intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 5

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

82
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dịp tốt để Bélugeaud đòi tiền thêm, cao hơn giá mà nhà nước quy định. Và sau khi đo xong, chủ đất phải lo hối lộ thêm 500 đồng thì mới có bản sao của bản đồ. Trước đó, năm 1909, ông ta tìm cách giao thiệp với các người giàu có ở Rạch Giá, nhận tiền rồi bảo là để vận động giùm với quan trên, ai muốn khẩn đất to thì cứ đưa nhiều tiền.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 5

  1. Những rắc rối trong lịch sử Khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 5 Dịp tốt để Bélugeaud đòi tiền thêm, cao hơn giá mà nhà nước quy định. Và sau khi đo xong, chủ đất phải lo hối lộ thêm 500 đồng thì mới có bản sao của bản đồ. Trước đó, năm 1909, ông ta tìm cách giao thiệp với các người giàu có ở Rạch Giá, nhận tiền rồi bảo là để vận động giùm với quan trên, ai muốn khẩn đất to thì cứ đưa nhiều tiền. Dân địa phương tin lời, vì ông ta là người Pháp. Năm 1913, thấy phần đất giữa làng Lộc Ninh và làng Vĩnh Bình đã có dân khai thác từ lâu nhưng chưa được cấp phát chính thức, ông ta làm đơn xin khẩn 1000 mẫu, với dụng ý bắt buộc dân đang canh tác phải nạp địa tô cho ông ta. Một tay khác là Beauville—Eynaud, làm chức còm—mi ở Rạch Giá đã quá chú trọng vào việc khẩn đất. Khi thấy nhà nước soạn kế hoạch đào kinh xáng giữa Rạch Ngan Dừa và Cạnh Đền, ông ta xin trưng khẩn 1300 mẫu, khẩn xong, lại khai là mất mùa và không thèm đóng thuế !
  2. Nhiều người Pháp nhờ bạn bè đứng tên giùm để khẩn thêm đất, hoặc có những viên chức Pháp không thích canh tác nhưng cứ khẩn để bán lại cho người Việt. Lại còn trường hợp tên Ernest Outrey (sau này là Thống đốc Nam kỳ) lợi dụng danh nghĩa là nghị viên của Nam kỳ can thiệp với chủ tỉnh để cho bạn bè ông ta được khẩn đất, nói đúng hơn là chiếm phần đất mà dân quê đã khai phá từ buổi đầu. Đời sống trong điền Tây Điền của người Pháp là một tiểu quốc, người tá điền của điền Tây hưởng quy chế đặc biệt về thuế thân. Họ được chủ đất bảo lãnh, dùng “giấy đỏ” “(carte díengagé, in trên giấy cứng màu đỏ), thuế thân đóng một đồng bạc thôi, trong khi dân ở thôn xóm làm lụng cho chủ điền Việt Nam phải đóng cỡ 5 đồng. Họ chỉ đóng thuế chánh, khỏi những thuế phụ trội, khỏi làm xâu, khỏi đóng tiền canh gác. Để đề phòng trường hợp họ trốn, loại giấy đỏ này phải được chủ đất hoặc người thay mặt ký tên xác nhận, cứ 3 tháng gia hạn một lần, ai ra khỏi điền mà không có giấy phép đặc biệt của chủ thì bị bắt, xem như chưa đóng giấy thuế thân. Kẻ ở điền Tây phải làm giấy giao kèo “ở mướn cố công với chủ”, tùy theo điền mà giá cả khác nhau ; mượn tiền, mượn lúa với số lời khá cao nhưng trong giao kèo
  3. thì ghi thấp. Người làm ruộng nhiều thì được vay nhiều, tùy theo sự tiến triển của mùa màng mà chủ đất lần hồi cho họ vay thêm. Điền tây là nơi chứa chấp đủ thứ tội ác : cờ bạc, hút á phiện lậu, đặt rượu lậu thuế. Hương chức làng, lính mã tà, nhân viên thương chánh khó bề đột nhập để tra xét nếu không được phép của người chủ điền Tây. Trong những điền lớn, chủ đất thường vắng mặt quanh năm, việc quản lý giao cho hai ba người Pháp gọi là “surveillant agricole” được phép mang súng, lắm khi họ là người Pháp dốt nát (lính sơn—đá nghỉ dài hạn hoặc đã giải ngũ). Lại còn những cặp—rằn bổn xứ chuyên nghề tuần tra với cây cù ngoéo, có thể đánh đập dân chẳng khác nào mấy ông hương quản, cai tổng. Điền Tây còn là nơi chứa chấp trộm cướp ; bọn này hành nghề ở địa phương khác rồi trở về ẩn náu, làm ruộng cho có hình thức. Đôi khi, điền Tây lại vô tình thâu nhận những chánh trị phạm, những tay phiến loạn bị tập nã từ các tỉnh miền Tiền giang. Mùa lúa chín thì chung quanh điền Tây việc canh phòng bố trí nghiêm nhặt như một cơ sở quân sự. Bọn cặp—rằn đánh mỏ canh tuần ghe xuồng di chuyển gần điền phải bị tra xét phiền phức. Mục đích là đề phòng bọn tá điền “lưu” lúa ra ngoài bán trước lấy tiền xài riêng, rồi khi chủ điền tới đong, tá điền nói gạt rằng
  4. ruộng thất mùa. Người trong điền muốn chở lúa đem bán nơi khác hoặc cho bà con thì phải xin giấy chứng nhận là đã đóng đủ địa tô rồi. Nơi trạm kiểm soát, bọn cặp—rằn treo lá cờ to làm hiệu, tùy sở thích của chủ điền mà cờ này màu đỏ hay màu trắng (bởi vậy dân địa phương căn cứ vào màu cờ mà gọi là điền Tây Cờ đỏ, điền Tây Cờ trắng...). Về mặt trị dân, vài tên chủ điền Tây hoặc cặp —rằng tỏ ra đầy đủ bản lĩnh, thí dụ như họ dám hòa mình với dân Việt : ăn mắm, uống r ượu đế, ăn thịt chó, cỡi trâu kình (trâu đua). Có tay còn gian hùng hơn, rước thày về để làm lễ tống ôn, tống gió, ăn lễ hạ điền, tụng kinh cầu cho quốc thái dân an với dụng ý cầm giữ dân v à phát triển mê tín, óc xôi thịt. Hoặc là ông Tây chủ điền già nua lại mặc áo dài xanh, đội khăn đóng “cúc cung bái” khi cúng đình thần, với chức vụ là đại hương cả. Bọn chủ điền Pháp là thế lực khá mạnh, thường đưa ra nhiều yêu sách với chánh phủ thuộc địa như đòi tham gia Hội đồng địa hạt để bàn bạc hằng năm về giá biểu thuế khóa trong tỉnh. Trong một bài báo, J. Delpit đòi được miễn thuế “bách thân phụ trội” đánh vào thuế điền vì thuế này do chủ tỉnh đặt ra, tham khảo với Hội đồng địa hạt An Nam chớ chủ điền Pháp không được hỏi ý kiến. J. Delpit bảo rằng
  5. thuế ấy chỉ dành cho người Việt đóng mà thôi. Nhà nước thực dân nhận định rằng nếu đưa người Pháp vào Hội đồng địa hạt thì quá đáng : đa số điền chủ Pháp không cư ngụ tại địa phương thì làm sao họ đại diện cho dân trong hạt được ? Vả lại, đa số điền chủ Pháp đều là công chức hoặc chức sắc của công giáo. Delphit khoe khoang rằng chủ điền Pháp đã góp công lớn vào việc xây dựng thuộc địa Nam kỳ : Trong vòng 40 năm, họ đã khai khẩn đến 247.417 mẫu (do 300 người chủ đất), cao hơn diện tích mà suốt 15 thế kỷ qua người Miên và người Việt đã khai khẩn (215.578 mẫu, năm 1868), chưa kể đến 85.000 mẫu đất trồng cao su. Bên cạnh người Pháp, dân Việt đã khai khẩn từ 215.578 mẫu năm 1868 đến mức 1.291.358 mẫu vào khoảng năm 1912. Vào năm 1912, cũng theo con số mà J. Delpit trưng dẫn, Rạch Giá là tỉnh mà người Pháp có nhiều ruộng đất nhứt : 12.304 mẫu đã canh tác cộng với 26.121 mẫu đang trên đà khai phá, sắp có huê lợi. Đứng nhì là Sóc Trăng với 11.246 mẫu đã canh tác của người Pháp và 4.308 mẫu khác đang trên đà khai khẩn thêm. Hạng ba là Cần Thơ với 8.127 mẫu đã khai thác cộng thêm với 21.931 mẫu đang trên đà khai thác của người Pháp. Tỉnh Rạch Giá
  6. cũng đứng đầu về số người Pháp làm điền chủ : 23 người, (trong số này có 11 vị chức sắc công giáo). Sống trong điền của Tây hay điền của người Việt sướng hơn ? Câu hỏi này là cái vòng lẩn quẩn : nếu gặp năm thất mùa thì đâu cũng là cực khổ. Chủ đất nào cũng đưa giá biểu địa tô tùy hứng, gom góp ít nhứt là 80 % tổng số lúa thâu hoạch vì ở đâu cũng cho vay nặng lời, công khai hoặc trá hình.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1