LUẬN VĂN:
Nhà ở cho sinh viên – thực trạng và giải pháp
1
Lời mở đầu
Từ trước đến nay, sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ luôn luôn nhận được sự quan
tâm sâu sắc của Đảng, nhà nước và toàn thể xã hội. Đặc biệt là từ sau khi đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam, đại hội khẳng định: “Cùng
với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao
dân trí , đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” thì giáo dục ngày càng được chú ý hơn.
Trong nhiều năm gần đây, mức độ đầu tư cho giáo dục không ngừng tăng lên, đặc biệt
là mức đầu tư cho đào tạo trình độ đại học, cao đẳng. Nếu như năm 2004 tỉ lệ chi cho
giáo dục chiếm 17.1% ngân sách nhà nước thì đến năm 2010 dự kiến sẽ là 20% tổng
ngân sách nhà nước. Điều này đồng nghĩa với việc tăng lên số lượng các trường đại
học , cao đẳng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho giảng dạy sẽ được củng cố nhằm
đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của sinh viên.
Song đi kèm với sự tăng nhanh về số lượng các trường đại học , cao đẳng thì số
lượng sinh viên cũng sẽ gia tăng. Điều đó sẽ kéo theo rất nhiều vấn đề bức thiết, trong
đó vấn đề nhà ở cho sinh viên là một vấn đề nổi cộm. Hiện nay tính riêng ở Hà Nội, số
lượng các trường đại học, cao đẳng là 53 trường. Như vậy, hàng năm Hà Nội sẽ phải
tiếp nhận khoảng 65000 sinh viên chưa kể các hệ tại chức, học nghề. Trong 65000 sinh
viên đó thì số sinh viên ở Hà Nội chỉ chiếm 1/5-> 1/7 (dựa theo điều tra tỉ lệ sinh viên
có hộ khẩu Hà Nội trong một số lớp ở một số trường) vậy là 4/5 số sinh viên còn lại sẽ
có nhu cầu về chỗ ở. Những sinh này sẽ ở đâu trong suốt thời gian theo học ở Hà Nội?
ở kí túc xá hay thuê ngoài? Một thực tế cho thấy số chỗ ở trong kí túc xá rất hạn hẹp,
chỉ có thể đáp ứng được 20% nhu cầu chỗ ở của sinh viên. Hơn nữa, chất lượng các
khu kí túc xá cũng không được cao, không đủ điều kiện để đảm bảo cho sinh viên ở và
học tập tốt. Mặt khác, ta cũng thấy một thực trạng là phần lớn các trường đại học, cao
đẳng tập trung ở những khu đô thị, một khu vực vốn đã rất đông, rất nhiều thành phần
và nhiều tầng lớp khác nhau, họ từ nơi khác chuyển đến, từ nông thôn chuyển ra… Do
đó, tại những nơi này nhà ở không những thiếu về số lượng mà chất lượng cũng không
được đảm bảo.
Qua phân tích ở trên ta có thể thấy rõ một điều: việc tìm kiếm nhà ở của sinh
2
viên là một vấn đề khó khăn và đầy bức xúc. Và thực tế này đòi hỏi Đảng, nhà nước,
xã hội cần quan tâm hơn nữa trong việc hỗ trợ sinh viên về chỗ ở nhằm đảm bảo cho
việc học tập của sinh viên được thuận lợi. Qua đó nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo tại Việt Nam.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng em đã chọn đề tài: “Nhà ở cho sinh
viên –thực trạng và giải pháp”. Trong đề tài của mình, chúng em tập trung làm rõ
một số vấn đề sau:
Nhà ở và các vấn đề liên quan đến nhà ở Hà Nội hiện nay. 1.
3
Thực trạng cuộc sống sinh viên thuê nhà bên ngoài và ở trong túc xá . 2.
Chương I
Những vấn đề chung
I. Quan niệm về nhà ở và xu hướng thiết kế nhà ở
Cùng với sự phát triển của xã hội, trong lĩnh vực nhà ở cũng có sự thay đổi khá
mạnh mẽ không chỉ về số lượng và chất lượng mà còn biến đổi cả về khái niệm nhà ở.
Những nhu cầu và chất lượng mới nảy sinh từ thực tế do hội nhập và giao lưu quốc tế
vốn là một yếu tố quan trọng làm thay đổi những nhận thức về nhà ở.
Trước đây ở nước ta trong thời kỳ bao cấp khái niệm tiêu chuẩn diện tích ở trên
đầu người luôn luôn là nỗi ám ảnh của các nhà chuyên môn trong thiết kế, quản lý và
phân phối nhà cho nhân dân. Nhưng trong thực tế, các tiêu chuẩn đó được "bao"và
được "cấp" từ trên xuống mà ít có cơ sở khoa học.
Nói chung, để thoả mãn nhu cầu và đảm bảo các điều kiện ở một cách hợp lý
hơn cho phần đông cư dân đô thị, theo các chuyên gia trong lĩnh vực nhà ở trên thế
giới thì phải có công thức cư trú tối thiểu như sau: số phòng ở bằng số người trong gia
đình hay lớn hơn một đơn vị. Xét điều kiện của nước ta hiện nay, công thức này chỉ có
thể thực hiện được nhà ở cho tầng lớp giàu có tự xây dựng bằng kinh phí riêng, còn
nhà dành cho đại bộ phận quần chúng nhân dân thì chắc chắn khó mà thoả mãn được.
Những nhu cầu về chất lượng nơi cư trú trong các khu chung cư, từ chất lượng
thiết kế, xây dựng đến chất lượng hoàn thiện, trang thiết bị trong và ngoài nhà cũng
còn nhiều vấn đề bất cập. Khi mà nhu cầu về chỗ ở còn quá lớn, người dân đành phải
chấp nhận thực tế sau: khi mua (thuê) nhà, để có thể ở thì chủ nhà phải sửa chữa nhiều,
thậm chí còn phải cải tạo lớn. Về mặt này, hiện còn một khoảng cách khá xa giữa ta
với các nước láng giềng chứ chưa nói đến việc đạt được chất lượng theo tiêu chuẩn
cao hơn.
Sự bùng nổ dân số toàn cầu, đặc biệt là trong các thành phố lớn, nhu cầu phát
triển lực lượng sản xuất trong những biến động của nền kinh tế xã hội dựa trên các
thành tựu của cách mạng KHKT - CN đang biến sự phát triển của đô thị thành một
trong những vấn đề thời sự nóng hổi nhất.
Diện tích có hạn của các đô thị là nguyên nhân ảnh hưởng đến các điều kiện
4
sống của con người: điều kiện sinh thái kém, nhà ở chật chội, thiếu chỗ vui chơi giải
trí,... Đã có một thời, bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XX, trên thế giới, đặc biệt là ở
các nước phát triển người ta xây dựng rất nhiều nhà chung cư cao tầng, đó là niềm tự
hào của các quốc gia. Nhưng sau một thời gian khai thác, người ta đã đúc kết được rất
nhiều bất cập, còn cư dân thì dần từ bỏ các loại nhà này để đi tìm chỗ ở phù hợp trong
những loại nhỏ thấp tầng hơn. Từ đó để khắc phục những bất cập nêu trên, các chuyên
gia đã và đang đưa ra những ý tưởng táo bạo về thành phố tương lai. Đó là các thành
phố treo trên không trung, trên mặt biển, thành phố dưới nước, dưới mặt đất, trong vũ
trụ....Hiện thực hơn, là thiết kế các đô thị có khả năng hạn chế những tác động xấu từ
môi trường xung quanh, trong đó con người sống trên những chung cư cao tầng giống
như được sống trong các ngôi nhà riêng có sân vườn vậy.
Trong rất nhiều dự án nhà ở cao tầng tương lai, các nhà thiết kế chú ý nhiều đến
khả năng thay đổi các trang thiết bị kỹ thuật. Đây là một hướng đi hiện thực hơn, hợp
với mọi điều kiện và trình độ phát triển của xã hội. Nhưng có một vấn đề luôn luôn
thời sự mà các nhà thiết kế phải để ý đến. Đó là sự biến động về nhu cầu và điều kiện
ở của bất kỳ một gia đình nào. Nghĩa là những nhu cầu biến đổi không gian trong căn
hộ cả về lượng và chất theo thời gian. Về mặt lượng - yếu tố vật thể thì căn hộ có thể
được mở rộng ra hay thu hẹp lại theo nhu cầu về không gian trong các chu trình sống
của từng gia đình cụ thể. Sự thay đổi về lượng trong căn hộ có thể được thể hiện bằng
cách mua hay nhượng một phần không gian của các căn hộ liền kề. Còn về mặt chất -
yếu tố phi vật thể thì luôn luôn có nhu cầu tăng lên, không phụ thuộc vào những thay
đổi trong các chu trình sống của gia đình. Như một quy luật, hao mòn phi vật thễ xảy
ra nhanh hơn nhiều so với hao mòn vật thể, do đó các nghiên cứu trên đây đều xuất
phát từ quan niệm đơn giản này. Trong xã hội phát triển, nếu gia đình nào đó không ưa
thích căn hộ mà mình đang sống nữa thì có thể thay bằng một căn hộ khác hợp với sở
thích và nhu cầu của mình hơn.
Từ xa xưa, tiêu chí hàng đầu về chất lượng nhà ở được các nhà chuyên môn và
cư dân của bất kỳ xã hội nào đều cho là độ bền vững và tính ổn định. Nhưng ngày nay
và cả trong tương lai, tiêu chí về chất lượng nhà ở mà mọi người quan tâm nhiều hơn
là tính chất linh hoạt và di động của các loại không gian và hình khối nhà ở.
Để không gây ra ô nhiễm thêm cho môi trường và tiết kiệm các nguồn tài
5
nguyên cũng như tận dụng các nguồn năng lượng vô tận trong thiên nhiên, con người
đã tích cực khai thác những tiềm năng của các nguồn năng lượng tái tạo như nước, gió,
ánh sáng, năng lượng địa nhiệt,... Xu hướng thiết kế trong cải tạo hoặc xây dựng mới
cũng như vận hành mọi thể loại công trình phục vụ cho quốc kế dân sinh (trong đó có
nhà ở) luôn luôn nổi lên vấn đề là làm sao giảm thiểu được việc sử dụng tài nguyên
thiên nhiên, tận dụng các tiềm năng của thiên nhiên, hạn chế chất thải ra môi trường,
bảo tồn và tôn tạo khả năng sinh thái của môi trường.... nhằm cải thiện và nâng cao các
điều kiện sinh sống và lao động của con người. Hay nói cách khác đây là xu hướng
sinh thái trong kiến trúc và xây dựng với mục đích chính để các đô thị phát triển cân
bằng, ổn định. Dựa trên nhiều yếu tố khác nhau như: phân vùng sinh thái để chọn địa
điểm và định hướng xây dựng cho các chức năng khác nhau của đô thị, quản lý các
quá trình thiết kế, sản xuất vật liệu, công nghệ thi công và khai thác các công trình xây
dựng theo quan điểm sinh thái....
Trong lĩch vực nhà ở, các chuyên gia trên thế giới đang đẩy mạnh nghiên cứu
và ứng dụng những tiềm năng của năng lượng gió, nước, ánh sáng, địa nhiệt...như vừa
nói trên, đặc biệt là việc khai thác năng lượng mặt trời. Đây là một trong những tiềm
năng cơ bản để bù đắp cho nguồn điện năng mà không cần khai thác các tài nguyên
thiên nhiên và giá thành đầu tư không cao, nhưng quan trọng hơn là không gây ô
nhiễm môi trường thiên nhiên.
II. Những vấn đề liên quan đến nhà ở Hà Nội hiện nay:
1. Quỹ đất cho xây dựng và phát triển nhà ở:
Thành phố Hà Nội có tổng diện tích tự nhiên là 92097 ha, xếp thứ 58 trong 61
tỉnh thành cả nước. Hiện tại 89% diện tích tự nhiên của thành phố tương ứng 81962 ha
đã được đưa vào sử dụng, còn lại 10135 ha tương ứng với 11% tổng diện tích tự nhiên
đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá trong đó có 1051 ha đất bằng và 1700 ha đất đồi
núi có thể khai thác, sử dụng cho các mục đích kinh tế-xã hội nói chung và sản xuất
nông lâm nghiệp nói riêng.
Hiện thủ đô Hà Nội có 7 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành. Diện tích đất
6
nội thành là 8430 ha. Bình quân đất đô thị trong nội thành theo đầu người chưa tới 60 m2 và phân bố không đều trong các quận. Quận có mật độ dân cư cao như quận Hoàn
Kiếm chỉ bình quân khoảng 25 m2/ người. Trong khi đó, ở tất cả các quận nội thành
vẫn đang có xu hướng tăng mật độ dân cư. Những xu hướng đó dẫn tới nhu cầu sử
dụng đất xây dựng đô thị ngày càng lớn, do đó phải chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất.
Theo quyết định 1447/QĐ-TTg ngày 9/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thành phố Hà Nội đến năm 2010 thì đất nông nghiệp
là 33446 ha, giảm 13166 ha so với năm 2000; đất chuyên dùng là 29770 ha, tăng 9246
ha; đất ở nông thôn là 7909 ha, giảm 908 ha; đất ở đô thị là 5875 ha, tăng 3003 ha.
Như vậy, theo quy hoạch sử dụng đất thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2010 thì quỹ
đất cho xây dựng và phát triển nhà ở sẽ tăng lên, đây là cơ sở để phát triển thị trường
nhà ở một cách hợp lý, đáp ứng nhu cầu về chỗ ở cho mọi thành phần, tầng lớp dân cư.
2. Quỹ nhà ở Hà Nội và thực trạng:
Theo Sở địa chính _nhà đất, Hà Nội hiện có quỹ nhà khoảng 12 triệu m2
(450000 căn hộ) chiếm 15% quỹ nhà ở cả nước. Trong đó, thuộc sở hữu nhà nước khoảng 4.5 triệu m2, chủ yếu là nhà tại các khu chung cư cũ được xây dựng trong các
giai đoạn 1960-1970, 1970-1980, 1980-1990. Sau 9 năm thực hiện bán nhà theo Nghị định 61/CP, năm 2003 quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước còn lại là 3542155 m2(123237
căn hộ) với hình thái quản lý: ngành tài nguyên môi trường và nhà đất cho thuê gần 1648587 m2(62150 hợp đồng thuê), các cơ quan tự quản 1893568 m2(61087 căn hộ).
Khoảng 80% quỹ nhà là nhà thấp tầng (1-3 tầng), 20% là nhà chung cư nhiều tầng với 434 nhà (920195 m2 sàn xây dựng, 27573 hộ với 137361 nhân khẩu), trong đó nhà lắp ghép chiếm hơn 600000 m2 sàn của 206 nhà lắp ghép tấm lớn. Hiện nay trong bối cảnh
chuyển đổi kinh tế theo hướng thị trường, nhiều khó khăn lớn không kiểm soát được
xuất hiện làm cho các khu nhà ở nhất là các khu chung cư xuống cấp nghiêm trọng từ
kiến trúc căn hộ đến quy hoạch không gian, chất lượng môi trường và dịch vụ công
cộng. Kết quả là làm biến dạng hình thái quy hoạch, kiến trúc của khu chung cư cũ và
ảnh hưởng trực tiếp đến tổng thể cảnh quan kiến trúc đô thị Hà Nội. Năm 1998, nhằm
giải quyết một cách cơ bản chính sách nhà ở của Hà Nội, nhất là người có thu nhập
thấp, người nghèo và cải thiện một bước điều kiện ở của nhân dân, góp phần xây dựng
thủ đô văn minh, hiện đại, thành uỷ Hà Nội đã đề ra chương trình phát triển nhà ở đến
năm 2000 và 2010, (Chương trình số 12 CTr/TU, ngày 25/5.1998). Chương trình này
7
đã mở rộng biên độ thực hiện chính sách nhà ở ra xã hội với 5 mục tiêu chiến lược:
+ Phục hồi tôn tạo nhà ở trong khu phố cổ.
+ Chỉnh trang nhà ở trong khu phố cũ.
+ Cải tạo, nâng cấp các khu nhà ở tập thể.
+ Xây dựng thêm nhà chung cư cao tầng hiện đại.
+ Xoá bỏ các khu nhà ở ổ chuột trong nội thành và ven nội.
Nếu thực hiện được đầy đủ các mục tiêu chiến lược nêu trên thì thị trường nhà
ở Hà Nội có nguồn lực dồi dào, điều kiện ở của người dân được cải thiện, thị trường
nhà ở đa dạng, với nhiều loại sản phẩm phong phú như: nhà cho thuê giá cao và giá
thấp, nhà mua bán trả góp nhà mua bán giá thấp và giá rẻ, nhà mua bán giá cao,...
Qua 6 năm thực hiện chương trình số 12, Hà Nội đã đạt đựoc nhiều thành tựu đáng kể. Chỉ trong vòng 3 năm (1998-2000) đã xây dựng được 1,32 triệu m2 nhà ở các loại (trong đó, dự án nhà nước là 40 vạn m2, chiếm 35%, tư nhân tự xây dựng là 95 vạn m2 chiếm 65%). Trung bình mỗi năm xây dựng được khoảng 45 vạn m2 nhà ở mới (riêng năm 2002 đạt 95 vạn m2), gấp 9 năm có số lượng nhà ở xây dựng cao nhất trong
thời kỳ bao cấp trước đây. Bước đầu giải quyết một phần khó khăn về nhà ở và cải
thiện điều kiện ở của nhân dân thành phố, góp phần đổi mới bộ mặt thủ đô. Về phương
diện phát triển nhà ở, Hà Nộ đã có một bước tiến dài. Song về phương diện kiến tạo thị
trường nhà ở thì Hà Nội chưa làm được bao nhiêu. Đơn cử: về mặt pháp luật, tỉ lệ thị
phần nhà ở do nhà nước kiểm soát chỉ chiếm khoảng 50-55%, còn khoảng 45-50%
chưa kiểm soát được. Về cơ cấu sản phẩm nhà ở xây dựng mới, thì loại có giá trung bình (5 triệu đồng/m2) và giá cao (6-7 triệu đồng/m2) đang chiếm thị phần lớn, còn loại
nhà ở giá thấp và giá rẻ chiế thị phần nhỏ. Thị trường nhà ở cho thuê vẫn mất cân đối
và trên thực tế, chưa có loại nhà ở cho thuê giá thấp.
Đối với những khu nhà cũ được cải tạo thì đều có những hạn chế nhất định. Bởi
vì đây là lĩnh vực khó, phức tạp do phải tác động vào hệ thống cư trú xã hội có qui mô
khá lớn (20 vạn người sống trong 30 khu chung cư cũ, chiếm gần 1000 ha đất với gần 5 triệu m2 nhà ở). Thực tế triển khai cải tạo khu chung cư cũ từ 1990 đến nay cho thấy
một số nguyên nhân: thiếu chiến lược, những điều kiện cụ thể và cả giải pháp cải tạo
đồng bộ, toàn diện và hiệu quả. Chẳng hạn về tài chính, nhà nước cấp 8-10 tỉ đồng /1
năm trong khi nhu cầu cải tạo cần là 2 nghìn tỉ và khi thực hiện xã hội hoá nhà ở thì
8
khả năng đầu tư lại đơn lẻ, cục bộ, thiếu tính tổng thể. Mặt khác, do không có quỹ nhà
tạm cư- tái định cư đã dẫn tới những giải pháp bất khả thi hoặc dự báo trong quy hoạch
kiến trúc thiếu tính hiện thực. Tình trạng của các khu chung cư cũ ngày một xấu đi và
nhu cầu của cộng đồng dân cư ngày một tăng cao, trong khi thực tiễn cải tạo vẫn chưa
được cải thiện cơ bản và tiềm năng đất đai khu vực trung tâm đô thị vẫn còn "ngủ
yên". Thêm vào đó là sự đa dạng về chủng loại cũng như mức độ tiện nghi của thị
trường nhà ở đã gây áp lực rất lớn cho công tác quản lí và làm lộn xộn thêm hình ảnh
của đô thị vốn dĩ đã rất chắp vá cũng như áp lực trong việc giải quyết nhu cầu nhà ở
của các tầng lớp dân cư.
3. Nhà ở cho người có thu nhập thấp:
Những năm gần đây, nhà nước rất quan tâm đến việc xây dựng nhà ở trong đó
có nhà dành cho người có thu nhập thấp. Nói đến thu nhập thấp chúng ta hay nghĩ đó
là một số ít người trong xã hội nhưng thực tế lại chứng minh ngược lại và số lượng
người nghèo lại thường tập trung ở những thành phố lớn vì nơi này mật độ dân cư khá
cao. Những người này không có đủ điều kiện để đầu tư xây dựng mới nhà ở do đó nên
nhu cầu về nhà ở cho thuê và cải tạo nâng cấp nhà ở tại đây là rất cao. Theo số liệu
diều tra mới đây, số lựơng gia đình người có thu nhập thấp và người nghèo sống trong
khu vực nội thành Hà Nội có nhu cầu giải quyết vấn đề nhà ở ước tính 15 vạn hộ,
trong đó số lượng gia đình chưa có chỗ ở cần giải quyết nhà ở ước tính 6 vạn hộ (
chiếm 40%), số lượng gia đình mong muốn được thuê nhà ở ước tính 4,3 vạn hộ
(chiếm 31%) trong đó có khoảng 4,7 vạn hộ ở nhà chung cư. Thêm vào đó, theo dự
báo thì trong giai đoạn 2006-2010 tỉ lệ hộ nghèo tại Hà Nội tăng 4,6%. Như vậy nhu
cầu về nhà ở cho người có thu nhập thấp và người nghèo ngày càng tăng. Từ thực tế
đó thấy rằng việc phát triển thị trường nhà cho thuê là tất yếu để góp phần giải quyết
nhà ở cho những người có thu nhập thấp.
Ngày 6- 5- 2004 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 76/2004/QĐTG về việc
định hướng phát triển nhà ở đến năm 2020. Quyết định này chỉ rõ "thúc đẩy phát triển
quỹ nhà ở dành cho người có thu nhập thấp (bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động tại các khu công nghiệp, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và các đối tượng chính sách khác) mua hoặc thuê phù hợp với từng
đối tượng cụ thể...Từng bước đổi mới chính sách pháp luật về nhà ở phù hợp với
9
đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đóng
vai trò chủ đạo trong việc hình thành thị trường bất động sản, nhà ở đồng thời có chính
sách hỗ trợ thích hợp để các tầng lớp dân cư có điều kiện cải thiện chỗ ở". Thực hiện
quyết định đó nhà ở dành cho người có thu nhập thấp đã có bước biến đổi tích cực.
Thế nhưng trong thị trường nhà ở vẫn tồn tại sự mất cân đối giữa xu hướng đầu tư xây
dựng nhà ở để bán và nhà ở để cho thuê. Ngay trong bản thân thị trường nhà ở cho
thuê cũng có sự mất cân đối giữa nhà ở chất lượng thấp ( chiếm 70% quỹ đất đô thị )
và nhà ở chất lượng cao (chiếm 30% quỹ đất đô thị). Cụ thể hiện nay Hà Nội có gần
10 dự án xây dựng căn hộ và văn phòng cho thuê loại cao cấp. Theo nhận xét của các
chuyên gia bất động sản, tiềm năng thị trường nhà cao cấp cho thuê là rất lớn vì Việt
Nam đang có mức độ tăng trưởng cao nhất, nhì châu á. Mỗi năm dòng kiều hối đổ về
trong nước đạt gần 3 tỉ USD đòi hỏi thị trường cung cấp nhà ở chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng. Trong kế hoạch 5 năm tới, diện tích văn phòng cho thuê có thể được đưa vào thị trường là 190000 m2. Thế nhưng đến thời điểm, dự án xây dựng
nhà ở cho thuê dành cho người có thu nhập thấp, thu nhập trung bình chỉ đếm trên đầu
ngón tay ví dụ: dự án thí điểm làng sinh viên Hacinco chủ yếu cho sinh viên thuê hay
dự án nhà ở cho thuê tại Láng Hạ (Thanh Xuân). Trong khi đó nhu cầu về nhà ở cho
thuê như phân tích ở trên lại ngày càng tăng. Vì thế cần thiết phải đầu tư hơn nữa cho
việc phát triển cân đối , đồng đều thị trường nhà ở cho thuê để đáp ứng nhu cầu nhà ở
cho mọi tầng lớp dân cư và phát triển bền vững đô thị.
Chương II
Nhu cầu và Thực trạng nhà ở sinh viên
I. Nhu cầu và khả năng đáp ứng nhà ở cho sinh viên nước ta hiện nay
1. Nhu cầu nhà ở của sinh viên
Theo số liệu thống kê, hàng năm nước ta có khoảng hơn 400.000 sinh viên nhập
học. Những sinh viên này bắt đầu rời gia đình để đi học, họ cần có nơi tạm trú để tiện
10
cho đi lại, học tập và nghiên cứu.
Hiện những khu ký túc xá của các trường ở các thành phố lớn đều chỉ mới đáp
ứng được một phần nhỏ nhu cầu về chỗ ở của sinh viên từ tỉnh lẻ lên trọ học. Do đó
việc tìm cho được một chỗ ở có thể giúp các sinh viên yên tâm học hành là nan đề lớn
cho nhiều bạn, đặc biệt là những thành phần nghèo, con nhà có thu nhập thấp, và
không có người thân ở Thành phố.
Những sinh viên tỉnh lẻ ở quê lên thành phố trọ học, họ ăn ở ra sao? Ước muốn
những gì? Phía quản lý KTX và chủ các nhà trọ có ý kiến như thế nào? Đó là những
câu hỏi còn làm cho rất nhiều người phải đau đầu.
Niềm vui chưa trọn:
Ngay sau khi đậu đại học, niềm vui của những tân sinh viên tỉnh lẻ cũng như
những thành viên trong gia đình chưa kịp thăng hoa thì họ đã phải lo làm sao cho có
được một nơi để con em mình sống suốt mấy năm theo học trong trường đại học.
Cung và cầu về ký túc xá hiện nay rất cách biệt, cung thường thấp hơn cầu rất
nhiều. Bởi vậy việc tìm một nơi ăn ở cho sinh viên trở thành nỗi lo chính không chỉ
của riêng sĩ tử nào (của rất nhiều bạn) vào mùa nhập học.
Do khả năng đáp ứng phòng cho sinh viên của Ký túc xá các trường có hạn nên
bao giờ cũng vậy, để có thể đăng ký vào ở trong Ký túc xá, sinh viên phải có đủ một
số điều kiện sau: là người ngoại tỉnh, thuộc diện chính sách, con nhà nghèo học giỏi...
Hiện nay, ở nước ta hầu như chỉ có các trường công lập mới có ký túc xá cho
sinh viên, còn một số trường dân lập mở ra nhưng không có ký túc xá cho sinh viên
của trường mình. Vì vậy, nhu cầu về nhà ở của sinh viên đang rất cao.
Đây là thực trạng cần được quan tâm và có hướng giải quyết, khắc phục. Theo
thống kê thực tế hiện nay, Hà nội có trên 300.000 sinh viên có nhu cầu về chỗ ở vẫn
chưa được đáp ứng.
* Cung thấp hơn cầu:
- Tại TP. Hồ Chí Minh, thống kê năm nay cho thấy trong tổng số 350.000 sinh
viên, có chừng 200.000 sinh viên hiện đang cần phòng ở để học tập. Thế nhưng tính
gộp số phòng của các dự án Ký túc xá đang xây dựng tại thành phố cũng chỉ đáp ứng
được chừng 60.000 chỗ ở cho sinh viên (đáp ứng được 30%).
- TP. Đà Nẵng nơi có 35.000 sinh viên cũng chỉ có chừng 10% sinh viên được
11
vào ký túc xá, số còn lại phải tự đi tìm nhà ở bên ngoài.
- ở Đà Lạt nơi có 13.000 sinh viên đang theo học tại Đại học Đà Lạt thì Kỹ túc
xá của trường cũng chỉ đáp ứng được chỗ ở cho 780 sinh viên.
"An cư, lạc nghiệp" là câu nói dân gian thường dùng để nói về sự ổn định nơi ăn
chốn ở. Đối với sinh viên, tương lai của đất nước thì việc có được một nơi khả dĩ đàng
hoàng để ăn học là điều kiện tiên quyết giúp các bạn có thể hoàn tất việc học hành.
* Thuê nhà trọ
Thế là do nhiều lý do: Không vào được ký túc xá, hay khi vào ký túc xá sẽ có
một số qui định trở ngại đến những sinh viên phải kiếm việc làm thêm ngoài giờ nhằm
trang trải bớt phí tổn cuộc sống; nên đa số sinh viên phải thuê nhà trọ bên ngoài. Có
tiền thì có thể thuê được nơi vừa ý, gần trường tiện đi lại, học tập và ngược lại ít tiền
phải chịu những điều kiện khắc nghiệt hơn như đi lại xa, chật chội, điều kiện sống
không thuận lợi...
Tuy vậy, nhiều khi có tiền vẫn không tìm được nơi ở vừa ý.
Một câu hỏi được đặt ra là: Thuê nhà trọ có hoàn toàn thuận tiện cho sinh viên
không?
Nhiều tân sinh viên lúc đang lóng ngóng tìm nơi để thuê trọ thì gặp phải cò mồi.
Đội ngũ này thường là những người lái xe ôm thiếu lương thiện, chúng rình rập và lừa
những sinh viên mới lên học còn chưa biết nhiều. Nhiệm vụ chính của họ là ra vẻ rất
thông cảm với nỗi khổ của sinh viên khi phải đi tìm nhà trọ, và cực kỳ thông cảm mới
giới thiệu với nhà người quen hoặc địa chỉ mà mình biết đang có nhu cầu cho sinh viên
thuê nhà trọ. Thật đúng là "đã nghèo còn gặp cái eo".
Không được ở Ký túc xá (KTX), sinh viên phải thuê nhà trọ. Tìm được nhà trọ
đã khó nhưng việc ở còn khó hơn. Nhà trọ cho sinh viên hiện nay hầu như đều do
người dân có đất ở thành phố thấy được cầu của thị trường đã xây lên những khu trọ
để cho sinh viên thuê. Những khu trọ này thường nằm trong ngõ ngách với diện tích
chật chội, thiếu thốn điện nước. Vẫn còn có những khu nhà ổ chuột, những phòng trọ
do lắp ghép bằng những miếng gỗ hay những vật liệu thải ra được tận dụng lại,...
Môi trường học tập thì bị ảnh hưởng bởi những tiếng ồn, khí thải của các nhà
máy công nghiệp. Phương tiện đi lại chưa thuận tiện do đường phố đông đúc, thiếu
12
thốn xe cộ...
Các khu trọ cách xa nhau và xa trường nên sinh viên ít có điều kiện gặp gỡ, trao
đổi, giao lưu học hỏi lẫn nhau, ít quan hệ, khó trau dồi kiến thức, việc tra cứu tìm tòi,
tự học trên thư viện là rất ít.
* Giá nhà trọ tăng cao:
Vào đầu năm học mới này, chỉ riêng ở thành phố Đà Lạt giá nhà trọ dành cho
sinh viên đồng loạt tăng ở mức dao động từ 15% đến 30%, tuỳ theo địa điểm và chất
lượng phòng. Trong quá trình thuê, giá cả thị trường lên xuống thất thường cũng khiến
chủ nhà tăng giá. Với túi tiền của sinh viên thì việc tăng giá nhà ảnh hưởng rất lớn đến
cuộc sống của sinh viên, nhưng việc tìm một nhà trọ thay thế lại là một việc hết sức
khó khăn. Vậy sinh viên sẽ phải ở đâu cho thuận tiện?
Đây chính là cơ hội kinh doanh cho các chủ đầu tư đầu tư vào dự án xây dựng
nhà cho sinh viên, đáp ứng nhu cầu bức thiết của sinh viên_thế hệ trẻ tương lai, những
con người cần có môi trường tốt để học tập và tu luyện bản thân.
2. Khả năng đáp ứng của trị trường
Trước cầu thị trường đã xuất hiện cung, thế nhưng cung hiện nay vẫn thấp hơn
rất nhiều so với cầu.
Ngoài các khu KTX của các trường Đại học, Cao đẳng - người dân thành phố đã
biết tận dụng nguồn đất của mình để xây dựng nên các phòng trọ cho sinh viên thuê. Những căn phòng chỉ vẻn vẹn 8 -10m2 nhiều khi có đến 03 sinh viên thuê ở chung một
phòng.
Khả năng đáp ứng nhà ở cho sinh viên ở các tỉnh thành:
+ Tỉnh Nghệ An: nhà trọ gần Trường Đại học Vinh - Trường Thi - Thành phố
Vinh, 3708 - Yên Thành... với giá cho thuê 120.000 -200.000đ/phòng
+ TP. Hồ Chí Minh: địa chỉ Cống Quỳnh - Nguyễn Cư Trình - 801 Quận 1,
Phường 11 Quận 10 - 807 - Quận 10; Cách mạng tháng 8 - 15 - 807 - Quận 10; 811 -
Bình Thạnh, Tôn Đức Thắng - 801 - Quận 1; Huỳnh Văn Chinh - Quận 11 - 808 -
Quận 11; Nguyễn thị Tần - Phường 2 - 806 - Quận 8... với giá 120.000 -
500.000đ/phòng.
+ TP. Hà Nội: địa chỉ cho thuê nhà trọ Khương Trung 405, Đống Đa; Khu
13
đường Láng - Yên Hoà - 406 - Cầu Giấy; Liễu Giai; Lạc Long Quân - Nghĩa Đô; Cầu
Diễn, Trương Định, Thanh Xuân, Mai Động, Vĩnh Tuy, Kim Liên, Tây Sơn... với giá
200.000 - 1.000.000đ/Phòng.
Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, hiện nay hệ thống KTX dành
cho sinh viên mới chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu về chỗ ở của sinh viên. Như
vậy, còn 70% số sinh viên kém may mắn không được ở trong KTX đành phải tự lo lấy
chỗ ở.
II. Thực trạng nhà ở sinh viên
1. Thực trạng phòng ở Kí túc xá:
a. Những thuận lợi khi ở Kí túc xá:
Đỗ đại học là niềm hạnh phúc không chỉ của riêng các tân sinh viên mà của cả
gia đình họ. Nhưng đằng sau sự vui sướng đó là bao nỗi lo lắng, bao khó khăn mà mọi
sinh viên phai đương đầu nhất là đối với những sinh viên tỉnh lẻ. Từ những miền quê
xa xôi đến Hà Nội, đến các thành phố lớn để học tập, khó khăn đầu tiên sinh viên gặp
phải đó là chỗ ở. Dân gian có câu “an cư mới lạc nghiệp”, sinh viên phải được đảm
bảo ổn định về cuộc sống chỗ ở thì mới có thể tập trung cho học tập. Có lẽ đối với hầu
hết các sinh viên khi mới bỡ ngỡ đến Hà Nội_một nơi xa lạ, không người quen biết thì
địa điểm được tin cậy nhất để hy vọng có được một chỗ ở là kí túc xá của trường. Tại
đây, họ có thể được yên tâm một phần, vì:
+ Đã là kí túc xá của trường thì chắc chắn sinh viên ở đó sẽ có sự quản lý chặt
chẽ của nhà trường. Như vậy sinh viên vừa được đảm bảo về chỗ ở, vừa được đảm bảo
an ninh, an toan cho sinh viên, đó là điều kiện thuận lợi cho việc học tập của sinh viên.
+ Sống trong kí túc xá là sống trong môi trường cùng trng lứa,cùng hoàn cảnh,
các sinh viên dễ cảm thông với nhau, chia sẻ cùng nhau, trao đổi với nhau những kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm học tập. Hơn thế nữa, môi trường này còn rèn luyện cho
sinh viên ý thức sống vì tập thể, lối sống độc lập, khả năng thích nghi với mọi điều
kiện, giúp cho sinh viên dễ hòa nhập hơn sau này.
+ Kí túc xá đảm bảo chỗ ở ổn định cho sinh viên, tạo tâm lý yên tâm cho sinh
14
viên trong học tập với mức giá thuê phù hợp với khả năng chi trả của sinh viên. Trung
bình giá thuê ở kí túc xá là từ 50 000đ đến 70 000đ/người/tháng, với mức giá này hiện
nay sinh viên không thể tìm được một chỗ ở nào để thuê ngoài.
+ ở trong kí túc xá sinh viên được hưởng những dịch vụ công cộng với mức giá
thấp do được hưởng trực tiếp một phần hỗ trợ của nhà nước và nhà trường. Chẳng hạn, mỗi tháng sinh viên được sử dụng miễn phí 10 số điện/1 tháng, 4 m3 nước/1tháng. Nếu
vượt quá số điện nước định mức sinh viên phải nộp thêm tiền nhưng với giá tính thấp: điện là 900đ/1 số, nước là 2800đ/1 m3.
Ngoài ra, sinh viên còn được cập nhật mọi thông tin về trường lớp một cách
nhanh nhất, sinh viên trong kí túc xá luôn luôn là “đường dây nóng” liên lạc với các
sinh viên khác trong lớp.
Với những ưu điểm đó của kí túc xá, đã có những thời kỳ ở kí túc xá của nhiều
trường đã sử dụng với công suất tối đa, nhiều sinh viên nộp đơn xin được vào kí túc xá
mà không được duyệt.
b. Những tồn tại của Kí túc xá:
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm nảy sinh nhiều bất cập về kí
túc xá, khiến cho một lượng lớn sinh viên lao đao về chỗ ở.
+ Về mặt diện mạo kiến trúc: Hầu hết các kí túc xá hiện nay đều là các ngôi
nhà tập thể 4-5 tầng, được xây dựng từ ngày đầu thành lập trường nên giờ đây đã
xuống cấp nghiêm trọng và trở nên cũ nát. Đặc điểm những kí túc xá này là xây dựng
theo kiểu chia ô, vuông vức, khoảng cách giữa các tầng thấp, khoảng 3 - 3,5 (m), diện tích phòng ở khoảng 15 đến 20 m2 dành cho 8 đến 12 người ở, có thời kỳ còn phải ở
đến 14 người. Thông thường mỗi tầng có 14 phòng và chỉ có 2 khu công trình phụ
chung. Mỗi khu công trình phụ có 2-4 phòng tắm và 2-3 nhà vệ sinh +1 bể nước
chung. Như vậy có nghĩa là nếu tính trung bình 10 người /phòng thì có đến 120 người
ở 1 tầng nhưng lại chỉ có khoảng 8 phòng tắm, 6 nhà vệ sinh và 2 bể nước. Thử hỏi
sinh hoạt của sinh viên sẽ như thế nào? Đã thế, kết cấu phòng ở lại cực kỳ bất tiện cho
sinh hoạt, vừa chật hẹp vừa khó chịu, bức bối.
- Nền nhà bằng xi măng, số lượng cửa sổ lại ít (1 cửa sổ/phòng), dẫn đến nhà
rất hay ẩm thấp, thiếu không khí, ánh sáng trầm trọng.
- Mỗi phòng kê 2 dãy giường gồm 4-6 giường tầng -> choáng hết diện tích
15
phòng ở, nhiều phòng ở chỉ còn đủ một lối đi chung rộng khoảng 1-1,5 m. Hơn thế
nữa, mỗi giường lại không được lắp thêm ngăn tủ đựng đồ riêng nên phòng vốn đã
chật hẹp lại phai mất thêm một phần diện tích dùng vào mục đích để đồ riêng của mỗi
sinh viên nên càng chật hơn.
- Ngoài ra, khu vực dành cho phơi phóng cũng là một vấn đề đáng để nói. Với
một số lượng người đông như vậy mà mỗi phòng chỉ có một khu vực phơi đồ rộng khoảng 4 m2, không có khu vực phơi chung khác nào cho sinh viên sử dụng. Những
lúc bình thường sinh viên có thể cố gắng khắc phục nhưng những lúc “tổng vệ sinh”
chăn chiếu thì thực sự rất nan giải. Rất nhiều người khi vào chơi trong kí túc xá đã
không khỏi ác cảm nhất là lại phải nhìn thấy từng dãy quần áo được treo phơi ở mọi
nơi, mọi chỗ của khu nhà. Nhưng biết làm sao khi sinh viên không có chỗ để phơi mà
nhu cầu này lại quá lớn và rất thường xuyên.
- Các khu kí túc xá hầu như 100% không có nơi dành cho sinh viên tiếp khách
hoặc tổ chức sinh nhật, phòng ở lại quá chật chội, có phần bừa bãi nên khi có khách
sinh viên buộc phải dẫn ra quán -> tăng thêm chi phí của sinh viên.
+ Về cung cấp các dịch vụ và cơ chế quản lý kí túc xá:
- Dịch vụ nhà ăn: có rất nhiều trường không có hệ thống nhà ăn phục vụ sinh
viên: ngoại thương, mở (không có cả kí túc xá), sân khấu điện ảnh,… Và như thế có
nghĩa là buộc sinh viên phải sử dụng hệ thống dịch vụ tư sau trường cho dù chất lượng
các dịch vụ đó như thế nào.
Đối với những trường có hệ thống nhà ăn phục vụ sinh viên thì chất lượng phục
vụ cũng không khá hơn là bao. Nhà ăn thuộc diện đã được xây dựng từ rất lâu, cơ sở
cũ nát, chất lượng thực phẩm ít được quan tâm mà chỉ chú trọng đến mặt số lượng nên
không đảm bảo, số lượng mặt hàng phục vụ lại không đa dạng. Chính điều này đã dẫn
tới một thực trạng là sinh viên nấu ăn trộm trong phòng ở rất nhiều, từ đó gây ra nhiều
hậu quả khác như: nguy cơ quá tải nguồn điện, nguy cơ về cháy nổ cao. Và như vậy
khiến cho sinh viên không yên tâm học tập.
- Điện nước: Nước được bơm theo giờ nhưng giờ bơm lại không hợp lý: sáng từ
6h-8h, trưa từ 11h-12h, chiều từ 16h-19h, thường thì trong những khoảng thời gian
này sinh viên phải đi học. Đã thế chất lượng nước lại kém, có rất nhiều cặn, váng,
không đảm bảo an toàn vệ sinh cho sinh viên, bể nước không được cọ rửa thường
16
xuyên lại chỉ có nắp đậy nửa bể nên nước có rất nhiều bụi. Một thực trạng đáng nói
nữa ở đây là tình trạng mất nước xảy ra thường xuyên, có lúc còn mất đến 4,5 ngày,
gây rất nhiều khó khăn cho sinh hoạt hàng ngày của sinh viên.
- Cơ chế quản lý kí túc xá lỏng lẻo: Thể hiện:
Tất cả mọi người có thể ra vào kí túc xá một cách tự do mà không bị kiểm tra.
Điều này dẫn đến rất việc rất nhiều sinh viên trong kí túc xá bị mất đồ và tiền.
Công tác kiểm tra phòng ở sinh viên của ban quản ký kí túc xá không hoặc rất ít
được thực hiện. Dẫn đến, phòng ở lộn xộn, bừa bộn, rác thải có mặt dọc hành lang đi.
Tệ hại hơn nữa là tình trạng sinh viên cờ bạc, rượu chè trong kí túc. Cũng chính điều
này đã làm nảy sinh một hiện trạng là sinh viên ở chui tràn lan trong kí túc xá, gây nên
tình trạng lộn xộn. Ngoài ra do không được quản lý chặt nên ý thức giữ gìn trang thiết
bị, cơ sở hạ tầng của kí túc rất kém.
Tất cả những điều trên đã làm cho chất lượng ở kí túc xá sụt giảm trầm trọng. Rất
nhiều sinh viên vì không thể cố gắng thích ứng được với cuộc sống trong kí túc xá nên
đã phải xin chuyển ra ngoài dù biết rằng nếu ra ngoài cũng sẽ gặp phải rất nhiều khó
khăn, và khó khăn lớn nhất trước mắt là tìm chỗ ở. Chính điều này đã dẫn đến một
thực tế là kí túc xá thì thừa phòng không có sinh viên ở, trong khi sinh viên vẫn phải
lao đao đi tìm nhà ở thuê ngoài chứ nhất định không chịu vào kí túc xá ở.
c. Giải pháp cải tạo : (Trường ĐH KTQD)
Từ thực trạng đó, một biện pháp đã được đưa ra, đó là xây dựng dự án cải tạo,
cơi nới, nâng cấp các kí túc xá cũ và đầu tư xây dựng khu kí túc xá mới.
Hiện nay, ở tất cả các trường đều đã thực hiện dự án này và đã mang lại cho kí túc xá
sinh viên một bộ mặt mới với chất lượng cao hơn. Thể hiện:
+ Bề ngoài khu kí túc xá được tu sửa, trang trí lại khang trang, sạch đẹp hơn.
+ Phòng ở đựơc cơi nới, ghép ốp làm cho rộng hơn, đặc biệt là tất cả các phòng
đều được xây dựng khép kín, số lượng người giảm đi, trung bình 8 đến 10
người/1phòng, mức giá trung bình là 50000đ - 60 000đ/người/tháng.
+ Chất lượng hệ thống dịch vụ phục vụ sinh viên cũng được nâng lên. Nhiều
trường đã xây dựng mới nhà ăn tập thể, mở rộng, mở thêm nhiều căng tin, trong khuôn
viên trường đã có thêm khu vực để sinh viên tập luyện, chơi thể thao (kinh tế, bách
17
khoa, sư phạm 1).
Đơn cử như trường đại học KTQD. Trước đây, kí túc xá của trường cũng ở trong
tình trạng chung: nhà ở cũ, tồi tàn, phòng ở vừa thiếu vừa chật hẹp, lại không khép kín,
số sinh viên/1 phòng ở đông(10 người/phòng), các dịch vụ cung cấp: điện nước, dịch
vụ ăn uống,chất lượng thấp,...Thế nhưng hiện nay, diện mạo kí túc xá của trường đã
hoàn toàn thay đổi. Được sự ủng hộ, giúp đỡ của bộ Giáo dục &Đào tạo, bộ Kế hoạch
&Đầu tư, bộ tài chính & các cơ quan hữu quan, Đảng ủy, ban giám hiệu trường đại
học KTQD đã quyết định xây dựng và thực hiện dự án đầu tư, sửa chữa, nâng cấp , mở
rộng khu kí túc xá sinh viên các nhà 1,2,3,4 bằng cách cấy ốp các công trình phụ khép
kín vào các phòng ở sinh viên. Ngày 2/10/2001 bộ trưởng bộ giáo dục &đào tạo đã ký
quyết định số 5445 QĐ/BGD&ĐT-KHTC phê duyệt dự án đầu tư, cải tạo mở rộng 4 kí
túc xá sinh viên trường đại học KTQD với tổng diện tích cải tạo 4 kí túc xá cũ là 10446 m2, trong đó, diện tích cải tạo khu vệ sinh cũ thành diện tích sinh hoạt chung là 1051 m2, tổng diện tích xây dựng mới khu vệ sinh là 4053 m2, với tổng mức đầu tư là
11179368000 đồng, xây dựng bằng 100% vốn ngân sách nhà nước cấp. Đến đầu năm
2003, dự án hoàn thành. Giờ đây, toàn bộ khuôn viên kí túc xá đã được quy hoạch tách
rời với các khu vực hành chính, gồm 5 nhà: nhà 1,2,3,4 vừa được cải tạo lại, nhà 11
vừa được xây dựng mới hoàn toàn, 1 nhà ăn 3 tầng cũng vừa được khánh thành, cộng
thêm 2 căngtin nhỏ phục vụ sinh viên và 1 sân thể dục rộng rãi đã đáp ứng được cơ
bản nhu cầu nhà ở của sinh viên. Ngoài ra , trong kí túc xá còn co 2 khu nhà để xe
phục vụ sinh viên có nhu cầu.
Khu kí túc xá nhà 11- khu nhà được xây dựng mới hoàn toàn gồm 5 tầng khang
trang, sạch sẽ, có khuôn viên rộng, thoáng và nhiều cây xanh.
+Tầng 1 là tầng dành riêng cho các phòng hành chính: hội sinh viên, ban giám
đốc trung tâm dịch vụ, phòng ban quản ký sinh viên, phòng tiếp khách của sinh viên
và có khoảng 4 đến 5 phòng dành để phục vụ chỗ ngủ cho người nhà sinh viên khi đến
thăm.
+Từ tầng 2->tầng 4 là tầng ở của sinh viên nữ.
+Tầng 5 dành riêng cho sinh viên nam.
Mỗi tầng gồm 26 phòng khép kín. Đối với mỗi phòng:
- Diện tích ở khoảng 15 m2 + 6 m2 khu công trình phụ + 1 ban công là khu vực
18
phơi phóng.
- Nền được lát đá hoa sáng màu, mỗi phòng đều được trang bị 1 bộ bàn ghế tiếp
khách, hệ thống quạt trần, đèn đầy đủ.
- Phòng ở dành cho 8 người ở với mức giá là 70 000 đ/người/tháng, chưa kể điện
nước (miễn phí 10 số điện, 4m3 nước/sinh viên/tháng).
Khu nhà được quản lý chặt chẽ về mặt an ninh cũng như vệ sinh môi trường. Thể hiện:
Thứ nhất là : chỉ mở 1 cửa chính, tất cả mọi người muốn ra vào khu nhà phải
xuất trình giấy tờ. Nhờ vậy mà an ninh, trật tự của khu nhà này rất ổn định, không có
hiện tượng bị mất đồ hay sinh viên ở chui, cờ bạc.
Thứ hai là: Hàng ngày, ban quản lý kí túc xá luôn kiểm tra vệ sinh của từng
phòng và có chấm điểm. Kết quả được công bố công khai, có những hình thức thưởng
phạt nhất định. Điều này góp phần quan trọng làm cho khu vực ở sạch sẽ, thoáng đẹp,
giữ gìn được cơ sở vật chất.
Ngoài ra, ở đây còn có riêng 1 khu dịch vụ điện thoại phục vụ nhu cầu gọi đi
của sinh viên cũng như đảm bảo liên lạc giữa gia đình, bạn bè và sinh viên.
Với những điều kiện cơ sở vật chất như vậy, đây thực sự là chỗ ở lý tưởng của
sinh viên. Song do số lượng phòng ở có hạn nên chỉ những sinh viên thuộc diện ưu
tiên đặc biệt mới được ở đây chẳng hạn như sinh viên thuộc khu vực 1,2 nông thôn,
sinh viên hệ KV.
Đối với sinh viên khu kí túc xá nhà 1,2,3,4, nhờ dự án tu sửa, nâng cấp nhà ở kí
túc xá của trường nên cả 4 khu nhà này đã được tân trang lại, mang một diện mạo mới.
Bốn khu nhà này được sắp xếp thành 2 dãy đối xứng nhau, giữa là sân thể dục, sân này
vừa là chỗ học thể dục cua sinh viên trong trường, vừa là nơi để sinh viên tập luyện, tổ
chức các hoạt động. Vì thế có thể nói đây là khu vực rất náo nhiệt.
Bốn khu nhà có cấu trúc tương tự nhau, gồm 4 tầng, mỗi tầng có 14 phòng ở khép kín + 1 phòng học chung. Diện tích phòng ở khoảng 20 m2 + khu công trình phụ khoảng 6m2+ 1 ban công dùng để phơi phóng. Phòng dành cho 10 người ở, giá thuê là
60 000đ/người/tháng chưa kể điện nước. Mỗi khu nhà cũng có một phòng quản lý và
luôn có người trực 24/24h.
Về việc quản lý sinh viên trong kí túc xá: nhà trường rất chú trọng đến công tác
19
này và đã đề ra nhiều giải pháp thực hiện có hiệu quả:
+ Cả 5 khu nhà kí túc xá được xây dựng nằm trong một khuôn viên kín, chỉ để 1
lối vào kí túc xá. Do đó nên việc quản lý sinh viên trở nên đơn giản hơn. Ban quản lý
thực hiện kiểm tra những người ra vào kí túc xá tại cổng kí túc, thực hiện giờ đóng
cổng kí túc: 23h30’ đối với ngày thứ 7 và 23h đối với những ngày còn lại trong tuần.
Giờ giấc tập luyện, chơi thể thao cũng được quy định rõ trong nội quy ở kí túc xá.
+ Sắp xếp chỗ ở cho sinh viên một cách hợp lý: Sắp xếp theo lớp ,theo khoa và
theo khoá. Mỗi khoá sẽ được xếp ở 1 nhà: nhà 11 dành cho sinh viên năm thứ nhất và
sinh viên hệ KV, nhà 1 dành cho sinh viên năm thứ 4, nhà 2 dành cho sinh viên năm 2,
nhà 3 dành cho sinh viên năm 3 và một nửa là sinh viên năm 2, nhà 4 là dành cho sinh
viên năm3. Tất cả những sinh viên ở cùng 1 lớp, 1 khoa được xếp ở chung 1 phòng, 1
tầng. Việc làm này vừa giúp ban quản lý thuận tiện trong quá trình quản lý, vừa tạo
điều kiện thuận lợi cho sinh viên, vì cùng lớp nên thân nhau, hiểu nhau hơn, có thể bổ
trợ, giúp đỡ nhau trong học tập.
Song, bên cạnh đó, kí túc xá của trường vẫn còn nhiều tồn tại. Chẳng hạn như:
+ Số lượng phòng ở kí túc xá chưa đáp ứng đủ nhu cầu chỗ ở cho sinh viên.
Mỗi năm kí túc xá chỉ có thể cung cấp 800 chỗ ở cho sinh viên trong khi số lượng sinh
viên cần ở phải gấp 3 lần con số này. Chất lượng phòng ở còn thấp do: phòng ở xây
dựng mới rất ít, chủ yếu là những phòng được cải tạo lại trên nền những phòng ở cũ.
+ Diện tích phòng ở vẫn còn chật hẹp. Mặc dù được cơi nới rộng hơn nhưng
phần được cơi nới ở đây không phải là phần diện tích ở mà là phần công trình phụ. Do
đó nên diện tích ở coi như không hề thay đổi.
+ Kết cấu phòng không hợp lý: ở khu nhà 11, công trình phụ lai được bố trí ở
phía trước, cạnh cửa ra vào,khu vực phơi phóng quá hẹp, nhiều phòng bị khuất ánh
sáng. Điều này gây bất tiện cho sinh viên trong sinh hoạt hàng ngày.
+ Hiện tượng thiếu nước, mất nước vẫn thường xuyên xảy ra, đặc biệt vào mùa
hè.
Đây cũng là những vấn đề tồn tại chung của các khu kí túc xá ở các trường
khác. Ví dụ như:
Đại học bách khoa: chỉ tiêu chỗ ở trong kí túc xá mỗi năm là 1400 chỗ, trong
khi nhu cầu ở là gần 5000. Hiện nay, đại học bách khoa có 4 dãy nhà ở cho sinh viên
20
chinh quy, trong đó 3 dãy là cải tạo lại, chỉ có nhà B10 là được xây dựng mới, các dãy
nhà không được quy hoạch gọn mà xây dựng riêng lẻ, tách biệt: nhà B6, B7 ở 1 khu,
khu B3, B10 ở 1 khu.
Hay đại học GTVT có 3 dãy nhà ở:
Một dãy mới xây 6 tầng, 1 dãy đựoc cải tạo nâng cấp (5 tầng), 1 dãy đã xuống
cấp trầm trọng.
Hiện trạng này cũng giống như kí túc xá của trường đại học Ngoại ngữ - đại học
quốc gia HN, trường này có 3 dãy nhà: 2 dãy được cải tạo lại, 1 dãy được xây dựng
mới do Nhật đầu tư. ở dãy nhà cải tạo lại cũng vẫn tồn tại việc bố trí phòng ở không
hợp lý: công trình phụ ở phía trước, cạnh cửa ra vào, thậm chí ở đây còn không co ban
công để phơi phóng.
Nói tóm lại, hiện nay, kí túc xá sinh viên đã có nhiều biến đổi về chất lượng
phòng ở cũng như dịch vụ phục vụ, nhưng bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn
đề bất cập cần phải dược giải quyết để đáp ứng tốt hơn, đủ hơn chỗ ở cho sinh viên,
tạo ra môi trưòng thuận lợi cho sinh viên học tập và rèn luyện.
2. Thực trạng nhà thuê ngoài của sinh viên :
Sinh viên từ các tỉnh khác khi về Hà Nội nhập học nhìn chung là rất bỡ ngỡ với
cách sống, cách sinh hoạt ở Hà Nội. Việc hoà nhập với môi trường mới là cả vấn đề
với họ. Khác với khi ở quê hương, bản quán được sự nâng niu, trợ giúp của của gia
đình, khi lên Hà Nội nhập học họ phải tự lập, tự lo chỗ ăn, chỗ ở cho mình. Do đó, lúc
đầu cách giải quyết chỗ ăn ở tốt nhất, an toàn nhất cho họ là ở trong kí túc xá. Khi sinh
viên ở trong kí túc xá họ sẽ được nhà trường quan tâm giám sát, quản lý nên gia đình
sinh viên cũng an tâm hơn. Thêm vào đó là giá cả trong kí túc xá rẻ hơn rất nhiều so
với bên ngoài. Tuy nhiên, không phải ai cũng có đủ tiêu chuẩn ở kí túc xá cũng như
không phải ai cũng muốn ở kí túc xá nên sinh viên vẫn đi thuê nhà bên ngoài. Và thực
tế là con số này khá lớn, ước tính số này chiếm đến 4/5 tổng số sinh viên nhập học, và
hiện nay Hà Nội có trên 300.000 sinh viên có nhu cầu về chỗ ở. Với số sinh viên này
vấn đề ăn ở được giải quyết như thế nào?
a. Hướng chọn nhà của sinh viên :
Hầu hết sinh viên khi thuê nhà ở ngoài thường chọn các khu vực cho thuê gần
các trường nơi mình theo học như khu: Trung Hoà, Nhân Chính, Cầu Giấy, Mai Dịch,
21
Minh Khai , Trương Định ở các khu vực tập trung nhiều trường đại học , cao đẳng thì
đồng thời cũng tập trung nhiều sinh viên thuê nhà trọ và có nhiều nhà trọ. Sở dĩ như
vậy là do hầu hết các sinh viên có nhu cầu được ở gần trường cho tiện việc đi lại, học
tập đồng thời cũng giảm được một phần chi phí đi lại. ở các khu đô thị lớn thường xảy
ra hiện tượng tắc đường nên vấn đề ở đâu cho tiện đi lại cũng là rất thực tế và chính
đáng. Các hướng chọn nhà thường thấy là:
Sinh viên các trường: Đại học khoa học tự nhiên,đại học nhân văn , đại học
kiến trúc, đại học ngoại ngữ, học viện mật mã tập trung thuê ở làng Phùng Khoang.
Sinh viên các trường: Đại học bách khoa, đại học xây dựng, đại học kinh tế
quốc dân tập trung thuê ở khu Trương Định, Minh Khai.
Sinh viên các trường : Đại học quốc gia, đại học sư phạm ngoại ngữ, đại học
dân lập phương đông, đại học báo chí tuyên truyền tập trung thuê ở khu làng Mỹ Đình.
Sinh viên các trường : Đại học luật, cao đẳng lao động - xã hội ,đại học ngoại
thương, học viện quan hệ quốc tế tập trung thuê ở khu Trung Hoà, Chùa Láng.
Sinh viên các trường: đại học văn hoá, đại học mỹ thuật công nghiệp tập trung
thuê ở khu vực Đê La Thành.
Sinh viên các trường đại học y Hà Nội, học viện ngân hàng, đại học thuỷ lợi,
đại học công đoàn tập trung thuê ở khu Khương Trung.
Qua khảo sát thực tế, những khu sinh viên thuê trọ thường gần các làng, những
nơi mà mức độ đô thị hoá chưa cao. ở những khu này có rất nhiều nhà có diện tích lớn
(do trước đây là làng) do nhu cầu của xã hội chủ nhà tiến hành cơi nới, san ao, biến
vườn , biến nơi chăn nuôi trước kia thành các phòng trọ. Các phòng ở đây có quy mô
diện tích và giá cả cũng khá khác nhau để thoả mãn nhu cầu đa dạng của người thuê.
Và dễ dàng thấy là những nơi tập trung thuê của sinh viên tương đối gần các chợ làng
quê nên chi phí thực phẩm rẻ, phù hợp với sinh viên. Ban đầu những khu này chỉ có
một vài nhà cho thuê sau dần dần do nhu cầu ngày càng tăng nên chúng cứ được mở
rộng ra và hình thành nên các làng sinh viên .
b. Các hình thức nhà cho thuê:
Sinh viên thuê nhà dưới 3 dạng chủ yếu là:
22
b1. Thuê nhà dãy:
Loại này thường tập trung ở các làng sinh viên , nơi mà có mật độ sinh viên
cao. Đặc điểm của những nhà cho thuê này là:
Chủ nhà có diện tích lớn, trước đây chủ yếu sống bằng nông nghiệp nay
chuyển sang xây nhà cho sinh viên thuê.
Các phòng trọ thường được xây dưới dạng nhà cấp 4, nhà dãy.
+ Mỗi dãy có nhiều phòng, số lượng phòng tuỳ thuộc diện tích đất của nhà chủ,
nó dao động từ 5 ->10 phòng.
+ Diện tích mỗi phòng là 8->12 m2 thường chỉ ở được 2 người.
+ Trong phòng chỉ có 1 cái phản dùng để làm giường, ngoài ra không có cơ sở
vật chất gì thêm.
+ Các phòng trọ ở đây sử dụng chung một công trình phụ.
+ Các phòng trọ ở đây thường được xây dựng rất thô sơ, kiến trúc không đẹp,
phần nhiều mang tính chất tạm bợ, vào mùa hè thì nóng (phòng nào không có cửa sổ
thì rất ngột ngạt ), mùa mưa có những nơi còn bị dột.
Giá cho mỗi phòng là: 200.000->250.000 đ/tháng đối với phòng 8m2, 300.000 -
>350.000 đ/tháng đối với phòng 12m2.
Điện nước ở đây được dùng thoải mái nhưng tuỳ từng nơi mà mức giá tính cũng có sự khác nhau. Thường là 1000->1500đ/1 số điện, 2200đ/m3 nước (tính cho trước kia) và bây giờ là 2800đ/m3 nước.
Về quản lý thì thường các khu này chịu sự quản lý của nhà chủ nên phải tuân
theo một số nguyên tắc nhất định như là người thuê không được về muộn sau 10h30 để
đảm bảo an ninh.
Ưu điểm của loại nhà này:
+ Giá tương đối rẻ và phù hợp với sinh viên .
+ Có nhiều mô hình và mức giá cho sinh viên lựa chọn.
Nhược điểm của loại nhà này:
+ Do sống tập trung, sử dụng công trình phụ chung nên bất tiện, sinh viên khó
chủ động trong sinh hoạt của mình. Hơn nữa, do sử dụng công trình phụ chung nên
hay có những khúc mắc, bất hoà tạo không khí căng thẳng.
+ Một số nơi do chủ nhà quản lý không chặt chẽ nên có hiện tượng sinh viên
23
(thường là nam sinh viên) lôi kéo bạn bè về phòng trọ, tụ tập cờ bạc, rượu chè, ca hát
gây ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của sinh viên thuê phòng trọ xung quanh nói
riêng và của hàng xóm nói chung. Có nhiều sinh viên khi thuê loại nhà này sau một
thời gian ở phải chuyển đi do không có môi trường yên tĩnh để học tập. Tệ hại hơn một
số sinh viên còn bị lôi kéo vào những lối sống buông thả đó. Đây là một hiện tượng
khá phổ biến ở các khu nhà dãy. Do nhận thức của các sinh viên có phần khác nhau:
Người nào có ý thức tốt sẽ tôn trọng mọi người xung quanh, không gây ồn ào, nhưng
người nào mà không có ý thức tốt sẽ thường xuyên làm ảnh hưởng đến hàng xóm, và
tạo ra một số tiêu cực như mất trộm, mất cắp trong khu trọ.
+ Thường các khu nhà trọ này cho rất nhiều đối tượng thuê không chỉ có riêng
sinh viên. Nhiều đối tượng thuê nên pha tạp nhiều lối sống dẫn đến tình trạng khó
quản lý được sinh viên thuê ngoài.
+ Các khu nhà dãy kiểu này chất lượng không được đảm bảo cho lắm nên chất
lượng học tập của sinh viên do đó cũng có phần giảm sút.
b2. Thuê nhà riêng:
Số lượng loại này ít chỉ chiếm 5% tổng số sinh viên đi thuê nhà bên ngoài. Đặc
điểm của nó là:
Chủ nhà thường là những người có nhiều hơn 1 nhà do đó họ ở một nhà và một
nhà cho thuê; Hoặc chủ nhà là những người mua nhà nhưng không ở do phải đi công
tác, học tập xa nhà; Hoặc những nhà đang trong diện giải toả chờ ngày giải toả, những
nhà đang đợi bán. Do đó, tuỳ mục đích cho thuê của chủ nhà mà tính chất ổn định của
những nhà thuê này cũng khác nhau. May mắn thì sinh viên sẽ thuê được những ngôi
nhà ổn định lâu dài nhưng nhiều thì cũng chỉ được 2 năm sau đó lại phải đi tìm nhà
mới.
Diện tích những ngôi nhà hay căn hộ này cũng không cố định thường là 45- >80m2, có khuôn viên cách biệt giữa các phòng nên rất tiện lợi cho sinh hoạt hàng
ngày. Hơn nữa do họ xây nhà với mục đích để ở là chính chứ không phải cho thuê nên
nhà được xây dựng chắc chắn và đẹp.
Nhà thuê này thường phân tán ở các nơi, không tập trung cụ thể ở đâu.
Đối tượng thuê nhà loại này thường là các sinh viên quen biết và thân thiết
nhau từ trước. Có 5 ->6 người họ muốn ở chung với nhau và những sinh viên này có
24
điều kiện kinh tế không khó khăn cho lắm.
Giá của những căn hộ hay ngôi nhà kiểu này thường từ 800.000 -
>1.200.000đ/tháng.
Giá điện nước được tính theo giá hộ gia đình sử dụng chứ không phải theo giá
điện nước kinh doanh như ở các khu nhà dãy.
Các sinh viên này sống tự giác là chính, không chịu sự quản lý của chủ nhà, chỉ
bị quản lý bởi chính quyền địa phương nơi sinh viên thuê trọ.
Ưu điểm của loại nhà này:
+ Giá cả điện nước thấp.
+ Có môi trường học tập và sinh hoạt tương đối tốt đảm bảo cho chất lượng học.
Nhược điểm của loại nhà này:
+ Giá thuê nhà cao.
+ Các loại nhà cho thuê kiểu này không nhiều.
+ không phải lúc nào cũng có 5 ->6 sinh viên sẵn sàng ở cùng với nhau vì sinh
viên nói chung có tâm lý là ở càng ít người càng đỡ phức tạp. Và phải là các sinh viên
có mức sống đồng đều nhau, thực sự hiểu nhau, biết thông cảm cho nhau mới có thể
thuê loại nhà này cùng nhau.
+ Tính ổn định của những loại nhà này không cao, nhiều nhất chỉ là 2 năm sau đó
sinh viên phải đi tìm nhà khác. Nhưng do loại nhà này ít mà yêu cầu đối với nhà này
lại cao như phải đủ diện tích, gần các trường, chất lượng nhà phải tương đối nên rất
khó tìm.
b3. Thuê phòng ở cùng nhà chủ:
Loại phòng này vừa có đặc điểm của nhà dãy vừa có đặc điểm của nhà riêng. Cụ
thể là:
Sinh viên ở cùng chủ nhà dưới dạng thường gặp là: chủ nhà ở tầng 1, cho sinh
viên thuê tầng 2, tầng3, hoặc chủ nhà thừa 1, 2 phòng dành cho sinh viên thuê. Đối với
loại nhà này chủ nhà thường rất khó tính trong lựa chọn sinh viên thuê. Họ thường ưu
tiên các nữ sinh vì con gái sống ngăn nắp, gọn gàng,không tụ tập bạn bè như con trai,
biết bảo quản cơ sở vật chất của họ.
Giá thuê phòng thường là 400.000đ/tháng
Phòng có diện tích 10 ->12m2, cho 2 người ở. Công trình phụ riêng cho từng
25
phòng hoặc mỗi tầng một công trình phụ.
Loại này thường không cho đun nấu trong nhà nên sinh viên phải đi ăn ngoài.
Sinh viên sống ở đây chịu sự quản lý chặt chẽ của chủ nhà.
Loại nhà cho thuê này nằm ở nhiều vị trí, địa điểm khác nhau.
Ưu điểm của loại nhà này là:
+ An ninh trật tự tốt, do bị quản lý chặt chẽ của chủ nhà nên điều kiện và môi
trường học tập do đó cũng tốt hơn. Những sinh viên thuê loại nhà này thường là những
sinh viên đặt mục đích học tập lên trên hết, muốn có không gian tốt để học.
+ Sinh viên có thể thuê lâu dài, ổn định.
Nhược điểm của loại nhà này:
+ Giá cả tương đối cao so với mặt bằng chung của sinh viên.
+ Hơi bị gò bó, không được thoải mái cho lắm khi phải sống chung cùng chủ
nhà.
+ Thưòng phải là sinh viên có điều kiện kinh tế tốt mới thuê dạng nhà này.
Nhìn chung thì sinh viên đi thuê ngoài có nơi có chất lượng tốt, có nơi có chất
lượng trung bình và cũng có nơi chất lượng kém không đảm bảo cho điều kiện học tập
của sinh viên. Sinh viên thuê nhà bên ngoài thường có hiện tượng chuyển nhà nhiều
lần nên thiếu tính ổn định.
III. mô hình làng sinh viên hacinco
1. Kết cấu làng sinh viên hacinco:
Xuất phát từ những vấn đề nhà ở cho sinh viên , một dự án nhà ở đã được thực
hiện đó là dự án xây dựng làng sinh viên HACINCO:
Chủ đầu tư:Tổng công ty xây dựng số 2.
Vốn đầu tư 870 tỷ đồng Việt Nam.
Địa điểm xây dựng: Khu Nhân Chính-Thanh Xuân-Hà Nội .
Diện tích xây dựng :30.000m2
Gồm: 6 toà nhà 6 tầng và 2 toà nhà 15 tầng.
26
Được hoàn thành vào năm 1999.
Đây là một tổ hợp kí túc xá sinh viên đầu tiên tại Hà Nội với kiến trúc hiện đại,
đẹp và được quy hoạch tiện nghi với các công trình thể thao, bể bơi, có khu dịch vụ và
các khu công cộng.
Làng sinh viên HACINCO ra đời là một sự kiện đáng mừng. Nó đã đáp ứng
phần nào nhu cầu về chỗ ở vốn đang rất khó khăn cho sinh viên trên địa bàn Hà Nội.
Làng sinh viên có 18 căn hộ với 42 phòng ngủ đã được đưa vào hoạt động vào
năm1999. Mỗi căn hộ có 2-3 phòng ngủ, 1 phòng khách, 2 nhà vệ sinh, mỗi phòng đều
có ban công riêng. Nhìn chung các căn hộ khép kín như vậy đã đáp ứng được nhu cầu
ăn ở của sinh viên.Tuy nhiên làng sinh viên HACINCO vẫn tồn tại những bất hợp lý .
2. Những bất hợp lý của làng sinh viên Hacinco:
Giai đoạn đầu đưa vào hoạt động có rất nhiều sinh viên chuyển đến đây ở. Lúc
đó các phòng đều được sử dụng hết công suất, nhiều sinh viên muốn chuyển vào nữa
cũng khó mà đựơc. Điều đó cho thấy thực tế nhu cầu nhà ở của sinh viên là rất lớn và
mô hình làng sinh viên HACINCO được xem như là hợp lý, phù hợp với nhu cầu của
sinh viên. Tuy nhiên, sau một thời gian sử dụng nhiều bất hợp lý của làng sinh viên đã
bộc lộ khiến cho không ít sinh viên phải chuyển ra do cảm thấy không thể chịu đựng
được những bất hợp lý đó.
Khi đi tìm hiểu thực tế thì thấy rằng làng sinh viên đã và đang tồn tại không chỉ
một mà là một loạt các bất hợp lý, và các bất hợp lý này ngày càng phát sinh, càng bộc
lộ ra, bất hợp lý trong cả thiết kế, trong cả cách bố trí sinh hoạt, trong cả giá cả.
a. Bất hợp lý trong thiết kế:
Trong thiết kế ta có thể thấy là: Mỗi một căn hộ có 3 phàng ngủ, mỗi phòng chưa được 15m2 mà có đến 8 người/1 phòng. Như vậy là quá chật trong khi đó phòng khách rộng hơn 20m2 thực sự là không cần thiết lắm.
Bên cạnh đó, khuôn viên hay khu vui chơi của toàn bộ sinh viên 3 dãy nhà A, C, E là một mảnh đất với vài ba đám cỏ và một sân xi măng vẻn vẹn 100m2 quá chật
hẹp. Mặc dù trong quy hoạch có cả bể bơi, nhà tập luyện thể thao hiện đại với hàng
nghìn chỗ ngồi, nhưng thực tế từ khi đưa vào hoạt động cho đến nay đã hơn 5 năm mà
không thấy bể bơi đâu, cũng chẳng thấy nhà tập luyện thể thao đâu. Vẫn biết đây chỉ là
tình trạng tạm thời nhưng đến khi nào thì tình trạng tạm thời này mới chấm dứt? Câu
27
hỏi này vẫn còn ở đó và nhiều sinh viên vẫn rất băn khoăn. Hiện nay, số sinh viên
chuyển từ nhà nội trú cũ sang làng vẫn chiếm số lớn nhưng như hầu hết ý kiến của
sinh viên thì làng không được như những gì họ tưởng tượng và nghe thấy.
b. Bất hợp lý trong cách bố trí sinh hoạt:
Làng sinh viên HACINCO xây tại địa điểm phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, Hà Nội. ở đây gần các khu sản xuất cao su ngày đêm xả khói gây ô nhiễm và
cũng gần khu tái chế nhựa nên có mùi hoá chất rất khó chịu. Các khu sản xuất này đã
làm ô nhiễm môi trường của làng sinh viên khiến cho sức khoẻ và chất lượng học tập
của sinh viên không được đảm bảo. Nhìn chung thì khói, mùi hoá chất, cộng với tình
trạng quá ít cây xanh vô hình chung đã tạo ra một không khí ngột ngạt hơn trong mùa
hè và u ám hơn trong mùa đông.
Không hiểu trong thiết kế xây dựng có tính đến tình trạng ngập úng ở Hà Nội
không mà vào mùa mưa làng sinh viên ngập trong nước, muốn đi từ cổng vào trong
các khu nhà sinh viên phải lội bì bõm trong nước. Vẫn biết đay là tình trạng thường
gặp ở Hà Nội nhưng với một làng sinh viên được coi là hiện đại, tiện nghi như thế này
mà không khắc phục được sao.
Bất hợp lý thứ 3 trong bố trí sinh hoạt có thể thấy nữa là: Dù đã đi vào hoạt
động được một thời gian tương đối dài nhưng điện nước ở đây vẫn không được ổn
định cho lắm, nước thường xuyên bị vẩn đục. Các sinh viên ở đây phản ánh có thời kỳ
nước thiếu đến mức không đánh răng rửa mặt được phải sang khu nội trú xin nước.
Điện, nước là những yêu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống, đến ngay cả những nhu cầu
này mà sinh viên cũng không được đáp ứng đầy đủ thì sinh viên khó có thể tập trung
vào việc học hành, vì bên cạnh những lo âu về học tập sinh viên phải gắn thêm những
lo âu về điện nước.
c. Bất hợp lý trong giá cả:
Qua điều tra được biết giai đoạn đầu mới đưa vào sử dụng giá cho mỗi sinh
viên thuê là 100.000 đ/tháng. Tuy nhiên hiện nay do tình trạng lạm phát, tăng giá hàng
loạt các sản phẩm trên thị trường trong nước nên giá cho mỗi sinh viên thuê cũng được
điều chỉnh lại cho phù hợp là 130.000đ/tháng. Xét trên mặt bằng chung thì thấy: So
với giá thuê nhà bên ngoài thì như vậy là không đắt nhưng so với kí túc xá thì lại là
đắt. Thực chất làng sinh viên có mô hình xây dựng và sinh hoạt giống kí túc xá, tuy
28
nhiên nếu so với kí túc xá thì nó có một số mặt không bằng. Cụ thể là:
Giá thuê phòng cao hơn:130.000 đ so với 50.000đ ở trong kí túc xá (50.000đ là
lấy theo giá bình quân) tất nhiên cũng có trường giá phòng trong kí túc xá là 100.000đ
như trường học viện ngân hàng, nhưng nhìn chung ở các trường giá chỉ là
50.000đ/tháng.
Giá dịch vụ trong làng sinh viên quá đắt: Theo như thiết kế thì làng sinh viên
sẽ có một khu dịch vụ công cộng tức là có một khu phục vụ ăn uống cho sinh viên, có
những cửa hàng hoặc siêu thị nhỏ để phục vụ đồ dùng thiết yếu cho sinh viên. Nhưng
giai đoạn đầu đưa vào sử dụng thì những khu công cộng này chưa xuất hiện. Sinh viên
trong làng phải chịu một giá dịch vụ rất đắt còn nếu muốn có một giá dịch vụ rẻ hơn
thì sinh viên phải đi rất xa, cách tới cả cây số. Nếu so sánh với kí túc xá thì ta thấy cả
một khoảng cách. Trong kí túc xá do được hình thành từ lâu rồi nên hệ thống dịch vụ ở
đây khá hoàn chỉnh: trong kí túc xá có căng tin, nếu sinh viên không muốn ăn ở trong
căng tin thì có thể đi ăn ở ngoài, xung quanh kí túc xá có hệ thống các hàng quán từ
quán ăn, quán phục vụ đồ uống, quán bán đồ lưu niệm , cho đến các cửa hàng tạp hoá
sinh viên muốn mua gì thì đều sẵn có cả. Hiện nay, ở làng sinh viên HACINCO hệ
thống dịch vụ tuy đã phát triển hơn nhưng nhìn chung là còn ít và thiếu đồng bộ chưa
đủ đáp ứng nhu cầu của sinh viên trong làng.
Một thực tế nữa có thể thấy là: nếu ở trong làng sinh viên sẽ phải mất thêm một
khoản cho chi phí đi lại. Nếu sinh viên đi lại bằng xe buýt thì mất tiền vé tháng xe
buýt, nếu đi bằng xe đạp, xe máy thì mất tiền gửi xe hàng tháng. Đi xe buýt sẽ đỡ tốn
kếm hơn nhưng thực tế qua làng sinh viên có rất ít tuyến xe buýt nên chủ yếu sinh viên
vẫn đi lại bằng phương tiện riêng.
Như vậy là tính tổng chi phí ra thì giá 130.000đ là đắt hơn nhiều so với ở kí túc
xá và cũng là đắt so với ở ngoài vì ở ngoài tuy giá có cao hơn một chút nhưng sinh
viên được tự do lựa chọn các địa điểm gần trường, giảm chi phí đi lại, được ở trong
những căn phòng ít người.
Từ những phân tích trên có thể nhận thấy ở mô hình này có những nhược điểm
chủ yếu sau:
+ Hệ thống phòng và dịch vụ không đa dạng nên không đáp ứng được những nhu
29
cầu ngày càng tăng của sinh viên .
+ Mô hình chưa được hoàn thiện theo kế hoạch nên nhiều nhu cầu thiết yếu của
sinh viên đặc biệt là nhu cầu vui chơi giải trí của sinh viên chưa được đáp ứng đầy đủ.
+ Việc đi lại của sinh viên cũng không được tiện lợi cho lắm.
Tuy nhiên, mô hình làng sinh viên HACINCO vẫn được xem như một mô hình
kiểu mẫu, một giải pháp hữu hiệu cho vấn đề nhà ở của sinh viên với một kiến trúc
30
đẹp, hiện đại.
Chương III
Giải pháp cho vấn đề nhà ở của sinh viên
Đề xuất một mô hình mới về nhà ở cho sinh viên
Qua phân tích ở trên ta thấy:
Nhu cầu nhà ở của sinh viên là rất lớn.
Tình trạng sinh viên đi thuê nhà bên ngoài có cuộc sống thiếu tính ổn định, giá
cao mà chất lượng đôi khi không đảm bảo cho sức khoẻ và điều kiện học tập của sinh
viên hơn nữa cũng khó khăn cho công tác quản lý sinh viên .
Mô hình làng sinh viên mới đưa vào hoạt động được xem như là một giải pháp
thực tế và hợp lý vừa đáp ứng được nhu cầu nhà ở của sinh viên vừa giữ gìn cảnh quan
đô thị lại vừa đảm bảo khả năng quản lý sinh viên nói chung và đảm bảo khả năng
quản lý tình trạng tăng dân số cơ học trên địa bàn Hà Nội nói chung.
Tuy nhiên để cho mô hình làng sinh viên trở thành một giải pháp hữu hiệu, thiết
thực hơn cho vấn đề nhà ở của sinh viên theo chúng em cần đưa ra một mô hình làng
sinh viên mới như sau:
1. Không xây dựng 1 làng sinh viên to rộng mà nên chia nhỏ thành nhiều làng
sinh viên đơn vị:
Để đảm bảo điều kiện đi lại cho sinh viên. Vì hiện nay số lượng xe cộ trong nội
thành liên tục gia tăng, hiện tượng tắc đường thường xuyên xảy ra nên để giảm lượng
xe lưu thông trên đường ta có thể giảm mật độ đi lại của sinh viên hay giảm thời gian
đi lại của sinh viên trên đường. Do đó nên xây dựng làng sinh viên theo cụm các
trường đại học, cao đẳng. Vì đặc điểm các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Hà
Nội thường tập trung theo cụm (như đã nêu ra ở trên) Ví dụ:
+ Cụm trường: Bách Khoa, Xây Dựng, Kinh Tế.
+ Cụm trường: Ngân Hàng, Thuỷ Lợi , Công Đoàn,Y Hà Nội .
+ Cụm trường: Nhân Văn, Khoa Học Tự Nhiên, Ngoại Ngữ, Kiến Trúc.
+ Cụm trường: Học viện hành chính quốc gia, Luật, Ngoại Thương, Học viện
quan hệ quốc tế.
31
+ Cụm trường: Báo chí, Thương mại, Quốc gia.
Nên chọn địa điểm xây dựng các làng sinh viên sao cho :
+ Sinh viên đến trường từ nơi mình ở chỉ mất khoảng 5 -> 6 km để tránh tình
trạng tắc đường và vì nhiều sinh viên cũng không có điều kiện về kinh tế, thời gian ,
phương tiện cho đi lại.
+ Đảm bảo tình trạng dãn dân. Để đảm bảo điều kiện này thì nên xây dựng các
làng sinh viên ở khu vực ven đô, không nên xây dựng ở trung tâm thành phố như vậy
cũng sẽ giảm được chi phí cho giải toả mặt bằng xây dựng.
2. Các lợi thế của dự án:
a. Chính sách ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước đối với việc xây dựng nhà
ở cho sinh viên:
Theo Nghị định số 71/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Chính phủ về việc ưu
đãi đầu tư xây dựng nhà ở để bán và cho thuê.
Điều 5: Các căn hộ thuộc nhà chung cư cao tầng được ưu tiên bán và cho thuê
đối với những đối tượng gặp khó khăn về nhà ở sau đây:
1. Các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước
2. Cán bộ, công nhân viên chức làm việc trong các Doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế.
3. Sinh viên các Trường Đại học, Cao đẳng.
Điều 13: Ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất.
Chủ đầu tư dự án được ưu đãi về nộp tiền sử dụng đất và thuế sử dụng đất như
sau:
1. Ưu đãi về tiền sử dụng đất: được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất
xây dựng nhà chung cư cao tầng.
2. Ưu đãi về thuế sử dụng đất: Chủ đầu tư dự án được miễn thuế sử dụng đất 3
năm, kể từ khi được giao đất đối với diện tích đất xây dựng nhà chung cư cao
tầng.
Điều 2: Dự án nhà ở được tạo điều kiện và ưu đãi:
1. Dự án nhà ở cao tầng (từ 5 tầng trở lên đối với TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí
32
Minh, từ 03 tầng trở lên đối với các tỉnh, thành phố khác); có cấu trúc kiểu
căn hộ khép kín, có cầu thang và lối đi chung (sau đây gọi là nhà chung cư
cao tầng)
2. Dự án nhà ở có cơ cấu sử dụng đất ở từ 60% tổng diện tích đất xây dựng nhà
ở trở lên, là nhà chung cư cao tầng.
b. Xu hướng phát triển của xá hội và tâm lý sinh viên
Hiện nay, xã hội đang có xu hướng xây dựng nhà chung cư cao tầng; rất nhiều
nhà đầu tư đã, đang và sẽ tiếp tục xây dựng các khu chung cư.
Từ say ngày Nghị định 181 có hiệu lực thi hành (khoản 1 điều 10 của Nghị định
181 "Không cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức bán nền mà
chưa xây dựng nhà ở". Thị trường đất dự án và nhà phân lô vẫn là một thị trường rất
hấp dẫn với nhà đầu tư bất động sản cá thể và người sử dụng có thu nhập tương đối
cao.
Thị trường nhà chung cư rất sôi động và đầy cạnh tranh trong thời gian tới. Thị
trường căn hộ bình dân sau một thời gian xây không đủ bán, hiện nay rất nhiều dự án
chung cư đang được triển khai, hứa hẹn một thị trường cạnh tranh sôi động giữa các
chủ đầu tư.
Đời sống ngày càng được cải thiện và nâng cao cho nên nhu cầu của sinh viên
cũng ngày càng cao. Trước khia có lẽ sinh viên chỉ cần một chỗ ăn ngủ để tiện cho học
tập, nhưng trong xã hội bây giờ sinh viên còn cần có nơi vui chơi giải trí sau các giờ
học căng thẳng như: cà phê - Internet, sân bóng... cần mua sắm tại siêu thị, học tập cần
hiệu sách, thư viện...
Bởi vậy mà nhu cầu về nhà ở cho sinh viên kiểu mới (hiện đại, đầy đủ tiện nghi)
với chất lượng cao đang là một xu hướng mới cho các nhà đầu tư.
c. Mục đích của việc xây dựng dự án:
Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc chăm lo cho thế hệ tương lai,
đặc biệt với việc đào tạo nhân tài cho đất nước, dự án được xây dựng nhằm mục đích:
tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng học tập
và giáo dục thể chất cho học sinh sinh viên.
Góp phần cùng với các cấp chính quyền, nhà trường và gia đinh trong việc quản
lý học sinh, sinh viên. Đảm bảo an toàn xã hội, an toàn trong học tập và sinh hoạt, hạn
33
chế các tệ nạn xã hội đối với các thế hệ trẻ học đường. Đồng thời tạo cơ hội cho sinh
viên giao lưu, trao đổi với nhau, tạo nên tính năng động sáng tạo, khả năng giao tiếp và
các mối quan hệ cho sinh viên. Việc xây dựng dự án cũng dựa theo phương hướng và
chủ trương xã hội hoá các hoạt động về văn hoá, giáo dục, y tế của chính phủ.
Lấy ví dụ là mô hình làng sinh viên cho cụm trường Bách Khoa, Xây Dựng,
Kinh Tế
* Chọn địa điểm xây dựng:
Sinh viên cụm trường này thường tập trung thuê nhà ở khu vực Minh Khai hoặc
Trương Định. Vì vậy, chọn khu vực Đuôi Cá-Trương Định được xem là hợp lý, vì:
+ Khoảng cách từ đó đến các trường này không xa lắm , chỉ khoảng 5 km, như
vậy đảm bảo điều kiện đi lại cho sinh viên.
+ Đây là những khu vực ven đô nên đảm bảo mục tiêu dãn dân ở các khu đô thị
lớn.
+ Chi phí sinh hoạt ở những nơi này cũng phù hợp với tình trạng tài chính của
sinh viên .
* Hình thức lấy đất xây dựng:
Tốt nhất là chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất xây dựng như vậy
sẽ giảm chi phí đền bù do đó sẽ giảm chi phí xây dựng và việc giải toả mặt bằng cũng
nhanh chóng hơn, đảm bảo tiến độ xây dựng. Tuy nhiên nếu lấy đất nông nghiệp sang
xây dựng sẽ thu hẹp diện tích đất nông nghiệp mà chủ trương của Đảng, nhà nước ta là
hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng đối với đất nông nghiệp nên vấn đề này cũng
cần được cân nhắc kỹ hơn.
* Đấu thầu xây dựng:
Nên tổ chức đấu thầu để chọn ra được nhà thầu có mức giá trúng thầu thấp nhất
và nên ưu tiên chọn những nhà thầu đã có kinh nghiệm trong xây dựng kí túc xá, khu
chung cư, hay làng sinh viên .
3. Kiến trúc làng sinh viên
2.1. Quy hoạch xây dựng chung. Tổng diện tích mặt bằng công trình: 10.000m.
Tổng vốn đầu tư dự tính: 600 tỉ đồng, 100% vốn nhà nước.
34
- Dự tính xây 5 toà nhà 12 tầng, 7 toà nhà 6 tầng.
Mỗi tầng 10 phòng, mỗi phòng có S = 30 m2 ở + 5 m2 ban công. Toàn bộ diện
tích tầng 1 các toà nhà dùng cho các hoạt động dịch vụ cho tổ chức , cá nhân thuê (y
tế, bưu điện, ngân hàng, các dịch vụ khác). Từ tầng 2 trở lên dùng để ở.
Diện tích xây dựng cho mỗi toà nhà: S mặt bằng/toà nhà = 10 phòng x 35 m2 + 2 cầu thang x 5 m2/ 1 cầu thang + 40
m2 đường đi hành lang = 400 m2.
Như vậy S mặt bằng dành cho xây dựng nhà ở là (5 + 7) toà nhà x 400 m2 =
4800 m2.
Diện tích đất còn lại chưa sử dụng là 5200 m2, dành cho:
- Xây dựng 1 ngôi nhà dùng cho sinh hoạt đoàn, hội.
Dự tính xây 2 tầng với diện tích sàn là 200 m2.
- Xây dựng 1 khu thư viện cho sinh viên học tập (5 tầng) diện tích sàn = 200
m2.
- Xây dựng một khu dùng cho Ban quản lý làm việc (3 tầng) diện tích sàn 100
m2.
- Xây dựng 2 bể bơi, diện tích mỗi bể là 150 m2. - Đất dùng vào xây dựng sân bóng đá 1000 m2.
- Xây dựng hệ thống nhà ăn và căng tin:
Dự tính xây 1 nhà ăn 3 tầng, diện tích sàn 200m2 - Phòng bảo vệ: 2 phòng , mỗi phòng có diện tích 5m2
- Xây dựng hệ thống nhà để xe
+ Nhà để xe cho sinh viên trường : S = 500 m2. + Khu vực gửi xe cho khách: S = 200 m2.
*. Với quy mô như vậy, làng sinh viên hoàn thành dự tính sẽ đáp ứng được chỗ ở cho
35
gần 5500 sinh viên.
Mô hình tổng quan:
Bảng tính tổng diện tích mặt bằng công trình
STT Tên công trình Diện tích mặt bằng(m2)
Nhà ở 4.800 1.
Thư viện 200 2.
Nhà sinh hoạt đoàn hội 200 3.
Nhà quản lý chung 100 4.
Bể bơi 180 5.
Sân bóng 1.000 6.
Phòng y tế 20 7.
nhà ăn –căng tin 200 8.
Nhà để xe 700 9.
10. Nhà bảo vệ 10
11. Sân chơi 600
12. Diện tích vườn hoa, cây xanh, công viên 1.000
13. đường đi 990
36
Tổng cộng 10.000
mô hình mặt bằng
9
9
8
4
3
2
1.1
1.1
1.1
1.1
1.2
1.1
1.1
1.2
1.2
1.1
7
1.2
1.2
10
6
8
8
37
5
Chú giải:
1.1.Dãy nhà 6 tầng. 3. Nhà sinh hoạt đoàn hội 6. Sân bóng
1.2.Dãy nhà 12 tầng. 4. Nhà quản lý chung 7. Nhà ăn- căng tin
2.Thư viện 5. Bể bơi 8. Nhà để xe
38
9.Phòng bảo vệ 10. Phòng y tế
2.2.Kết cấu nhà ở:
ở Việt Nam điều kiện kinh tế còn rất khó khăn việc đáp ứng yêu cầu 1 sinh
viên /1 phòng như ở các nước phát triển, trước mắt là không thể thực hiện được.Tuy
nhiên nhà ở cho sinh viên cũng nên tương đối một chút để đảm bảo điều kiện học tập
vì đây là lực lượng chủ chốt sẽ chèo lái đất nước trong tương lai.
Ta nên xây dựng làng sinh viên trong đó có nhiều mức độ cho sinh viên lựa
chọn: nhiều loại phòng, nhiều loại diện tích, nhiều loại giá; Vì không phải sinh viên
nào cũng có cùng một điều kiện vật chất.
Theo chúng em nên xây dựng làng sinh viên có các phòng được phân theo 3 cấp:
a.Loại phòng 8 người:
Loại này chiếm 1/4 tổng quỹ nhà.
Tổng diện tích 30 m2: phòng ngủ và học tập là 20m2, công trình phụ và chỗ nấu
ăn 5 m2, phòng khách 5 m2. Nên có ban công riêng biệt.
Trong phòng nên có các giường tầng.
Giá cho mỗi sinh viên là 100.000 đ/1người/1 tháng. Như vậy là giá cho một
phòng là 800.000.
b.Loại phòng cho 6 người:
Loại này chiếm 1/2 tổng quỹ nhà.
Tổng diện tích 30m2: 2 phòng ngủ, mỗi phòng 10m2 dành cho 3 người ngủ và
học tập; Phòng khách 5 m2, công trình phụ + bếp là 5 m2.
Giá cho mỗi sinh viên là 140.000đ/ người/ tháng. Như vậy là giá cho một
phòng loại này là 840.000đ.
c.Loại phòng cho 4 người:
Loại này chiếm 1/4 tổng quỹ nhà,
Tổng diện tích 30 m2: 2 phòng ngủ, mỗi phòng 9m2 cho 2 người ở; phòng
khách 5 m2, bếp + công trình phụ là 7m2.
Giá cho mỗi sinh viên là 200.000đ/tháng.Như vậy là giá cho mỗi phòng loại
này là 800.000đ.
*. Kiến trúc khuôn viên chung:
+ Phải đảm bảo các phòng đều có ban công, đầy đủ ánh sáng và lưu thông khí
39
tốt.
+ Nên xây thành các dãy nhà cao 5-> 7 tầng: tầng 1 dành cho trông xe và các
dịch vụ. Các tầng thấp dành cho các loại phòng 8 sinh viên /phòng, càng lên cao số
lượng sinh viên trong 1 phòng sẽ ít đi để giảm mật độ đi lại trên các cầu thang.
+ Mỗi làng sinh viên nên có ít nhất một hội trường cho sinh viên giao lưu , hội
họp trong các dịp.
+ Phải xây dựng các khu giải trí, đảm bảo sân chơi rộng, nhiều cây xanh.
3. Các loại hình dịch vụ cho làng sinh viên :
Mỗi phòng nên có một điện thoại con cố định được quản lý thông qua mạng
tổng đài do ban quản lý điều hành.
Nên có chỗ gửi xe hợp lý cho sinh viên .
Nên có chỗ tập kết rác cố định tránh tình trạng vứt rác bừa bãi làm ảnh hưởng
đến cảnh quan chung.
Nên phối hợp với sở giao thông công chính để bố trí đưa các tuyến xe buýt tiếp
cận các làng sinh viên.
4. Công tác quản lý làng sinh viên:
Việc xây dựng được một khu ở cho sinh viên đã khó nhưng việc làm sao cho duy
trì được khu ở một cách ổn định, lành mạnh lại càng khó hơn. điều này cần phải có sự
quan tâm thích đáng của các cơ quan hữu quan các trường có sinh viên , với quy mô
làng sinh viên như đã xây dựng ở trên em đơn cử 1 mô hình quản lý như sau :
Để quản lý làng sinh viên cần thống nhất thành lập 1 ban quản lý chung. Phòng
công tác quản lý sinh viên của các trường kết hợp với công ty xây dựng, đoàn thanh
niên, hội sinh viên trường cùng quản lý. Các đơn vị này sẽ cử người tham gia vào ban
quản lý và chịu trách nhiệm đối với từng bộ phận, công việc cụ thể.
- Về phía công ty xây dựng : sẽ chịu trách nhiệm quản lý, kiểm tra về mặt chất
lượng kỹ thuật công trình, bảo trì các thiết bị trong công trình.
- Về phía phòng công tác quản lý sinh viên của các trường : quản lý các hoạt
động chung trong làng sinh viên, cụ thể :
+ Quản lý số lượng sinh viên, đảm bảo không có tình trạng ở chui gây mất ổn
40
định.
+ Quản lý và cung cấp các dịch vụ đảm bảo đời sống của sinh viên : điện, nước,
dịch vụ ăn, dịch vụ nhà xe.
+ Quản lý hoạt động của sinh viên trong làng sinh viên : học tập, tập luyện chơi
thể thao.
+ Quản lý giờ giấc sinh hoạt (quy định giờ tập luyện, vui chơi để không làm ảnh
hưởng đến học tập chung của sinh viên ).
+ Quản lý an ninh, môi trường trong khu vực làng sinh viên : kiểm tra giữ trật tự
chung, vệ sinh môi trường.
- Về phía ĐTN & HSV cùng phối hợp tham gia quản lý với 2 bộ phận, hưởng
ứng và kêu gọi mọi sinh viên chấp hành đúng những nội quy của làng sinh viên đặt ra,
tổ chức các hoạt động bổ ích cho sinh viên tham gia để cùng xây dựng một làng sinh
viên lành mạnh, trong sạch. Đây là chiếc câu nối giữa ban quản lý, nhà trường và sinh
viên, giúp ban quản lý bám sát được thực tế của sinh viên, hiểu được đời sống sinh
viên từ đó có những nguyện vọng chỉnh đáng của mình. Tất cả những điều đó khuyến
khích, động viên sinh viên học tập và sống tốt hơn.
- Để thực hiện tốt những công việc.
BQL phải thành lập nên những tổ chuyên trách đảm bảo nhận từng công việc.
+ Tổ quản lý chất lượng và bảo trì thiết bị chương trình : tổ này đảm bảo nhận
tất cả những phần việc liên quan đến kiểm tra chương trình số lượng thành viên của tổ
chức này cụ thể giới hạn trong 10 người, những người này đòi hỏi phải được đào tạo
về kiến thức xây dựng.
+ Tổ quản lý sinh viên : tổ này chịu trách nhiệm quản lý sinh viên về mặt sinh
hoạt trong làng, số lượng, thành phần sinh viên, thực hiện việc đăng ký cho sinh viên
vào kỳ thuê phòng ở. Số lượng thành viên của tổ chức là 5 người.
+ Tổ dịch vụ : phụ trách việc quản lý và cung cấp dịch vụ phục vụ đời sống sinh
viên. Trong tổ này có thể phân ra từng nhóm nhỏ phục vụ từng mảng riêng chẳng hạn:
* Điện nước có thể phân cho 1 nhóm từ 3 – 5 người đảm nhận, có nhiệm vụ
đảm bảo đầy đủ điện nước sử dụng trong làng, theo dõi tình hình sử dụng điện nước
của sinh viên, hàng tháng thu tiền phí điện nước, kỉm tra thiết bị điện.
*. Dịch vụ ăn uống: Đây là mảng cần được quan tâm và số người tham gia
41
trong mảng này cần nhiều bao gồm cả những người quản lý chung, nhân viên phục vụ,
nấu nướng, có thể tổng số người tham gia là 30 người. Tổ nhóm phụ trách dịch vụ này
sẽ đảm nhận luôn cả việc cho phép hoặc không cho phép các tổ chức hoặc hộ cá nhân
bên ngoài vào thuê địa điểm kinh doanh dịch vụ ăn uống.
*. Khu vực trông xe: Công việc này có thể do tổ dịch vụ thuộc BQL thực hiện
hoặc cho phép tư nhân thuê đảm nhận. Nếu là tổ trực tiếp làm cần bố trí người hợp lý,
có thể chỉ cần 2 – 3 người làm công việc này.
*. Khu vực vui chơi thể thao: Trong khuôn viên làng sinh viên có cả một khu
vui chơi tập luyện riêng được xây dựng hoàn chỉnh nên việc quản lý sử dụng khu này
sao cho có hiệu quả và lâu bền là rất quan trọng. Ngoài công việc quản lý về mặt chất
lượng sử dụng, nhóm phụ trách khu vực này sẽ đảm nhận luôn các dịch vụ liên quan
như: cho thuê, mượn dụng cụ tập, chơi, hướng dẫn và tổ chức dạy.
*. Vệ sinh môi trường: Đây là một bộ phận quan trọng để giữ cho môi trường
làng sinh viên được trong sạch, thoáng đẹp. Do khuôn viên làng rộng nên cần nhiều
người tham gia vào công việc này, có thể từ 10 – 20. Nhóm này sẽ đảm nhận vệ sinh
trong phạm vi toàn bộ làng sinh viên từ khu vực ở của sinh viên đến các khu vực công
cộng trong khuôn viên. Không những thế, nhóm này còn phải chăm lo đến cảnh quan
của làng sinh viên: vườn hoa, cây cảnh.
Ngoài ra, BQL còn phải thành lập tổ xung kích có sự tham gia của sinh viên để
giữ gìn an ninh, trật tự chung và để đảm bảo thực hiện tốt trách hiệm của mình thì việc
liên hệ, phối hợp với công an địa phương là điều rất quan trọng. BQL cần phải xây
dựng được tốt mối quan hệ này.
Trong tất cả các công việc BQL cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên
cùng tham gia, vừa tạo ra môi trường, điều kiện tốt cho sinh viên, vừa tạo ra thu nhập
cho sinh viên. Chẳng hạn như khu vực vui chơi, tập luyện. BQL có thể giao cho Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên đảm nhận bởi vì như thế sinh viên sẽ phải tự chịu mọi trách
nhiệm về hành động của mình điều đó nâng cao ý thức tự quản của sinh viên, sinh viên
sẽ có ý thức hơn trong việc sử dụng, đồng thời sinh viên cũng hành động có trách
nhiệm với bản thân hơn và lại có việc làm mang lại thu nhập thêm.
Có thể phác thảo mô hình quản lý như sau:
Công ty xây dựng
42
Phòng công tác quản lý sinh viên các
Đội tình nguyện hội sinh viên
Ban quản lí
43
Với mô hình quản lý như vậy vừa có thể bao quát, bám sát mọi hoạt động, hiện
trạng của làng sinh viên từ đó có những biện pháp, định hướng quản lí tiếp theo thích
hợp, vừa phối hợp hoạt động được với sinh viên. Hơn nữa sinh viên tham gia trực tiếp
vào hoạt động quản lí, xung kích, tham gia các hoạt động của Đảng, Hội sinh viên tổ
chức sẽ giúp cho sinh viên tự xây dựng cho mình một môi trường sống & học tập lành
mạnh, vui vẻ, tạo lập những mối quan hệ với các sinh viên khác, đặc biệt là tạo được
sự hoà hợp giữa các sinh viên của các trường cùng học tập vui chơi, giúp đỡ nhau. Từ
đó sinh viên có thể cảm nhận được làng sinh viên như chính nhà mình chứ không còn
là nhà trọ nữa. Điều đó lại thúc đẩy sinh viên ý thức giữ gìn và bảo vệ chung.
Đánh giá chung:
Với mức giá, diện tích như vậy là phù hợp trong điều kiện hiện nay. Để đảm bảo
chi phí quản lý ta có thể lấy từ việc cho thuê diện tích tầng 1 làm chỗ trông xe, làm
căng tin, bán hàng. . . Như vậy bên đầu tư không bị lỗ trong quá trình kinh doanh, sinh
viên giảm bớt được một phần chi phí mà lại được cung cấp các hoạt động dịch vụ.
Tuy nhiên, với mô hình này sẽ gặp phải một số vấn đề sau:
+ Cần xây dựng một kế hoạch chi tiêu, quản lý cho hợp lý để trong quá trình kinh
doanh không bị lỗ.
+ Cần phải có một mức vốn đầu tư ban đầu tương đối lớn.
+Trong quá trình tiến hành dự án cần phải có sự phối hợp của nhiều ban ngành
như: Sở giao thông công chính, bộ môi trường, bộ tài chính, bộ xây dựng. . . , uỷ ban
nhân dân phường, thành phố cũng phải tham gia vào dự án này.
Mô hình này đưa ra có lẽ chỉ giải quyết được nhu cầu trong thời gian trước mắt,
còn về lâu dài, sau 15 năm, khi mà mức thu nhập của dân cư tăng và mức sống tăng
lên, thì mô hình này sẽ không còn được phù hợp nữa. Do nhu cầu về chỗ ở của sinh
viên lúc đó sẽ cao hơn , mô hình những căn phòng 8 người sẽ không có người thuê nữa
đồng thời những căn phòng 4 người thuê sẽ tăng lên về nhu cầu. Khi đó ta có thể áp
dụng giải pháp là: Với kiến trúc như cũ, chuyển phòng 8 người thành phòng 4 người
bằng cách bỏ các giường tầng ra thay vào đó là những giường đơn và xây dựng thêm
các vách ngăn.
44
5. Hạch toán chi phí:
bảng tính giá thành xây dựng
Diện tích Diện tích Số đơn giá Thành xây dựng STT Tên công trình sàn(m2) tầng (trđ/m2) tiền(trđ) (m2)
A. Mô hình nhà ở
-5 dãy nhà 12 5*400=2.000 12 24.000 72.000 3
tầng
-7 dãy nhà 6 7*400=2.800 6 16.800 50.400 3
tầng
B. Mô hình học tập
-thư viện
200 5 1.000 3 3.000
C. Mô hình vui
chơi giải trí
-Sân bóng 1.000 1.000 2.000 1 2
-Bể bơi 180 180 720 1 4
-Nhà sinh hoạt 200 400 1.200 2 3
doàn hội
D. Mô hình cho
sinh hoạt
-căng tin-nhà ăn 200 600 3 1.800 3
E. Mô hình quản lý
-Nhà quản lý
3 300 3 chung 100 900
-Phòng y tế
1 20 3 -Phòng bảo vệ 20 60
1 10 2 -Nhà để xe 2*5=10 20
1 700 1 500+200=700 700
45
F. Mô hình không
gian
-Sân chơi, vườn 600 600 1.2 720
hoa
-Đường đi 990 990 2.5 2.475
Tổng 10.000 46.600 135.995
Bảng kê khai chi phí ban đầu
STT chỉ tiêu Chi phí (Trđ)
136.540 Chi phí xây dựng 1.
43.000 Chi phí móng 2.
Chi phí mặt bằng xây dựng 50.000 3.
229.540 Tổng
100.000 Chi phí lắp đặt trang thiết bị 4.
100.000 Chi phí hoàn thiện 5.
10.000 6. Chi phí khác
210.000 Tổng
Giả sử Công trình được xây dựng trong 2 năm
Các chi phí phải bỏ ra ngay từ năm đầu là: chi phí mặt bằng xây dựng, chi phí móng,
chi phí xây dựng.
Các chi phí bỏ ra năm thứ 2 là: chi phí hoàn thiện, chi phí lắp đặt trang thiết bị và chi
phí khác.
Với mức lãi suất là 7%/năm.
Ta có:
Số tiền công trình phải chi trong 2 năm đầu là:
46
229.540*(1+7%)+210.000=455.607,8 (Triệu đồng)
Bảng tính lợi nhuận hàng tháng
STT Chỉ tiêu Thành tiền (triệu đồng)
A Doanh thu
1. - Doanh thu từ việc cho thuê phòng ở 738
2. - Doanh thu từ việc cho thuê địa điểm 500
kinh doanh
- Doanh thu từ việc tự kinh doanh 3. 1.000
Tổng cộng 2.238
B. Chi phí
1. - Chi phí bảo quản, bảo trì trang thiết bị 10
- Chi phí điện nước 200
2. - Chi phí nhân công:
3. + Quản lý gián tiếp 80
+ Quản lý trực tiếp 130
4. - Chi phí khác 30
Tổng cộng 450
C=A-B Lợi nhuận hàng tháng 1.788
D=C*12 Lợi nhuận hàng năm 21.456
Với mức lãi suất là 7%/năm và tỷ lệ lạm phát 7%, ta có:
Vốn đầu tư ban đầu Vo=135.995(Tr.đ)
Lợi nhuận hàng năm C=21.456(Tr.đ)
NPV=-Vo+C*(1/(1+7%)+1/(1+7%)^2+…+1/(1+7%)^n)
Vậy thời gian hoàn vốn sẽ là:
47
NPV=0
Suy ra: n=
Lời kết
Sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, vì thế việc tạo mọi điều kiện tốt nhất
để sinh viên học tập, rèn luyện là trách nhiệm không chỉ của gia đình, nhà trường mà
còn là của toàn xã hội. Từ thực trạng những vấn đề nêu trên cho thấy rằng nhà ở cho
sinh viên hiện nay là rất bức thiết, sinh viên không thể an tâm cho vấn đề học tập nếu
như không ổn định được chỗ ở và như thế chất lượng đào tạo sẽ không cao, ảnh hưởng
đến tăng trưởng, tiến bộ của đất nước sau này. Do đó, muốn đưa đất nước tiến lên thì
phải đầu tư cho giáo dục, đảm bảo tốt chỗ ở cho sinh viên. Muốn vậy cần có sự phối
hợp, quan tâm của Đảng, nhà nước và toàn thể xã hội .
Đảng, nhà nước cần xây dựng, thực hiện những chính sách hỗ trợ nhà ở cho
sinh viên, xây dựng dự án nhà ở cho sinh viên, tăng cường hơn nữa nguồn vốn ngân
sách đầu tư cho giáo dục trong đó có những vấn đề liên quan đến sinh viên, phát triển
một cách mạnh mẽ và cân đối cho nhà ở cho thuê, đặc biệt lưu ý đến nhà ở cho thuê
giá thấp.
Còn về phía người dân, ai có điều kiện về đất, vốn.. .thì tích cực xây dựng
nhà cho sinh viên thuê với mức giá hợp lý và trực tiếp tham gia phối hợp với công an
xã, phường để quản lý sinh viên trong phạm vi của mình.
Ngoài ra, hiện nay xã hội cũng cần phải phát triển hơn nữa dịch vụ tư vấn
nhà ở cho sinh viên thuê nhằm giúp đỡ sinh viên trong quá trình tìm và lựa chọn nhà ở
cho phù hợp, đồng thời cũng phải bảo vệ quyền lợi của sinh viên trong hợp đồng thuê
nhà. Có như vậy những mục đích trong hiện tại và tương lai của đất nước mới có thể
48
đạt được.
Tài liệu tham khảo
Luật đất đai 2003 1.
Luật Xây dựng 2.
Nghị định số 71/2001/NĐ - CP ngày 05/10/2004 3.
4. Marketing trong kinh doanh
5. Tạp chí xây dựng.
6. Tạp chí địa chính.
7. Tạp chí kiến trúc.
8. Báo lao động.
49
9. Tạp chí kinh tế và dự báo
Mục lục
Lời mở đầu ........................................................................................................ 1
Chương I: Những vấn đề chung ....................................................................... 4
I. Quan niệm về nhà ở và xu hướng thiết kế nhà ở ........................................ 4
II. Những vấn đề liên quan đến nhà ở Hà Nội hiện nay: .............................. 6
1. Quỹ đất cho xây dựng và phát triển nhà ở: ............................................... 6
2. Quỹ nhà ở Hà Nội và thực trạng: .............................................................. 7
3. Nhà ở cho người có thu nhập thấp: .......................................................... 9
Chương II: Nhu cầu và Thực trạng nhà ở sinh viên ..................................... 10
I. Nhu cầu và khả năng đáp ứng nhà ở cho sinh viên nước ta hiện nay .... 10
1. Nhu cầu nhà ở của sinh viên................................................................... 10
2. Khả năng đáp ứng của trị trường ........................................................... 13
II. Thực trạng nhà ở sinh viên ..................................................................... 14
1. Thực trạng phòng ở Kí túc xá:................................................................ 14
2. Thực trạng nhà thuê ngoàI của sinh viên : .............................................. 21
III. Mô hình làng sinh viên hacinco ............................................................ 26
1. Kết cấu làng sinh viên hacinco: .............................................................. 26
2. Những bất hợp lý của làng sinh viên Hacinco: ....................................... 27
Chương III: Giải pháp cho vấn đề nhà ở của sinh viên ................................ 31
1. Không xây dựng 1 làng sinh viên to rộng mà nên chia nhỏ thành nhiều làng
sinh viên đơn vị: ................................................................................... 31
2. Các lợi thế kinh doanh của dự án: ........................................................ 32
3. Kiến trúc làng sinh viên ......................................................................... 34
4. Công tác quản lý làng sinh viên: ........................................................... 40
5. Hạch toán chi phí: .................................................................................. 44
50
Lời kết ............................................................................................................. 48
51
Tài liệu tham khảo .......................................................................................... 46