intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhận thức mới về mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Chia sẻ: Kloi Roong Kloi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

114
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết trình bày quan niệm tư duy mới về mô hình phát triển kinh tế, nhận thức mới về mô hình phát triển kinh tế Việt Nam và một số kết luận bước đầu về nhận thức mới về mô hình phát triển kinh tế Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhận thức mới về mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 38 – 47 Trường Đại học An Giang NHẬN THỨC MỚI VỀ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM Nguyễn Thường Lạng1 ABSTRACT The transition from centrally planned economy to a socialist-oriented market economy in Vietnam since 1986 represents a breakthrough in basic awareness of economic development model. This process resulted that the economic growth was 6-7% per year in average and stayed constantly within 27 years. From a low-income country, Vietnam has become a middle income country in 2011. Import-export turnover and foreign investment increased, the economic structure had significant shifted towards industrialization and modernization to achieve the basic goal of becoming an industrialized country by 2020 and the modern industrialized country by 2030. These results are in fact demonstrated that basic transformation in awareness is consistent with the general mobilization rule and the actual condition of our country. New awareness of economic development model in Vietnam based on new assumptions and different approaches. This article summarizes the new manifestation of cognitive in socialist-oriented market economic development model in Vietnam to create the conditions for the following awareness in order to effectively serve the policymaking process and business executives Keywords: market economy, economic development model, economic growth, business Title: New awareness of the model of socialist-oriented market economy development in Vietnam TÓM TẮT Quá trình chuyển từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ năm 1986 thể hiện sự đột phá cơ bản về nhận thức mô hình phát triển kinh tế. Những kết quả đạt được của quá trình này là tăng trưởng kinh tế đạt mức trung bình 6-7%/năm và ổn định liên tục trong 27 năm. Từ một nước thu nhập thấp, Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình vào năm 2011. Kim ngạch xuất- nhập khẩu và đầu tư nước ngoài tăng nhanh, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đạt mục tiêu về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030. Những kết quả đạt được trên thực tế chứng minh sự chuyển biến cơ bản về nhận thức là phù hợp với quy luật vận động chung và điều kiện đất nước. Nhận thức mới về mô hình phát triển kinh tế Việt Nam đang dựa trên nền tảng những giả định mới và cách tiếp cận khác trước. Bài viết cố gắng tống kết những biểu hiện mới của nhận thức trong mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam để tạo điều kiện để có những nhận thức sâu rộng tiếp theo phục vụ hiệu quả quá trình hoạch định chính sách và điều hành doanh nghiệp. Keywords: kinh tế thị trường, mô hình phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế, doanh nghiệp 1. QUAN NIỆM TƯ DUY MỚI VỀ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lênin , quá trình nhận thức diễn ra từ thực tiễn sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đồng thời, nhận thức của con người thực hiện thông qua các giai đoạn là cảm tính, lý tính và tư duy. Cảm tính là trạng thái nhận thức được thể hiện ở các quan sát ban đầu, bên ngoài với những thông tin sơ bộ về sự vật, hiện tượng. Lý tính là sự nhận thức cảm tính phát triển ở cấp độ sâu hơn và mức khái quát hoá cao hơn. Tư duy là trạng thái nhận thức về bản chất và quy luật vận hành của sự vật, hiện tượng. Điều này có nghĩa tư 1 PGs.TS. Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội Email: nguyenlang2020@gmail.com 38 Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 38 – 47 Trường Đại học An Giang duy là trình độ cao nhất và sâu sắc nhất của nhận thức và quá trình tư duy diễn ra theo quy luật nhất định. Những biểu hiện của tư duy mới có thể được nhận dạng thông qua các khía cạnh nhất định, bao gồm: - Hình thành trên cơ sở những giả định mới hay cách tiếp cận mới. Các giả định hay cách tiếp cận mới tạo cơ sở thay đổi cơ bản phương thức tư duy. - Nhìn nhận sự vật, hiện tượng ở góc độ khác trước. Cách tiếp cận không theo chiều thuận mà còn theo chiều ngược thậm chí nhiều chiều tạo khả năng nhận dạng sự vật, hiện tượng toàn diện và có hệ thống. - Làm bộc lộ bản chất của sự vật, hiện tượng. Các mặt bên trong của sự vật, hiện tượng được nhìn nhận đầy đủ cả vị trí, vai trò và tác động. - Hiểu rõ hơn những lực cản vận động của sự vật, hiện tượng để có giải pháp vượt qua. Với các giả định, cách tiếp cận khác trước, các loại lực cản phát triển được phát hiện và bộc lộ kể cả những lực cản chưa từng bộc lộ. Nguồn gốc của các lực cản được phân tích cụ thể, do đó, các giải pháp bảo đảm phù hợp và hiệu quả nhất. - Dự báo chính xác trạng thái tương lai của sự vật, hiện tượng. Do thay đổi giả định và cách tiếp cận, nhận dạng rõ hơn bản chất sự vật, hiện tượng cho nên trạng thái trong tương lai của sự vật, hiện tượng gần như được nhận thức đầy đủ. Đây là nền tảng để có chiến lược hay chính sách thích nghi phù hợp kể cả các chính sách đón đầu. - Tư duy mới có thể bao gồm cả những khía cạnh tổng quát, bao trùm và những khía cạnh cụ thể, đặc thù. Giữa các khía cạnh này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau và hỗ trợ nhau trong việc làm rõ nội dung của tư duy mới. Đối với mô hình phát triển kinh tế trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường mà thực chất là quá trình tổ chức theo các nguyên tắc thị trường các hoạt động sản xuất- phân phối- trao đổi- tiêu dùng nhằm bảo đảm hiệu quả tối ưu, tư duy mới về mô hình phát triển kinh tế thể hiện: - Nền tảng sở hữu của nền kinh tế kế hoạch hoá không còn giữ nguyên nghĩa mà có sự khác biệt so với trước. Sự thay đổi về sở hữu góp phần thay đổi cơ bản quyền năng của các chủ thể để thúc đẩy tính linh hoạt và sáng tạo của chúng đến mức cao nhất. - Nền kinh tế thị trường là một tổ hợp vận hành theo chức năng, đặc biệt là chức năng muabán chứ không phải là một thực thể vận hành theo mệnh lệnh hoặc đơn thuần là một hệ thống chủ yếu thực hiện việc cấp phát và giao nộp. - Bản chất nền kinh tế thị trường là một quá trình sáng tạo ra giá trị. Quá trình này diễn ra liên tục và không có điểm kết thúc. Động lực phát triển kinh tế thị trường là vô tận. - Yếu tố thực thể cản trở trạng thái chức năng nghĩa là tư duy nền kinh tế kế hoạch hoá có thể cản trở sự vận hành của tư duy kinh tế thị trường. Để nền kinh tế thị trường vận hành hiệu quả trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cần triệt để đổi mới nhận thức để tạo động lực mở đường. - Nền kinh tế thị trường có thể đạt tới trình độ phát triển cao khi tất cả các nguồn lực được huy động có hiệu quả. Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường là quá trình sàng lọc và đào thải liên tục các yếu tố bất hợp lý và lạc hậu đồng thời với việc thúc đẩy phát triển các yếu tố tiến bộ và phù hợp với xu hướng chung. 2. NHẬN THỨC MỚI VỀ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Nhận thức mới về mô hình phát triển kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phản ánh quá trình đổi mới tư duy về mô hình phát triển kinh tế. Nhận thức đó được tổng kết, đúc rút khá cụ thể trong các văn kiện đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ Đại hội VI đến Đại hội XI, thể hiện: 39 Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 38 – 47 Trường Đại học An Giang Nhận thức mới về cơ cấu sở hữu đa dạng trong nền kinh tế từ việc chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở Việt Nam chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể và dựa trên hai hình thức sở hữu này là hai thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đây là kiểu nhận thức truyền thống của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và phù hợp với việc điều hành theo kế hoạch mênh lệnh từ một cơ quan thống nhất. Các vấn đề cơ bản của kinh tế học là sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai đều do Chính phủ quyết định. Kiểu nhận thức này khá giản đơn, làm tăng sự trì trệ trong vận hành kinh tế, giảm thiểu sự sáng tạo của cá nhân và tập thể. Kết quả là nền kinh tế vận hành theo đúng cơ chế kế hoạch hoá tập trung, thiếu phát huy triệt để các nguồn lực đặc biệt là các nguồn lực phân tán và nguồn lực về sự sáng tạo. Chức năng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế thị trường không được huy động hiệu quả và động lực vận hành nền kinh tế không được khai thác kịp thời. Nguyên nhân của tình trạng này là quan niệm giản đơn về nền tảng kinh tế và phương thức tư duy máy móc với giả định có sở hữu toàn dân chắc chắc sẽ có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và theo đó các nguồn lực được khai thác triệt để gần như tự động dưới sự điều hành của một trung tâm thống nhất. Đồng thời, các quy luật kinh tế của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ra đời và phát huy tác dụng. Các nền kinh tế trong hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa thế giới có thể thực hiện phân công và hợp tác quốc tế thuận lợi do có nền tảng sở hữu chung là dựa trên thế mạnh của từng quốc gia. Hậu quả là nền kinh tế thiếu động lực phát triển thực chất và sự lệch lạc, trì trệ, khủng hoảng, thiếu hụt diễn ra đẩy cả hệ thống xã hội chủ nghĩa đến chỗ sụp đổ vào năm 1991. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa là căn cứ thực tiễn quan trọng chứng minh sự không phù hợp của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung và cần có mô hình phát triển kinh tế phù hợp hơn để thay thế. Nền kinh tế thị trường có thể được xem là mặt đối lập và phủ định biện chứng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung do giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của chính phủ. Các tác nhân trong nền kinh tế tăng lên cả về số lượng và cường độ của các giao dịch. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế đa sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp và sở hữu toàn dân trong đó sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp đóng vai trò chủ đạo. Nhận thức về đa dạng hoá sở hữu là bước đổi mới hay bước giải phóng quan trọng đầu tiên về nhận thức mô hình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Từ sự thay đổi về nhận thức cơ cấu sở hữu, với 27 năm đổi mới kinh tế để chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới về nhận thức ở Việt Nam còn được thể hiện ở việc không thể nhận thức giản đơn có sở hữu tư nhân là có ngay kinh tế thị trường- một điều tương tự như nhận định của V.I. Lênin “nền sản xuất tiểu nông hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản trên quy mô rộng lớn” (Kinh tế- chính trị Mác- Lê nin, 1985). Các quá trình chuyển đổi từ trạng thái đơn nhất sở hữu toàn dân vốn là nền tảng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang sở hữu hỗn hợp hay sở hữu tư nhân là nền tảng của nền kinh tế thị trường đều rất cần đến việc phát huy vai trò của Chính phủ thông qua hoàn thiện thể chế phù hợp với bản chất của chúng, bảo hộ và cho phép cũng như tạo động lực để chúng tự vận hành. Đây là khía cạnh cho thấy bản chất khách quan của quy luật kinh tế được thực hiện thông qua hoạt động chủ quan của con người. Vì thế, có trường hợp chuyển đổi nhanh và có trường hợp chuyển đổi chậm do mức độ khác nhau trong nhận thức và phương thức vận hành. Việc đa dạng hoá sở hữu ở Việt Nam được khẳng định rõ ràng trong Văn kiện Đại hội XI (trang 83) “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nhước, kinh tế co vốn đầu tư nước ngoài”. Quan niệm này đoạn tuyệt dứt khoát với quan điểm ở Việt Nam chỉ có hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và tập thể như thời kỳ kế hoạch hoá, đồng thời khẳng định ở Việt Nam có 3 chế độ sở hữu là toàn dân, tập thể, tư 40 Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 38 – 47 Trường Đại học An Giang nhân (tuyệt nhiên không có chế độ sở hữu nhà nước) và không khẳng định một cách giản đơn sở hữu toàn dân là nền tảng của kinh tế quốc doanh còn sở hữu tập thể là nền tảng của kinh tế tập thể (Bảng 1) mà sự tổ hợp của ba chế độ sở hữu này hình thành nhiều hình thức sở hữu và từ nhiều hình thức sở hữu hình thành nhiều thành phần kinh tế. Nhiều hình thức sở hữu là điều kiện để có nhiều chủ thể sở hữu theo đó các quyền năng xuất phát từ sở hữu được mở rộng góp phần thúc đẩy sự sáng tạo, linh hoạt, gia tăng cạnh tranh và thu hút nhiều nguồn lực từ các chủ sở hữu phục vụ mục tiêu phát triển. Bảng 1. Nhận thức mới về sở hữu- nền tảng của mô hình tổ chức kinh tế Việt Nam Kinh tế kế hoạch hoá Chế độ sở Thành phấn kinh hữu tế Toàn dân Kinh tế quốc doanh Tập thể Kinh tế tập thể Chế độ sở hữu Toàn dân Tập thể Tư nhân Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Hình thức sở Thành phấn kinh tế hữu Sở hữu toàn dân Kinh tế nhà nước Sở hữu nhà nước Kinh tế tập thể Sở hữu tư nhân Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư Sở hữu hỗn hợp nhân) Kinh tế tư bản nhà nước Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở các quan điểm kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam Nếu lấy 3 chế độ sở hữu làm căn cứ để xác định các hình thức sở hữu với giả định bất di bất dịch là một hình thức sở hữu phải có nguồn gốc từ ít nhất một chế độ sở hữu có thể thấy số lượng của các hình thức sở hữu ở Việt Nam là số các tổ hợp của một, hai và ba chế độ sở hữu và kết quả là có 7 hình thức sở hữu cấu thành. Điểm lưu ý là sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu được đại diện bởi nhà nước. Đồng thời, các thành phần kinh tế từ đó được hình thành. Nếu đối chiếu giữa các thành phấn kinh tế được xác định từ các hình thức sở hữu ở Bảng 2 và những thành phần kinh tế được quan niệm thông thường và phổ biến hiện nay ở Việt Nam có thể có những điểm khác nhau như thuật ngữ tư bản tư nhân hay tư bản nhà nước gắn với các thành phần kinh tế nhưng lại không có trong phạm vi các hình thức sở hữu hay chế độ sở hữu. Nói cách khác, việc xác định các thành phần kinh tế chủ yếu căn cứ vào các chủ thể sở hữu và tỷ lệ sở hữu trong tổng số lượng đối tượng sở hữu. Nếu một chủ sở hữu có số lượng đối tượng đủ lớn đến mức đại diện, hình thức tổ chức kinh tế mà thực chất là hình thức kinh doanh sẽ do chủ sở hữu đó quyết định. Chẳng hạn, doanh nghiệp do nhà nước nắm trên 51% cố phấn được gọi là doanh nghiệp nhà nước. Đây là một bước phát triển quan trọng về tư duy sở hữu ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi kinh tế và tạo điều kiện để có sự đan xen lẫn nhau giữa các chủ thể sở hữu cấu thành, các hình thức sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh. Điều này khác với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển là trên cơ sở các chế độ sở hữu hình thành các hình thức tổ chức kinh doanh. Các hình thức kinh doanh này được pháp luật quy định và bảo vệ rõ ràng. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế ở Việt Nam không có một đạo luật độc lập điều chỉnh mà thực chất chỉ có luật pháp bảo vệ hình thức kinh doanh- một điều tương tự như các nền kinh tế thị trường khác. Phương thức điều chỉnh thể hiện ở việc cho phép, khuyến khích, hạn chế hoặc cấm đoán. Thứ tự Các tổ hợp chế độ sở hữu Thành phần kinh tế Bảng 2. Các hình thức sở hữu có thể xác lập từ ba chế độ sở hữu và thành phấn kinh tế (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) Toàn Toàn Toàn dân, tư Tập Tập thể, tư Tập thể, Tư nhân dân dân, tập nhân thể nhân, toàn tư nhân thể dân Nhà Nhà Nhà nước- tư Tập Nhà nước- Tập thể- Tư nhân (trong hoặc/và nước nước- tập nhân (trong thể tập thể- tư tư nhân ngoài nước) thể hoặc/và ngoài nhân nước) Nguồn: Tổng hợp của tác giả 41 Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 38 – 47 Trường Đại học An Giang Với nhận thức mới về đa dạng hoá sở hữu, nền kinh tế Việt Nam hầu như có đầy đủ các hình thức sở hữu của nền kinh tế thị trường và thậm chí còn nhiều hơn một hình thức của các nền kinh tế thị trường khác cho dù đó là nền kinh tế thị trường phát triển cao nhất chăng nữa là sở hữu là sở hữu toàn dân. Nhận thức mới khẳng định khả năng tiên phong và mức độ đón đầu của mô hình phát triển kinh tế Việt Nam hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai và cũng là yếu tố khẳng định tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Cơ cấu sở hữu đặc biệt bảo đảm kết hợp được yếu tố kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam là quốc gia duy nhất và đầu tiên đưa ra mô hình này. Đây là khía cạnh được đánh giá là một công thức vượt thời đại (ý kiến của Cốc Nguyên Dương tại Hội thảo Việt Nam học lần thứ tư tại Hà Nội năm 2012). Điều này còn cho thấy tính đặc thù của mô hình phát triển được Việt Nam lựa chọn mà chỉ có những đột phá mạnh về tư duy mới có được tính đặc thù và điểm đặc biệt cũng như sự khác biệt này so với các nước khác. Đối với Trung Quốc, quá trình cải cách kinh tế Trung Quốc đạt được những kết quả quan trọng- Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, các hình thức sở hữu được xác định là quốc hữu, tư hữu và sở hữu hỗn hợp. Còn đối với các nền kinh tế thị trường, các hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước, tư nhân và hỗn hợp nhưng không có khái niệm sở hữu toàn dân. Kết quả của đa dạng hoá sở hữu là số lượng chủ sở hữu tăng lên đặc biệt là chủ sở hữu thuộc kinh tế tư nhân gồm tiểu chủ, cá thể, tư bản tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy quá trình khai thác và huy động nguồn lực về vốn, lao động, tài nguyên, trí tuệ, tay nghề…vào kinh doanh, tạo ra nhiều giá trị mới cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm, cải thiện đời sồng và đóng góp ngân sách… Nhận thức mới về chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Đây là quá trình nhận thức quan trọng về mô hình phát triển để hiểu được thực chất của nó cũng như thấy được mức độ lỗi thời của mô hình hiện tại so với những đòi hỏi của thực tiễn. Quá trình nhận thức đầy đủ mức độ lỗi thời của mô hình đồng nghĩa với sự vượt trội về tư duy hay thể hiện được tính tiên phong hay khả năng đi trước của ý thức xã hội được đại diện bới nhận thức của các nhà hoạch định chính sách đối với tồn tại xã hội. Mô hình tăng trưởng của Việt Nam, mặc dù có sự chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý từ kế hoạch hoá mệnh lệnh sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra trong vòng 27 năm, vẫn là mô hình tăng trường theo chiều rộng. Đặc trưng của mô hình này là “tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, vào những ngành và những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động tăng chậm và còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, chi phí kinh doanh cao, chất lượng và hiệu quả thấp“. (Văn kiện XI, tr. 163) Các nghiên cứu tổng thể về chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đều cho thấy các chỉ số phản ánh chất lượng ngày càng có xu hướng kém đi như năng suất lao động, năng suất tổng hợp các yếu tố trong khi hệ số vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng (ICOR) có xu hướng tăng… Từ nhận thức về mô hình phát triển kinh tế Việt Nam cho thấy mặc dù có sự chuyển đổi cơ bản về cơ chế quản lý kinh tế song chất lượng tăng trưởng kinh tế không vì thế được cải thiện một cách tự động, do đó, vai trò của cơ chế quản lý cần được triệt để khai thác như là một nhân tố không thể thiếu trong việc tạo động lực thúc đẩy kinh tế vận hành theo chiều sâu. Chất lượng của cơ chế quản lý phụ thuộc trực tiếp vào năng lực quản lý và hiệu quả điều hành của đội ngũ cán bộ. Đồng thời, để hỗ trợ hữu hiệu việc phát huy vai trò của cơ chế quản lý đển chất lượng tăng trưởng kinh tế, Đề án tổng thể “Tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế” được xây dựng và thông qua bởi Chính phủ năm 2012. Bên cạnh đó, các đề án tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng như các đề án tái cấu trúc khác của các ngành, địa phương…được xây dựng và phê duyệt góp phần phát huy tác động tổng thể của thể chế 42

ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0