intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu mô hình phát triển đàn ngỗng bay và bài học cho Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

32
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nghiên cứu đặc trưng của mô hình phát triển đàn ngỗng bay để từ đó đề xuất bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Để nắm chi tiết hơn nội dung nghiên cứu, mời các bạn cùng tham khảo bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu mô hình phát triển đàn ngỗng bay và bài học cho Việt Nam

  1. ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(119).2017 23 NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN ĐÀN NGỖNG BAY VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM AN INTRODUCTION TO THE FLYING GEESE PATTERN OF JAPAN AND LESSONS FOR VIET NAM Lê Thị Phương Loan1, Lê Phương Mỹ Hiền2 1 Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng; ltploan@ufl.udn.vn 2 Công ty Cổ phần Hapras Việt Nam; lpmyhien@gmail.com Tóm tắt - Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI, mô hình phát triển Abstract - In the first decades of the twenty-first century, the “flying kinh tế “đàn ngỗng bay” đã được nhiều nhà kinh tế học trên thế geese” economic development pattern has been mentioned by giới nhắc đến như một mô hình điển hình cho sự phát triển vượt many economists around the world as a model for growth in the bậc tại khu vực châu Á, trong đó có Nhật Bản - nơi xuất phát của East Asia region. In fact, in four decades in a row from 1960-2010, mô hình này. Trên thực tế, trong 40 năm từ 1960-2010, từ một from a defeated nation in World war 2, Japan emerged as the world quốc gia bại trận trong Thế chiến II, Nhật Bản đã vươn lên đứng second largest economy in terms of GDP, only after the U.S. There thứ 2 trên thế giới về chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chỉ are many factors which have contributed to the phenomenal sau Mỹ. Có rất nhiều yếu tố mang lại sự thành công vượt trội này economic success of Japan, and one of the most commonly cho Nhật Bản, và một trong những yếu tố thường hay được các considered and mentioned recently is the Flying Geese pattern - học giả quan tâm và nhắc đến trong thời gian gần đây là mô hình first coined in an article published in 1935 by the Japanese “Đàn ngỗng bay” (the Flying geese pattern), được nhà kinh tế học economist Kaname Akamatsu. This model has not only helped Kaname Akamatsu lần đầu nhắc đến vào năm 1935. Bài báo improve Japan’s economy but also enhanced the country’s position nghiên cứu đặc trưng của mô hình để từ đó đề xuất bài học kinh in the diplomatic relations with other countries. The paper, studying nghiệm cho Việt Nam. the characteristics of the Flying geese pattern, puts forward some policy recommendations for Viet Nam. Từ khóa - mô hình đàn ngỗng bay; phát triển kinh tế; Nhật Bản; Key words - flying geese pattern; economic development; Japan; Đông Á; ảnh hưởng. East Asia; influence. 1. Đặt vấn đề no ganko keitai”1 (hình thái bay theo hàng của sự phát triển Xuất hiện lần đầu vào năm 1935 nhưng phải đến thập công nghiệp) như là một ý tưởng sơ khởi cho mô hình “đàn niên 1960-1970, thuật ngữ mô hình “đàn ngỗng bay” mới ngỗng bay” sau này. Theo đó, đây sẽ là hình thái công thực sự được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới. Nguyên nghiệp hoá nền kinh tế theo trật tự như một đàn ngỗng bay nhân một phần vì trước thời điểm này, các nghiên cứu của mà ở đó một nước muốn cải thiện nền kinh tế theo hướng tác giả Kaname Akamatsu chỉ xuất hiện qua sách và các bài công nghiệp thì nên bắt đầu bằng việc nhập khẩu một mặt báo trong nước (được xuất bản bằng tiếng Nhật). Từ sau hàng chủ lực từ một nước phát triển hơn, sau đó nền công năm 1975, các học trò của ông mới phát triển học thuyết và nghiệp trong nước sẽ từng bước thích ứng với việc sản xuất tài liệu lần đầu được chuyển dịch sang tiếng Anh thì lúc đó mặt hàng này nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, bắt thuật ngữ này mới thực sự được chú ý. Nghiên cứu này tập đầu bằng nhập khẩu máy móc phục vụ sản xuất, đào tạo trung làm rõ cơ sở lý thuyết của mô hình và phân tích sự nhân công; tiếp sau đó, ngưng nhập khẩu máy móc và tự ảnh hưởng của mô hình này đối với chính sách đối ngoại sản xuất máy móc kéo theo các ngành công nghiệp phụ trợ của Nhật Bản đối với các nước trong khu vực châu Á nói khác phát triển theo. Thuật ngữ này khi xuất hiện trong các chung và Đông Nam Á nói riêng, từ đó rút ra bài học cho tài liệu nghiên cứu quốc tế lại được dịch thành “The Flying Việt Nam. Geese Pattern”. Tại Việt Nam, nó xuất hiện dưới tên “Mô hình Đàn ngỗng bay” hay “Mô hình Nhạn bay” - ban đầu 2. Tổng quan về mô hình Đàn ngỗng bay được sử dụng nhằm mô tả quá trình công nghiệp hoá của 2.1. Khái niệm một nước phát triển, nhưng sau đó nó được mở rộng phạm vi áp dụng cho công nghiệp hoá, phát triển mạng lưới sản Kaname Akamatsu, sau khi quan sát sự phát triển của xuất và đặc biệt là lĩnh vực hợp tác trong khu vực [1]. ngành sản xuất sợi bông từ cuối thế kỷ XIX đến thập niên 1930, đã nhận thấy hiện tượng: ban đầu, Nhật Bản nhập Tóm lại, “Mô hình Đàn ngỗng bay là mô hình thể hiện khẩu sợi bông, về sau công nghiệp sản xuất sợi bông trong sự phát triển kinh tế công nghiệp của một quốc gia bằng nước dần khởi sắc; sau đó nhập khẩu và xuất khẩu sợi bông con đường hội nhập với các nước có nền công nghiệp phát cùng phát triển, và cuối cùng là cùng rơi vào suy thoái. Nếu triển hơn. Ở đó các quốc gia ít phát triển sẽ được dẫn thể hiện điều này trên đồ thị với trục hoành là thời gian và đường bởi các quốc gia phát triển hơn”. trục tung là sản lượng thì có thể thấy trên biểu đồ sẽ có ba 2.2. Các phiên bản của mô hình Đàn ngỗng bay đường cong hình chữ V lật ngược, giống như trật tự của Nguyên gốc mô hình này được Akamatsu Kaname đưa đàn ngỗng trời khi bay. Trong một bài báo năm 1935, ra, sau đó Kojima Kiyoshi và Okita Saburo - hai nhà kinh Akamatsu đã lần đầu đề cập đến thuật ngữ “sangyu hatten tế học - phát triển thành ba phiên bản, gồm: (1) một nước 1 Nguyên gốc từ Ganko(鵞鳥) là bay theo hàng và Keitai (形態) trong tiếng Nhật mang nghĩa là hình thái
  2. 24 Lê Thị Phương Loan, Lê Phương Mỹ Hiền một sản phẩm, (2) một nước nhiều sản phẩm và (3) phiên nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Ban đầu, các bản nhiều nước. Trong đó, phiên bản cuối cùng là phiên loại sản phẩm được nhập khẩu chủ yếu là nhu yếu phẩm, bản được sử dụng nhằm miêu tả sự hội nhập của các quốc các mặt hàng tiêu dùng có tuổi thọ ngắn hạn, trong trường gia trong khu vực. hợp của Nhật Bản là đường trắng, thuốc lá, đồng hồ, đĩa Phiên bản (1): là phiên bản nguyên gốc được thuỷ tinh, xà phòng. Akamatsu Kaname đưa ra bằng việc quan sát sự phát triển Giai đoạn 2: Nội địa hoá sản xuất của ngành dệt tại Nhật như đã nêu ở phần trên. Phiên bản Dần dần, vì mục đích lợi nhuận, và cũng vì đã tích luỹ này tập trung vào sự phát triển công nghiệp bằng cách tập đủ vốn, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng tự sản xuất. Đầu trung toàn lực phát triển một sản phẩm mũi nhọn duy nhất tiên là nhập khẩu máy móc chuyên dụng, đào tạo nhân để sau đó cả ngành công nghiệp sẽ “cất cánh” theo. Trong công, sản xuất nguyên vật liệu phụ trợ, v.v. Sự du nhập phiên bản này, Akamatsu không lý giải tại sao có mô hình công nghiệp sản xuất hàng loạt sẽ dần thay thế ngành sản này. Kojima2 đã dựa trên lý luận Héccher-ohlin để giải xuất thô sơ trong nước. Người lao động thủ công trong thích lý do là vì sao sau một thời gian dài kinh doanh bằng nước có thể sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp và đói nghèo, nhập khẩu thì doanh nghiệp sẽ tích luỹ đủ vốn để tự sản nền kinh tế có thể suy giảm gây khó khăn đáng kể cho xuất và sau khi tích luỹ đủ sản lượng cũng như kinh nghiệm người lao động. thì có thể xuất khẩu được. Giai đoạn 3: Sản xuất công nghiệp nội địa có đủ khả Phiên bản (2): Một nước – nhiều sản phẩm năng đáp ứng nhu cầu Phiên bản này mô tả một nước đang phát triển có thể Lúc này, những người lao động thủ công, vì lý do kiếm phát triển những ngành sơ khai rồi phát triển những ngành sống, phải thích ứng với nền công nghiệp mới. Họ sẽ tham phức tạp, từ những loại hàng tiêu dùng không bền đến hàng gia vào các công xưởng để nâng cao tay nghề. Ngành công tiêu dùng lâu bền và vật liệu sử dụng trong sản xuất. Nghĩa nghiệp sản xuất nội địa, sau khi tiếp thu công nghệ từ nước là, các nước đang phát triển, vì cơ sở vật chất hạ tầng và ngoài, bắt đầu hoàn thiện, sản lượng và chất lượng có thể thượng tầng đều không đủ khả năng đáp ứng, nên phát triển đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước. Chỉ sản xuất những sản phẩm không đòi hỏi sự phức tạp trước số nhập khẩu hàng hoá bắt đầu giảm dần. rồi sau đó phát triển dần lên, ví dụ như phát triển ngành Giai đoạn 4: Xuất khẩu may mặc trước khi phát triển ngành dệt, phát triển ngành lắp ráp, sản xuất ô-tô, tàu biển trước rồi mới đến ngành Khi việc sản xuất và tiêu thụ tại thị trường trong nước luyện kim. Cứ như vậy, khi ngành này bắt đầu suy thoái thì đã ổn định, sản lượng sản xuất bắt đầu dư thừa thì doanh ngành kia có thể thay thế làm mặt hàng sản xuất chủ đạo. nghiệp có xu hướng xuất khẩu ra các nước trong và ngoài khu vực. Đồng thời, để có thể tối đa hoá lợi nhuận và đáp Phiên bản (3): Nhiều nước ứng được tiêu chuẩn hàng hoá của từng nước, doanh nghiệp Phiên bản này miêu tả sự bắt kịp của một nước với các phải nâng cao công nghệ sản xuất của mình. Nhờ vậy, nền nước khác trong khu vực. Ví dụ, khi một ngành công công nghiệp của đất nước sẽ trưởng thành hơn so với trước. nghiệp của Nhật Bản đang ở giai đoạn gia tăng xuất khẩu Đất nước sẽ trở thành nước phát triển hơn. Nói cách khác, thì các nước Hàn Quốc, Đài Loan,... sẽ nhập khẩu sản phẩm thông qua quá trình này, nền kinh tế công nghiệp với những đó. Theo thời gian, xuất khẩu của ngành này ở Nhật đạt tới ngành kinh doanh không hiệu quả sẽ bị loại bỏ, thay vào đỉnh và bắt đầu giảm xuất khẩu là lúc các nước khác đẩy đó là những ngành khác mang lại lợi nhuận cao hơn, phát mạnh tự sản xuất thay thế nhập khẩu. Khi lợi thế cạnh tranh triển bền vững hơn [3]. của Nhật không còn vì các nước đẩy mạnh xuất khẩu thì 2.4. Các đặc trưng của mô hình Đàn ngỗng bay Nhật lại có ngành khác thay thế vị trí chủ đạo; cứ như vậy từ ngành này sang ngành khác, từ Nhật Bản sang các nước 2.4.1. Cấu trúc công nghiệp mới [2]. Điểm đáng chú ý đầu tiên của mô hình phát triển này 2.3. Giai đoạn phát triển của mô hình Đàn ngỗng bay nằm ở tính trật tự: các đối tượng tham gia vào mô hình này không có vị thế ngang bằng nhau mà được chia thành 2 Mô hình Đàn ngỗng bay có 4 giai đoạn phát triển: nhóm chính: Nhóm quốc gia dẫn đầu (leading countries) và Nhập nhóm quốc gia chậm phát triển hơn (follower countries). khẩu Vị trí quốc gia được xếp dựa theo mức độ tiên tiến của nền Nội địa hóa kinh tế/công nghiệp của nước đó. Nhóm nước dẫn đầu là sản xuất một hoặc nhóm nước có nền công nghiệp phát triển nhất. Sản xuất công nghiệp nội Sau đó là các nước kém phát triển hơn ở hàng thứ nhất. địa đạt yêu cầu Hàng thứ ba là những nước có nền công nghiệp kém phát Xuất khẩu triển hơn các nước ở hàng thứ hai. Những nước càng có nền kinh tế công nghiệp cải thiện tích cực sẽ càng tiến gần Hình 1. Sự phát triển của mô hình “đàn ngỗng bay” về nhóm dẫn đầu. Ngoài ra, cần lưu ý một nhóm nước, Giai đoạn 1: Nhập khẩu được gọi là các quốc gia mới phát triển, là những quốc gia ở nhóm nước thứ hai, nhưng lại có sự phát triển vượt bậc Trong giai đoạn này, các quốc gia đang phát triển sẽ so với các quốc gia còn lại. Có thể kể đến Hàn Quốc hay nhập khẩu một số loại hàng hoá từ các nước phát triển hơn Singapore là những ví dụ điển hình cho nhóm nước này. Vị 2 Kyoshi Kojima (1920-2010) giáo sư danh dự của đại học Hitotsubashi, là người có đóng góp lớn trong việc phát triển mô hình Đàn ngỗng bay.
  3. ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(119).2017 25 trí của các “con ngỗng” trong đàn không cố định trong bất 3. Ảnh hưởng của mô hình “đàn ngỗng bay” đối với kỳ thời điểm nào, nên mối quan hệ giữa chúng cũng sẽ theo việc hình thành chiến lược hợp tác khu vực châu Á – đó mà thay đổi theo thời gian. Những con ngỗng đầu đàn Thái Bình Dương cũng sẽ có lúc mỏi cánh và rơi lại phía sau, những con 3.1. Thiết lập mô hình đàn ngỗng tại khu vực châu Á giai ngỗng trẻ sẽ vươn lên phía trước để thay thế. Tương tự như đoạn 1996-2016 vậy, sau một quá trình đủ dài, các nước dẫn đầu có thể lâm Từ những năm 1950-1960, khi quan hệ giữa Nhật Bản vào tình cảnh suy thoái kinh tế và bị tụt hậu, vị trí của nó và các các nước châu Á được tăng cường, mô hình “Đàn có thể được thay thế bởi một trong những nước theo sau, ngỗng bay” cũng vì thế mà thu hút nhiều sự quan tâm điều này khiến trật tự của mô hình luôn biến đổi. nghiên cứu. Nhà kinh tế học Okita Saburo là một trong 2.4.2. Tính thống nhất về định hướng phát triển những người ủng hộ việc áp dụng mô hình này vào sự phát Đặc trưng thứ hai của mô hình này là tính thống nhất triển quan hệ của Nhật Bản với các nước châu Á. Cụ thể, trong định hướng phát triển. Tuy vị trí của các quốc gia trong điều này được thể hiện thông qua các chỉ tiêu phát triển mô hình có thể không cố định nhưng định hướng phát triển kinh tế trong nước cũng như đầu tư và mậu dịch với các là thống nhất và không thay đổi. Các nước trong trật tự này nước trong khu vực. Theo thống kê của JETRO (Tổ chức đều là những nước có thiên hướng phát triển kinh tế theo Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản), từ năm 1996 - 2016 (Hình hướng công nghiệp hoá. Mô hình “đàn ngỗng bay” không 2), vốn đầu tư phát triển trực tiếp (FDI) của Nhật Bản luôn tập trung vào sự khác biệt về ý thức hệ của quốc gia thành dao động từ 30-40% tổng vốn đầu tư tại các nước trong khu viên, mà chỉ tập trung vào quá trình phát triển kinh tế thông vực châu Á. Năm 1996, FDI của Nhật dao động từ 28% qua việc từng bước cải thiện quá trình công nghiệp hóa để đến 30%. Từ năm 1998 - 2004, Nhật Bản lún sâu vào khủng phát triển. Như vậy, sẽ có rất nhiều quốc gia, với văn hóa, hoảng tài chính năm 1997 nên mức FDI giảm mạnh trong lịch sử khác nhau, có thể cùng tham gia vào mô hình này. giai đoạn này, con số này chỉ bắt đầu khởi sắc trở lại từ năm Tuy vị trí đứng của các quốc gia có thể khác nhau theo từng 2004 - 2016, Nhật Bản vẫn duy trì mức khá ổn định đối với thời điểm, có một điều không thay đổi: giống như đàn ngỗng các nước trong khu vực. luôn hướng về phương Nam tránh rét, hướng phát triển của các quốc gia này đều lấy công nghiệp là trụ cột. THỐNG KÊ FDI CỦA NHẬT BẢN TẠI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC CHÂU Á TỪ NĂM 1996-2016 50.0% 0.0% 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Hình 2. Thống kê FDI của Nhật Bản tại các nước châu Á từ năm 1996-2016 (Nguồn: JETRO) Năm 2014, mức FDI chạm ngưỡng 30% trở lại sau một kêu gọi hợp tác, phối hợp chặt chẽ với ASEAN nhằm tái quãng thời gian dài chỉ duy trì ở mức trên dưới 25%. Sang thiết Đông Dương, xác lập Diễn đàn phát triển toàn diện năm 2015 và 2016, FDI lại giảm nhẹ, nguyên nhân đến từ Đông Dương” [7]. việc tranh chấp vùng biển đảo với Trung Quốc. Đến năm 1997, Thủ tướng Nhật Bản, ông Hashimoto Trong quan hệ ngoại giao với các nước khu vực, Nhật một lần nữa khẳng định việc coi trọng ASEAN trong bài Bản luôn dành sự chú trọng đặc biệt đối với các quốc gia phát biểu trong chuyến viếng thăm 5 nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Học thuyết Fukuda (1977) khẳng định ba này từ ngày 07 - 14/01/1997 [8]. Nội dung điều chỉnh lần điểm chính: (1) Nhật Bản sẽ không trở thành cường quốc này cho thấy Nhật Bản muốn thông qua hợp tác với quân sự; (2) Xây dựng lòng tin trên mọi lĩnh vực; và (3) ASEAN để có thể nâng cao hơn nữa vai trò chính trị của Tăng cường quan hệ với các nước thành viên ASEAN [5]. mình trong khu vực. Tokyo cũng khẳng định việc coi Đông Thủ tướng Nhật Bản Miyazawa trong chuyến thăm chính Nam Á là một đối tác quan trọng về chính trị ở khu vực. thức các nước ASEAN tháng 1/1993 đã tuyên bố: Tuy rằng giai đoạn từ 1998 trở đi, Nhật Bản vẫn còn khó “... trên cơ sở một tầm nhìn lâu dài về an ninh Đông khăn do phải đối mặt với suy thoái kinh tế nhưng vẫn tích Nam Á, Nhật Bản chủ trương cùng các nước trong khu cực đóng góp và hỗ trợ lớn cho các nền kinh tế khu vực vực tập trung hợp tác ổn định tình hình khu vực, thiết lập Đông Nam Á và khắc phục được cuộc khủng hoảng tài trật tự an ninh và bảo vệ hoà bình ở khu vực... Nhật Bản chính tiền tệ năm 1997. 100% 50% NIES ASEAN 0% 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Hình 3. Vốn FDI phân bổ theo vùng từ năm 1996-2016 (Nguồn: JETRO)
  4. 26 Lê Thị Phương Loan, Lê Phương Mỹ Hiền Theo thống kê của JETRO, FDI của Nhật trong 20 năm Bằng việc phân bổ FDI, trong 20 năm qua Nhật Bản vẫn qua tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á gồm năm luôn đóng vai trò chủ lực tại châu Á, góp phần lan tỏa sức nước Thái Lan, Philippines, Indonesia, Malaysia (hay còn ảnh hưởng của mình lên sự phát triển các nước trong khu gọi là ASEAN4) và Việt Nam, chiếm từ 40-60% trên tổng vực. Theo lý thuyết, mô hình “đàn ngỗng bay” tập trung FDI tại châu Á (Hình 3). Chính sách đối ngoại khu vực của vào phát triển công nghiệp, và trên thực tế, dòng vốn FDI Nhật Bản có thể thay đổi theo giai đoạn, tuy nhiên có một từ Nhật vào các nước châu Á cũng tập trung vào phát triển điều không thay đổi, là Nhật Bản luôn coi trọng việc mở các ngành công nghiệp (Bảng 1). rộng tầm ảnh hưởng của mình với các nước Đông Nam Á. Bảng 1. Thống kê vốn FDI của Nhật Bản phân bổ theo ngành (Nguồn: JETRO) Đơn vị: triệu đô-la Mỹ Ngành 1996-2000 2001-2005 2005-2010 2011-2013 Nông nghiệp 146 64 129 170 Công nghiệp sản xuất 21.196 16.853 33.961 49.652 Tài chính 10.900 10.347 20.369 20.037 Bất động sản, cho thuê, và hoạt động kinh doanh khác 3.447 583 -98 0.0 Thống kê của JETRO từ năm 1996-2013 cho thấy, II). Vì Trung Quốc và Hàn Quốc luôn coi ngôi đền này con số FDI ở các lĩnh vực thuộc công nghiệp sản xuất là biểu tượng của chiến tranh, họ không ủng hộ việc lãnh như luyện kim, may mặc, dệt, cơ khí cao hơn các lĩnh đạo Nhật Bản đến viếng đền. Cụ thể, vì họ cho rằng đây vực khác rất nhiều. Từ năm 1996 - 2013, thống kê bình là hành động đề cao tội ác chiến tranh và Nhật Bản quân 5 năm mức đầu tư FDI của Nhật Bản cho thấy mức không thẳng thắn thừa nhận sự tàn bạo của mình trong đầu tư vào công nghiệp chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn các quá khứ, việc lãnh đạo Nhật viếng thăm ngôi đền này ngành khác. Trong khi mức đầu tư vào nông nghiệp chỉ luôn gây nên làn sóng phẫn nộ đối với Bắc Kinh và chiếm tầm dưới 200 triệu đô-la Mỹ thì mức đầu tư vào Seoul, ngay cả Nhật Hoàng cũng đã từ bỏ việc công khai công nghiệp dao động từ khoảng từ 20 đến 50 tỷ đô-la viếng thăm ngôi đền này. Điểm đáng lưu ý là mặc dù Mỹ, cao gấp đôi so với lĩnh vực tài chính. Trên thực tế, ông Junichiro Koizumi tới thăm đền này đều đặn từ lúc cùng với việc tăng vốn FDI, Nhật Bản đã thiết lập mô ông được bầu làm thủ tướng năm 2001, ông đã không hình “đàn ngỗng bay” tại khu vực và đã có những ảnh tham gia nhiều sự kiện kỷ niệm 30 năm bình thường hóa hưởng lớn trong thập niên 90 của thế kỷ XX. Nhờ vào quan hệ Nhật-Trung. Ông cũng không hề thay đổi quan sự đầu tư và hỗ trợ từ Nhật, các nước phát triển tại khu điểm ngay cả sau khi các cuộc biểu tình lớn ở nhiều nơi vực châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng đã đạt nổ ra tại Trung Quốc. Việc tranh chấp quần đảo Senkaku những phát triển đáng kể, trong đó bao gồm cả Việt (Điếu Ngư) năm 2012 cũng khiến quan hệ của hai nước Nam, và Nhật Bản cũng vì thế mà đóng vai trò là một trở nên không mấy tốt đẹp. đối tác quan trọng trong quan hệ quốc tế tại khu vực. Từ năm 2008, khi vai trò của Nhật tại châu Á có phần 3.2. Trung Quốc – sự xuất hiện của con chim đầu đàn suy giảm do ảnh hưởng từ chính sách ngoại giao hướng mới về phương Tây, và ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế Một trong những đặc trưng của mô hình “đàn ngỗng thì người ta lại chứng kiến sự trỗi dậy đáng chú ý của bay” là tính trật tự về vị trí của thành viên trong đàn. Trung Quốc tại chính trường châu Á. Trung Quốc không Những con chim đầu đàn – những nước trong nhóm dẫn chỉ có thái độ hung hăng trong tranh chấp biển đảo tại đầu không phải lúc nào cũng có thể duy trì vị trí của biển Đông, mà còn có những động thái phô trương tiềm mình: khi một nước dẫn đầu dần mất đi sức lực của mình lực kinh tế với các nước châu Á. Ngay thời điểm tháng thì sẽ có nước phát triển khác thay thế. Trong trường hợp 9/2009, tân thủ tướng Nhật lúc này là ông Hatoyama, đã này là sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng việc dịch chuyển khẳng định việc “quay lại châu Á” trong cuộc gặp gỡ với sang chính sách mở cửa thị trường, nắm bắt cơ hội trong chủ tịch Trung Quốc tại New York, Mỹ [6]. Từ sau thời bối cảnh thị trường công nghệ thông tin ngày càng sôi điểm đó cả hai quốc gia đều có động thái tăng vốn đầu động. Không chỉ nhận gia công, tập trung lợi thế về nhân tư kinh tế vào các quốc gia thành viên ASEAN. Theo công giá rẻ mà còn đầu tư vào sản xuất linh kiện điện tử thống kê từ Ban Thư ký ASEAN (Bảng 2), tính đến năm với giá thành rẻ hơn đã tạo ra lợi thế cạnh tranh siêu 2014, Nhật Bản vẫn là nước có mức vốn FDI vào khủng cho nền kinh tế Trung Quốc. Không chỉ phát triển ASEAN cao nhất và Trung Quốc đứng thứ 2. Nhưng từ kinh tế, Trung Quốc còn nâng cao tầm ảnh hưởng của sau năm 2008, Trung Quốc đã có động thái đẩy mạnh mình đối với các nước khác, thể hiện bằng sự cạnh tranh vốn đầu tư vào khu vực. Mức FDI mà Trung Quốc đầu đối đầu với Nhật Bản. Từ những năm đầu của thế kỷ tư vào ASEAN năm 2009 cao gấp 2,5 lần so với năm XXI, Trung Quốc và Nhật Bản đã có thái độ đối đầu về trước đó, những năm tiếp theo con số này vẫn tiếp tục ngoại giao trong khu vực, bắt đầu với sự kiện viếng thăm tăng theo cấp số nhân, chỉ giảm nhẹ vào năm 2012 đền Yasukuni - Ngôi đền thờ hơn 2,5 triệu tử sĩ Nhật (nguyên nhân xuất phát từ những căng thẳng về tranh Bản (gồm cả những người đã tham gia lực lượng phát chấp biển đảo với các quốc gia ASEAN), trước khi tiếp xít và 14 tội phạm chiến tranh loại A trong Thế chiến tục tăng vào năm 2013.
  5. ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(119).2017 27 Bảng 2. Bảng thống kê vốn đầu tư phát triển của các nước vào khu vực ASEAN từ năm 2004-2014 Cũng theo báo cáo của Diễn đàn khu vực ASEAN Malaysia cao gấp 6,5 lần, Thái Lan và Philippines cao gấp (ARF), năm 2013, Trung Quốc đã tuyên bố kế hoạch thành 1,5 lần NSLĐ của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á và việc theo tăng trong công nghiệp thấp, tỷ trọng giá trị gia tăng ngành đuổi kế hoạch phát triển hạ tầng khu vực, còn gọi là chiến công nghiệp trong GDP giảm từ 32% năm 2010 xuống còn lược Con đường tơ lụa mới (New silk road) hay Một vành khoảng 28% năm 2015. Hiện Việt Nam đứng thứ 101 trên đai, Một con đường (One belt, one road), đã cho thấy tham tổng số 143 nước về chỉ số giá trị gia tăng trong ngành công vọng muốn dẫn đầu của Trung Quốc tại khu vực cũng như nghiệp chế biến chế tạo theo bình quân đầu người [4]. làm dấy lên sự quan ngại của Nhật về vị thế của Trung Câu chuyện “Việt Nam với 22.000 thạc sỹ và tiến sỹ mỗi Quốc tại khu vực mà Nhật luôn coi là chiến lược. năm nhưng vẫn không sản xuất nổi một chiếc ốc vít” [11] đã gây nhiều tranh cãi về sự tụt hậu của ngành công nghiệp 4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong nước, khi chỉ tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng mà bỏ Với chủ trương phát triển nền kinh tế theo hướng “công qua yếu tố công nghệ cũng như chất lượng nguồn nhân lực. nghiệp hoá, hiện đại hoá”, từ năm 2011 đến nay, nền công Trong bối cảnh như vậy, mô hình “đàn ngỗng bay” sẽ là một nghiệp của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. giải pháp thích hợp không chỉ để cải thiện ngành công Cụ thể, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê “Khu vực công nghiệp, tạo thêm việc làm và phát triển kinh tế bền vững, mà nghiệp và xây dựng tăng 9,64%, cao hơn nhiều mức tăng Việt Nam cũng có thể áp dụng mô hình này trong chính sách 6,42% của năm trước, đóng góp 3,20 điểm phần trăm, bang giao với khu vực. Hiện ở Trung Quốc, nhân công dưới trong đó ngành công nghiệp tăng 9,39% so với năm trước 25 tuổi chiếm đa số tại các xưởng, nhà máy công nghiệp, tuy (công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,60%); ngành xây nhiên, chính sách “Một con” năm 1979 đã gây ra tình trạng dựng tăng 10,82%, đây là mức tăng cao nhất kể từ 2010’’. thiếu hụt nhân công trẻ trong những năm gần đây [9]. Điều Về năng suất lao động (NSLĐ) của toàn nền kinh tế năm này dẫn đến sự gia tăng mức lương một cách nhanh chóng, 2015, trong Báo cáo tóm tắt NSLĐ Việt Nam: Thực trạng đặc biệt ở những tỉnh như Quảng Đông. Ngoài ra, vì thiếu và Giải pháp, theo giá hiện hành ước tính đạt 79,3 triệu hụt lao động, các doanh nghiệp sản xuất phải thu nhận lao đồng/lao động (tương đương khoảng 3.657 USD/lao động), động có tay nghề không cao tại các tỉnh vùng sâu, vùng xa tăng 6,4% so với năm 2014, bình quân giai đoạn 2006-2015 đến để làm việc. Đây là cơ hội tạo ra lợi thế cạnh tranh cho tăng 3,9%/năm [10]. Có thể thấy, cùng với quá trình đổi Việt Nam - được đánh giá là một trong những quốc gia có mới và phát triển kinh tế, NSLĐ của Việt Nam đã có sự cải dân số trẻ và có mức chi phí sống thấp hơn. Nâng cao tay thiện đáng kể, theo hướng tăng đều qua các năm. Tuy nghề cho lao động và đầu tư vào công nghệ thiết bị và máy nhiên, tốc độ tăng trưởng và NSLĐ của nước ta hiện vẫn móc trong giai đoạn này sẽ giúp nền công nghiệp Việt Nam còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Nếu so với tạo ra được các sản phẩm gia công có mức giá thấp hơn với Trung Quốc và Ấn Độ, NSLĐ của Việt Nam tăng chậm chất lượng cao hơn, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Sau quá trình hơn, dẫn tới sự gia tăng cả về khoảng cách tuyệt đối và gia công, tiếp thu các công nghệ từ các nước phát triển, Việt tương đối với hai nước trên. Ngày 31/5/2017, theo đánh giá Nam hoàn toàn có thể khẳng định thương hiệu ở lĩnh vực sản của Thứ trưởng Bộ Công thương Cao Quốc Hưng, tại Hội xuất linh kiện điện tử cũng như ngành hàng dệt, may mặc thảo “Kế hoạch cơ cấu lại ngành công nghiệp Việt Nam như cách mà Trung Quốc đã tiếp cận mô hình “đàn ngỗng 2017-2020 hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững”, tốc bay” để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và đạt được sự độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đang có xu hướng phát triển vượt bậc. Ngoài ra, Việt Nam nên chú trọng đến chậm lại, từ trung bình 14,3%/năm của giai đoạn 2006 - ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. Nhu cầu tiêu thụ các 2010 giảm xuống 10%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và mặt hàng đồ ăn, nước uống đóng chai tại thị trường trong giảm hầu hết trong các nhóm ngành công nghiệp; tốc độ nước đang ngày càng nâng cao do thu nhập người dân được tăng NSLĐ của ngành công nghiệp giai đoạn 2006 - 2015 cải thiện; tuy nhiên, các mặt hàng nhập khẩu vẫn đang chiếm khoảng 2,4%/năm, chậm hơn tốc độ tăng bình quân chung được phần lớn thiện cảm của người tiêu dùng. Các doanh của nền kinh tế là 3,9%. NSLĐ của Nhật Bản cao gấp 39 nghiệp trong nước nên cải thiện chất lượng cũng như bao bì lần, Singapore cao gấp 26 lần, Hàn Quốc cao gấp 16 lần và đóng gói để đáp ứng nhu cầu nội địa sau đó tiến hành xuất Trung Quốc cao gấp 2 lần so với NSLĐ của Việt Nam. So khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, luyện kim với các nước đang phát triển thành viên ASEAN thì như tôn Hoa Sen, thép Nhân Luật, v.v… đều là những doanh
  6. 28 Lê Thị Phương Loan, Lê Phương Mỹ Hiền nghiệp đủ sức thích ứng với công nghệ sản xuất công nghiệp [2] Akamatsu Kaname, Waga Kuni Keizai Hatten no Shuku gooben shoohoo [The Synthetic Principles of the Economic Development of của các nước tiên tiến. Thay vì lãng phí thời gian và nguồn our country], Shoogyoo Keizai Ron [Theory of commerce and nhân lực để sáng tạo ra cái mới, việc kế thừa những thành Economics], Nagoya, 1932. quả của các nước đi trước sau đó cải thiện và phát triển vẫn [3] Akamatsu Kaname, Waga Kuni sangyo hatten no ganko keitai, sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí và mang lại nguồn lợi nhuận tokuni kikai kigu kogyo nit suite [Types in the development of our đáng kể. Cùng với phát triển kinh tế bằng trụ cột công imported countries, with special references to the machine and tools industries], The Hitotsubashi Ronson, Tokyo, 1956. nghiệp, mô hình “đàn ngỗng bay” cũng là phương thức hữu [4] Bộ Công Thương Việt Nam, Cơ cấu lại ngành công nghiệp Việt Nam hiệu để Việt Nam hoà nhập sâu hơn vào khu vực, hướng tới 2017-2020, truy cập ngày 11/10/2017, hình ảnh “con chim đầu đàn” của ba nước Đông Dương. 5. Kết luận [5] Hoàng Thị Minh Hoa, Từ thuyết Đại Đông Á đến học thuyết Fukuda Như vậy, bằng cách vận dụng và ủng hộ mô hình “đàn của Nhật Bản, Thông báo Khoa học Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 1993. ngỗng bay” như một phương thức thiết yếu để tiến tới hội [6] Nguyễn Hoàng Giáp, “Nhận diện trật tự quyền lực của Đông Á hiện nhập hơn nữa trong khu vực, Nhật Bản đã đóng góp rất lớn nay”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4, 2010. cho sự phát triển cũng như hợp tác kinh tế ở Đông Á. Thực [7] Phát biểu của Thủ tướng Nhật Miyazawa trong chuyến viếng thăm tế, mạng lưới sản xuất công nghiệp của Nhật Bản không các nước ASEAN, tháng 2/1993, tại Bangkok, truy cập ngày chỉ trở nên phát triển hơn mà còn có sức ảnh hưởng đáng 12/7/2017, http://asean.org/?static_post=joint-press-release- kể hơn với các nền kinh tế trong khu vực, hỗ trợ đất nước thirteenth-meeting-of-the-japan-asean-forum-tokyo-japan-16-17- february-1993 này tăng cường hợp tác kinh tế vùng trong những thập kỷ [8] The Nation, Phát biểu của Thủ tướng Nhật Hashimoto tại Singapore gần đây. Đây là một mô hình được đánh giá là theo sát bản ngày 14/01/1997, truy cập ngày 12/7/2017, chất phát triển của thị trường nên sẽ mang lại sự phát triển http://www.mofa.go.jp/region/asia- bền vững, ổn định cho các quốc gia, không chỉ trong lĩnh paci/asean/pmv9701/policy.html vực kinh tế mà còn với chính trị trong khu vực. Việt Nam, [9] Sách thống kê năm 2015 của ASEAN, truy cập ngày 5/7/2017, http://www.aseanstats.org/wp-content/uploads/2016/10/ASEAN- với những nỗ lực hướng tới phát triển kinh tế bền vững, cần Statistical-Yearbook-2015_small_size.pdf nghiêm túc ứng dụng mô hình này vào thực tiễn. [10] Tổng cục Thống kê, Thông cáo báo chí về Tình hình Kinh tế - Xã hội năm 2016, truy cập ngày 12/10/2017, TÀI LIỆU THAM KHẢO http://gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=&ItemID=16171. [11] Vietnamnet điện tử, Cầm bằng Tiến sĩ kỹ sư không làm nổi ốc vít, [1] Akamatsu Kaname, The Trend of Foreign Trade in http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/cam-bang-tien-si-ky-su-khong- Manufactured Woolen Goods in Japan, Shogyo Keizai lam-noi-oc-vit-268988.html, truy cập ngày 13/7/2017. Roniew (Higher Commercial School of Nagoya), 13. July, 1935. (BBT nhận bài: 02/10/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 08/10/2017)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2