TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(34).2009<br />
<br />
<br />
<br />
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH TÍNH SIÊU KỴ NƯỚC CỦA VẬT LIỆU TỔ<br />
HỢP C-CNT VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀO LƯU TRỮ BIOGAS<br />
INVESTIGATING THE SUPER-HYDROPHOBICITY OF THE C-CNT<br />
COMPOSITES AND POSIBILITY OF THE BIOGAS STORAGE<br />
<br />
<br />
Bùi Văn Ga, Phan Thế Anh, Nguyễn Đình Lâm, Nguyễn Văn Đông<br />
Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Đà Nẵng<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Các nhà nghiên cứu khoa học hiệ n nay đang ấ r t quan tâm đến vật liệu Nano carbon<br />
dưới các dạng carbon nano ống (CNT) và carbon nano sợi (CNF) nhờ vào các tính chất hóa<br />
học và vật lý đặc biệt của nó. Trong những ứng dụng tiềm tàng của loại vật liệu này, việc sử<br />
dụng chúng trong hấp thụ và lưu trữ khí Hydro, Methane, khí thiên nhiên, Biogas là những lĩnh<br />
vực đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, kích thước của các vật liệu nano carbon với đường kính khoảng<br />
100 nm gây nên nhiều khó khăn không thể vượt qua cho các ứng dụng công nghiệp. Các<br />
nghiên cứu của chúng tôi hướng vào việc tổng hợp các loại vật liệu tổ hợp C-CNT có cấu trúc<br />
nhờ vào sự nhiệt phân của các polymer làm tác nhân liên kết trong quá trình định hình vật liệu.<br />
Các đặc trưng như: độ bền cơ, độ xốp, bề mặt riêng và đặc biệt là đặc tính tính siêu kỵ nước<br />
của vật liệu thu được đã được nghiên cứu.<br />
ABSTRACT<br />
Carbon nanostructures, nanofibers and nanotubes have so far been a large scientific<br />
and industrial interest thanks to their exceptional physical and chemical properties. Among the<br />
different potential applications, the use of these carbon nanostructures such as absorption and<br />
storage of hydrogen, methane, natural gas, and biogas seems to be very promising. However,<br />
the industrial application of the powder of the nanometric carbons whose diameter is about 100<br />
mm is very difficult. In this work, the composites based on the C-CNT and different resins were<br />
investigated. By their pyrolysis in absence of the air, the C-CNT composites were achieved.<br />
Such properties as mechanical resistance, porosity, specific surface and especially super-<br />
hydrophobicity were also examined.<br />
.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Carbon nanotube đã được khám phá lần đầu tiên vào năm 1991 bởi Iijima.<br />
Chúng luôn hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu khoa học cũng như làm kinh tế bởi cấu<br />
trúc đặc trưng và những tính chất vật lý và hóa học đặc biệt của loại vật liệu này như: độ<br />
bền cơ lớn; khả năng dẫn nhiệt, dẫn điện tốt; độ đen cực cao (hấp thụ 99,9% ánh sáng<br />
mặt trời); bề mặt kỵ nước... Cấu trúc của carbon nanotube được nghiên cứu thường tồn<br />
tại dưới hai dạng: đơn lớp (SWNT, Single Walled NanoTubes) và đaớpl (MWNT,<br />
MultiWalled NanoTubes) [1]. CNT được tổng hợp chủ yếu theo 3 phương pháp: hồ<br />
quang điện (electric arc), cắt gọt nhờ laser (Ablation laser) và phân huỷ xúc tác các khí<br />
chứa carbon hay kết tụ hóa học trong pha hơi (Chemical Vapor Deposition - CVD). Sau<br />
khi đi ra khỏi thiết bị phản ứng, carbon có kích thước nano tồn tại ở dạng bột mịn có<br />
<br />
50<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(34).2009<br />
đường kính khoảng 100nm. Ở kích thước này thì việc ứng dụng chúng vào thực tế sẽ<br />
gặp rất nhiều khó khăn; bởi thao tác trên các loại vật liệu này rất khó khăn, gây trở lực<br />
lớn cho thiết bị hấp phụ hay lưu trữ dạng đệm cố định (fixed-bed). Việc chế tạo vật liệu tổ<br />
hợp C-CNT có cấu trú c trên cơ sở vật liệu n ano carbon là việc làm cần thiết một mặt<br />
nhằm hạn chế những điều bất lợi nói trên và có thể sử dụng nó một cách có hiệu quả hơn.<br />
2. Thực nghiệm<br />
Với ý tưởng mới của chúng tôi là sử dụng một tác nhân kết dính để định hình,<br />
công việc đầu tiên là phải chuẩn bị một composite trên cơ sở là carbon có kích thước<br />
nano. Trong đề tài này chúng tôi sử dụng nguyên liệu là carbone nanotube (CNT) và các<br />
loại nhựa thông dụng làm tác nhân định hình. Sau khi phân tích chúng tôi đã quyết định<br />
chọn ba loại nhựa trong đó có hai loại nhựa nhiệt dẻo là: polyvinyl alcohol (PVA) và<br />
polystyren (PS); một loại nhựa nhiệt rắn: phenol -formaldehyde (PF). Đã có nhiều đề tài<br />
của nhiều tác giả nghiên cứu về composite của carbon nanotube, tuy nhiên chỉ dừng ở<br />
mức độ xem CNT như là tác nhân gia cường để tăng độ bền cơ cho vật liệu polymer<br />
trong đó nền polymer đóng vai trò môi trường phân tán cho CNT, và không bị nhiệt<br />
phân sau khi định hình. Với cách làm như vậy thì tính chất bề mặt của CNT không được<br />
tận dụng một cách triệt để [4-10]. Những ảnh thu được trên hình 1 cho thấy sự khác biệt<br />
giữa vật liệu nano carbon trước và sau khi định hình trong nghiên cứu của chúng tôi.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(a) (b) (c)<br />
<br />
Hình 1. Carbon nanotube trước khi định hình (a),<br />
sau khi định hình dạng viên (b) và dạng tấm (c)<br />
Với mong muốn chuyển tất cả hoặc một phần carbon vô định hình được sinh ra từ<br />
quá trình nhiệt phân nhựa thành carbon nanotube, chúng tôi đã bổ sung vào vật liệu<br />
composite ban đầu một số kim loại xúc tác như Fe và Ni. Sự có mặt của các kim loại xúc<br />
tác này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành CNT từ các hợp chất chứa<br />
carbon theo cơ ch ế "đẩy" (Extrusion hoặc là Root Growth) như được mô tả trên hình 2.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2. Nghiên cứu sự phát triển của CNT bằng kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) chứng<br />
minh cơ chế "đẩy" của quá trình phát triển của CNT [11].<br />
<br />
<br />
51<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(34).2009<br />
Chúng tôi đã sử dụng các kỹ thuật hiện đại như: kính hiển vi điện tử quét<br />
(SEM), phân tích nhiệt vi sai (TG/DTA), phương pháp đo phổ hồn g ngoại (FT-IR), xác<br />
định bề mặt riêng theo phương pháp BET để đánh giá các đặc trưng của sản phẩm thu<br />
được.<br />
2.1. Các nguyên liệu ban đầu<br />
CNT sử dụng được điều chế theo phương pháp CVD theo quy trình được mô tả<br />
ở các công bố trước đây của chúng tôi [11]. Polyvinyl alcohol thương mại PVA -217<br />
[12] được sản xuất bởi tập đoàn KURARAY (Malaysia) được sử d ụ ng trực tiếp mà<br />
không chịu bất kỳ một sự xử lý nào. Nhựa Phenol -formaldehyde (PF) sử dụng [13]<br />
được điều chế trong phòng thí nghiệm dưới dạng nhựa nhiệt rắn Rezolic. Polystyren<br />
thương mại được hòa tan trong toluen đến nồng độ thích hợp.<br />
2.2. Phương pháp định hình<br />
2.2.1. Định hình dạng viên cầu<br />
Chúng tôi đã sử dụng cả ba loại nhựa trên làm tác nhân định hình cho CNT, tuy<br />
nhiên đối với mỗi loại nhựa khác nhau thì phương pháp định hình cũng khác cụ thể là:<br />
với nhựa PVA chúng tôi định hình dạng cầu bằng cách nhỏ từng giọt một vào trong<br />
dung dịch có chứa ion tetraborate B(OH) 4 -, trong khi với n h ựa PF và PS ở mức đ ộ<br />
phòng thí nghiệm chúng tôi sử dụng phương pháp vê tay.<br />
- Với nhựa PVA: chúng tôi chuẩn bị một hỗn hợp đồng nhất gồm PVA – Anhydric<br />
maleic (C 4 H 2 O 3 ) – CNT – (Fe/γ-Al 2 O 3 ). Sau đó nhỏ từng giọt hỗn hợp trên vào hỗn<br />
hợp dung dịch chứa Na 2 B 4 O 7 bão hòa và Na 2 SO 4 bão hòa tại pH≈12 thì PVA bắt đầu<br />
gel hóa mặt ngoài một cách nhanh chóng theo phương trình sau :<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Khi tất cả các hạt hình cầu đã ổn định về hình dạng thì tiến hành rửa nhiều lần<br />
bằng nước cất và sau đó đem đi nhiệt phân dưới môi trường khí trơ (N 2 ) ở nhiệt độ<br />
550oC trong 3h.<br />
- Với nhựa PF: đầu tiên chuẩn bị hỗn hợp đồng nhất gồm 0,5g CNT – 1,85g nhựa PF –<br />
0,15g xúc tác Fe/γ-Al 2 O 3 . Cho vào xylanh để đùn ra dạng hình trụ. Cắt đều từng đoạn<br />
nhỏ rồi tiến hành vê tay ta sẽ định hình được CNT có dạng hình cầu với kích thước có<br />
thể điều chỉnh được. Đem đóng rắn ở nhiệt độ 150oC trong vòng 30 phútđể ổn định<br />
hình dạng, sau đó đem đi nhiệt phân dưới môi trường khí trơ (N 2 ) ở nhiệt độ 850 oC<br />
trong thời gian 5h.<br />
- Với nhựa PS: cách làm tương tự với hỗn hợp gồm 0,5g CNT – 1,625g xốp PS–<br />
52<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(34).2009<br />
0,15g xúc tác Fe/γ-Al 2 O 3 . Đem sấy khô ở nhiệt độ 80oC trong vòng 12h để ổn định hình<br />
dạng, sau đó đem đi nhiệt phân dưới môi trường khí trơ (N 2 ) ở nhiệt độ 500 oC trong<br />
thời gian 3h.<br />
3. Kết quả và thảo luận<br />
Vì nhiệt độ phân hủy của các loại nhựa là khác nhau nên phải có một chế độ<br />
nung hợp lý cho từng loại, bên cạnh đó để định hướng quá trình phân hủy nhựa thành<br />
CNT thì tốc độ gia nhiệt cũng là một yếu tố ảnh hưởng. Để giải quyết vấn đề này chúng<br />
tôi đã tiến hành nghiên cứu giản đồ phân tích nhiệt vi sai (TG/ DTA) kết hợp phổ hồng<br />
ngoại (FT-IR).<br />
3.1. Kết quả phân tích nhiệt vi sai (TG/DTA) và phổ hồng ngoại (FT -IR) của<br />
nhựa PF<br />
Như chúng ta đã biết nhựa PF tạo thành mạng lưới không gian khi đóng rắn<br />
đồng thời trong cấu trúc của nó có chứa các vòng benzen rất bền, vì vậy để phân hủy<br />
hoàn toàn cần phải tiến hành ở nhiệt độ cao. Điều này được làm sáng tỏ hơn khi nghiên<br />
cứu giản đồ TG/DTA trong hình 3 dưới đây. Chúng ta có thể quan sát trên giản đồ xuất<br />
hiện một pic tỏa nhiệt ở nhiệt độ 250oC đó là do xảy ra phản ứng tạo liên kết ngang<br />
giữa các đại phân tử của PF ở mức độ triệt để hơn. Phản ứng loại ra một phân tử nước<br />
làm cho khối lượng của mẫu giảm xuống từ từ. Từ 420oC nhựa PF bắt đầu phân hủy<br />
nhưng phải đến 900oC mới phân hủy hoàn toàn và trong quá trình này có xuất hiện một<br />
pic thu nhiệt ở 640oC (ứng với quá trình phân hủy mạnh nhựa).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3. Giản đồ TG/DTA của PF – CNT với tỉ về khối lượng là 3 – 1.<br />
<br />
<br />
Mặt dù đến 900oC nhựa PF mới phân hủy hoàn toàn nhưng ở nhiệt độ thấp hơn<br />
và lưu trong thời gian dài thì nhựa cũng có thể phân hủy hết. Chúng tôi đã thử nung ở<br />
600oC trong vòng 5h, 850oC trong vòng 3h nhưng vẫn không than hóa hết nhựa, kết quả<br />
được thể hiện bằng phổ hồng ngoại trong hình 4.<br />
<br />
<br />
<br />
53<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(34).2009<br />
<br />
<br />
<br />
Dao động biến dạng của nhóm -OH<br />
Dao động kéo căng của<br />
(a)<br />
hó CH<br />
<br />
<br />
<br />
(b)<br />
<br />
<br />
<br />
(c)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 4. So sánh phổ hồng ngoại của 3 composites C/CNT trên cơ sở nhựa PF<br />
(a): Sau khi đóng rắn ở 150oC, (b): Nung ở 600oC trong 5h, (c): Nung ở 850oC trong 3h<br />
<br />
<br />
Trong điều kiện tiến hành tương tự nhưng chúng tôi thực hiện nung ở 850 oC<br />
trong 5h. Kết quả phổ hồng ngoại thu được trong hình 5(a) và để có cơ sở đối chiếu<br />
chúng tôi đã phân tích phổ hồng ngoại cho nguyên liệu CNT và thu được kết quả như<br />
trong hình 5(b). Kết quả nghiên cứu thu được trên hình 5 cho thấy các dao động đặc<br />
trưng của nhựa PF không còn xuất hiện nữa như trên hình 5(a) và dạng phổ hoàn toàn<br />
tương tự với giản đồ của CNT làm nguyên liệu. Từ đó chúng tôi kết luận rằng ở 850 oC<br />
trong 5h nhựa PF phân hủy hoàn toàn.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 5. Phổ hồng ngoại của composite PF-CNT nung ở 850oC trong 5h (a),<br />
của nguyên liệu CNT(b)<br />
3.2. Kết quả phân tích nhiệt vi sai (TG/DTA) và phổ hồng ngoại (FT -IR) của<br />
nhựa PS<br />
Với cách làm tương tự chúng tôi nhận thấy loại nhựa này có nhiệt độ phân hủy<br />
thấp hơn nhiều so với nhựa PF. Ở 380oC nó bắt đầu phân hủy và quá trình kết th úc ở<br />
500oC, kết quả này được minh chứng trên giản đồ TG/DTA và các nghiên cứu dựa trên<br />
phổ hồng ngoại FT-IR ở hình 6.<br />
<br />
54<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(34).2009<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 6. Giản đồ TG/DTA của PS – CNT của composite PS-CNT và so sánh phổ FT-IR của hai<br />
mẫu PS-CNT trước khi nung (a) và sau khi nung ở 500oC trong 3h (b)<br />
Các kết quả trên cho phép chúng tôi xác lập chế độ nung hợp lý cho các loại<br />
nhựa như trình bày trong bảng 1, trong đó composite C-CNT thu được từ nhựa PS có<br />
nhiều ưu điểm như độ bền cơ cao nhờ hiệu suất hình thành carbon lớn, nhiệt độ phân<br />
hủy thấp và hơn nữa là khả năng dễ dàng chuyển hóa sang CNT của loại nhựa này như<br />
sẽ được trình trong phần 3.3.<br />
Bảng 1: Chế độ nung cho các loại nhựa<br />
<br />
Giá trị<br />
Điều kiện vận hành<br />
Nhựa PF Nhựa PS Nhựa PVA<br />
Môi trường nung N2 N2 N2<br />
Tốc độ gia nhiệt 1oC/1 phút 1oC/1 phút 1oC/1 phút<br />
Nhiệt độ nung tối đa (oC) 850oC 500oC 550oC<br />
Thời gian lưu ở 850oC (h) 5 3 3<br />
Độ bền cơ Đạt Đạt Không đạt<br />
<br />
<br />
3.3. Nghiên cứu các composites C -CNT thu được bằng kính hiển vi điện tử quét<br />
(SEM)<br />
Ảnh thu được từ kính hiển vi điện tử quét (SEM) của composite C-CNT từ nhựa<br />
PF được trình bày ở hình 7 cho thấy rằng với độ phóng đại 50.000 lần và 100.000 lần,<br />
CNT và carbon vô định hình của quá trình phân hủy nhựa PF có một mối liên kết chặt<br />
chẽ, các ống CNT được bao bọc, gắn kết với nhau bởi các nguyên tử carbon vô định<br />
hình mới tạo ra hình 7a và 7c. Sự gắn kết này có thể là do quá trình hình thành mạng<br />
lưới không gian của nhựa PF làm cho nhiệt độ phân hủy của nó rất cao đồng thời khả<br />
năng chuyển hóa carbon v ô định hình thành CNT cũng gặp khó khăn. Nhờ đó, độ bền<br />
cơ của loại sản phẩm này cao hơn nhiều so với vật liệu thu được từ nhựa PVA và PS. Ở<br />
độ phóng đại nhỏ hơn (10.000 lần) chúng ta có thể quan sát một cách bao quát về sự<br />
55<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(34).2009<br />
phân bố giữa CNT và carbon vô định hình. Và kết quả là có sự phân bố đồng nhất cao<br />
thể hiện khá rõ trên hình 7(b).<br />
<br />
<br />
a b<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
c<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 7. Ảnh SEM của « composite » C-CNT trên cơ sở nhựa phenolic (PF).<br />
Đối với composite C-CNT thu được trên cơ sở nhựa PS thì kết quả thu được từ<br />
SEM cho thấy ở độ phóng đại 100.000 lần và 150.000 lần trên hình 8a và 8c, hầu như<br />
không có mặt của carbon vô định hình tạo ra từ quá trình nhiệt phân nhựa PS. Đây là<br />
một thông tin cần phải nghiên cứu chi tiết hơn để có thể khẳng định sự chuyển hóa hoàn<br />
toàn carbon vô định hình sang CNT, trong quá trình nhiệt phân PS với sự có mặt của<br />
xúc tác. Ngoài ra, PS là một polymer không phân cực nên có thể phân tán tốt CNT hơn<br />
là nhựa PF tạo điều kiện dễ dàng khi đồng nhất hóa hỗn hợp trước khi nhiệt phân.<br />
a b<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
c<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 8. Ảnh SEM của « composite » C-CNT trên cơ sở nhựa polystyren.<br />
<br />
3.4. Bề mặt riêng và sự phân bố lỗ xốp của sản phẩm thu được<br />
Để xác định bề mặt riêng, kích thước lỗ xốp, thể tích lỗ xốp và sự phân bố lỗ<br />
xốp chúng tôi tiến hành nghiên cứu hấp phụ N 2 theo phương pháp BET và nhận thấy<br />
rằng sản phẩm thu được có sự hấp phụ vật lí nhiều lớp và tuân theo phương trình hấp<br />
phụ đẳng nhiệt Brunauer – Emmelt – Teller. Kết quả nghiên cứu bề mặt riêng của các<br />
vật liệu C-CNT thu được cho thấy bề mặt riêng của vật liệu nằm trong khoảng từ 130 –<br />
150 m2/g với thể tích lỗ xốp từ 0.3 – 0.4 cm3/g là tương ứng với các giá trị đã công bố<br />
của vật liệu carbon MWNT.<br />
56<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(34).2009<br />
3.5. Tính chất siêu kỵ nước (Superhydrophobility) của vật liệu composite C-CNT<br />
Nếu nghiên cứu về cấu trúc của CNT thì bề mặt ngoài của ống có tính chất kỵ<br />
nước, đặc tính này là cơ sở để có thể áp dụng loại vật liệu tổ hợp này trong lưu trữ khí.<br />
Trên cơ sở của phương pháp tạo viên vật liệu tổ hợp C -CNT, chúng tôi đã tạo tấm loại<br />
vật liệu này để nghiên cứu đặc tính siêu kỵ nước của nó. Khi góc thấm ướt lớn hơn 90 o<br />
thì bề mặt được xem là kỵ nước, còn khi lớn hơn 150 o thì đó là bề mặt siêu kỵ nước.<br />
Sau khi chụp ảnh rồi xác định góc thấm ướt nhờ hỗ trợ bằng phần mềm Autocad chúng<br />
tôi thu được gốc thấm ướt trung bình c ủa bề mặt vật liệu C-CNT là ≈ 162o như được<br />
trình bày ở hình 9.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 9. Xác định góc thấm ướt của vật liệu C-CNT.<br />
<br />
<br />
Kết quả thu được từ nghiên cứu này cho phép khẳng định đặc tính siêu kỵ nước<br />
của loại vật liệu trên cơ sở CNT, mở ra một khả năng tiềm tàng ứng dụng loại vật liệu tổ<br />
hợp C-CNT trong lưu trữ khí Biogas nhằm nâng cao giá trị sử dụng của loại khí này.<br />
<br />
<br />
4. Kết luận<br />
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã định hình thành công vật liệu CNT dưới<br />
dạng viên cầu và dạng tấm có độ bền cao, cho phép sử dụng loại vật liệu này vào các<br />
ứng dụng cụ thể trong lĩnh vực hấp thụ và lưu trữ khí. Chất kết dính trên cơ sở nhựa PS,<br />
ngoài dễ dàng trong thao tác, còn cho phép nâng cao hiệu suất tạo thành CNT trong quá<br />
trình nhiệt phân. Vật liệu thu được thể hiện tính siêu kỵ nước lớn mở ra khả năng ứng<br />
dụng tiềm tàng của nó trong lưu trữ khí. Chúng tôi xin chân thành cám ơn Phòng thí<br />
nghiệm trọng điểm Lọc Hóa dầu, Viện Hóa học Công nghiệp, Phòng thí nghiệm Hóa<br />
dầu trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng đã hỗ trợ và tạo điều kiện cho việc<br />
tổng hợp và đánh giá các đặc trưng của vật liệu thu được.<br />
<br />
<br />
<br />
57<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(34).2009<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] M. Daenen (N), R.D. de Fouw (ST), B. Hamers (ST, Treasurer), P.G.A. Janssen<br />
(ST), K. Schouteden (N), The Wondrous World of Carbon Nanotubes, Eindhoven<br />
University of Technology, 27-02- 2003.<br />
[2] Adrien, Créer des nanotubes de carbone par formation multicouches, Techno-<br />
Science.net, 28-11-2005.<br />
[3] André Chatelain, Jean-Marc Bonnard, Les nanotubes de carbone dix fois plus<br />
rigides que l'acier, No 81, Genève, mai-juin 1998.<br />
[4] T.I.T. Okpalugo, P. Papakonstantinou, H. Murphy, J. McLaughlin, N.M.D. Brown,<br />
High resolution XPS characterization of chemical functionalised MWCNTs and<br />
SWCNTs, Carbon 43 (2005) 153–161.<br />
[5] Florian H. Gojny, Jacek Nastalczyk, Zbigniew Roslaniec, Karl Schulte, Surface<br />
modified multi-walled carbon nanotubes in CNT/epoxy-composites, Chemical<br />
Physics Letters 370 (2003) 820–824.<br />
[6] Ping Li, Tie-Jun Zhao, Jing-Hong Zhou, Zhi-Jun Sui, Ying-Chun Dai, Wei-Kang<br />
Yuan, Characterization of carbon nanofiber composites synthesized by shaping<br />
process, Carbon 43 (2005) 2701–2710.<br />
[7] Marc-Jacques Ledoux, Cuong Pham-Huu, Carbon nanostructures with macroscopic<br />
shaping for catalytic applications, Catalysis Today 102–103 (2005) 2–14.<br />
[8] Se-Jin Oh, Hwa-Jeong Lee, Dong-Ki Keum, Seong-Woo Lee, David H. Wang, Soo-<br />
Young Park, Loon-Seng Tan, Jong-Beom Baek, Multiwalled carbon nanotubes and<br />
nanofibers grafted with polyetherketones in mild and viscous polymeric acid,<br />
Polymer 47 (2006) 1132–1140.<br />
[9] Natnael Behabtua, Micah J. Greena, and Matteo Pasqualia, Carbon nanotube-based<br />
neat fibersCarbon, Nanotoday, Number 5-6 27, Volume 3, oct-dec 2008.<br />
[10] Fei Wei, Qiang Zhang, Wei-Zhong Qian, Hao Yu, Yao Wang, Guo-Hua Luo,<br />
Guang-Hui Xu, De-Zheng Wang, The mass production of carbon nanotubes using<br />
a nano-agglomerate fluidized bed reactor: A multiscale space–time analysis,<br />
Powder Technology 183 (2008) 10–20.<br />
[11] Nguyễn Đình Lâm, Nghiên cứu tổng hợp vật liệu Nano Carbon (Nanotube và<br />
Nanofibre) bằng phư ơng pháp phân hủy xúc tác các hợp chất chứa carbon trong<br />
điều kiện Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp bộ năm 2006,<br />
mã số: B2006-DN02-02.<br />
[12] Manfred L. Hallensleben, Polyvinyl Compounds, Others, Universit¨at Hannover,<br />
Institut f¨ur Makromolekulare Chemie, Hannover, Federal Republic of Germany,<br />
2005 Wiley-VCH Verlag GmbH & Co. KGaA, Weinheim 10.1002/14356007.a21<br />
743.<br />
[13] Wolfgang Hesse, Hoechst AG, Werk Kalle – Albert, Wiesbaden, Phenolic Resins,<br />
2005 Wiley-VCH Verlag GmbH & Co. KGaA, Weinheim 10.1002/14356007.a19<br />
371.<br />
[14] J ¨ urgen Maul, Bruce G. Frushour, Jeffrey R. Kontoff, Herbert Eichenauer, Karl-<br />
Heinz Ott, Bayer AG, Dormagen, Christian Schade, Polystyrene and Styrene<br />
Copolymers, 2007 Wiley-VCH Verlag GmbH & Co. KGaA, Weinheim<br />
10.1002/14356007.a21 615.pub2.<br />
<br />
58<br />