Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
<br />
NHẬN XÉT VỀ ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP<br />
TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT TP. HỒ CHÍ MINH TỪ 01/2009 - 06/2010<br />
Phạm Hòa Bình*, Hồ Thượng Dũng**, Châu Văn Vinh**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ các phương pháp điều trị nhồi máu cơ tim cấp và tỷ lệ các thuốc dùng theo khuyến<br />
cáo ở thời điểm 24 giờ đầu, tuần đầu và khi xuất viện.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, cắt ngang mô tả.<br />
Đối tượng: Tất cả BN được chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp theo AHA/ACC (2007) nhập khoa Tim mạch<br />
cấp cứu và can thiệp BV Thống Nhất từ 01/2009 - 06/2010.<br />
Kết quả: Từ 01/2009 đến 06/2010 chúng tôi thu thập được 170 bệnh nhân. Tuổi trung bình 66,81 ± 13<br />
tuổi, nam chiếm 74,7% và cư trú chủ yếu tại TP. HCM (94,7%). Tăng HA là YTNC chiếm cao nhất (70,6%), kế<br />
đến là rối loạn lipid máu (35,3%). Hơn một nữa bệnh nhân nhập viện trong bệnh cảnh NMCT cấp ST chênh lên<br />
(58,8%) và 48% trong số đó được can thiệp động mạch vành qua da cấp cứu. Các nhóm thuốc như heparin,<br />
aspirin, clopidogrel, ức chế men chuyển/ức chế thụ thể angiotensin II và statin được dùng với tỷ lệ cao. Tỷ lệ sử<br />
dụng ức chế bêta 24 giờ đầu còn thấp (21,2%), có tăng lên khi nằm viện (48,8%) và xuất viện (56,1%).<br />
Kết luận. Hơn một nửa bệnh nhân nhập viện trong bệnh cảnh nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên<br />
(58,8%) và một nửa trong số đó được can thiệp mạch vành qua da cấp cứu (48%). Các nhóm thuốc như heparin,<br />
aspirin, clopidogrel, ức chế men chuyển/ức chế thụ thể angiotensin II và statin được dùng phù hợp khuyến cáo.<br />
Từ khóa. Điều trị, nhồi máu cơ tim cấp.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
TREATMENT OF ACUTE MYOCARDIAL INFARCTION AT THONG NHAT HOSPITAL IN HO CHI<br />
MINH CITY FROM 01/2009 TO 06/2010.<br />
Pham Hoa Binh, Ho Thuong Dung, Chau Van Vinh<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 170 - 176<br />
Objectives: Studying the proportions of methods in treatment of AMI and the proportions of drugs based on<br />
guidelines during the first 24 hours, the first week and at discharge.<br />
Methods: A prospective, cross-sectional and descriptive study on all of the patients who were admitted to<br />
Department of Emergency and Interventional Cardiology, Thong Nhat hospital from 01/2009 to 06/2010. Acute<br />
Myocardial Infarction was determined by AHA/ACC criteria (2007).<br />
Results: There were 170 patients with AMI hospitalized from 01/2009 to 06/2010. The mean age was 66.81<br />
± 13 and 74.7% was male. Most of the patients lived in Ho Chi Minh city (94,7%). The major risk factors were<br />
hypertension (70.3%) and dyslipidemia (35.3%). The frequency of STEMI was 58.8% and the frequency of<br />
primary percutaneous coronary intervention was 48%. Heparin, aspirin, clopidogrel, ACEIs or ARBs and statin<br />
were used in high proportions. The proportion of beta blocker use which was low in the first 24 hours (22.2%)<br />
increased at the first week (48.8%) and then 56.1% at discharge.<br />
<br />
* Bộ môn Lão Khoa - Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh<br />
** Khoa Tim mạch cấp cứu và can thiệp - Bệnh viện Thống Nhất Tp Hồ Chí Minh<br />
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Phạm Hòa Bình ĐT: 0989070527<br />
Email: drbinh98@yahoo.com<br />
<br />
170<br />
<br />
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Conclusions: STEMI was accounted for 50% of all the patients with AMI admitted to Thong Nhat hospital<br />
and half of these patients were performed primary percutaneous coronary intervention. Drugs such as heparin,<br />
aspirin, clopidogrel, ACEIs or ARBs and statin were used in high proportions and this was suitable for<br />
guidelines.<br />
Key words: Treatment, acute myocardial infarction.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Nhồi máu cơ tim cấp là nguyên nhân hàng<br />
đầu gây tử vong ở các quốc gia phát triển và là<br />
gánh nặng bệnh tật ngày càng gia tăng ở các<br />
nước đang phát triển. Trước đây nhồi máu cơ<br />
tim là bệnh hiếm gặp tại Việt Nam. Nhưng trong<br />
những năm gần đây tình hình khác hẳn. Theo<br />
thống kê của Sở Y Tế Thành Phố Hồ Chí Minh,<br />
chỉ riêng năm 2000 đã có 3.222 bệnh nhân bị<br />
nhồi máu cơ tim và trong 6 tháng đầu năm 2001<br />
có 1.725 bệnh nhân nhồi máu cơ tim(26).<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
<br />
Ở Việt Nam, nhiều năm trước đây các<br />
bệnh nhân nhồi máu cơ tim chủ yếu được<br />
điều trị bằng nội khoa đơn thuần với các<br />
thuốc kinh điển như thuốc tiêu sợi huyết,<br />
thuốc kháng đông, chống kết tập tiểu cầu<br />
(aspirin, clopidogrel), statin, ức chế bêta, ức<br />
chế men chuyển hay ức chế thụ thể<br />
Angiotensin II... Hiện nay với phương pháp<br />
can thiệp mạch vành qua da cấp cứu đã tạo<br />
nhiều cơ hội để mở thông động mạch vành<br />
tắc cấp tính và khôi phục lại dòng chảy bình<br />
thường tới vùng cơ tim bị tổn thương(23,24).<br />
Mặc dù có nhiều khuyến cáo dựa trên chứng<br />
cứ của quốc tế và trong nước về điều trị nhồi<br />
máu cơ tim cấp đang sử dụng rộng rãi tại Việt<br />
Nam (khuyến cáo của Hội tim mạch Hoa Kỳ,<br />
Hội tim mạch Châu âu, Hội tim mạch Việt<br />
Nam(12)…), nhưng sự hiểu biết về khả năng áp<br />
dụng các khuyến cáo đó trong thực hành vẫn<br />
còn hạn chế và có khoảng cách nhất định giữa<br />
khuyến cáo với thực tế lâm sàng. Do đó chúng<br />
tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: Khảo sát<br />
tỷ lệ các phương pháp điều trị nhồi máu cơ tim cấp và<br />
tỷ lệ các thuốc dùng theo khuyến cáo ở thời điểm 24<br />
giờ đầu, tuần đầu và khi xuất viện.<br />
<br />
Tất cả BN được chẩn đoán Nhồi máu cơ tim<br />
cấp nhập Khoa Tim mạch cấp cứu và can thiệp<br />
BV Thống Nhất từ 01/2009 - 06/2010.<br />
<br />
Chẩn đoán nhồi máu cơ tim<br />
Theo tiêu chuẩn của AHA/ACC (2007)(1,2).<br />
<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
BN nhập viện sau ngày thứ 7 của bệnh, bệnh<br />
nhân chưa được điều trị (tử vong tại khoa cấp<br />
cứu hoặc tử vong khi vừa nhập khoa Tim mạch<br />
cấp cứu và can thiệp), có bệnh nội khoa nặng đi<br />
kèm và các bệnh làm đoạn ST chênh lên (viêm<br />
màng ngoài tim, viêm cơ tim…).<br />
<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Tiến cứu, cắt ngang mô tả.<br />
<br />
Cỡ mẫu<br />
Tính theo công thức:<br />
<br />
z<br />
N<br />
<br />
2<br />
1<br />
<br />
xP( P 1)<br />
2<br />
<br />
d2<br />
<br />
<br />
<br />
1,962 x 0,5(1 0,5)<br />
151<br />
0,082<br />
<br />
: xác suất sai lầm loại 1 (0,05) Z1-/2 = 1,96<br />
P: trị số mong muốn của tỷ lệ. Chọn P = 0,5<br />
để có cỡ mẫu lớn nhất<br />
d: sai số cho phép. Chọn d = 0,08<br />
=> Thực tế chúng tôi thu thập được 170 BN.<br />
<br />
Thu thập dữ kiện<br />
Những dữ kiện có liên quan từ hồ sơ bệnh<br />
án của đối tượng nghiên cứu theo mẫu thu thập<br />
số liệu soạn sẵn.<br />
<br />
Xử lý thống kê<br />
Các dữ kiện thu được xử lý bằng phần mềm<br />
thống kê SPSS for windows 18.0.<br />
Kết quả được trình bày dưới dạng tỷ lệ %,<br />
trung bình ± độ lệch chuẩn.<br />
<br />
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011<br />
<br />
171<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Từ 01/2009 đến 06/2010 chúng tôi thu thập<br />
được 170 bệnh nhân với các kết quả như sau:<br />
<br />
Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu<br />
Tuổi và giới<br />
Tuổi trung bình: 66,81 ± 13 (tuổi), thấp nhất<br />
là 31 và cao nhất là 90. Tuổi trung bình nam là<br />
65,17 ± 13,1 (tuổi) và tuổi trung bình nữ 71,67 ±<br />
11,59 (tuổi). Nam chiếm đa số 74,7%, nữ 25,3%<br />
với tỷ lệ nam/nữ là 2,95.<br />
Nơi cư trú<br />
Đa số cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh<br />
(94,7%).<br />
<br />
Yếu tố nguy cơ BMV<br />
Bảng 1: Yếu tố nguy cơ BMV.<br />
Yếu tố nguy cơ BMV<br />
Hút thuốc lá<br />
Tăng huyết áp<br />
Rối loạn lipid máu<br />
Đái tháo đường<br />
<br />
Số BN<br />
50<br />
120<br />
60<br />
35<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
29,4<br />
70,6<br />
35,3<br />
20,6<br />
<br />
Tỷ lệ các thể lâm sàng<br />
Bảng 2: Tỷ lệ các thể lâm sàng.<br />
Thể lâm sàng<br />
NMCT cấp ST chênh lên<br />
NMCT cấp không ST chênh lên<br />
<br />
Số BN<br />
100<br />
70<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
58,8<br />
41,2<br />
<br />
Thời gian từ lúc khởi phát đến nhập viện ở<br />
nhóm NMCT cấp ST chênh lên<br />
Bảng 3: Thời gian từ lúc khởi phát đến nhập viện ở<br />
nhóm NMCT cấp ST chênh lên.<br />
Thời gian từ lúc khởi phát<br />
đến nhập viện<br />
12 giờ<br />
<br />
Số BN<br />
(n= 100)<br />
55<br />
16<br />
29<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
55<br />
16<br />
29<br />
<br />
Điều trị nhồi máu cơ tim cấp<br />
Tỷ lệ các phương pháp điều trị ở nhóm BN<br />
NMCT cấp ST chênh lên<br />
Bảng 4: Tỷ lệ các phương pháp điều trị ở nhóm BN<br />
NMCT cấp ST chênh lên.<br />
Tỷ lệ các phương pháp điều trị Số BN (n= 100) Tỷ lệ (%)<br />
Can thiệp MV cấp cứu<br />
48<br />
48<br />
Điều trị nội khoa đơn thuần<br />
52<br />
52<br />
<br />
172<br />
<br />
Tỷ lệ thuốc dùng trong 24 giờ đầu, tuần đầu và<br />
khi xuất viện<br />
Bảng 5: Tỷ lệ thuốc dùng trong 24 giờ đầu, tuần đầu<br />
và khi xuất viện.<br />
24 giờ đầu Tuần đầu<br />
(%)<br />
(%)<br />
Enoxaparin<br />
87,1<br />
85,9<br />
Aspirin<br />
88,2<br />
86,5<br />
Clopidogrel<br />
94,1<br />
94,1<br />
Ức chế men chuyển<br />
62,9<br />
85,3<br />
Ức chế bêta<br />
21,2<br />
48,8<br />
Nitrat<br />
77,6<br />
87,1<br />
Statin<br />
85,9<br />
91,2<br />
Thuốc<br />
<br />
Xuất viện<br />
(%)<br />
89,7<br />
99,4<br />
93,5<br />
56,1<br />
92,3<br />
96,1<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu<br />
Tuổi<br />
Tuổi trung bình: 66,81 ± 13 (tuổi), thấp<br />
nhất là 31 và cao nhất là 90. Tuổi trung bình<br />
nam là 65,17 ± 13,1 (tuổi) và tuổi trung bình<br />
nữ 71,67 ± 11,59 (tuổi). Kết quả này tương tự<br />
một số tác giả khác như Phạm Hòa Bình(19) tại<br />
BV Thống Nhất 67,94 ± 11,6 (tuổi), Cao Thanh<br />
Ngọc(6) tại BV Chợ Rẫy 64,22 ± 13,13 (tuổi) và<br />
Nguyễn Thị Hoàng Thanh(17) tại BV đa khoa<br />
Đồng Nai là 64,00 ± 14,58 (tuổi).<br />
Giới<br />
Nam chiếm đa số 74,7%, nữ 25,3%. Tỷ lệ<br />
nam/nữ là 2,95, tương tự tác giả Đỗ Đặng Anh<br />
Đào(8) cũng tại BV Thống Nhất TP. HCM (3,86).<br />
Nơi cư trú<br />
Đa số cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh<br />
(94,7%), tương tự Phạm Hòa Bình(19) (87%).<br />
Yếu tố nguy cơ BMV<br />
Tăng huyết áp chiếm tỷ lệ cao nhất (70,6%),<br />
kế đến là rối loạn lipid máu (35,3%) tương tự tác<br />
giả Phạm Hòa Bình(19) tại BV Thống Nhất (70,3%<br />
và 34,5%), Cao Thanh Ngọc(6) thực hiện tại BV<br />
Chợ Rẫy (51,17% và 38,81%).<br />
Tỷ lệ các thể lâm sàng<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hơn một<br />
nửa bệnh nhân nhập viện trong bệnh cảnh<br />
NMCT cấp ST chênh lên (58,8%).<br />
<br />
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
Thời gian từ lúc khởi phát đến nhập viện ở<br />
nhóm NMCT cấp ST chênh lên<br />
Ở nhóm NMCT cấp ST chênh lên, tỷ lệ BN<br />
nhập viện < 6 giờ kể từ khi khởi phát triệu<br />
chứng chiếm tỷ lệ cao nhất (55%) và < 12 giờ là<br />
71%. Kết quả này cao hơn một số tác giả khác(28),<br />
điều này có thể giải thích là do đa số BN trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi cư trú tại TP. HCM và<br />
là đối tượng cán bộ có bảo hiểm y tế tại BV<br />
Thống Nhất.<br />
<br />
Điều trị nhồi máu cơ tim cấp<br />
Tỷ lệ các phương pháp điều trị ở nhóm BN<br />
NMCT cấp ST chênh lên<br />
Ở nhóm BN NMCT cấp ST chênh lên, tỷ lệ<br />
BN điều trị nội khoa đơn thuần và can thiệp<br />
ĐMV qua da cấp cứu tương đương nhau (52%<br />
và 48%). Kết quả về tỷ lệ can thiệp ĐMV qua da<br />
cấp cứu của chúng tôi cao hơn của tác giả Cao<br />
Thanh Ngọc(6) tại BV Chợ Rẫy năm 2005-2006<br />
(19,4%), có thể giải thích là do đối tượng BN tại<br />
BV Thống Nhất đa số cư trú tại TP.HCM, thời<br />
gian từ lúc khởi phát đến nhập viện < 12 giờ<br />
chiếm 71% trong đó < 6 giờ là 55% và chủ yếu là<br />
cán bộ có bảo hiểm y tế tại BV Thống Nhất;<br />
ngoài ra cũng có thể do mẫu NC của chúng tôi<br />
thấp hơn. Nếu so sánh cùng tại BV Thống Nhất<br />
thì tỷ lệ can thiệp ĐMV qua da cấp cứu của<br />
chúng tôi cũng cao hơn của tác giả Phạm Hòa<br />
Bình(19) thực hiện năm 2006-2007 (28,1%).<br />
Tỷ lệ thuốc dùng trong 24 giờ đầu, tuần đầu và<br />
khi xuất viện<br />
Tỷ lệ thuốc dùng trong 24 giờ đầu<br />
Heparin trọng lượng phân tử thấp<br />
(Enoxaparin): dùng để phòng ngừa sự lan rộng<br />
của huyết khối, ngăn ngừa sự xuất hiện huyết<br />
khối bám thành mới, huyết khối hệ thống và tắc<br />
lại các ĐMV; ngoài ra còn ngăn cản hình thành<br />
cục máu đông bền vững do ức chế các yếu tố<br />
làm ổn định Fibrin(24). Trong NC của chúng tôi,<br />
tỷ lệ Heparin trọng lượng phân tử thấp dùng<br />
trong 24 giờ đầu là 87,1%. Kết quả này tương tự<br />
Cao Thanh Ngọc(6) tại BV Chợ Rẫy 93,6%; cao<br />
hơn Montalescot G và cs(16) tại Pháp 41,4%,<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Chiara AD và cs(7,8) tại Ý 33%. Điều này có thể do<br />
thời điểm NC của các tác giả nước ngoài (2001)<br />
Heparin trọng lượng phân tử thấp chưa được<br />
khuyến cáo nhiều.<br />
Thuốc chống kết tập tiểu cầu: đã được<br />
chứng minh làm giảm tỷ lệ tử vong và NMCT<br />
tái phát khi dùng sớm trong 24 giờ đầu (trung<br />
bình 5 giờ) sau khi khởi phát triệu chứng nếu<br />
không có chống chỉ định(22). Trong NC chúng<br />
tôi, có 88,2% BN dùng Aspirin và 94,1% BN<br />
dùng Clopidogrel trong 24 giờ đầu NV. Kết quả<br />
cũng tương tự tác giả cao Thanh Ngọc(6) tại BV<br />
Chợ Rẫy là 95,31% và 92,75%.<br />
Thuốc UCMC/ức chế thụ thể Angiotensin<br />
II: đã được chứng minh tác dụng có lợi trong<br />
chống tái cấu trúc thất trái, làm giảm tỷ lệ tử<br />
vong ngắn hạn, đặc biệt ở BN NM vùng trước, ứ<br />
huyết phổi hay PXTM < 40%. Vì thế nên sử<br />
dụng sớm trong 24 giờ đầu nếu không có<br />
CCĐ(24). Trong NC của chúng tôi, tỷ lệ dùng<br />
UCMC trong 24 giờ đầu là 62,9%. Kết quả này<br />
tương tự Cao Thanh Ngọc(6) tại BV Chợ Rẫy<br />
66,31%, Chiara AD và cs(7) tại Ý 69%.<br />
Thuốc ức chế bêta: được chứng minh khi<br />
dùng thuốc trong vòng vài giờ đầu sau NM làm<br />
giảm kích thước vùng NM, giảm tỷ lệ tử vong<br />
và tái nhồi máu. Thuốc có thể làm giảm khả<br />
năng vỡ tim và rung thất, đặc biệt có lợi nhất ở<br />
BN > 65 tuổi và những BN NMCT diện rộng là<br />
những đối tượng dễ bị biến chứng(24). Trong NC<br />
của chúng tôi, tỷ lệ BN dùng ức chế bêta trong<br />
24 giờ đầu tương đối thấp 21,2%, kết quả này<br />
tương tự của tác giả Cao Thanh Ngọc(6) tại BV<br />
Chợ rẫy là 23,24%. Điều này có thể do BN nhập<br />
viện Thống Nhất là đối tượng lớn tuổi có bệnh<br />
phổi tắc nghẽn mạn tính hoặc bệnh lý hệ dẫn<br />
truyền tim.<br />
Nitrat: thuốc có tác dụng làm giảm triệu<br />
chứng đau ngực, chưa được chứng minh làm<br />
giảm tỷ lệ tử vong và phòng ngừa thứ phát biến<br />
chứng ĐMV. Trong NC chúng tôi, tỷ lệ BN<br />
dùng Nitrat trong 24 giờ đầu khá cao 77,6%. Kết<br />
quả này tương tự Chiara và cs(7) tại Ý 80%; cao<br />
hơn Cao Thanh Ngọc(6) tại BV Chợ Rẫy 48,83%,<br />
<br />
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011<br />
<br />
173<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
<br />
Montalescot G và cs(16) tại Pháp 57,7%. Điều này<br />
có thể do thói quen của bác sĩ, cho để làm giảm<br />
đau ngực cho BN.<br />
Statin: Nhiều thử nghiệm đã chứng minh<br />
các BN NMCT cấp sử dụng sớm Statin trong 24<br />
giờ đầu sẽ làm giảm đáng kể các biến chứng và<br />
tỷ lệ tử vong trong BV(21). Trong NC chúng tôi,<br />
tỷ lệ BN dùng Statin sớm trong 24 giờ đầu là<br />
85,9% cao hơn Cao Thanh Ngọc(6) tại BV Chợ<br />
Rẫy 42,43%, Chiaria AD và cs(7) tại Ý 43%.<br />
<br />
Tỷ lệ thuốc dùng trong tuần đầu<br />
Heparin trọng lượng phân tử thấp<br />
(Enoxaparin): trong NC chúng tôi được dùng<br />
với tỷ lệ khá cao 85,9%. Tỷ lệ dùng Heparin<br />
trọng lượng phân tử thấp của chúng tôi tương<br />
tự Võ Đông Quang(28) tại BV Chợ Rẫy 87,4% và<br />
cao hơn của tác giả Nguyễn Thị Kim Chung và<br />
cs(18) tại BV Đà Nẵng 10,6%, Nguyễn Thị Hoàng<br />
Thanh(17) tại BV đa khoa Đồng Nai 74,3%.<br />
Thuốc chống kết tập tiểu cầu: có vai trò<br />
dự phòng NMCT tái phát, giảm tỷ lệ tử vong.<br />
Trong NC của chúng tôi Aspirin sử dụng<br />
chiếm tỷ lệ cao 86,5%, kết quả này cũng tương<br />
tự các tác giả trong và ngoài nước như<br />
Nguyễn Thị Kim Chung và cs(18) 83,3%, Võ<br />
Đông Quang(28) tại BV Chợ Rẫy 92,9%, và<br />
Jincani E(14) 80,3%. Thuốc Clopidogrel cũng<br />
dùng với tỷ lệ cao 94,1%, tương tự Võ Đông<br />
Quang(28) tại BV Chợ Rẫy 94,4%.<br />
Thuốc UCMC/ức chế thụ thể Angiotensin<br />
II: có lợi ở tất cả BN NMCT trong chống tái cấu<br />
trúc thất trái và làm giảm tỷ lệ tử vong ngắn<br />
hạn, đặc biệt ở BN NM vùng trước và BN suy<br />
tim. Trong NC chúng tôi, tỷ lệ BN dùng UCMC<br />
là 85,3%. Kết quả này tương tự một số tác giả<br />
trong nước như Võ Đông Quang(28) 79,9%,<br />
Nguyễn Thị Kim Chung(18) 86,36%, và cao hơn<br />
Jincani E(14) 46,1% và Cambou JP(6) 46%; điều này<br />
có thể giải thích do NC của các tác giả nước<br />
ngoài (năm 1997) việc sử dụng thuốc UCMC<br />
chưa được khuyến cáo nhiều.<br />
Thuốc ức chế bêta: có lợi trên TMCB, giảm<br />
tỷ lệ tái nhồi máu, các RLN nguy hiểm và tỷ lệ<br />
tử vong. Trong NC của chúng tôi tỷ lệ sử dụng<br />
<br />
174<br />
<br />
ức chế bêta là 48,8%, cao hơn so với tỷ lệ sử<br />
dụng trong 24 giờ đầu (21,2%). Kết quả này cao<br />
hơn tác giả Nguyễn Thị Hoàng Thanh(17) tại BV<br />
đa khoa Đồng Nai (26,4%), tương tự Võ Đông<br />
Quang(28) tại BV Chợ Rẫy (40,1%), Jincani E(14)<br />
(40,8%), và thấp hơn Cambou JP(5) (65%).<br />
Nitrat: là thuốc kinh điển nhất trong điều trị<br />
đau thắt ngực, có hiệu quả giảm đau ngực tức<br />
thời và giảm sung huyết phổi. Trong NC chúng<br />
tôi, thuốc được sử dụng với tỷ lệ khá cao<br />
(87,1%), tương tự Nguyễn Thị Kim Chung(18) tại<br />
BV Đà Nẵng (77,2%) và Nguyễn Thị Hoàng<br />
Thanh(17) tại BV đa khoa Đồng Nai (74,3%).<br />
Statin: có tác dụng giảm lipid máu và chống<br />
viêm tại chổ. Thuốc được khuyến cáo cho tất cả<br />
BN NMCT cấp. Trong NC của chúng tôi, tỷ lệ<br />
sử dụng Statin là 91,2%, cao hơn tác giả Võ<br />
Đông Quang(28) tại BV Chợ Rẫy 61,7%, Ferreira J<br />
va cs(9) tại Bồ Đào Nha 74%.<br />
<br />
Tỷ lệ thuốc dùng khi xuất viện<br />
Aspirin: có nhiều NC đã chứng minh điều<br />
trị lâu dài với Aspirin sau NMCT là giảm tỷ lệ<br />
tử vong, giảm NMCT tái phát và đột quị. Liều<br />
khuyến cáo là 75-150 mg/ngày, hiệu quả tương<br />
đương liều cao và ít xảy ra tác dụng phụ. Thuốc<br />
nên sử dụng ở tất cả BN sau NMCT nếu không<br />
có CCĐ và BN dung nạp được(4). Trong NC<br />
chúng tôi, tỷ lệ sử dụng Aspirin sau xuất viện là<br />
89,7%. Kết quả này tương tự một số tác giả trong<br />
và ngoài nước như Võ Đông Quang(28) tại BV<br />
Chợ Rẫy 90.45% và Gouya G(11) tại Áo 86%.<br />
Clopidogrel: Ở BN NMCT cấp có đoạn ST<br />
chênh lên, Clopidogrel được chỉ định ở BN<br />
không dung nạp hoặc CCĐ Aspirin và ở các BN<br />
CTMV(27). Trong NC của chúng tôi, tỷ lệ sử dụng<br />
Clopidogrel sau xuất viện là 99,4%, kết quả này<br />
cao hơn Võ Đông Quang(28) (88,18%) và Cao<br />
Thanh Ngọc(6) (91,11%) tại BV Chợ Rẫy.<br />
UCMC/ức chế thụ thể Angitensin II: Nhiều<br />
thử nghiệm lâm sàng (SAVE, AIRE, TRACE và<br />
SOLVD) đã chứng minh việc sử dụng UCMC<br />
lâu dài sau NMCT làm giảm tỷ lệ tử vong,<br />
NMCT tái phát và NV do suy tim. UCMC đặc<br />
biệt có lợi ở các đối tượng có nguy cơ cao như<br />
<br />
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011<br />
<br />