intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghèo đói với vấn đề an ninh lương thực tại một số hộ nghèo trên địa bàn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La

Chia sẻ: ViBoruto2711 ViBoruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

78
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

An ninh lương thực cấp hộ gia đình là cụm từ tương đối mới đối với các nghiên cứu tại khu vực Tây Bắc. Theo tài liệu của FAO thì an ninh lương thực cấp hộ được đảm bảo khi mọi thành viên ở mọi thời điểm có quyền tiếp cận đủ lương thực để duy trì cuộc sống năng động, khỏe mạnh. Thực tế cho thấy, hiện nay các hộ gia đình thuộc diện nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La mới được đảm bảo để duy trì cuộc sống chưa đáp ứng được tiêu chí khỏe mạnh năng động.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghèo đói với vấn đề an ninh lương thực tại một số hộ nghèo trên địa bàn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La

TẠP CHÍ KHOA HỌC<br /> Khoa học Xã hội, Số 9 (6/2017) tr. 125 - 133<br /> <br /> NGHÈO ĐÓI VỚI VẤN ĐỀ AN NINH LƢƠNG THỰC<br /> TẠI MỘT SỐ HỘ NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MAI SƠN,<br /> TỈNH SƠN LA<br /> Đào Thanh Hải, Nguyễn Văn Hồng<br /> Trường Đại học Tây Bắc<br /> Tóm tắt: An ninh lương thực cấp hộ gia đình là cụm từ tương đối mới đối với các nghiên cứu tại khu vực<br /> Tây Bắc. Theo tài liệu của FAO thì an ninh lương thực cấp hộ được đảm bảo khi mọi thành viên ở mọi thời điểm<br /> có quyền tiếp cận đủ lương thực để duy trì cuộc sống năng động, khỏe mạnh. Thực tế cho thấy, hiện nay các hộ<br /> gia đình thuộc diện nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La mới được đảm bảo để<br /> suy trì cuộc sống chưa đáp ứng được tiêu chí khỏe mạnh năng động. Tại huyện Mai Sơn vào thời điểm giáp hạt<br /> có tới 20,2% tổng số hộ nghèo thiếu ăn đặc biệt là các xã vùng cao có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Xác định<br /> được nguyên nhân đói nghèo và thực trạng an ninh lương thực sẽ giúp các hộ nghèo của huyện Mai Sơn giảm<br /> nghèo bền vững và nâng cao cơ hội tiếp cận và sử dụng lương thực.<br /> Từ khóa: An ninh lương thực, đói nghèo với an ninh lương thực.<br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Ở Việt Nam hiện nay, căn cứ vào tình hình phát triển của kinh tế xã hội và mức thu<br /> nhập của nhân dân khái niệm nghèo đói có thể tách thành 2 khái niệm riêng biệt. “Nghèo” là<br /> tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần những nhu cầu tối thiểu cơ<br /> bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi<br /> phương diện. “Đói” là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu<br /> và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống [1].<br /> Vấn đề an ninh lương thực (ANLT) là nội dung trọng tâm của chính sách nông nghiệp<br /> của các quốc gia trên toàn thế giới. “Lương thực” theo từ điển tiếng Việt là từ chỉ các loại<br /> nông sản chứa tinh bột. Theo nghĩa tiếng Anh, “food” có nghĩa là thức ăn bao gồm của lương<br /> thực và thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cho con người [2]. Do vậy, khái niệm an ninh lương<br /> thực cần được hiểu rộng ra đó là an ninh về lương thực, thực phẩm. ANLT đảm bảo, bền vững<br /> và an toàn là mục tiêu của tất cả các quốc gia phát triển trên thế giới. Khái niệm an ninh lương<br /> thực được hiểu là phải đảm bảo thực phẩm ở các khía cạnh sau: Thứ nhất là sự đảm bảo khả<br /> năng của tất cả các thành viên trong xã hội không phân biệt người có thu nhập cao hay thu<br /> nhập thấp; Thứ hai: Đảm bảo cho các thành viên đó ở mọi nơi, từ vùng gần đô thị đến vùng<br /> sâu, vùng xa từ thành thị đến nông thôn đều tiếp cận đủ lương thực thực phẩm, mọi thành viên<br /> trong xã hội trong mọi lúc, dù ở lúc có thu hoạch hay giáp hạt đều có đủ lương thực thực<br /> phẩm cho một cuộc sống khỏe mạnh và hiệu quả.<br /> Mai Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Sơn La, trung tâm huyện lỵ cách trung tâm tỉnh 30<br /> km về phía Bắc. Mặc dù huyện là trung tâm trọng điểm kinh tế của tỉnh nhưng tỷ lệ hộ nghèo của<br /> huyện Mai Sơn còn khá cao (27,11%) đặc biệt là tập trung ở các xã vùng sâu có địa hình hiểm trở<br /> và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt với sản xuất nông nghiệp. Nghiên cứu thực trạng an ninh lương<br /> thực với các hộ nghèo - đối tượng nhạy cảm nhằm đánh giá thực trạng nghèo đói và an ninh lương<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 16/12/2016. Ngày nhận đăng: 15/6/2017<br /> Liên lạc: Đào Thanh Hải, e - mail: haitbu@gmail.com<br /> <br /> 125<br /> <br /> thực là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện hơn<br /> trong việc hoạch định chính sách phát triển nông thôn bền vững của địa phương.<br /> 2. Mục tiêu - đối tƣợng - phƣơng pháp nghiên cứu<br /> 2.1. Mục tiêu nghiên cứu<br /> Mục tiêu chung của đề tài là xác định được nguyên nhân nghèo đói và hiện trạng an ninh<br /> lương thực quy mô cấp hộ gia đình (HGĐ) đối với các hộ nghèo trên địa bàn huyện Mai Sơn.<br /> Để đạt được mục tiêu chung đó, đề tài xác định mục tiêu cụ thể như sau:<br /> - Thứ nhất là điều tra, xác định thực trạng nghèo đói tại điểm nghiên cứu.<br /> - Thứ hai: Xác định nguyên nhân của nghèo đói của các HGĐ.<br /> - Thứ ba đánh giá được 4 tiêu chí liên quan đến ANLT tại địa phương đó là tính sẵn có<br /> của lương thực, khả năng tiếp cận lương thực, tính ổn định và sử dụng lương thực.<br /> 2.2. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu<br /> - Đối tượng nghiên cứu: 30 hộ nghèo/1 xã theo các thành phần dân tộc (10% dân tộc<br /> Kinh, 20% dân tộc Mông và 70% dân tộc Thái)<br /> - Phạm vi nghiên cứu: 3 xã: Mường Chanh, Chiềng Chung và Chiềng Mai - huyện Mai<br /> Sơn - tỉnh Sơn La<br /> 2.3. Phương pháp nghiên cứu<br /> 2.3.1. Chọn điểm nghiên cứu<br /> Dựa trên cơ sở thực tế tại địa phương, đề tài đã chọn ra 3 xã làm điểm nghiên cứu đó là:<br /> Xã Chiềng Mai, Chiềng Chung và Mường Chanh với 15 thôn bản được lựa chọn tiến hành<br /> nghiên cứu.<br /> 2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu<br /> - Thu thập dữ liệu sơ cấp:<br /> Phương pháp PRA: Sử dụng các công cụ PRA sau đây để thu thập các thông tin và số<br /> liệu, nhằm thu thập thông tin điều tra từ các cá nhân, hộ gia đình trong sản xuất nông lâm<br /> nghiệp ở điểm nghiên cứu điều tra phỏng vấn bằng công cụ là Bảng hỏi (phiếu điều tra).<br /> - Thu thập số liệu thứ cấp: Kế thừa số liệu có sẵn về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội<br /> từ các báo cáo hàng năm về phát triển kinh tế, xã hội của huyện, các báo cáo tổng kết từ các<br /> ban ngành đoàn thể về tình hình phát triển, các hoạt động nông nghiệp, phi nông nghiệp.<br /> 3. Kết quả nghiên cứu<br /> 3.1. Hiện trạng đói nghèo và nguyên nhân đói nghèo tại điểm nghiên cứu<br /> 3.1.1. Hiện trạng đói nghèo<br /> Qua điều tra cho thấy, tỷ lệ đói nghèo tại điểm nghiên cứu còn ở mức khá cao so với mặt<br /> bằng chung của huyện Mai Sơn. Cụ thể về hiện trạng đói nghèo được thể hiện ở Bảng 1 dưới đây:<br /> 126<br /> <br /> Bảng 1. Hiện trạng đói nghèo tại điểm nghiên cứu<br /> Xã<br /> <br /> Tổng số hộ<br /> <br /> Số hộ nghèo<br /> <br /> Tỉ lệ (%)<br /> <br /> Số hộ cận nghèo<br /> <br /> Tỉ lệ (%)<br /> <br /> Chiềng Mai<br /> <br /> 1202<br /> <br /> 453<br /> <br /> 37,69<br /> <br /> 177<br /> <br /> 14,7<br /> <br /> Chiềng Chung<br /> <br /> 1196<br /> <br /> 227<br /> <br /> 20,21<br /> <br /> 193<br /> <br /> 16,1<br /> <br /> Mường Chanh<br /> <br /> 927<br /> <br /> 226<br /> <br /> 24,38<br /> <br /> 104<br /> <br /> 11,2<br /> <br /> Nguồn: Số liệu điều tra 2016<br /> <br /> Bảng 1 cho thấy trong 3 xã tại điểm nghiên cứu thì số hộ nghèo nhiều nhất tại xã<br /> Chiềng Mai, chiếm 37,69%. Do điều kiện địa hình ở đây tương đối phức tạp có nhiều dãy núi<br /> cao nên khó canh tác nương rẫy. Nguồn thu nhập chính của người dân là dựa vào cây cà phê,<br /> trong năm 2015 - 2016 do thiên tai nên sản lượng cà phê sụt giảm nghiêm trọng khiến cho số<br /> lượng hộ nghèo trong xã năm 2016 tăng đột biến. Do điều kiện địa hình không phù hợp nên<br /> diện tích canh tác lúa chỉ tập trung vào một số bản ở dưới thấp có điều kiện thuận lợi là gần<br /> nguồn nước. Mặt khác, số dân cư tập trung đông khiến cho diện tích đất nông nghiệp/đầu<br /> người là ít nhất. Mường Chanh và Chiềng Chung là hai xã có điều kiện địa hình tương đối<br /> đồng nhất do vậy tỉ lệ hộ nghèo của hai xã là gần giống nhau.<br /> 3.1.2. Nguyên nhân đói nghèo<br /> Theo điều tra khảo sát thực tế 90 hộ gia đình trong vùng nghiên cứu năm 2016 cho thấy<br /> có 10 nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình. Đề tài xác định được 5<br /> nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nghèo đói chủ yếu. Nguyên nhân chính cụ thể được thể<br /> hiện ở Bảng 2 dưới đây:<br /> Bảng 2. Nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo tại điểm nghiên cứu<br /> STT<br /> <br /> Nguyên nhân<br /> <br /> Tổng số ý kiến<br /> Số hộ<br /> <br /> Tỉ lệ (%)<br /> <br /> 1<br /> <br /> Thiếu vốn sản xuất<br /> <br /> 83<br /> <br /> 92,22<br /> <br /> 2<br /> <br /> Thiếu đất canh tác<br /> <br /> 59<br /> <br /> 65,56<br /> <br /> 3<br /> <br /> Do yếu tố tự nhiên (thiên tai, lũ lụt)<br /> <br /> 38<br /> <br /> 42,22<br /> <br /> 4<br /> <br /> Trình độ kỹ thuật canh tác<br /> <br /> 20<br /> <br /> 22,22<br /> <br /> 5<br /> <br /> Tâm lý trông chờ, ỷ lại<br /> <br /> 44<br /> <br /> 48,89<br /> <br /> Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra năm 2016<br /> <br /> Đói nghèo do nhiều nguyên nhân gây nên, có cả chủ quan và khách quan. Những<br /> nguyên nhân chủ quan thuộc về bản thân nguời lao động, nguyên nhân khách quan thuộc về<br /> điều kiện tự nhiên và những yếu tố xã hội tác động, nghiên cứu cụ thể từng khía cạnh như sau:<br /> - Về vốn sản xuất: Vốn là nhân tố quan trọng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Tuy<br /> nhiên, trình trạng thiếu vốn trong các hộ nghèo rất cao chiếm 92,22%. Hiện 100% các hộ<br /> nghèo tại điểm nghiên cứu được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Mai Sơn,<br /> 127<br /> <br /> mỗi món vay có trị giá từ 10 triệu đến 30 triệu với mức lãi suất trung bình 0,5%/tháng tùy<br /> từng thời điểm. Cà phê là một loại cây có giá trị kinh tế cao hơn hẳn so với các loại nông sản<br /> khác tuy nhiên để cây đạt năng suất hiệu quả cao thì chi phí đầu tư khá lớn. Với diện tích 1 ha<br /> trung bình phải đầu tư khoảng 40 triệu bao gồm chi phí thuốc bảo vệ thực vật, phân NPK,<br /> phân chuồng... Hiện nay với số vốn chính sách các HGĐ thuộc diện nghèo được vay không<br /> đủ để tái đầu tư sản xuất. Các hộ nghèo thường giải quyết vấn đề thiếu vốn sản xuất bằng cách<br /> mua chịu vật tư nông nghiệp từ các cửa hàng với lãi xuất 1,5 - 2%/tháng và đến thu hoạch quả<br /> cà phê bán đi và trang trải số nợ trên. Như vậy, số lãi họ phải trả trong 1 năm cho vật tư nông<br /> nghiệp là khoảng 20%, nhiều hộ dân sau khi bán cà phê trừ chi phí sinh hoạt, trừ lãi thì họ<br /> không còn tiền dự trữ trong gia đình khi vụ cà phê kết thúc. Số hộ sử dụng hình thức này để<br /> tái đầu tư sản xuất chiếm 10%. Một hình thức khác để có đủ nguồn vốn sản suất cũng như chi<br /> cho sinh hoạt phí hàng tháng như nộp tiền học cho con, ốm đau, thuốc men đó là các hộ bán<br /> cà phê non. Đây là hình thức mà các hộ thường hay sử dụng (có 29 hộ tham gia phỏng vấn sử<br /> dụng hình thức này). Hết vụ thu hoạch cà phê đồng nghĩa với việc số tiền mà họ có không có<br /> đủ để trang trải cho việc mua lương thực, họ thường bán cà phê non cho các thương lái với<br /> giá do thương lái quy định và giá thường rất thấp. Người nghèo tiếp tục rơi vào vòng luẩn quẩn<br /> đói nghèo, thu nhập bấp bênh, tích luỹ kém nên khó chống đỡ với mọi biến cố xảy ra.<br /> - Về đất canh tác: Do điều kiện tự nhiên chủ yếu là đồi núi nên diện tích canh tác rất<br /> hạn chế. Chỉ có khoảng trên 50% số hộ có diện tích canh tác trên 5000 m2, thậm chí có 3 hộ<br /> chỉ có dưới 2000 m2 hoặc không có đất canh tác. Người dân chưa chịu khó tận dụng để thâm<br /> canh tăng năng suất cây trồng nên tình trạng thiếu đói, mất an ninh lương thực vẫn xảy ra trên<br /> địa bàn huyện. Có tới 59 hộ chiếm 65% tổng số hộ điều tra cho rằng thiếu đất canh tác là một<br /> trong những nguyên nhân của nghèo đói. Với lượng diện tích đất sản xuất bình quân/người tại<br /> điểm nghiên cứu chỉ đạt 0,08 - 0,15 ha/người thì hiện nay sản phẩm làm ra không đủ chi phí<br /> để họ trang trải cuộc sống hàng ngày…<br /> - Yếu tố tự nhiên: Với phương thức canh tác sản xuất còn lạc hậu 100% các hộ dân sản<br /> xuất Cà phê, lúa nương, lúa nước, ngô sắn đều phụ thuộc vào tự nhiên là chủ yếu. Cụ thể thời<br /> điểm tác giả tiến hành khảo sát vào tháng 6 năm 2016 tại xã Chiềng Chung, Mường Chanh<br /> trong một vụ mùa, tại các vị trí gần nguồn nước và xa nguồn nước thời điểm gieo mạ - cấy lúa<br /> của người dân ở trong xã cách nhau đến 3 tháng. Khi các hộ dân ở dưới thấp gần nguồn nước<br /> cấy lúa từ tháng 2 nhưng các hộ dân ở trên cao lại đến tháng 5 mới có thể cấy lúa được. Vụ cà<br /> phê năm 2016, tại địa phương gặp phải thời tiết băng giá khiến cho các nụ hoa của lứa ra hoa<br /> đầu tiên bị hỏng, đến tháng 4 mới bắt đầu có những hạt mưa đầu tiên vào thời điểm này chỉ còn<br /> lại một số ít hoa ra muộn nên tỉ lệ đậu quả rất thấp và trong niên vụ cà phê năm 2016 hầu như<br /> các hộ gia đình chỉ thu được sản lượng bằng 10 - 20% sản lượng cà phê so với các năm khác.<br /> - Trình độ, kỹ thuật canh tác: Mặc dù trên 72% số hộ nghèo được phỏng vấn biết chữ,<br /> tuy nhiên họ lại ít có cơ hội kiếm được việc làm thêm tốt nên mức thu nhập hiện tại rất thấp.<br /> Cũng do trình độ dân trí không cao nên đã ảnh hưởng đến các vấn đề giáo dục, sinh đẻ, nuôi<br /> dưỡng con cái sau này. Việc tiếp cận với thông tin về khoa học công nghệ, dịch vụ sản xuất<br /> và tiếp thu các chủ trương chính sách của Nhà nước có phần hạn chế.<br /> <br /> 128<br /> <br /> - Tâm lý trông chờ, ỷ lại: Một bộ phận hộ nghèo được phỏng vấn có tư tưởng trông chờ,<br /> ỉ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, thà khổ chứ không chịu khó làm ăn để kiếm kế sinh nhai và<br /> thoát nghèo. Tư tưởng một bộ phận người dân muốn được vào trong danh sách hộ nghèo.<br /> Thực trạng này đã làm triệt tiêu động lực sản xuất trong một bộ phận người dân.<br /> 3.2. Hiện trạng an ninh lương thực với các hộ nghèo tại điểm nghiên cứu<br /> Theo FAO thì an ninh lương thực cấp hộ được đảm bảo khi mọi thành viên ở mọi thời<br /> điểm có quyền tiếp cận đủ lương thực để duy trì cuộc sống năng động và khỏe mạnh. An ninh<br /> lương thực cấp hộ dựa trên các tiêu chí bao gồm tính sẵn có về lương thực, tính ổn định lương<br /> thực, khả năng tiếp cận lương thực và tiêu dùng lương thực. Bài báo tiến hành nghiên cứu<br /> đánh giá theo 4 tiêu chí trên.<br /> 3.2.1. Tính sẵn có về lương thực<br /> Bảng 3. Sản lƣợng lƣơng thực quy ra tiền/ngƣời của các hộ nghèo<br /> Đơn vị: kg thóc<br /> <br /> Xã<br /> <br /> Lúa<br /> <br /> Ngô<br /> <br /> Sắn<br /> <br /> Bình quân thóc/năm<br /> <br /> Bình quân gạo/năm<br /> <br /> Mường Chanh<br /> <br /> 82,6<br /> <br /> 23,22<br /> <br /> 12,4<br /> <br /> 118,22<br /> <br /> 80,39<br /> <br /> Chiềng Chung<br /> <br /> 79,21<br /> <br /> 18,22<br /> <br /> 9,28<br /> <br /> 106,71<br /> <br /> 67,23<br /> <br /> Chiềng Mai<br /> <br /> 49.96<br /> <br /> 20,2<br /> <br /> 23,16<br /> <br /> 93,32<br /> <br /> 63,46<br /> <br /> Nguồn: Số liệu điều tra năm 2016<br /> <br /> Kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả các xã tại điểm nghiên cứu đều sản suất là thóc để<br /> phục vụ cuộc sống gia đình và đều đạt trên 93 kg thóc/người/năm. Không có hộ gia đình nào<br /> tại điểm nghiên cứu hoàn toàn phụ thuộc vào việc mua lương thực. Với lượng tiêu thụ gạo<br /> trung bình là 70,36 kg/người/năm so với mức tiêu thụ gạo trung bình của người Việt Nam là<br /> 166 kg/người/năm thì tại điểm nghiên cứu chỉ số sẵn có của lương thực mới chỉ đáp ứng được<br /> 50%. Hiện tại, thức ăn chủ yếu của người dân chỉ có gạo là nguồn cung cấp năng lương chính,<br /> việc bổ sung thêm thức ăn cung cấp chất đạm, chất béo rất ít. Trung bình một người dân tiêu<br /> thụ gạo/tháng đạt 5,86 kg. So với sơ đồ kim tự tháp dinh dưỡng của Việt Nam thì lượng tiêu<br /> thụ gạo trung bình/1 tháng cho người bình thường là 12 kg/người/tháng. Như vậy tại điểm<br /> điều tra thì các hộ nghèo tại huyện Mai Sơn mới chỉ đáp ứng đủ lượng gạo gần 50% so với<br /> tiêu chuẩn. Kết quả điều tra cho thấy hiện nay số tháng phải sử dụng lương thực từ nguồn thu<br /> khác là 5 tháng. Thời điểm thiếu lương thực thường bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 6. Như vậy<br /> tính sẵn có về lương thực tại các hộ điều tra mới chỉ đáp ứng được 50% so với nhu cầu thực<br /> tế. Để đảm bảo được số lương thực sử dụng thực tế thì người dân phải sử dụng các nguồn thu<br /> khác như làm thuê, bán ngô, sắn v.v…<br /> 3.3.2. Tính tiếp cận lương thực - thực phẩm của các hộ nghèo<br /> Tính tiếp cận lương thực thực phẩm được xem xét qua hai khía cạnh: Theo phạm vi địa<br /> lý, theo khả năng tạo thu nhập.<br /> 129<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2