intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng đậu tương lên chất lượng giống của cá lăng chấm (Hermibagrus guttatus Lacépède, 1803) giai đoạn cá hương lên cá giống (30 ngày - 60 ngày)

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

61
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cá lăng chấm (Hermibagrus guttatus) là loài cá có giá trị kinh tế cao và nhu cầu con giống ngày càng nhiều. Hiện nay quy trình sinh sản nhân tạo và ương nuôi cá lăng giống đã và đang được ứng dụng phục vụ sản xuất. Tuy nhiên chất lượng cá giống còn thấp, tỷ lệ dị hình cao, nên số lượng giống sản xuất không được nhiều. Đậu tương có hàm lượng dinh dưỡng cao, có thể sử dụng làm thức ăn cho cá lăng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng đậu tương lên chất lượng giống của cá lăng chấm (Hermibagrus guttatus Lacépède, 1803) giai đoạn cá hương lên cá giống (30 ngày - 60 ngày)

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 1/2014<br /> <br /> KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC<br /> <br /> NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA HÀM LƯỢNG ĐẬU TƯƠNG<br /> LÊN CHẤT LƯỢNG GIỐNG CỦA CÁ LĂNG CHẤM<br /> (Hermibagrus guttatus Lacépède, 1803) GIAI ĐOẠN CÁ HƯƠNG<br /> LÊN CÁ GIỐNG (30 NGÀY- 60 NGÀY)<br /> EFFECT OF SOYBEAN LEVELS ON QUALITY OF DOT CATFISH<br /> (Hermibagrus guttatus Lacépède, 1803) NURSING FROM FRY TO SEED<br /> (30 DAYS – 60 DAYS)<br /> Trần Thị Mai Hương1, Lại Văn Hùng2<br /> Ngày nhận bài: 29/5/2012; Ngày phản biện thông qua: 17/7/2013; Ngày duyệt đăng: 10/3/2014<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Cá lăng chấm (Hermibagrus guttatus) là loài cá có giá trị kinh tế cao và nhu cầu con giống ngày càng nhiều. Hiện<br /> nay quy trình sinh sản nhân tạo và ương nuôi cá lăng giống đã và đang được ứng dụng phục vụ sản xuất. Tuy nhiên chất<br /> lượng cá giống còn thấp, tỷ lệ dị hình cao, nên số lượng giống sản xuất không được nhiều. Đậu tương có hàm lượng dinh<br /> dưỡng cao, có thể sử dụng làm thức ăn cho cá lăng. Hơn nữa, đậu tương chứa hàm lượng protein phù hợp với nhu cầu của<br /> cá Lăng giống trong giai đoạn giống. Đậu tương có thể là nguồn thay thế cho bột cá mà không gây ảnh hưởng đến tăng<br /> trưởng của cá. Nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm với 3 công thức thức ăn, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần gồm: Công thức<br /> 1: bột cá 50% và thịt cá mè 50%; Công thức 2: bột cá 46%, đậu tương 4%, thịt cá mè 50%; Công thức 3: bột cá 40%, đậu<br /> tương 10%, thịt cá mè 50%. Sự sai khác giữa các công thức thức ăn được thực hiện trên độ tin cậy 95%. Báo cáo trình bày<br /> ảnh hưởng của hàm lượng đậu tương khi ương từ hương lên giống (30 ngày – 60 ngày)<br /> Từ khóa: cá lăng chấm, ương nuôi cá lăng giống, hàm lượng đậu tương, dị hình xương<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Dot catfish (Hermibagrus guttatus) is a wild fish species which have high economic value, it distributive in Hong<br /> River system. Because of overshoot exploitation, dot catfish may be died out. The artificial seed production process was<br /> successful and applied for hatcheries. However, the quality of dot catfish seed is low, vertebral deformity is high. As a result<br /> the seed production effect in hatcheries is not high. Soybean has a high volume of nutrion. In addition, soybean included<br /> protein for nutritional requirement of dot catfish in the early period. Soybean is a good source with the purpose of replacing<br /> fishmeal. Three feed formulas with three repetitions are: fish meal 50% and big-head carp 50%, fish meal 46% and<br /> soybean 4% and big-head carp 50%, fish meal 40% and soybean 10% and big-head carp 50%. The effects of soybean levels<br /> on quality of dot catfish (Hermibagrus guttatus) nursing from fry to seed (30 days – 60 days) are presented in this report.<br /> Keywords: Dot catfish, nursing, soybean, vertebral deformity<br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Từ năm 2008 đến nay cá lăng chấm<br /> (Hermibagrus guttatus) đã được xếp ở mức nguy<br /> cấp bậc 2 trong Sách Đỏ Việt Nam, cần có những<br /> biện pháp bảo vệ (Bộ Thủy sản, 2008). Họ cá lăng<br /> Bagridae ở Việt Nam có 7 giống gồm 18 loài, trong<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> <br /> đó giống Hemibaggrus có 3 loài (Nguyễn Văn Hảo,<br /> 1993; Mai Đình Yên, 1978; Mai Đình Yên, 1983).<br /> Việc nghiên cứu sản xuất nhân tạo giống cá lăng<br /> chấm có ý nghĩa quan trọng, không những giúp chủ<br /> động về con giống trong sản xuất mà còn giảm áp<br /> lực khai thác ngoài tự nhiên; là một trong những biện<br /> <br /> Trần Thị Mai Hương: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2009 – Trường Đại học Nha Trang<br /> PGS.TS. Lại Văn Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> 132 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> pháp hiệu quả giúp bảo vệ đối tượng có giá trị kinh<br /> tế cao này. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I<br /> đã cho sinh sản nhân tạo thành công giống cá này<br /> nhưng trong quá trình ương nuôi tỷ lệ cá bị dị hình<br /> như vẹo thân, cong lưng, dị hình đầu vẫn còn cao.<br /> Dị hình xương là vấn đề chính của các trại sản xuất<br /> và ương nuôi giống (Divanach et al. 1996) Có nhiều<br /> yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cá giống nhưng<br /> dinh dưỡng cũng là 1 yếu tố quan trọng (Cahu et al.<br /> 2003). Hơn nữa việc sử dụng nguồn nguyên liệu bột<br /> cá cũng đang gặp nhiều khó khăn: không chủ động<br /> được nguồn nguyên liệu, giá bột cá ngày càng tăng,<br /> môi trường nuôi nhanh bị ô nhiễm bởi lượng thức ăn<br /> thừa, nên việc tìm được nguồn nguyên liệu thay thế<br /> bột cá cũng là vấn đề cần quan tâm. Hiện nay chưa<br /> có nhiều công trình nghiên cứu về cá lăng chấm,<br /> nên việc nghiên cứu để tăng chất lượng con giống<br /> và giảm lượng bột cá sử dụng trong ương nuôi là<br /> điều cần thiết, góp phần làm giảm áp lực đối với<br /> môi trường tự nhiên. Đậu tương là nguồn nguyên<br /> liệu phổ biến sẵn có tại Việt Nam. Thêm vào đó<br /> đậu tương còn có giá trị dinh dưỡng cao đặc biệt là<br /> protein dễ hấp thụ. Trong các công thức thức ăn truyền<br /> thống đậu tương thường là nguyên liệu được lựa<br /> chọn để thay thế bột cá mà vẫn đảm bảo hàm lượng<br /> protein trong thức ăn. Kết quả nghiên cứu phần nào<br /> hoàn thiện quy trình ương nuôi cá giống hiện nay.<br /> II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu<br /> - Đối tượng nghiên cứu: cá lăng chấm<br /> (Hermibagrus guttatus Lacépède, 1803).<br /> - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 3-2010 đến<br /> tháng 12-2010.<br /> - Địa điểm nghiên cứu: Viện Nuôi trồng Thủy<br /> sản I – Đình Bảng – Từ Sơn – Bắc Ninh.<br /> 2. Phương pháp thu số liệu môi trường<br /> Số liệu môi trường gồm nhiệt độ và pH được<br /> đo 2 lần/ngày lúc buổi sáng (6h) và buổi chiều (2h).<br /> Để đo nhiệt độ sử dụng nhiệt độ kế có độ chính<br /> xác 0,10C, sử dụng pH test để đo pH nước theo<br /> hướng dẫn sử dụng kèm theo, so màu và đọc<br /> kết quả.<br /> 3. Phương pháp thiết kế thí nghiệm<br /> Sử dụng 9 bể kính 60 l, có ống cấp và thoát<br /> nước, mỗi bể đều có gắn sục khí.<br /> Các nguyên liệu được phối trộn theo công<br /> thức đảm bảo thành phần protein trong thức ăn từ<br /> 32 - 38%. Đậu tương có hàm lượng protein tương đối<br /> <br /> Số 1/2014<br /> cao và dễ tiêu hóa, có thể thay thế một phần cho<br /> bột cá.<br /> Bảng 1. Một số thành phần dinh dưỡng<br /> trong nguyên liệu<br /> Protein<br /> Lipid<br /> Khoáng<br /> <br /> Bột cá<br /> <br /> Cá mè<br /> <br /> Đậu tương<br /> <br /> 59,29%<br /> 8,24%<br /> 24,15%<br /> <br /> 15,04%<br /> 9,10%<br /> 20%<br /> <br /> 32,04%<br /> 17,41%<br /> 5,06%<br /> <br /> Thí nghiệm thiết kế để so sánh 3 công thức thức<br /> ăn: công thức 1 (chứa 0% đậu tương), công thức 2<br /> (chứa 4% đậu tương), công thức 3 (chứa 10% đậu<br /> tương). Mỗi công thức thức ăn được lặp lại 3 lần.<br /> Công thức 1: 50% thịt cá mè và 50% bột cá<br /> (60%P), bổ sung 1g vitamin C/1kg thức ăn<br /> Công thức 2: 50% thịt cá mè, 46% bột cá<br /> (60%P), 4% đậu tương Ấn Độ, vitamin C 1g/1kg<br /> thức ăn.<br /> Công thức 3: 50% thịt cá mè, 10% bột cá<br /> (60%P), 10% đậu tương Ấn Độ, vitamin C 1g/1kg<br /> thức ăn.<br /> 4. Phương pháp thu mẫu và phân tích mẫu<br /> 4.1. Phương pháp thu mẫu<br /> Khi cá lăng bột ương nuôi được 30 ngày đạt giai<br /> đoạn cá hương đưa vào thí nghiệm. Sau khi thực<br /> hiện thí nghiệm, cá đã nuôi được 15 ngày tiến hành<br /> thu mẫu bằng vợt cầm tay d = 22 cm, lưới mềm kích<br /> cỡ mắt lưới 2a = 4 mm.<br /> Khi kiểm tra cân đo bắt ở mỗi bể 30 cá thể<br /> để cân đo, khoảng cách đo giữa 2 lần là 15 ngày,<br /> khoảng cách cân giữa 2 lần là 30 ngày.<br /> 4.2. Phương pháp phân tích mẫu<br /> - Đo chiều dài: Sử dụng thước có sai số<br /> +/- 1 mm.<br /> - Đo khối lượng: Sử dụng cân điện tử chính xác<br /> đến 0,001g.<br /> - Nhuộm mẫu để xác định dị hình theo phương<br /> pháp của Matsuoka, 1987.<br /> Mẫu được cố định trong dung dịch formalin<br /> 10-15% (2 – 3 ngày), ethanol 50% (1 ngày),<br /> ethanol 90 (1 ngày). Mẫu được xử lý trong dung<br /> dịch Borats bão hòa (12 giờ) trước khi làm trong<br /> mẫu bằng dung dịch Tripsine 1% (30 ml Borats<br /> bão hòa + 30 ml nước cất + 1g Tripsine) ở nhiệt độ<br /> 370C (24 giờ). Xương được nhuộm bằng dung dịch<br /> Alizaril và KOH 5% (1 giờ). Quá trình làm sạch mẫu<br /> được thực hiện trong các dung dịch glycerine:kali<br /> hidroxit với tỉ lệ 3:1, 1:1, 1:3 (1 ngày/1tỉ lệ). Mẫu<br /> sạch được bảo quản trong glycerine nguyên chất.<br /> 4.3. Phương pháp phân tích số liệu<br /> Số liệu được xử lý trên phần mềm Excell,<br /> ANOVA một yếu tố và hai yếu tố.<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 133<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> 1. Một số yếu tố môi trường của hệ thống thí nghiệm<br /> Bảng 2. Một số yếu tố môi trường<br /> trong hệ thống bể thí nghiệm<br /> Yếu tố môi trường<br /> <br /> Nhiệt độ<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Số đo<br /> <br /> TB<br /> Min - Max<br /> Min - Max<br /> <br /> 29,51 ± 1,32<br /> 26,8 – 31,9<br /> 7 – 7,5<br /> <br /> pH<br /> * Nhiệt độ<br /> Nhiệt độ môi trường nước trong hệ thống ương<br /> nuôi dao động trong khoảng 26,8 – 31,90C, nhiệt<br /> độ chênh lệch giữa buổi sáng và buổi chiều khoảng<br /> trên 20C. Nhiệt độ thích hợp cho ương nuôi cá nói<br /> chung nằm trong khoảng 25 – 300C (Boyd, 1990),<br /> <br /> Số 1/2014<br /> còn cá lăng chấm dao động từ 26 – 290C (Phạm<br /> Báu và ctv, 2000).<br /> pH<br /> Giá trị pH trong hệ thống thí nghiệm dao động<br /> trong khoảng 7 – 7,5. Giới hạn pH thích hợp cho<br /> nuôi thủy sản là 6,5 – 9 và cho cá lăng là 6,7 – 8,5<br /> (Lawson, 1995).<br /> Nhiệt độ và pH trong thí nghiệm tương đương<br /> với nhiệt độ và pH của các thí nghiệm cá lăng<br /> trước 5.<br /> <br /> *<br /> <br /> 2. Ảnh hưởng của thức ăn đến tăng trưởng và<br /> tỉ lệ sống<br /> 2.1. Tăng trưởng chiều dài<br /> Kết quả tăng trưởng chiều dài của cá sau 2 lần<br /> đo được thể hiện trong bảng 3.<br /> Bảng 3. Tăng trưởng chiều dài của cá sau 2 lần kiểm tra<br /> Chiều dài trung bình cá sau 15<br /> ngày nuôi<br /> <br /> Loại thức ăn<br /> <br /> 4,83 + 0,06a<br /> 4,93 + 0,06a<br /> 4,92 + 0,06a<br /> <br /> 0% đậu tương<br /> 4% đậu tương<br /> 10% đậu tương<br /> <br /> Chiều dài trung bình cá sau 30<br /> ngày nuôi<br /> <br /> 5,54 = 0,13a<br /> 5,48 + 0,10a<br /> 5,38 + 0,13a<br /> <br /> Tăng trưởng chiều dài (cm/<br /> ngày)<br /> <br /> 0,047<br /> 0,037<br /> 0,031<br /> <br /> Không có sự sai khác về chiều dài của cá khi sử dụng 3 loại thức ăn khác nhau (phân tích ANOVA một yếu<br /> tố độ tin cậy 95%). Như vậy sử dụng thức ăn có thay thế một phần bột cá bằng đậu tương cũng không làm ảnh<br /> hưởng đến tăng trưởng chiều dài của cá thể.<br /> 2.2. Tăng trưởng khối lượng<br /> Bảng 4. Tăng trưởng khối lượng cá sau khi kiểm tra<br /> Loại thức ăn<br /> <br /> Khối lượng trung bình của cá<br /> khi bắt đầu thí nghiệm (g)<br /> <br /> 0% đậu tương<br /> 4% đậu tương<br /> 10% đậu tương<br /> <br /> 0,38<br /> 0,39<br /> 0,38<br /> <br /> Khối lượng trung bình của cá sau 30 ngày thí<br /> nghiệm ở nghiệm thức 0% đậu tương nhỏ hơn so<br /> với hai nghiệm thức 4% đậu tương và 10% đậu<br /> tương (P=0.05). Tuy nhiên, không có sự khác nhau<br /> có ý nghĩa thống kê về khối lượng của cá giữa các<br /> nghiệm thức sử dụng đậu tương.<br /> 2.3. Hệ số chuyển hóa thức ăn và tỉ lệ sống<br /> Bảng 5. Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR)<br /> của 3 công thức thức ăn<br /> Công thức thức ăn<br /> <br /> FCR<br /> <br /> Công thức 1<br /> Công thức 2<br /> Công thức 3<br /> <br /> 1,17<br /> 1,19<br /> 1,22<br /> <br /> Khối lượng trung bình<br /> của cá sau 30 ngày nuôi (g)<br /> <br /> 1,23 + 0,03a<br /> 1,36 + 0,01b<br /> 1,38 + 0,01b<br /> <br /> Tăng trưởng khối lượng<br /> (g/ngày)<br /> <br /> 0,028<br /> 0,032<br /> 0,033<br /> <br /> Hệ số chuyển hóa thức ăn của 3 loại thức ăn<br /> không chênh lệch nhiều. Ở bảng 6 tỉ lệ sống có sự<br /> chênh lệch sau khi kiểm tra lần thứ 2. Công thức 2<br /> có tỉ lệ sống 83% cao hơn so với công thức 1 (68%)<br /> và công thức 3 (67%). Đây cũng là 1 tiêu chí để thay<br /> thế một phần bột cá bằng đậu tương.<br /> 3. Ảnh hưởng của thức ăn đến dị hình xương<br /> Bảng 7. Các loại dị hình xương xuất hiện<br /> ở các nhóm cá sử dụng thức ăn khác nhau<br /> Các loại dị hình xương<br /> <br /> Các công thức thức ăn<br /> CT1<br /> <br /> CT2<br /> <br /> CT3<br /> <br /> 1. DH xương hàm<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> Bảng 6. Tỉ lệ sống trung bình của cá sau 2 lần<br /> kiểm tra<br /> <br /> 2. DH xương giáp đầu<br /> <br /> 0<br /> <br /> 1,1%<br /> <br /> 0,3%<br /> <br /> Cá 15 ngày tuổi<br /> (%)<br /> <br /> Cá 30 ngày tuổi<br /> (%)<br /> <br /> 3. Cột sống cong vẹo<br /> <br /> 1,9%<br /> <br /> 1,1%<br /> <br /> 1,4%<br /> <br /> 4. Cột sống bị mất đốt<br /> <br /> 3,3%<br /> <br /> 4,7%<br /> <br /> 5,2%<br /> <br /> 98,33<br /> 99,00<br /> 99,00<br /> <br /> 68,00<br /> 83,00<br /> 67,00<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0,3%<br /> <br /> 0<br /> <br /> Thức ăn<br /> <br /> Công thức 1<br /> Công thức 2<br /> Công thức 3<br /> <br /> 134 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> 5. DH xương gốc tia vây lưng<br /> 6. DH xương đuôi<br /> <br /> 1,1%<br /> <br /> 0<br /> <br /> 1,1%<br /> <br /> Tổng<br /> <br /> 6,3%<br /> <br /> 7,2%<br /> <br /> 8,0%<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 1/2014<br /> <br /> Qua bảng 7 ta thấy tỉ lệ xương dị hình ở các loại thức ăn có sự sai khác, tỉ lệ dị hình xương ở cá sử dụng<br /> thức ăn chứa 10% đậu tương là cao nhất 8%. Tỉ lệ dị hình xương ở cá sử dụng thức ăn không chứa đậu tương<br /> là thấp nhất 6,3%, tỉ lê dị hình xương cá ở thức ăn chứa 4% đậu tương là 7,2%<br /> <br /> Hình 1. Bộ xương cá không bị dị hình<br /> <br /> Hình 2. Dị hình xương cột sống (cột sống bị mất đốt)<br /> <br /> Hình 3. Dị hình xương đuôi<br /> <br /> IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br /> 1. Kết luận<br /> Có thể thay 4% bột cá trong thức ăn bằng đậu<br /> tương mà không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống, tăng<br /> trưởng, nhưng tỉ lệ dị hình còn cao.<br /> 2. Kiến nghị<br /> - Cá lăng là loài có giá trị kinh tế cao để<br /> sản xuất được con giống có chất lượng cao cần<br /> <br /> có thêm nghiên cứu các yếu tố: canxi, photpho,<br /> vitamin C… ảnh hưởng đến dị hình xương của<br /> cá giống.<br /> - Nên có thêm nghiên cứu để xác định ảnh<br /> hưởng cụ thể của đậu tương đối với dị hình xương<br /> cá lăng giống.<br /> - Nguồn lợi cá lăng ngoài tự nhiên đang bị khai<br /> thác quá mức, cần có các biện pháp bảo vệ đối với<br /> loài cá này.<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 135<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 1/2014<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> Tiếng Việt<br /> 1.<br /> <br /> Phạm Báu, Nguyễn Đức Tuân, Bùi Đình Đặng, Nguyễn Công Thắng, 1999. Điều tra nghiên cứu hiện trạng và biện pháp<br /> bảo vệ, phục hồi một số loài cá hoang dã quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng trên hệ thống sông Hồng: Cá anh vũ (Semilabeo<br /> notabilis Peters, 1880); Cá bỗng (Spinibarbus denticulatus Oshima, 1926); Cá lăng (Hemibagrus guttatus Lacépède, 1803);<br /> Cá chiên (Bagarius yarrelli Sykes, 1841). Báo cáo tổng kết đề tài. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Nguyễn Văn Hảo, 1993. Ngư loại học tập II. NXB Nông nghiệp. Hà Nội<br /> <br /> 3.<br /> <br /> Nguyến Đức Tuân, Khương Văn Thưởng, Lê Thiên Lý, Ngô Ngọc Ninh, 2005. Nghiên cứu kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá<br /> lăng chấm (Hemibagrus guttatus Lacépède, 1803) trong điều kiện nuôi. Báo cáo tổng kết đề tài.Viện Nghiên cứu Nuôi trồng<br /> thủy sản 1.<br /> <br /> 4.<br /> <br /> Mai Đình Yên, 1978. Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc Việt Nam. NXB Khoa học Kỹ thuật. Hà Nội.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> Mai Đình Yên, 1983. Các loài cá kinh tế miền Bắc Việt Nam. NXB Khoa học Kỹ thuật. Hà Nội.<br /> <br /> 6.<br /> <br /> Bộ Thủy sản, 2008. Sách đỏ Việt Nam. NXB Khoa học kỹ thuật Hà Nội.<br /> Tiếng Anh<br /> <br /> 7.<br /> <br /> Boyd C.E., 1990. Water Quality in Ponds for Aquaculture (first printing). Birmingham Publishing Co. Birmingham. Alabama.<br /> <br /> 8.<br /> <br /> Cahu, C. Zambonino Infante, J. Takeuchi, 2003. Nutritional component affecting skeletal development in fish larvae.<br /> Aquaculture 227: 245 – 258.<br /> <br /> 9.<br /> <br /> Divanach, P. Boglione, C. Menu, M. Koumoundouros, G. Kentouri, M. Cataudella, 1996. Abnormalities in finfish<br /> mariculture. European Aquaculture Society, October 16-18. Verona, Italy: 45-66.<br /> <br /> 136 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2