11
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
LÊ TỰ QUỐC TUẤN
NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU CÁC NHÁNH THẦN KINH
CHI PHỐI CƠ VÒNG MẮT VÀ CƠ DUỖI CÁC NGÓN TAY
ỨNG DỤNG TRONG KỸ THUẬT GHI ĐIỆN CƠ SỢI ĐƠN
Ở BỆNH NHÂN NHƯỢC CƠ
Chuyên ngành : Khoa học y sinh
Mã số : 9720101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. PHẠM ĐĂNG DIỆU
2. GS. TS. NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
HÀ NỘI – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
LÊ TỰ QUỐC TUẤN
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt trong luận án
Danh mục thuật ngữ Anh-Việt
Danh mục các bảng
Danh mục sơ đồ
Danh mục các biểu đồ
Danh mục các hình
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................ 3
1.1. KHÁI NIỆM ĐIỂM VẬN ĐỘNG CỦA HỆ CƠ VÂN .......................... 3
1.2. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU CƠ VÒNG MẮT, CƠ DUỖI CÁC NGÓN
VÀ SINH LÝ BỆNH HỌC BỆNH NHƯỢC CƠ ................................... 5
1.2.1. Đặc điểm giải phẫu cơ vòng mắt ...... Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Đặc điểm giải phẫu cơ duỗi các ngón tayError! Bookmark not
defined.
1.2.3. Sinh lý bệnh học bệnh nhược cơ ..... Error! Bookmark not defined.
1.3. CÁC KỸ THUẬT CHẨN ĐOÁN ĐIỆN TRONG CHẨN ĐOÁN
BỆNH NHƯỢC CƠ ................................................................................ 5
1.3.1. Kỹ thuật kích thích lặp lại ................................................................. 5
1.3.2. Kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn ............................................................. 5
1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BỆNH NHƯỢC CƠ VÀ ỨNG DỤNG
GIẢI PHẪU VÀO KỸ THUẬT GHI ĐIỆN CƠ SỢI ĐƠN TRÊN
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM .................................................................. 17
1.4.1. Nghiên cứu trên thế giới ................................................................. 17
1.4.2. Nghiên cứu trong nước ................................................................... 17
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......... 20
2.1. NHÓM 1 (NGHIÊN CỨU TRÊN XÁC) .............................................. 20
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 20
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................ 20
2.1.3. Phương tiện nghiên cứu và xử lý số liệu nhóm 1 ........................... 29
2.2. NHÓM 2 (NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG) ............................................. 31
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu. .................................................................... 31
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................ 31
2.2.3. Phương tiện nghiên cứu và xử lý số liệu nhóm 2 ........................... 38
2.3 Đạo đức nghiên cứu ............................................................................... 39
2.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ........................................................ 39
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 41
3.1. NHÓM 1 ( NHÓM PHẪU TÍCH) ........................................................ 41
3.1.1. Một số đặc điểm giải phẫu các phân nhánh của thần kinh mặt
cho cơ vòng mắt .............................................................................. 41
3.1.2. Một số đặc điểm giải phẫu các phân nhánh sâu của thần kinh
quay cho cơ duỗi các ngón ............................................................. 56
3.2. NHÓM 2 (NHÓM BỆNH NHÂN ĐO SFEMG) .................................. 63
3.2.1. Tuổi và giới ..................................................................................... 63
3.2.2. Tuổi phát bệnh ................................................................................ 64
3.2.3. Đặc điểm ghi điện cơ sợi đơn ......................................................... 67
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ............................................................................ 77
4.1. MẪU PHẪU TÍCH ............................................................................... 77
4.1.1. Mẫu phẫu tích cơ vòng mắt ............................................................ 77
4.1.2. Mẫu phẫu tích cơ duỗi các ngón ..................................................... 80
4.2. MẪU BỆNH NHÂN ĐO GHI ĐIỆN CƠ SỢI ĐƠN ........................... 83
4.2.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu .............................................................. 83
4.2.2. Đặc điểm kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn ........................................... 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 97
KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 99
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN
CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BMGP Bộ môn Giải phẫu
BN Bệnh nhân
BV Bệnh viện
Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh ĐHYD
ĐHYKPNT Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
TK Thần kinh
Cơ DCN Cơ duỗi các ngón tay
Cơ VM Cơ vòng mắt
TKNB thần kinh ngoại biên
cs cộng sự
DANH MỤC THUẬT NGỮ ANH VIỆT
Electrodiagnosis: EDX kỹ thuật chẩn đoán điện
Repetitive nerve stimulation: RNS kỹ thuật kích thích lặp lại
SFEMG Ghi điện cơ sợi đơn: Single fiber
electromyography: SFEMG
Single fiber potential điện thế sợi đơn
Stimulated SFEMG (Stimulated Ghi điện cơ sợi đơn kiểu kích thích
single fiber electromyography) điện dây thần kinh, còn gọi là ghi điện
cơ sợi đơn kiểu kích thích
Volitional SFEMG (Volitional Ghi điện cơ sợi đơn kiểu co cơ chủ ý,
single fiber electromyography) còn gọi là ghi điện cơ sợi đơn kiểu
chủ ý
Ach Achetylcolin.
Ach Receptor: AchR Thụ thể Ach
Achetylcholin esterase: AchE men Ach esterase
Monopolar needle Điện cực kim đơn cực
Concentric needle: CNE Điện cực kim đồng trục
SFEMG needle điện cực kim sợi đơn chuyên dụng
Scalp needle điện cực kim dưới da
Synapse Xi náp
Neuromuscular junction: NMJ xi náp thần kinh cơ
Acetylcholine receptor: Ach R Thụ thể Ach
Nicotinic Ach Receptor thụ thể Ach thuộc hệ nicotinic
Motor unit action potential: Điện thế đơn vị vận động
MUAP, motor unit potential: MUP.
Velocity recovery function: VRF chức năng phục hồi vận tốc
DANH MỤC THUẬT NGỮ ANH VIỆT
Compound muscle action potential: Điện thế cơ họat động toàn phần
CMAP
Mean individual interpotential Trung bình các khoảng gian điện thế
intervals: MIPI sợi đơn
Mean value of consecutive trung bình của các hiệu số kế tiếp
differences : mean MCD( Jitter). nhau, độ bồn chồn
Lipoprotein-related protein 4: lipoprotein liên quan protein 4
LRP4
Muscle-specific receptor tyrosine các thụ thể tyrosine kinase cơ đặc thù
kinase: MuSK
collagen Q: ColQ Colagen Q
Human Leucocyte Antigen: HLA kháng nguyên bạch cầu người
Epstein-Barr virus: EBV Vi rút Eptein Barr
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
1.1. So sánh độ nhạy của các cận lâm sàng chẩn đoán bệnh nhược cơ 27
1.2. So sánh 2 phương thức thực hiện của kỹ thuật SFEMG 29
1.3. Tiêu chuẩn bất thường của độ bồn chồn trong SFEMG 32
1.4. Giá trị bình thường của độ bồn chồn trong kỹ thuật SFEMG 33
2.1. Mô tả số liệu kết quả ghi điện cơ sợi đơn 58
3.1. Số lượng phân nhánh từ nhánh thái dương và nhánh gò má 61
3.2. Chi tiết số lượng phân nhánh từ nhánh thái dương và nhánh gò má 62
3.3. Phân bố số lượng các nhánh thần kinh đi vào cơ duỗi các ngón. 82
3.4. Đặc điểm điều trị khi đo SFEMG lần đầu trong đợt nghiên cứu 93
3.5. Chi tiết độ bồn chồn khi đo SFEMG ở cơ vòng mắt 94
3.6. Chi tiết độ bồn chồn khi đo SFEMG ở cơ duỗi các ngón 95
3.7. So sánh kết quả SFEMG kỹ thuật kích thích ở cơ vòng mắt 98
3.8. So sánh kết quả SFEMG kỹ thuật kích thích ở cơ duỗi các ngón 101
3.9. Kết quả tổng hợp SFEMG ở cơ vòng mắt và cơ duỗi các ngón 102
theo phân độ Osserman
107 4.1. So sánh số lượng các nhánh Ri vào cơ duỗi các ngón
4.2. So sánh độ nhạy SFEMG với các tác giả khác 118
4.3. So sánh kết quả SFEMG ở 2 cơ vòng mắt và duỗi các ngón 119
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ Tên sơ đồ Trang
2.1. Minh họa phương pháp đo SFEMG trong nghiên cứu 56
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
3.1. Số điểm vận động nhánh gò má ½ dưới cơ vòng mắt 2 bên 63
3.2. Số điểm vận động nhánh thái dương ở 1/2 trên và 1/2 dưới 64
cơ vòng mắt bên trái.
3.3. Số điểm vận động nhánh thái dương ở 1/2 trên và 1/2 dưới 64
cơ vòng mắt bên phải.
3.4. Mô tả sự phân bố các phân nhánh thái dương của thần kinh 67
mặt vào ½ trên cơ vòng mắt theo các hệ trục
3.5. Mô tả sự phân bố các phân nhánh thái dương của thần kinh 68
mặt vào 1/2 dưới cơ vòng mắt theo các hệ trục
3.6. Mô tả sự phân bố các phân nhánh gò má của thần kinh mặt 70
vào cơ vòng mắt theo các hệ trục
3.7. 3 vùng 1cm2 chứa các phân nhánh gò má của thần kinh mặt 72
đi vào cơ vòng mắt
3.8. 3 vùng 1cm2 chứa các phân nhánh thái dương của thần kinh 74
mặt đi vào ½ dưới cơ vòng mắt
3.9. 3 vùng 1cm2 chứa các phân nhánh thái dương của thần kinh 76
mặt đi vào ½ trên cơ vòng mắt.
3.10. Phân bố số lượng các nhánh thần kinh đi vào cơ duỗi các 83
ngón
84 3.11. Tọa độ điểm nQ0
3.12. Biểu diễn mật độ phân bố các nhánh thần kinh quay vào cơ 85
duỗi các ngón
3.13. Mô tả sự phân bố các phân nhánh thần kinh quay vào cơ duỗi 85
các ngón
Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
86 3.14. Vùng 1cm2 mô tả sự phân bố cao nhất các nhánh Ri
3.15. Phân bố tuổi bệnh nhân nghiên cứu 89
3.16. Phân bố giới tính trong nghiên cứu 90
3.17. Phân bố tuổi khởi phát của bệnh nhân 90
3.18. Phân bố tuổi khởi phát nam 91
3.19. Phân bố tuổi khởi phát nữ 91
3.20. Thời gian phát hiện bệnh 92
3.21. Phân độ Osserman tại thời điểm ghi SFEMG 92
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình Tên hình Trang
1.1. Cấu tạo chung của cơ vân 3
1.2. Sơ đồ các nhánh phân phối điển hình của các nhánh vận động 4
của thần kinh quay ở cẳng tay
1.3. Hai thành phần của cơ vòng mắt 6
1.4. Giải phẫu cơ vòng mắtvà các cơ biểu hiện nét mặt 7
1.5. Minh họa các nhánh thần kinh chi phối cơ vòng mắt 8
1.6. Minh họa cơ duỗi các ngón và các liên kết gian gân 10
1.7. Các phân nhánh của thần kinh quay chi phối cơ duỗi các ngón 11
1.8. Xi náp thần kinh cơ dưới kính hiển vi điện tử của người bình thường 12
1.9. Sơ đồ xi náp thần kinh cơ. 14
1.10. Sơ đồ phức hợp MuSK-LRP4-ColQ 17
1.11. Kết quả kỹ thuật kích thích lặp lại 21
1.12. Các dạng đáp ứng của kỹ thuật kích thích lặp lại 22
1.13. Sơ đồ tương quan của các sợi cơ liền kề với 4 loại kim 24
1.14. Minh họa kỹ thuật đo SFEMG kiểu co cơ chủ ý 26
1.15. Minh họa 2 cách đo độ bồn chồn ( Jitter) trong SFEMG 28
1.16. Các kiểu kích thích điện 30
2.1. Các đường chuẩn và mốc của cơ vòng mắt trong nghiên cứu 39
2.2. Các trục tọa độ và mốc của cơ vòng mắt trong nghiên cứu 40
2.3. Minh họa các mốc đo đạc thu thập số liệu của cơ vòng mắt 41
trong nghiên cứu
2.4. Đường rạch da (đường đứt nét) vùng mặt 43
2.5. Đánh dấu vị trí các đầu tận thần kinh vào cơ trán và cơ vòng mắt 44
2.6. Đường rạch da tiếp cận vùng cẳng tay sau 45
Hình Tên hình Trang
46 2.7. Đánh dấu vị trí các đầu tận thần kinh quay đi vào cơ duỗi các ngón
47 2.8. Hệ trục tọa độ XO2Y định vị trong khảo sát các chi tiết giải phẫu
ở cơ duỗi các ngón
47 2.9. Đánh dấu vị trí các đầu tận thần kinh quay đi vào cơ duỗi các ngón
48 2.10. Bộ dụng cụ phẫu tích và kim cúc( dùng đánh dấu)
48 2.11. Kính vi phẫu Carl Zeiss độ phóng đại 2-25 lần
49 2.12. Các dụng cụ đo đạc thu thập số liệu
50 2.13. Chụp hình bằng máy ảnh kỹ thuật số lưu trữ sau thu thập số liệu
55 2.14. Minh hoạ kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ vòng mắt
56 2.15. Minh hoạ kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ duỗi các ngón
61 3.1. Minh họa giới hạn cơ vòng mắt (đường vẽ màu vàng)
63 3.2. 6 nhánh thái dương đi vào ½ dưới cơ vòng mắt và 7 nhánh thái
dương đi vào ½ trên cơ vòng mắt
3.3. Tam giác thần kinh mặt( màu tím) và tam giác nguy hiểm số 2 66
(màu vàng)
72 3.4. Biểu diễn các hình elip của phân nhánh gò má trên 3 hệ trục tọa độ
78 3.5. Vùng phân bố các phân nhánh gò má đi vào cơ vòng mắt trên hệ
trục X1O1Y1
3.6. Vùng phân bố các phân nhánh gò má đi vào cơ vòng mắt trên hệ 79
trục X2 O1Y2
3.7. Vùng phân bố các phân nhánh gò má đi vào cơ vòng mắt trên hệ 80
trục X3 O1Y3
3.8. Minh họa vị trí đặt điện cực kích thích, đối chiếu ( hình đĩa) và điện 81
cực ghi ( kim đồng trục) ở cơ vòng mắt
3.9. 21 phân nhánh chi phối cơ duỗi các ngón của nhánh sâu thần 83
kinh quay phải
Hình Tên hình Trang
88 3.10. Vùng phân bố các phân nhánh thần kinh quay (nQi) đi vào cơ
duỗi các ngón
3.11. Minh họa vị trí đặt điện cực kích thích ( kim đơn cực) vào cơ duỗi 88
các ngón
3.12. Mô tả kết quả một trường hợp đang thực hiện SFEMG ở cơ vòng mắt 96
3.13. Dữ liệu chi tiết kết quả đo SFEMG ở cơ vòng mắt thực hiện từ 97
máy điện cơ Viking EDX
3.14. Dữ liệu chi tiết kết quả SFEMG tại cơ duỗi các ngón 100
4.1. Vùng nguy hiểm số 2 104
4.2. Sơ đồ đặt điện cực trong kỹ thuật SFEMG ở cơ vòng mắt theo 105
phương pháp mới
4.3. Số lượng các nhánh sâu của thần kinh quay (mũi tên đen) chi phối 107
cơ DCN, duỗi cổ tay trụ và duỗi riêng ngón trỏ.
4.4. 9 phân nhánh chi phối cơ duỗi các ngón của nhánh sâu thần kinh 108
quay trái
4.5. 16 phân nhánh chi phối cơ duỗi các ngón của nhánh sâu thần 108
kinh quay phải
4.6. Sơ đồ đặt điện cực trong kỹ thuật SFEMG ở cơ duỗi các ngón 109
theo phương pháp mới
4.7. Minh hoạ kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ vòng mắt với 115
điện cực thanh
4.8. Minh hoạt kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ vòng mắt với 116
điện cực hình đĩa
4.9. Minh hoạ kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ duỗi các ngón 117
với điện cực đơn cực ở bn Hồ Minh H.
4.10. Sơ đồ đám rối thần kinh mặt chi phối cơ vòng mắt và vùng ổ mắt 122
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh nhược cơ được Thomas Willis mô tả lần đầu tiên vào năm 1672,
tiếp theo là Wilhelm Erb (1879) và Samuel Goldflam (1893) đã ghi nhận một
cách có hệ thống các trường hợp lâm sàng mắc bệnh này. Năm 1895 Jolly đặt
tên bệnh là bệnh nhược cơ hay nhược cơ trầm trọng và được dùng cho đến
ngày nay [1].
Ngoài những tài liệu kinh điển nước ngoài [2], [3] [4]; những năm gần
đây, đã có nhiều sách trong nước viết về bệnh nhược cơ [5], [6], [7], [8], [9],
[10], [11], 12], [13], [14]. Biểu hiện lâm sàng của bệnh là sự mỏi cơ dao động-
nặng hơn sau gắng sức và giảm khi nghỉ ngơi-thường bắt đầu ở mắt. Trường
hợp nặng nhóm cơ hô hấp bị ảnh hưởng gây khó thở và dẫn đến suy hô hấp,
cần được cấp cứu kịp thời tại các bệnh viện có chuyên khoa thần kinh. Ngược
lại nhược cơ thể mắt thường biểu hiện rất kín đáo, đa dạng và khó phát hiện;
dễ nhầm lẫn với bệnh thuộc nhiều chuyên khoa khác: mắt, tâm thần, nội
tiết,… nên đã có nhiều bệnh nhân phải mất nhiều năm mới được chẩn đoán
chính xác.
Ở các trung tâm y tế trên thế giới cũng như tại Việt Nam, chẩn đoán
điện cơ là một trong những phương pháp quan trọng và kỹ thuật ghi điện cơ
sợi đơn (SFEMG) được đánh giá là phương pháp nhạy nhất trong phát hiện
bệnh nhược cơ đặc biệt là các trường hợp bệnh nhẹ (nhược cơ thể mắt). Tuy
nhiên trong y văn tiếng Việt mới chỉ có một công trình nghiên cứu về kỹ thuật
chẩn đoán mới này [15] và đã được tác giả Nguyễn Hữu Công và Nguyễn Văn
Chương mô tả trong giáo trình y khoa giảng dạy [16], [17].
Kỹ thuật SFEMG hiện có nhiều phương thức thực hiện theo 2 kiểu
chính là: kiểu kích thích điện dây thần kinh và kiểu co cơ chủ ý [18], [19]. Và
tuy kỹ thuật SFEMG có thể thực hiện trên nhiều cơ, nhưng cơ vòng mắt (VM)
và cơ duỗi các ngón tay (DCN) được áp dụng nhiều nhất. Vị trí kích thích
2
(bằng điện cực kim hay điện cực bề mặt) có sự khác biệt giữa các tác giả,
nhưng đều dựa trên nguyên tắc là phải chọn vị trí kích thích sao cho gần sát
tấm tận cùng vận động của thần kinh chi phối cơ đó.
Do sự xuất hiện của bệnh Prion và sự lan tràn của nhiễm HIV, hiện nay
toàn thế giới đã chuyển sang sử dụng điện cực kim thường quy đồng trục
dùng một lần vào trong kỹ thuật SFEMG để đo độ bồn chồn (Jitter) thay thế
cho điện cực kim chuyên dụng. Sử dụng điện cực đồng trục để thực hiện kỹ
thuật SFEMG, đặc biệt là trong kỹ thuật kích thích điện hay gặp khó khăn,
nhiễu,…do diện tích thu nhận tín hiệu quá lớn so với kim chuyên dụng; vì vậy
các nhà điện cơ hàng đầu thế giới là Stålberg E. và cs (2016) cho rằng việc
khảo sát cơ DCN với kim đồng trục là khó khăn; đặc biệt khi sử dụng kỹ thuật
kích thích điện [20].
Nếu xác định được vùng tập trung các điểm vận động của các cơ
thường làm trong kỹ thuật SFEMG, thì có thể giúp cho việc tiến hành kỹ thuật
này thuận lợi và giảm nhiễu hơn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các đặc điểm
giải phẫu 2 cơ VM và cơ DCN đặc biệt là việc nghiên cứu vùng phân bố các
điểm vận động qua phẫu tích xác người Việt là rất cần thiết. Kết quả nghiên
cứu sẽ là cơ sở giải phẫu chính xác để áp dụng vào kỹ thuật ghi điện cơ sợi
đơn kiểu kích thích bằng kim đồng trục sử dụng 1 lần trong chẩn đóan bệnh
nhược cơ trên người Việt. Trên cơ sở đó, đề tài “Nghiên cứu giải phẫu
nhánh thần kinh chi phối cơ vòng mắt và cơ duỗi các ngón tay, ứng dụng
vào kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn ở bệnh nhân nhược cơ” được thực hiện
với các mục tiêu nghiên cứu như sau:
1. Mô tả đặc điểm giải phẫu các nhánh thần kinh mặt chi phối cơ vòng
mắt và các nhánh thần kinh quay chi phối cơ duỗi các ngón tay trên
xác người Việt trưởng thành.
2. Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn ở cơ
vòng mắt và cơ duỗi các ngón tay ở bệnh nhân nhược cơ.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. KHÁI NIỆM ĐIỂM VẬN ĐỘNG CỦA HỆ CƠ VÂN
Điểm vận động được Duchenne định nghĩa lần đầu tiên từ năm 1867 [21],
ngày nay được cụ thể hóa là nơi đi vào của nhánh thần kinh vận động tại màng
trên cơ (epimysium) của bụng cơ [22] (hình 1.1). Các nhà giải phẫu đã phát hiện
ra có nhiều cơ ở tứ chi có nhiều điểm vận động và các nhà sinh lý học cũng đã
Màng trên cơ
Mô kẽ quanh cơ
Màng quanh cơ
khảo sát các đặc điểm co rút các cơ bởi nhiều nhánh thần kinh vận động [23].
(a: hình quét rã đông từ kính hiển vi điện tử của mô liên kết trong cơ của cơ bán
gân của bò, b: sơ đồ cấu trúc cơ vân và liên quan với mô liên kết chung quanh)
* nguồn: Ross M.H và cs (2011) [22].
Hình 1.1. Cấu tạo chung của cơ vân
Liu J. và cs (1994) đã công bố nghiên cứu đặc điểm co cơ qua kích
thích điện tại các điểm vận động trên 60 đầu dài cơ tam đầu của thỏ lai New
Zealand [21]. Nhưng hiện tại chưa có y văn nào đề cập đến các điểm vận động
ở thần kinh mặt chi phối cơ VM; và có rất ít y văn nghiên cứu đặc điểm, số
lượng các điểm vận động của thần kinh quay chi phối cơ DCN [23], [24],
4
[25]. Tuy nhiên, các y văn này được thiết kế nghiên cứu phục vụ cho các ứng
dụng phẫu thuật chức năng và không mô tả vùng phân bố của các điểm vận
động cho cơ DCN:
- Abrams R.A. và cs (1997) đã phẫu tích và đo đạc chiều dài và thứ tự
chi phối của các phân nhánh vận động chi phối các cơ vùng cẳng tay trên 20
mẫu xác tươi (12 bên phải và 8 bên trái) nhằm áp dụng trong: vi phẫu khâu nối
thần kinh, phong bế thần kinh và đánh giá tốc độ và thứ tự phục hồi của cơ sau
Cánh tay quay
Duỗi cổ tay quay dài
Nhánh sâu thần kinh quay
Cơ ngửa
Duỗi các ngón
-
tổn thương [23].( hình 1.2)
Hình 1.2. Sơ đồ các nhánh phân phối điển hình của các nhánh vận động
của thần kinh quay ở cẳng tay
(Các con số biểu hiện khoảng cách bằng mm dọc theo thân thần kinh và các nhánh tính
từ điểm mốc 100 mm trên lồi cầu ngoài xương cánh tay)
* nguồn: Abrams R.A. và cs (1997) [23].
5
- Liu J. và cs (1997) phẫu tích trên 19 cơ cẳng tay (8 cơ gấp và 11 cơ
duỗi) của 10 cẳng tay xác tươi người châu Á trưởng thành để nghiên cứu cách
thức phân bố và số lượng của các nhánh vận động xuất phát từ thân thần kinh
cũng như các điểm vận động của các cơ gấp và duỗi cẳng tay [24].
- Sawaft E.D. và cs (2007) phẫu tích trên 23 mẫu cẳng tay xác người
trưởng thành để khảo sát số lượng, vị trí và sự phân bố các điểm vận động ở các
cơ gấp và duỗi ở cẳng tay [25].
Cả Liu J. (1997) và Sawaft E.D. (2007) đều nhằm mục tiêu: áp dụng đặt
điện cực tại các điểm vận động trong kích thích điện để phục hồi chức năng ở
các bệnh tổn thương nơ ron vận động trên cũng như phục vụ cho yêu cầu hủy
chọn lọc các phân bố thần kinh trong các bệnh co cứng cơ chi trên [24], [25].
Sawaft E.D. nhấn mạnh kích thích điện gần hoặc ngay vị trí điểm vận động gây
co cơ tối đa [25].
1.2. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU CƠ VÒNG MẮT, CƠ DUỖI CÁC NGÓN
VÀ SINH LÝ BỆNH HỌC BỆNH NHƯỢC CƠ
1.3. CÁC KỸ THUẬT CHẨN ĐOÁN ĐIỆN TRONG CHẨN ĐOÁN
BỆNH NHƯỢC CƠ
Hiện nay kỹ thuật chẩn đoán điện đã đóng một vai trò rất quan trọng
trong việc đánh giá lâm sàng của bệnh nhân có rối loạn thần kinh cơ. Một
phần là do sự hiểu biết ngày càng rõ hơn về sinh lý bệnh của các bệnh này,
phần chính yếu là sự phát triển của các kỹ thuật chẩn đoán điện. Sự ra đời của
máy tính đã làm tăng tốc độ và tính chính xác cho các xét nghiệm chẩn đoán
điện. Ngày nay có 2 kỹ thuật chẩn đoán điện cơ dùng trong chẩn đoán bệnh
nhược cơ là: tét chẩn đoán nhược cơ (còn gọi là kỹ thuật kích thích lặp lại) và
kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn.
1.3.1. Kỹ thuật kích thích lặp lại
1.3.2. Kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn
6
Ghi điện cơ sợi đơn là một kỹ thuật điện cơ đặc biệt được phát minh bởi
Erik Stälberg va Ekstedl vào năm 1963 của thế kỷ 20 và và bắt đầu áp dụng
trên thế giới từ thập niên 70 [19]. Cho đến hiện nay (2017), kỹ thuật SFEMG
vẫn là phương pháp có độ nhạy cao nhất trong việc chẩn đoán rối loạn khớp
thần kinh cơ như bệnh nhược cơ.
Trước đây người ta sử dụng loại kim được chế tạo đặc biệt dùng trong
kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn. Kim này có tiết diện ghi rất nhỏ, đường kính chỉ
khỏang 25 µm, và sử dụng độ lọc tần số cao (500 Hz), để ghi được riêng rẽ
điện thế họat động của từng sợi cơ. Trong khi đó kim điện cơ thông thường thì
không thể ghi riêng rẽ vì các điện thế của từng sợi cơ thuộc 1 đơn vị vận động
sẽ hòa lẫn vào nhau, tạo nên điện thế của đơn vị vận động.
Sự xuất hiện của bệnh prion (Creutzfeldt Jacob: bệnh bò điên; hội
chứng Gerstmann-Strauller-Scheiker) và các bệnh do nhiễm HIV đã dẫn đến
các bệnh viện trên toàn thế giới hạn chế tối đa việc tái sử dụng vật liệu tiệt
trùng, bao gồm các điện cực kim điện cơ; mặc dù không có báo cáo của việc
nhiễm bệnh do việc tái sử dụng các điện cực này [20], [76]. Kể từ năm 2001,
các phòng chẩn đoán điện chuyển sang sử dụng các điện cực kim thông
thường dùng một lần, ngày càng nhiều bởi vì chi phí thấp, không cần bảo trì,
luôn sắc bén và đã được tiệt trùng sẵn [20].
Tuy khả năng xác định độ bồn chồn của điện cực kim sợi đơn chuyên
dụng là cao, nhưng giá thành của điện cực kim chuyên dụng quá đắt nên nhu
cầu tìm kiếm một loại kim thay thế cho việc đo độ bồn chồn thần kinh cơ là
cấp bách. Vì chưa có nhà sản xuất nào sản xuất đựợc một điện cực kim sợi
đơn chuyên dụng dùng một lần rẻ tiền, nên nhiều loại điện cực kim thông
thường đã và đang được sử dụng để đo tính bồn chồn.
Mustafa Ertas là tác giả đầu tiên mô tả kỹ thuật SFEMG với điện cực
kim đồng trục (CNE) và thấy rằng độ nhạy của kỹ thuật SFEMG với kim đồng
trục tương đương với kim chuyên dụng trong chẩn đoán bệnh nhược cơ [77].
7
Năm 2006 bằng kỹ thuật co cơ chủ ý với điện cực kim đồng trục, Benatar đã
công bố kết quả đo SFEMG ở cơ trán [78] và Sarrigiannis cũng đã công bố
kết quả đo SFEMG ở hai cơ DCN và cơ VM [79].
Stålberg E.(2012) đã nêu rất chi tiết về số lượng điện thế sợi đơn thu
nhận được của từng loại kim [80] (hình 1.13):
- Điện cực kim chuyên dụng - có vùng thu nhận tín hiệu là 0,0005mm2 -
chỉ tiếp xúc với hầu như chỉ 1 sợi cơ, và có thể thu nhận tín hiệu của 1 hay 2
sợi cơ.
- Điện cực kim đồng trục loại nhỏ nhất (còn gọi là điện cực dùng cho cơ
mặt, hoặc cho trẻ em)- có diện tích vùng thu nhận tín hiệu là 0,0019mm2 - tiếp
xúc lên tới 3 sợi cơ, và có thể thu nhận thêm tín hiệu từ 3 -5 sợi cơ khác. Kim
này có bề mặt ghi hình bầu dục, kích cỡ 80x300 m lớn hơn khoảng cách
trung bình giữa 2 sợi cơ liền kề nhau, ở hầu hết các cơ (khoảng 200 m), nằm
trong phạm vi của một đơn vị vận động là 5-15 mm [20].
- Điện cực kim đồng trục loại thông thường- có vùng thu nhận tín hiệu
là 0,070mm2 - tiếp xúc với 4 sợi cơ, và có thể thu nhận thêm tín hiệu từ 5 - 10
sợi cơ khác.
- Điện cực kim đơn cực hiện nay được khuyến cáo không dùng, bởi vì
diện tích thu nhận tín hiệu quá lớn (khoảng 0,240 µm2), điện cực đối chiếu lại
đặt xa với mũi kim (điện cực hoạt động) thu nhận tín hiệu nên không thể ức
Chiều rộng
Chiều dài
Diện tích
Diện tích thu nhận
Kim đơn cực
Kim đồng trục
Kim đồng trục, mặt
Kim chuyên dụng
chế hiệu quả các tín hiệu từ xa.
8
*Nguồn: theo Stålberg E. (2012) [80]
Hình 1.13. Sơ đồ tương quan của các sợi cơ liền kề với 4 loại kim.
Ngày nay, đại đa số người làm điện cơ đều nhất trí rằng dùng điện cực
kim đồng trục với diện tích ghi nhỏ nhất có sẵn trên thị trường là giải pháp
thay thế thích hợp nhất [19], [20], [81]
Có các báo cáo cho rằng giá trị của độ bồn chồn giữa 2 loại kim chuyên
dụng và kim đồng trục loại nhỏ nhất này rất tương đồng [82], nhưng cũng có
nhiều tác giả cảnh báo về khả năng bị nhiễu kỹ thuật, vì kim đồng trục có diện
ghi nhận quá lớn (Hình 1. 13) [83]. Điện cực kim sợi đơn độc chuyên dụng ghi
được: mật độ sợi cơ và độ bồn chồn thần kinh cơ; nhưng điện cực kim đồng trục
thông thường chỉ ghi độ bồn chồn thần kinh cơ mà thôi.
Độ bồn chồn thần kinh cơ: khi đặt điện cực ở 1 vị trí nào đó ghi được
điện thế của 2 hoặc 3 sợi cơ của cùng 1 đơn vị vận động, ta thấy giữa các điện
thế có 1 khoảng cách. Khoảng cách này biểu thị sự khác biệt về thời gian dẫn
truyền trên các nhánh thần kinh tận cùng (dài ngắn khác nhau) và dẫn truyền
qua xi náp thần kinh - cơ. Khi cố định điện thế đầu tiên trên màn hình, cho
bệnh nhân co cơ liên tục chủ ý hoặc bằng kích thích điện, ta sẽ thấy điện thế
thứ hai (thứ ba, thứ tư,..) dịch chuyển ra trước và ra sau liên tục mà không ổn
định 1 chỗ, giống như 1 kẻ bồn chồn (jitter) đi tới đi lui vậy [15].
Ở người bình thường, độ bồn chồn của 1 đơn vị vận động thay đổi rất ít,
còn trên bệnh nhân nhược cơ, độ bồn chồn sẽ gia tăng nhiều do dẫn truyền qua xi
náp không ổn định. Người ta lấy liên tiếp các hiệu số của khỏang cách kế tiếp
nhau qua mỗi lần đơn vị vận động phóng xung co cơ, và tính giá trị trung bình
D = Các khoảng gian điện thế sợi đơn
n = số lượng các điện thế sợi đơn
của các hiệu số này, gọi là trung bình của các hiệu số kế tiếp nhau (MCD).
9
MCD càng lớn, chứng tỏ dẫn truyền qua xi náp càng không ổn định.
Hiện nay người ta đã thiết lập được giá trị MCD ở người bình thường cho
nhiều cơ, MCD có giá trị từ 10 tới 50 µs. Trên bệnh nhân nhược cơ, MCD
tăng, thậm chí cả khi không có biểu hiện lâm sàng và test kích thích lặp lại âm
tính [18], [19].
Tuy kỹ thuật SFEMG vẫn được khẳng định là nhạy nhất trong việc
chẩn đoán bệnh nhược cơ, nhưng SFEMG lại không có tính đặc hiệu khi so
với các kỹ thuật định lượng kháng thể kháng thụ thể Ach (anti AchR-Ab)
trong huyết tương. Vì vậy sự gia tăng MCD khi thực hiện kỹ thuật SFEMG
chỉ giúp xác định là có sự rối loạn dẫn truyền qua xi náp thần kinh cơ, chứ
không đặc trưng cho bệnh nhược cơ [19], [76] (hình 1.14.).
Hình 1.14. Minh họa kỹ thuật đo SFEMG kiểu co cơ chủ ý
A: 10 cặp điện thế sợi đơn đôc chồng lên nhau, có Jitter bình thường. B: 10 cặp
điện thế sợi đơn độc chồng lên nhau, có gia tăng Jitter.C: 10 cặp điện thế có điện
thế thứ hai bị chặn (các mũi tên)
*Nguồn: theo Sander D.B. (2012) [73]
10
Theo Stälberg E., Sander D. B. và Nandedkar S. D. (2002) độ nhạy của
kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn so sánh với kỹ thuật chẩn đoán điện cơ kích thích
lặp lại (RNS) và phát hiện kháng thể kháng thụ thể Ach (bảng 1.1)
Trong kỹ thuật SFEMG hiện có 2 cách đo độ bồn chồn là phương pháp
phân tích theo đỉnh (Peak method) và phương pháp phân tích theo biên độ
(Amplitude level method) [19], [82] (hình 1.15).
Trước đây tùy theo từng dòng máy điện cơ của các hãng sản xuất phần
mềm được tích hợp chỉ một trong hai phương pháp đo, nhưng kể từ năm 2017 xu
thế các máy điện cơ mới đều được tích hợp cả 2 cách đo độ bồn chồn.
Bảng 1.1. So sánh độ nhạy của các cận lâm sàng chẩn đoán bệnh nhược cơ
SFEMG Nhóm RNS ở cơ gốc chi (%) Anti AchR (%) (%) RNS ở cơ ngọn chi (%)
Nhược cơ độ I(ở mắt ) 80-94 0-35 45-50 71
Nhược cơ độ IIa 91 55 76 88
Nhược cơ độ IIb-IV 99-100 86-99 96-99 93
Giai đoạn thuyên giảm 62 0 81
*Nguồn: theo Dumitru D. và cs (2002) [84]
Tổng cộng 86-92 37-62 62-77 86
Kỹ thuật đo SFEMG hiện có 2 phương thức thực hiện là: kiểu co cơ chủ
ý và kiểu kích thích điện dây thần kinh [19], [20]; tất cả các máy điện cơ hiện
đang dùng trên thế giới đều tích hợp cả hai phương thức đo này.
Trong lĩnh vực điện sinh lý lâm sàng thì kiểu hoạt hóa dây thần kinh
bằng điện ra đời muộn hơn (1966) so với kiểu hoạt hóa co cơ chủ ý và cũng
11
do Erik Stälberg phát minh ra. Ban đầu kỹ thuật này dùng để nghiên cứu các
Hình 1.15. Minh họa 2 cách đo độ bồn chồn trong SFEMG
vấn đề học thuật khác trong các nghiên cứu điện sinh lý thần kinh.
A: phương pháp phân tích theo đỉnh, B: phương pháp phân tích theo biên độ
*Nguồn: theo Stålberg E.và cs (2010) [19]
1. Phương pháp phân tích theo biên độ: thường khoảng đo đặt ở pha dốc
lên của điện thế cố định (mức kích), tương đối gần với đường đẳng điện, và
điểm tương ứng ở thành phần gai sóng đi trước hoặc kế tiếp. Các mức đo có
thể khác biệt cho 2 gai sóng khác nhau. Hoạt động nền, cử động kim và tiếng
ồn vật lý nên giữ càng thấp càng tốt vì có thể làm độ bồn chồn tăng đáng kể
2. Phương pháp phân tích theo đỉnh: độ bồn chồn có thể đo giữa các
đỉnh của 2 điện thế, phương pháp này có thể thực hiện ở một số máy điện cơ.
Các gai sóng dọc theo các đường biểu diễn được phát hiện 1 cách tự động.
Thời gian chính xác xuất hiện của đỉnh của gai sóng được tính toán xác định
với độ chính xác trong vòng 1 μs với tốc độ lấy mẫu (thường là 5 μs).
12
Hai mươi năm sau Tronjeli J.V. và cs (1986) lần đầu tiên mô tả các tiêu
chuẩn kỹ thuật này trong y văn, và xác định độ bồn chồn của kỹ thuật co cơ
chủ ý = kỹ thuật kích thích điện trên cùng một cơ khảo sát [85]. Nhưng 6
năm sau đó, Stålberg E. và Tronjeli J.V. (1992) mới chuẩn hóa và đưa ra các
hướng dẫn kỹ thuật chi tiết đầy đủ cho việc áp dụng vào khảo sát độ bồn chồn
trong kỹ thuật SFEMG ở bệnh nhân nhược cơ [86].
Sự khác biệt giữa 2 phương thức thực hiện của kỹ thuật SFEMG như sau:
Bảng 1.2. So sánh 2 phương thức thực hiện của kỹ thuật SFEMG
Kiểu co cơ chủ ý
Kiểu kích thích điện
Nguyên tắc Bệnh nhân chủ động co cơ liên
Dùng dòng điện với cường độ
tục và nhẹ nhàng, sao cho chỉ
thấp nhất, để kích thích trực tiếp
có một số ít đơn vị vận động
vào dây thần kinh làm co cơ liên
hoạt động, các điện thế không
tục, nhẹ nhàng. Kỹ thuật này chỉ
hòa lẫn vào nhau. Khi xuất
cần có 1 sóng co cơ của 1 sợi cơ
hiện ít nhất 2 điện thế trên màn
trên màn hình là tính được jitter.
hình mới tính jitter.
Ưu điểm
Chính xác, không bị nhiễu kỹ
Thời gian thực hiện ngắn hơn:
thuật. Mất nhiều thời gian,
trung bình khỏang 30-45 phút.
trung bình mất 1-3 giờ để thực
Có thể thực hiện được trên các
hiện kỹ thuật.
trẻ nhỏ 7-14 tuổi.
Nhược điểm Không thực hiện được ở bệnh
Dễ bị nhiễu kỹ thuật nếu không
nhân không hợp tác (trẻ nhỏ,
có kinh nghiệm
run, cơ lực quá yếu, …)
*Nguồn: Stålberg E. (2004) [87]
Tuy kỹ thuật kích thích điện dễ gây nhiễu và khó thực hiện hơn kỹ thuật
co cơ chủ ý, nhưng kỹ thuật này cũng có các ưu điểm nổi trội riêng. Tác giả
Arimura K. cho rằng kỹ thuật kích thích điện có 2 ưu điểm nổi bật khi so với
kỹ thuật co cơ chủ ý [88] là:
13
1. Có khả năng nghiên cứu cơ chế bệnh học của xi náp thần kinh cơ ở
các tần số kích thích khác nhau.
2. Loại bỏ ảnh hưởng của chức năng phục hồi vận tốc (VRF) –làm cho
độ bồn chồn gia tăng trong kỹ thuật chủ ý-vì tần số kích thích ổn định.
Trong thực tế lâm sàng, đặc biệt ở các cơ sở y tế đông bệnh nhân người
ta có khuynh hướng ưa làm kỹ thuật đo điện cơ sợi đơn độc kiểu kích thích
hơn kỹ thuật co cơ chủ ý, do thời gian thực hiện ngắn đáp ứng được nhu cầu
bệnh nhân cần được chẩn đoán nhanh.
* Kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn kiểu kích thích điện
Để thực hiện kỹ thuật này có 2 kiểu thực hiện:
1- Kích thích sợi trục: là kỹ thuật kích thích điện trong cơ. Dùng điện
cực kim đơn cực làm điện cực hoạt động kích thích sợi trục dây thần kinh gần
vị trí tấm tận cùng, trong khi đó điện cực đối chiếu ( dùng điện cực kim đơn
cực hoặc điện cực hình đĩa) đặt cách xa 2-3cm so với điện cực đối chiếu. Trên
thực tế lâm sàng hay dùng khi khảo sát cơ DCN. (hình 1.16).
*Nguồn: theo Stålberg E.và cs (2010) [19]
Hình 1.16. Các kiểu kích thích điện
14
2- Kích thích sợi cơ: là kỹ thuật kích thích điện xuyên qua da. Dùng
điện cực hình đĩa làm điện cực hoạt động kích thích xuyên qua da, vị trí đặt
sao cho gần nhất với vị trí nhánh thần kinh vận động đi vào cơ cần khảo sát
(xác định bằng cách cho kích thích thấy cơ bị co giật rõ nhất) và điện cực
đối chiếu đặt cách điện cực hoạt động 2cm. Kỹ thuật này hay thực hiện ở
cơ VM, cơ trán.
Khi điện cực hoạt động kích thích làm co cơ, cần khảo sát ở cường độ
thấp nhất có thể mà bệnh nhân chịu đựng được, người đo điện cơ dùng điện
cực ghi đặt vào trong cơ, cách mũi điện cực kích thích khoảng 2cm. Vị trí đặt
điện cực có thể ở ngọn chi hay gốc chi so với điện cực kích thích và tiến hành
thao tác.
Hướng dẫn từ công trình nghiên cứu đa trung tâm Stålberg E. và cs
(2016) [20] có nhiều thay đổi quan trọng so với các y văn về kỹ thuật SFEMG
công bố ở những năm trước đó, cụ thể:
1. Những nghiên cứu trên bệnh nhân dùng trị số tham chiếu tại từng địa
phương, hoặc dùng những trị số đã được công bố nhưng dành cho điện cực
kim sợi đơn độc chuyên dụng, đã được chứng minh là không có giá trị cho
khảo sát độ bồn chồn bằng điện cực kim đồng trục.
2. Thống nhất sử dụng kim đồng trục nhỏ nhất có trên thị trường hiện
nay, có bề mặt ghi hình bầu dục, kích cỡ 80 x 300 m (diện tích bề mặt ghi là
0,019 mm2)
3. Trong kỹ thuật kích thích điện, đo độ bồn chồn từ ít nhất 30 tấm tận
cùng. Kết luận bất thường khi MCD trung bình tăng và/hoặc số cặp điện thế
bất thường ít nhất 3 trong 30 cặp Jitter. Ở các cơ có độ bồn chồn bất thường,
bản khảo sát thường là cho chẩn đoán dương tính khi đã thu thập được 10-15
giá trị Jitter. Tuy nhiên phải khảo sát đủ 30 Jitter, trước khi đi tới kết luận âm
tính. Nếu dùng độ bồn chồn để theo dõi diễn biến lâm sàng, thì phải có 30
Jitter cho kỹ thuật kích thích điện.
15
Các định nghĩa về tiêu chuẩn bất thường và giá trị tham chiếu của độ
bồn chồn đã được xác định lại (bảng 1.3 và bảng 1.4)
Các y văn cũ [19],
Hướng dẫn mới [20]
[75], [76]
(từ 3/2016)
(trước 3/2016)
MCD trung bình (Mean MCD)
20 cặp
Dương tính: 10-15 cặp
Âm tính: 30 cặp
Theo dõi điều trị: 30
cặp
≥3
Số cặp điện thế bất thường
>10%
(above outlier limits)
(> MCD trung bình+2SD)
Bảng 1.3. Tiêu chuẩn bất thường của độ bồn chồn trong SFEMG
Các y văn đều ghi nhận việc khảo sát SFEMG ở cơ VM có độ nhạy cao,
dễ thực hiện và có thời gian làm nhanh hơn cơ DCN. Tuy nhiên trong thực
tiễn lâm sàng tại Việt Nam cho thấy khảo sát SFEMG ở cơ DCN khi thực hiện
ở trẻ nhỏ (7-12 tuổi) là khả thi và an toàn hơn.
Điểm cốt lõi của kỹ thuật kích thích là điện cực kích thích đặt càng sát
nhánh thần kinh vận động chi phối cơ khảo sát (các điểm vận động cơ vân) thì
điện thế kích thích càng nhỏ, thời gian thực hiện kỹ thuật càng có khả năng
rút ngắn hơn. Nhưng hiện nay việc đặt điện cực kích thích vẫn chưa dựa trên
cơ sở giải phẫu học rõ ràng (vùng chứa các điểm vận động cơ vân).
16
Bảng 1.4. Giá trị bình thường của độ bồn chồn trong kỹ thuật SFEMG
MCD
GH vượt
MCD
GH vượt
Cơ VM Cơ DCN
Ghi
khung
khung
trung bình
trung bình
Tác giả
chú
(outlier
(outlier
(µs)
(µs)
limits) (µs)
limits) (µs)
Gilchrist (1992) [89]
< MCD trung bình+2SD và <10% số cặp điện thế bất
thường
Oh S.J (1992) [90]
<40
<54
Kỹ
Bromberg (1994) [91]
39,8-43,0
55-56
24,9-37,7
50-57,2
thuật
Preston (2013) [76]
co cơ
chủ ý
Shields (2000) [92]
24.07±7.30
46
Kouyoumdjian (2007) [93]
24,6 ± 10,6 <55
Kimura (2013) [81]
Nandedkar (2002) [94]
<20
<25
<40
<30
Kỹ
Kouyoumdjian (2011) [95] <26
34
thuật
Lin (1997) [96]
<29
<41
kích
Long Y.L (2017) [97]
<23
<30
thích
<25
<40
Stälberg E. (2010) [19]
<21
<30
<24
<35
Hướng dẫn mới
<27
<36
(3/2016) [20]
Độ bồn chồn của kỹ thuật kích thích điện = [83], [85].
17
1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BỆNH NHƯỢC CƠ VÀ ỨNG DỤNG
GIẢI PHẪU VÀO KỸ THUẬT GHI ĐIỆN CƠ SỢI ĐƠN TRÊN THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.4.1. Nghiên cứu trên thế giới
- Có rất nhiều đề tài nghiên cứu về thần kinh VII với các nhánh của nó
đã được thực hiện trên thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có y
văn nào đề cập đến các điểm vận động ở thần kinh mặt chi phối cơ VM. Và có
rất ít y văn nghiên cứu đặc điểm, số lượng các điểm vận động của thần kinh
quay chi phối cơ DCN [16], [17], [18]; nhưng các y văn này không mô tả vùng
phân bố của các điểm vận động cho cơ DCN
-Trên thế giới có nhiều công bố về bệnh nhược cơ rất đa dạng: sinh
bệnh học, chẩn đoán và điều trị. Riêng về kỹ thuật SFEMG với kim đồng trục
đã có nhiều y văn xuất bản [77], [78], [79], [80], [82], [93], [95], [96], [97],
[98] và đều tập trung vào các yếu tố kỹ thuật điện sinh lý và khảo sát ở các cơ
khác nhau cũng như tương quan đến lâm sàng, cận lâm sàng khác.
Nhưng thế giới vẫn chưa có một công bố nào nghiên cứu về áp dụng cơ
sở giải phẫu (vùng phân bố các điểm vận động) vào việc đo SFEMG.
1.4.2. Nghiên cứu trong nước
- Phan Chúc Lâm là tác giả đầu tiên đã tổng kết kinh nghiệm chẩn đoán
và điều trị 59 trường hợp bệnh nhược cơ trong 10 năm (1970-1980) tại bệnh
viện 103 [99]. Ngoài ra, trong gần 30 năm qua trong nước cũng có nhiều đề
tài nghiên cứu về bệnh nhược cơ, xin điểm lại một số nghiên cứu tiêu biểu
như sau:
-Thái Khắc Châu (1994) nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh tuyến ức bằng
phương pháp chụp cắt lớp tuyến tính kết hợp bơm khí trung thất, xác định sự
bất thường tuyến ức ở BN nhược cơ, rất phù hợp với hoàn cảnh ở nước ta trong
thời điểm khi các trang thiết bị hiện đại (CT scan, MRI) chưa phổ biến [100].
- Đỗ Tất Cường(1996) nghiên cứu điều trị hậu phẫu tích cực BN nhược
18
cơ sau mổ cắt tuyến ức và cấp cứu những cơn nhược cơ nặng và đã đưa ra
phác đồ điều trị cơn nhược cơ nặng gây suy hô hấp cấp rất hiệu quả [101].
- Mai Văn Viện (2004) nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, X quang
và mô bệnh học tuyến ức liên quan đến kết quả điều trị ngoại khoa bệnh
nhược cơ; giúp đánh giá hiệu quả thiết thực của phẫu thuật tuyến ức trong hỗ
trợ điều trị nhược cơ [102].
- Nguyễn Thế Luân và cs (2008) nghiên cứu lâm sàng và những yếu tố
thúc đẩy cơn nhược cơ để ứng dụng trong lâm sàng nhằm hạn chế và phòng
ngừa cơn nhược cơ [103].
- Đặng Tiến Hải (2009) nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, các nghiệm
pháp chẩn đoán bệnh nhược cơ áp dụng trong lâm sàng, và xây dựng quy trình
chẩn đoán bệnh nhược cơ [104].
- Phạm Vinh Quang (2010) và nhóm tác giả Ngô Văn Hoàng Linh và cs
(2011) lần lượt công bố các nghiên cứu về phẫu thuật tuyến ức trong hỗ trợ
điều trị bệnh nhược cơ [105], [106].
- Vũ Anh Nhị và cs (2013) công bố kết quả nghiên cứu nồng độ kháng thể
kháng AChR của 52 trường hợp điều trị nhược cơ tại Bệnh viện Chợ Rẫy [107].
- Phan Thanh Hiếu và cs (2013) công bố nghiên cứu sự đáp ứng của test
prostigmin và test kích thích lặp lại trong chẩn đoán bệnh nhược cơ [108]
-Phan Thanh Hiếu (2016) công bố nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và
nồng độ kháng thể kháng thụ thể acetylcholine trong bệnh nhược cơ [109]
Nhìn chung các nghiên cứu trong nước đã tập trung chủ yếu vào lâm
sàng, chẩn đoán hình ảnh và phẫu thuật tuyến ức hỗ trợ điều trị nhược cơ. Về
phương pháp chẩn đoán điện thần kinh và nghiên cứu nồng độ kháng thể
kháng AChR thì còn ít; đặc biệt mới chỉ có một báo cáo nghiên cứu về việc áp
dụng kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn trong chẩn đoán bệnh nhược cơ với kỹ thuật
co cơ chủ ý [15]. Việc áp dụng kỹ thuật này còn hạn chế, chưa được phổ biến
rộng rãi trong toàn quốc; trong khi đó nhu cầu sử dụng kỹ thuật SFEMG trong
19
chẩn đoán bệnh nhược cơ là rất lớn.
Kinh nghiệm thực hành tại phòng điện sinh lý bệnh viện Chợ Rẫy cho
thấy tại tuyến tỉnh và tuyến trung ương không đủ thời gian để làm kỹ thuật
SFEMG kiểu co cơ chủ ý được, vì mất nhiều thời gian nên không đáp ứng đủ
cho nhu cầu của đông đảo bệnh nhân.
TÓM LẠI
Kể từ khi sử dụng điện cực đồng trục để thực hiện kỹ thuật SFEMG,
đặc biệt là trong kỹ thuật kích thích điện gặp khó khăn, nhiễu.. do diện tích thu
nhận tín hiệu quá lớn khi so với kim chuyên dụng; nhưng nhu cầu triển khai
kỹ thuật này ở các bệnh viện tuyến tỉnh ở Việt Nam để chẩn đoán bệnh nhược
cơ là rất lớn.
Cơ VM và cơ DCN là thường được áp dụng nhiều nhất trong kỹ thuật
SFEMG. Tuy vị trí kích thích (bằng điện cực kim hay điện cực bề mặt) có sự
khác biệt giữa các tác giả, nhưng đều dựa trên nguyên tắc là phải chọn vị trí
kích thích sao cho gần sát tấm tận cùng vận động của thần kinh chi phối cơ đó.
Chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu các đặc điểm giải phẫu 2 cơ vòng
mắt và cơ duỗi các ngón qua phẫu tích xác người Việt là cần thiết; đặc biệt là
việc nghiên cứu vùng phân bố các điểm vận động của hai cơ này. Kết quả
nghiên cứu sẽ là cơ sở giải phẫu có giá trị để áp dụng vào kỹ thuật ghi điện cơ
sợi đơn kiểu kích thích bằng kim đồng trục sử dụng 1 lần trong chẩn đoán
bệnh nhược cơ trên người Việt.
20
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. NHÓM 1 (NGHIÊN CỨU TRÊN XÁC)
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
30 mẫu phẫu tích vùng mặt và 30 mẫu phẫu tích đã qua xử lý formol
vùng cẳng tay sau từ các xác người Việt trưởng thành có hồ sơ, hiến xác được
lưu trữ và hiện có trong phòng lưu trữ xác tại Bộ môn Giải phẫu trường Đại
học Y Dược tp. HCM và bộ môn Giải phẫu trường Đại học Y khoa Phạm
Ngọc Thạch và từ 1/2012 đến tháng 6/2015 thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu và
tiêu chuẩn loại.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
2.1.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
2.1.2.2. Tiêu chuẩn chọn vào mẫu nghiên cứu nhóm 1
Do đặc thù của nghiên cứu cơ bản trên xác nên chúng tôi chỉ có thể sử
dụng số lượng xác có sẵn tại 2 bộ môn trong thời gian tiến hành nghiên cứu.
Các mẫu phẫu tích được chọn vào nghiên cứu, sau khi đáp ứng đủ các tiêu
chuẩn sau:
+ Xác hiến người Việt trên 18 tuổi, đã qua xử lý và ngâm trong dung
dịch formol 10% trong 3 năm đầu tiên.
+ Vùng phẫu tích còn nguyên vẹn chưa can thiệp, không biến dạng, tư
thế giải phẫu bình thường.
+ Không có bất thường do bẩm sinh hoặc bệnh lý hoặc có phẫu thuật ở
vùng mặt, cẳng tay làm thay đổi hoặc biến dạng cấu trúc giải phẫu.
*Tiêu chuẩn loại:
+ Không sử dụng những xác xử lí không đạt chuẩn hoặc có chất lượng
kém có thể làm ảnh hưởng đến kết quả.
21
2.1.2.3. Các biến số khảo sát nhóm 1
a. Định nghĩa các biến số
* Biến số định tính: Giới tính.
* Biến số định lượng: (các kích thước được đo đạc với đơn vị đo milimét –
mm)
b. Định nghĩa các mốc giải phẫu khảo sát
* Thần kinh mặt:
+ Gốc tọa độ O1: là điểm trên bình tai, ngay tại vị trí ống tai ngoài.
+ Điểm S: điểm giữa khóe mắt ngoài và khóe mắt trong, nằm ở bờ trên
hốc mắt.
+ Điểm I: điểm giữa khóe mắt ngoài và khóe mắt trong, nằm ở bờ dưới
hốc mắt.
+ Điểm L: nằm trên đường thẳng nối 2 khóe mắt và nằm ở bờ ngoài hốc
+ Trục X1: là đường chuẩn OML (Orbitomeatal baseline) đi qua điểm O1
mắt.
và L.
+ Trục X2: là đường chuẩn IOML (Infraorbitomeatal baseline – Reid’s
baseline) đi qua O1 và điểm I.
+ Trục X3: là đường chuẩn SOML (Supraorbitomeatal baseline) đi qua
O1 và điểm S.
+ Trục O1Yn: vuông góc với O1Xn tại O1 (n = 1, 2, 3).
+ Điểm D: điểm cao nhất của gốc loa tai (otobasion superious).
+ Điểm H: vị trí bờ sau của đường nối mỏm trán xương gò má với mỏm
gò má xương trán, nằm trên đường nối từ điểm cao nhất của gốc loa tai (điểm
D) với khóe mắt ngoài. (hình 2.1.)
* Các biến số liên quan đến cơ VM và thần kinh chi phối cho cơ này:
+ Đường trung trực của đoạn thẳng nối 2 điểm khóe mắt ngoài và trong
giao với bờ trên và bờ dưới của cơ vòng mắt lần lượt tại A1 và A2. Đường
22
thẳng qua 2 khóe mắt - đường thẳng (k) - giao với bờ ngoài và bờ trong cơ
vòng mắt lần lượt tại hai điểm A3 và A4.
+ Vm-trên (Ob1): giới hạn trên của cơ vòng mắt là khoảng cách từ điểm
A1 đến đường thẳng (k) (hình 2.2).
+ Vm-dưới (Ob2): giới hạn dưới của cơ vòng mắt là khoảng cách từ
điểm A2 đến đường thẳng (k).
+ Vm-trong (Ob3): giới hạn trong của cơ vòng mắt đo từ A4 đến khóe
mắt trong.
+ Vm-ngoài (Ob4): giới hạn ngoài của cơ vòng mắt đo từ A3 đến khóe
mắt ngoài.
+ Vm-thấp (Ob5): Giới hạn thấp nhất của cơ vòng mắt là khoảng cách từ
điểm thấp nhất của bờ dưới cơ vòng mắt đến đường thẳng (k).
Hình 2.1. Các đường chuẩn và mốc của cơ vòng mắt trong nghiên cứu
*Nguồn bản xác Nguyễn Văn H. mã số 640, mặt phải
Hình 2.2. Các trục tọa độ và mốc của cơ vòng mắt trong nghiên cứu
nTD-trán: số đầu tận nhánh thái dương thần kinh VII đi vào cơ trán.
+ nTD-vm: số đầu tận nhánh thái dương thần kinh VII đi vào cơ vòng mắt.
23
+ nGM-vm: số đầu tận nhánh gò má của thần kinh VII đi vào cơ vòng mắt.
+ Với mỗi đầu tận thần kinh đi vào cơ trán và cơ vòng mắt, sẽ đo tung
độ (yn) và hoành độ (xn) tuần tự trên 3 trục tọa độ khác nhau:
- Trục XnO1Yn (n = 1,2,3).
- Chiều dương trên trục Xn cùng chiều vector O1Xn.
- Chiều dương trên trục O1Yn hướng lên trên so với trục Xn.
▪ d1: là khoảng cách đo từ D đến nhánh thái dương sau nhất (Tp:
posterior temporal), hay khoảng cách D-Tp, nằm trên đường nối DH. Số đo
này tương ứng với giới hạn sau của các nhánh thái dương.
▪ d2: là khoảng cách từ nhánh thái dương trước nhất (Ta: anterior
temporal) đến điểm H, nằm trên đường nối DH. Số đo này tương ứng với giới
hạn trước của các nhánh thái dương.
▪ h: là khoảng cách từ điểm cao nhất Th (highest temporal) của nhánh
thái dương đi vào cơ trán đến vị trí bờ ngoài của cung gò má (Th-H)
▪ h’: là khoảng cách từ điểm cao nhất Th của nhánh thái dương đi vào
cơ trán đến vị trí điểm giữa bờ trên hốc mắt (điểm S), trên đường Th-H.
▪ DT: là đoạn thẳng vuông góc với DH, DT = h và T là điểm không
được xác định khi phẫu tích.
trong nghiên cứu
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Hữa Đ.. mã số 551, mặt trái
Hình 2.3. Minh họa các mốc đo đạc thu thập số liệu của cơ vòng mắt
* Thần kinh quay:
+ O2: gốc tọa độ nằm ở mỏm trên lồi cầu ngoài.
+ R: khớp quay trụ dưới.
24
+ nQ0: vị trí thoát ra ở bờ dưới cơ ngửa của nhánh sâu thần kinh quay,
còn gọi là điểm R0 (x0,y0).
+ nQi: phân nhánh sâu của thần kinh quay đi vào cơ DCN ở bề mặt dưới
của cơ DCN không có da phủ (i = 1,2,3,4,5..) với qui ước giá trị i được đặt
theo thứ tự khoảng cách đến R0 tăng dần, nghĩa là R0Ri< R0Rj với i< j. Nơi
đầu tận thần kinh đi vào cơ là điểm Ri.
+ XO2Y: Hệ trục tọa độ dùng khảo sát vị trí các nhánh sâu của thần kinh
quay chi phối cơ duỗi chung các ngón. Trục O2X là đường thẳng nối O2 -
mỏm trên lồi cầu ngoài với khớp quay trụ dưới ( đường thẳng O2R), trục O2Y
vuông góc với O2X.
*Các biến số liên quan đến cơ DCN và thần kinh chi phối cho cơ này:
+ Số các phân nhánh đi vào cơ DCN (nQi), xuất phát từ nhánh sâu của
thần kinh quay ở bờ dưới cơ ngửa
+ Số các phân nhánh đi vào cơ DCN (nQj), không xuất phát từ thần kinh
quay ở bờ dưới cơ ngửa.
+ Tọa độ của các điểm Ri trên hệ trục XO2Y, chiều dương của hoành độ
theo chiều O2-khớp quay trụ dưới, chiều dương tung độ hướng về mặt phẳng
dọc giữa.
+ D-Ox: khoảng cách đo từ O2 đến khớp quay trụ dưới (chiều dài đoạn
thẳng O2R).
+ k: tỉ lệ hoành độ x0 của R0 với độ dài D-Ox, k= x0/ D-Ox.
2.1.2.4. Phương pháp thu thập số liệu nhóm 1
a. Phương pháp phẫu tích và thu thập số liệu vùng mặt
*Phẫu tích vùng mặt
+ Rạch da theo đường giữa từ đường chân tóc đến gốc mũi rồi rạch tiếp
theo rãnh mũi má ở hai bên mũi cho đến nhân trung. Rạch đường giữa ở nhân
trung, bờ dưới môi dưới đến ụ cằm. Rạch da theo đường chân tóc từ giữa trán
ra phía sau, kết thúc ở phía trên ống tai ngoài khoảng 5 mm. Rạch da từ ụ cằm
25
dọc theo bờ hàm dưới đến góc hàm rồi tiếp tục đường rạch ngay ở phía trước
bình tai rồi kết thúc ở bờ trên ống tai ngoài.
+ Đường rạch khép kín vòng quanh mí mắt tạo thuận lợi để lật cả vạt da
về phía sau, bộc lộ toàn bộ vùng mặt.
A. B.
Hình 2.4. Đường rạch da (đường đứt nét) vùng mặt
(Đường liền nét là bản lề để giữ vạt da.)
*Nguồn: A.Netter F. H. (2014). [110]
B: Tiêu bản xác Tạ Thị Kim L. mã số 514, mặt phải
+ Tiến hành tách lớp mỡ ở trước bình tai để xác định được bờ trên tuyến
mang tai. Cẩn thận bộc lộ hoàn toàn phần trước tuyến mang tai để xác định
được các nhánh chính của thần kinh mặt, quan trọng hơn hết là nhánh thái
dương, nhánh gò má và nhánh má. Dọc theo các nhánh chính, phẫu tích cẩn
thận dưới sự hỗ trợ của kính vi phẫu để bộc lộ đám rối của thần kinh mặt và
các nhánh tận vào cơ trán và cơ vòng mắt.
+ Tính từ đường giữa mặt, bóc bỏ lớp mỡ, bóc tách lớp cân cơ nông của
mặt (SMAS) để làm rõ các cơ trán, cơ vòng mắt, cơ gò má lớn, cơ gò má bé,
cơ nâng môi trên cánh mũi. Hai cơ gò má có thể được cắt ngang, lật về hai
phía để làm rõ đường đi của các nhánh thần kinh.
*Phương pháp thu thập số liệu vùng mặt
+ Lót các mẫu giấy nhỏ màu phía dưới các sợi thần kinh để đánh dấu
các nhánh thái dương vào cơ trán và các nhánh gò má vào cơ VM bằng màu
đen, và các nhánh thái dương vào cơ vòng mắt bằng màu xanh lá.
26
+ Sau khi hoàn tất việc bộc lộ đường đi và vị trí các điểm thần kinh vào cơ,
chúng tôi dùng kim cúc có màu để đánh dấu các vị trí này theo nguyên tắc sau:
- Chỉ dùng một màu kim để đánh dấu cho các phân nhánh khác nhau:
vị trí các nhánh thái dương vào cơ trán, vị trí các nhánh thái dương vào cơ
VM, vị trí các nhánh gò má vào cơ VM.
- Riêng màu đỏ và vàng dùng để đánh dấu các mốc giải phẫu cố định:
▪ Kim đỏ: đánh dấu gốc tọa độ O1, các điểm D, L, S, I.
▪ Kim vàng: đánh dấu các giới hạn của cơ vòng mắt.
*Nguồn: Tiêu bản xác Trịnh Văn Đ. mã số 606, mặt phải
Hình 2.5. Đánh dấu vị trí các đầu tận thần kinh vào cơ trán và cơ vòng mắt
- Số thứ tự cho mỗi điểm tọa độ được chọn theo nguyên tắc từ trên
xuống và đánh số lại từ 1 cho mỗi nhóm màu kim cúc.
- Điểm này được chiếu vuông góc lên các trục tọa độ bằng thước chữ L
và được đo các tọa độ bằng thước kẹp tính từ chân kim đến các trục tọa độ.
b. Phương pháp phẫu tích và thu thập số liệu vùng cẳng tay sau:
* Phẫu tích vùng cẳng tay sau:
+ Đường rạch thứ nhất: đường ngang ở mặt sau cổ tay, cao hơn khớp
quay trụ dưới 1-2 cm. Đường rạch ngang thứ hai: ngang mức nếp khuỷu. Một
được rạch dọc từ điểm giữa mặt sau cổ tay đến mỏm khuỷu. Đường cắt dọc có
thể lệch về phía bờ ngoài cẳng tay để tiện cho việc mở da và có thể kéo dài
đường cắt này lên đến 1/3 dưới của cánh tay.
+ Bóc tách lớp mỡ kèm mạc cẳng tay theo đường cắt da để bộc lộ lớp
cơ. Nâng cơ cánh tay quay ở bờ ngoài cẳng tay để xác định được nhánh nông
27
thần kinh quay. Từ nhánh này, lần dọc lên phía trên để xác định được thân
chính của thần kinh quay và nhánh sâu của nó.
+ Bóc tách và làm rõ các bờ và mặt dưới của cơ duỗi cổ tay quay dài và
cơ duỗi cổ tay quay ngắn, bảo tồn các nhánh thần kinh quay chi phối cho các
cơ này. Cắt ngang hai cơ ở vị trí cách nguyên ủy từ 3 – 4 cm, rồi lật cơ sang
bên để thấy được cơ ngửa.
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Thị H. mã số 510, tay phải
Hình 2.6. Đường rạch da tiếp cận vùng cẳng tay sau
+ Cơ duỗi các ngón được làm rõ các bờ và cắt ngang cơ (ngang các gân
cơ) ở vị trí cách khớp quay trụ dưới từ 2-3 cm. Lật khối cơ sang bên nhẹ
nhàng tránh đứt các nhánh thần kinh quay đi vào cơ.
+ Xác định nhánh sâu thần kinh quay và bờ trên cơ ngửa. Sau đó làm
sạch bờ dưới cơ ngửa và tại đây, thấy được sự phân nhánh của thần kinh quay
vào cơ duỗi các ngón. Dùng dụng cụ phẫu tích để bộc lộ vị trí của từng nhánh
thần kinh đi vào mặt dưới của cơ duỗi các ngón.
+ Trong quá trình phẫu tích, lưu ý tìm các nhánh xuất phát từ nhánh sâu
của TK quay trước khi đi dưới cơ ngửa, cho nhánh chi phối cho cơ DCN.
* Phương pháp thu thập số liệu vùng cẳng tay sau
Sau khi phẫu tích rõ các đầu tận thần kinh đi vào cơ DCN, chúng tôi
dùng kim cúc xác định điểm này như sau:
28
+ Dùng kim thứ nhất xuyên vào cơ tại vị trí đầu thần kinh đi vào cơ
sao cho hướng kim từ mặt sâu của cơ xuyên ra nông và kim vuông góc với
mặt phẳng cơ. Sau đó, dùng một kim thứ hai cùng màu xuyên từ mặt nông của
cơ đến mặt sâu ngay tại vị trí của kim thứ nhất sao cho hai kim song song và
sát nhau. Với cách làm này cùng với việc xem đường kính của kim là không
đáng kể, có thể xem chân kim thứ hai tại bề mặt nông của cơ là hình chiếu của
điểm thần kinh vào cơ từ mặt sâu ra mặt nông. Chúng tôi đo tọa độ của các
điểm chiếu này (các điểm Ri).
+ Một kim đỏ hoặc vàng sẽ xác định vị trí nơi nhánh sâu thần kinh
quay thoát ra khỏi bờ dưới của cơ ngửa (điểm R0’).
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Tấn T. mã số 511, tay trái
Hình 2.7. Đánh dấu vị trí các đầu tận thần kinh quay đi vào cơ duỗi các ngón
+ Cách đánh dấu này sẽ được chụp ảnh đối với mỗi mẫu. Sau khi chụp,
kim số 1 tại mỗi điểm được rút ra và tiến hành chụp ảnh để thấy được mũi của
kim số 2 đúng ngay vị trí thần kinh đi vào cơ.
+ Xếp cơ DCN vào vị trí giải phẫu của nó, xác định hình chiếu của điểm
R0’ lên mặt nông của cơ duỗi các ngón, được điểm R0 – tương ứng là một
kim đỏ.
+ Lúc này, các kim số 2 sẽ vuông góc với mặt nông của cơ DCN và các
điểm chân kim là các điểm Ri cần đo tọa độ. Các điểm Ri được chiếu lên hệ
trục bằng thước chữ L và tọa độ được đo bằng thước kẹp.
29
ở cơ duỗi các ngón
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Văn H. mã số 640, tay phải
Hình 2.8. Hệ trục XO2Y định vị trong khảo sát các chi tiết giải phẫu
*Nguồn: Tiêu bản xác Lê Thành H. mã số 512, tay phải
Hình 2.9. Đánh dấu vị trí các đầu tận thần kinh quay đi vào cơ duỗi các ngón
Chiều dài D-Ox đo bằng thước dây vì số đo vượt quá giới hạn của thước kẹp.
2.1.3. Phương tiện nghiên cứu và xử lý số liệu nhóm 1
2.1.3.1. Phương tiện nghiên cứu nhóm 1
Công cụ thu thập số liệu phẫu tích của chúng tôi gồm có:
- Phiếu thu thập số liệu (xem “Phụ lục”).
- Máy ảnh kĩ thuật số Nikon D3200.
- Bộ dụng cụ phẫu tích gồm có: dao 15, cán dao số 3, kéo phẫu tích,
kềm Kelly, nhíp có mấu và không mấu, banh Farabeuf, sonde lòng máng.
Nhíp và kéo vi phẫu (dùng trong phẫu thuật mắt), kính vi phẫu Carl Zeiss độ
phóng đại từ 2-25 lần.
Hình 2.10. Bộ dụng cụ phẫu tích và kim cúc (dùng đánh dấu)
30
Hình 2.11. Kính vi phẫu Carl Zeiss độ phóng đại 2-25 lần
+ Bộ dụng cụ đánh dấu gồm có: giấy đen, giấy xanh lá, phiếu mã số
xác, kim cúc nhiều màu.
+ Bộ dụng cụ đo đạc gồm có:
- Thước dây hiệu KONO, dài 1,5m, sai số 1mm.
- Thước cặp đồng hồ VERNIER CALIPER, hiệu MITUTOYO(Nhật),
dài 150mm, mã số: 505-671 sai số 0,02mm.
- Các thước vuông hình chữ L.
Hình 2.12. Các dụng cụ đo đạc thu thập số liệu
2.1.3.2. Thu thập và xử lý số liệu nhóm 1
+ Sau khi bộc lộ các chi tiết giải phẫu, chúng tôi tiến hành đo đạc các số
liệu cần thiết theo bảng thu thập số liệu. Quá trình thu thập số liệu được tiến hành
bởi cùng một người, cùng một bộ dụng cụ đo (thước dây, thước vuông, thước cặp
Mitutoyo) để đảm bảo tính chính xác, thống nhất, hạn chế tối đa sai số.
+ Chúng tôi chụp hình các mẫu phẫu tích bằng máy ảnh kỹ thuật số
Nikoh 3200, để lưu trữ dữ liệu.
31
+ Chúng tôi sử dụng phần mềm IBM SPSS Statistics 22 và Microsoft
Excel 2013 (cùng tiện ích XLSTAT 2015) trong mã hóa, xử lý và mô tả bằng
biểu đồ các số liệu trong nghiên cứu. Các biến số định lượng được mô tả bằng
các trị số trung bình, độ lệch chuẩn, các giá trị cực đại. Các biến số định tính
được mô tả theo tần suất. Chúng tôi sử dụng phép kiểm t (độ tin cậy là 95%)
trong kiểm định các số trung bình. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phần mềm
MatLab R2013a trong vẽ một số biểu đồ mật độ trong nghiên cứu và phần
mềm AUTOCAD 2017 vẽ gộp lại các hình vẽ chung trong 1 hệ trục tọa độ.
Hình 2.13. Chụp hình bằng máy ảnh kỹ thuật số lưu trữ sau thu thập số liệu
2.2. NHÓM 2 (NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG)
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu: Chúng tôi đo ghi điện cơ sợi đơn (SFEMG) kỹ
thuật kích thích điện ở cơ VM và cơ DCN cho 60 bệnh nhân được các bác sĩ
chuyên khoa nội thần kinh chỉ định từ các bệnh viện trong khu vực hoặc các
phòng khám tư nhân. Kỹ thuật được thực hiện trên máy VIKING EDX sản
xuất 2017, phần mềm phiên bản 22.0 tại phòng khám đa khoa Nguyễn Hoàng
229 Nguyễn Chí Thanh, p.12, q.5 TP. HCM từ 31/5/2017 cho đến 5/10/2017.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
2.2.2.2. Tiêu chuẩn chọn vào mẫu nghiên cứu nhóm 2
Bệnh nhân bị bệnh nhược cơ đã và đang điều trị ngoại trú từ các cơ sở y
tế chuyên khoa có các giấy tờ (toa thuốc, xét nghiệm, phiếu chỉ định,...) chứng
32
minh; hoặc có các triệu chứng nghi ngờ bị bệnh nhược cơ cần chẩn đoán xác
định. Chúng tôi đánh giá độ nhược cơ theo Osserman.
+ Bệnh nhân tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu; được hướng dẫn
giải thích đầy đủ mục đích nghiên cứu, phương thức nghiên cứu điền vào bản
đồng ý tham gia nghiên cứu và tự điền vào bệnh án nghiên cứu in sẵn (phần
phụ lục).
+ Bệnh nhân phải có ít nhất một trong các triệu chứng của bệnh nhược
cơ như: sụp mi, nhìn đôi, mỏi cơ, nuốt nghẹn, nói khó,... với điểm đặc trưng là
dao động trong ngày.
*Tiêu chuẩn loại:
+ Các bệnh thần kinh ảnh hưởng đến xi náp thần kinh cơ, thần kinh tổng
quát, hoặc bệnh có thể có biến chứng thần kinh, chẳng hạn như đái tháo đường.
+ Tiền sử gia đình có bất kỳ bệnh thần kinh cơ nào.
+ Hiện tại đang có điều trị với các thuốc tác động lên hệ thần kinh ngoại
biên, chẳng hạn như β-blockers; chẹn kênh Calci; kháng sinh nhóm
Aminoglycosid, Macrolide, và fluoroquinolone; hoặc các thuốc chống loạn nhịp.
+ Nghiện ma túy hoặc nghiện rượu.
+ Tiền sử có tiêm độc tố Botulinum vào bất kỳ cơ ở bất kỳ thời điểm nào.
2.2.2.3. Cỡ mẫu
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu trong nghiên cứu mô tả [111]:
(1-α/2) p (1 - p)
Z2 n = d2
Trong đó:
n: cỡ mẫu được tính;
Z(1-2): hệ số giới hạn tin cậy, giá trị Z liên quan đến việc xác định mức
độ tin cậy, nên trong nghiên cứu này chọn mức độ tin cậy là 95%, vậy giá trị
Z(1-2) = 1,96.
33
d: độ chính xác mong muốn (sai số cho phép), chọn d = 0,1.
Trong đề tài này, một mục tiêu nghiên cứu chính là đánh giá hiệu quả
của áp dụng kỹ thuật mới dựa trên kết quả nghiên cứu giải phẫu học ngay
trước đó, nên độ nhạy kỹ thuật càng cao thì càng tốt. Vì vậy, nghiên cứu này
chọn giá trị p là độ nhạy để tính cỡ mẫu.
p1 = 0, 973 (ở cơ vòng mắt theo tác giả Long Y.L (2017) [97]) và p2 =
0,92 (ở cơ duỗi các ngón theo tác giả Oh S.J. (1992) [90]).
Áp dụng vào công thức trên tính ra được:
n1 = 10,09 ở cơ vòng mắt.
n2 = 28,27 ở cơ duỗi các ngón.
Do hai mẫu độc lập, nên nghiên cứu chọn mẫu lớn nhất. Như vậy, phải
chọn ít nhất 29 mẫu kết quả SFEMG ở bệnh nhân nhược cơ cho nghiên cứu này.
2.2.2.4. Các biến số khảo sát nhóm 2
a. Các dữ liệu bệnh nhân thu thập trong nghiên cứu gồm:
- Các thông tin bệnh nhân cung cấp theo mẫu bệnh án nghiên cứu.
- So sánh kết quả SFEMG, đối chiếu với kết quả các cận lâm sàng khác.
- Các kết quả các lần đo SFEMG theo máy mới Viking EDX.
b. Định nghĩa các biến số
*Biến số định tính
+ Giới tính.
+ Đánh giá đặc điểm lâm sàng: phân độ nhược cơ theo tiêu chuẩn
Osserman tại thời điểm khám, diễn biến điều trị.
*Biến số định lượng
+ Tuổi, thời gian khởi bệnh, khoảng thời gian bệnh được chẩn đoán
+ Số liệu thu thập về điện cơ:
- Độ bồn chồn (jitter, mean MCD; đơn vị đo: micro giây: µs)
- Tổng số các khoảng gian điện thế sợi đơn (MIPI)
34
- Thời gian thực hiện kỹ thuật SFEMG (tính tổng thời gian dịch chuyển
kim liên tục để thu nhận tín hiệu kể từ lúc đặt kim vào cơ cho đến lúc kết thúc,
loại bỏ các yếu tố gây gián đoạn: máy điện cơ phải khởi động lại do bị treo,
điện cực kích thích dịch chuyển làm bệnh nhân bị đau hoặc mất tín hiệu, thời
gian tạm dừng để xác định Jitter, …)
- Thời gian lấy sóng: tổng thời gian thực hiện kỹ thuật SFEMG/ tổng
số cặp điện thế thu nhận đạt chuẩn.
2.2.2.5. Phương pháp thu thập số liệu nhóm 2
a. Phương pháp đo ghi điện cơ sợi đơn
- Các bệnh nhân đều được làm kỹ thuật kích thích lặp lại (RNS) trước
đó, do các cơ sở y tế thực hiện trước, nếu không sẽ được thực hiện ngay trước
lúc đo SFEMG.
Trường hợp có kết quả RNS âm tính, bệnh nhân sẽ lần lượt thực hiện
đo SFEMG ở ít nhất 2 cơ VM và DCN. Khi bệnh nhân có kết quả RNS
dương, chúng tôi thường chỉ đo SFEMG ở cơ DCN.
Trong những lần đo SFEMG tiếp theo trên cùng bệnh nhân tiếp sau đó,
chúng tôi tiếp tục thực hiện kỹ thuật ở cơ DCN hoặc ở cơ VM hay làm cả 2 cơ
tùy theo diễn tiến bệnh.
- Chúng tôi thực hiện kỹ thuật SFEMG theo đúng hướng dẫn mới nhất
tháng 3/2016; theo đó số lượng cặp điện thế phải thu thập để phân tích là:
• Chẩn đoán xác định bị bệnh rối loạn xi náp thần kinh cơ (kết quả
SFEMG dương tính): ≥ 10-15 cặp điện thế.
• Bác bỏ bệnh rối loạn xi náp thần kinh cơ: ( kết quả SFEMG âm
tính) ≥30 cặp điện thế.
Quá trình tiến hành kỹ thuật được ghi lại bằng video để đảm bảo tính trung
thực. Kết quả bảng ghi ghi điện cơ sợi đơn được in ra theo mẫu có sẵn trong phần
mềm máy điện cơ có các dữ liệu hành chính, chi tiết kết quả đo SFEMG.
b. Kết quả SFEMG được chia làm 2 nhóm:
35
* Nhóm 1: đo theo phương pháp kinh điển đang thực hiện tại đa số
phòng chẩn đoán điện cơ trên thế giới theo các hướng dẫn trước đây từ các
nhà điện cơ hàng đầu thế giới Stålberg E., Tronjeli J.V. và cs, J. và Sander D.
B., riêng các thông số và tiêu chuẩn kỹ thuật theo hướng dẫn của công trình
nghiên cứu đa trung tâm Stålberg E., Sander D. B. và cs (tháng 3/2016).
Phương pháp kinh điển được thực hiện cho các bệnh nhân từ ngày 01/6/-
10/9/2017.
* Nhóm 2: đo theo phương pháp mới dựa vào dữ liệu các điểm vận động
thu thập từ kết quả phẫu tích với các thông số kỹ thuật và tiêu chuẩn cũng theo
hướng dẫn của công trình nghiên cứu đa trung tâm Stålberg E., Sander D. B. và
cs (tháng 3/2016). Nói cách khác đo SFEMG theo phương pháp mới thực chất
là phương pháp kinh điển bổ sung thêm việc đặt điện cực kích thích vào vùng
các điểm vận động theo cơ sở giải phẫu đã thu thập được ở mẫu phẫu tích.
Nhóm 2 được thực hiện cho tất cả bệnh nhân mới đến đo SFEMG lần
đầu hay đo lại ( lần 2, lần 3,..) kể từ ngày 11/9/2017 đến 5/10/2017 (sau khi
hoàn tất các dữ liệu giải phẫu qua phẫu tích), để đảm bảo tính khách quan cho
kỹ thuật mới.
c. Phương pháp đo ghi điện cơ sợi đơn kiểu kích thích:
* Cơ vòng mắt
+ Phương pháp kinh điển: đặt điện cực kích thích hình đĩa trên đường
đi của nhánh thần kinh mặt phân bố đến cơ vòng mắt bằng cách dùng kích
thích điện với cường độ mà bệnh nhân chịu đựng được (trung bình 5-12mA)
làm cho cơ VM bị kích thích (biểu hiện bằng động tác nhắm mắt liên tục rõ
nhất). Tiếp theo nhà điện cơ đặt điện cực ghi là điện cực kim đồng trục loại
nhỏ nhất 30G từ vị trí đường nối từ bờ trên đỉnh ống tai ngoài (điểm D) với
khóe mắt ngoài hướng vào ½ dưới cơ VM cách mũi điện cực kích thích
20mm, và dịch chuyển vị trí của điện cực ghi để thu nhận các tín hiệu cần
thiết. Tuy cơ VM có số lượng đơn vị vận động ít (khoảng 6 MUP), nhưng do
36
kim đồng trục có bán kính ghi nhận tín hiệu lớn nên trong thực hành dễ bị
nhiễu so với khi dùng điện cực kim sợi đơn độc chuyên dụng.
Hình 2.14. Minh hoạ kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ VM
*Nguồn: Theo Trontelj J.V. và cs (1988)[112]
+ Phương pháp mới: là phương pháp kinh điển bổ sung việc xác định
vùng đặt điện cực kích thích ở cơ VM theo kết quả thu được qua phẫu tích.
* Cơ duỗi các ngón
+ Phương pháp kinh điển: đặt cố định điện cực kích thích (điện cực đơn
cực: monopolar needle) vào trong cơ và kích thích điện với cường độ nhỏ nhất
có thể được (trung bình 1-3mA) làm cho cơ DCN bị kích thích (biểu hiện bằng
động tác gấp, duỗi liên tục của các ngón tay), đặt điện cực đối chiếu là điện cực
hình đĩa cách điện cực kim đơn cực 20mm. Tiếp theo nhà điện cơ đặt điện cực
ghi là điện cực kim đồng trục loại nhỏ nhất 30G vào cơ DCN cách mũi điện
cực kích thích 20mm, và dịch chuyển vị trí của điện cực thích hợp ghi để thu
nhận các tín hiệu cần thiết. Trong quá trình làm do cơ DCN co sẽ làm dịch
chuyển điện cực kích thích, nên sẽ dịch chuyển điện cực khi cơ DCN không co
hoặc gây đau… Do cơ DCN có số lượng đơn vị vận động (MUP) phong phú
(khoảng 200 MUP), bán kính ghi nhận tín hiệu lớn nên trong thực hành gặp
nhiều khó khăn, nhiễu và thậm chí phải dừng vì bệnh nhân không hợp tác.
+ Phương pháp mới: là phương pháp kinh điển bổ sung việc xác định
vùng đặt điện cực kích thích ở cơ DCN theo kết quả thu được qua phẫu tích.
37
* nguồn:theo Stålberg E. và cs (2010) [19]
Thiết lập các thông số kỹ thuật máy và tiêu chuẩn thu nhận tín hiệu của 2 phương
pháp giống nhau dựa trên hướng dẫn mới nhất (3/2016) (phụ lục)
Hình 2.15. Minh hoạ kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ duỗi các ngón
Phương pháp kinh điển (31/5-10/9/2017)
Phương pháp mới (11/9-5/10/2017)
Chủ động đặt điện cực kích thích dựa trên vùng tập trung điểm vận động của cơ khảo sát qua phẫu tích ở bước 1 (vùng 1cm2 và vùng phân bố 50-75-95%)
Đặt điện cực kích thích (điện cực hoạt động) vào cơ khảo sát (vòng mắt hoặc duỗi các ngón) dựa trên kiến thức giải phẫu (đường đi của nhánh gò má của thần kinh VII chi phối cơ vòng mắt, nhánh sâu thần kinh quay chi phối cơ duỗi các ngón)
Đặt điện cực đối chiếu cách điện cực hoạt động 2cm. Điều chỉnh vị trí điện cực kích thích sao cho cơ được khảo sát co liên tục với cường độ dòng điện nhỏ nhất mà người được đo chấp nhận được).
Dùng kim đồng trục 30G đâm vào cơ để thu tín hiệu điện thế sợi đơn, đo độ bồn chồn
Sơ đồ 2.1. Minh họa phương pháp đo SFEMG trong nghiên cứu
38
2.2.3. Phương tiện nghiên cứu và xử lý số liệu nhóm 2
2.2.3.1.Phương tiện nghiên cứu nhóm 2
- Máy điện cơ VIKING EDX sản xuất 2017, của hãng Natus, đạt tiêu
chuẩn FDA và được phép sử dụng tại Việt Nam.
- Máy quay video kỹ thuật số Panasonic
2.2.3.2.Thu thập và xử lý số liệu nhóm 2
Chúng tôi sử dụng phần mềm IBM SPSS Statistics 22 và Microsoft
Excel 2013 trong mã hóa, xử lý và mô tả bằng biểu đồ các số liệu trong
nghiên cứu.
Chúng tôi cũng sử dụng máy quay video để ghi lại thời gian thực hiện
kỹ thuật và đảm bảo tính trung thực của dữ liệu thu thập. Dựa vào dữ liệu
video clip thu được, chúng tôi tính tổng thời gian thực hiện kỹ thuật và thời
gian lấy sóng.
Các biến số định lượng được mô tả bằng các trị số trung bình, độ lệch
chuẩn, các giá trị cực đại. Các biến số định tính được mô tả theo tần suất.
Chúng tôi sử dụng phép kiểm t (độ tin cậy là 95%) trong kiểm định các số
trung bình.
2.2.3.3. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả SFEMG
Theo hướng dẫn 3/2016 của Stålberg E. và cs [20], việc đánh giá kết
quả SFEMG kiểu kích thích dựa trên ba thông số: giá trị trung bình của các
hiệu số kế tiếp, giá trị bồn chồn thứ 27 (sắp xếp theo thứ tự tăng dần) trong 30
sóng và số lượng giá trị vượt khung (còn gọi là giá trị ngoại lai: outlier limits).
Giá trị bồn chồn thứ 27 thực chất là giá trị ngoại lai > MCD trung bình + 2 lần
độ lệch chuẩn.
Dựa vào giá trị tham chiếu của hướng dẫn 3/2016 [20], chúng tôi đã
thiết kế mẫu đọc kết quả như sau:
39
Bảng 2.1. Mô tả số liệu kết quả ghi điện cơ sợi đơn
❖ Cơ vòng mắt (Orbicularis oculi):
MCD trung bình (µs): <27 MCD thứ 27 (µs): <36 Bình thường Số lượng Jitter khảo sát (No): 10-30 Số lượng trị số vượt khung (No): ≤ 3
Kết quả
❖ Cơ duỗi các ngón (Extensor digitorum communis):
Số lượng Jitter MCD trung bình MCD thứ 27 Số lượng trị số Bình khảo sát (No): (µs): <24 (µs):<35 vượt khung thường (No): ≤ 3 10-30
Kết quả
2.3. Đạo đức nghiên cứu
- Thực hiện đúng theo đề cương nghiên cứu đã được hội đồng chấm đề
cương thông qua.
- Mẫu phẫu tích được thực hiện trên các xác của người tình nguyện hiến
xác có hồ sơ lưu trữ tại hai bộ môn giải phẫu.
- Bệnh nhân đến đo SFEMG tự nguyện tham gia nghiên cứu và đồng ý
cho sử dụng dữ liệu cá nhân (hình ảnh, chi tiết bệnh sử, chi tiết điều trị,...) qua
mẫu có sẵn (trong phần phụ lục).
- Các hình ảnh của 2 loại đối tượng nghiên cứu đều bảo mật danh tính,
và kết quả nghiên cứu chỉ phục vụ cho mục đích chuyên môn, không nhằm
mục đích thương mại.
2.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Mẫu phẫu tích được thực hiện trên xác lưu trữ tại BMGP hai trường
Đại học Y Dược tp. HCM và Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch từ 1/2012
đến tháng 6/2015 với sự cho phép của lãnh đạo các cấp. Phương thức phẫu
tích được tiến hành thử nghiệm từ tháng 3/2014, và chính thức bắt đầu từ
3/2015 đến 28/8/2017.
40
- Do thay đổi máy điện cơ và thay đổi các thông số và tiêu chuẩn kỹ
thuật theo hướng dẫn mới (tháng 3/2016) [20] nên chúng tôi chỉ sử dụng dữ
liệu bệnh nhân và điện cơ thu thập được trong khoảng thời gian 1/6/2017 đến
5/10/2017 tại trung tâm y khoa Nguyễn Hoàng vào nghiên cứu.
41
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. NHÓM 1 ( NHÓM PHẪU TÍCH)
Chúng tôi đã phẫu tích được 30 vùng cẳng tay sau - gồm tay 2 bên của
4 nữ, 10 nam và tay bên phải của 1 nam và 1 nữ- của 15 xác hiến tại bộ môn
tại bộ môn Giải phẫu Trường Đại học Y Dược tp.Hồ Chí Minh; và 30 mẫu
vùng mặt-gồm 15 nửa mặt bên trái và 15 nửa mặt bên phải- của 20 xác hiến
tại 2 bộ môn Giải phẫu Trường Đại học Y Dược tp.Hồ Chí Minh và bộ môn
Giải phẫu trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
Độ tuổi trung bình khi mất của các xác phẫu tích vùng tay là 69,25 ±
12,39 tuổi (dao động từ 42 đến 88 tuổi).
Độ tuổi trung bình khi mất của các xác phẫu tích vùng mặt là 66 ±
10,32 tuổi (dao động từ 42 đến 87 tuổi).
Bằng phép kiểm t, các thông số đo đạc không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm nam và nữ (p > 0,05), nên chúng tôi gộp các số liệu 2
giới để mô tả cho từng nhóm phẫu tích.
3.1.1. Một số đặc điểm giải phẫu các phân nhánh của thần kinh mặt cho
cơ vòng mắt
3.1.1.1. Kích thước cơ vòng mắt
Giới hạn trên của cơ vòng mắt: 30,98 ± 3,56 mm
Giới hạn dưới của cơ vòng mắt: 26,34 ± 2,95 mm
Giới hạn trong của cơ vòng mắt: 6,85 ± 1,13 mm
Giới hạn ngoài của cơ vòng mắt: 32,03 ± 0,39 mm, tối thiểu là: 32,03 -
0,78 = 31,25 mm.
Điểm thấp nhất của cơ vòng mắt: 31.99 ± 3.76 mm, tối thiểu là: 31,99 -
7,52 = 24,47mm.
42
3.1.1.2. Số lượng các phân nhánh vào cơ vòng mắt
Qua phẫu tích chúng tôi ghi nhận 100% các nhánh thần kinh chi phối cơ
VM đều xuất phát từ nhánh thái dương và nhánh gò má của thần kinh mặt,
trong đó ½ dưới cơ vòng mắt được chi phối bởi nhánh gò má và 1 số phân
nhánh của nhánh thái dương. Chúng tôi đã đếm được số lượng phân nhánh từ
nhánh thái dương và nhánh gò má cho mỗi cơ VM lần lượt dao động từ: 8-15
và 4-7 (bảng 3.1. và 3.2.)
Bảng 3.1. Số lượng phân nhánh từ nhánh thái dương và nhánh gò má.
Cơ vòng mắt Điểm vận động ½ trên ½ dưới
Nhánh thái dương 2-9 3-9
Nhánh gò má 4-7
Bảng 3.2. Chi tiết số lượng phân nhánh từ nhánh thái dương và nhánh gò má
Nhánh thái dương ( số lượng mẫu)
cơ vòng mắt Trái
cơ vòng mắt Phải
Nhánh gò má ½ dưới cơ vòng mắt ( số lượng mẫu)
Số điểm vận động
Trái
Phải
½ trên
½ dưới
½ trên
½ dưới
2
1
1
3
1
2
1
1
1
2
4
1
2
1
6
5
5
5
5
3
3
8
5
6
6
4
2
3
2
2
7
2
8
3
8
2
1
1
1
9
2
43
Chúng tôi quy ước các vị trí của nhánh thái dương đi vào cơ vòng mắt
chia thành 2 nhóm: nhóm chi phối ½ cơ vòng mắt trên -bao gồm cả vị trí đi
vào cơ vòng mắt ngay tại khóe mắt ngoài- và nhóm chi phối ½ dưới cơ vòng
mắt, sự phân định 2 nhóm dựa trên hình chụp khi phẫu tích (Hình 3.2).
Chúng tôi không ghi nhận được nhánh má đi vào cơ vòng mắt trong các
mẫu phẫu tích.
Hình 3.2. 6 nhánh thái dương đi vào ½ dưới cơ vòng mắt và
*Nguồn: tiêu bản xác Nguyen Huu D., mã số 551, mặt bên (P)
7 nhánh thái dương đi vào ½ trên cơ vòng mắt
Biểu đồ 3.1. Số điểm vận động nhánh gò má đi vào ½ dưới cơ vòng mắt 2 bên
44
Biểu đồ 3.2. Số điểm vận động nhánh thái dương ở 1/2 trên và 1/2 dưới
cơ vòng mắt bên trái
Biểu đồ 3.3. Số điểm vận động nhánh thái dương ở 1/2 trên và 1/2 dưới
cơ vòng mắt bên phải
45
3.1.1.3. Vùng nguy hiểm số 2
Trong các phẫu thuật ở vùng mặt, các nhà ngoại khoa thường cảnh giác
khi thực hành ở các vùng có nguy cơ tổn thương mạch máu và thần kinh quan
trọng, gọi là các vùng nguy hiểm. Theo y văn có tất cả 7 vùng nguy hiểm ở
mặt [113], [114]. Trong quá trình phẫu tích nhánh thần kinh thái dương và gò
má chi phối cho cơ VM thì chúng tôi đã can thiệp trực tiếp vào vùng nguy
hiểm số 2. Chính vì vậy, chúng tôi tìm cách đo đạc và xác định thêm vùng
này, để tìm ra số liệu giải phẫu vùng nguy hiểm số 2 ở người Việt Nam.
Chúng tôi đã xác định được 2 vùng:
+ vùng thần kinh mặt (chỉ chứa các phân nhánh thần kinh mặt và
mạch máu nằm trong đó).
+ vùng nguy hiểm số 2 trong thực hành. Đó là 1 vùng tam giác vuông
có 2 cạnh là:
DH: 58.88 ± 5.84 mm
HT (chiều cao h): 38.20 ± 7.20 mm
DT: là cạnh huyền của tam giác này.
Vị trí điểm Th (chiều cao h’) so với điểm giữa bờ trên hốc mắt:
10.62 ± 5.84 mm
46
S
Ob
1
h
H
Th
d 2 Ta
h ’
d1
T
D P
Hình 3.3. Tam giác thần kinh mặt ( màu tím) và tam giác nguy hiểm
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Hữu Đ.. mã số 551, mặt trái
số 2 (màu vàng)
3.1.1.4. Vùng phân bố các phân nhánh thái dương và gò má của thần kinh
mặt đi vào cơ vòng mắt
Chúng tôi thiết lập được 9 vùng chứa 50%, 75% và 95 % các phân
nhánh thái dương và gò má của thần kinh mặt đi vào cơ vòng mắt theo 3 hệ
trục tọa độ X1O1Y1, X2O1Y2, X3O1Y3 (biểu đồ 3.4 A., 3.4.B., 3.4.C, 3.5.A,
3.5.B, 3.6.A., 3.6.B và 3.6.C.).
47
Biểu đồ 3.4.A Sự phân bố các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
vào ½ trên cơ vòng mắt theo hệ trục X1O1Y1
Biểu đồ 3.4.B. Sự phân bố các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
vào ½ trên cơ vòng mắt theo hệ trục X2O1Y2
48
Biểu đồ 3.4.C. Sự phân bố các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
vào ½ trên cơ vòng mắt theo hệ trục X3O1Y3
Biểu đồ 3.5.A. Sự phân bố các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
vào 1/2 dưới cơ vòng mắt theo hệ trục X1O1Y1
49
Biểu đồ 3.5.B. Sự phân bố các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
vào 1/2 dưới cơ vòng mắt theo hệ trục X2O1Y2
Biểu đồ 3.5.C. Sự phân bố các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
vào 1/2 dưới cơ vòng mắt theo hệ trục X3O1Y3
50
Vì đề tài tập trung vào ứng dụng kỹ thuật SFEMG nên chúng tôi tập
trung mô tả 3 vùng chứa phân nhánh gò má của thần kinh mặt cho phối ½
dưới cơ VM (Biểu đồ 3.6.A, 3.6.B và 3.6.C).
Biểu đồ 3.6.A. Sự phân bố các phân nhánh gò má của thần kinh mặt
vào cơ vòng mắt theo hệ trục X1O1Y1
Biểu đồ 3.6.B. Sự phân bố các phân nhánh gò má của thần kinh mặt vào
cơ vòng mắt theo hệ trục X2O1Y2
51
Biểu đồ 3.6.C. Sự phân bố các phân nhánh gò má của thần kinh mặt
vào cơ vòng mắt theo hệ trục X3O1Y3
Tọa độ tâm các elip trên các hệ trục tọa độ là tọa độ điểm Ri trung bình,
trong đó:
+ Tọa độ tâm các elip trên hệ trục tọa độ X1O1Y1 là (70.96036, -
30.85443), trong đó chiều dài của trục dài và trục ngắn lần lượt là: 24,11 mm
và 14,57 mm cho vùng 50%; 34,04 mm và 20,56 mm cho vùng 75%;
50,06mm và 30,24mm cho vùng 95%.
+ Tọa độ tâm các elip trên hệ trục tọa độ X2O1Y2 là (75.43329, -
12.74335), trong đó chiều dài của trục dài và trục ngắn lần lượt là: 22,88mm
và 11,53mm cho vùng 50%; 32,30mm và 16,28mm cho vùng 75%; 47, 50mm
và 30,24mm cho vùng 95%.
+ Tọa độ tâm các elip trên hệ trục tọa độ X3O1Y3 là (66.86922, -
41.11341), trong đó chiều dài của trục dài và trục ngắn lần lượt là: 29,22mm
và 23,25mm cho vùng 50%; 41,24mm và 32,83mm cho vùng 75%; 60,75mm
và 48, 28mm cho vùng 95%.
52
Hình 3.4. Biểu diễn các hình elip của phân nhánh gò má trên 3 hệ trục tọa độ
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Văn H. mã số 640, mặt phải 3.1.1.5. Vùng 1cm2 mà ở đó có tần suất cao nhất các phân nhánh thái
dương và gò má của thần kinh mặt đi vào cơ vòng mắt
Biểu đồ 3.7.A. Vùng 1cm2 chứa các phân nhánh gò má của thần kinh mặt đi
vào cơ vòng mắt theo hệ trục tọa độ X1O1Y1
Biểu đồ 3.7.B. Vùng 1cm2 chứa các phân nhánh gò má của thần kinh mặt đi
vào cơ vòng mắt theo hệ trục tọa độ X2O1Y2
53
Biểu đồ 3.7.C. Vùng 1cm2 chứa các phân nhánh gò má của thần kinh mặt đi
vào cơ vòng mắt theo hệ trục tọa độ X3O1Y3
Đó là các vùng có đặc điểm như sau:
+ Trục tọa độ X1O1Y1: (X1: từ 65 đến 75 mm, Y1: từ -35 đến -25 mm)
+ Trục tọa độ X2O1Y2: (X2: từ 73 đến 83 mm, Y2: từ -17 đến -7 mm).
+ Trục tọa độ X3O1Y3: (X3: từ 55 đến 65 mm, Y3: từ -45 đến -35 mm).
Biểu đồ 3.8.A. Vùng 1cm2 chứa các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
đi vào ½ dưới cơ vòng mắt theo hệ trục tọa độ X1O1Y1
Biểu đồ 3.8.B. Vùng 1cm2 chứa các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
đi vào ½ dưới cơ vòng mắt theo hệ trục tọa độ X2O1Y2
Biểu đồ 3.8.C. Vùng 1cm2 chứa các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
54
đi vào ½ dưới cơ vòng mắt theo hệ trục tọa độ X3O1Y3
Biểu đồ 3.9.A. Vùng 1cm2 chứa các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
đi vào ½ trên cơ vòng mắt theo hệ trục tọa độ X1O1Y1
Biểu đồ 3.9.B. Vùng 1cm2 chứa các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
đi vào ½ trên cơ vòng mắt theo hệ trục tọa độ X2O1Y2
Biểu đồ 3.9.C. Vùng 1cm2 chứa các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt
đi vào ½ trên cơ vòng mắt theo hệ trục tọa độ X3O1Y3
3.1.1.5. Vùng phân bố các điểm vận động của nhánh gò má của thần kinh
mặt đi vào cơ vòng mắt
* Chúng tôi đã thiết lập được các vùng phân bố các điểm vận động của
nhánh gò má thần kinh mặt đi trực tiếp vào ½ dưới cơ VM và đặc biệt là tính
toán được vùng 1cm2 - là vùng tập trung nhiều nhánh vận động nhất vào cơ
VM- đây là chưa từng được đề cập đến trong y văn trên toàn thế giới. Chúng
tôi tập hợp kết quả nghiên cứu biểu diễn lên trên bề mặt cơ VM thì thu được
hình minh họa các đặc điểm giải phẫu của điểm tận vận động của nhánh gò
má thần kinh mặt chi phối cơ VM lần lượt (hình 3.5., hình 3.6., hình 3.7.)
như sau:
55
Hình 3.5. Vùng phân bố các phân nhánh gò má đi vào cơ vòng mắt
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Văn H. mã số 640, mặt phải
Vùng 1cm2 có vị trí trên hệ trục tọa độ X1O1Y1 như sau: (X1: từ 65 đến 75
mm, Y1: từ -35 đến -25 mm)
trên hệ trục X1O1Y1
Hình 3.6. Vùng phân bố các phân nhánh gò má đi vào cơ vòng mắt
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Văn H. mã số 640, mặt phải
trên hệ trục X2 O1Y2
Vùng 1cm2 có vị trí trên hệ trục tọa độ X2O1Y2 như sau: (X2: từ 73 đến
83 mm, Y2: từ -17 đến -7 mm).
Hình 3.7. Vùng phân bố các phân nhánh gò má đi vào cơ vòng mắt
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Văn H. mã số 640, mặt phải
trên hệ trục X3 O1Y3
Vùng 1cm2 có vị trí trên hệ trục tọa độ X3O1Y3 như sau: (X3: từ 55 đến
65 mm, Y3: từ -45 đến -35 mm).
56
*Tập hợp dữ liệu điểm vận động của nhánh gò má ở cơ vòng mắt
+ Từ vị trí phân bố các nhánh vận động của nhánh gò má thần kinh mặt
vào cơ VM, qua các hệ trục tọa độ chúng tôi thấy rằng dùng hệ trục X2 O1Y2
là thuận tiện nhất trong đặt điện cực kích thích hình đĩa thực hành kỹ thuật
SFEMG, bởi vì dễ thao tác và tương ứng với vị trí đặt điện cực kim khảo sát.
+ Từ đó chúng tôi đặt điện cực hoạt động, điện cực đối chiếu và điện
cực ghi theo hình minh họa ( Hình 3.8.)
( kim đồng trục) ở cơ vòng mắt. Mũi tên đỏ: điện cực kim ghi SFEMG , hình tròn
đen và đỏ : kích thích (hoạt động) và đối chiếu
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Văn H. mã số 640, mặt phải
Hình 3.8. Minh họa vị trí đặt điện cực kích thích, đối chiếu ( hình đĩa) và điện cực ghi
+ Dựa trên các dữ liệu này chúng tôi có cơ sở thực tiễn về mặt giải phẫu
trong thực hành kỹ thuật SFEMG trên cơ VM theo phương pháp mới.
3.1.2. Một số đặc điểm giải phẫu các phân nhánh sâu của thần kinh quay
cho cơ duỗi các ngón
3.1.2.1. Số lượng các phân nhánh vào cơ duỗi các ngón
Qua phẫu tích chúng tôi ghi nhận 100% các nhánh thần kinh chi phối cơ
DCN đều xuất phát từ nhánh sâu thần kinh quay ở bờ dưới cơ ngửa. Tổng
cộng có 14 dây thần kinh bên trái cho 206 nhánh, 16 dây thần kinh bên phải
cho 261 nhánh. Trong đó số lượng phân nhánh cho mỗi cơ DCN dao động từ
9-21 nhánh (bảng 3.3.)
57
3.1.2.2. Vị trí nhánh sâu thần kinh quay thoát ra ở bờ dưới cơ ngửa
* Tọa độ điểm R0
X0 = 71.58 ± 11.66 mm, nhỏ nhất 49,14 mm, lớn nhất 89,34mm.
Y0 = 3,81 ± 8,70 mm, nhỏ nhất -13,84 mm, lớn nhất 18,10 mm.
Bảng 3.3. Phân bố số lượng các nhánh thần kinh đi vào cơ duỗi các ngón
Mẫu
Số lượng
Bên trái
Bên phải
9 phân nhánh
1
1
11 phân nhánh
2
1
1
13 phân nhánh
3
3
14 phân nhánh
5
2
3
15 phân nhánh
3
1
2
16 phân nhánh
4
2
2
17 phân nhánh
4
1
3
18 phân nhánh
4
2
2
19 phân nhánh
3
1
2
21 phân nhánh
1
1
58
Biểu đồ 3.10. Phân bố số lượng các nhánh thần kinh đi vào cơ duỗi các ngón
Hình 3.9. 21 phân nhánh chi phối cơ duỗi các ngón của nhánh sâu
*Nguồn: Tiêu bản xác Huỳnh Công H, mã số 535, tay phải
thần kinh quay phải
*Dựa vào phần mềm SPSS, chúng tôi vẽ được biểu đồ biểu thị sự phân
tán của tọa độ điểm R0
59
Biểu đồ 3.11. Tọa độ điểm nQ0.
Vị trí trung tâm trong biểu đồ thể hiện tọa độ trung bình của điểm nQ0
3.1.2.3.Tương quan vị trí R0 với trục D-OX
Khi tính tỉ lệ k = hoành độ X của R0 / chiều dài trục D-OX chúng tôi có
kết quả: k = 0,3 ± 0,04 và k có giá trị nhỏ nhất là 0,23 và lớn nhất là 0,38.
Vậy vị trí Ro khi đối chiếu lên trục D-OX nối từ mỏm trên lồi cầu ngoài
đến khớp quay tụ dưới, hầu hết tập trung ở vị trí khoảng 1/5-2/5 chiều dài tính
từ mỏm trên lồi cầu ngoài vùng cẳng tay sau đến khớp quay trụ dưới.
3.1.2.4. Đặc điểm vùng phân bố các phân nhánh thần kinh quay(nQi) đi vào
cơ duỗi các ngón
Dựa vào phần mềm Matlab 2013a, qua tính toán chúng tôi đã có kết quả
như sau:
60
Biểu đồ 3.12. Biểu diễn mật độ phân bố các nhánh thần kinh quay
vào cơ duỗi các ngón
(màu đỏ: mật độ 50%, màu xanh dương: mật độ 75%, màu tím: mật độ 95%)
Chúng tôi nhận thấy rằng các vùng biễu diễn mật độ phân bố các nhánh
thần kinh có thể biễu diễn dưới dạng các elip.
Từ đó chúng tôi đã thiết lập được:
a. Vùng chứa 50%,75% và 95 % các phân nhánh thần kinh quay đi vào cơ
duỗi các ngón
Đó là là các hình elip không đồng tâm lần lượt có màu đỏ, xanh và tím.
Biểu đồ 3.13. Mô tả sự phân bố các phân nhánh thần kinh quay vào
cơ duỗi các ngón
61
Tọa độ tâm các elip là tọa độ điểm Ri trung bình: (84,72; 2,88) .
Trong đó:
+ Hình elip màu đỏ chứa 50% các nQi đi vào cơ DCN, có trục dài và
trục ngắn lần lượt là: 51,35 mm và 20,21mm.
+ Hình elip màu xanh dương chứa 75% các nQi đi vào cơ DCN, có trục
dài và trục ngắn lần lượt là: 72, 62 mm và 28,58mm.
+ Hình elip màu tím chứa 95% các nQi đi vào cơ DCN, có trục dài và
trục ngắn lần lượt là: 106,75 mm và 42,02mm.
b. Vùng 1cm2 có tần suất cao nhất các phân nhánh thần kinh quay (nQi)
đi vào cơ duỗi các ngón
Chúng tôi đã xác định được 1 vùng 1cm2 mà ở đó có tần suất cao nhất
các nQi đi vào cơ DCN. Đó là vùng có tọa độ (73,25; -6,58) đến (82,13; 2,76)
và có tổng cộng 47 nQi (Biểu đồ 3.14.)
Như vậy nếu ta đặt điện cực kích thích vào cơ DCN ở vị trí 73,3 đến 82mm
trên chiều dài trục D-OX (mỏm trên lồi cầu ngoài đến khớp quay trụ dưới, khi kim
dịch chuyển trong quá trình đo SFEMG không sợ lệch khỏi vùng 1cm2
Biểu đồ 3.14.A. Vùng mật độ phân bố các nhánh Ri
62
Biểu đồ 3.14.B. Vùng 1cm2 mô tả sự phân bố cao nhất các nhánh Ri
3.1.2.5. Vùng phân bố các điểm vận động của các nhánh tận vận động của
thần kinh quay đi vào cơ duỗi các ngón
* Chúng tôi tập hợp kết quả nghiên cứu biểu diễn lên trên bề mặt cơ
DCN, thu được hình minh họa các đặc điểm giải phẫu của các nhánh tận vận
động của thần kinh quay chi phối cơ DCN như sau (hình 3.10.).
+ Vùng hình vuông 1cm2 có: tọa độ (73,25; -6,58) đến (82,13; 2,76)
+ Tọa độ tâm các elip là tọa độ điểm Ri trung bình: (84,72; 2,88)
+ Từ đó chúng tôi đặt điện cực kim kích thích ( điện cực kim đơn cực)
theo hình minh họa ( Hình 3.11.)
63
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Văn H. mã số 640, mặt phải
Hình 3.11. Minh họa vị trí đặt điện cực kích thích ( kim đơn cực) vào cơ duỗi các ngón
+ Dựa trên các dữ liệu này chúng tôi có cơ sở thực tiễn về mặt giải phẫu
trong thực hành kỹ thuật SFEMG trên cơ DCN theo phương pháp mới.
3.2. NHÓM 2 (NHÓM BỆNH NHÂN ĐO SFEMG)
Chúng tôi đã tiến hành đo ghi điện cơ sợi đơn (SFEMG) kiểu kích thích
cho 104 lượt từ tổng số 79 bệnh nhân trên máy điện cơ Viking EDX tại phòng
khám đa khoa Nguyễn Hoàng trong khoảng thời gian từ 1/6-5/10/2017.
Nhưng chúng tôi chỉ đưa vào phân tích 60 bệnh nhân đạt tiêu chuẩn đưa vào
nghiên cứu với 79 lượt đo, trong đó có 73 lượt đo ở cơ VM (gồm 38 kỹ thuật
kinh điển và 35 kỹ thuật mới) và 63 lượt đo ở cơ DCN (gồm 31 kỹ thuật kinh
điển và 32 kỹ thuật mới).
3.2.1. Tuổi và giới
* Tuổi: Nhóm nghiên cứu gồm 60 bệnh nhân, có tuổi trung bình là 41
±14.76, lớn tuổi nhất là 71, nhỏ nhất là 17.
64
Biểu đồ 3.15. Phân bố tuổi bệnh nhân nghiên cứu
* Giới tính: Nữ chiếm đa số: 34, nam: 26
Biểu đồ 3.16. Phân bố giới tính trong nghiên cứu.
3.2.2. Tuổi phát bệnh
a. Tuổi phát bệnh
65
Biểu đồ 3.17. Phân bố tuổi khởi phát của bệnh nhân.
* Nhận xét: Tuổi khởi phát cao nhất nằm trong độ tuổi 30-39, và tập trung
nhiều ở các nhóm: 20-39 và 50-69
Biểu đồ 3.18. Phân bố tuổi khởi phát nam.
66
* Nhận xét: tuổi khởi phát ở nam giới phân bố theo 2 đỉnh: cao nhất: 20-
39 và 60-69
Biểu đồ 3.19. Phân bố tuổi khởi phát nữ.
* Nhận xét: tuổi khởi phát ở nữ cũng phân bố theo 2 đỉnh: cao nhất 40-49
và 60-69
b. Khoảng thời gian phát hiện bệnh
Biểu đồ 3.20. Thời gian phát hiện bệnh.
67
*Nhận xét: có khoảng 1/3 số bệnh nhân(33,33%) phát hiện bệnh muộn sau 1 năm
b. Phân độ bệnh nhược cơ tại thời điểm đo SFEMG
Biểu đồ 3.21: Phân độ Osserman tại thời điểm ghi SFEMG
thể mắt, ca độ III vừa xuất viện sau khi bị cơn nhược cơ phải điều trị tại khoa
HSCC bệnh viện Chợ Rẫy trong 1 tháng liên tục, bệnh nhân này không tuân thủ
điều trị.
* Nhận xét: đa số bệnh nhân (80%) tham gia nghiên cứu thuộc bệnh nhược cơ
3.2.3. Đặc điểm ghi điện cơ sợi đơn
3.2.3.1. Thời điểm đo ghi điện cơ sợi đơn lần đầu tiên
Bảng 3.4. Đặc điểm điều trị khi đo SFEMG lần đầu trong đợt nghiên cứu
Đặc điểm điều trị
Lâm sàng
Kết quả
Kết quả SFEMG
RNS
Độ I (n=18)
2 RNS (+),
SFEMG (+):17/18 ở cơ VM,
16 RNS (-)
3/9 cơ DCN
Chưa điều trị nhược
cơ ( n=20)
Độ IIb (n=2) 1 RNS (±),
SFEMG (+):2/2 ở cơ VM,
1 RNS (+)
1/1 cơ DCN
Độ I (n=22)
2 RNS (±),
SFEMG (+):17/18 ở cơ VM,
Đã điều
ổn định
1 RNS(+)
13/19 ở cơ DCN. (Có 1 ca
trị (n=32)
(n=28)
19 RNS (-)
(+) ở cơ DCN nhưng (-) ở
cơ VM)
Độ IIa (n=5), 1 RNS (±),
SFEMG (+) :5/5 cơ VM, (+)
4 RNS (-)
3/5 cơ DCN
Độ IIb (n=1) RNS (+)
SFEMG (+) ở cả 2 cơ VM
và DCN
Độ I (n=1)
RNS (+)
SFEMG (+) ở cả 2 cơ VM
và DCN
chưa ổn
độ IIa (n=2)
1 RNS (+),
SFEMG (+) ở 1/1 cơ VM và
định
1 RNS (-)
2/2 cơ DCN
(n=4)
độ III (n=1) RNS (+)
SFEMG (+) ở cơ DCN (cơ
VM không thực hiện)
Ngưng điều trị (n=8) Độ I (n=8)
2 RNS (+),
SFEMG (+) 8/8 cơ VM, 5/6
6 RNS (-)
cơ DCN
68
* Nhận xét:
+ Ở các bệnh nhân nhược cơ độ I chưa điều trị hoặc ngưng điều trị (bệnh tái phát
sau khi ngưng thuốc 1-12 năm): kết quả RNS (+) 15,3%(=4/26), trong khi đó
SFEMG (+):96,2% (=25/26) ở cơ VM và 53,3% (=8/15) ở cơ DCN
+ Ở các bệnh nhân đã điều trị ổn định (diễn tiến lâm sàng đáp ứng tốt điều trị:
phân độ nhược cơ giảm hoặc duy trì độ I) ghi nhận:
- Các bệnh nhân nhược cơ độ I: có SFEMG (+) 94,4% ở cơ VM và 68,4% ở cơ
DCN, trong khi đó chỉ có 4,5%( =1/22) RNS (+) và 9% (=2/22)RNS nghi ngờ
- Các bệnh nhân nhược cơ độ II: có SFEMG (+) 100% ở cơ VM và 60% ở cơ
DCN,
+ Ở các bệnh nhân đã điều trị nhưng chưa ổn định ( thuốc chưa đạt liều điều trị,
hoặc bệnh nhân tự ý điều chỉnh) thì RNS (+)75%(=3/4) trong khi đó SFEMG (+)
100% ở cơ VM và DCN.
3.2.3.2. Số ca đo hai bên cùng thời điểm
Trong số các ca nghiên cứu chúng tôi có 5 trường hợp đo SFEMG cùng
một lúc ở 2 mắt (cơ VM) (Bảng 3.5.) và 5 trường hợp ở 2 tay (cơ DCN)
(Bảng 3.6.) vào cùng một thời điểm.
69
Bảng 3.5. Chi tiết độ bồn chồn khi đo SFEMG ở cơ vòng mắt
Tên bệnh nhân
SFEMG
Độ bồn
Độ bồn
Ngày đo
chồn
chồn
ở cơ VM
(P)
(T)
Dương tính
Vương Ái B.
83
16/9/2017
82
Nguyễn Thị Kim H. Dương tính
27
18/9/2017
27
Dương tính
Nguyễn thị Thu L.
39
25/9/2017
45
Dương tính
Phạm Thị Minh T.
32
18/9/2017
71
Dương tính
Lâm Bích V.
28
19/9/2017
48
Bảng 3.6. Chi tiết độ bồn chồn khi đo SFEMG ở cơ duỗi các ngón
Tên bệnh nhân
SFEMG
Độ bồn
Độ bồn
Ngày đo
chồn
chồn
ở cơ DCN
(P)
(T)
Dương tính
Nguyễn Minh Đ.
39
27/9/2017
34
Âm tính
Phạm Thị H.
23
8/9/2017
20
Âm tính
Trần Văn T.
18
6/9/2017
24
Dương tính
Ngô Thị Thanh T
46
13/9/2017
38
Dương tính
Lâm Bích V.
30
19/9/2017
38
kết quả SFEMG cùng dương hoặc cùng âm tính, nhưng có 2 trường hợp độ bồn
chồn mắt bên sụp mi nặng (in đậm) tăng cao đáng kể (gấp đôi) so với mắt bên sụp
mi ít; ngược lại thì ở tay thì không có sự chênh lệch rõ rệt về độ bồn chồn.
* Nhận xét: Chúng tôi nhận thấy kết quả giữa 2 bên không khác biệt: hoặc có
3.2.3.3. Kết quả SFEMG ở cơ vòng mắt
70
Có 53 bệnh nhân được thực hiện kỹ thuật (đến thời điểm 5/10/2017),
với tổng số lượt là 73 trong đó có 38 lượt bệnh nhân thực hiện kỹ thuật kinh
điển và 35 lượt bệnh nhân thực hiện kỹ thuật mới. Cơ vòng mắt có biểu hiện
lâm sàng rõ nhất sẽ được chọn thực hiện kỹ thuật (nếu làm một bên).
Số liệu thu thập trong quá trình làm được hiển thị trên màn hình
máy điện cơ, và người thực hiện tùy chỉnh theo hướng dẫn tháng 3/2016
(hình 3.12).
Hình 3.12. Mô tả kết quả một trường hợp đang thực hiện SFEMG ở cơ vòng mắt
71
thực hiện từ máy điện cơ Viking EDX
(A: kết quả dương tính gồm 15 cặp điện thế; B: kết quả âm tính gồm 30 cặp điện thế
được ghi được ghi ở bệnh nhân).
Hình 3.13. Dữ liệu chi tiết kết quả đo SFEMG ở cơ vòng mắt
Từ kết quả này (hình 3.13.) chúng tôi ghi nhận số liệu cần thiết, nhập
vào phiếu trả lời kết quả cho bệnh nhân.
Chúng tôi đã so sánh các thông số kỹ thuật của hai phương pháp kinh
điển và mới ở cơ VM (bảng 3.7.).
72
Bảng 3.7. So sánh kết quả SFEMG kỹ thuật kích thích ở cơ vòng mắt
Kết quả SFEMG kỹ thuật kích thích ở cơ vòng mắt
Phương pháp Giá trị p Chỉ số kinh điển (n=38) mới (n=35)
Độ bồn chồn trung 37.61 ± 10.70 48.89 ± 16.84 0.001
bình (µs) ± độ lệch
chuẩn
Số lượng Jitter 233832 212566 0.666
(Tổng MIPI)
Thời gian/ sóng 85.03 ± 32.15 82.94 ± 26.97 0.765
Thời gian thực hiện 1420.74 ± 425.31 1457.97 ± 507.05 0.734
* Nhận xét: Thống kê kiểm định t test cho thấy:
1. Độ bồn chồn trung bình (Jitter, mean MCD) của phương pháp
kinh điển và mới khác biệt có ý nghĩa thống kê.
2. Tổng MIPI cũng như thời gian lấy sóng và thời gian hoàn thành 1
kỹ thuật SFEMG không khác biệt giữa hai phương pháp kinh điển và mới có
ý nghĩa thống kê.
3.2.3.4. Kết quả SFEMG ở cơ duỗi các ngón
Có 49 bệnh nhân được thực hiện kỹ thuật (đến thời điểm 5/10/2017),
với tổng số lượt là 63 trong đó có 31 lượt bệnh nhân thực hiện kỹ thuật kinh
điển và 32 lượt bệnh nhân thực hiện kỹ thuật mới.
Bảng dữ liệu chi tiết kết quả được ghi nhận từ máy điện cơ như hình
dưới (hình 3.14)
73
74
(A: kết quả âm tính gồm 30 cặp điện thế, B: kết quả dương tính gồm 15 cặp điện thế).
Hình 3.14. Dữ liệu chi tiết kết quả SFEMG tại cơ duỗi các ngón
Tương tự như ở cơ VM, từ kết quả này (hình 3.14.) chúng tôi ghi nhận
số liệu cần thiết, nhập vào phiếu trả lời kết quả cho bệnh nhân.
Cũng từ kết quả thu được như trên, chúng tôi đã so sánh các thông số
kỹ thuật của hai phương pháp kinh điển và mới trên cơ DCN(bảng 3.8).
75
Bảng 3.8. So sánh kết quả SFEMG kỹ thuật kích thích ở cơ duỗi các ngón
Kết quả SFEMG kỹ thuật kích thích ở cơ DCN
Phương pháp Giá trị P Chỉ số kinh điển (n=31) mới (n=32)
Độ bồn chồn trung 32,90 ± 18,45 36,94 ± 21,38 0,548
bình (µs), mean
Jitter ±SD
Số lượng Jitter 155450 159547 0,890
(Tổng MIPI)
Thời gian/ sóng 114,48 ± 39,77 103,21 ± 32,35 0,221
Thời gian thực hiện 2506,39 ± 887,18 1913,66 ± 547,24 0,002
* Nhận xét: Thống kê kiểm định t test cho thấy:
1. Độ bồn chồn trung bình (Jitter, mean MCD), tổng MIPI và thời
gian lấy sóng của phương pháp kinh điển và mới không khác biệt có ý nghĩa
thống kê với phương pháp mới với p > 0,05.
2. Nhưng thời gian hoàn thành 1 kỹ thuật SFEMG thực hiện theo
phương pháp mới khác biệt so với phương pháp kinh điển có ý nghĩa thống kê
với p< 0,005
76
3.2.3.5. Kết quả SFEMG ở cơ vòng mắt và cơ duỗi các ngón theo phân độ
nhược cơ
phân độ Osserman
Bảng 3.9. Kết quả tổng hợp SFEMG ở cơ vòng mắt và cơ duỗi các ngón theo
Phân độ SFEMG mắt SFEMG tay Ghi chú
nhược cơ ( cơ VM) ( cơ DCN)
Độ I (n=49) 96,61% (=57/59) lượt 74,46% (= 35/47 lượt Trường
đo: (+) đo): (+) hợp (-) ở
mắt, lại
(+) ở tay
Độ IIa (n=7) 83,33% (= 10/12) 75% (= 9/12 lượt đo): (+) Trường
lượt đo: (+) 0,17%(=2/12) lượt đo: (-) hợp (-) ở
0,08%(=1/12) lượt 0,08%(=1/12) lượt đo: mắt, lại
đo: âm tính giả âm tính giả âm tính
0,08%(=1/12) lượt giả ở tay
đo: (-)
Độ IIb (n=3) 100% (=3/3) lượt đo: 100% (=1/1) lượt đo: (-)
(+)
Độ III (n=1) Không có 100% (=1/1) lượt đo: ( +)
Tổng cộng 95,83%(=69/72): (+) 75,40%(= 46/61): (+)
* Nhận xét: Có 1 trường hợp nhược cơ độ I: kết quả SFEMG âm tính ở cơ
VM, nhưng dương tính ở cơ DCN và có 2 trường hợp nhược cơ độ IIa âm tính
giả: 1 trường hợp ở cơ VM; 1 trường hợp âm tính ở cơ VM, âm tính giả ở cơ
DCN trong khi đó bệnh nhân lại đáp ứng với điều trị bằng thuốc kháng men
Cholinesterase.
Có 74,46% bệnh nhân nhược cơ độ I có kết quả SFEMG dương tính ở
cơ DCN.
77
11
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. MẪU PHẪU TÍCH
4.1.1. Mẫu phẫu tích cơ vòng mắt
* Khảo sát các nhánh tận vận động đi vào cơ VM chúng tôi ghi nhận chỉ
có nhánh thái dương chi phối ½ trên (số lượng từ 3-9 nhánh) và ½ dưới cơ VM
(số lượng từ 2-9 nhánh) và nhánh gò má chi phối ½ dưới cơ VM (số lượng từ
4-7 nhánh) (bảng 3.1.); mà không ghi nhận được nhánh gò má chi phối cho ½
trên cơ VM cũng như sự tham gia của nhánh má của thần kinh mặt vào ½ dưới
cơ VM. Điều này khác biệt với y văn với một số tác giả khác. Theo Ouattara D.
và cs [34] 93,3% phần trên ngoài của cơ VM được chi phối bởi đám rối trên -
tạo thành bởi nhánh thái dương và phân nhánh gò má trên - và phần dưới
ngoài của cơ VM được chi phối bởi đám rối dưới -tạo thành bởi phân nhánh gò
má dưới và phân nhánh má trên là 63,3% hoặc phân nhánh gò má dưới là
13,3% hoặc chỉ có phân nhánh má trên là 16,7% [34].
Chúng tôi luôn xác định được ở ½ dưới cơ vòng mắt luôn có từ 2-9 nhánh
tận vận động của nhánh thái dương và 4-7 nhánh tận vận động của nhánh gò má.
Như vậy, ở ½ dưới cơ vòng mắt luôn luôn có phân nhánh thái dương chi phối.
Ngoài ra số lượng phân nhánh gò má của chúng tôi khác biệt khi so với số liệu
của Ramirez O.M. và cs [35]. Tác giả này cho rằng cơ vòng mắt dưới được chi
phối chủ yếu bởi 3-5 nhánh nhỏ của nhánh gò má và chỉ có 20,8% phần ngoài
của cơ vòng mắt dưới là do 1 nhánh nhỏ của nhánh thái dương.
Ramirez O.M. và cs cũng cho rằng việc xác định chi tiết giải phẫu
nhánh gò má chi phối cơ vòng mắt sẽ góp phần trong việc cải tiến kỹ thuật vi
phẫu điều trị chứng co thắt mí mắt (Blepharospasm) [35].
78
* Chúng tôi đã thiết lập được các thông số đo lường vùng nguy hiểm số
2 chứa toàn bộ các phân nhánh thái dương của thần kinh mặt (hình 4.1). Đó
là một tam giác vuông được xác định bởi 3 mốc: DH ( gốc điểm cao nhất của
gốc loa tai đến vị trí bờ sau của đường nối mỏm trán xương gò má với mỏm
gò má xương trán) và T. Điểm T nằm trên đường vuông góc với DH có thể
xác định bằng cách đối chiếu từ điểm giữa bờ trên hốc mắt 1,6cm, tương
đương khoảng một khoát ngón tay dễ xác định trên lâm sàng. So với các tác
giả khác (Hình 4.1.) thì:
+ Seckel B.R. [113] xác định mốc này là từ vị trí chân mày 2cm, còn
Larrabee W.F. và cs [114] mốc này từ đỉnh chân mày 2 cm.
Hình 4.1. Vùng nguy hiểm số 2
79
Larrabee W.F. [114].
*Nguồn:A: chúng tôi, B: theo Seckel B.R.[113]; C: theo Smith B.L. [115], D: theo
+ Schmidt B.L. và cs [115] xác định vị trí của nhánh thái dương trên
cùng các khóe mắt ngoài 2,8cm, và khoảng cách giữ nhánh thái dương và gò
má trung bình 1,7cm trên đường ngang vào cơ VM.
Chúng tôi nhận thấy bất cứ việc can thiệp vào vùng tam giác thần kinh
mặt đều nằm trong tam giác nguy hiểm (hình 3.3.).
* Sơ đồ minh họa cách đặt điện cực trong kỹ thuật SFEMG ở cơ
vòng mắt theo phương pháp mới
Dựa trên các vùng phân bố các điểm vận động của nhánh gò má thần
kinh mặt đi trực tiếp vào ½ dưới cơ VM và kích thước cơ vòng mắt ( hình
3.8.), chúng tôi đã vẽ sơ đồ minh họa áp dụng vào thực hành như sau:
pháp mới
Hình 4.2. Sơ đồ đặt điện cực trong kỹ thuật SFEMG ở cơ vòng mắt theo phương
80
+ Theo hình minh họa này, chúng tôi đặt điện cực hoạt động hình đĩa
ngay tại vị trí 7-8cm trên đường Reid (đường thẳng vẽ từ điểm trên bình tai,
ngay tại vị trí ống tai ngoài đến bờ dưới ổ mắt) tính từ bình tai. Vì điện cực hình
đĩa có đường kính khoảng 1cm, nên khi đặt ngay dưới điểm này ta sẽ đặt được
ngay vào vùng tập trung cao nhất các điểm vận động (vùng 1cm2 ). Tiếp theo
chúng tôi đặt điện cực đối chiếu cách điện cực hoạt động khoảng 1,5-2cm.
+ Từ vị trí 1cm cách khóe mắt ngoài chúng tôi dùng điện cực ghi ( điện
cực kim đồng trục) đâm vào cơ vòng mắt chếch xuống dưới vào trong sao cho
không đâm kim đi quá 24 mm về phía chân và không vượt ra phía ngoài 31
mm, khi tính từ trung điểm khóe mắt trong và ngoài, đảm bảo kim luôn nằm
đúng vị trí trong cơ. Các thông số này rút ra từ dữ liệu thu được qua phẫu tích:
giới hạn ngoài tối thiểu của cơ vòng mắt: 31,25 mm. điểm thấp nhất của cơ
vòng mắt: 24,47mm.
4.1.2. Mẫu phẫu tích cơ duỗi các ngón
*Khảo sát về đặc điểm hình thái của thần kinh quay ở vùng cẳng tay đã
được nghiên cứu nhiều trong y văn tiếng Anh; nhưng chỉ có vài y văn đề cập
đến dữ liệu hình thái học liên quan trực tiếp với đề tài nghiên cứu [23], [24],
[25]. Số lượng các nhánh tận vận động (Ri) vào cơ DCN của chúng tôi là 15,6
± 2,7, nhiều hơn so với tác giả Abrams R.A. và cs trung bình là 4,6 ± 1,3 [23],
Liu J. và cs [24] 4,3 ± 0,67, Safwat E.D. và cs trung bình là 3,4 ± 1,3 [25]. Sự
khác biệt này có lẽ là do từ vị trí màng trên cơ của bụng cơ chúng tôi đã phẫu
tích thêm cho đến nhánh tận cùng có thể phẫu tích được đi vào cơ (Hình 4.3.,
4.4., 4.5. và 3.5).
81
Bảng 4.1. So sánh số lượng các nhánh Ri vào cơ duỗi các ngón
Cơ DCN Các điểm vận động Trung bình ± độ lệch chuẩn
Tối thiểu Tối đa
Abrams R.A. và cs [23] 2 8 4,6 ± 1,3
Liu J. và cs [24] 3 6 4,3 ± 0,67
Safwat E.D. và cs [25] 2 5 3,4 ± 1,3
Chúng tôi 9 21 15,6 ± 2,7
Số lượng các nhánh tận vận động đi vào trong cơ của chúng tôi từ 13-
19 nhánh chiếm tỉ lệ đa số: 86,67%.
Hình 4.3. Số lượng các nhánh sâu của thần kinh quay
(mũi tên đen) chi phối cơ DCN, duỗi cổ tay trụ và duỗi riêng ngón trỏ.
*Nguồn: Abrams R.A. và cs s R.A.R.A. 1997 [23].
Hình 4.4. 9 phân nhánh chi phối cơ duỗi các ngón của
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Văn H. mã số 640, tay trái
nhánh sâu thần kinh quay trái
82
Hình 4.5. 16 phân nhánh chi phối cơ duỗi các ngón của
*Nguồn: Tiêu bản xác Nguyễn Tấn T. mã số 511, tay phải
nhánh sâu thần kinh quay phải
Khi so sánh 2 bên, chúng tôi nhận thấy số lượng nhánh tận này thường
nhiều hơn ở bên tay phải, điều này có thể do đặc điểm thuận tay phải ở đa số
người dân trong sinh hoạt, làm việc. Nhưng vì đặc điểm xác hiến không ghi
nhận là thuận tay bên nào trong hồ sơ nên chúng tôi không thể phân tích cụ
thể thêm.
* Vị trí phân bố các nhánh Ri vào cơ DCN của chúng tôi là tập trung ở
vị trí khoảng 1/5-2/5 chiều dài tính từ mỏm trên lồi cầu ngoài vùng cẳng tay
sau đến khớp quay trụ dưới; khác biệt với tác giả Safwat E.D. và cs [25] là tập
trung vào khoảng 1/3 giữa bụng cơ và tác giả Liu J. và cs [24] là ở 1/3 trên và
1/3 giữa chiều dài cẳng tay. Sự khác biệt này một phần là do cách mô tả.
Chúng tôi mô tả dựa trên trục tọa độ O2-X (O2R: tính từ mỏm trên lồi cầu
ngoài vùng cẳng tay sau đến khớp quay trụ dưới), còn tác giả Safwat E.D. và
cs [25] thì tính tương quan với bụng cơ DCN và hai tác giả Abrams R.A. và cs
[16], Liu J. và cs [24] so sánh với chiều dài cẳng tay (tính từ mỏm trên lồi cầu
ngoài đến mỏm trâm quay).
* Sơ đồ minh họa cách đặt điện cực trong kỹ thuật SFEMG ở cơ
duỗi các ngón theo phương pháp mới
Dựa trên các vùng phân bố các điểm vận động của các nhánh sâu thần
kinh quay đi trực tiếp vào cơ DCN ( hình 3.11.), chúng tôi đã vẽ sơ đồ minh
họa áp dụng vào thực hành như sau
83
*
phương pháp mới
Hình 4.6. Sơ đồ đặt điện cực trong kỹ thuật SFEMG ở cơ duỗi các ngón theo
+ Theo hình minh họa này, chúng tôi đo khoảng cách từ mỏm trên lồi
cầu ngoài đến khớp quay trụ dưới bằng thước dây, xác định đoạn từ 1/5-2/5 từ
mỏm trên lồi cầu ngoài, rồi đâm và di chuyển điện cực kính thích trong cơ
DCN ở vị trí 7,5-8cm (hình 4.6.).Điện cực đối chiếu ( điện cực hình đĩa) đặt
cách điện cực kích thích 2cm.
Tiếp theo đó, người làm điện cơ đâm điện cực ghi là điện cực kim đồng
trục loại nhỏ nhất 30G vào cơ DCN cách mũi điện cực kích thích 20mm, và
dịch chuyển vị trí của điện cực thích hợp ghi để thu nhận các tín hiệu cần thiết.
4.2. MẪU BỆNH NHÂN ĐO GHI ĐIỆN CƠ SỢI ĐƠN
4.2.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
4.2.1.1. Tuổi và giới tính
* Sau khi sàng lọc tổng số bệnh nhân đưa vào nghiên cứu của chúng tôi
là 60, là một mẫu không lớn nhưng đủ để đảm bảo việc khảo sát các đặc tính
thống kê.
+ Có 80% bệnh nhân tham gia nghiên cứu nằm trong độ tuổi lao động
(dao động từ 20 đến 59) (biểu đồ 3.15.).
+ Tỷ lệ nam: nữ trong mẫu của chúng tôi là 26 nam (43,3%) và 34 nữ
(56,7%) (biểu đồ 3.16.).
Số lượng bệnh nhân nữ tham gia vào nghiên cứu chiếm ưu thế, có thể là
do sự quan tâm lo lắng đến tình trạng bệnh nhiều hơn nam. Tuy vậy số liệu này
84
không phản ảnh trung thực tỉ lệ bệnh lưu hành là nam nhiều hơn nữ như các y
văn trong và ngoài nước đã công bố [7], [8], [9], [10], [11], [13]. Theo thống kê
của tác giả Nguyễn Hữu Công tỉ lệ nam: nữ ở TP. Hồ Chí Minh là ¼ ở độ tuổi
20-40, 3/7 ở độ tuổi 40-60 và 1/5 ở độ tuổi trên 60 [5]. Chúng tôi chưa ghi nhận
được các số liệu cụ thể ở người Việt ở các y văn khác trong nước.
* Khi khảo sát theo giới tính, chúng tôi ghi nhận ở nam và nữ giới đều
có tuổi khởi phát phân bố theo 2 đỉnh: tỉ lệ khởi phát cao nhất ở nam giới là:
29-39 và 60-69 trong khi ở nữ giới là: 40-49 và 60-69 (Biểu đồ 3.18. và
3.19.). Kiểu phát bệnh theo mô hình 2 đỉnh này cũng tương tự như y văn,
nhưng phân đoạn tuổi có khác biệt ít nhiều với y văn [5], [7], [9]. Và bệnh
nhân nam có xu hướng khởi phát bệnh sớm hơn nữ, số liệu của chúng tôi
ngược với số liệu của tác giả trong nước. Theo tác giả Nguyễn Hữu Công tỉ lệ
khởi phát cao nhất ở nam giới là: 30-34 và 70-74 trong khi ở nữ giới là: 20-24
và 70-74 [5]; sự khác biệt này có lẽ do một phần là cách phân tần độ tuổi của
chúng tôi là 10 năm, của tác giả Nguyễn Hữu Công là 5 năm.
4.2.1.2. Khoảng thời gian phát hiện bệnh
* Trong số liệu nghiên cứu của chúng tôi, có 11/60 ca (18,3%) được
chẩn đoán xác định bệnh sớm trong vòng 1 tháng sau khi xuất hiện triệu
chứng (biểu đồ 3.20.). Có 8/11 ca này đều cư trú tại thành phố Hồ Chí Minh
tại thời điểm khởi bệnh. Trong ba trường hợp còn lại thì hai ca khởi bệnh khi
trẻ (5 tuổi và 17 tuổi) được thân nhân mang lên thành phố Hồ Chí Minh khám
sớm, ca còn lại cư trú ở Dĩ An, Bình dương- rất gần thành phố Hồ Chí Minh.
Ngược lại trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi có 20/60
trường hợp (33,3%) được chẩn đoán xác định bệnh nhược cơ muộn (ít nhất là
trên 1 năm) (biểu đồ 3.20.). Trong đó có 9 trường hợp ở tỉnh xa (Kiên Giang,
Lâm Đồng, Bình Định, An Giang) và 5 trường hợp ở thành phố Hồ Chí Minh.
Năm trường hợp ở thành phố Hồ Chí Minh đều bị chẩn đoán nhầm (mổ chỉnh
thị, mổ cườm, điều trị Đông Y, tâm thần, cường giáp,..).
85
Sự khác biệt trong khoảng thời gian từ lúc khởi phát cho đến lúc chẩn
đoán xác định chứng tỏ rằng chẩn đoán bệnh nhược cơ, đặc biệt là thể mắt (độ
I) là khó khăn bởi vì:
+ Triệu chứng bệnh thường nghèo nàn: sụp mi nhẹ, mỏi cơ, nuốt nghẹn,
…có thể nhầm lẫn với các triệu chứng của bệnh thuộc chuyên khoa khác.
+ Triệu chứng nhẹ, kín đáo và không ảnh hưởng đáng kể đến ngoại
hình, việc làm và sinh hoạt nên nhiều bệnh nhân không quan tâm. Thậm chí
có trường hợp khi bệnh diễn tiến nặng đến mức phải nhập cấp cứu vì khó thở
thì mới được phát hiện.
+ Số lượng bác sĩ chuyên khoa nội thần kinh ở tuyến tỉnh còn ít. Có
trường hợp bệnh nhân đã được chẩn đoán bệnh nhược cơ ở thành phố Hồ Chí
Minh nhưng khi chuyển về địa phương điều trị tiếp thì bác sĩ lại bác bỏ chẩn
đoán bởi vì kết quả chụp CT scan ngực bình thường.
* Một lý do quan trọng nữa là việc chẩn đoán nhược cơ ở tuyến tỉnh và
trung ương hiện nay chủ yếu dựa vào lâm sàng và tét kích thích lặp lại (RNS).
Kỹ thuật chẩn đoán này đối với nhược cơ thể mắt thường có độ nhạy thấp 45-
50% [84], trong khi đó kỹ thuật SFEMG chỉ mới triển khai tại vài nơi ở thành
phố Hồ Chí Minh, không đáp ứng được nhu cầu xác định bệnh ở miền Nam
nói riêng và trong phạm vi toàn quốc nói chung.
Từ đặc điểm lâm sàng của nhóm bệnh nhân nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy ngoài điểm đặc trưng là dao động trong ngày: nặng lên về chiều và khi
hoạt động bằng thị giác nhiều (100%) thì các triệu chứng sau đây là thường
gặp ở bệnh nhược cơ thể mắt khi khởi phát:
1- Sụp mi mắt luân phiên (6,1%=3/49).
2- Sụp mi mắt kèm theo nhìn đôi (22,4% = 11/49).
3- Sụp mi 1 bên, tiến triển sụp mi bên còn lại sau một thời gian
(10,2%= 5/49).
4- Sụp mi 1 mắt hoặc 2 mắt không cân xứng (61,2% =30/49)
86
Các triệu chứng này cũng tương đồng với nhiều tác giả khác trong y
văn như Kuks J.B.M. [116], Sanders D.B. và cs [117].
*Tuy nhiên theo y văn có 15% - 25% bệnh nhân bị nhược cơ thể mắt
chỉ biểu hiện duy nhất ở mắt trong trong suốt quá trình bị bệnh [118] và 5%
bệnh nhân chỉ có biểu hiện lâm sàng bởi triệu chứng yếu cơ đơn độc [117],
[118]. Và trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc chẩn đoán xác định bệnh
trong những trường hợp này phải làm SFEMG.
4.2.2. Đặc điểm kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn
* Dựa vào mẫu đọc kết quả (bảng 2.1), , trong nhóm bệnh nhân nghiên
cứu, chúng tôi chỉ đánh giá kết quả dựa vào 2 giá trị: MCD trung bình và số
lượng giá trị vượt khung. Nguyên do là chúng tôi làm để xác định chẩn đoán
là chủ yếu, chỉ có một số ít trường hợp chúng tôi phải thu thập đủ 30 giá trị
MCD hoặc để đánh giá, theo dõi diễn tiến điều trị hoặc để khẳng định kết quả
SFEMG âm tính. Giá trị vượt khung (mô tả trong bảng 2.1) cũng chính là giá
trị thứ 27 trong bảng giá trị bình thường, và vượt quá MCD trung bình+ 2 lần
độ lệch chuẩn (SD) theo hướng dẫn 3/2016 của Stålberg E. và cs [20].
* Chúng tôi sử dụng giá trị bình thường cho mọi lứa tuổi, vì theo y văn
mới nhất [20], không có sự chênh lệch rõ ràng ở cơ VM theo tuổi, còn ở cơ
DCN, có sự gia tăng một chút sau tuổi 60 và gia tăng đáng kể độ bồn chồn sau
tuổi 70. Trong dữ liệu của chúng tôi có 7/ 8 trường hợp thực hiện kỹ thuật
SFEMG ở cơ DCN kết quả đều có giá trị độ bồn chồn và giá trị vượt khung
quá rõ ràng.
4.2.2.1. Thời điểm đo ghi điện cơ sợi đơn lần đầu tiên
* Chúng tôi áp dụng cách phân loại lâm sàng của Osserman trong
nghiên cứu (bảng 3.21) mà không sử dụng bảng phân độ nhược cơ MGFA,
bởi vì bảng phân loại này mới đưa vào y văn Việt Nam trong vài năm gần đây
[5]; trong khi đó hầu hết các bác sĩ trên lâm sàng đều áp dụng bảng phân loại
của Osserman.
87
Các trường hợp bệnh nhân bị nhược cơ độ I mà đã được chẩn đoán
nhược cơ bởi kỹ thuật RNS dương tính đều được bác sĩ lâm sàng điều trị và
không gởi tới làm chẩn đoán SFEMG. Vì vậy trong nghiên cứu của chúng tôi
chỉ có các bệnh nhân nghi ngờ bị bệnh nhược cơ mà đã làm RNS âm tính hoặc
nghi ngờ, và chưa làm kỹ thuật chẩn đoán này. Chính vì thế, chúng tôi không
thể đánh giá hay so sánh độ nhạy của kỹ thuật RNS với kỹ thuật SFEMG ở
bệnh nhân nhược cơ thể mắt.
Ở các bệnh nhân nhược cơ độ I chưa điều trị hoặc ngưng điều trị (bệnh
tái phát sau khi ngưng thuốc 1-12 năm- có thể xem như chưa điều trị) ( bảng
3.4.), độ nhạy của kỹ thuật SFEMG ở bệnh nhược cơ thể mắt là 96,2% ở cơ
VM cao hơn độ nhạy của kỹ thuật định lượng kháng thể kháng thụ thể
Acetylcholin của tác giả Phan Thanh Hiếu 78,26% [109]. Trong khi đó kỹ
thuật SFEMG dương tính ở cơ DCN là 53,3% vẫn cao hơn độ nhạy của kỹ
thuật RNS của tác giả Phan Thanh Hiếu 50% [109]. Thực tế lâm sàng cho
thấy ở các bệnh nhân nhạy cảm đau, hợp tác kém thường hay có cử động nháy
mắt, nhắm chặt mắt hoặc lắc đầu liên tục khiến việc thực hiện được kỹ thuật
này ở cơ VM là vô cùng khó khăn, thậm chí không thể tiến hành được. Trong
những trường hợp như vậy, chúng ta có thể thực hiện kỹ thuật SFEMG ở cơ
DCN để chẩn đoán bệnh nếu như kết quả RNS âm tính.
Mặt khác, trong các bệnh nhân đã điều trị ổn định (diễn tiến lâm sàng
đáp ứng tốt điều trị: phân độ nhược cơ giảm hoặc vẫn duy trì độ I, tuân thủ
điều trị) thì độ nhạy của kỹ thuật SFEMG là 94,4% ở cơ VM, 68,4% ở cơ
DCN ở nhược cơ thể mắt; và 100% ở cơ VM, 60% ở cơ DCN ở nhược cơ độ
II. Tác giả Dumitru D. đã ghi nhận độ nhạy của kỹ thuật SFEMG nói chung (
không phân biệt cơ thực hiện) ở tất cả bệnh nhân nhược cơ ( từ độ I-IV) trong
giai đoạn thuyên giảm là 62% [84]. Đối với một số bệnh nhân đã điều trị bệnh
lý thần kinh cơ với Corticoide hay thuốc ức chế miễn dịch thì kỹ thuật
SFEMG giúp chẩn đoán hồi cứu bệnh nhân có rối loạn xi náp thần kinh cơ (
88
thậm chí là bệnh nhược cơ nếu các kỹ thuật đo dẫn truyền thần kinh khác và
điện cơ kim bình thường). Vì vậy chúng tôi cho rằng kỹ thuật SFEMG có
thêm một ưu điểm là giúp chẩn đoán hồi cứu có rối loạn thần kinh cơ trong
nhiều trường hợp bệnh lý thần kinh cơ phức tạp.
4.2.2.2. Kết quả SFEMG ở cơ vòng mắt
* Kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích điện ở cơ VM có thể làm theo kiểu
kích thích sợi cơ hoặc kích thích sợi trục (hình 1.18.). Hiện nay người làm
điện cơ có khuynh hướng ưa chuộng kỹ thuật kích thích sợi cơ hơn; nguyên do
là cơ vùng mặt mỏng, mạch máu và thần kinh phong phú, thực hiện kỹ thuật
kích thích sợi cơ sẽ giảm thiểu việc tạo sang thương cơ gây phù và bầm tím
dưới da.
* Việc đặt điện cực kích thích theo kỹ thuật kích thích sợi cơ, trên thế
giới hiện có 2 cách như sau:
1. Dùng 1 điện cực thanh (hình 4.7.): đặt điện cực thanh sao cho điện cực
hoạt động (cực dương: anode) đặt trên đường đi của nhánh gò má thần kinh VII,
thường ở bờ ngoài cơ vòng mắtvà điện cực đối chiếu (cực âm: cathode) đặt ở
bụng cơ vòng mắt. Khoảng cách giữa 2 điện cực là cố định 2 cm [95].
2. Dùng 2 điện cực hình đĩa (hình 4.8.): đặt điện cực thanh sao cho
điện cực hoạt động đặt trên đường đi của nhánh gò má thần kinh VII, thường
ở bờ ngoài cơ vòng mắt và điện cực đối đặt ở bụng cơ VM cách điện cực hoạt
động 1,5 - 2 cm.
Chúng tôi thực hiện theo cách thứ hai vì điện cực thanh không phổ biến
và kinh nghiệm thực tế cho thấy việc cố định trên da không được chắc chắn,
nhất là đối với người da nhờn hoặc đổ mồ hôi nhiều. Mặt khác khi thực hiện ở
trẻ em, hoặc ở người có khuôn mặt nhỏ có trường hợp khoảng cách giữa 2
điện cực chỉ khoảng 1,5cm.
Từ kết quả thu được (bảng 3.9.) chúng tôi xác định độ nhạy của kỹ
thuật SFEMG ở cơ VM là 95,83%.
89
Hình 4.7. Minh hoạ kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ vòng mắt
*Nguồn: theo Kouyoumdjian O. A.và cs (2011) [95]
với điện cực thanh
hình đĩa ở bn Phan Thị Diệu H. (ảnh dữ liệu nghiên cứu)
Hình 4.8. Minh hoạt kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ vòng mắt với điện cực
4.2.2.3. Kết quả SFEMG ở cơ duỗi các ngón
* Hầu hết các người làm SFEMG trên thế giới đều chọn cơ này là cơ
đầu tiên thực hiện kỹ thuật với lý do: cơ này dễ làm và tương đối không phụ
thuộc vào tuổi bệnh nhân ( sau 70 tuổi mới có vài thay đổi đáng kể); 85%
dương tính ( có độ bồn chồn bất thường) ở bệnh nhân bị nhược cơ; các y văn
đều ghi nhận cơ duỗi các ngón được sử dụng nhiều nhất trong việc đo
SFEMG so với các cơ khác ở tứ chi; các sách giáo khoa về điện sinh lý thần
kinh đều có giá trị bình thường của độ bồn chồn của cơ này.
* Kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích điện ở cơ DCN là kỹ thuật kích thích
sợi trục (hình 1.18.). Việc đặt điện cực kích thích để thực hiện kỹ thuật này,
trên thế giới hiện có 2 cách như sau:
1. Dùng 2 điện cực kim: một điện cực kim đơn cực làm điện cực hoạt
động và điện cực kim còn lại làm điện cực đối chiếu (điện cực kim đơn cực
hoặc điện cực kim dưới da) đặt cách điện cực hoạt động 2 cm.
90
2. Dùng 1 điện cực kim: một điện cực kim đơn cực làm điện cực hoạt
động và điện cực hình đĩa làm điện cực đối chiếu cố định trên da bằng băng
dán đặt cách điện cực hoạt động 2 cm. (Hình 4.9.).
Chúng tôi thực hiện theo cách thứ hai để tiết kiệm chi phí và giảm đau
cho bệnh nhân.
Hình 4.9. Minh hoạ kỹ thuật SFEMG kiểu kích thích ở cơ DCN với điện cực
đơn cực ở bn Hồ Minh H.( ảnh dữ liệu nghiên cứu)
Từ kết quả thu được (bảng 3.9) chúng tôi xác định độ nhạy của kỹ thuật
SFEMG ở cơ DCN là 75, 40%.
* Trong 47 lượt bệnh nhân nhược cơ độ I, chúng tôi ghi nhận có
74,46% kết quả dương tính (Bảng 3.9), thấp hơn tỉ lệ dương tính 82 % của tác
giả Quan Y.J và cs [119]. Điều này chứng tỏ rằng bất thường về điện sinh lý ở
bệnh nhân bị nhược cơ thể mắt lan rộng hơn sang nhiều cơ trong khi lâm sàng
không phát hiện được yếu các cơ khác tại cùng thời điểm [19], [119], [120].
Tuy nhiên, do thời gian không cho phép nên chúng tôi không theo dõi
được lâm sàng của các bệnh nhân nhược cơ này có diễn tiến sang độ II hay
không. Công trình của Quan Y.J và cs qua theo dõi bệnh nhân bị nhược cơ 5
năm liên tiếp đã chứng minh là không thể dùng SFEMG ở cơ DCN để tiên
đoán bệnh diễn tiến nặng lên thành nhược cơ toàn thân [119].
4.2.2.4. So sánh kết quả SFEMG ở cơ vòng mắt và cơ duỗi các ngón
* Dựa vào kết quả nghiên cứu đo cùng một lúc ở 2 bên (bảng 3.5. và
bảng 3.6.), chúng tôi nhận thấy kết quả giữa 2 bên không khác biệt: hoặc có
kết quả SFEMG cùng dương hoặc cùng âm tính, nhưng có 2 trường hợp độ
bồn chồn mắt bên sụp mi nặng (in đậm) tăng cao đáng kể (gấp đôi) so với mắt
91
bên sụp mi ít; ngược lại thì ở tay thì không có sự chênh lệch rõ rệt về độ bồn
chồn. Vì vậy khi thực hành kỹ thuật đo SFEMG, chúng tôi thấy nên thực hiện
ở mắt bên có bất thường rõ rệt hơn (ví dụ: bên sụp mi nhiều hơn,..) thì kết quả
rõ ràng hơn.
Ngược lại khi thực hiện kỹ thuật SFEMG ở tay thì sự khác biệt không
nhiều, có thể là do trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi không có
sự yếu cơ tay ưu thế ở một bên. Mặt khác trên lâm sàng khi nhược cơ toàn
thân (độ IIa, IIb, III) thì thường là yếu cơ đối xứng. Ngoài ra số liệu nghiên
cứu của chúng tôi còn rất nhỏ (chỉ 5 trường hợp và bệnh nhược cơ đều ở độ I)
nên chúng tôi nghĩ rằng cần có những nghiên cứu với số lượng lớn trên các
bệnh nhân nhược cơ toàn thân để rút ra kết luận cụ thể hơn.
Trong thực hành lâm sàng, khi dùng SFEMG để đánh giá bệnh nhược
cơ, hầu hết các tác giả đều khuyên nên làm SFEMG ở cơ yếu hơn khi so sánh
hai bên trái và phải.
* Hầu hết y văn trên thế giới đều ghi nhận độ nhạy của kỹ thuật
SFEMG ở cơ VM cao hơn cơ DCN và cơ trán [19], [94], [121], [122] Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả: độ nhạy ở cơ VM là: 95,83% và ở cơ
DCN là:75,40%.
Bảng 4.2. So sánh độ nhạy SFEMG với các tác giả khác
Tác giả SFEMG cơ VM SFEMG cơ DCN
Long Y.L (2017) [85] 97,3%
Oh S.J. (1992) [76]
92% (89% ở độ I và IIa, 100% ở độ IIb và III)
Guan Y. Z. [119] 82% ( độ I)
Chúng tôi (2017) 95,83% 75,40%
* Khi so sánh kết quả thực hiện hai kỹ thuật này trên cùng một bệnh
nhân ở cùng một thời điểm, chúng tôi nhận thấy:
92
Bảng 4.3. So sánh kết quả SFEMG ở 2 cơ vòng mắt và duỗi các ngón
So sánh đồng thời kết quả SFEMG ở cơ VM và cơ DCN
Phương pháp Kết quả Tổng số
Mới (n = 24) Tương đồng 18 (+) và 1 (-)
Khác biệt 6 (+) ở mắt, (-) ở tay
Kinh điển (n = 25) Tương đồng 15(+) và 1(-)
Khác biệt 8 (+) ở mắt, (-) ở tay
1(-) ở mắt, (+) ở tay
Kết quả tương đồng của chúng tôi theo kỹ thuật mới là 18/24 (75%), kỹ
thuật cũ là 15/25 (60%), tổng hợp lại là 33/49 (67,34%), thấp hơn tác giả
Stalberg [19] là 75%.
* Ngược lại trong kết quả khác biệt, mặc dù chúng tôi ghi nhận tuy rằng
độ nhạy của SFEMG ở cơ VM tuy cao hơn ở cơ DCN, nhưng vẫn có trường
hợp ngược lại: âm tính ở cơ VM và dương tính ở cơ DCN.
Vì vậy chúng tôi rút ra kết luận là khi lâm sàng có triệu chứng rõ ràng
của bệnh nhược cơ thể mắt, mà kết quả SFEMG ở cơ VM âm tính, không nên
vội vàng kết luận là không có bệnh nhược cơ, mà phải thực hiện thêm ở cơ
DCN. Sanders D.B. và cs đã ghi nhận có 4% bệnh nhân nhược cơ có SFEMG
dương tính ở cơ DCN nhưng lại âm tính ở cơ mặt (cơ trán) [122].
* Theo Sander D. B. - chuyên gia đầu ngành thế giới về nhược cơ - qui
trình đo SFEMG thực hiện như sau [120]:
1- Các cơ được chọn đo SFEMG dựa trên triệu chứng của bệnh nhân.
+ Cơ DCN được lựa chọn trước tiên nếu bệnh nhân yếu cơ chân tay, nếu
độ bồn chồn bình thường thì tiếp tục thực hiện đo SFEMG trên cơ trán hoặc cơ
vòng mắt.
+ Nếu các triệu chứng chỉ khu trú ở mắt, khảo sát SFEMG ở cơ trán
hoặc cơ VM trước, nếu cơ trán âm tính thì làm tiếp tục cơ VM. Nếu các cơ
93
vùng mặt có độ bồn chồn trong giới hạn bình thường thì kiểm tra SFEMG ở
cơ khác trước khi loại trừ chẩn đoán nhược cơ.
2- Nếu độ bồn chồn trong giới hạn bình thường ở cơ bị yếu rõ rệt qua
thăm khám lâm sàng thì cơ bị yếu không phải do nhược cơ.
3- Độ bồn chồn gia tăng ở các cơ chân tay gặp trong hơn 50% tổng số
bệnh nhân bị nhược cơ thể mắt cho thấy rằng bất thường về sinh lý lan rộng
hơn các biểu hiện lâm sàng phát hiện được.
4- Sự gia tăng độ bồn chồn cũng gặp trong nhiều bệnh thần kinh cơ; vì
vậy các bệnh này phải loại trừ bằng việc khám lâm sàng và đo điện sinh lý
trước khi kết luận bệnh nhược cơ.
* Stalberg- người phát minh ra kỹ thuật SFEMG cũng đã nhấn mạnh:
khi làm kỹ thuật SFEMG âm tính ở một cơ thì sẽ làm tiếp tục cơ thứ hai, khi
cả hai cơ đều cho kết quả âm tính sẽ làm cơ thứ ba (thường là cơ vòng mắt)
trong các bài viết của mình [19].
Vì thế nên chúng tôi cho rằng người làm ghi điện cơ sợi đơn cần phải
thực hiện thuần thục kỹ thuật này ở ít nhất 2 cơ: vòng mắt và cơ duỗi các ngón
để làm tăng độ nhạy của kỹ thuật.
* Trong thực tế lâm sàng ở Việt Nam chúng tôi nhận thây rất khó thực
hiện kỹ thuật SFEMG ở trẻ em nhỏ hơn 10 tuổi, do trẻ sợ hãi nên thường hợp
tác rất kém:
+ Không làm cơ VM được vì trẻ đổ mồ hôi, khóc và cử động mắt liên tục.
+ Không thể làm cơ DCN vì trẻ không chịu nằm yên.
Trong dữ liệu nghiên cứu của chúng tôi có 3 trường hợp bệnh khởi phát
bệnh trước 10 tuổi. Bởi vậy trong tương lai gần chúng tôi sẽ triển khai kỹ
thuật SFEMG ở cơ trán, an toàn hơn và có thể trấn an bệnh nhi được.
* Mặt khác qua quá trình theo dõi diễn tiến bệnh sau khi thực hiện kỹ
thuật, chúng tôi phát hiện có hai trường hợp nhược cơ thể mắt âm tính giả (kết
quả SFEMG âm, điều trị nhược cơ với Mestinon đáp ứng tốt). Hồi cứu hồ sơ
94
chúng tôi nhận thấy tuy chỉ số độ bồn chồn bình thường, nhưng số lượng giá
trị ngoại lai bất thường (3 ở tay và 5 giá trị ở mắt). Đây là lỗi nhận định của
người thực hiện kỹ thuật khi cho rằng độ bồn chồn quan trọng hơn số lượng
giá trị ngoại lai. Bởi vậy chúng tôi cho rằng khi 2 chỉ số ngược nhau, phải
dựa vào lâm sàng để kết luận và nên cho bệnh nhân làm kiểm tra SFEMG sau
khi ngưng thuốc từ 12-24 giờ.
+ Massey J.M. và cs(1989) qua việc khảo sát SFEMG ở 134/600 bệnh
nhân nhược cơ đang dùng thuốc kháng men cholinesterase đã rút ra kết luận tỉ
lệ thuốc kháng cholinesterase làm mờ triệu chứng chưa tới 5% bệnh nhân
nhược cơ, và khi kết quả SFEMG âm tính ở bệnh nhân nghi ngờ bị nhược cơ
đang điều trị với thuốc kháng cholinesterase thì khuyến cáo nên đo lại
SFEMG sau ngưng thuốc 24 giờ [123].
+ Ngoài ra, khi hồi cứu lại y văn chúng tôi nhận thấy ngay từ năm 1994
Stalberg E. và cs qua nghiên cứu số lượng đơn vị vận động (MUP) ở 39 bệnh
nhân (31 người bị bệnh TKNB mạn tính, 8 người bị bệnh cơ) đã đưa ra kết
luận số lượng giá trị ngoại lai có độ nhạy tương đương giá trị trung bình
trong bệnh thần kinh ngoại biên và nhạy hơn trong bệnh cơ; sự kết hợp số
lượng giá trị ngoại lai và giá trị trung bình là phương thức nhạy nhất để phát
hiện bất thường ở bệnh thần kinh cơ [124].
+ Trong thực hành chúng tôi nhận thấy có những trường hợp giá trị ngoại
lai nhiều- vượt giá trị bình thường (> 3)- sớm, nhưng chúng tôi lại chưa thu thập
được đủ số lượng sóng phân tích (≥ 10) trong khi quỹ thời gian hạn hẹp mà số
lượng bệnh nhân chờ đợi lại đông. Chúng tôi nghĩ rằng cần phải có thời gian để
nghiên cứu thêm về giá trị ngoại lai áp dụng trong thực tiễn để rút ngắn them
thời gian thực hành mà vẫn đảm bảo được độ chính xác của kỹ thuật.
95
4.2.2.5. So sánh kỹ thuật SFEMG giữa phương pháp mới và phương pháp
kinh điển trên 2 cơ vòng mắt và cơ duỗi các ngón
* Dựa trên số liệu phân tích, nghiên cứu này nhận thấy 2 phương pháp
mới và kinh điển đều có giá trị tương đương nhau trong việc chẩn đoán bệnh
nhược cơ. Khi so sánh về thời gian hoàn thành kỹ thuật thấy có sự khác biệt:
1- Thời gian thực hiện kỹ thuật SFEMG ở cơ vòng mắt chưa cho thấy
sự khác biệt; điều này có thể giải thích bởi sự nối nhau phong phú của các
nhánh thần kinh mặt ở vùng cơ vòng mắtvà quanh ổ mắt, tác giả Nemoto Y.
và cs [33] cho rằng các nhánh thái dương, gò má và nhánh miệng của thần
kinh VII đã có các nhánh thông nối nhau tạo thành đám rối dày đặc tại khu
vực này.
*Nguồn: theo Nemoto Y. và cs (2001) [33]
Hình 4.10. Sơ đồ đám rối thần kinh mặt chi phối cơ vòng mắt và vùng ổ mắt
Nhưng độ bồn chồn trung bình của phương pháp mới so với phương
pháp kinh điển có khác biệt với ý nghĩa thống kê, có thể là do vị trí đặt điện cực
ghi (trong vùng giới hạn cơ vòng mắt) và điện cực kích thích (ngay tại vùng
1cm2) của chúng tôi được xác định trước. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng cần
phải có số liệu lớn hơn để minh chứng hiệu quả rõ rệt của phương pháp này.
96
2- Ngược lại có sự chênh lệch rõ rệt về thời gian khi thực hiện kỹ thuật
SFEMG kiểu kích thích điện theo phương pháp mới so với phương pháp kinh
điển ở cơ DCN. Người làm SFEMG thường ngại thực hiện kỹ thuật này với
điện cực kim đồng trục ở cả 2 kỹ thuật chủ ý và kích thích điện, nhất là ở các
bệnh nhân nữ trẻ do thời gian thực hiện kỹ thuật kéo dài và do cơ có nhiều
MUP nên hay bị nhiễu. Đặc biệt khi thực hiện với kỹ thuật kích thích điện, do
sự co cơ liên tục nên thường có sự dịch chuyển của điện cực kích thích hoặc
bệnh nhân bị đau (va chạm vào nhánh cảm giác) hoặc mất tín hiệu (kim dịch
chuyển ra ngoài cơ) làm thời gian thực hiện bị kéo dài thêm.
* Việc ứng dụng đặt điện cực kích thích dựa trên cơ sở giải phẫu - vùng
các điểm vận động - theo phương pháp mới tại cơ DCN bước đầu đã rút ngắn
được thời gian thực hiện kỹ thuật; đặc điểm tín hiệu thu được qua cảm nhận chủ
quan cũng ổn định hơn, dễ xác định hơn khi so với phương pháp kinh điển.
Nhưng vì số lượng mẫu trong nghiên cứu còn nhỏ và phương pháp
nghiên cứu chưa từng được thực hiện trên thế giới nên cần nhiều nghiên cứu
với mẫu lớn hơn, đa trung tâm để đánh giá khách quan và chính xác hơn.
* Khi thực hiện kỹ thuật SFEMG so sánh thì tốt nhất thực hiện trên các
bệnh nhân ở cả hai tay trên cùng một bệnh nhân: mỗi tay một phương pháp để
đánh giá chi tiết hơn hiệu quả kỹ thuật. Kouyoumdjian [125] đã từng thực hiện
cách làm tương tự khi so sánh 2 kỹ thuật chủ ý và kích thích điện trên cùng một
bệnh nhân.
97
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, trên 60 mẫu phẫu tích cơ vòng mắt và duỗi các ngón tại Bộ
môn giải phẫu Trường Đại học y Dược tp.HCM và Đại học y khoa Phạm
Ngọc Thạch và 73 kết quả SFEMG tại Trung tâm Y khoa Nguyễn Hoàng, từ
1/2012 đến tháng 5/10//2017, nghiên cứu này rút ra kết luận như sau:
1. Đặc điểm giải phẫu các nhánh thần kinh mặt chi phối cơ vòng mắt và
các nhánh thần kinh quay chi phối cơ duỗi các ngón tay:
* Các đặc điểm giải phẫu nghiên cứu ở cơ vòng mắt và duỗi các ngón
tương tự nhau ở 2 bên phải và trái, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
+ Với cơ vòng mắt:
- 100% các nhánh thần kinh chi phối cho cơ này đều xuất phát từ nhánh
thái dương và nhánh gò má của thần kinh mặt, trong đó 1/2 nửa dưới cơ vòng
mắt ngoài các nhánh thần kinh gò má còn được chi phối bởi một số nhánh của
thần kinh thái dương. Trong khi đó 1/2 trên cơ vòng mắt được chi phối hầu
hết bởi các nhánh của thần kinh thái dương.
- Về kích thước của cơ vòng mắt chúng tôi có được các số liệu: giới hạn
trên, dưới, trong, ngoài và điểm thấp nhất của cơ vòng mắt của cơ vòng mắt.
- Chúng tôi đã thiêt lập được 9 vùng chứa 50%, 75% và 95% tập trung
và 3 vùng 1cm2 mà ở đó có tần suất cao nhất các phân nhánh thái dương và gò
má của thần kinh mặt vào cơ vòng mắt theo 3 hệ trục tọa độ.
+ Với cơ duỗi các ngón:
- 100% các nhánh thần kinh chi phối cho cơ duỗi các ngón tay cả 2 bên
đều xuất phát từ nhánh sâu của thần kinh quay ở bờ dưới cơ ngửa.
- Số lượng nhánh cho mỗi cơ duỗi các ngón dao động từ 9 đến 21
nhánh – hầu hết các nhánh này (điểm vận động) tập trung ở vị trí khoảng 1/5
đến 2/5 chiều dài của đường nối từ mỏm trên lồi cầu ngoài xương cánh tay tới
khớp quay -trụ dưới.
98
- Chúng tôi đã thiết lập được 3 vùng chứa 50%, 75% và 95% tập trung
và 1 vùng có diện tích 1cm2 mà tần suất các nhánh sâu của thần kinh quay đi
vào cơ duỗi các ngón có số lượng lớn nhất.
2. Về ứng dụng kết quả nghiên cứu vào kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn ở cơ
vòng mắt và cơ duỗi các ngón tay ở bệnh nhân nhược cơ
* Nghiên cứu đã thiết lập được sơ đồ ứng dụng kỹ thuật ghi điện cơ sợi
đơn dựa trên dữ liệu vùng vận động thu được qua phẫu tích và ứng dụng thành
công vào thực hành kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn.
* Phương pháp thực hiện kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn theo phương
pháp mới - có xác định vùng vận động trước - bước đầu đã ghi nhận được một
số kết quả đáng khích lệ so với phương pháp kinh điển:
+ Ở cơ vòng mắt: độ bồn chồn trung bình cao hơn so với phương pháp
kinh điển
+ Ở cơ duỗi các ngón: có thể rút ngắn được thời gian làm so với
phương pháp kinh điển, kết quả lại ổn định và dễ thực hiện.
99
KIẾN NGHỊ
Tuy mẫu nghiên cứu này còn hạn chế nhưng bước đầu cũng đã tạo cơ
sở cho việc nghiên cứu áp dụng kỹ thuật ghi điện cơ sợi đơn ở cơ vòng mắt và
cơ duỗi các ngón theo phương pháp mới.
Về mẫu phẫu tích cũng đã thu được những số liệu học thuật góp phần
cho các nghiên cứu ứng dụng trong lâm sàng. Chúng tôi xin đề xuất các
nghiên cứu tiếp theo như sau:
+ Nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn trên bệnh nhân, đặc biệt thực hiện 2 kỹ
thuật trên cùng 1 bệnh nhân để có dữ liệu thuyết phục hơn trong thực hành.
+ Nghiên cứu triển khai kỹ thuật SFEMG ở cơ trán ( đã có dữ liệu vùng
đểm vận động thu được từ kết quả phẫu tích), để áp dụng vào bệnh nhi nhỏ tuổi.
+ Cần nghiên cứu thêm về giá trị ngoại lai áp dụng trong thực tiễn để rút
ngắn thêm thời gian thực hành mà vẫn đảm bảo được độ chính xác của kỹ thuật.
100
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Tự Quốc Tuấn, Phạm Đăng Diệu, Nguyễn Văn Chương và cs
(2017). Một số đặc điểm giải phẫu các nhánh tận thần kinh quay chi
phối cơ duỗi chung ngón tay ở người Việt Nam. Tạp chí y dược học
quân sự, số chuyên đề tháng 9/2017( số đặc biệt chào mừng hội nghị
Hình thái học Lần thứ XV), 42: 57-63.
2. Lê Tự Quốc Tuấn, Phạm Đăng Diệu, Nguyễn Văn Chương và cs
(2017). Một số đặc điểm giải phẫu các nhánh tận thần kinh mặt chi phối
cơ vòng mi ở người Việt Nam, Tạp chí y học Việt Nam, tập 459(1): 40-43.
3. Lê Tự Quốc Tuấn, Nguyễn Văn Chương (2017). Results of stimulated
SFEMG which use data of region of motor points of the extensor
digitorum communis muscle in Vietnamese. Tạp chí y dược học quân
sự, 42(8): 194-198.
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nair A. G., Patil-Chhablani P., Venkatramani D. V., et al. (2014).
Ocular myasthenia gravis: A review. Indian J Ophthalmol, 62 (10):
985-91. DOI: 10.4103/0301-4738.145987
2. Drachman D.B. (1994). Myasthenia gravis. N Engl J Med, 330 (25):
1797-1810.
3. Kaminski. H.J. (2009). Myasthenia Gravis and Related Disorders,
Second Edition, Humana Press, 79-91.
4. Engel A. G. (2008). Handbook of Clinical Neurology, 91 (3rd series),
Neuromuscular junction disorders, Elsevier B.V., Amstersdam.
5. Nguyễn Hữu Công và Nguyễn Lê Trung Hiếu (2015). Các bệnh cơ
và tiếp hợp thần kinh- cơ. Trong: Điều trị bệnh thần kinh, Nhà xuất bản
đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 589-601.
6. Lê Quang Cường (2016). Cấp cứu cơn nhược cơ cấp tính. Trong: Thần
kinh học toàn tập, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 878-879.
7. Nguyễn Minh Hiện (2016). Bệnh nhược cơ. Trong: Thần kinh học
toàn tập, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 560-568.
8. Hoàng Khánh (2013). Bệnh nhược cơ. Trong: Giáo trình sau đại học
thần kinh học ( tái bản lần thứ 3, có sửa chữa và bổ sung) Nhà xuất bản
đại học Huế, 387-396.
9. Toyka K.V., et al. (Trần Công Thắng dịch) (2004). Bệnh Nhược cơ.
Trong: Thần kinh học lâm sàng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 614 – 629.
10. Nguyễn Văn Hùng (2012), Bệnh nhược cơ. Trong: Bệnh học nội khoa,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 208-214.
11. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2012). Bệnh nhược cơ. Trong: Bệnh học cơ
xương khớp nội khoa (tái bản lần thứ hai, có sửa chữa và bổ sung), Nhà
xuất bản Giáo dục Việt nam, Hà Nội, tr. 311-315.
102
12. Nguyễn Công Minh (2011). Những tiến bộ trong điều trị bệnh nhược
cơ. Nhà xuất bản Y học, chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.
13. Vũ Anh Nhị (2011). Bệnh nhược cơ, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 27-44.
14. Cao Phi Phong (2011). Những khái niệm cơ bản và phân loại rối loạn
dẫn truyền thần kinh cơ. Trong: Bệnh nhược cơ, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 07-25.
15. Nguyễn Hữu Công và Lê Tự Quốc Tuấn (2005). Kỹ thuật Single
Fiber EMG và ứng dụng ban đầu tại Việt Nam. Tài liệu báo cáo khoa
học lần 1, Hội thần kinh khu vực thành phố Hồ Chí Minh, ngày 07-04-
2005, 20-24.
16. Nguyễn Hữu Công (2013). Một số phương pháp khác. Trong: Chẩn
đoán điện và ứng dụng lâm sàng, Nhà xuất bản đại học quốc gia TP.
Hồ Chí Minh, 80-88.
17. Nguyễn Văn Chương (2016). Các kỹ thuật ghi điện cơ đặc biệt. Trong:
Thần kinh học toàn tập, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 789-790.
18. Bromberg M.B. (2012). Quantitative Electromyography. In: Aminoff’s
Electro-diagnosis in Clinical Neurology, 6th edition, Elsevier Inc,
China, 261-288
19. Stålberg E., et al. (2010) Single fiber Electromyography, 3rd edition,
Edshagen Publishing House, Fiskebackskil.
20. Stålberg E., Sanders D.B., Ali S., et al. (2016). Reference values for
jitter recorded by concentric needle electrodes in healthy controls: a
multicenter study. Muscle and Nerve, 53: 351–362.
21. Liu J., Resnam L., Lau H.K., et al. (1994). A rabbit muscle model for
studying contraction characteristics of muscle with multiple motor
points. Muscle and nerve, 17: 1477-1479.
103
22. Ross M.H. and Pawlina W. (2011) Muscle tissue. Histology: a text and
atlas with correlated cell and molecular biology, 6th edition, Lippincott
Williams & Wilkins, 312.
23. Abrams R.A., Ziets R.B., Lieber R.L. et al. (1997) Anatomy of the
Radial Nerve Motor Branches in the Forearm. The Journal of Hand
Surgery, 22A, 232-237.
24. Liu J., Pho R. W.H., Pereira B. P., et al. (1997) Distribution of
Primary Motor Nerve Branches and Terminal Nerve Entry Points to the
Forearm Muscles. The Anatomical Record, 248: 456–463.
25. Safwat E.D., Abdel-Meguid E.M. (2007) Distribution of terminal
nerve entry points to the flexor and extensor groups of forearm
muscles- an anatomical study. Folia Morphol, 66(2): 83-93.
26. Homes S. (2016) Face and scalp. Gray’s anatomy, 41th edition,
Elsevier, 494.
27. Trịnh Văn Minh (2010a) Giải phẫu người tập 1: Giải phẫu học đại
cương-chi trên-chi dưới-đầu mặt cổ, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
28. Nguyễn Quang Quyền (2013). Bài giảng giải phẫu học tập 1, Nhà xuất
bản y học, chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, 276
29. Netter F.H. (Nguyễn Quang Quyền dịch) (2004). Atlas giải phẫu
người, Nhà xuất bản Y học, chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.
30. Drake R.,Vogl A.W., Mitchell A.W.M. (2015a) Head and neck.
Gray’s anatomy for students, 3rd edition, Churchill Livingstone,
Canada, 906-907.
31. Agur A.M.R. and Dalley II A. F. (2017). Face and scalp. Grant’s atlas
anatomy, 14th edition, Wolters Kluwer, China, 604
32. Trịnh Văn Minh (2010b). Các dây thần kinh sọ. Giải phẫu người tập
3: Hệ thần kinh-hệ nội tiết, Nhà xuất bản giáo dục, 377-385.
104
33. Nemoto Y., Sekino Y., Kaneko H. (2001). Facial Nerve Anatomy in
Eyelids and Periorbit. Jpn J Ophthalmol, 45:445–452.
34. Ouattara D., Vacher C., Accioli de Vasconcellos J.-J., et al. (2004).
Anatomical study of the variations in innervation of the orbicularis
oculi by the facial nerve. Surg Radiol Anat 26, 51–53. DOI:
10.1007/s00276-003-0168-0
35. Ramirez O. M. and Santamarina R. (2000). Spatial Orientation of
Motor Innervation to the Lower Orbicularis Oculi Muscle. Aesthetic
Surgery Journal, 20: 107-113. DOI: 10.1067/maj.2000.106712
36. Biant L.C. (2017). Elbow and foream. Gray’s anatomy, 41th edition,
Elsevier, 852-854
37. Drake R.,Vogl A.W., Mitchell A.W.M. (2015b). Upper limb. Gray’s
anatomy for students, 3rd edition, Churchill Livingstone, Canada, 787-788.
38. Mancall E. L. and Brock D. G. (2011). The Neuromuscular Junction
and Muscle. Gray’s clinical neuroanatomy: the anatomic basis for
clinical neuroscience,1st edition, Elsevier Saunders, 337.
39. Tank P. W. (2013). Extensor region of the forearm and dorsum of the
hand. Grant’s dissector, 15th edition, Lippincott Williams & Wilkins, 56.
40. Engel A.G. (2008). The neuromuscular junction. In: Handbook of
Clinical Neurology, 91 (3rd series) Neuromuscular junction disorders, ,
Elsevier B. V., Amstersdam, 103-135.
41. Harper C. M. (2008) Electromyographic aspects of neuromuscular
junction disorders. In: Handbook of Clinical Neurology, Vol. 91 (3rd
series) Neuro-muscular junction disorders, Elsevier B. V., Amstersdam,
152-167.
42. Vincent A. (2002) Unravelling the pathogenesis of myasthenia gravis.
Nat Rev Immunol, 2: 797-804.
105
43. Conti-Fine B.M., Milani M., Kaminski H.J. (2006) Myasthenia
gravis: past, present, and future. J Clin Invest, 16: 2843-2854.
DOI: 10.1172/JCI29894.
44. Bird S. J. (2018) Pathogenesis of myasthenia gravis. Available from:
https://www.uptodate.com/contents/pathogenesis-of-myasthenia-gravis,
accessed on April 1st, 2018
45. Hoch W., McConville J., Helms S., et al. (2001) Auto-antibodies to
the receptor tyrosine kinase MuSK in patients with myasthenia gravis
without acetylcholine receptor antibodies. Nat Med, 7: 365-368.
46. McConville J., Farrugia M.E., Beeson D., et al. (2004) Detection and
characterization of MuSK antibodies in seronegative myasthenia gravis.
Ann Neurol, 55: 580-584.
47. Yeh J.H., Chen W.H., Chiu H.C., et al. (2004). Low frequency of
MuSK antibody in generalized seronegative myasthenia gravis among
Chinese. Neurology, 62: 2131.
48. Rødgaard A., Nielsen F.C., Djurup R., et al. (1987). Acetylcholine
receptor antibody in myasthenia gravis: predominance of IgG
subclasses 1 and 3. Clin Exp Immunol, 67: 82-88.
49. Leite M.I., Jacob S., Viegas S., et al. (2008). IgG1 antibodies to
acetylcholine receptors in 'seronegative' myasthenia gravis.
Brain,131:1940-1952.
50. Sanders D.B., El-Salem K., Massey J.M., et al. (2003). Clinical
aspects of MuSK antibody positive seronegative MG. Neurology, 60:
1978-1980.
51. Chan K.H., Lachance D.H., Harper C.M., et al. (2007). Frequency of
seronegativity in adult-acquired generalized myasthenia gravis. Muscle
and Nerve, 36: 651-658.
106
52. Deymeer F., Gungor-Tuncer O., Yilmaz V., et al. (2007). Clinical
comparison of anti-MuSK- vs anti-AChR-positive and seronegative
myasthenia gravis. Neurology, 68: 609-611.
53. Higuchi O., Hamuro J., Motomura M., et al. (2011). Autoantibodies
to low-density lipoprotein receptor-related protein 4 in myasthenia
gravis. Annals of Neurology, 69(2): 418–422.
54. Zhang B., Tzartos J.S., Belimezi M., et al. (2012). Autoantibodies to
lipoprotein-related protein 4 in patients with double-seronegative
myasthenia gravis. Arch Neurol, 69: 445-451.
55. Rodríguez Cruz P.M., Al-Hajjar M., Huda S., et al. (2015). Clinical
Features and Diagnostic Usefulness of Antibodies to Clustered
Acetylcholine Receptors in the Diagnosis of Seronegative Myasthenia
Gravis. JAMA Neurol, 72: E1-E8.
56. Ohta M., Ohta K., Itoh N., et al. (1990) Anti-skeletal muscle
antibodies in the sera from myasthenic patients with thymoma:
identification of anti-myosin, actomyosin, actin, and alpha-actinin
antibodies by a solid-phase radioimmunoassay and a western blotting
analysis. Clin Chim Acta,187: 255-264.
57. Nauert J.B., Klauck T.M., Langeberg L.K., et al. (1997). Gravin, an
autoantigen recognized by serum from myasthenia gravis patients, is a
kinase scaffold protein. Curr Biol, 7: 52-62.
58. Agius M.A., Zhu S., Kirvan C.A., et al. (1998). Rapsyn antibodies in
myasthenia gravis”. Ann N Y Acad Sci, 841: 516-521.
59. Yi Q., Pirskanen R., Lefvert A.K. (1993). Human muscle acetylcholine
receptor reactive T and B lymphocytes in the peripheral blood of patients
with myasthenia gravis. J Neuroimmunol, 42: 215-222.
107
60. Jambou F., Zhang W., Menestrier M., et al. (2003). Circulating
regulatory anti-T cell receptor antibodies in patients with myasthenia
gravis. J Clin Invest, 112: 265-274.
61. Carlsson B., Wallin J., Pirskanen R., et al. (1990). Different HLA
DR-DQ associations in subgroups of idiopathic myasthenia gravis.
Immunogenetics, 31: 285-290.
62. Niks E.H., Kuks J.B., Roep B.O., et al. (2006). Strong association of
MuSK antibody-positive myasthenia gravis and HLA-DR14-DQ5.
Neurology, 66: 1772-1774.
63. Cavalcante P., Serafini B., Rosicarelli B., et al. (2010). Epstein-Barr
virus persistence and reactivation in myasthenia gravis thymus. Ann
Neurol, 67: 726-738.
64. Willcox N., Leite M.I., Kadota Y., et al. (2008). Autoimmunizing
mechanisms in thymoma and thymus. Ann N Y Acad Sci, 1132: 163-173.
65. Wilisch A., Gutsche S., Hoffacker V., et al. (1999). Association of
acetylcholine receptor alpha-subunit gene expression in mixed
thymoma with myasthenia gravis. Neurology, 52: 1460-1466.
66. Voltz R.D., Albrich W.C., Nägele A., et al. (1997.) Paraneoplastic
myasthenia gravis: detection of anti-MGT30 (titin) antibodies predicts
thymic epithelial tumor. Neurology, 49: 1454-1457.
67. Sieb J.P. (2013). Myasthenia gravis: a update for the clinician. Clinical
experimental Immunology,175: 408-418.
68. Romi F., Gilhus N.E., Varhaug J.E., et al. (2003a) Disease severity
and outcome in thymoma myasthenia gravis: a long-term observation
study. Eur J Neurol,10: 701-706.
69. Yamamoto A.M., Gajdos P., Eymard B., et al. (2001) Anti-titin
antibodies in myasthenia gravis: tight association with thymoma and
heterogeneity of nonthymoma patients. Arch Neurol, 58: 885-890.
108
70. Romi F., Gilhus N.E., Varhaug J.E., et al. (2003b). Thymectomy and
antimuscle antibodies in nonthymomatous myasthenia gravis. Ann. N.
Y. Acad. Sci., 998: 481-490.
71. Meraouna A., Cizeron-Clairac G., Panse R.L., et al. (2006) The
chemokine CXCL13 is a key molecule in autoimmune myasthenia
gravis. Blood,108:432-440.
72. Berrih-Aknin S., Ruhlmann N., Bismuth J., et al. (2009) CCL21
overexpressed on lymphatic vessels drives thymic hyperplasia in
myasthenia. Ann Neurol, 66: 521-531.
73. Sander D.B. (2012) Electrophysiologic Study of Disorders of
Neuromuscular Transmission. Aminoff’s Electrodiagnosis in Clinical
Neurology 6th edition, Elsevier Inc, 385-406.
74. Dương Văn Hạng và Lê Quang Cường (2008). Kích thích điện thần
kinh. Trong: Các phương pháp chẩn đoán bổ trợ về thần kinh, tái bản
lần thứ hai, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 206-225
75. Kimura J. (2013). Repetitive nerve stimulation and exercise test.
Electrodiagnosis in diseases of nerve and muscles: principles and
practice, 4rd edition, Oxford University Press, 449-468.
76. Preston D. C., Shapiro B.E. (2013). Neuromuscular junction
disorders. Electromyography and neuromuscular disorders: clinical-
electrophysiologic correlations,3rd edition, Elsevier, 529-535.
77. Mustafa Ertas et al. (2000). Concentric needle electrode for
neuromuscular jitter analysis. Muscle and Nerve, 23: 715–719.
78. Benatar M., Hammad M., Riney H. D. (2006). Concentric-needle
single-fiber electromyography for the diagnosis of myasthenia gravis.
Muscle and Nerve, 34: 163–168.
109
79. Sarrigiannis P. G., Kennett R. P., Read.S., et al. (2006). Single-fiber
EMG with a concentric needle electrode: validation in myasthenia
gravis. Muscle and Nerve, 33: 61–65.
80. Stälberg E. (2012). Jitter analysis with concentric needle electrodes.
Ann. N.Y. Acad. Sci.,1274, 77–85. DOI: 10.1111/j.1749-6632.2012.
06775.x.
81. Kimura J. (2013). Single fiber and macro Electromyography. Electro-
diagnosis in diseases of nerve and muscles: principles and practice, 4rd
edition, Oxford University Press, 406-423.
82. Stälberg E. and Sander D. B. (2009). Jitter recordings with concentric
needle electrodes, Muscle and Nerve, 40: 331-339
83. Howard J.F. (2013). Electrodiagnosis of Disorders of Neuromuscular
Transmission, Phys Med Rehabil Clin N Am, 24: 169–192.
Http://dx.doi.org/ 10.1016/j.pmr.2012.08.013.
84. Dumitru D., Amato A.A. (2002). Neuromuscular junction.
Electrodiagnotic medicine, 2nd edition, Handley& Belfus, 1127-1212.
85. Trontelj J. V., Mihelin M., Fernandez J. M. et al. (1986). Axonal
stimu-lation for end-plate jitter studies. Journal of Neurology,
Neurosurgery and Psychiatry, 49: 677-685.
86. Tronjeli J. V., Stålberg E. (1992). Jitter measurement by axonal
microstimulation. Guidelines and technical notes. Electroencephalo-
graphy and clinical Neurophysiology, 85: 30-37.
87. Stålberg E. (2004). SFEMG section, Keypoint course, Upsala
88. Arimura K. (1995). WS-2-1 Single fiber EMG in neuromuscular
disorders. Clinical neurophysiology, 97(4): S24.
89. Gilchrist J.M. (1992). Single fiber EMG reference values: a
collaborative effort. Report from the Ad Hoc Committee of the AAEM
Special Interest Group on Single Fiber EMG. Muscle and Nerve,15:
151–161.
110
90. Oh S. J., Kim D. E., Kuruoglu R., et al. (1992). Diagnostic
sensitivity of the laboratory tests in myasthenia gravis. Muscle and
Nerve,15: 720-724.
91. Bromberg M. B., Scott D. M., and the Ad Hoc commiitee of the
AAEM single fiber special interest group (1994). Single fiber EMG
reference values: reformatted in tabular form. Muscle and Nerve,17:
820 - 821.
92. Shields R. W. (2000). Quantitative electromyography and special
electro-myographic techniques. In: Comprehensive clinical neuro-
physiology, W.B. Saunders, 140-150.
93. Kouyoumdjian O. A, Stålberg E. (2007). Concentric needle single
fiber electromyography: Normative jitter values on voluntary
activated Extensor Digitorum Communis. Arq Neuropsiquiatr, 65(2-B):
446-449.
94. Nandedkar S. D., Stälberg E., Sander D. B. (2002). Quantitative
EMG. In: Electrodiagnotic medicine, 2nd edition, Handley& Belfus,
326-338.
95. Kouyoumdjian O. A., Stålberg E. (2011). Concentric needle jitter on
stimulated Orbicularis Oculi in 50 healthy subjects. Clinical
Neurophysiology,122: 617-622.
96. Lin T. S., Hwang W.J. (1997). Reference values of jitter in Stimulated
SFEMG. Acta Neurol TaiWan, 6: 289-294.
97. Long Y.L., Najjar R. P., Teo K. Y., et al. (2017). A reappraisal of
diagnostic tests for myasthenia gravis in a large Asian cohort. Journal
of the Neurological Sciences, 376: 153 -158.
98. Selvan V. A. (2011). Single fiber EMG: a review. Ann Indian Acad
Neurol, 14(1): 64-67
111
99. Phan Chúc Lâm (1982). Nhận xét chẩn đoán và điều trị bệnh nhược cơ
qua 59 trường hợp điều trị tại Bệnh viện Quân y 103. Trong: Tuyến ức
và bệnh nhược cơ, Đại học Y Hà Nội, 71-80.
100. Thái Khắc Châu (1994). Nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh tuyến ức ở
bệnh nhân nhược cơ bằng phương pháp chụp cắt lớp tuyến tính kết hợp
bơm khí trung thất, Luận án phó tiến sĩ khoa học Y dược, Học viện
Quân y, Hà Nội.
101. Đỗ Tất Cường (1996). Hồi sức sau mổ và điều trị cơn nhược cơ nặng ở
bệnh nhân nhược cơ, Luận án phó tiến sĩ khoa học Y dược, Học viện
Quân y, Hà Nội.
102. Mai Văn Viện (2004). Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, X quang
và mô bệnh học tuyến ức liên quan đến kết quả điều trị ngoại khoa
bệnh nhược cơ, Luận án tiến sĩ Y học, Học viện Quân y, Hà Nội.
103. Nguyễn Thế Luân và Vũ Anh Nhị (2008). Đặc điểm lâm sàng bệnh
nhược cơ và các yếu tố thúc đẩy cơn nhược cơ: nghiên cứu tiến cứu 54
trường hợp, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chi Minh, 12: 285-292.
104. Đặng Tiến Hải (2009). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và các test
chẩn đoán bệnh nhược cơ, Luận văn thạc sĩ Y học, Học viện Quân y,
Hà Nội.
105. Phạm Vinh Quang (2010). Phẫu thuật cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược
cơ, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 7-136.
106. Ngô Văn Hoàng Linh, Mai Văn Viện, Nguyễn Văn Nam (2011). Kết
quả mổ cắt tuyến ức qua đường cổ bằng phẫu thuật nội soi hỗ trợ điều trị
bệnh nhược cơ, Tạp chí Y dược học Quân sự, 36(3):154-160.
107. Vũ Anh Nhị và Nguyễn Thị Kim Thành (2013). Xác định nồng độ
kháng thể kháng thụ thể acetylcholin trong bệnh nhược cơ, Hội Thần
kinh Thành phố Hồ Chí Minh, WWW.thankinh.org, 6: 57-66.
112
108. Phan Thanh Hiếu, Phan Việt Nga, Nhữ Đình Sơn và cs (2013),
Nghiên cứu sự đáp ứng của test prostigmin và test kích thích lặp lại trong
chẩn đoán bệnh nhược cơ, Tạp chí Y học Việt Nam 7(1): 95-100.
109. Phan Thanh Hiếu (2016). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và nồng độ
kháng thể kháng thụ thể acetylcholine trong bệnh nhược cơ, Luận án
tiến sĩ y học, Học viện quân Y, Hà Nội.
110. Netter F.H. (2014). Head and neck. In: Atlas of human anatomy, 6th
edition, Saunders Elsevier, Philadelphia, PA, plate 1.
111. Bộ môn Dịch tể quân sự-Học viện Quân y (2014). Dịch tể học cơ sở
(dùng cho đào tạo sau đại học), Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà
Nộị, 224-225.
112. Trontelj J.V., Khuraibet A., Mihelin M. (1988). The jitter in
stimulated orbicularis oculi muscle: technique and normal values. J
Neurol Neurosurg Psychiatry, 51: 814-819.
113. Seckel B.R. (1994). Facial danger zones: Avoiding nerve injury in
facial plastic surgery. Can J Plast Surg, 2(2): 59-66.
114. Larrabee W. F., Makielski K. H., Henderson J. L. (2004). Facial
nerve. In: Surgical Anatomy of the Face, 2nd edition, Lippincott
Williams & Wilkins, 80.
115. Schmidt B. L., Pogrel M.A., Hakim-Faal Z. (2001). The Course of
the Temporal Branch of the Facial Nerve in the Periorbital Region. J
Oral Maxillofac Surg, 59: 178-184.
116. Kuks J. B.M. (2009). Clinical Presentation and Epidemiology
of Myasthenia Gravis. In: Myasthenia Gravis and Related Disorders,
Second Edition, Humana Press, 79-91.
117. Sanders D. B., Massey J. M.(2008). Clinical features of myasthenia
gravis. In: Handbook of Clinical Neurology, Vol. 91 (3rd series) Neuro-
muscular junction disorders, Elsevier, 229-248.
113
118. Jowkar A. (2018) Myasthenia Gravis. Available from:
https://emedicine. medscape.com/article/1171206, accessed on March
23rd, 2018
119. Guan Y. Z., Cui L.Y., Liu M.S. et al. (2015). Single-fiber Electro-
myography in the Extensor Digitorum Communis for the Predictive
Prognosis of Ocular Myasthenia Gravis: A Retrospective Study of 102
Cases, Chinese Medical Journal Volume 128: 2783-6
120. Sander D.B.(2014). Single fiber EMG. Encyclopedia of the
Neurological Sciences, Volume 4, 2nd edition, Academic Press, 169-
171. DOI: 10.1016/ B978-0-12-385157-4.00543-1.
121. Valls-Canals J., Povedano M., Montero J., Pradas J. (2003).
Stimulated single-fiber EMG of the frontalis and orbicularis oculi
muscles in ocular myasthenia gravis. Muscle Nerve, 28: 501-503.
122. Sanders D.B., Howard J. F, Massey J. M. (1995). The sensitivity of
single fiber EMG jitter measurements in myasthenia gravis. Poster
session 34, Single fiber EMG and macro EMG, Clinical
neurophysiology, 97(4): S170.
123. Massey J.M., Sanders D.B., Howard J.F. (1989). The effect of
cholinesterase inhibitors of SFEMG in myasthenia gravis. Muscle and
Nerve,12 (2):154-155.
124. Stalberg E., Bischoff C., Falck B. (1994). Outliers, a way to detect
abnormality in quantitative EMG. Muscle and Nerve, 17: 392-399.
125. Kouyoumdjian O. A., Stålberg E. (2008) Concentric needle single
fiber electromyography: Comparative jitter on voluntary-activated and
stimulated Extensor Digitorum Communis. Clinical Neurophysiology,
119: 1614–1618.