intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển ở thành phố Đà Nẵng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

28
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển của Đà Nẵng. Từ đó, bài viết đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và đào tạo nhân lực phục vụ kinh tế biển của thành phố thời gian qua và đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ kinh tế biển của thành phố Đà Nẵng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển ở thành phố Đà Nẵng

  1. UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Nhận bài: Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 07– 03 – 2017 Nguyễn Thị Hương Chấp nhận đăng: 28 – 06 – 2017 http://jshe.ued.udn.vn/ Tóm tắt: Đà Nẵng là thành phố cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam, có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát triển tổng hợp kinh tế biển. Trong số đó, nguồn nhân lực luôn được coi là một nguồn lực quan trọng và là vấn đề trung tâm, yếu tố cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đà Nẵng nói chung và kinh tế biển thành phố nói riêng. Tuy nhiên, nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển Đà Nẵng đang đứng trước nguy cơ thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Bài viết trình bày sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển của Đà Nẵng. Từ đó, bài viết đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và đào tạo nhân lực phục vụ kinh tế biển của thành phố thời gian qua và đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ kinh tế biển của thành phố Đà Nẵng. Từ khóa: nguồn nhân lực; kinh tế biển; Đà Nẵng; đào tạo; phát triển. hiện nay. 1. Đặt vấn đề Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, chính trị, 2. Nội dung văn hóa của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Hiện 2.1. Sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân nay, thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển lực phục vụ kinh tế biển ở Đà Nẵng tổng hợp kinh tế biển, từng bước trở thành trung tâm Thế kỉ XXI là thế kỉ của kinh tế tri thức, của khoa kinh tế biển mạnh của vùng. Trong những năm qua, học công nghệ hiện đại, của xã hội thông tin gắn liền Đảng bộ Đà Nẵng đã có những chủ trương, chính sách với thời đại toàn cầu hóa. Trong bối cảnh đó, hầu như nhằm đẩy mạnh việc phát triển kinh tế biển của thành tất cả các nước đều quan tâm đến chiến lược con người, phố và đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ. coi con người và nguồn nhân lực là một “tài nguyên đặc Tuy nhiên trên thực tế, kinh tế biển ở Đà Nẵng vẫn phát biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế và là vấn triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế vốn có đề trung tâm, yếu tố cơ bản trong chiến lược phát triển của mình. Để phát triển kinh tế biển bền vững trong kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương Vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự mại tự do thế hệ mới, thành phố Đà Nẵng đòi hỏi phải phát triển kinh tế - xã hội có thể khái quát thành những có nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển nhằm điểm cơ bản sau: một là, con người vừa là động lực, vừa đảm bảo khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế biển. Vì là mục tiêu của sự phát triển; hai là, nguồn nhân lực vậy, phát triển nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển đáp quyết định việc phát huy các nguồn lực khác; ba là, ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đang đặt ra rất cấp bách nguồn nhân lực - yếu tố quyết định giá trị gia tăng trong quá trình sản xuất - kinh doanh; bốn là, con người - chủ thể và khách thể trong chuỗi quản trị phát triển [5]. * Liên hệ tác giả Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, chính trị, Nguyễn Thị Hương Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng văn hóa của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Đà Email: nthuong_gdct@ued.udn.vn Nẵng là một thành phố cửa biển, là điểm nối của trục Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 41-48 | 41
  2. Nguyễn Thị Hương giao thông Đông - Tây, Nam - Bắc. Đà Nẵng ở vị trí hải sản, đây là nghề tự phát, chủ yếu dựa vào kinh trung độ của đất nước, nằm trên một trong những tuyến nghiệm theo kiểu “cha truyền con nối”, phương tiện đường biển và đường hàng không quốc tế, là cửa ngõ khai thác nhìn chung lỗi thời, lạc hậu và đặc điểm của quan trọng của Tây Nguyên, Lào, Campuchia, Thái Lan, ngành đánh bắt hải sản nặng nhọc, luôn tiềm ẩn nhiều Myanma và các vùng Đông Bắc Á thông qua tuyến rủi ro, nên đòi hỏi người lao động phải là nam giới, có hành lang kinh tế Đông - Tây với điểm kết thúc là cảng sức khỏe. Hầu hết lao động tham gia đánh bắt hải sản là Tiên Sa. Trong giai đoạn hiện nay, vị trí địa lí của thành ngư dân ven biển, trình độ văn hóa chưa học hết phổ phố cảng là một lợi thế quan trọng tạo điều kiện thuận thông, trình độ chuyên môn nghề nghiệp chủ yếu dựa lợi cho thành phố Đà Nẵng mở rộng giao lưu kinh tế vào kinh nghiệm, do trình độ thấp nên hạn chế khả năng với các tỉnh trong vùng duyên hải, Tây Nguyên, cả tiếp thu kiến thức về quản lí, kĩ thuật đánh bắt và các nước và với nước ngoài, là tiền đề quan trọng góp khả năng chuyển đổi nghề [4]. phần để các ngành kinh tế của thành phố phát triển, tạo Nhìn chung, nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển ở lực để thành phố trở thành một trong những trung tâm Đà Nẵng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Trong thời phát triển của vùng trọng điểm miền Trung. Bên cạnh gian sắp tới, nếu không có giải pháp hữu hiệu thì Đà đó, Đà Nẵng còn có nhiều tiềm năng, lợi thế quan Nẵng sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu nhân lực phục trọng khác như văn hóa biển, tài nguyên biển… là điều vụ cho ngành kinh tế biển cả về số lượng và chất lượng. kiện thuận lợi để phát triển tổng hợp kinh tế biển, từng 2.2. Thực trạng nguồn nhân lực và đào tạo bước trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh của vùng, nhân lực phục vụ kinh tế biển là một trong ba trung tâm kinh tế biển lớn nhất của cả Theo Chiến lược xây dựng Đà Nẵng trở thành thành nước, đồng thời làm bàn đạp để phát triển mạnh khai phố cảng biển vào năm 2020 của Viện Chiến lược phát thác các vùng biển khơi [2]. triển - Bộ Kế hoạch Đầu tư; kinh tế biển - ven biển Đà Một trong các tiềm năng, nguồn lực quan trọng phát Nẵng với các ngành kinh tế chủ yếu là: triển kinh tế biển Đà Nẵng chính là nguồn nhân lực. (1) Kinh tế hàng hải: dịch vụ cảng biển, hàng hải và Nguồn lực này luôn luôn là yếu tố quyết định, thúc đẩy hỗ trợ; sự phát triển và tác động đến toàn bộ nền kinh tế nói chung và kinh tế biển nói riêng. Hiện nay, thành phố có (2) Du lịch và dịch vụ biển, ven biển: tham quan, tỉ lệ dân cư sống ở khu vực ven biển chiếm hơn 50% du lịch biển, di tích lịch sử, cảnh quan, khu vui chơi dân số toàn thành phố. Đây vừa là nguồn lực dồi dào giải trí...; vừa là thị trường tiềm năng để phát triển các ngành kinh (3) Khai thác và chế biến thuỷ hải sản: khai thác hải tế biển. Nguồn nhân lực dồi dào cùng với hệ thống đào sản xa bờ, chế biến xuất khẩu, dịch vụ hậu cần và bảo tạo các chuyên ngành liên quan đến kinh tế biển đang vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản; được chú trọng phát triển tại các trường đại học, cao (4) Xây dựng các khu công nghiệp tập trung, khu đẳng, trung cấp nghề trên địa bàn thành phố góp phần chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven tạo ra nguồn nhân lực quan trọng để phát triển kinh tế biển: Khu công nghiệp thủy sản Thọ Quang, Khu công biển Đà Nẵng. nghiệp Liên Chiểu, Hòa Khánh, An Đồn,... gắn với hệ Tuy nhiên, ngành kinh tế biển nói chung và lĩnh thống cảng biển, sân bay quốc tế Đà Nẵng [3]. vực du lịch biển nói riêng của Đà Nẵng đã, đang và sẽ Theo đó, ba nhóm lĩnh vực chính sử dụng nhiều lao thiếu nhân lực có kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng ngoại động trong ngành kinh tế biển ở Đà Nẵng, đó là (1) ngữ. Lĩnh vực kinh tế hàng hải Đà Nẵng hiện cũng Kinh tế hàng hải, (2) Khai thác và chế biến thủy hải sản đang thiếu nhân lực có chuyên môn và kĩ năng. Hầu và (3) Du lịch biển. hết các doanh nghiệp chế biến thủy sản trên địa bàn 2.2.1. Lao động hoạt động kinh tế hàng hải thành phố đều gặp khó khăn trong tuyển dụng lao Kinh tế hàng hải được thành phố xác định là một động, do nghề này có môi trường làm việc khắc nghiệt, trong bốn lĩnh vực chính của phát triển kinh tế biển. đa số lao động không xác định gắn bó với doanh Theo đó từ năm 2007 đến nay, thành phố đã tập trung nghiệp mà chỉ coi đây là công việc làm tạm thời cho tới khi tìm được việc làm mới. Đối với ngành khai thác 42
  3. ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 41-48 đầu tư nhiều cho phát triển hạ tầng cảng biển và kinh tế Biểu đồ 1. Cơ cấu trình độ nhân lực làm việc tại cảng hàng hải1 (xem Bảng 1). Đà Nẵng năm 2010 và năm 2016 Nhìn chung, trong giai đoạn 2011-2016, sản lượng hàng hoá thông qua Cảng Đà Nẵng tăng đều qua các năm và tốc độ tăng trưởng bình quân là 13%/ năm, trong đó tốc độ tăng trưởng bình quân hàng container là 20%/ năm. Để đạt được những kết quả đáng khích lệ như trên, kinh tế hàng hải Đà Nẵng đã có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ cán bộ quản lí, các nhà lãnh đạo, cán bộ công nhân viên và người lao động đang làm việc liên quan đến hoạt động hàng hải của thành phố. Tính đến năm 2016, tổng lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ vận tải, kho bãi có khoảng 31.410 ngàn lao động chiếm Nguồn: Cảng Đà Nẵng năm 2017 [8] khoảng 6,06% lao động làm việc trong khu vực dịch vụ và 6% trong tổng lực lượng lao động của toàn thành Nhìn chung, đội ngũ nhân lực đáp ứng khá đầy đủ phố. Mặc dù cơ cấu lao động trung bình của ngành vận nhu cầu của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải, kho bãi so với khu vực dịch vụ cũng như toàn bộ tải và kho bãi, từ lao động phổ thông đến lao động có nền kinh tế thành phố dao động không đều nhưng nhìn trình độ chuyên môn kĩ thuật, có tri thức cao. Tuy nhiên, chung có xu hướng giảm từ 2011-2013 và tăng dần sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông - lâm - thuỷ trong 3 năm gần đây. Hiện nay, riêng đối với lĩnh vực sản sang khu vực dịch vụ theo xu thế của chuyển dịch cơ vận tải đường thủy trên địa bàn thành phố có 9 doanh cấu kinh tế thành phố cũng đang tạo ra những thách thức nghiệp đang hoạt động, thu hút 129 lao động, trong đó đối với các ngành dịch vụ do chất lượng chuyển dịch 14,7% là lao động nữ. chưa bền vững, lao động chưa chủ động trong quá trình chuyển đổi nên vấn đề đào tạo và đào tạo lại nhằm đáp 1Chương ứng yêu cầu công việc còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trình hành động số 13-CT/TU của Thành ủy Đà Nẵng về thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 [2]. là những công việc đòi hỏi chuyên môn và kĩ năng [4]. Ngoài ra, số lượng cán bộ viên chức, người lao động đang làm việc tại cảng Đà Nẵng đang ngày một có chuyển biến tích cực qua biểu đồ sau: Bảng 1. Sản lượng hàng hoá và hành khách thông qua Cảng Đà Nẵng giai đoạn 2011-2016 Năm Sản lượng Nhập khẩu Xuất khẩu Nội địa Container Hành khách (Tấn) (Teus) (Người) 2011 3.868.545 784.891 1.598.134 1.485.520 114.373 38.190 2012 4.423.388 907.818 1.988.074 1.527.496 144.555 56.746 2013 5.010.238 1.345.060 2.361.018 1.304.160 167.447 115.912 2014 6.022.045 1.576.963 2.285.033 2.160.049 227.367 108.279 2015 6.406.000 1.902.441 2.421.106 2.082.453 258.000 51.891 2016 7.255.000 2.249.948 2.749.704 2.255.348 318.654 136.459 Nguồn: Cảng Đà Nẵng năm 2017 [8] 43
  4. Nguyễn Thị Hương 2.2.2. Lao động khai thác và chế biến thủy, hải nhiều lao động làm nghề khai thác đã bỏ nghề biển để sản và các vùng ven biển, hải đảo lên bờ tìm việc. Ngoài ra, vấn đề tranh chấp biển Đông Với mục tiêu trở thành trung tâm nghề cá mạnh của khá phức tạp nhưng thành phố chưa có chính sách để hỗ miền Trung và cả nước, ngành khai thác thuỷ hải sản trợ, đảm bảo an toàn để ngư dân yên tâm, ổn định với của Đà Nẵng có mức tăng trưởng cao về giá trị kim công việc khai thác hải sản của mình. Thu nhập bình ngạch xuất khẩu thuỷ sản từ 14-15%/ năm (2011-2016). quân của người lao động làm nghề khai thác dao động Thành phố đã xác định hướng đi của mình mà điểm từ 1-1,2 triệu đồng/ lao động/ tháng đối với các nghề nhấn được khẳng định là tăng cường đẩy mạnh khai tuyến bờ, từ 1,5-2,5 triệu đồng/ lao động/ tháng đối với thác hải sản xa bờ, hạn chế tối đa vùng ven bờ, nhằm tái các nghề tuyến lộng, tuyến khơi như lưới cản, lưới tạo nguồn lợi thủy sản, theo đó, phát triển nhanh số vây… Mỗi tàu khai thác hải sản của thành phố có bình lượng tàu cá công suất lớn và cải hoán nâng cấp tàu cá quân từ 6 - 7 lao động/ tàu khi đi khai thác trên biển. công suất nhỏ để vươn khơi. Khai thác thủy sản tập Bảng 2. Số lượng lao động làm nghề khai thác hải sản trung chủ yếu tại các quận Sơn Trà, Thanh Khê, Liên ở Đà Nẵng năm 2010 và năm 2016 Chiểu và Hải Châu. Năm 2015, giá trị sản xuất ngành ĐVT: Người nông nghiệp đạt 2.280 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), chiếm 2,3% GDP toàn thành phố; thủy sản chiếm 65,25% giá trị ngành nông nghiệp, tổng sản lượng hải Nội dung Năm 2010 Năm 2016 sản khai thác đạt 35.500 tấn2. Theo thống kê của Chi cục Thủy sản thành phố Đà Lao động trên tàu thuyền 7.339 6.882 Nẵng, hiện có 87 tổ khai thác hải sản với 567 tàu hoạt khai thác động tại các vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Thành Lao động ngoại tỉnh làm 1.607 1.507 phố đã có 4 nghiệp đoàn nghề cá với 461 thành viên là nghề khai thác chủ tàu, thuyền viên tham gia tại các quận Sơn Trà, Thanh Khê. Nguồn: Chi cục Thuỷ sản, Sở NN&PTNT Đà Nẵng [4] Tổng số lao động trên tàu thuyền khai thác hải sản Biểu đồ 2. Cơ cấu trình độ học vấn của lao động khai của thành phố năm 2016 giảm đi 6,6% so với năm 2010 thác hải sản ở Đà Nẵng (Giai đoạn 2011 - 2016) và số lao động ngoại tỉnh chiếm khoảng 21,9% trong tổng số lao động làm nghề khai thác trên tàu. Một thực trạng đáng quan tâm đó là hiện nay, lực lượng lao động trực tiếp làm nghề khai thác hải sản tại thành phố Đà Nẵng đang rất khan hiếm, nhất là lao động trong nghề câu mực, giã cào. Do vậy, các chủ tàu gặp nhiều khó khăn và lúng túng trong việc tuyển lao động làm nghề khai thác trên biển, gây ảnh hưởng lớn đến việc khai thác hải sản. Nguyên nhân là do phần lớn các chủ tàu đang sử dụng lao động từ các địa phương khác đến, như: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị… chỉ xuất hiện vào những tháng “trời yên, Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn [4] biển lặng”. Tình trạng lao động tàu này nhảy sang tàu khác còn diễn ra liên tục, gây khó khăn cho việc tiếp tục tổ chức sản xuất. Bên cạnh đó, do đặc thù nghề khai thác là lao động nặng nhọc, gặp nhiều rủi ro, nguy hiểm, thu nhập lại phụ thuộc vào hiệu quả khai thác của chuyến biển, đặc biệt, trong thời gian qua, tình hình mưa bão thất thường, hiệu quả chuyến biển không cao, 2Nguồn: Chi cục Thuỷ sản, Sở NN&PTNT Đà Nẵng 44
  5. ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 41-48 Trình độ học vấn của lao động làm nghề khai thác toả về du lịch giữa các nước trong cùng khu vực, giữa các của thành phố còn rất thấp, chủ yếu là chưa tốt nghiệp địa phương trong vùng là một tất yếu. Với những nỗ lực tiểu học và tốt nghiệp tiểu học. Với trình độ học vấn tập trung phát triển để du lịch thực sự trở thành ngành thấp, lao động khai thác chủ yếu học tập theo lối kèm kinh tế mũi nhọn của thành phố, tổng thu du lịch giai cặp, hướng dẫn nhau trong quá trình khai thác trên biển. đoạn 2011-2015 tăng bình quân hàng năm đạt 32,84% Về kinh nghiệm, chuyên môn: các tàu khai thác còn (tăng gấp 3,9 lần so với giai đoạn 2006-2010). Năm 2011, thiếu thuyền trưởng giỏi và có kinh nghiệm thực tế. tổng thu du lịch đạt 4.600 tỉ đồng, đến năm 2015 đạt Theo các chủ tàu, hiện nay tìm được một thuyền trưởng 12.817 tỉ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2011. có kiến thức, kinh nghiệm và khả năng điều hành là rất Trong thời gian qua, công tác đào tạo phát triển khó. Điều này gây cản trở đáng kể đối với việc áp dụng nguồn nhân lực du lịch trong những năm qua đã và đang các công nghệ hiện đại vào việc khai thác hải sản cũng được quan tâm. Tốc độ tăng của lực lượng lao động có như nhận thức của thuyền trưởng đối với vấn đề bảo vệ trình độ tham gia vào lĩnh vực du lịch đang ngày càng môi trường và nguồn lợi thủy sản. Tuy nhiên, trong thời tăng lên. Tính đến năm 2015, thành phố có 24.975 lao gian qua, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn động trực tiếp3 (tăng gấp 4 lần so với năm 2011) làm thành phố phối hợp với Trường Đại học Thủy sản Nha việc trong các hoạt động du lịch, trong đó tỉ lệ lao động Trang tổ chức đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng. Tính có trình độ trên cao đẳng, đại học tăng lên là 45%. đến năm 2016, thành phố đã đào tạo được 615 thuyền Trong tổng số lao động trực tiếp, đội ngũ hướng dẫn trưởng và 127 máy trưởng. Bên cạnh đó, quận Thanh viên chiếm từ 13-14%. Đây là lực lượng nòng cốt, trực Khê hỗ trợ đào tạo thuyền viên cho 60 ngư dân tàu đánh tiếp tổ chức và tiếp xúc với khách du lịch nhưng số bắt xa bờ (miễn phí hoàn toàn). Ngoài ra, thành phố còn lượng quá ít nên cường độ làm việc của họ trong mùa tổ chức trên 50 lớp tập huấn liên quan đến khai thác, tìm du lịch khá cao, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải, sơ cấp cứu, phòng chống phục vụ. Trong tổng số 24.975 lao động làm việc trong lụt bão, giáo dục kiến thức quốc phòng - an ninh với hơn lĩnh vực du lịch, 50% là lao động trong khối khách sạn 4.500 ngư dân tham gia, trong đó, phần lớn là thành viên và 25% là lao động khối nhà hàng. của các tổ khai thác hải sản của thành phố [4]. Theo kết quả khảo sát nguồn nhân lực du lịch của Bên cạnh đó, theo số liệu cung cấp của Chi cục Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, Thống kê Đà Nẵng, tính đến 2016, tổng số lao động làm cụ thể: việc trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản có Về trình độ chuyên môn của lao động: ở khối khách khoảng 4.561 người, trong đó, lao động nữ chiếm tỉ lệ sạn có 60-80% nhân viên ở hầu hết các chức danh đều lớn 73,98%. Trình độ tay nghề người lao động qua đào đáp ứng yêu cầu công việc, khoảng 10% nhân viên được tạo trong các doanh nghiệp chế biến thủy hải sản Đà đánh giá xuất sắc với hiệu quả công việc tốt hơn kì Nẵng nhìn chung có tỉ lệ thấp, trung bình chiếm 49,7% vọng. Tuy nhiên, vẫn có khoảng 10-20% nhân viên tổng số lao động. Cụ thể, ở một số doanh nghiệp như được đánh giá chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. sau: công ty kinh doanh chế biến hàng xuất nhập khẩu Các vị trí khó tuyển dụng nhất tại các cơ sở lưu trú là 53%, công ty Thủy sản và Thương mại Thuận Phước Quản lí bộ phận lễ tân, Quản lí bộ phận buồng, Bếp 63%, công ty Cổ phần Thủy sản Đà Nẵng 67%, công ty trưởng và Quản lí bộ phận nhà hàng [4]. Ở khối lữ hành, Cổ phần Thủy sản Nhật Hoàng 48%, công ty Cổ phần khu điểm du lịch có khoảng 50-70% nhân viên ở hầu hết Thủy sản Nam Ô 48%, công ty TNHH Thương mại các chức danh đáp ứng yêu cầu công việc, khoảng 10% Tổng hợp Phước Tiến 36%, công ty TNHH Hải Thanh nhân viên được đánh giá xuất sắc. Tuy nhiên, có 25% 52%, công ty TNHH Đại Thuận 41%, công ty TNHH nhân viên được đánh giá chưa đáp ứng được yêu cầu Hải Vy 45%, công ty TNHH Sản xuất Thương mại Hải thực tế công việc. Hầu hết các đơn vị lữ hành gặp khó Dương 44%,… khăn nhất trong tuyển dụng 2 vị trí Giám đốc Xây dựng 2.2.3. Lao động phục vụ du lịch biển sản phẩm và Giám đốc Marketing và kinh doanh. Du lịch là một ngành kinh tế mang tính đa ngành, Về trình độ ngoại ngữ, có khoảng 54,2% đã qua liên vùng và xã hội hoá cao. Do vậy, sự phụ thuộc, lan đào tạo về ngoại ngữ trong tổng số lao động ngành du 45
  6. Nguyễn Thị Hương lịch của thành phố (không tính số hướng dẫn viên tự 2.2.4. Đào tạo lao động kinh tế biển do và lái xe), tuy nhiên số lao động có trình độ đại học Về đào tạo, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện về ngoại ngữ còn khá thấp: tại các khách sạn chỉ có nay có 08 trường đại học, 14 trường cao đẳng trung 11,04% lao động có trình độ đại học ngoại ngữ, nhà ương và địa phương, 07 trường trung cấp chuyên hàng - 0,48%, lữ hành - 21,19% (chủ yếu tập trung ở nghiệp; các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn nhóm hướng dẫn viên), khu điểm du lịch - chỉ có thành phố có khuynh hướng đào tạo đa cấp, 100% các 3,19%. Tuy vậy, tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo ngoại trường cao đẳng tham gia đào tạo hệ trung cấp, một số ngữ chung là 45,8% - mức này là khá cao. Đây là một tham gia đào tạo nghề. Đối với dạy nghề, hiện nay thành trở ngại lớn cho việc phát triển du lịch thành phố, cần phố có 52 cơ sở dạy nghề trong đó có 04 trường cao có biện pháp mạnh mẽ để khắc phục; vì ngoại ngữ - đẳng, 08 trường trung cấp, 16 trung tâm dạy nghề và 24 đặc biệt là ngoại ngữ chuyên ngành là yêu cầu tối quan cơ sở khác có tham gia đào tạo nghề. Đào tạo nghề của trọng và không thể thiếu trong phục vụ du lịch. Đối Đà Nẵng có thế mạnh trong các lĩnh vực kĩ thuật, vận với ngoại ngữ khác, số lượng lao động có thể sử dụng tải, chế biến, dịch vụ, du lịch, công nghiệp tàu thủy… ngoại ngữ khác ngoài tiếng Anh còn rất thấp, chỉ có Riêng trong lĩnh vực du lịch, hiện nay trên địa bàn 2,3% tổng số lao động toàn ngành (không tính số thành phố có 26 cơ sở đào tạo (CSĐT) về du lịch. Theo hướng dẫn viên tự do và lái xe), chưa đáp ứng được sự số liệu từ Sở Lao động Thương binh và Xã hội, từ năm phát triển của thị trường khách quốc tế đến với Đà 2013 đến nay, trung bình mỗi năm tổng số tuyển sinh Nẵng. Ngoài những thị trường truyền thống như Trung đầu vào ngành du lịch khoảng gần 4.500 sinh viên, số Quốc, Hàn Quốc và Nga, ngành du lịch thành phố còn lượng tốt nghiệp khoảng 3.450 sinh viên, đạt tỉ lệ 72- tìm kiếm những thị trường mới như Nhật Bản, Thái 76%. Đáng chú ý, tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp bậc cao đẳng Lan và thị trường Bắc Âu. Trong khi đó tỉ trọng lao nghề năm 2014 tăng gần gấp 2 lần so với năm 2013 và tỉ động có khả năng sử dụng tiếng Trung, tiếng Pháp, lệ sinh viên tốt nghiệp sơ cấp nghề luôn giữ ở mức cao tiếng Hàn, tiếng Nga và các thứ tiếng khác (Thái, Lào, trong 2 năm, chiếm tỉ lệ gần 60% tổng số sinh viên tốt Nhật, Đức, Ý) theo kết quả khảo sát lại rất thấp lần nghiệp ngành du lịch. Trong khi đó, tỉ lệ sinh viên tốt lượt là 1,2%; 0,4%; 0,2%; 0,2% và 0,3% [4]. nghiệp bậc đại học vẫn giữ nguyên ở mức 10% trên Bảng 3. Lao động trực tiếp làm việc tổng số sinh viên tốt nghiệp. Điều đó cho thấy, có sự chuyển dịch trong cơ cấu bậc học của sinh viên trong 2 trong lĩnh vực du lịch năm trở lại đây, đặc biệt trong năm 2014. Các học sinh (ĐVT: Người) lựa chọn bậc cao đẳng hoặc sơ cấp nghề để phù hợp với nhu cầu lao động hiện nay hơn là bậc đại học, trung cấp. Hiện nay, toàn thành phố có tổng số 71 chương trình đào tạo về du lịch đang được tổ chức tại 19 CSĐT tham gia khảo sát, không có bậc thạc sỹ. Nhìn chung, các chương trình đào tạo về du lịch chưa cập nhật và áp dụng bộ tiêu chuẩn kĩ năng nghề du lịch VTOS, bộ tiêu chuẩn kĩ năng nghề quốc gia. 73,2% giảng viên bộ môn Quản lí Khách sạn và 67,9% giảng viên bộ môn Tiếng Anh du lịch - khách sạn có bằng thạc sĩ. Trong khi đó, Nguồn: Sở Du lịch năm 2016 [4] chỉ có 6% giảng viên bộ môn Tiếng Anh và 20% giảng viên bộ môn Quản lí Khách sạn có chứng chỉ VTOS. Số lượng giảng viên trung bình của mỗi bộ môn chỉ có 3Lao động trong ngành du lịch được chia thành hai nhóm: khoảng 2-5 người. Đội ngũ giảng viên không có nhiều nhóm gián tiếp và nhóm trực tiếp. Nhóm gián tiếp bao gồm kinh nghiệm thực tế và chuyên môn và dự kiến sẽ không lãnh đạo, quản lí, các nhà nghiên cứu, giảng viên. Nhóm trực tăng nhiều trong vòng 05 năm tới [4]. tiếp bao gồm: lễ tân, phục vụ buồng, bàn, đại lí lữ hành, hướng dẫn viên du lịch… những người trực tiếp tiếp xúc với khách Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, nguồn nhân hàng. lực phục vụ cho kinh tế biển của Đà Nẵng chủ yếu được 46
  7. ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 41-48 đào tạo từ 3 đại học lớn trong khu vực là Đại học Đà kinh tế biển là vấn đề hết sức quan trọng đối với Đà Nẵng (ĐHĐN), Đại học Huế và Đại học Nha Trang. Nẵng. Trong thời gian tới, thành phố cần thực hiện tốt Riêng địa bàn thành phố có Đại học Đà Nẵng là một đại những nội dung chủ yếu sau: học vùng trọng điểm quốc gia, đa ngành, đa cấp và đóng Thứ nhất, xây dựng và thực hiện các chương trình vai trò trọng yếu trong đào tạo đội ngũ nhân lực và đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức các nghiên cứu khoa học phục vụ cho sự nghiệp phát triển cấp, sớm xây dựng một đội ngũ cán bộ viên chức có kinh tế - xã hội ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói trình độ và năng lực cao để đáp ứng yêu cầu phát triển riêng và cho cả nước nói chung. Liên quan đến nguồn của khu vực ven biển trong bối cảnh hợp tác và hội lực phục vụ phát triển kinh tế biển, Đại học Đà Nẵng đã nhập. Chú trọng đào tạo các cán bộ giỏi trong đàm phán chủ động mở ngành và tăng quy mô đào tạo cho một số về hợp tác kinh tế thương mại song phương và đa ngành nghề quan trọng. Mỗi năm, số lượng sinh viên tốt phương, cũng như các cán bộ quản lí chuyên ngành, các nghiệp từ các chuyên ngành này khoảng 6.000 kĩ sư/ cử doanh nhân và lao động kĩ thuật cao để kịp thời nắm bắt nhân, hàng chục tiến sĩ và hàng trăm thạc sĩ. Đây là những kĩ thuật - công nghệ tiên tiến, hiện đại. nguồn nhân lực quan trọng góp phần vào phát triển kinh Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, dạy tế - xã hội của các tỉnh miền Trung nói riêng và của cả nghề cả chính quy, tại chức, ngắn hạn và dài hạn; trong nước nói chung. đó, tập trung vào các ngành nghề có lợi thế trong vành Đặc biệt, Đại học Đà Nẵng đã phối hợp với các đai kinh tế như: đóng tàu, cơ khí chế tạo, hàng hải (cả trường đại học của Cộng hòa Pháp (Đại học Toulon de thuyền trưởng, thợ máy và thủy thủ), du lịch, khai thác Var, Đại học Paris VI, Viện Công nghệ Dầu và Khí và nuôi trồng thủy sản… Mở rộng dạy nghề, truyền Paris) để mở chuyên ngành Công nghệ lọc và hóa dầu. nghề bằng nhiều hình thức thích hợp. Khuyến khích các Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành này, số lượng sinh doanh nghiệp lớn trên địa bàn tham gia dạy nghề cho viên hiện nay là nguồn lao động đóng vai trò chủ lực lực lượng lao động của các địa phương trong vành đai tại Nhà máy lọc và hóa dầu Dung Quất (Quảng Ngãi), kinh tế và hỗ trợ cho công tác giáo dục và đào tạo của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam. Đồng thời, Đại các địa phương. học Đà Nẵng là nơi đầu tiên ở Việt Nam đào tạo thạc Thứ ba, tập trung đào tạo, cải thiện kĩ năng cho lao sĩ chuyên ngành Logistics khi hợp tác với Đại học động trong lĩnh vực kinh tế biển, cấp kinh phí mở các Liege của Vương quốc Bỉ (bằng thạc sĩ do Đại học khóa tập huấn, đào tạo ngắn hạn nhằm nâng cao về Liege cấp). Số lượng học viên này đang phát huy hiệu chuyên môn, nghiệp vụ và cập nhật thông tin về lĩnh quả năng lực chuyên môn tại các công ty cảng biển, vực đang hoạt động; quy định nghiêm ngặt về cấp công ty kho vận tại miền Trung và cả nước. Ngoài ra, chứng chỉ hành nghề; tăng cường các hình thức đào tạo Đại học Đà Nẵng cũng đã mạnh dạn mở các chuyên vừa học vừa làm; thực hiện các hình thức đào tạo ngắn ngành đào tạo mới, như Công trình thủy, Phát triển hạn phù hợp với trình độ, tập quán của lao động nghề nguồn nước, Sinh thái học… đáp ứng kịp thời nhu cầu cá, phấn đấu mọi lao động nghề cá đều được huấn nguồn nhân lực cho đất nước [4]. luyện, đào tạo về tay nghề, có khả năng đáp ứng yêu cầu 2.3. Một số giải pháp chủ yếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và yêu Nguồn nhân lực luôn luôn là yếu tố quyết định, cầu của thị trường xuất khẩu lao động. thúc đẩy sự phát triển và tác động đến toàn bộ nền kinh Thứ tư, liên kết, phối hợp với các viện, trường đại tế nói chung và kinh tế biển nói riêng. học để mở rộng, đa dạng hóa các lĩnh vực đào tạo về Hiện nay, Đà Nẵng có lực lượng lao động vùng ven kinh tế biển, mở rộng ngành nghề, quy mô đào tạo các biển rất dồi dào nhưng việc sử dụng lực lượng lao động ngành trọng điểm như: kinh tế vận tải biển, công nghiệp này của thành phố chưa hiệu quả. Mặt khác, thành phố tàu biển, nuôi trồng thủy sản, quản lí môi trường, bệnh hiện đang thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cho các học thủy sản, chế biến thủy sản, v.v. nhằm đào tạo đội ngành trong kinh tế thành phố nói chung và kinh tế biển ngũ cán bộ nghiên cứu, cán bộ kĩ thuật phục vụ cho phát ở thành phố nói riêng. Vì vậy, vấn đề đào tạo và phát triển kinh tế biển để có nhân lực thay thế cho đội ngũ triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội và lao động “tay ngang” của ngành hiện nay. 47
  8. Nguyễn Thị Hương Thứ năm, tăng cường phối hợp, liên kết với các và đảm bảo về số lượng phục vụ cho các ngành kinh tế trường đại học để tập huấn, hội thảo chuyên đề, đa dạng biển trên địa bàn thành phố. hóa các loại hình đào tạo để nâng cao tay nghề cho người lao động, kết hợp đào tạo tay nghề cho người lao động. Tài liệu tham khảo Thứ sáu, phối hợp với các tổ chức trong và ngoài [1] Phạm Văn Quang (2017), “Phát triển nguồn nhân nước hình thành các trung tâm, các trường đại học, cao lực kinh tế biển đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đẳng, trung cấp đào tạo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn ở tỉnh kiên giang hiện nay”, Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, số 3. liên quan đến dịch vụ, xu hướng phát triển mới dịch vụ, [2] Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng (2007), kĩ năng quản lí doanh nghiệp, dự án, ngoại ngữ, khai Quyết định số 9763/QĐ-UBND về việc ban hành thác tài nguyên… và hỗ trợ cho nhiều doanh nghiệp Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của dịch vụ địa phương tham gia. Thành ủy Đà Nẵng về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Đà Nẵng. 3. Kết luận [3] Viện Chiến lược Phát triển - Bộ Kế hoạch Đầu tư (2001), Tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu Quy Nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển luôn đóng vai hoạch Kinh tế - Xã hội dải ven biển miền Trung, trò trung tâm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội. Đà Nẵng. Do đó, phát triển nguồn nhân lực có chất [4] Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà lượng phục vụ kinh tế biển là hết sức cần thiết hiện nay Nẵng (2016), Dự thảo Báo cáo nghiên cứu đề án đối với thành phố. Trong thời gian qua, Đà Nẵng đã có Phát triển ngành kinh tế biển thành phố Đà Nẵng nhiều quan tâm đến công tác phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, Đà Nẵng. [5] http://ajc.hcma.vn/Gioi-thieu-Tap-chi-Ly-luan- phục vụ kinh tế biển. Tuy nhiên, hiện nay, số lượng, cơ Chinh-tri-va-Truyen-thong/ThS-Nguyen-Van- cấu, chất lượng nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển của Bay-Vai-tro-cua-nguon-nhan-luc-doi-voi-phat- thành phố vẫn còn nhiều hạn chế, công tác đào tạo trien-kinh-te-xa-hoi/19492.ajc nguồn nhân lực kinh tế biển gặp nhiều khó khăn. Vì [6] www.cucthongke.danang.gov.vn vậy, trong thời gian sắp tới, Đà Nẵng cần phải tích cực [7] www.danang.gov.vn tận dụng những điều kiện thuận lợi, khắc phục những [8] www.danangportvn.com khó khăn, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khả thi nhằm phát triển hiệu quả nguồn nhân lực có chất lượng HUMAN RESOURCES FOR MARINE ECONOMIC DEVELOPMENT IN DA NANG CITY Abstract: Danang is the largest port city in Central Vietnam, with much potential and favourable conditions for the overall development of its marine economy. Among them, human resources have always been regarded as an important drive, a key issue, a basic element in Da Nang’s socio-economic development strategy in general and marine economy in particular. However, Da Nang’s marine economy is facing the risk of human resources shortage in both quantity and quality. This article presents the necessity of developing human resources for the marine economy of Da Nang, thereby evalutating the status quo of human resources and training of human resources for the city’s marine economy over the past time and proposes some feasible solutions to the development of quality human resources for the marine economy of Da Nang city. Key words: human resources; marine economy; Da Nang; training; development. 48
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2