Nguyễn Minh Tuấn<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
84(08): 53 - 57<br />
<br />
NHÌN LẠI QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ<br />
PHƯỜNG CẢI ĐAN - SÔNG CÔNG - THÁI NGUYÊN (1999 - 2010)<br />
Nguyễn Minh Tuấn*<br />
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Phường Cải Đan (thuộc thị xã Sông Công, Thái Nguyên) được thành lập vào năm 1999 theo Nghị<br />
định số 18/NĐ - CP của Chính phủ nước CHXHCNVN. Đến nay, phường Cải Đan trở thành một<br />
đơn vị điển hình về phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sau hơn 10 năm<br />
thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Đảng bộ thị xã Sông Công và trực tiếp<br />
là Đảng bộ phường Cải Đan, cơ cấu kinh tế của phường đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng<br />
nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng trong ngành nông nghiệp. Nhờ đó,<br />
đời sống của người dân ngày một ổn định, bộ mặt của phố phường ngày càng thay đổi theo hướng<br />
tích cực.<br />
Từ khoá: công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỷ trọng kinh tế<br />
<br />
Đảng bộ phường lãnh đạo quá trình phát triển<br />
kinh tế xã hội giai đoạn 1999-2005*<br />
Phường Cải Đan mới thành lập năm 1999, trên<br />
cơ sở xã Cải Đan cũ nên nông nghiệp là ngành<br />
kinh tế giữ vai trò chủ đạo; sản xuất hàng hóa<br />
chưa phát triển, kết cấu hạ tầng yếu kém. Giai<br />
đoạn đầu mới thành lập (1999 - 2005), dưới sự<br />
lãnh đạo của Đảng bộ phường, kinh tế của Cải<br />
Đan có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu ngành.<br />
Bên cạnh ngành nông nghiệp là chính thì các<br />
ngành công nghiệp, dịch vụ bước đầu phát triển<br />
mạnh, dần chiếm tỷ trọng cao.<br />
Nông nghiệp:<br />
Xác định cây lúa là cây trồng chính và có vai trò<br />
quan trọng nhất nên ngay từ khi mới thành lập,<br />
Đảng bộ, UBND phường đã kịp thời lãnh đạo<br />
nhân dân đẩy mạnh hoạt động sản xuất, tăng<br />
năng suất và sản lượng lương thực để đáp ứng<br />
nhu cầu của nhân dân trong vùng và phục vụ cho<br />
hoạt động trao đổi buôn bán.<br />
Mặc dù diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp do<br />
một số doanh nghiệp, trường học lấy đất để xây<br />
dựng và làm đường giao thông, nhưng diện tích,<br />
năng suất và sản lượng lúa trong giai đoạn này<br />
vẫn tăng lên đáng kể. Năm 2002, diện tích lúa<br />
của phường là 306,8 ha, tổng sản lượng là 1737<br />
*<br />
<br />
tấn. Năm 2004, năng suất lúa bình quân của<br />
phường là 47,2 ta/ha, đối với lúa cao sản đạt 54<br />
tạ/ha, so với năm 2003 đã vượt 3,2 tạ/ha. Đến<br />
năm 2005, tổng diện tích lúa của phường tăng lên<br />
386,1 ha, tổng sản lượng lương thực là 1.788,03<br />
tấn đạt 121,7% kế hoạch. Đối với lúa cao sản<br />
tổng diện tích là 140 ha, năng suất đạt 55 tạ/ha<br />
cao hơn 5tạ/ha so với kế hoạch đề ra, tổng sản<br />
lượng là 770 tấn, cao hơn so với năm 2004 [4].<br />
Có được kết quả đó là do Đảng bộ phường<br />
thường xuyên chỉ đạo mở rộng diện tích canh tác,<br />
thúc đẩy đưa các giống lúa mới vào sản xuất, áp<br />
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để năng<br />
cao năng suất. Các hội nghị đầu bờ tường xuyên<br />
được tổ chức để tổng kết và đưa ra những giải<br />
pháp kịp thời.<br />
Bên cạnh cây là cây trồng chính, Đảng bộ<br />
phường khuyến khích nhân dân trồng xen canh<br />
các loại hoa màu như: ngô, khoai lang, đỗ, lạc,<br />
rau màu…Cán bộ khuyến nông tích cực nghiên<br />
cứu tìm hiểu sự thích nghi của các loại cây trồng<br />
mới với đất đai trên địa bàn phường và đẩy mạnh<br />
hoạt động áp dụng khoa học - kĩ thuật vào sản<br />
xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.<br />
Trong số các cây trồng xen canh, ngô là cây<br />
trồng chủ yếu trong vụ đông, góp phần quan<br />
trọng đưa sản lượng lương thực của phường tăng<br />
mạnh. Đến năm 2005, toàn phường có 119 ha<br />
trồng ngô, năng suất bình quân đạt 27,33 tạ/ha,<br />
<br />
Tel: 01234865145; Email: thansa6@gmail.com<br />
<br />
53<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
tnu.edu.vn<br />
<br />
http://www.lrc-<br />
<br />
Nguyễn Minh Tuấn<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
tổng sản lượng ngô là 325,23 tấn, trong đó ngô<br />
nếp chiếm 40% diện tích trồng. Với diện tích lớn<br />
và tập trung nên cây ngô đã thực sự trở hàng hóa<br />
trong vụ đông. Diện tích các cây trồng khác như<br />
khoai lang, đậu, đỗ, lạc cũng tăng lên. Do đó, sản<br />
lượng lương thực bình quân trong phường tăng<br />
lên 570 kg/người/năm, cao hơn nhiều so với tỷ<br />
lệ chung của tỉnh và cả nước [4].<br />
Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi trên địa bàn<br />
phường cũng khá phát triển, bao gồm các loại gia<br />
súc như: trâu, bò, lợn chủ yếu để lấy sức kéo,<br />
phân bón và từng bước hướng tới việc lấy thịt.<br />
Các loại gia cầm như gà, vịt, ngan cũng được<br />
nuôi khá phổ biến với quy mô gia đình, nhằm<br />
phục vụ nhu cầu thực phẩm hằng ngày. Trên địa<br />
bàn phường bắt đầu xuất hiện các trang trại chăn<br />
nuôi lợn, gà tập trung tại các tổ dân phố Ao Ngo,<br />
Nguyên Giả. Đặc biệt, trên địa bàn phường đã có<br />
2 trang trại nuôi lợn hướng nạc, riêng xóm Ao<br />
Ngo nhiều hộ nông dân đã chăn từ 20-25 con lợn<br />
một lứa cho thu nhập khá cao.<br />
Trong giai đoạn này do ảnh hưởng của các dịch<br />
bệnh ở gia cầm, gia súc như: cúm gia cầm, long<br />
móng nên hoạt động chăn nuôi của nhân dân<br />
trong phường cũng bị ảnh hưởng. Nhưng nhờ có<br />
sự chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ, UBND trong<br />
công tác kiểm dịch, tiêm vác xin phòng dịch nên<br />
hoạt động chăn nuôi trên địa bàn phường vẫn<br />
được giữ vững. Đến năm 2005, đàn trâu, bò đã<br />
tăng lên hơn 800 con, rất nhiều gia đình trong<br />
phường nuôi từ 4-5 con trâu, bò [4].<br />
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ:<br />
Trong giai đoạn 1999-2005, các ngành công<br />
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đã có<br />
những bước tiến triển quan trọng. Trên địa bàn<br />
phường, các nhà máy, xí nghiệp, công ty vừa và<br />
nhỏ bắt đầu hình thành và phát triển.<br />
Tính đến năm 2004, trên địa bàn có 62 hộ đang<br />
kinh doanh, sản xuất hiệu quả và cho thu nhập ổn<br />
định. Chợ phường Cải Đan đang được xây dựng,<br />
các kiốt bán hàng đang được hình thành [4].<br />
Đến năm 2005, trên địa bàn phường trên địa bàn<br />
phường đã có 15 doanh nghiệp đang hoạt động,<br />
65 hộ đăng ký kinh doanh, nhiều dự án đã và<br />
đang vào đầu tư trong địa bàn như: Công ty<br />
<br />
84(08): 53 - 57<br />
<br />
TNHH một thành viên Vạn Xuân đã đền bù và<br />
giải phóng mặt bằng xong đang chuẩn bị xây<br />
dựng; kho bạc nhà nước Sông Công; ngân hàng<br />
đầu tư tỉnh Thái Nguyên, trường Cao đẳng Xây<br />
lắp điện; dự án nghĩa địa tập trung đang được Sở<br />
Xây dựng thiết kế và chuẩn bị xây dựng; công ty<br />
chế biến thức ăn gia súc gia cầm Đại Minh đang<br />
được xây dựng, dự kiến sẽ đi vào sản xuất, vào<br />
đầu quý II năm 2006, hiện tại đang chuẩn bị<br />
tuyển thêm công nhân là con em của những hộ<br />
gia đình có ruộng thu bị hồi vào làm việc. Sự ra<br />
đời của các doanh nghiệp trên địa bàn phường đã<br />
góp phần tạo thêm việc làm, thúc đẩy quá trình<br />
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công<br />
nghiệp, dịch vụ.<br />
Địa chính, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông<br />
thủy lợi:<br />
Tính đến năm 2005 trên địa bàn phường đã có 5<br />
tuyến đường giao thông nông thôn với tổng chiều<br />
dài là 1.008 mét, tổng giá trị quyết toán là<br />
205.383.000 đồng, trong đó nhà nước hỗ trợ 50<br />
triệu đồng, còn đa số do nhân dân tự nguyện<br />
đóng góp. Nhờ đó, việc giao thông đi lại của<br />
người dân trong phường được thuận lợi hơn và<br />
tạo điều kiện trong thu hút đầu tư, phát triển kinh<br />
tế.<br />
Cùng với việc xây dựng hệ thống giao thông vận<br />
tải, công tác xây dựng hệ thống thuỷ lợi cũng có<br />
những tiến triển quan trọng. Năm 2004, phường<br />
nghiệm thu và đưa vào sử dụng trạm bơm điện<br />
Phố Mới, đã góp phần tăng diện tích đất canh tác,<br />
tạo điều kiện luân canh tăng vụ trên vùng đất khô<br />
cằn, đặc biệt là phát triển các cây vụ đông. Cũng<br />
trong năm 2004, nhờ xử lý tốt các vụ vỡ đê tại<br />
kênh cấp I Xuân Thành và kênh cấp II tại xóm<br />
Nguyên Gon, cùng với việc trạm khuyến nông<br />
phục vụ tốt nguồn nước tưới đã tạo điều kiện đưa<br />
năng suất lúa lên cao.<br />
Là một phường mới đựơc thành lập nên Cải Đan<br />
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách<br />
trong quá trình phát triển kinh tế: dịch cúm gia<br />
cầm bùng phát và có nguy cơ quay trở lại đe dọa<br />
hoạt động chăn nuôi của phường, giá cả một số<br />
vật tư phục vụ sản xuất không ổn định, đã ảnh<br />
hưởng không nhỏ tới đời sống của nhân dân.<br />
<br />
54<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Minh Tuấn<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Song dưới sự lãnh đạo thường xuyên của Đảng<br />
bộ phường, việc tổ chức thực hiện kịp thời của<br />
UBND và sự đoàn kết nhất trí ủng hộ của nhân<br />
dân toàn phường, việc thực hiện nhiệm vụ phát<br />
triển kinh tế - xã hội của Cải Đan trong giai đoạn<br />
1999-2005 đã đạt đựợc một số kết quả quan<br />
trọng. Đời sống của nhân dân đã ổn định, niềm<br />
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng bộ<br />
ngày càng được củng cố.<br />
2. Giai đoạn 2005-2010<br />
Trong giai đoạn 2005 - 2010, phường Cải Đan<br />
tiếp tục thu được nhiều thành tựu về kinh tế, văn<br />
hóa và xã hội. Để đạt được những kết quả đó là<br />
do Đảng bộ phường Cải Đan luôn đề ra những<br />
chủ trương, biện pháp kịp thời, tạo động lực cho<br />
sự phát triển của phường trong thời kì mới.<br />
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường<br />
lần thứ 2 “phấn đấu phường Cải Đan trở thành<br />
phường công nghiệp-nông nghiệp-tiểu thủ công<br />
nghiệp và dịch vụ”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng<br />
bộ phường, cùng với sự nỗ lực của 11 tổ dân phố,<br />
các ban ngành, đoàn thể và nhân dân trong<br />
phường nên các mục tiêu phát triển kinh tế, xã<br />
hội đều hoàn thành vượt kế hoạch đề ra.<br />
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh đều tăng hơn<br />
so với trước. Đến năm 2006, số hộ đăng kí kinh<br />
doanh trên địa bàn phương tăng lên 65 hộ, có 20<br />
doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đi vào hoạt động.<br />
Với việc tăng mạnh hoạt động kinh doanh đã tạo<br />
ra một cơ chế hoạt động kinh tế linh hoạt, nguồn<br />
thu nhập ổn định, góp phần cải thiện mức sống<br />
của người dân và tăng thu ngân sách cho phường.<br />
Khi kinh tế phát triển, bên cạnh những nhu cầu<br />
về sinh hoạt hằng ngày, nhu cầu xây dựng tăng<br />
lên nhanh chóng, các công trình xây dựng bắt<br />
đầu mở rộng trên quy mô lớn: các trường học,<br />
các công ty, xí nghiệp lần lượt mọc lên, các khu<br />
dân cư hiện đại đang được quy hoạch. Chính vì<br />
vậy, trong thời gian này có 6 dự án bồi thường<br />
giải phóng mặt bằng, sẽ hứa hẹn đem đến bộ<br />
mặt mới cho phường Cải Đan. Những thay đổi<br />
trên toàn phường đã phản ánh, đáp ứng được<br />
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, đẩy<br />
nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng nông<br />
nghiệp, nông thôn.<br />
<br />
84(08): 53 - 57<br />
<br />
Nông nghiệp<br />
Trong sản xuất nông nghiệp, trồng trọt và chăn<br />
nuôi vẫn là hai ngành sản xuất chính. Với những<br />
chính sách khuyến nông: khuyến khích sử dụng<br />
nhiều giống lúa mới; công tác phát triển thủy lợi<br />
được đẩy mạnh với hệ thống kênh, mương được<br />
sửa chữa và xây dựng mới nên hoạt động trồng<br />
trọt được đẩy mạnh hơn nữa. Trong đó, lúa vẫn<br />
là cây sản xuất chính.<br />
Đến năm 2009, diện tích trồng lúa đạt 385 ha,<br />
năng suất lúa đã đạt tới 50 tạ/ ha, tổng sản lượng<br />
lúa đạt 1792 tấn, bằng 102% kế hoạch. Trong đó,<br />
lúa cao sản với 146 ha đạt tới 55 tạ/ha, tổng sản<br />
lượng lúa cao sản đạt 803 tấn. Bên cạnh cây lúa,<br />
các cây lương thực khác ngô cũng đạt sản lượng<br />
cao, với diện tích là 185 ha, đạt năng suất bình<br />
quân là 39,5 tạ/ha, tổng sản lượng đạt 663,5 tấn.<br />
Khoai lang, đậu, đỗ các loại rau mầu, cây ăn quả<br />
đều phát triển tốt và cho thu nhập khá cao. Tổng<br />
sản lượng lương thực tới năm 2009 đạt 1900 tấn<br />
vượt 0.89% so với những năm đầu của giai đoạn<br />
2006-2010 [4]. Như vậy, trong trồng trọt, sản<br />
lượng cây lương thực đều đạt sản lượng cao vượt<br />
mức chỉ tiêu của các kế hoạch đề ra, từ đó góp<br />
phần khẳng định vị thế của ngành nông nghiệp,<br />
tạo ra bước đệm để phát triển kinh tế phường<br />
toàn diện hơn.<br />
Chăn nuôi là một trong những ngành kinh tế chủ<br />
chốt trong nông nghiệp của Cải Đan. Những năm<br />
gần đây, với những diễn biến phức tạp của các<br />
bệnh dịch ở gia cầm, lợn, trâu, bò đã gây sự tổn<br />
thất lớn về thu nhập từ chăn nuôi. Trước tình<br />
hình đó, lãnh đạo của phường, bằng những biện<br />
pháp đã hạn chế tối đa những thiệt hại do bệnh<br />
dịch mang lại. Trong giai đoạn 2006 - 2010, chăn<br />
nuôi đã có những biến đổi theo chiều hướng tích<br />
cực hơn, tạo ra sự cân bằng với ngành trồng trọt.<br />
Số lượng đàn trâu bò và lợn phát triển nhanh,<br />
trong đó đàn trâu bò tăng lên 600 con trên toàn<br />
phường, đàn lợn có xu thế ổn định và vẫn được<br />
duy trì so với trước. Mặc dù dịch cúm gia cầm tái<br />
phát ở một số địa phương, nhưng với những biện<br />
pháp phòng ngừa hiệu quả nên sau khi bệnh dịch<br />
được kiểm soát, số lượng đàn gia cầm lại tiếp tục<br />
phát triển, tăng số lượng lên đáng kể.<br />
<br />
55<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Minh Tuấn<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Những kết quả đó là do sự nỗ lực không ngừng<br />
của toàn thể nhân dân trong phường và quan<br />
trọng là sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng bộ, của<br />
các cơ quan chức năng trong việc tìm ra những<br />
bước đi phù hợp thúc đẩy ngành nông nghiệp<br />
phát triển, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh<br />
tế.<br />
Xây dựng cơ sở hạ tầng:<br />
Bên cạnh việc phát triển các ngành kinh tế mũi<br />
nhọn, Đảng bộ phường và đã thu được nhiều kết<br />
quả tích cực về vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng,<br />
phục vụ cho phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội.<br />
Trong từng tổ dân phố, các công trình giao thông<br />
từng bước được sửa chữa và đầu tư nâng cấp.<br />
Các tuyến đường hầu hết được đổ bê tông cốt<br />
thép, trong đó có tuyến đường Bắc Xuân Miếu và<br />
tuyến đường Thống Nhất và nhà văn hóa Xuân<br />
Gáo là những công trình lớn của phường với số<br />
tiền lên tới hàng trăm triệu đồng, trong đó một<br />
phần chi phí do nhà nước hỗ trợ, một phần lớn là<br />
do nhân dân đóng góp. Đến năm 2010 trên toàn<br />
phường đã làm mới 5713 mét đường bê tông [3].<br />
Với việc bê tông hóa đường giao thông đã tạo<br />
điều kiện đi lại thuận lợi cho nhân dân trong địa<br />
bàn, từng bước hình thành diện mạo nông thôn<br />
mới.<br />
Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ<br />
phường Cải Đan đã thường xuyên quan tâm tới<br />
việc làm thủy lợi. Với tuyến kênh nội đồng của<br />
hai tổ dân phố Nguyên Bẫy và Phố Mới được<br />
đưa vào sử dụng, tổng chiều dài là 610 m đã giúp<br />
ích bà con nông dân rất nhiều trong sản xuất. Bên<br />
cạnh đó, 2 tuyến kênh 12-9A và 12-9B do Sở<br />
Nông nghiệp và phát triển Nông thôn trực tiếp thi<br />
công cũng đã được đưa vào sử dụng [3]. Qua 5<br />
năm thực hiện những chủ trương trên, đến năm<br />
2010, toàn phường đã xây dựng được 3485 mét<br />
kênh mương nội. Việc tưới tiêu nước trên đồng<br />
ruộng, đặc biệt là vùng đất cao trở nên dễ dàng<br />
hơn, nhân dân có thể chủ động nước trong sản<br />
xuất và sinh hoạt.<br />
Với chủ trương đúng đắn coi phát triển kinh tế là<br />
nhiệm vụ trung tâm, công tác xây dựng Đảng là<br />
nhiệm vụ then chốt, văn hoá là nền tảng tinh thần<br />
của xã hội, Đảng bộ phường Cải Đan đã tạo ra sự<br />
<br />
84(08): 53 - 57<br />
<br />
tin yêu của quần chúng. Sự đoàn kết của Đảng bộ<br />
phường, toàn dân đã đưa đến sự thắng lợi trên<br />
nhiều lĩnh vực sau 5 năm thực hiện Nghị quyết<br />
của của Đảng bộ phường nhiệm kỳ 2: Phát triển<br />
kinh tế luôn luôn tăng trưởng, cơ sở hạ tầng<br />
được xây dựng ngày một khang trang, an ninh<br />
quốc phòng ổn định, giữ vững đời sống vật chất<br />
tinh thần của nhân dân ngày càng cải thiện, bộ<br />
mặt của phường ngày càng đổi mới.<br />
Ưu điểm, hạn chế và khuyến nghị<br />
Trong quá trình Đảng bộ phường lãnh đạo<br />
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1999 đến năm<br />
2010 nổi lên những ưu điểm sau:<br />
Một là, Đảng bộ phường đã vận dụng sáng tạo<br />
những chủ trương, đường lối của Đảng vào quá<br />
trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo<br />
hướng công nghiệp, dịch vụ.<br />
Hai là, trên cơ sở ưu tiên xây dựng kết cấu hạ<br />
tầng nông thôn để thực hiện hiệu quả quá trình<br />
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, đời<br />
sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước<br />
đã được cải thiện.<br />
Ba là, trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch cơ<br />
cấu kinh tế, Đảng bộ phường luôn chú trọng công<br />
tác tổ chức cán bộ, đảng viên, biến quyết tâm của<br />
Đảng bộ thành hành động thực tiễn của quần<br />
chúng.<br />
Bên cạnh những ưu điểm, Đảng bộ phường còn<br />
có một số hạn chế: việc triển khai thực hiện chủ<br />
trương ở các ngành, các cấp còn lúng túng;<br />
việc tổ chức xây dựng và thực hiện các quy<br />
hoạch chưa tốt; việc chuyển dịch kinh tế chưa<br />
hiệu quả, vẫn còn mang tính thuần nông.<br />
Nhiệm vụ của Đảng bộ phường trong giai đoạn<br />
tới là “lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi mục<br />
tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tạo đà cho<br />
phát triển kinh tế bền vững, sớm đưa phường Cải<br />
Đan trở thành phường công nghiệp, nông nghiệp,<br />
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ” [4].<br />
Để thực hiện được mục tiêu đó cần:<br />
- Đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br />
nông nghiệp, nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm,<br />
phát triển ngành nghề đa dạng, phong phú, áp<br />
dụng khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng; mở rộng<br />
<br />
56<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Minh Tuấn<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
mô hình trồng ngô bao tử, ngô nếp ngô lai; xây<br />
dựng cánh đồng sạch, cánh đồng chuyên canh;<br />
mở rộng phát triển mô hình chăn nuôi lợn<br />
ngoại, gà công nghiệp, gà đẻ trứng, gà thả<br />
vườn; nhân rộng mô hình nuôi nhím sinh sản,<br />
mô hình nuôi ếch Thái Lan.<br />
- Tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế nông<br />
nghiệp nông thôn theo tinh thần Nghị quyết<br />
Trung ương 7 khóa X đề ra: tiếp tục xây dựng<br />
các cánh đồng cao sản, đẩy mạnh thâm canh,<br />
tăng vòng quay của đất nên 3 vụ/năm; tích cực<br />
phối hợp với phòng Nông nghiệp, trạm Khuyến<br />
nông, trạm Vật tư nông nghiệp của thị xã hỗ<br />
trợ về kỹ thuật, cây giống, con giống có năng<br />
suất cao để nông dân đưa vào sản xuất.<br />
- Tạo điều kiện cho các gia đình mở trang trại<br />
nhỏ và vừa, khuyến khích động viên nhân dân<br />
phát triển đa dạng trong chăn nuôi. Thường<br />
xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân chủ động<br />
tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm không để<br />
bệnh dịch lây lan thành dịch.<br />
- Lãnh đạo phường cần xây dựng cơ chế, chính<br />
sách nhằm huy động tối đa các nguồn lực để phát<br />
triển kinh tế; cần phát huy hơn nữa vai trò của<br />
đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cơ sở tại các tổ<br />
dân phố.<br />
KẾT LUẬN<br />
<br />
84(08): 53 - 57<br />
<br />
Là một đơn vị mới ra đời, Đảng bộ và nhân dân<br />
phường Cải Đan phải đối mặt với nhiều khó khăn<br />
thử thách: thiếu lãnh đạo, thiếu kinh nghiệm,<br />
ngân sách hạn hẹp. Nhưng với phương châm<br />
tuyệt đối tin tưởng vào đường lối, chủ trương,<br />
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước;<br />
với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền, Đảng bộ<br />
tỉnh Thái Nguyên và thị xã Sông Công, Ban<br />
Chấp hành Đảng uỷ phường đã nỗ lực đưa<br />
phường Cải Đan phát triển đi lên. Nhờ vậy mà<br />
sau hơn 10 năm thành lập, nền kinh tế phường<br />
Cải Đan đã có sự chuyển dịch nhanh theo hướng<br />
“Công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp<br />
và dịch vụ”, diện mạo của phường được thay đổi<br />
theo chiều hướng tích cực.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Đảng<br />
phường Cải Đan nhiệm kì I, năm 1999.<br />
[2]. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Đảng<br />
phường Cải Đan nhiệm kì II, năm 2005.<br />
[3]. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Đảng<br />
phường Cải Đan nhiệm kì III, năm 2010.<br />
[4]. Báo cáo Tổng kết tình hình thực hiện nhiệm<br />
kinh tế - xã hội (từ năm 2000 đến năm 2010).<br />
<br />
bộ<br />
bộ<br />
bộ<br />
vụ<br />
<br />
SUMMARY<br />
PROCESS OF ECONOMIC RESTRUCTURING OF CAI DAN WARDS<br />
(SONG CONG - THAI NGUYEN) 1999-2010<br />
Nguyen Minh Tuan*<br />
College of Sciences - TNU<br />
<br />
Cai Dan wards was found in 1999 under Decree No. 18/ND - CP of the Government of the Democratic<br />
Republic of Vietnam. Up to now, Cai Dan wards has become a typical unit of economic development<br />
towards industrialization and modernization. After more than 10 years of establishment, under the<br />
leadership of the Thai Nguyen Provincial Party Committee, Party Committee of Song Cong town,<br />
especially the leadership of Cai Dan Communite, the economic structure of the wards have shifted<br />
towards increasing rates critical industries, services, gradually reducing the agricultural sector. So that,<br />
people's lives is stable and more stable, surface of the Cai Dan wards varies increasingly positive trend.<br />
Key words: industrialization and modernization, the economic, restructuring, economic<br />
<br />
*<br />
<br />
Tel: 01234865145; Email: thansa6@gmail.com<br />
<br />
57<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />