NHÂN VẬT VÀ NHỮNG LỰA CHỌN HIỆN SINH <br />
TRONG VĂN XUÔI NỮ HẢI NGOẠI<br />
<br />
HÀ THỊ THANH HUẾ LÊ THỊ HƯỜNG<br />
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br />
<br />
Tóm tắt: Xuất phát từ những đổi thay của lịch sử xã hội lẫn sự vận động <br />
tự thân của chính nền văn học với mong muốn vươn lên khám phá con <br />
người, việc tiếp biến chủ nghĩa hiện sinh ở những khía cạnh phù hợp với <br />
nền văn hóa, văn học dân tộc đã đem lại cho văn học Việt Nam từ 1986 <br />
2010 những ý nghĩa mới. Đặc biệt, đến với văn xuôi của các nhà văn nữ <br />
hải ngoại, người đọc nhận ra ám ảnh hiện sinh qua từng trang viết. Đằng <br />
sau bức tranh hiện thực ngổn ngang bề bộn là những nỗi niềm đau đáu về <br />
thân phận con người. Trăn trở đi tìm lẽ sống, nhân vật trong tác phẩm của <br />
các nhà văn nữ hải ngoại đã chọn lựa xê dịch và viết như một cách thế <br />
trải nghiệm, dấn thân.<br />
.<br />
1. Ra đời sau Đại chiến thế giới II, chủ nghĩa hiện sinh được xem là một trong số ít <br />
các trào lưu triết học chống lại chủ nghĩa duy lý của phương Tây hiện đại. Chủ <br />
nghĩa hiện sinh được biết đến đầu tiên ở Đức vào cuối những năm 20 của thế kỷ <br />
XX, sau đó được tiếp thu, phát triển ở Pháp, thực sự hình thành nên một trào lưu, <br />
một học thuyết có sức mạnh ảnh hưởng không chỉ lĩnh vực học thuật mà cả văn hóa <br />
và lối sống.<br />
Các nhà hiện sinh quan niệm: Hiện sinh có trước bản chất. Hiện sinh là điều kiện <br />
tiên quyết, là cội nguồn uyên nguyên cho mọi giá trị của con người. Con người hiện <br />
sinh, rồi lựa chọn, hành động để tạo nên mình. Giá trị của con người, bản chất của <br />
con người là do chính con người mang lại chứ không phải tự nhiên mà có hay do <br />
thượng đế ban cho. Bởi con người là chủ thể của cuộc đời họ chứ không phải là <br />
“một đám rêu, một vật đang thối rữa, hoặc một cây súp lơ”. Trong bài Chủ nghĩa <br />
hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản, J.P. Sartre viết: “Con người, không chỉ như anh <br />
ta tự quan niệm mà còn như anh ta muốn, như anh ta tự quan niệm sau khi đã sống <br />
và như anh ta muốn sau khi đã ao ước sống; con người không là gì khác ngoài cái mà <br />
bản thân anh ta tự làm nên”. Hiện sinh là luôn trong ý thức vượt lên cái ta hiện là. <br />
Trong chuỗi lựa chọn và hành động liên hoàn ấy, con người hiện sinh đồng thời phải <br />
biết chịu trách nhiệm với hành động và lựa chọn của mình. Sartre gọi đó là hành <br />
động đích thực của con người hiện sinh.<br />
2. Với văn học Việt Nam, chủ nghĩa hiện sinh từ lúc hiện diện đến nay đã để lại <br />
những dấu ấn đậm nhạt khác nhau ở từng giai đoạn, từng nhà văn cụ thể. Đặc biệt <br />
<br />
<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 18591612, Số 04(24)/2012: tr. 9398<br />
94 HÀ THỊ THANH HUẾ LÊ THỊ HƯỜNG<br />
<br />
<br />
<br />
những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, khi cả thế giới là một cộng đồng chung, <br />
cùng đối mặt với những vấn đề nhức nhối về thân phận con người, đi tìm câu trả lời <br />
cho sự hiện sinh của con người lại trở thành tâm thức của thời đại. Riêng với các nhà <br />
văn nữ hải ngoại (Đoàn Minh Phượng, Thuận, Linda Lê…), họ thường viết câu <br />
chuyện cuộc đời bằng cái nhìn của những con người đã trải nghiệm nhiều nền văn <br />
hóa, nhãn quan thẩm mỹ được nới rộng… Điều đó tạo nên sức ám ảnh đặc biệt từ <br />
những trang văn đầy cật vấn, suy tư. Trong văn xuôi các nhà văn nữ hải ngoại đậm <br />
nét hiện sinh ở tinh thần trăn trở: con người phải làm gì, nên làm gì để không ngụy <br />
tín, không tuyệt vọng, để thoát khỏi tình trạng giả dối, để thực hiện cho thấu triệt <br />
thân phận của chính mình. Bằng nhiều cách khác nhau, nhân vật trong các tác phẩm <br />
của họ đã lên tiếng chống chọi lại hoàn cảnh, đả phá sự phi lý đang ngự trị cuộc đời <br />
mình và tha nhân. Sự nổi loạn của nhân vật như một cách thức hiện sinh tất yếu, <br />
nhưng đồng thời cũng thể hiện bi kịch sâu sắc của con người đang vùng vẫy trong xã <br />
hội hiện đại.<br />
Viết như một hành động xác tín căn cước<br />
Nói như J. P. Satre, viết là hành động vén màn. Nhân vật của Đoàn Minh Phượng, <br />
Thuận và Linda Lê viết rất nhiều. Viết, với nhân vật của họ không đơn thuần để <br />
giãi bày, chia sẻ, mà viết chính là một cách khẳng định sự tồn tại của mình giữa cuộc <br />
đời, để xác tín bản ngã.<br />
Viết là địa hạt mà con người ta có thể trút bỏ mọi vỏ bọc, mọi nguyên tắc đạo đức, <br />
bộc lộ mình đầy đủ nhất, rõ nét và chân thực nhất. Khi viết, người ta sống cuộc <br />
sống của riêng mình, cho mình, dẫu chỉ là những dòng ngắn ngủi. Michael Kempf <br />
(Và khi tro bụi) đã gửi gắm cả nỗi cô đơn lạc loài của đời mình vào một cuốn sổ <br />
nhỏ. Nó không chỉ đơn thuần là một cuốn nhật ký giãi bày, mà đó là thế giới duy <br />
nhất anh tìm đến nương náu trong lúc tâm hồn đỗ vỡ vì bi kịch cay đắng của gia <br />
đình. Quyển sổ ấy, vì vậy, là chân dung, là khát vọng đau đáu của chính anh mà ngay <br />
đêm anh trao nó cho An Mi, nó trở thành nơi ghi dấu của hai thân phận lạc loài không <br />
quen biết: “Anh và tôi đã kể lại câu chuyện duy nhất của mỗi đời người trong cùng <br />
một quyển sổ. Chúng tôi đã viết chữ, có lẽ bằng máu và bằng nỗi chơi vơi vô tận <br />
của mỗi người” (Và khi tro bụi – Đoàn Minh Phượng ). Cả An Mi, Michael, Anita, dì <br />
Lan và cả Chi, đứa em song sinh không thể nào tan biến của Mai dường như đều viết <br />
về nỗi niềm của mình với sự chơi vơi trong sâu thẳm tâm hồn như thế.<br />
Với An Mi, việc viết đến với cô từ một thôi thúc mãnh liệt: “ Tôi phải đi tìm tôi, ghi <br />
chép mình ra giấy. Tôi phải nhìn thấy mình, đọc được mình. Tôi phải có thật để cái <br />
chết của tôi có thật” (Và khi tro bụi). Người ta không thể chết mà không biết mình là <br />
ai, không thể chấm dứt một thứ mà không biết nó là gì, An Mi muốn chết nên phải <br />
tìm ra mình trước lúc đi vào cõi chết. Cô không thể chờ đợi, không còn chịu nổi với <br />
cảm giác mình là một loài ma trơi sống ngoài cuộc đời, không ranh giới, không nét <br />
vẽ, không hiện hữu. Quyển sổ với An Mi lúc này “ không phải là một cuốn nhật ký, <br />
NHÂN VẬT VÀ NHỮNG LỰA CHỌN HIỆN SINH TRONG VĂN XUÔI NỮ HẢI NGOẠI 95<br />
<br />
<br />
<br />
không để tôi ghi lại những ý nghĩ mỗi ngày. Tôi chỉ muốn nhờ nó nhớ lại mình là ai. <br />
Quyển sổ là chuyến tàu đi ngược về những năm tháng tôi đã xóa đi rồi ”. Viết là khao <br />
khát, cũng là lựa chọn để cô tìm lại mình, biết mình là ai, đã sống với những buồn <br />
vui giữa cuộc đời này như thế nào. Viết cũng đồng thời là truy nguyên lại nguồn cội. <br />
Mai (Mưa ở kiếp sau) viết thư cho ông ngoại trong ước vọng được nhìn nhận họ <br />
hàng và có một ngày về thăm quê; viết thư cho một người đàn ông xa lạ chưa từng <br />
gặp mặt trong khát khao một ngày được cảm nhận vòng tay ấm áp yêu thương của <br />
người cha dành cho con gái…<br />
Nhưng lạ kỳ thay, khi An Mi đã có quyển sổ trong tay, Mai có được tên và địa chỉ <br />
của người cha, họ lại không biết làm gì với nó: “ Tôi còn lại gì để viết về mình? …<br />
Tôi có những chuyện không nói cùng ai được và có trăm nghìn điều chưa biết. Có <br />
những thứ gì trong số đó tôi có thể viết lên giấy, biến thành chữ được để cha tôi đọc <br />
và qua đó nhìn thấy tôi?” (Mưa ở kiếp sau). Viết để biết mình hiện hữu và ý nghĩa <br />
của sự hiện hữu đó. Viết để biết mình có một người cha, một nguồn cội và lúc yếu <br />
lòng giữa sóng gió cuộc đời có thể quay về. Nhưng viết cũng đồng thời là một thách <br />
thức. Người ta không thể viết được khi không có nỗi hoài mong nhưng càng không <br />
thể viết được khi trong lòng ngổn ngang những khoảng trống, những nỗi niềm mênh <br />
mang lưu lạc như con thuyền nhỏ bị sóng xô đẩy giữa biển khơi, khi mà ký ức, hiện <br />
tại và cả tương lai với họ đều hư vô, chập chờn, khó định. Bởi thế, nhân vật tôi <br />
trong Chinatown (Thuận), dẫu dành cả tuổi thanh xuân để yêu Thụy, cả cuộc đời để <br />
nhung nhớ, trăn trở về Thụy nhưng chưa bao giờ viết được một dòng về Thụy, cho <br />
Thụy: “Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao tôi đã không viết thư cho Thụy. Viết <br />
đối với tôi lúc ấy như việc không thể… Mười hai năm sau tôi cũng chẳng hiểu điều <br />
này. Mười hai năm sau tôi vẫn không dám viết cho Thụy. Mười hai năm sau tôi lờ mờ <br />
hiểu người ta không phải bỗng dưng mà có thể viết được”. Càng khao khát được <br />
viết lại càng bị thách thức bởi những xúc cảm, những ám ảnh và mặc cảm lạc loài, <br />
cô đơn trì níu. Lựa chọn hành động viết để vượt thoát chính mình nhưng chính trong <br />
lựa chọn ấy càng bộc lộ bi kịch đau đớn của những con người hiện đại mang nhiều <br />
ưu tư.<br />
Với nhân vật của Linda Lê, viết còn là lựa chọn lẽ sống, lựa chọn sinh mệnh. Sống <br />
giữa những con người chỉ biết tính toán lời lãi, bon chen để kiếm chút danh tiếng và <br />
quyền thế, nhân vật của Linda Lê hoặc dự phần vào cuộc sống chung ấy hoặc phải <br />
tìm lấy cho mình một cách sống khác không để mình chịu thối rữa trong sự thống trị <br />
của lối sống phi lý, vô luân của dòng họ. Ở hai cậu cháu, hoặc là điên hoặc là chết; <br />
hoặc là chết hoặc là sách vở: “Sách vở đã cứu chúng tôi, con bé với tôi. Không có <br />
sách vở, tôi dám chắc nó không sống được” (Vu khống). Đứa cháu gái chọn lựa viết <br />
văn, cứ một mình mình, say mê với câu chữ, chơi đùa với ngôn từ, để được giữ lại <br />
trong mình “cái bất ưng, cái lạ lẫm, cái không khoan nhượng ”. Viết văn vì vậy là <br />
khao khát xác tín bản thân được hiện thực hóa, là một lựa chọn quyết liệt để được <br />
sống với cái nhìn sắc bén, không thỏa hiệp, không hèn yếu; là “một cách thoát khỏi <br />
96 HÀ THỊ THANH HUẾ LÊ THỊ HƯỜNG<br />
<br />
<br />
<br />
gia đình, để bảo vệ sự cô đơn, sự toàn vẹn tâm thần ”. Nếu người cậu điên loạn và ra <br />
đi vì sự dồn đuổi đến cùng của gia đình, thì chọn lựa viết văn của cô cháu gái thể <br />
hiện một sự chủ động và quyết liệt hơn, ẩn chứa một thái độ phản kháng: “ Ho đã ̣ <br />
cương bach tôi ra đi. No thi t<br />
̃ ́ ́ ̀ ự y ra đi, hoan hy chuyên chuyên di ma no linh cam, no<br />
́ ̉ ̣ ̉ ̀ ́ ̉ ́ <br />
̣ ̃ ̉ ̉<br />
hy vong, se giai thoat no ra khoi di truyên gia đinh<br />
́ ́ ̀ ̀ ”. Khi đã bội phản gia đình, viết là <br />
sự sống duy nhất mà nó có được: “Con bé nói muốn dành hết tâm lực viết văn, cũng <br />
như tôi đã trọn đời điên dại…Nó nói nó muốn lặn cho sâu. Trốn tránh cuộc đời. Chối <br />
bỏ mọi cảm giác. Khước từ mọi ham muốn. Nó chỉ khoái với những ám ảnh của <br />
mình. Chỉ còn là một thân xác nhỏ nhoi khô héo phụng sự cho văn chương tốt tươi ”. <br />
Lựa chọn viết văn với đứa cháu gái là “nó đã được cứu rồi, nó đã tự cứu rồi”. Lựa <br />
chọn ấy là cứu cánh, để nhân vật của Linđa Lê được là mình.<br />
Đến với thế giới của Lại chơi với lửa người đọc càng cảm nhận một cách mạnh mẽ <br />
rằng việc viết có một quyền năng huyền bí, lôi cuốn con người đến tận cùng giới <br />
hạn của sự đam mê, thậm chí đánh đổi cả sinh mệnh của chính mình. Những truyện <br />
ngắn trong Lại chơi với lửa đều mang đậm những suy ngẫm triết lý về sáng tạo văn <br />
học của Linda Lê: Viết là lưu đày. Nhân vật của Linda Lê đều viết một cách say mê, <br />
điên cuồng, ám ảnh. Đó là người đàn ông lấy con ruồi làm nàng thơ; là một trợ lý <br />
chính trị dùng ngòi bút của mình để đấu tranh trên chính trường; là một nhà văn hoàn <br />
thành xong bản thảo vẫn nghe vọng lại những tiếng nói xôn xao của nhân vật mình <br />
sáng tạo… Viết dường như là sự sống của họ, hơi thở của họ. Khi họ ngừng cuộc <br />
chơi với câu chữ cũng là lúc thân thể, sinh mệnh họ được đánh đổi. Lựa chọn nghiệp <br />
viết với nhân vật của Linda Lê đồng thời cũng là chấp nhận thách đố. Nhân vật <br />
Lebol trong Ngày Bonel gặp người viết điếu văn khóc mình là một dẫn dụ xác thực. <br />
Đằng sau hình ảnh một anh chàng bệnh tim, “gầy gò, da trắng bệch, cặp mắt hum <br />
húp, trông lúc nào cũng có vẻ đau yếu” là một nhiệt tình luôn sống động mỗi khi <br />
nhắc đến các tác phẩm văn chương thực thụ, là sự cuồng nộ câm nín khiến mặt nhợt <br />
nhạt tái xanh mỗi khi cảm thấy có một sự xúc phạm làm tổn thương nghề viết. <br />
Những trang viết của anh hăng say đến lạ lùng, cuồng nhiệt và hưng phấn đến tột <br />
độ: “Một người tình nói về người đàn bà của đời mình cũng không thể hay hơn thế”. <br />
Giống như Lebol, Phenix trong Vết cắn cũng “buông thả mình trọn vẹn trong sách <br />
vở. Ấy là lẽ sống của anh”. Phenix thấy ngôn từ như một cơ thể sống động, có cuộc <br />
đời, có tiếng nói của nó. Giữa anh và sách vở, và từ ngữ không có khoảng cách. Anh <br />
ám ảnh điên cuồng đến độ từ ngữ trở thành một phần trong thân thể anh, từ ngữ là <br />
chính anh: “Các từ ngữ không còn đi qua óc tôi nữa. Chúng luân lưu trong máu tôi, <br />
trong các mạch. Trọn thân xác tôi hóa thành từ ngữ”. Từ chỗ là một người đọc say <br />
mê, một người viết cuồng nhiệt, Phenix đã để thân xác mình hóa trọn một cuốn sách. <br />
Anh là kinh sách. Sách lễ cho muôn đời: “Họ ra đời do tay người. Còn tôi tự tạo ra <br />
chính tôi. Tôi đã trở thành Kinh Sách hoàn toàn do ý chí tôi”. Bằng cách ấy Phenix đã <br />
đóng dấu triện riêng vào sự hiện tồn của chính anh giữa cuộc đời. Nhân vật của <br />
Linda Lê được gửi gắm rất sâu sắc quan niệm về văn chương của chính nhà văn. <br />
NHÂN VẬT VÀ NHỮNG LỰA CHỌN HIỆN SINH TRONG VĂN XUÔI NỮ HẢI NGOẠI 97<br />
<br />
<br />
<br />
Những trang viết của chị cũng chính là minh chứng cho những điều chị quan niệm: <br />
viết trong đam mê, viết như có sự dẫn dụ của một quyền năng nào bí ẩn trong bóng <br />
tối, càng viết càng đi vào cõi nào sâu hun hút nhưng vì thế mà văn chương chị không <br />
bao giờ để người đọc tìm đến rồi đứng lại giữa đường, mà gợi lên trong họ khao <br />
khát đến tận cùng vực thẳm ấy. Cả nhân vật chị tạo ra, và cả chính chị, viết chính là <br />
một lựa chọn hiện sinh.<br />
Những hành trình kiếm tìm bản ngã<br />
Dấn thân trên các hành trình, ném mình vào các chuyến đi là một cách khẳng định <br />
hiện sinh mà nhân vật của Thuận, Đoàn Minh Phượng và Linda Lê đã lựa chọn. Như <br />
một hòn đá lăn trên đường không để bám rêu vào, nhân vật của Thuận, Đoàn Minh <br />
Phượng và Linda Lê từng ngày từng giờ dấn thân trên những hành trình vừa để trốn <br />
khỏi nỗi cô đơn đang gặm nhấm, vừa để đi tìm lẽ sống.<br />
Bởi thế, không ngạc nhiên khi người ta nhận ra ngay một điểm chung là các nhân vật <br />
đều mang một lý lịch dài ngổn ngang và bất ổn. Cuộc đời của họ là những chuyến <br />
đi, có những chuyến đi rồi trở lại, nhưng cũng có những chuyến đi thật dài mà người <br />
ta không thể quay đầu. Từ Liên, Pát, Mai Lan ( Paris 11 tháng 8), Vân, Vy, Vượng <br />
(Vân Vy)… đến Tôi (Chinatown), An My (Và khi tro bụi) đều sống với những tháng <br />
ngày luôn chuyển bến. Có những người hiểu rõ nguyên do mình ra đi nhưng có <br />
những người không biết mình ra đi để làm gì và sẽ đến đâu trong hành trình bất tận <br />
ấy. Tôi trong Chinatown cứ đi cho đến khi nhìn lại thì cuộc đời mình đã ba chín tuổi; <br />
nhân vật hắn đến ba chín tuổi vẫn không thôi ba lô, xe máy Liên Xô ra Bắc vào Nam. <br />
Những chuyến đi ám ảnh đến cả trong trang viết của người phụ nữ. Nhân vật chính <br />
của I’m yellow lại là một người đàn ông quen với cuộc sống phiêu bạt giang hồ. <br />
Cũng vậy, để tránh cho mình kiếp sống rong rêu, để chống chọi lại nỗi cô đơn và hư <br />
vô cho phần đời còn lại, cô gái trong truyện ngắn của Linda Lê đã nhìn thấy tia sáng <br />
ở cuối đường hầm u tối: “Đi đâu? Tôi những muốn trả lời, như Kirk Douslas trong <br />
Dàn xếp, Đi vào chính em. Nhưng tôi chỉ phác một cử chỉ rất mơ hồ rồi lao ra ngoài, <br />
ra ngoài trời rộng” (Tiếng ngoài hình). Bầu trời ngoài kia là của chính cô, là nơi cho <br />
cô tìm lại giấc mơ, khơi dậy lại đam mê ngày trẻ, để sống cuộc sống cho mình chứ <br />
không phải cho một ai khác. Không đi bí ẩn như Thụy, không bỗng dưng mất tích <br />
như T, nhưng từ cô gái đến anh chàng họa sĩ trong I’m yellow đều giống nhau ở chỗ <br />
mông lung vô định về một bến dừng chân: “Tôi đeo túi du lịch trên vai…tôi đã đi <br />
được một đoạn xa. Xa bao lâu tôi không cần biết. Về hướng nào tôi cũng không cần <br />
biết” (Chinatown). Nhà văn không một dòng miêu tả cuộc sống của Thụy <br />
(Chinatown), của T (T mất tích), của cô gái (Tiếng ngoài hình) sau khi ra đi, nhưng ít <br />
ra, ta biết rằng họ đã dũng cảm dứt bỏ, mạnh mẽ ra đi, dấn thân tìm kiếm điều họ <br />
muốn.<br />
Nhân vật của Đoàn Minh Phượng cũng đã trả giá cả cuộc đời mình cho những cuộc <br />
kiếm tìm nhiều đau đớn và sóng gió. Họ ra đi để đến với sự thật, để tìm câu trả lời <br />
98 HÀ THỊ THANH HUẾ LÊ THỊ HƯỜNG<br />
<br />
<br />
<br />
cho những dằn vặt, trăn trở trong tâm can họ về ý nghĩa bất tận của sự sống, cái chết <br />
và chân giá trị của sự cho nhận. Dẫu biết có thể sự thật ấy đắng cay, sự thật ấy là <br />
một sự bội phản với những tấm lòng trung trinh giữa cuộc đời, nhưng họ không vì <br />
thế mà ngại ngần dừng lại. Mai (Mưa ở kiếp sau) lên đường vào Sài Gòn tìm người <br />
cha đã bỏ rơi mẹ con cô, người khiến mẹ cô hai mươi năm câm lặng, người làm cho <br />
cuộc đời cô chông chênh như tấm ván thuyền và đứa em gái mãi không siêu thoát. <br />
Cuộc hành trình của Mai không chỉ tìm về cội nguồn mà còn làm rõ danh thế và thân <br />
phận. Dẫu biết trước là “đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh” nhưng Mai vẫn phải <br />
chấp nhận những đánh đổi xót xa để có thể thấu suốt cuộc đời: “ Tôi chỉ làm một <br />
điều cần thiết: Tôi đã lớn và phải vào đời, dù đường đi của tôi có chông chênh lầm <br />
lạc thế nào, tôi cũng vẫn phải đi”. Còn An Mi, cô chọn cho mình một hành trình để <br />
nhìn lại mình, để định nghĩa mình là ai trước lúc chết. Hai lần lựa chọn, với An Mi là <br />
hai chuyến đi. Một chuyến đi ba tháng để cô chuẩn bị cho cái chết, và một chuyến đi <br />
dài tìm sự thật với mong muốn chấm dứt bi kịch cho gia đình một người Đức hoàn <br />
toàn xa lạ. Cô cũng không ngờ rằng chuyến đi ấy lại là cuộc hành hương về cội <br />
nguồn, lật xới lại quá khứ đã bị chính ý thức cô quên lãng.<br />
3. Không chỉ viết để vén màn thân phận mình mà nhân vật của các nhà văn nữ hải <br />
ngoại còn mải mê sống trên những hành trình như một lựa chọn nếm trải cuộc đời <br />
đầy ý nghĩa. Đó là cách phản ứng chống chọi lại với hoàn cảnh, với không gian tù <br />
túng ngột ngạt mà ý thức hiện sinh của con người không chấp nhận thỏa hiệp. Dẫu <br />
có chìm ngập trong nỗi cô đơn tận độ, dẫu có vùng vẫy trong những bi kịch thì nhân <br />
vật trong văn xuôi của Thuận, Đoàn Minh Phượng và Linda Lê cũng không để cho <br />
cuộc đời mình trôi chảy như rong rêu trong nước, bao giờ họ cũng sống với đam mê <br />
dấn thân: “Giữa hư vô và khổ não, tôi chọn khổ não”. Những trang viết đầy nhân văn <br />
của các nhà văn nữ hải ngoại thực sự đã mở lối cho bạn đọc hiểu con người, cuộc <br />
đời hơn, tạo sức bật để con người vượt qua những giới hạn trong thân phận của <br />
chính mình.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Nguyễn Văn Dân (2002). Văn học phi lý. NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.<br />
[2] Nguyễn Tiến Dũng (1999). Chủ nghĩa hiện sinh: Lịch sử, sự hiện diện ở Việt <br />
Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br />
[3] Trần Thiện Đạo (2008). Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc. NXB Tri thức, <br />
Hà Nội.<br />
[4] Linda Lê (2009). Vu khống. NXB Văn học, Hà Nội.<br />
[5] Linda Lê (2010). Lại chơi với lửa. NXB Văn học, Hà Nội.<br />
[6] Đoàn Minh Phượng (2006). Và khi tro bụi. NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.<br />
[7] Đoàn Minh Phượng (2007). Mưa ở kiếp sau. NXB Văn học, Hà Nội.<br />
[8] Thuận (2009. Chinatown. NXB Văn học, Hà Nội.<br />
NHÂN VẬT VÀ NHỮNG LỰA CHỌN HIỆN SINH TRONG VĂN XUÔI NỮ HẢI NGOẠI 99<br />
<br />
<br />
<br />
[9] Thuận (2006). T mất tích. NXB Hội nhà văn, Hà Nội.<br />
[10] Thuận (2005). Pari 11 tháng 8. NXB Đà Nẵng.<br />
<br />
<br />
<br />
Title: CHARACTERS AND THE EXISTENTIAL CHOICES IN OVERSEA WOMEN <br />
WRITERS’ PROSES <br />
<br />
Abstract: Coming from the changes of the social history and the movement itself of the <br />
literature with the desire to rise to explore humans, the exposure (which leads to the changes) <br />
with existentialism in aspects in accordance with the culture, national literature has brought <br />
Vietnamese literature from 1986 2010 the new meaning. In particular, to the prose of overseas <br />
women writers, readers realize the obsession about the existentialist over each page. Behind a <br />
realistic picture, sprawl and messy, there are the feelings anxious about the human condition. <br />
Concerning to find the reason for living, their characters have chosen to drag and write as a way <br />
to experience, commitment, to be authentic existential human.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
HÀ THỊ THANH HUẾ<br />
Học viên Cao học, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br />
ĐT: 0977.227.259. Email: Hathanhhue8811@gmail.com<br />
<br />
TS. LÊ THỊ HƯỜNG<br />
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br />