Nhận thức và thái độ học tập môn giáo dục công dân ở một số trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 2
download
Mục tiêu của nghiên cưu này nhằm tìm hiểu làm thế nào để học sinh THPT nhận thức được tầm quan trọng của môn học GDCD cũng như có thái độ học tập tích cực đối với môn học này. Đồng thời thu thập ý kiến tìm hiểu những tâm tư nguyện vọng của các học sinh THPT về việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy như thế nào cho phù hợp, cho gần gũi và dễ đi sâu vào lòng người, vào ý thức của học sinh nhất. Từ đó tạo ra cách nhìn nhận theo chiều hướng tích cực hơn của xã hôi đối với môn GDCD.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nhận thức và thái độ học tập môn giáo dục công dân ở một số trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
- Năm học 2008 – 2009 NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Ngọc Trang Sinh viên năm 3, Khoa GDCT GVHD: ThS. Lê Thanh Hà 1. Lý do chọn đề tài Yêu cầu đổi mới giáo dục, xây dựng con người vừa hồng vừa chuyên. Vấn đề này đã được đặt ra từ khá lâu, trong những năm qua đã có nhiều có gắng thực hiện nhưng hiệu quả chưa cao. Tình trạng xuống cấp về đạo đức của học sinh THPT trong thời gian gần đây được dư luận xã hội rất quan tâm và không ít người đã đặt ra câu hỏi về vấn đề này cho việc giảng dạy môn Giáo dục công dân (GDCD) trong trường học. Có thể nói môn GDCD dường như đang bị quá sức trong sứ mệnh “góp phần giáo dục con người toàn diện” kể cả về nội dung, chương trình học và phương pháp giảng dạy. Một số bất cập xoay quanh môn GDCD đang gây ra nhiều vấn đề tranh cãi cần phải giải quyết. Là sinh viên khoa GDCT – người trực tiếp giảng dạy bộ môn GDCD ở trường THPT sau này-đứng trước những vấn đề mang tính thời sự và bức thiết như đã nếu trên, người nghiên cứu chọn đề tài “Nhận thức và thái độ học tập môn GDCD ở một số trường THPT trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh” nhằm tìm hiểu làm thế nào để học sinh THPT nhận thức được tầm quan trọng của môn học GDCD cũng như có thái độ học tập tích cực đối với môn học này. Đồng thời thu thập ý kiến tìm hiểu những tâm tư nguyện vọng của các học sinh THPT về việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy như thế nào cho phù hợp, cho gần gũi và dễ đi sâu vào lòng người, vào ý thức của học sinh nhất. Từ đó tạo ra cách nhìn nhận theo chiều hướng tích cực hơn của xã hôi đối với môn GDCD. 2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu thực trạng nhận thức về tầm quan trọng và thái độ học tập môn GDCD của học sinh một số trường THPT trên địa bàn Tp Hồ Chí Minh - Từ những kiến nghị của học sinh đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD ở trường THPT. 159
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu thực trạng nhận thức về tầm quan trọng, mức độ quan tâm đến môn GDCD của học sinh một số trường THPT trên địa bàn TP HCM - Tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng của những biểu hiện của thái độ học tập thiếu tích cực với môn GDCD của học sinh THPT - Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học GDCD để thu hút học sinh hơn 4. Phương pháp nghiên cứu - Sử dụng phương pháp lịch sử và logic - Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh - Phương pháp thống kê 5. Thực trạng nhận thức và thái độ học tập môn GDCD ở một số trường THPT trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh 5.1. Tình hình dạy và học môn GDCD ở một số trường THPT trên địa bản Tp. Hồ Chí Minh Nhằm tìm hiểu làm thế nào để học sinh THPT nhận thức được tầm quan trọng của môn học GDCD cũng như có thái độ học tập tích cực đối với môn học này. Đồng thời thu thập ý kiến tìm hiểu những tâm tư nguyện vọng của các học sinh THPT về việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy như thế nào cho phù hợp, cho gần gũi và dễ đi sâu vào lòng người, vào ý thức của học sinh nhất. Cuộc khảo sát tìm hiểu về nhận thức và thái độ học tập môn GDCD ở lứa tuổi THPT đã được tiến hành bằng phương pháp phát phiếu thăm dò ý kiến trên 9 lớp: lớp 10D2, 11A3, 12A2 của trường Trung Học Thực Hành; lớp 10A18, 11A6, 12A4 của trường THPT Lý Tự Trọng; lớp 10A2, 11A18, 12A6 của trường THPT Lương Văn Can. Số phiếu phát ra là 360 phiếu, thu lại là 360. Số phiếu không hợp lệ là 7 phiếu. Còn lại 353 phiếu. 5.1.1 Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của môn GDCD Câu 1: Mức độ cần thiết của môn GDCD thông qua ý kiến của học sinh THPT Như đã đề cập ở trên môn GDCD có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với việc hoàn thiện nhân cách của học sinh lứa tuổi THPT. Thế nhưng trên thực tế hiện nay sự cần thiết của môn học này lại không được các bạn trẻ đánh 160
- Năm học 2008 – 2009 giá cao. Điều đó được thể hiện rõ qua bảng số liệu thu được từ cuộc khảo sát. Có đến 45.89% trong tổng số học sinh được khảo sát cho rằng môn học này chỉ dừng lại ở chỗ khá cần thiết; 19.55% cho rằng có cũng được, không có cũng không sao; một thực tế đáng buồn vẫn có 7.37% cho rằng môn học này là hoàn toàn không cần thiết và chỉ có 30.59% cho rằng môn này rất cần thiết. Câu 2: Số tiết học GDCD trong một tuần như thế nào là phù hợp? Bảng số liệu cho thấy có đến 65.44% đồng ý với số lượng tiết học GDCD như hiện tại tức 1 tiết/1 tuần; 21.81% cho rằng 2 đến 3 tiết/1 tuần cũng được; 5.95% chọn đáp án càng nhiều càng tốt. Như vậy số đông học sinh vẫn tán thành với sự có mặt của tiết GDCD trong chương trình học hàng tuần nhưng với số lượng vừa phải. Và vẫn có 10.19% số học sinh cho rằng không cần tiết GDCD nào trong tuần. Tuy nhiên, số lượng chọn câu trả lời này không nhiều. Qua đó vẫn có thể khẳng định rằng lượng thời gian học GDCD 1 tiết/1 tuần như hiện nay là đảm bảo và phù hợp với ý kiến của học sinh; nghĩa là về mặt thời gian học không có gì là quá tải, là gây áp lực cho học sinh. Câu 3: Biện pháp để nâng cao tầm quan trọng của môn GDCD 50.71% học sinh chọn câu trả lời liên quan đến việc nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên cho môn GDCD và có những chính sách ưu đãi để giáo viên có thể chuyên tâm vào công việc, giáo viên cần tổ chức môn học này nghiêm túc hơn, cho điểm đúng thực chất chứ không nên nương tay vì cho rằng đây chỉ là môn phụ; 30.88% cho rằng cần có sự đầu tư thích đáng như: tổ chức các cuộc thi học sinh giỏi hoặc giáo viên dạy giỏi của môn học này. Chỉ có 6.52% học sinh đồng ý với cách đưa môn GDCD vào thi tốt nghiệp, tăng số tiết học, điểm GDCD nhân hệ số II hoặc 12.18% đồng ý lấy môn này làm môn điều kiện để xét tốt nghiệp hoặc xét vào các trường Đại Học, Cao Đẳng, THCN. Từ đó cho thấy vấn đề đang gây tranh cãi hiện nay đó là có nên nâng cao tầm quan trọng của môn GDCD bằng cách đưa nó vào thi cử, xét tuyển hay không? Trên thực tế cho thấy rất ít học sinh tán thành với cách giải quyết này. Mà số đông học sinh lại chọn các cách liên quan đến việc cải thiện chất lượng dạy và học, có sự đầu tư đúng mức cho môn học này. 5.1.2. Mức độ quan tâm của các học sinh dành cho môn GDCD Quan niệm chung của học sinh nói riêng và của toàn xã hội nói chung về môn GDCD trước giờ thường xem môn này chỉ là môn phụ và chỉ đóng vai trò bồi dưỡng thêm cho việc hình thành, hoàn thiện nhân cách của con người mà 161
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH thôi. Nên việc đầu tư cho môn học này cũng còn nhiều hạn chế. Mặc dù vẫn có những ý kiến cho rằng chương trình môn GDCD hiện nay còn quá nhiều những kiến thức trừu tượng khó hiểu, thế nhưng lượng thời gian học sinh dành cho việc tìm hiểu bài của môn học này lại tương đối hạn hẹp. Câu 4: Lượng thời gian dành cho môn GDCD Phần lớn học sinh (45.61%) chỉ dành 30 phút học bài ở nhà trước ngày có tiết môn này; 31.73% học sinh chỉ cần 5 phút xem bài trước khi lên trả bài; 20.11% thì lại không quan tâm đến môn học này và chỉ có 6.52% số học sinh cho rằng mình dùng hơn 2 giờ mỗi tuần để tìm hiểu môn học này. Thế nhưng trên thực tế một nghịch lý lại cho thấy mặc dù không có sự đầu tư thích đáng, không phải mất nhiều thời gian cho môn học mà kết quả học tập môn này của các em vẫn khá cao. Câu 5: Điểm trung bình môn GDCD của học sinh Qua cuộc thăm dò cho thấy có 59.66% số học sinh cho biết kết quả học tập môn này của các em đạt loại khá; 22.66% đạt loại giỏi; 16.71% loại trung bình và chỉ có 1.42% loại yếu kém. Như vậy tổng số lượng các em bị điểm dưới trung bình và trung bình môn học này ít hơn số lượng các em có điểm giỏi và cũng không bằng 1/3 số em có điểm khá. Vì đây là môn học góp phần hình thành nhân cách, năng lực, phẩm chất cho học sinh nên kết quả này sẽ là một điều đáng mừng nếu như nó phản ánh đúng thực chất mà học sinh đạt được. Tuy nhiên một thực tế không thể phủ nhận đó là xã hội đang lên án rất nhiều những tình trạng xuống cấp về đạo đức của học sinh, giới trẻ dường như đang bị cuốn vào một lối sống bồng bột, buông thả, tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Thế thì liệu việc đánh giá điểm môn GDCD cho các em đã thật sự chính xác và phù hợp? 5.1.3. Những biểu hiện của thái độ học tập đối với môn GDCD Câu 6: Thực tế những việc học sinh hay làm trong giờ học GDCD Chỉ có 26.71% số học sinh cho biết là các em chăm chú nghe giảng và phát biểu xây dựng bài. Trong khi đó có đến 29.75% các em lấy môn khác ra học, 13.88% các em nói chuyện hoặc chơi ca rô, 9.07% các em ngủ trong tiết này hoặc tìm cách bỏ tiết. Còn phần lớn 49.58% các em chỉ ngồi nhìn lên bảng nghe giáo viên đọc để chép bài. Kết quả thu được cũng đã phản ánh phần nào thực tế tiết học GDCD diễn ra khá buồn tẻ và thật sự chưa thu hút được sự chú ý của học sinh. Thế nên cũng không mấy bất ngờ khi được biết tâm trạng của các em trước khi bước vào tiết học này như sau: 162
- Năm học 2008 – 2009 Câu 7: Tâm trạng thường gặp của học sinh khi chuẩn bị bước vào tiết học GDCD 50.71% em chỉ xem tiết học GDCD như một giờ giải lao như trên đã đề cập các em có thể dùng giờ này để ngủ, để trốn tiết, để chơi ca rô, để nói chuyện hoặc để lấy môn khác ra học… Có lẽ cũng chính vì thế mà kéo theo có 26.06% các em phấn khởi chờ đợi tiết học này hoặc cũng có khả năng các em thật sự yêu thích môn học này. 23.51% cho rằng buồn chán không muốn học và 5.95% cảm thấy căng thẳng và sợ hãi. Tóm lại theo khảo sát trên thực tế cho thấy hiện nay việc tổ chức học môn GDCD trên lớp ở các trường THPT vẫn chưa thật sự mang lại hiệu quả cao, vẫn chưa thu hút được sự quan tâm của học sinh. Số đông các em vẫn chỉ học môn này theo kiểu đối phó, với tâm trạng không mấy hào hứng. 5.2. Nguyên nhân của những thực trạng trên 5.2.1 Nguyên nhân chủ quan 5.2.1.1. Xuất phát từ bản thân học sinh Câu 8: Quan niệm của học sinh THPT về môn GDCD Theo thống kê từ cuộc thăm dò ý kiến thì có đến 49.29% số học sinh cho rằng môn học này còn mang nặng tính lý thuyết, khó áp dụng được vào thực tế. Đây là câu trả lời được tán thành nhiều nhất trong số các trường hợp được đưa ra. Thế nhưng ta cũng có thể thấy điều khá bất ngờ ở các câu trả lời còn lại: có đến 38.24% số học sinh - đứng vị trí thứ hai - nhận thức đúng đắn được rằng đây là môn học có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, nó bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn, rèn luyện đạo đức, nhân cách, ý thức sống tuân thủ theo pháp luật của học sinh; 24.65% số học sinh cho rằng môn GDCD là môn học rất quan trọng và cần thiết nhưng chưa được coi trọng, chưa được đầu tư đúng mức dẫn đến chưa mang lại hiệu quả cao; và chỉ có 11.05% cho rằng đây chỉ là một môn phụ, khó hiểu, dễ gây buồn ngủ, nhàm chán; không có vai trò gì lớn. Qua đó ta nhận thấy một điều rằng thật ra phần lớn học sinh vẫn nhận thức ý nghĩa, vai trò quan trọng của môn GDCD, nhưng bên cạnh đó vẫn cho rằng đây chỉ là môn phụ, môn học lý thuyết và không đánh giá cao môn học này. 5.2.1.2 Xuất phát từ giáo viên, đội ngũ cán bộ giảng dạy Môn GDCD đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách của mỗi học sinh. Việc hình thành nhân cách của mỗi 163
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH con người là một quá trình lâu dài và chịu ảnh hưởng của rất nhiều tác động từ môi trường xung quanh. Chính vì thế, trước tình trạng xuống cấp đạo đức của học sinh mà xã hội đang rất bức xúc và đề cập rất nhiều trong thời gian gần đây chúng ta không thể nào chỉ đổ lỗi cho việc đào tạo môn GDCD ở trường THPT, càng không thể nào chỉ đổ lỗi cho giáo viên giảng dạy môn này. Cần khẳng định rằng đó là trách nhiệm của toàn xã hội, của bản thân mỗi con người. Thế nhưng nếu như mỗi cá nhân tự nhận thấy được một phần trách nhiệm của mình và cùng nhau tìm ra phương pháp tự cải thiện thì sẽ mang lại hiệu quả tích cực hơn. Đó cũng là một đòi hỏi quan trọng đặt ra cho mỗi giáo viên – những con người được xã hội trực tiếp đặt trách nhiệm lên vai. Để làm được điều đó trước tiên chúng ta phải tìm hiểu xem học sinh THPT thật sự đang cần gì ở một người giáo viên GDCD trong giai đoạn hiện nay. Câu 9: Những phẩm chất cần có của người giáo viên dạy GDCD Qua bảng thống kê nhận thấy chỉ có 4.82% học sinh cho rằng người giáo viên GDCD là phải tuyệt đối gương mẫu, 60.06% học sinh THPT yêu cầu giáo viên GDCD phải có sự nhiệt huyết, thật sự yêu nghề và nắm bắt được tâm lý của học sinh. Có 42.49% học sinh lựa chọn giáo viên phải năng động, linh hoạt và có khả năng nắm bắt xử lý các nguồn thông tin và 9.92% học sinh trong cuộc khảo sát yêu cầu người giáo viên dạy GDCD của mình phải được đào tạo chuyên môn và nghiệp vụ đầy đủ. Câu 10: Dự định trở thành giáo viên GDCD Khi được khảo sát thì có đến 44.48% học sinh thẳng thắn trả lời rằng mình không bao giờ có ý định trở thành giáo viên dạy GDCD, 27.19% học sinh cho rằng cũng có thể mình sẽ trở thành giáo viên GDCD. 25.50% khẳng định mình chỉ trở thành giáo viên GDCD trừ khi không còn sự lựa chọn nào khác. Chỉ có một số lượng rất ít 2.83% học sinh khẳng định rằng chắc chắn mình sẽ trở thành giáo viên GDCD. Dự định trở thành giáo viên GDCD có vẻ như còn quá xa lạ ở học sinh THPT. Như vậy việc đào tạo ra số lượng vừa đủ giáo viên môn GDCD thật sự tâm huyết với nghề không phải là một điều đơn giản mà là một thử thách đối với khoa GDCT nói riêng và với toàn xã hội nói chung. 5.2.2. Nguyên nhân khách quan 5.2.2.1 Tâm lý chung của xã hội Câu 11: Ý kiến về vấn đề có nên đưa môn GDCD vào thi tốt nghiệp không? 164
- Năm học 2008 – 2009 Lý do được nhiều học sinh lựa chọn nhất là không nên vì cho rằng đây là môn học ít có ý nghĩa thực tiễn hơn các môn khác và kiến thức thì lại trừu tượng khó hiểu chiếm 42.21%. Lý do thứ hai chiếm 16.15% , do học sinh ít chịu thay đổi và thích theo nếp cũ tức là theo các em từ trước đến giờ môn nào thường thi tốt nghiệp thì cứ tiếp tục thi vì các em đều đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho các môn thi đó, nên môn GDCD trước giờ không tổ chức thi tốt nghiệp thì bây giờ cũng không nên tổ chức vì các em không được chuẩn bị sẵn tâm lý trước sẽ tập trung học môn này để thi. Lý do thứ ba được 14.45% các em lựa chọn là vì cho rằng không nên mang môn học có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc này ra thi thố lấy điểm như thế sẽ dễ gây tính áp đặt. Ngược lại cũng có 21.81% học sinh cho rằng việc tổ chức thi tốt nghiệp môn GDCD cũng tốt vì nó tạo ra những nét mới và cho rằng việc học bài môn này cũng nhẹ nhàng đỡ căng thẳng. Bên cạnh việc học sinh có những ý kiến thể hiện quan điểm nên hoặc không nên thì vẫn còn 7.65% học sinh tỏ thái độ không quan tâm lắm đến việc tổ chức thi hay không thi tốt nghiệp môn học này và chọn ý trả lời rằng sao cũng được. Qua kết quả thu được ta nhận thấy rằng việc tổ chức thi tốt nghiệp môn GDCD vẫn còn đang là điều gây tranh cãi tuy nhiên điều đó sẽ không hẳn là quan trọng nhất bởi vì khi các ý kiến cho rằng không nên tổ chức thi tốt nghiệp môn này là đều có lý do của nó mà để khắc phục được điều ấy thì điều quan trọng hơn lúc này là phải tìm cách thay đổi cách nhìn của học sinh về môn học này thì tranh cãi ấy sẽ được giải quyết dễ dàng hơn. Câu 12: Yếu tố làm cho môn GDCD trở nên thu hút hơn 51.84% cho rằng để môn học trở nên thu hút hơn việc đầu tiên là phải đổi mới về phương pháp dạy, có sự hỗ trợ của các phương tiện dạy học. 30.03% học sinh cho rằng điều quan trọng là phải thay đổi quan niệm chung của của xã hội, của học sinh và của kể cả giáo viên về môn học này, điều đó chứng tỏ các em cũng đã ý thức được rằng vai trò môn GDCD chưa được đánh giá cao không chỉ do bản thân nó mà còn phụ thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi người. Bên cạnh đó cũng có 23.80% cho rằng để môn học này trở nên thu hút hơn thì phải đổi mới nội dung chương trình học. Cuối cùng chỉ có 6.52% số học sinh cho rằng nên nâng cao tầm quan trọng của môn học này thông qua việc thi cử, đánh giá điểm. Từ đó có thể đánh giá rằng số đông học sinh không thích dùng các phương pháp áp đặt liên quan đến điểm số cho môn học này. Như đã nêu trên phần vì cho rằng đây là môn học giáo dục đạo đức mang giá trị nhân văn sâu sắc vì thế không nên dùng điểm số để áp đặt, khống chế. Phần vì quan niệm chung vẫn coi đây là môn 165
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH phụ nên vẫn chưa chuẩn bị tâm lý cho việc sẽ phải tập trung học môn này để thi cử, lấy điểm số. Tóm lại qua số liệu trên cho thấy để môn GDCD trở nên thu hút hơn cần phải đổi mới trên rất nhiều lĩnh vực, nhiều phương diện thế nhưng cụ thể phải đổi mới theo hướng nào là tối ưu, là cần thiết, là phải làm trước trong lúc này. Câu 13: Hướng đổi mới việc học GDCD Có 54.96% học sinh cho rằng cần có sự lồng ghép những nội dung thực tiễn, gần gũi hơn vào bài học. 40.23% học sinh đề nghị cần có những phương pháp tốt hơn để thu hút học sinh. Chỉ có 17.28% cho rằng nên giảm bớt khối lượng kiến thức trong nội dung chương trình và 5.95% cho rằng phải giảm bớt số tiết học. Như vậy, có thể nhận xét rằng việc tạo ra sự nhàm chán cho học sinh trong các tiết học GDCD phần lớn không phải là từ nội dung chương trình học, càng không phải là thời lượng (số tiết) của môn học mà lý do quan trọng đó là phương pháp truyền đạt chưa thật sự thu hút, chưa thật sự gây hứng thú cho học sinh. Vì thế cho nên điều học sinh mong muốn đó là cần có những phương pháp truyền đạt tốt hơn đưa nội dung học trở nên gần gũi hơn, đi vào thực tiễn nhiều hơn để các em dễ nắm bắt hơn. 5.2.2.2 Nội dung chương trình học Câu 14: Ý kiến của học sinh về kiến thức môn GDCD hiện nay Có 11.05% học sinh cho rằng nội dung học còn quá sơ sài trong khi đó lại có hơn gấp đôi tức 22.95% số học sinh lại cho rằng kiến thức môn này là quá tải so với lứa tuổi của mình. Có 40.79% học sinh cho rằng kiến thức trong chương trình học môn này còn chưa phù hợp, chỗ thừa, chỗ lại thiếu; 37.39% nhận thấy kiến thức còn chậm đổi mới, chưa gắn với thực tế. Và câu trả lời nhận được ít sự lựa chọn của các em nhất là ý kiến cho rằng kiến thức môn học này như vậy là đã hoàn thiện, phù hợp. Qua đó có thể nhận thấy rằng: số đông học sinh vẫn còn băn khoăn, chưa tán thành với kiến thức trong nội dung chương trình học môn GDCD về cả chất lượng lẫn số lượng nhưng quan tâm nhiều hơn đến chất lượng. Câu 15: Nhận xét về nội dung những bài học GDCD trong SGK Kết quả của câu hỏi này cho thấy phần lớn học sinh 49.29% cho rằng nội dung môn học này mang tính giáo dục cao nhưng lại chưa đi vào thực tế; từ đó dẫn đến tình trạng nhàm chán, khó tiếp thu chiếm 22.66% ý kiến lựa chọn của học sinh như vậy là phù hợp với kết quả điều tra trên tức là phần lớn học sinh cho rằng kiến thức môn học này chưa phù hợp, chậm đổi mới. 16.99% cho rằng nội 166
- Năm học 2008 – 2009 dung môn học này còn giáo điều, khuôn mẫu và 21.53% học sinh cho rằng nội dung như vậy đã là hợp lý và cần thiết. Nhìn chung nhận xét của các em học sinh về nội dung môn GDCD là chưa hoàn thiện, chưa thu hút, còn mang tính khô khan, khó tiếp thu. 5.2.2.3 Phương pháp và phương tiện dạy học Câu 16: Phương pháp dạy môn GDCD được học sinh cho là hiệu quả Nhìn chung việc áp dụng các phương pháp dạy và học môn GDCD được học sinh lựa chọn tương đối rải đều ra tất cả các phương pháp. Trong đó phương pháp được lựa chọn nhiều nhất là chơi trò chơi và diễn kịch chiếm 54.96%, đứng ở vị trí thứ hai là phương pháp giải quyết tình huống chiếm 29.46%, thứ ba là cách giảng bằng PowerPoint chiếm 25.78% và thứ tư là phương pháp thảo luận nhóm chiếm 22.38%. Dường như với tính chất đặc thù của môn học là khô khan, cứng nhắc thế nên nhóm phương pháp được các em lựa chọn nhiều nhất đó là những phương pháp mang tính sôi động, đòi hỏi áp dụng thực tế mắt thấy tai nghe và sự chủ động chuẩn bị của học sinh. Bên cạnh đó những phương pháp mang tính truyền thống như “đọc – chép”, đặt câu hỏi trả lời, đứng ở vị trí khiêm tốn hơn vì có vẻ như theo xu hướng chung của sự phát triển xã hội học sinh dần dần cũng thay đổi quan niệm của mình. Song song với việc đổi mới phương pháp giảng dạy đó là việc sáng tạo ra các phương tiện hỗ trợ giảng dạy môn học này. Vì là môn học mang tính trừu tượng cao, tính khái quát cao nên việc tạo ra những sản phẩm trực quan sinh động phù hợp với nội dung để áp dụng vào việc giảng dạy là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa. Câu 17: Phương tiện hỗ trợ môn GDCD được học sinh yêu thích 66.01% học sinh rất thích thú với việc được xem những thước phim tư liệu. Bởi vì phim tư liệu là phương tiện hỗ trợ sống động nhất, có nội dung rõ ràng nên dễ tập trung sự chú ý của học sinh nhất và dễ ghi nhớ nhất. Tiếp đến đó là hình ảnh với sự tán thành của 34.56% học sinh. 12.18% học sinh thích có một sơ đồ tóm tắt nội dung bài học, phương pháp này được đánh giá là khá hiệu quả trong việc củng cố nội dung bài học cho học sinh đồng thời giúp các em hiểu và ghi nhớ bài một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn. Và cuối cùng có 2.83% học sinh thấy thích thú với các dạng biểu đồ. Tóm lại tất cả các phương tiện đều cần thiết và quan trọng bởi vì cũng tùy nội dung bài học mà áp dụng các phương tiện vào như thế nào cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Để làm được điều đó phụ 167
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH thuộc rất nhiều vào sự tâm huyết với nghề, sự đầu tư, sự khéo léo của mỗi giáo viên. Đổi mới môn học GDCD phải là sự đổi mới một cách toàn diện. Ngoài việc quan tâm đến sự đổi mới trên các phương diện: từ quan niệm, đến nội dung, phương pháp giảng dạy, phương tiện thì còn một phương diện nữa cũng hết sức quan trọng, cần thiết và rất được sự quan tâm của học sinh dó là đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả: Câu 18: Hình thức kiểm tra môn GDCD được học sinh quan tâm Hiện nay cùng với việc đổi mới phương pháp giáo dục thì hình thức kiểm tra cũng có nhiều chuyển biến, nó trở nên đa dạng và phong phú hơn. Tạo cho giáo viên có nhiều lựa chọn khách quan hơn trong việc đánh giá kết quả học tập của học sinh. Mỗi hình thức kiểm tra đều có những ưu và nhược điểm riêng của nó. Tuy nhiên qua cuộc thăm dò ý kiến cho thấy có 46.18% học sinh có ý kiến nên kiểm tra bằng hình thức trắc nghiệm; 32.01% học sinh thích kiểm tra bằng bài tự luận nhưng đề mở, câu hỏi vận dụng cách hiểu bài vào giải quyết các vấn đề ngoài thực tế; 21.25% học sinh cho rằng nên kiểm tra bằng hình thức thi vấn đáp, hỏi trả lời trực tiếp và ít nhất là 12.46% học sinh thích làm bài tự luận đề đóng như bình thường vì cho rằng chỉ cần học thuộc bài là xong. Tất nhiên hình thức kiểm tra cũng chỉ là một cách đánh giá tương đối chất lượng môn học đối với các em mà thôi. Điều quan trọng và cần thiết nhất là xây dựng cho các em một cơ sở, một nền tảng niềm tin vững chắc vào những giá trị đạo đức tốt đẹp, hướng tới chân – thiện – mỹ. 6. Kiến nghị 6.1 Một số kiến nghị về nội dung chương trình GDCD trong trường THPT Đối với những người có trách nhiệm trong việc đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa cần phải có những cuộc điều tra thăm dò nhằm tham khảo xem nên đưa nội dung giáo dục nào vào là cần thiết, là phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Sau đó tìm cách diễn đạt và trình bày nội dung đó sao cho thu hút, sao cho thực tế và dễ đi vào lòng người. Người giáo viên trước tiên phải tin rằng nội dung cần truyền đạt là hết sức cần thiết từ đó có sự đầu tư thích hợp làm sao cho diễn giải được tầm quan trọng của nội dung ấy, và có những biện pháp chứng minh cho học sinh thấy nội dung mình đang học là hoàn toàn có liên hệ với thực tiễn và cần phải được thực hành trong đời sống. 168
- Năm học 2008 – 2009 Còn với học sinh nhiệm vụ là dựa trên cơ sở định hướng của giáo viên tự tìm tòi ra mối liên hệ giữa kiến thức môn học và thực tiễn thông qua những ví dụ, những điều mắt thấy tai nghe gần gũi trong cuộc sống hàng ngày. Tìm cách áp dụng những nội dung được học vào những hành động trong thực tế rồi tự rút ra nhận định của bản thân. 6.2 Một số kiến nghị về việc đổi mới phương pháp, đầu tư phương tiện hỗ trợ dạy môn GDCD Mỗi phương pháp giảng dạy đều có những ưu và nhược điểm riêng điều quan trọng nhất là người giáo viên phải biết cách vận dụng như thế nào cho phù hợp. Vì thế cho nên kiến nghị đặt ra cho người giáo viên đó là khi áp dụng bất kỳ hình thức phương pháp dạy học nào cũng phải tìm hiểu cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp đó, nhìn thấy được ưu - nhược điểm mà phương pháp đó mang lại để có những cách khắc phục, điều chỉnh cho hiệu quả. Tùy theo nội dung từng môn học, từng bài học, từng đối tượng học sinh, cơ sở vật chất của từng trường, tùy sở trường bản thân và thời gian chuẩn bị… mà lựa chọn những phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Tránh việc lồng ghép một cách bừa bài quá nhiều phương pháp trong một buổi học làm cho học sinh thấy rối. Khi áp dụng các phương pháp mới đều cần phải có sự đầu tư nhất định về tinh thần, thời gian chuẩn bị và dự đoán tất cả những tình huống có thể xảy ra trong lớp. Dù là phương pháp nào đi nữa thì giáo viên cũng phải có sự đầu tư nhất định và truyền đạt được ý nghĩa thực tiễn của nội dung học để học sinh có thể thấy được vai trò quan trọng của bài học mình vừa tiếp thu được. Nhiệm vụ của học sinh cần phải phát huy tính chủ động, tích cực của mình. Tức là học sinh cũng phải chuẩn bị trước nội dung bài học, tìm những ví dụ liên hệ thực tế hay tìm những thông tin có liên quan, đặt ra những câu hỏi cho những chỗ chưa hiểu hết, đặt ra những vấn đề liên quan để thảo luận. Học sinh cần hợp tác với giáo viên để tiết học mang lại hiệu quả cao. Đồng thời khi áp dụng các phương pháp mới vào dạy học lấy người học làm trung tâm nghĩa là học sinh cũng phải chuẩn bị tâm lý rằng mình là người chủ động đi tìm ra chân lý thông qua những gợi ý, hướng dẫn của giáo viên và mình phải là người rút ra kết luận nội dung mà bài học muốn truyền tải là gì để đi vào thực tế hành động. Cùng với việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì việc đầu tư các phương tiện hỗ trợ giảng dạy cho môn GDCD cũng là một điều tất yếu. Trước tiên đối với Nhà nước cần có sự hỗ trợ kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất, các phương tiện khoa học kỹ thuật như trang bị hệ thống máy tính, máy chiếu, micro cho các 169
- Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH lớp học… Đầu tư cho việc đào tạo những giáo viên giảng dạy GDCD ngoài trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Sư Phạm còn cần đào tạo thêm chuyên môn sử dụng các thiết bị khoa học kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy GDCD thế nào cho hiệu quả. Bên cạnh đó cũng đào tạo thêm cho giáo viên môn GDCD biết cách sử dụng từng phương pháp dạy học mới thế nào cho hiệu quả, kỹ thuật thiết kế các phương tiện hỗ trợ học tập môn này như biểu đồ, sơ đồ, sưu tầm những hình ảnh như thế nào… là đơn giản, ít tốn kém thời gian nhất nhưng vẫn đảm bảo tính hiệu quả. Còn đối với đội ngũ giáo viên cần phải rèn luyện khả năng tích lũy kiến thức làm nền tảng cho việc nắm bắt và xử lý các nguồn thông tin đúng định hướng. Dành thời gian đầu tư cho việc thiết kế các phương tiện phục vụ cho việc giảng dạy, thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước và những người xung quanh. Tùy theo môn học, tùy theo phương pháp chọn để giảng mà người giáo viên cần lựa chọn cũng như sáng tạo ra những phương tiện hỗ trợ giảng dạy tiện lợi, giúp học sinh dễ tiếp thu và mang lại hiệu quả cao. 6.3 Một số kiến nghị về phẩm chất, năng lực cần có của một giáo viên dạy môn GDCD Điều kiện đầu tiên đối với giáo viên dạy môn này là phải hết sức bản lĩnh, lập trường tư tưởng chính trị phải hết sức vững vàng để có thể đối diện được với những áp lực từ quan niệm chung và cách đánh giá của xã hội về môn học này. Thứ hai là lòng nhiệt huyết, yêu nghề. Vì có nhiệt huyết và sự yêu thích thì họ mới có thể có sự đầu tư tìm ra những phương pháp giảng dạy một cách tích cực, khơi dậy sự hứng thú của học sinh và mang lại hiệu quả. Vì đây là môn giáo dục những giá trị đạo đức, một lĩnh vực giáo dục tương đối nhạy cảm nên yêu cầu thứ ba đó là phải nắm bắt được tâm lý của học sinh, hiểu được học sinh cần gì, muốn gì và thích gì để có thể áp dụng những cách giáo dục thích hợp cho từng đối tượng, đưa bài học tác động sâu vào tư tưởng hành động của các em. Đòi hỏi thứ tư đối với người giáo viên GDCD trong giai đoạn hiện nay còn phải là người năng động, linh hoạt kịp thời nắm bắt những nguồn thông tin và xử lý các thông tin được đề cập trong xã hội để vận dụng vào các bài giảng chứng minh tính thiết thực của nội dung môn học. Một yêu cầu cũng không kém phần quan trọng đối với người giáo viên GDCD cũng như những giáo viên ở bộ môn khác đó là phải được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kỹ càng, đây là đòi hỏi vô cùng cần thiết. Cuối cùng trong tình hình hiện nay một yếu tố hết sức cần thiết riêng dành riêng cho giáo viên môn GDCD nữa đó là phải ý thức được vai trò của bản thân mình cũng như của bộ môn trong việc rèn luyện đạo đức cho học sinh nên giáo viên 170
- Năm học 2008 – 2009 còn cần phải hết sức nghiêm túc trong giờ dạy cũng như kiểm tra đánh giá kết quả học tập của các em vì đó sẽ là cách tối ưu nhất trong việc buộc các em phải ý thức được việc học của mình trong đó có việc học môn GDCD. 7. Kết luận Việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy cũng như đánh giá kết quả học tập môn GDCD cho học sinh THPT là một việc khá phức tạp, có nhiều trở ngại và lâu dài. Trách nhiệm này không chỉ của riêng giáo viên mà là vấn đề chung của toàn ngành giáo dục, toàn xã hội phải cùng phối hợp thực hiện. Qua công trình nghiên cứu này với hy vọng sẽ đóng góp cho những giáo viên GDCD tương lai nói riêng và các tổ chức quan tâm đến chất lượng giảng dạy môn GDCD hiện nay nói chung những ý kiến về hướng đổi mới thế nào đáp ứng được tâm tư nguyện vọng của học sinh về môn học này. Đồng thời góp phần tìm ra những cách thay đổi phù hợp trên từng phương diện để tiến tới mục tiêu thay đổi dần cách nhìn nhận, đánh giá của xã hội về môn học GDCD trong thời gian sắp tới. 171
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề xuất giải pháp nâng cao nhận thức nghề nghiệp và thái độ học tập của sinh viên khối ngành sư phạm tại trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
7 p | 158 | 9
-
Thích ứng xã hội của sinh viên nội trú trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
7 p | 98 | 8
-
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học ngoại ngữ của sinh viên dân tộc thiểu số năm thứ nhất ở Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội
11 p | 142 | 7
-
Thái độ giảng dạy của giảng viên đại học - Nguyễn Thị Tình
6 p | 95 | 5
-
Nhận thức và thái độ của sinh viên đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với hành vi giao thông
7 p | 90 | 4
-
Giá trị nghề nghiệp đối với cán bộ nghiên cứu khoa học - Nguyễn Thị Hoa
5 p | 77 | 4
-
Thái độ và nhận thức của đồng bào Chăm đối với chính sách phát triển kinh tế của nhà nước - Bế Quỳnh Nga
0 p | 62 | 3
-
Nhận thức và thái độ của giảng viên tiếng Anh ở các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc sử dụng phương pháp “giàn giáo” trong môn Viết học thuật
6 p | 9 | 3
-
Nhân tố ảnh hưởng và giải pháp nâng cao thái độ học tập trực tuyến của sinh viên
10 p | 16 | 3
-
Việc học tiếng anh của sinh viên khoa tiếng Trung trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
9 p | 69 | 3
-
Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học các môn Lí luận chính trị tại Đại học Huế hiện nay
5 p | 16 | 3
-
Một số ý kiến trao đổi về thái độ học tập các học phần Lý luận chính trị của sinh viên trường Đại học Nha Trang
5 p | 100 | 3
-
Mối quan hệ giữa thái độ và chiến lược học ngôn ngữ
8 p | 11 | 3
-
Mối tương quan giữa nhận thức, thái độ và hành vi văn hóa học đường của sinh viên trường Đại Học Cần Thơ
5 p | 78 | 2
-
Cách thức vận dụng tiếp cận lịch sử để tổ chức dạy học ở trường phổ thông hiện nay
8 p | 46 | 2
-
Thanh thiếu niên nhập cư ở Hà Nội: Điều kiện sống, nhận thức và hành vi của họ đối với sức khỏe sinh sản - Bùi Quỳnh Như
0 p | 96 | 2
-
Áp dụng Flipped Classroom trong dạy và học EFL đối với sinh viên đại học: Thái độ và nhận thức
12 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn