br />
mẽ của dân tộc, từ bậc vua quan trung thần, nghĩa sĩ cho đến quần chúng nhân dân đang<br />
<br />
108<br />
<br />
NGUYỄN VĂN QUANG<br />
<br />
bị đọa đày đau khổ. Năm 1908, Người thấy rõ hạn chế “chưa biết tổ chức và chưa có tổ<br />
chức” từ sự thất bại của phong trào kháng thuế của nhân dân Trung kỳ. Thất bại của các<br />
cuộc kháng Pháp do các sĩ phu yêu nước khởi xướng, đến xu hướng cứu nước mới của<br />
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đã giúp Hồ Chí Minh thấy con đường cách mạng,<br />
phương pháp đấu tranh của các bậc tiền bối không phù hợp với thực tiễn cách mạng<br />
Việt Nam, ý thức hệ phong kiến và tư sản “không có khả năng vạch ra giải pháp đấu<br />
tranh phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại”. Hồ Chí Minh<br />
khâm phục họ nhưng không tán thành con đường cứu nước nào, cũng như từ chối con<br />
đường Đông Du theo lời mời gọi của cụ Phan Bội Châu vào năm 1905, vì theo Hồ Chí<br />
Minh, con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách phong kiến đã<br />
không thể dẫn tới thắng lợi, con đường cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu chẳng<br />
khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn con đường cải lương của Phan Châu<br />
Trinh chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Đúng như Trần Văn Giàu nhận định<br />
“Nguyễn Tất Thành không đi Phồn Xương, tuy đó là con đường ngắn nhất. Không đi<br />
Nhật, tuy có các bậc chú bác khuyến khích. Không đi Hoa Nam, tuy ở đó có cách mạng<br />
Tân Hợi đang bước vào giai đoạn “cử đồ đại sự”. Trong ba đường ấy, Nguyễn Tất<br />
Thành không chịu một con đường nào” [1, tr. 81].<br />
Từ sự phân tích trên ta có thể thấy, Hồ Chí Minh có một “cái nhìn khác”, một nhãn quan<br />
đầy sức phê phán trong nhận thức về kẻ thù và con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.<br />
Hồ Chí Minh đã mạnh dạn “khước từ” cái sai để đi tìm cái đúng, từ chối, từ bỏ cái lạc<br />
hậu, lỗi thời để đi tìm cái tiên tiến, phù hợp với thời đại. “Đấy là sự vượt qua những lối<br />
mòn cũ kỹ để đi tìm cho được con đường mà dân tộc cần đi. Đấy là sự khẳng định một<br />
bản lĩnh, một khả năng suy nghĩ độc lập và sáng tạo mà lịch sử đang đòi hỏi. Đấy chính là<br />
bước ngoặt rất quan trọng khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước” [2, tr. 11].<br />
Cũng từ những năm tháng trên quê hương và sự ảnh hưởng của các giá trị văn hóa dân<br />
chủ, tiến bộ phương Tây, đặc biệt là tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của cách<br />
mạng Pháp, cho nên và hẳn nhiên nước Pháp trở thành tâm điểm cuốn hút Hồ Chí Minh<br />
trong hành trình tìm đường cứu nước. “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba<br />
chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp,<br />
muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” [4, tr. 461]. Đây là một sự lựa<br />
chọn đúng đắn cả về hướng đi và cách đi so với những nhà cách mạng tiền bối, thể hiện<br />
sự nhạy cảm và sáng tạo độc đáo trong suy nghĩ và hành động của Nguyễn Tất Thành.<br />
Từ năm 1911 đến năm 1920, suốt hành trình gần 10 năm khảo cứu con đường cứu nước,<br />
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua bản Sơ thảo lần thứ nhất những<br />
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lênin được công bố trên báo<br />
Nhân đạo ngày 16-17 tháng 7 năm 1920. Cùng thời gian đó, nhiều chí sĩ cách mạng<br />
cũng được tiếp xúc với luận cương của Lênin, nhưng chỉ Hồ Chí Minh, với nhãn quan<br />
chính trị sắc bén, tinh tường đã khẳng định “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con<br />
đường giải phóng chúng ta” [6, tr. 562]. Hồ Chí Minh nhận thức được rằng cái mà dân<br />
tộc cần trước tiên không phải vũ khí, mà là cách thức đánh đuổi thực dân để cứu nước,<br />
là cách thức làm cách mạng, hay nói đúng hơn là phải có “lý luận và phương pháp cách<br />
<br />
MỘT VÀI NÉT ĐẶC SẮC CỦA NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH...<br />
<br />
109<br />
<br />
mạng”. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và kết quả hoạt động thực<br />
tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, sự nghiên cứu triệt để lý luận<br />
mácxít đã đem lại cho Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về cách mạng và con đường cách<br />
mạng mà chưa có nhà hoạt động cách mạng nào có được - “Muốn cứu nước và giải<br />
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [6, tr. 30].<br />
3.2. Nhạy cảm với cái mới, linh hoạt trong việc thâu hóa các giá trị văn hóa của<br />
dân tộc và nhân loại<br />
Một trong những nhân tố làm nên sự vĩ đại của Hồ Chí Minh là sự nhạy cảm với cái<br />
mới, đầu óc phê phán tinh tường và linh hoạt trong việc tiếp biến các giá trị văn hóa.<br />
Chính nhờ các nhân tố chủ quan này, Hồ Chí Minh đã hóa thân vào dân tộc và nhân<br />
loại, làm thăng hoa chính dân tộc và thời đại mình, để lại dấu ấn không phai mờ trong<br />
lịch sử phát triển của nhân loại.<br />
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh được trang bị nền tri thức văn hóa<br />
Quốc học, Hán học và sớm tiếp thu những tri thức Tây học. Suốt hành trình 30 năm tìm<br />
đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có mặt ở khắp các châu lục, đi qua gần 40 nước khác<br />
nhau trên thế giới và làm nhiều nghề để sống, để tranh đấu. Bằng con đường tự học, Hồ<br />
Chí Minh đã khiến thế giới kinh ngạc về trí tuệ mẫn tiệp, sự uyên bác từ mọi phương<br />
diện. Theo sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Hồ Chí Minh tự<br />
học bằng việc mượn những cuốn sách nhỏ từ những người bạn làm việc trên tàu, học<br />
tiếng Pháp khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Saint Adresse, vào ngày nghỉ anh học tiếng<br />
Anh với một giáo sư người Ý. Hồ Chí Minh đã tranh thủ thời gian và học với bất kỳ<br />
người nào, ngoài những cuộc đi xem để học, anh không thích chơi bời gì khác. Trong<br />
bản khai lý lịch dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã khai ở mục<br />
thứ 18, biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Quảng Đông, tiếng Ý và cả tiếng Đức.<br />
Từ năm 1920, Hồ Chí Minh bắt đầu hoạt động lý luận sôi nổi. Người đã viết cuốn sách<br />
Những người bị áp bức (Les Opprimés) bằng tiếng Pháp và nhờ Marcel Cachin đề tựa,<br />
viết bài cho các báo Le Populaire, L’Humanité… Báo cáo của mật thám ngày<br />
16/3/1920 còn cho biết: “Nguyễn Ái Quốc đang dịch một đoạn “L’ Esprit des Lois”<br />
(Vạn pháp tinh lý) của Montesquieu sang quốc ngữ” và “Quốc chẳng được một Hội kín<br />
nào giúp đỡ. Ông ta rất tự trọng, muốn là do tự mình đảm nhận việc in sách bằng tiền để<br />
dành”. Tiếp đó, Hồ Chí Minh viết Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la<br />
Colonisation Francaise) được xuất bản tại Pháp năm 1925, nêu rõ tư tưởng và tinh thần<br />
chiến đấu của dân tộc và nhân dân Việt Nam… Rõ ràng, thực tiễn cách mạng Việt Nam<br />
lúc bấy giờ đã xuất hiện nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước với nhiều quan điểm, hệ tư<br />
tưởng và đường lối cứu nước khác nhau. Tuy nhiên, trong số đó, chỉ có Nguyễn Ái<br />
Quốc với nhận thức “tìm con đường mới” đã tiếp nhận, thâu hóa các giá trị tinh hoa của<br />
dân tộc và thời đại. Người đã hoạt động lý luận sôi nổi để hình thành nên những quan<br />
điểm lý luận làm nền tảng hoạt động cho cách mạng Việt Nam.<br />
Hồ Chí Minh đã kết tinh các giá trị văn hóa Đông Tây - hai nền văn hóa lớn của nhân<br />
loại để làm giàu trí tuệ của mình. Sự kết tinh ấy không chỉ thể hiện trong nhận thức khi<br />
<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn