intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân bệnh không lây tại Trung tâm phòng chống chấn thương và bệnh không lây, năm 2013

Chia sẻ: Hạnh Hoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

57
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết với mục tiêu xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân mắc bệnh không lây (tim mạch, đái tháo đường, COPD) tại Trung tâm phòng chống chấn thương và các bệnh không lây, năm 2013. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân bệnh không lây tại Trung tâm phòng chống chấn thương và bệnh không lây, năm 2013

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> <br /> NHU CẦU CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA BỆNH NHÂN BỆNH KHÔNG LÂY <br /> TẠI TRUNG TÂM PHÒNG CHỐNG CHẤN THƯƠNG VÀ BỆNH KHÔNG LÂY, <br /> NĂM 2013 <br /> Bùi Thị Hy Hân*, Dương Thị Minh Tâm*, Diệp Thị Thùy Vân*, Lê Đình Trọng Nhân* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Đặt vấn đề: Bệnh không lây đang là mối quan tâm hàng đầu của ngành y tế tại các nước trên thế giới chính <br /> bởi những hệ lụy về sức khỏe và những gánh nặng kinh tế. Việt Nam đã có những nổ lực phòng chống các bệnh <br /> không lây, tuy nhiên vẫn chưa có thể tìm hiểu được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân mắc bệnh không <br /> lây. Nghiên cứu nhằm xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhóm đối tượng này để có thể nâng cao chất <br /> lượng chăm sóc và chất lượng cuộc sống.  <br /> Mục  tiêu: Xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân mắc bệnh không lây (tim mạch, đái tháo <br /> đường, COPD) tại Trung tâm phòng chống chấn thương và các bệnh không lây, năm 2013. <br /> Phương  pháp  nghiên  cứu:  Một  nghiên  cứu  cắt  ngang  với  251  đối  tượng  mắc  các  bệnh  không  lây  (tim <br /> mạch, đái tháo đường, COPD) đến khám tại Trung tâm phòng chống chấn thương và các bệnh không lây.  <br /> Kết quả: Bệnh tim mạch luôn đứng đầu với tỷ lệ mắc cao. Vẫn còn một số ít bệnh nhân còn dửng dưng chủ <br /> quan với tình trạng bệnh của mình, biết mà không điều trị. Những thông tin về cách phòng ngừa, dấu hiệu bệnh <br /> và cách chữa trị là những thông tin y tế mà người cao tuổi, đặc biệt bệnh nhân mắc bệnh không lây mong muốn <br /> nhận được. Đa số bệnh nhân đều có khả năng chi trả bao gồm chi phí y tế và chi phí phi y tế. Nhu cầu về các dịch <br /> vụ chăm sóc sức khỏe như tư vấn dinh dưỡng, chế độ ăn uống chiếm tỷ lệ cao.  <br /> Kết luận: Cần phải tập trung công tác truyền thông và cung cấp những thông tin cần thiết theo nhu cầu <br /> của bệnh nhân mắc bệnh không lây. Tăng cường cung cấp các dịch vụ tư vấn dinh dưỡng cho đối tượng này tại <br /> các phòng khám bệnh không lây.  <br /> Từ khóa: Nhu cầu chăm sóc sức khỏe, bệnh nhân bệnh không lây <br /> <br /> SUMMARY <br /> HEALTH CARE NEEDS OF PATIENTS WITH NON‐COMMUNICABLE DISEASES AT THE CENTER <br /> FOR INJURY AND NON‐COMMUNCABLE DISEASES PREVENTION AND CONTROL, 2013 <br /> Bui Thi Hy Han, Duong Thi Minh Tam, Diep Thi Thuy Van, Le Dinh Trong Nhan <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 79 – 86 <br /> Background: Noncommunicable diseases are the leading concern of the health sector in countries around the <br /> world  because  of  their  consequences  on  health  and  economic  burden.  Although  Vietnam  has  made  efforts  to <br /> prevent non‐communicable diseases, health care needs of patients with non‐communicable diseases are not still <br /> studied.  The  study  aimed  to  determine  the  health  care  needs  of  this  group  to  be  able  to  improve  the  quality  of <br /> health care and quality of life.  <br /> Objectives: To determine the health care needs of patients with non‐communicable diseases (cardiovascular, <br /> diabetes, COPD) at the center for injury and non‐communicable diseases prevention and control, 2013 <br /> Methods: A cross‐sectional study with 251 patients suffering from non‐communicable diseases (cardiovascular, <br /> diabetes, COPD) examined at the center for injury and non‐communicable diseases prevention and control  <br /> * Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh <br /> Tác giả liên lạc: Ths. Bùi Thị Hy Hân <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> ĐT: 0932424098 <br /> <br /> Email: buithihyhan@gmail.com <br /> <br /> 79<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> Result: Cardiovascular diseases always stand at the top with the highest incidence.There is still have a small <br /> number of patients who ignore their health, are aware of their own disease, but do not seek to treatments. The <br /> information about prevention, signs and treatment approach are most concerned by older people, especially non‐<br /> communicable disease patients. Most patients are able to pay includes the cost of direct and indirect medical costs. <br /> Health care services such as nutrition counseling, dietary needs contributed a high proportion. <br /> Conclusion:  Health  care  sector  should  focus  on  health  education  campaigns  and  provide  the  necessary <br /> information based on the needs of patients suffering from non‐communicable diseases. Moreover, strengthening <br /> provide nutrition counseling services for objects in the non‐communicable disease clinic should be obtained. <br /> Keywords: Health care needs, non‐communicable disease patient. <br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> Bệnh không lây đang là một vấn đề đặc biệt <br /> đáng quan tâm do xu hướng bùng nổ trên toàn <br /> thế  giới  và  những  hệ  lụy  nghiêm  trọng  về  sức <br /> khỏe và những gánh nặng kinh tế mà nó mang <br /> lại. Trong năm 2008, tổng cộng có hơn 57 triệu ca <br /> tử  vong  trên  toàn  thế  giới,  trong  đó  36  triệu  ca <br /> (chiếm 63%) do các bệnh không lây gây ra như <br /> bệnh  tim  mạch,  đái  tháo  đường,  ung  thư  và <br /> bệnh hô hấp mạn tính(13). Các ca tử vong do bệnh <br /> không  lây  được  dự  đoán  sẽ  gia  tăng  15,0%  từ <br /> năm 2010 đến 2020 (đến 44 triệu ca tử vong). Sự <br /> gia tăng cao nhất sẽ ở Tây Thái Bình Dương (12,3 <br /> triệu ca tử vong) và Đông Nam Á (10,4 triệu ca <br /> tử vong)(14). Việt Nam cũng không thoát khỏi xu <br /> hướng đó, cụ thể, số ca mắc và tử vong của các <br /> bệnh không lây và tai nạn, ngộ độc, chấn thương <br /> ngày càng gia tăng, trong khi các bệnh lây có xu <br /> hướng  giảm:  Từ  năm  1976  đến  2010,  tỷ  lệ  hiện <br /> mắc bệnh không lây gia tăng từ 39,0% năm 1986 <br /> lên 71,5% năm 2010, trong khi tỷ lệ hiện mắc các <br /> bệnh lây giảm từ 59,2% xuống còn 19,8%(2).  <br /> Trong  khi  đó,  sự  phát  triển  của  xã  hội  kèm <br /> theo nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân <br /> ngày càng tăng cao. Họ mong muốn được chẩn <br /> đoán,  điều  trị  đúng  bệnh  và  có  thể  khỏi  bệnh <br /> thật  nhanh  để  có  thể  quay  trở  lại  với  công  việc <br /> và cuộc sống, nhưng nhu cầu phòng bệnh, phát <br /> hiện sớm để chữa trị vẫn chưa được quan tâm ở <br /> người  dân,  bệnh  trở  nên  nặng  hơn  khi  đó  mới <br /> đến khám tại các bệnh viện tuyến trên gây quá <br /> tải  trầm  trọng.  Trung  tâm  phòng  chống  chấn <br /> thương và các bệnh không lây ‐ Viện Vệ sinh ‐ Y <br /> tế  công  cộng  được  thành  lập  trong  những  năm <br /> <br /> 80<br /> <br /> gần đây nhằm chăm sóc, nâng cao sức khỏe của <br /> người dân để đáp ứng phần nào nhu cầu chăm <br /> sóc sức khỏe của họ. Với tình hình đó, Viện Y tế <br /> công cộng quyết định thực hiện nghiên cứu này <br /> nhằm đánh giá nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở các <br /> đối tượng đang mắc bệnh không lây để xác định <br /> nhu  cầu  và  mong  muốn  của  người  dân  đến <br /> khám tại trung tâm. Việc phát hiện sớm và điều <br /> trị  sớm  giúp  giảm  được  nhiều  gánh  nặng  bệnh <br /> tật  cho  người  dân  và  gián  tiếp  hạn  chế  vấn  đề <br /> quá tải bệnh viện hiện nay ở nước ta. <br /> <br /> Mục tiêu nghiên cứu <br /> Xác định nhu cầu được cung cấp thông tin y <br /> tế,  khả  năng  chi  trả  và  nhu  cầu  về  các  dịch  vụ <br /> chăm  sóc  sức  khỏe  của  bệnh  nhân  mắc  bệnh <br /> không lây (tim mạch, đái tháo đường, COPD) tại <br /> Trung  tâm  phòng  chống  chấn  thương  và  các <br /> bệnh không lây năm 2013. <br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Đối  tượng  nghiên  cứu:  Nghiên  cứu  cắt <br /> ngang  trên  251  bệnh  nhân  mắc  1  trong  3  bệnh <br /> không  lây  (tim  mạch,  đái  tháo  đường,  COPD) <br /> đến  khám  tại  Trung  tâm  phòng  chống  chấn <br /> thương và các bệnh không lây TP.HCM.  <br /> Phương  pháp  nghiên  cứu:  Bệnh  nhân  sau <br /> khi được bác sĩ chẩn đoán bệnh, nếu mắc 1 trong <br /> 3  loại  bệnh  trên,  nhóm  nghiên  cứu  giới  thiệu <br /> mục  tiêu  nghiên  cứu  và  phỏng  vấn  trực  tiếp <br /> bằng bộ câu hỏi soạn sẵn. Nếu bệnh nhân không <br /> đồng ý, bệnh nhân tiếp tục quy trình khám chữa <br /> bệnh tại Trung tâm.  <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> Bảng 2: Nhu cầu thông tin y tế  <br /> <br /> KẾT QUẢ <br /> Gần 90% bệnh nhân đến khám tại Trung tâm <br /> có độ tuổi từ 40 tuổi trở lên, trong đó độ tuổi từ <br /> 51‐60 tuổi chiếm đa số (35,9%), nhiều người lớn <br /> hơn  61  tuổi  cũng  đến  với  Trung  tâm  (27,1%). <br /> Nhìn  chung,  nữ  bệnh  nhân  đến  với  Trung  tâm <br /> nhiều hơn nam bệnh nhân (58,2% so với 41,8%). <br /> Riêng  phần  trình  độ  học  vấn,  77,3%  bệnh  nhân <br /> tham gia nghiên cứu này học từ cấp 3 trở xuống. <br /> Về  phần  kinh  tế  gia  đình,  đa  số  bệnh  nhân  tự <br /> nhận  xét  tình  hình  kinh  tế  của  gia  đình  thuộc <br /> mức  độ  trung  bình  (66,1%),  với  mức  độ <br /> nghèo/rất nghèo chiếm 21,5%. Tuy nhiên, khi hỏi <br /> thu nhập bình quân đầu người, thu nhập trung <br /> bình từ 2‐5 triệu chỉ chiếm 31,5%, và thu nhập 10 triệu <br /> chiếm gần 40%. <br /> Đa số bệnh nhân mắc bệnh tim mạch, trong <br /> đó  chủ  yếu  là  bệnh  cao  huyết  áp,  chiếm  82,5%, <br /> ngoài  ra,  đái  tháo  đường  cũng  là  một  trong  ba <br /> loại bệnh mà bệnh nhân thường gặp nhất (chiếm <br /> 24,3%). COPD chiếm tỉ lệ rất thấp chỉ có 3,2%. <br /> Bảng 1: Tình trạng bệnh không lây của bệnh nhân <br /> đến khám tại Trung tâm <br /> Đặc điểm<br /> Tần số<br /> Tình trạng điều trị bệnh (n = 251)<br /> Mới phát hiện<br /> 72<br /> Đang điều trị<br /> 161<br /> Đã phát hiện,nhưng không điều trị<br /> 18<br /> Thời gian điều trị (n = 160)<br /> 5năm<br /> 48<br /> <br /> Tỉ lệ (%)<br /> 28,7<br /> 64,1<br /> 7,2<br /> 25,6<br /> 44,4<br /> 30,0<br /> <br /> Trong  tổng  số  251  bệnh  nhân  tham  gia  vào <br /> nghiên  cứu  này,  có  đến  28,7%  mới  phát  hiện <br /> bệnh.  Ngoài  ra,  trong  số  bệnh  nhân  đã  biết  về <br /> bệnh  tình  trước  đó,  vẫn  còn  một  số  nhỏ  bệnh <br /> nhân  không  điều  trị  bệnh  của  mình  (chiếm <br /> 7,2%).  Đa  số  bệnh  nhân  đã  điều  trị  bệnh  từ  1‐5 <br /> năm  (44,4%)  và  thường  điều  trị  tại  bệnh  viện <br /> huyện  hoặc  bệnh  viện  tỉnh  nơi  mình  đang  sinh <br /> sống (chiếm 67,7%).  <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Đặc điểm<br /> Tần số Tỉ lệ (%)<br /> Thông tin y tế nhận được trong 1 tháng<br /> qua (n=138)<br /> Phòng ngừa<br /> 103<br /> 74,6<br /> Cách chữa trị<br /> 88<br /> 63,8<br /> Dấu hiệu bệnh<br /> 28<br /> 20,3<br /> Nguyên nhân bệnh<br /> 13<br /> 9,4<br /> Khác<br /> 1<br /> 0,7<br /> Thông tin y tế cần được phổ biến (n=113)<br /> Cách chữa trị<br /> 72<br /> 63,7<br /> Phòng ngừa<br /> 63<br /> 55,8<br /> Dấu hiệu bệnh<br /> 39<br /> 34,5<br /> Nguyên nhân bệnh<br /> 24<br /> 21,2<br /> Khác<br /> 1<br /> 0,9<br /> <br /> Đa số mong muốn nhận được các thông tin y <br /> tế về cách chữa trị (63,7%) và cách phòng ngừa <br /> (55,8%) của các bệnh không lây. Còn đối với đối <br /> tượng nhận được thông tin và tự tìm hiểu về các <br /> bệnh  không  lây,  thì  số  người  này  cũng  thường <br /> quan  tâm  nhiều  nhất  đến  thông  tin  y  tế  cách <br /> phòng ngừa (74,6%) và cách chữa trị (63,8%).  <br /> Bảng 3: Khả năng chi trả của bệnh nhân và đánh giá <br /> chi phí của Trung tâm <br /> Đặc điểm<br /> Tần số<br /> Tỉ lệ (%)<br /> Chi trả thêm cho đợt khám (n=251)<br /> Hoàn toàn miễn phí<br /> 186<br /> 74,1<br /> Chi trả thêm<br /> 65<br /> 25,9<br /> Đủ khả năng chi trả (n = 251)<br /> Không<br /> 26<br /> 10,4<br /> Có<br /> 225<br /> 89,6<br /> Đánh giá các loại chi phí tại Trung tâm (n = 65)<br /> Cao<br /> 1<br /> 1,5<br /> Trung bình<br /> 45<br /> 69,2<br /> Thấp<br /> 17<br /> 26,2<br /> Rất thấp<br /> 2<br /> 3,1<br /> Bảo hiểm y tế (n = 251)<br /> Không<br /> 48<br /> 19,1<br /> Có<br /> 203<br /> 80,9<br /> Hình thức thường chi trả mỗi lần khám chữa bệnh không<br /> lây (n = 161)<br /> Trực tiếp 100%<br /> 32<br /> 19,9<br /> BHYT hoàn toàn<br /> 38<br /> 23,6<br /> Trả thêm một phần<br /> 91<br /> 56,5<br /> <br /> Trong  tổng  số  251  bệnh  nhân  tham  gia <br /> nghiên  cứu,  chỉ  có  ¼  người  chi  trả  thêm  cho <br /> những  dịch  vụ  không  nằm  trong  chương  trình <br /> miễn  phí,  như  siêu  âm,  chụp  X‐quang,  xét <br /> <br /> 81<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> nghiệm máu cho 1 số chỉ số khác. Khi được hỏi <br /> về khả năng chi trả những khoản như tiền đi lại, <br /> ăn uống và những khoản đóng thêm cho những <br /> dịch  vụ  không  miễn  phí,  thì  89,6%  bệnh  nhân <br /> đều trả lời là đủ khả năng chi trả. Hầu hết đều <br /> cho rằng các loại chi phí ở Trung tâm ở mức độ <br /> vừa phải trung bình có thể chấp nhận và chi trả <br /> được. Về bảo hiểm y tế, có đến 80,9% bệnh nhân <br /> có  bảo  hiểm  y  tế  tại  nơi  họ  sinh  sống,  nơi  làm <br /> việc. Khi được hỏi về hình thức chi trả cho mỗi <br /> lần khám chữa bệnh không lây (cụ thể các bệnh <br /> khảo  sát  trong  nghiên  cứu  như  tim  mạch,  đái <br /> tháo đường và COPD), chỉ có 23,6% được BHYT <br /> trả 100%, còn lại 56,5% phải trả 1 phần.  <br /> Bảng 4: Nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe <br /> Đặc điểm<br /> Tần số<br /> Tỉ lệ<br /> Nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe (n = 251)<br /> Không<br /> 27<br /> 10,8<br /> Có<br /> 224<br /> 89,2<br /> Dịch vụ chăm sóc sức khỏe (n = 224)<br /> Tư vấn dinh dưỡng, chế độ<br /> 123<br /> 54,9<br /> ăn uống<br /> Tư vấn sức khỏe<br /> 80<br /> 35,7<br /> Khám sức khỏe định kì<br /> 56<br /> 25,0<br /> Khám ngoài giờ<br /> 49<br /> 21,9<br /> Tiêm chích thuốc<br /> 7<br /> 3,1<br /> Khác<br /> 1<br /> 0,4<br /> <br /> Đa số bệnh nhân đều có các nhu cầu về dịch <br /> vụ  chăm  sóc  sức  khỏe  (89,2%),  trong  đó  tư  vấn <br /> dinh  dưỡng  và  chế  độ  ăn  uống  chiếm  cao  nhất <br /> (54,9%), bên cạnh là nhu cầu về tư vấn sức khỏe. <br /> Có  một  tỷ  lệ  không  nhỏ  có  nhu  cầu  khám  sức <br /> khỏe định kì và khám ngoài giờ (25,0% và 21,9%).  <br /> Bảng 5: Phân bố bệnh không lây theo đặc điểm dân số <br /> (n=251) <br /> Đặc điểm<br /> <br /> Nhóm tuổi<br /> <br /> Giới<br /> Trình độ<br /> học vấn<br /> <br /> 82<br /> <br /> 61<br /> Nữ<br /> Nam<br /> Biết đọc/viết<br /> Cấp I<br /> Cấp II<br /> <br /> Tim<br /> mạch<br /> n (%)<br /> 22 (10,6)<br /> 51 (24,7)<br /> 77 (37,2)<br /> 57 (27,5)<br /> 119 (57,5)<br /> 88 (42,5)<br /> 26 (12,5)<br /> 40 (19,3)<br /> 43 (20,8)<br /> <br /> Đái tháo<br /> đường<br /> n (%)<br /> 7 (11,4)<br /> 19 (31,2)<br /> 19 (31,2)<br /> 16 (26,2)<br /> 39 (63,9)<br /> 22 (36,1)<br /> 8 (13,1)<br /> 14 (23,0)<br /> 14 (23,0)<br /> <br /> COPD<br /> n (%)<br /> 2 (18,2)<br /> 2 (18,2)<br /> 3 (27,3)<br /> 4 (36,3)<br /> 6 (54,5)<br /> 5 (45,5)<br /> 2 (18,2)<br /> 3 (27,3)<br /> 3 (27,3)<br /> <br /> Đặc điểm<br /> <br /> Tim<br /> Đái tháo COPD<br /> mạch<br /> đường<br /> n (%)<br /> n (%)<br /> n (%)<br /> 49 (23,7) 13 (21,3) 1 (9,1)<br /> 49 (23,7) 12 (19,7) 2 (18,2)<br /> <br /> Cấp III<br /> Cao đẳng/đại<br /> học/sau đại học<br /> Kinh tế gia Nghèo/Rất nghèo 42 (20,3)<br /> đình<br /> Trung bình<br /> 142 (68,6)<br /> Khá giả / giàu 23 (11,1)<br /> Nông dân<br /> 40 (19,3)<br /> Nghề<br /> nghiệp<br /> Công nhân<br /> 17 (8,2)<br /> Công nhân viên 54 (26,1)<br /> chức<br /> Buôn bán<br /> 21 (10,1)<br /> Nội trợ<br /> 32 (15,5)<br /> Nghỉ hưu/thất 33 (15,9)<br /> nghiệp<br /> Khác<br /> 10 (4,8)<br /> <br /> 12 (19,7) 4 (36,4)<br /> 38 (62,3) 6 (54,5)<br /> 11 (18,0) 1 (9,1)<br /> 17 (27,9) 1 (9,1)<br /> 5 (8,2)<br /> 0 (0,0)<br /> 16 (26,2) 1 (9,1)<br /> 3 (4,9) 3 (27,3)<br /> 12 (19,7) 3 (27,3)<br /> 7 (11,5) 2 (18,2)<br /> 1 (1,6)<br /> <br /> 1 (9,1)<br /> <br /> Về  bệnh  tim  mạch,  nhóm  bệnh  nhân  từ  40 <br /> tuổi trở xuống có tỉ lệ mắc thấp nhất, trong khi <br /> đó nhóm tuổi từ 51 – 60 tuổi lại chiếm tỉ lệ cao <br /> nhất. Bên cạnh đó, nam giới lại ít mắc bệnh hơn <br /> nữ  giới  (42,5%  so  với  57,5%).  Trong  khi,  bệnh <br /> nhân  biết  đọc  hoặc  biết  viết,  và  bệnh  nhân  học <br /> đến hết cấp I lại có tỉ lệ mắc bệnh tim mạch thấp <br /> nhất,  thì  bệnh  nhân  có  trình  độ  học  vấn  cao  từ <br /> cấp  III  và  cao  đẳng  đại  học  lại  mắc  bệnh  tim <br /> mạch với tỉ lệ cao hơn. <br /> Tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở nhóm bệnh <br /> nhân từ 40 tuổi trở lên và nữ giới cao hơn nhóm <br /> bệnh nhân từ 40 tuổi trở xuống và nam giới. Bệnh <br /> nhân có trình độ học vấn ở mức độ biết đọc biết <br /> viết có tỉ lệ mắc bệnh thấp nhất. Ngoài ra, kinh tế <br /> gia  đình  cũng  ảnh  hưởng  đến  tình  trạng  mắc <br /> bệnh  đái  tháo  đường,  cụ  thể,  bệnh  nhân  có  thu <br /> nhập gia đình ở mức độ trung bình mắc bệnh cao <br /> nhất, trong khi đó, bệnh nhân có thu nhập khá giả <br /> hoặc giàu có thì mắc bệnh ít nhất.  <br /> Về  bệnh  phổi  tắc  nghẽn  mạn  tính  (COPD), <br /> nhóm tuổi trên 60 tuổi là đối tượng dễ mắc bệnh <br /> nhất  (chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  36,3%).  Nữ  giới  mắc <br /> bệnh  COPD  nhiều  hơn  nam  giới.  Đối  tượng  có <br /> trình độ học vấn thấp từ cấp II trở xuống thì có tỉ <br /> lệ mắc bệnh COPD cao nhất. Bệnh nhân với mức <br /> thu  nhập  trung  bình  chiếm  tỷ  lệ  mắc  bệnh <br /> COPD  cao  nhất  nhóm.  Nhóm  nghề  nghiệp  có <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> thu  nhập  không  ổn  định  như  buôn  bán  và  nội <br /> trợ có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất.  <br /> <br /> BÀN LUẬN <br /> Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  các  bệnh <br /> nhân khi đến khám tại Trung tâm có nhóm tuổi <br /> từ 40 trở lên chiếm chủ yếu (88,4%) là điểm mốc <br /> đánh dấu đa số các loại bệnh không lây bắt đầu <br /> xuất  hiện.  Điều  này  cũng  tương  tự  như  các <br /> nghiên  cứu  khác  trên  thế  giới.  Điển  hình  như <br /> nghiên  cứu  của  Andréa  tại  Brasil  năm  2012,  có <br /> đến 88% dân số từ 40 tuổi trở lên bị ít nhất một <br /> bệnh mạn tính (26% bị ít nhất ba bệnh)(1). Tương <br /> tự  theo  báo  cáo  tại  Mỹ  năm  2012  về  bệnh  cao <br /> huyết áp, có gần 97% đối tượng bị cao huyết áp <br /> trong  độ  tuổi  đó(10),  và  tại  một  tiểu  bang  của <br /> Canada, Bristish Columbia năm 2004, tỷ lệ này ở <br /> bệnh tiểu đường và cao huyết áp lần lượt là 91% <br /> và 95%(3).  <br /> Cũng  như  các  nước  trên  thế  giới,  mô  hình <br /> bệnh  tật  tại  Việt  Nam  cũng  đang  ở  giai  đoạn <br /> chuyển  đổi.  Tỷ  lệ  các  bệnh  truyền  nhiễn  đang <br /> giảm  trong  khi  các  bệnh  không  lây  đang  có  xu <br /> hướng tăng cao. Kết quả của nghiên cứu này cho <br /> biết rằng tim mạch luôn là bệnh có tỷ lệ mắc cao <br /> nhất 82,5%. Điều này cũng tương tự với báo cáo <br /> của Trung tâm phòng chống chấn thương và các <br /> bệnh không lây cho đợt khám tầm soát các bệnh <br /> không lây đợt 4/2013, trong đó, báo cáo cho biết <br /> tim mạch là bệnh với tỷ lệ mắc cao nhất trong ba <br /> loại bệnh nghiên cứu (tim mạch, đái tháo đường <br /> và COPD)(11).  <br /> Vẫn  còn  7,2%  bệnh  nhân  (bảng  1)  bỏ  qua <br /> tình trạng sức khỏe bản thân khi phát hiện bệnh. <br /> Theo Tổ chức Y tế Thế giới, việc khước từ chữa <br /> trị bệnh, ngoài các yếu tố từ người bệnh và môi <br /> trường  y  tế,  còn  có  những  nguyên  nhân  như <br /> đánh  giá  của  người  bệnh  về  hiệu  quả  điều  trị <br /> cũng như quyền lựa chọn, quyết định cách thức <br /> điều trị mà người bệnh mong muốn. Việc Trung <br /> tâm tư vấn các phương thức điều trị khác nhau, <br /> trong đó có sự tham khảo và lắng nghe ý kiến từ <br /> người  bệnh  cũng  như  cung  cấp  kiến  thức  cho <br /> người bệnh về hiệu quả điều trị, thời gian điều <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> trị có thể góp phần làm thay đổi quyết định của <br /> nhóm  phát  hiện  bệnh  nhưng  chưa  tiến  hành <br /> điều  trị  này.  Thêm  vào  đó,  báo  cáo  từ  WHO <br /> cũng cho thấy mối liên quan giữa kinh tế nghèo <br /> và các bệnh mạn tính: muốn khỏe mạnh đòi hỏi <br /> chi  phí  tiêu  dùng  cho  thực  phẩm,  vệ  sinh,  và <br /> chăm sóc y tế, nhưng để kiếm được tiền, người <br /> đó phải khỏe mạnh(12). <br /> <br /> Nhu  cầu  chăm  sóc  sức  khỏe  của  bệnh <br /> nhân bệnh không lây <br /> Đối  với  thông  tin  y  tế  liên  quan  đến  bệnh <br /> không  lây  mà  người  dân  quan  tâm  và  tìm  hiểu <br /> trong  30  ngày  qua,  nhiều  nhất  bao  gồm  những <br /> thông  tin  về  phòng  ngừa,  cách  chữa  trị  bệnh  và <br /> các dấu hiệu của bệnh. Hầu hết các thông tin này <br /> được  truyền  tải  qua  tivi  và  đến  với  người  dân. <br /> Ngoài ra, các bệnh nhân đều mong muốn tiếp tục <br /> nhận được các thông tin y tế liên quan đến bệnh <br /> không lây, bệnh liên quan đến người trung niên <br /> và người  lớn tuổi. Điều  này dường như cũng là <br /> mong  muốn  chung  của  nhiều  người  dân  tại  các <br /> vùng khác nhau. Ví dụ như, nghiên cứu nhu cầu <br /> chăm  sóc  sức  khỏe  của  người  dân  Thành  phố <br /> Biên  Hòa,  Đồng  Nai  cũng  quan  tâm  nhiều  nhất <br /> các thông tin y tế liên quan đến cách phòng ngừa <br /> và dấu hiệu bệnh. Và họ mong muốn các thông <br /> tin  này  nên  được  truyền  tải  qua  các  kênh  như <br /> truyền hình tivi, sách báo, loa phát thanh(8). <br /> Tính  chất  miễn  phí  được  xem  là  một  trong <br /> những  lý  do  khiến  bệnh  nhân  đến  khám  chữa <br /> bệnh tại Trung tâm, cho dù đa số bệnh nhân đến <br /> từ  các tỉnh thành  khác. Và  như thế, tỷ  lệ  người <br /> khám  chữa  bệnh  hoàn  toàn  miễn  phí  chiếm  đa <br /> số  (74,1%)  (bảng  3).  Số  còn  lại  tham  gia  nghiên <br /> cứu muốn đăng kí kiểm tra thêm và có tính phí, <br /> như: siêu âm, chụp X‐quang, xét nghiệm một số <br /> chỉ  số  khác.  Đối  với  nhóm  người  có  làm  thêm <br /> những  dịch  vụ  khác,  họ  phải  trả  thêm  số  tiền <br /> trung bình 177.300đ ± 95.600đ (bảng 3). Như vậy, <br /> số tiền họ  phải  bỏ  ra không  quá  cao  so  với  thu <br /> nhập  hàng  tháng  của  bệnh  nhân  khi  đến  khám <br /> tại  Trung tâm.  Ngoài  ra,  trong  nghiên  cứu này, <br /> có chỉ có 12,4 % (bảng 3) đối tượng tự cho là kinh <br /> <br /> 83<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2