intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu thực hiện kỹ thuật phacoemulsification với thể thủy tinh đục trắng

Chia sẻ: ViHinata2711 ViHinata2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

51
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung trình bày kết quả cho thấy xé bao trước rất dễ dàng hoàn thiện trên cả 48 mắt vì sau khi nhuộm bao có màu xanh rất tương phản với nền thể thủy tinh màu trắng. Thời gian sử dụng siêu âm trung bình là 1'46" (từ 40" đến 2'35"). Các biến chứng trong phẫu thuật bao gồm rách bao sau 3 mắt (6,3%), co đồng tử trong phẫu thuật 6 mắt (12,5%), phù mép mổ 11 mắt (22,9%). Ngày đầu tiên sau mổ 33 mắt (68,8%) có thị lực 3/10, và sau 1 tháng số này là 41 mắt (85,4%).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu thực hiện kỹ thuật phacoemulsification với thể thủy tinh đục trắng

1. Công trình nghiên cứu<br /> <br /> NGHIÊN CỨU THỰC HIỆN KỸ THUẬT<br /> PHACOEMULSIFICATION<br /> VỚI THỂ THỦY TINH ĐỤC TRẮNG<br /> TRƯƠNG TUYẾT TRINH, VŨ ANH TUẤN<br /> <br /> Bệnh viện Mắt Trung ương<br /> TÓM TẮT<br /> Trong thời gian từ tháng 11/2000 đến tháng 11/2001 chúng tôi đã thực hiện mổ<br /> phaco trên 48 mắt có thể thủy tinh đục trắng hoặc đục quá chín của 46 bệnh nhân tại<br /> khoa Glôcôm, Bệnh viện Mắt TW với mục đích hoàn thiện về kỹ thuật phẫu thuật, đánh<br /> giá các biến chứng trong, sau phẫu thuật và các biện pháp xử lý.<br /> Để xé bao trước được liên tục chúng tôi nhuộm bao bằng chất màu xanh lơ<br /> Trypan hoặc xanh lá cây Indocyanin. Tán nhân bằng kỹ thuật Divide and conquer hoặc<br /> Phaco-chop tuỳ theo độ rắn của nhân. Đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng PMMA có<br /> đường kính quang học 6mm vào trong bao. Khâu đóng vết mổ bằng 1 mũi chỉ 10/0.<br /> Kết quả cho thấy xé bao trước rất dễ dàng hoàn thiện trên cả 48 mắt vì sau khi<br /> nhuộm bao có màu xanh rất tương phản với nền thể thủy tinh màu trắng. Thời gian sử<br /> dụng siêu âm trung bình là 1'46" (từ 40" đến 2'35"). Các biến chứng trong phẫu thuật<br /> bao gồm rách bao sau 3 mắt (6,3%), co đồng tử trong phẫu thuật 6 mắt (12,5%), phù<br /> mép mổ 11 mắt (22,9%). Ngày đầu tiên sau mổ 33 mắt (68,8%) có thị lực  3/10, và sau<br /> 1 tháng số này là 41 mắt (85,4%).<br /> Kết luận: kỹ thuật Phacoemulsification hoàn toàn có thể thực hiện được một<br /> cách an toàn trên những mắt có thể thủy tinh đục trắng nhưng cần thêm một số kỹ thuật<br /> bổ trợ:<br /> - Thì xé bao: dùng chất nhuộm màu<br /> - Thì tán nhân: phaco-chop khi nhân cứng.<br /> <br /> Ngày nay kỹ thuật tán nhuyễn thể<br /> thủy<br /> tinh<br /> bằng<br /> siêu<br /> âm<br /> <br /> (Phacoemulsification) đã được áp dụng<br /> rộng rãi trên toàn thế giới và được công<br /> <br /> 3<br /> <br /> nhận như là biện pháp tối ưu nhất trong<br /> phẫu thuật lấy thể thủy tinh. Ưu điểm nổi<br /> bật của phương pháp là đường mổ nhỏ<br /> <br /> trắng hoặc quá chín của 46 bệnh nhân tại<br /> khoa Glôcôm – Bệnh viện Mắt Trung<br /> ương. Người trẻ nhất là 48 tuổi, cao tuổi<br /> <br /> hạn chế được loạn thị, phẫu thuật được<br /> tiến hành trong một hệ thống kín, giảm<br /> thiểu được những chấn thương do phẫu<br /> <br /> nhất là 82 tuổi, trung bình là 67  4,3<br /> tuổi.<br /> Tất cả các trường hợp đều được đo<br /> thị lực và nhãn áp, khám lâm sàng đánh<br /> <br /> thuật nên thị lực sớm phục hồi, thời gian<br /> hậu phẫu ngắn và rất nhẹ nhàng. Tuy vậy<br /> khi thể thủy tinh đục hoàn toàn và đục<br /> quá chín thì chỉ định của phương pháp<br /> <br /> giá tình trạng giác mạc, tiền phòng, thể<br /> thủy tinh và khả năng xác định hướng<br /> ánh sáng.<br /> Đánh giá chức năng hoàng điểm<br /> <br /> này cần được cân nhắc một cách thận<br /> trọng bởi chắc chắn sẽ gặp nhiều khó<br /> khăn do không còn ánh hồng của đồng<br /> tử, chất nhân dạng sữa phóng thích vào<br /> <br /> bằng kính Maddox, đo khúc xạ giác mạc<br /> và khám mắt bằng siêu âm B để đánh giá<br /> tình trạng dịch kính võng mạc và đo<br /> chiều dài trục nhãn cầu. Công suất của<br /> <br /> tiền phòng gây khó khăn nhiều cho thì xé<br /> bao trước. Hơn nữa trên những mắt này<br /> dây Zinn thường yếu, nhân thể thủy tinh<br /> lại rắn rất dễ gây biến chứng rách bao<br /> <br /> thể thủy tinh nhân tạo được tính bằng<br /> công thức SKR II.<br /> Tất cả những bệnh nhân có bệnh ở<br /> phần trước nhãn cầu, bệnh glôcôm, bệnh<br /> <br /> sau thoát dịch kính trong thì tán nhân [9].<br /> Tại khoa Glôcôm thuộc Bệnh viện<br /> Mắt Trung ương, chúng tôi đã bắt đầu<br /> mổ Phaco từ năm 1997. Sau một thời<br /> <br /> lý của võng mạc đều không được lựa<br /> chọn vào nghiên cứu này.<br /> <br /> gian tích luỹ kinh nghiệm và hoàn thiện<br /> kỹ thuật đến tháng 11/2000 chúng tôi<br /> mới bắt đầu nghiên cứu thực hiện kỹ<br /> thuật này trên những mắt có thể thủy tinh<br /> <br /> Kỹ thuật:<br /> Mắt mổ được vệ sinh, rửa cùng đồ<br /> và tra Betadin 5% từ ngày hôm trước.<br /> Đồng tử được làm giãn tối đa bằng<br /> <br /> đục trắng với hai mục đích:<br /> Hoàn thiện kỹ thuật của phẫu thuật.<br /> Đánh giá các biến chứng và<br /> phương pháp xử lý biến chứng.<br /> <br /> Neosynephrine 10% tra 3 lần trước mổ<br /> và được duy trì trong mổ bằng Adrenalin<br /> 1/1000 pha 1 ống trong 1 chai 500ml<br /> dung dịch Ringer lactat.<br /> Đường rạch mà chúng tôi sử dụng<br /> thường qui là đường hầm 6mm trên phần<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG<br /> Trong thời gian từ tháng 11/2000<br /> đến tháng 11/2002 chúng tôi đã mổ<br /> <br /> giác mạc trong suốt cạnh rìa trong<br /> khoảng kinh tuyến 10h - 11h. với đường<br /> <br /> Phaco và đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu<br /> phòng cho 48 mắt có thể thủy tinh đục<br /> <br /> rạch này chúng tôi thấy mọi thao tác đều<br /> rất thuận lợi và độ loạn thị sau phẫu thuật<br /> <br /> 4<br /> <br /> là chấp nhận được [2]. Đầu tiên chỉ tạo<br /> đường hầm 3,2mm để xé bao và tán<br /> nhân, đến thì đặt thể thủy tinh nhân tạo<br /> <br /> dùng thể thủy tinh nhân tạo PMMA<br /> đường kính quang học 6mm để đặt trong<br /> bao thể thuỷ tinh.<br /> <br /> mới mở rộng thêm thành 6mm và khâu 1<br /> mũi chỉ 10/0 khi kết thúc phẫu thuật.<br /> Để xé bao trước được liên tục<br /> <br /> Hậu phẫu dùng kháng sinh uống<br /> Ofloxacine 0,2g x 2 viên/ngày x 3-5<br /> ngày. Tra mắt dung dịch Maxitrol và<br /> <br /> chúng tôi nhuộm bao bằng Vision Blue<br /> [1,6] hoặc Indocyanin Green. Đầu tiên<br /> chúng tôi tạo 1 vạt bao hình tam giác<br /> bằng kim 26G rồi tiếp tục xé bao bằng<br /> <br /> Naclof x 4 lần/ngày x 4 tuần.<br /> Bệnh nhân được khám lại và thử thị<br /> lực vào các ngày 1, 7, 14, 1 tháng, 3<br /> tháng và 6 tháng sau phẫu thuật. Đo nhãn<br /> <br /> pince xé bao. Trong khi xé bao nếu chất<br /> nhân dạng sữa phóng thích nhiều cản trở<br /> sự quan sát thì cần dừng lại, rửa sạch tiền<br /> phòng bằng đầu rửa hút, sau đó bơm chất<br /> <br /> áp chỉ được tiến hành tối thiểu 2 tuần sau<br /> mổ.<br /> <br /> dịch nhầy đầy tiền phòng và trong bao<br /> thể thuỷ tinh rồi tiếp tục thủ thuật. Chất<br /> nhầy duy nhất mà chúng tôi sử dụng là<br /> Hydropropyl methylcellulose 2% do Ấn<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Độ sản xuất.<br /> Thao<br /> tác<br /> tách<br /> nước<br /> (hydrodyssection) là không cần thiết vì<br /> chất nhân đã hoá lỏng, nhân di động rất<br /> <br /> hết sức thuận lợi, độ loạn thị sau phẫu<br /> thuật không quá 1D [2] và kết quả về thị<br /> lực là rất khả quan. Trước mổ chỉ có 2<br /> mắt có thị lực đnt 0,1m, thị lực của 46<br /> <br /> dễ dàng.<br /> Kỹ thuật tán nhân được chúng tôi<br /> sử dụng là Divide & conquer hoặc<br /> Phaco- chop tuỳ theo độ cứng của nhân.<br /> <br /> mắt còn lại chỉ là nhận biết được ánh<br /> sáng. Nhưng ở ngày đầu tiên sau mổ mắt<br /> có thị lực thấp nhất cũng đạt 1/10, có tới<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Kết quả về chức năng:<br /> Với đường mổ trên phần giác mạc<br /> trong suốt cạnh rìa ở kinh tuyến 10 - 11h<br /> chúng tôi thấy các thao tác tiếp theo là<br /> <br /> 68,8% số mắt đạt thị lực  3/10 trong đó<br /> <br /> Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ<br /> <br /> có 12,5% đạt mức thị lực  7/10<br /> <br /> Bảng 1: Kết quả thị lực theo thời gian<br /> Thị lực<br /> <br /> 1 ngày<br /> <br /> 1 tuần<br /> <br /> 2 tuần<br /> <br /> 1 tháng<br /> <br /> 3 tháng<br /> <br /> 6 tháng<br /> <br /> < đnt 3m<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> (2,1%)<br /> <br /> (4,2%)<br /> <br /> đnt 3m - dưới 3/10<br /> 3/10 - dưới 7/10<br /> <br /> 15<br /> <br /> 9<br /> <br /> 8<br /> <br /> 5<br /> <br /> 5<br /> <br /> 2<br /> <br /> (31,3%)<br /> <br /> (18,7%)<br /> <br /> (16,7%)<br /> <br /> (10,4%)<br /> <br /> (11,9%)<br /> <br /> (5,4%)<br /> <br /> 27<br /> <br /> 26<br /> <br /> 29<br /> <br /> 16<br /> <br /> 14<br /> <br /> 11<br /> <br /> 5<br /> <br /> (56,3%)<br /> <br /> (54,2%)<br /> <br /> (60,4%)<br /> <br /> (33,3%)<br /> <br /> (33,3%)<br /> <br /> (29,7%)<br /> <br />  7/10<br /> <br /> 6<br /> (12,5%)<br /> <br /> 13<br /> (27,1%)<br /> <br /> 10<br /> (20,8%)<br /> <br /> 25<br /> (52,1%)<br /> <br /> 23<br /> (54,8%)<br /> <br /> 24<br /> (64,9%)<br /> <br /> Tổng số<br /> <br /> 48<br /> <br /> 48<br /> <br /> 48<br /> <br /> 48<br /> <br /> 42<br /> <br /> 37<br /> <br /> Qua bảng trên chúng tôi thấy thị<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Các biến chứng trong phẫu<br /> <br /> lực bắt đầu đi vào ổn định sau phẫu thuật<br /> 1 tháng và sau 3 tháng thì gần như ổn<br /> <br /> thuật:<br /> Trong phẫu thuật chúng tôi nhận<br /> <br /> định hoàn toàn. Tới 6 tháng tỷ lệ mắt có<br /> <br /> thấy có 6 trường hợp (12,5%) bong màng<br /> Descemet nhưng vùng bong thường hẹp<br /> <br /> thị lực  7/10 đã lên tới 64,9%.<br /> <br /> khu trú cạnh vết mổ và sẽ tự áp trở lại sau<br /> khi chúng tôi đóng vết mổ rồi bơm nước<br /> <br /> Những trường hợp có thị lực dưới<br /> mức đếm ngón tay 3m ở thời điểm 2 tuần<br /> và 1 tháng sau phẫu thuật là những mắt<br /> <br /> căng vào tiền phòng để tạo một áp lực tốt<br /> trong nội nhãn. Đồng thời chúng tôi cũng<br /> <br /> có phản ứng màng bồ đào sau phẫu thuật.<br /> Sau điều trị nội khoa bằng thuốc giãn<br /> <br /> nhận thấy có 11 trường hợp (22,9%) có<br /> phù giác mạc quanh mép mổ nhưng tổn<br /> <br /> đồng tử, kháng sinh và chống viêm thị<br /> lực đã được tăng lên rõ rệt.<br /> <br /> thương này sẽ biến mất vào ngày hôm sau<br /> mà không để lại di chứng gì.<br /> <br /> Bảng 2: Các biến chứng trong phẫu thuật<br /> Các biến chứng trong phẫu thuật<br /> Xé bao không liên tục<br /> <br /> Số lượng<br /> 0<br /> <br /> Tỷ lệ<br /> <br /> Phù mép mổ<br /> <br /> 11<br /> <br /> 22,9%<br /> <br /> Bong màng Descemet<br /> <br /> 6<br /> <br /> 12,5%<br /> <br /> Co đồng tử<br /> <br /> 6<br /> <br /> 12,5%<br /> <br /> Rách bao sau<br /> <br /> 3<br /> <br /> 6,3%<br /> <br /> Vôi hoá bao sau<br /> <br /> 4<br /> <br /> 8,3%<br /> <br /> Trong nghiên cứu này trên tất cả 48<br /> mắt chúng tôi đều thực hiện được xé bao<br /> <br /> Thời gian sử dụng siêu âm trung<br /> bình trong nghiên cứu này là 1'46" (từ<br /> <br /> liên tục hình tròn mà không gặp phải một<br /> khó khăn nào vì bao trước được nhuộm<br /> <br /> 40" đến 2'35"), có 3 trường hợp (6,3%)<br /> rách bao sau ở thì tán nhân nhưng viền<br /> <br /> xanh rất tương phản với nền thể thủy tinh<br /> màu trắng.<br /> <br /> bao trước vẫn còn nguyên vẹn nên sau<br /> khi cắt sạch dịch kính trước chúng tôi đã<br /> <br /> 6<br /> <br /> đặt thể thủy tinh nhân tạo vào rãnh thể<br /> mi một cách an toàn.<br /> <br /> và tại chỗ.<br /> Đục bao sau được quan sát thấy ở<br /> 13 trường hợp (27,1%), trong đó 7<br /> <br /> Trong phẫu thuật chúng tôi còn gặp<br /> 6 trường hợp (12,5%) đồng tử không<br /> giãn hoặc co nhỏ lại trong khi tán nhân<br /> <br /> trường hợp xuất hiện sau 3 tháng và 6<br /> trường hợp xuất hiện sau 6 tháng. Tất cả<br /> 13 trường hợp này đều được mở bao sau<br /> <br /> cần phải bơm adrenalin 1/10.000 vào tiền<br /> phòng.<br /> Trong khi rửa hút chất nhân chúng<br /> tôi còn nhận thấy 4 trường hợp (8,3%)<br /> <br /> bằng Laser YAG an toàn.<br /> Không có trường hợp nào tăng<br /> nhãn áp hoặc bong võng mạc sau phẫu<br /> thuật ở giai đoạn sớm và muộn được ghi<br /> <br /> đục vôi hoá bao sau nhưng cả 4 trường<br /> hợp này vùng đục đều không ở vị trí<br /> trung tâm nên chúng tôi vẫn tiến hành<br /> đặt thể thủy tinh nhân tạo như bình<br /> <br /> nhận.<br /> <br /> thường rồi sẽ mở bao sau bằng Laser<br /> YAG vào thời điểm 3 tháng sau phẫu<br /> thuật.<br /> <br /> thể thủy tinh đục chín có nhiều khó khăn<br /> nhưng những khó khăn này là có thể<br /> khắc phục được khi áp dụng một số biện<br /> pháp hỗ trợ.<br /> <br /> 3.<br /> Các biến chứng sớm trong thời<br /> gian hậu phẫu:<br /> Trong thời gian hậu phẫu có 11<br /> <br /> Thì xé bao (capsulorhexis)<br /> Đây là thì có ý nghĩa quyết định<br /> của phẫu thuật. Nếu xé bao hoàn tất các<br /> <br /> trường hợp (22,9%) viêm khía hoặc phù<br /> nhẹ giác mạc nhưng tất cả đều hồi phục<br /> sau 2 - 3 ngày, không có ca nào để lại di<br /> chứng loạn dưỡng giác mạc.<br /> <br /> thao tác tiếp theo sẽ rất thuận lợi, nếu xé<br /> bao không hoàn tất nguy cơ biến chứng<br /> tiếp sau là rất cao. Thế nhưng khi thể<br /> thủy tinh đục trắng hoàn toàn không còn<br /> <br /> 4.<br /> Các biến chứng muộn sau phẫu<br /> thuật:<br /> Ở thời điểm sau phẫu thuật 2 - 5<br /> <br /> thấy ánh hồng đồng tử thì không thể xé<br /> bao một cách bình thường được. Trước<br /> nghiên cứu này chúng tôi đã thử một số<br /> phương pháp như dùng ánh sáng nghiêng<br /> <br /> tuần, xuất hiện 3 trường hợp (6,3%) có<br /> phản ứng màng bồ đào với những biểu<br /> hiện tyndall tiền phòng, dính mống mắt<br /> và màng xuất tiết màu xám che kín diện<br /> <br /> của đèn lạnh nội nhãn [9], xé 1 vạt bao<br /> nhỏ ở trung tâm rồi xé rộng ra sau khi đặt<br /> thể thủy tinh nhân tạo [3, 10] nhưng<br /> chúng tôi thấy việc xé bao một cách hoàn<br /> <br /> đồng tử phải điều trị tích cực bằng kháng<br /> sinh và chống viêm theo đường toàn thân<br /> <br /> chỉnh là rất khó khăn, đồng thời với một<br /> đường kính xé bao nhỏ sẽ hết sức nguy<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Mổ phaco với những trường hợp<br /> <br /> 7<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2