intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những thách thức đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

9
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Những thách thức đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục" nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho chính mình và góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước là nhiệm vụ mà bản thân mỗi doanh nghiệp phải tự thực hiện. Nhưng mặt khác, Nhà nước cũng cần có những biện pháp thiết thực và có hiệu quả để hỗ trợ họ thực hiện thành công nhiệm vụ này. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những thách thức đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp khắc phục

  1. NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Nguyễn Văn Phúc* - Nguyễn Xuân Điền** 1 2 TÓM TẮT: Các doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của mọi quốc gia. Chúng tạo dựng năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế, đồng thời trực tiếp khai thác các nguồn lực phục vụ các mục tiêu phát triển đất nước. Các doanh nghiệp nói chung cũng như mỗi doanh nghiệp cụ thể cần vượt qua nhiều thách thức rất lớn mới có thể phát triển ổn định và bền vững. Đảm bảo sự phát triển bền vững cho chính mình và góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước là nhiệm vụ mà bản thân mỗi doanh nghiệp phải tự thực hiện. Nhưng mặt khác, Nhà nước cũng cần có những biện pháp thiết thực và có hiệu quả để hỗ trợ họ thực hiện thành công nghiệm vụ này. Sự nỗ lực của Nhà nước và các doanh nghiệp nói chung cũng như mỗi doanh nghiệp cụ thể cần được phối hợp với nhau để đạt hiệu quả và tác động lớn nhất. Từ khóa: Doanh nghiệp, phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế, môi trường kinh doanh 1. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam, đặc biệt là trong những giai đoạn cần có sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng cũng như khi cần có những thay đổi quan trọng trong cơ chế kinh tế. Chúng không chỉ sản xuất một lượng sản phẩm lớn, sử dụng nhiều lao động, mà còn góp phần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động ở Việt Nam. Các doanh nghiệp chính là chủ thể và “động lực” cho các chương trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế. Chính nhờ những tác động tích cực của các doanh nghiệp đối với phát triển và tăng trưởng kinnh tế mà mọi quốc gia đều phải xây dựng, thực hiện và các chính sách của mình nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp. Ngoài việc hoàn thiện môi trường vĩ mô sao cho thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động, họ còn xây dựng và thực hiện những chương trình phát triển doanh nghiệp và hỗ trợ các doanh nghiệp. Ở Việt Nam, vai trò quan trọng của các doanh nghiệp đã được khẳng định từ rất sớm. Việc xây dựng và phát triển các doanh nghiệp cũng là một trong những chính sách đầu tiên được Nhà nước triển khai ngay sau khi giành được chính quyền. Đổi lại, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế nói riêng và của đất nước nói chung. Số liệu thống kê giai đoạn 2001- 2017 cho thấy cả GDP lẫn số doanh nghiệp đã có biến động cùng chiều (xem hình 1). * Học viên Tài chính, Hà Nội, Việt Nam, ** Đại học Nguyễn Tất Thành, Thành phố Hồ Chí Minh. Việt Nam. Tác giả nhận phản hồi: . Tel.: +84986791888. E-mail address: nguyenxuandien.hvtc@gmail.com
  2. 1094 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION Hình 1: Tốc độ tăng GDP và số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam1 Trong 7 năm từ 2011 đến 2017, Việt Nam có thêm 714.458 doanh nghiệp thành lập mới, gấp 1,3 lần tổng số DN được thành lập trong giai đoạn 20 năm từ 1991 - 2010. Nếu như số doanh nghiệp thành lập mới hàng năm liên tục giảm sút trong các năm 2010- 2012 (những năm chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ 2008) thì từ 2014- 2017, chỉ số này đã liên tục tăng, thậm chí tăng với tốc độ khá nhanh, bình quân tới 19,2%/ năm. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tới cuối năm 2017, Việt Nam có hơn 561.064 doanh nghiệp, sử dụng tới 51% tổng số lao động xã hội. Các chỉ số phản ánh quy mô của các doanh nghiệp biến động ngược chiều: Trong khi số lao động bình quân của các doanh nghiệp giảm thì vốn kinh doanh của các doanh nghiệp có xu hướng tăng (xem hình 2). Hình 2: Biến động của chỉ số số lượng lao động và vốn kinh doanh bình quân của mỗi doanh nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2000- 20162 Đặc biệt, nếu chỉ tính số vốn đăng ký thì có thể thấy đã có sự chuyển hướng: Nếu như năm 2011 bình quân một doanh nghiệp đăng kí thành lập với số vốn 6,63 tỷ đồng thì tới 2013, chỉ số này đã giảm xuống 5,13 tỷ đồng, nhưng sau đó lại tăng khá mạnh, lên tới gần 12,5 tỷ vào năm 2017. Mặt khác, doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường có xu hướng gia tăng trong giai đoạn từ 2010- 2015, chỉ chuyển sang xu hướng giảm bớt trong 2 năm 2016 và 2017. Ứng với sự giảm sút về số lượng tuyệt đối, tỷ lệ các doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng sản xuất, giải thể hoặc phá sản cũng chiếm tỷ lệ ngày càng tăng trong các năm từ 2010 tới 1 Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê các năm 2004, 2009, 2012, 2016 và Số liệu về tình hình kinh tế- xã hội Việt Nam năm 2017. 2 Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê các năm 2004, 2009, 2012, 2016.
  3. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1095 2015. Tỷ lệ này chỉ mới giảm đi trong 2 năm 2016 và 2017 (xem bảng 1). Sang năm 2018, số doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, giải thể và phá sản có sự gia tăng đột biến, chỉ trong 8 tháng đầu năm đã có 63.235 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và 9.135 doanh nghiệp đã hoàn tất thủ tục giải thể. Số doanh nghiệp gặp khó khăn phải rút lui khỏi thị trường với số lượng lớn cho thấy những thách thức của nền kinh tế đã và đang dần loại bỏ khỏi thị trường các doanh nghiệp yếu kém, không đủ sức tồn tại hoặc không kịp thay đổi để thích nghi với điều kiện mới1. Bảng 1: Số doanh nghiệp mới thành lập, ngừng hoạt động, giải thể, phá sản từ 2010- 20172 Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Số doanh nghiệp mới thành lập (doanh nghiệp) 83.600 77.548 69.800 76.955 74.842 94.754 110.100 126.859 Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, phá sản (doanh nghiệp) 43.189 53.900 54.278 60.737 67.823 80.858 73.045 72.666 Tỷ lệ doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể và phá sản so với số doanh nghiệp thành lập mới (%) 51,66 69,51 77,76 78,93 90,62 85,33 66,34 57,28 Cũng như ở các nước khác, số doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước. Theo số liệu của ADB, cho đến hết 2013, Việt Nam có tổng cộng 359.794 doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs), chiếm 96% tổng số các doanh nghiệp trong cả nước. Hầu hết các doanh nghiệp đều thuộc sở hữu tư nhân (97%), các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm 2,7% và số còn lại là thuộc sở hữu nhà nước. Chúng hoạt động trong hầu hết các ngành nghề, nhưng tập trung chủ yếu vào các hoạt động về bán buôn và bán lẻ, tiếp sau đó là ngành dịch vụ và công nghiệp chế tạo. Các doanh nghiệp này sử dụng khoảng 5,1 triệu lao động, chiếm 47% lực lượng lao động của Việt Nam3. Trong số các doanh nghiệp nhỏ và vừa, số doanh nghiệp vừa chỉ chiếm 2,2%, doanh nghiệp nhỏ chiến 29,6% và còn lại 65,7% là siêu nhỏ. Trong giai đoạn phát triển tới, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp một số khó khăn, thách thức chủ yếu sau đây: - Các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều rào cản khó vượt qua để thâm nhập sâu và có hiệu quả vào các chuỗi sản xuất, các chuỗi giá trị toàn cầu. Trong các chuỗi giá trị toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu hoạt động trong các giai đoạn gia công hoặc khai thác tài nguyên và sơ chế tài nguyên. Đây là những giai đoạn có giá trị gia tăng thấp, không đem lại tích lũy nhiều cho doanh nghiệp và thu nhập cao cho người lao động. Các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu thụ trong nước (hoặc tiêu thụ trong nước là chính), cũng có xu hướng ngày càng sử dụng nhiều sản phẩm trung gian nhập từ nước ngoài, tức là tính chất gia công đang tăng lên. 1 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 – 2015 và Kiều Linh (2018), 8 tháng đầu năm 2018, số doanh nghiệp chờ giải thể tăng đột biến. 2 Báo cáo hàng năm về số lượng doanh nghiệp mới thành lập, tạm ngừng hoạt động, giải thể và phá sản hàng năm của Tổng cục Thống kê và Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư). 3 L. Văn: Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đang cần gì? Xem: http://www.nguoiduatin.vn/doanh-nghiep-nho-va- vua-viet-nam-dang-can-gi-a204946.html. Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy năm 2017,
  4. 1096 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION Lịch sử phát triển công nghiệp ghi nhận hiện tượng rất phổ biến là trong mọi chuỗi giá trị toàn cầu, các nước phát triển luôn giữ lại cho mình những mắt xích chứa đựng nhiều giá trị gia tăng, gắn với lợi thế công nghệ (thậm chí là với những công nghệ có khả năng chi phối toàn chuỗi), chuyển dần những bộ phận sản xuất sử dụng nhiều tài nguyên hơn, đặc biệt là tài nguyên nhân lực (thường là lao động trình độ thấp và giá rẻ) và gây ô nhiễm nhiều hơn sang những nước kém phát triển hơn. Về phần mình, các nước kém phát triển hơn cũng cố gắng xâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị, tiếp nhận những bộ phận có giá trị gia tăng lớn hơn và tiếp tục chuyển giao những bộ phận ít giá trị gia tăng hơn sang các nước kém phát triển hơn. Những trường hợp các nước kém phát triển hơn có thể đuổi kịp các nước phát triển và chiếm lĩnh vị trí dẫn đầu trong chuỗi giá trị tuy có nhưng không nhiều1. Về tổng thể, Việt Nam khó có thể là trường hợp ngoại lệ và mỗi doanh nghiệp Việt Nam cần tính tới thực tế này. - Nền tảng phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam là một nền kinh tế yếu kém, chậm phát triển, có nền công nghiệp mới ở trình độ phát triển thấp, quy mô nhỏ nhưng đã chuyển dịch cơ cấu quá nhanh theo hướng nâng cao quá mức tỷ trọng của ngành dịch vụ. Điều này khiến các doanh nghiệp có một nền tảng chưa vững chắc cho sự phát triển bền vững và khiến khả năng liên kết với nhau hạn chế. Những hạn chế và chậm trễ trong những năm vừa qua về việc phát triển hệ thống công nghiệp hỗ trợ cho các ngành và việc các hiệp hội ngành nghề có vai trò chưa được như kỳ vọng là những biểu hiện rõ nhất cho tình trạng này. - Môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp có nhiều bất lợi kéo dài, khó có thể cải thiện đáng kể trong thời gian tới. Đặc biệt, tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ, làm hàng giả, hàng nhái, sản phẩm không đảm bảo các yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng, … đã diễn ra ở quy mô và mức độ khiến cho người sản xuất trung thực mất động lực sản xuất nghiêm túc, người tiêu dùng mất lòng tin với sản phẩm do các doanh nghiệp trong nước sản xuất. Những hiện tượng này đã đến mức phổ biến và việc khắc phục hậu quả của chúng không những sẽ rất tốn kém mà thậm chí còn không thể thực hiện được trong một sớm một chiều. Điều nguy hại đi kèm là các cơ sở kinh doanh gian dối còn làm mất hiệu lực của công tác quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực nêu trên. - Các doanh nghiệp ít hướng tới chiến lược dài hạn mà còn nặng về lợi dụng cơ hội kinh doanh ngắn hạn, nghiêng về các lĩnh vực thương mại và dịch vụ hơn là hoạt động trong lĩnh vực sản xuất. “Năm 2017 có 45,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới trong ngành bán buôn, bán lẻ (chiếm 35,8% tổng số doanh nghiệp thành lập mới); 16,2 nghìn doanh nghiệp hoạt động trong ngành chế biến, chế tạo (chiếm 12,8%); 16 nghìn doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng (chiếm 12,6%); 9,4 nghìn doanh nghiệp hoạt động trong ngành khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác …”2. - Năng lực hạn chế, nguồn lực bổ sung có hạn trong khi năng lực khai thác các nguồn lực bổ sung cũng hạn chế. Trước hết, quy mô của các doanh nghiệp Việt Nam rất nhỏ bé. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tại thời điểm 31/ 12/ 2015, “số doanh nghiệp có dưới 10 lao động chiếm 69% tổng số doanh nghiệp, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 lao động chiếm 24%, doanh nghiệp có từ 50 lao động trở lên chỉ chiếm trên 7% trong tổng số doanh nghiệp”3. Năm 2016, số doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động biến động không đáng kể, chiếm 68,7% tổng số doanh nghiệp trong cả nước4. Tới năm 2017, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 98% tổng số các doanh nghiệp Việt Nam. Sự yếu kém trong năng lực của các doanh nghiệp của 1 Adam Szirmai, Wim Naudé và Ludovico Alcorta (2013), Pathways to industrialization in the 21th century- New challenges and emerging paradigms. Cambridge University Press. 2 Thúy Hiền (2018), Thấy gì từ chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Việt?. Xem https://bnews.vn/ thay-gi-tu-chat-luong-va-hieu-qua-hoat-dong-cua-doanh-nghiep-viet-/76075.html 3 Tổng cục Thống kê (2017), Doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ (2000- 2014). NXB Thống kê. Hà Nội. 4 Tổng cục Thống kê (2017), Niên giám thống kê 2016. NXB Thống kê. Hà Nội.
  5. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1097 Việt Nam thể hiện trên hầu hết các mặt, từ năng lực tài chính, năng lực công nghệ, năng lực quản lý, năng lực của nguồn nhân lực. Về mặt này, thách thức lớn nhất đối với doanh nghiệp Việt Nam là sự thiếu hụt nhân lực, kể từ nhân lực quản lý đến nhân lực chuyên môn kỹ thuật. Số liệu thống kê nghi nhận: Có tới 55,63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Trong tổng số chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa, số tiến sỹ chỉ chiếm 0,66%; thạc sỹ 2,33%; tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và có tới 43,3% có trình độ thấp hơn.  Đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp, ngay cả những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên, ít được đào tạo về quản lý kinh tế và quản trị doanh nghiệp, pháp luật và vận dụng pháp luật trong kinh doanh một cách có hệ thống... Bên cạnh đó, 75% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Thiếu vốn là khó khăn thường được các doanh nghiệp nhỏ và vừa đánh giá là vấn đề phổ biến và lớn nhất . Tuy nhiên, thực chất lại chính là năng lực quản lý: Các doanh nghiệp không tìm ra được thị trường, 1 không có phương án kinh doanh và phương án đầu tư khả thi, có hiệu quả có thể thuyết phục được các tổ chức tài chính- tín dụng. Chính vì thế, mặc dù các ngân hàng thương mại có khá nhiều vốn còn đọng lại nhưng vẫn không dám cho vay mà “không có thế chấp” chỉ là cớ được viện dẫn để nêu lý do không cho vay. Về công nghệ, số lượng các nhà khoa học, các chuyên gia làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ chiếm 0.025% tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa; 76% số máy móc, thiết bị đã được trang bị từ các thập kỷ 80- 90 của thế kỷ trước, khoảng 75% số máy móc, thiết bị đã hết khấu hao nhưng vẫn được tiếp tục sử dụng. Vấn đề quan trọng khác là năng lực tiếp cận với các văn bản và hệ thống chính sách pháp luật của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn nhiều hạn chế, bắt nguồn cả từ nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan nhưng phần lớn là do các doanh nghiệp chưa thực sự tìm hiểu các chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực của chính mình trong kinh doanh. - Hiệu quả kinh doanh thấp trong khi các đối tác nước ngoài có tiềm năng lớn hơn luôn cố gắng giành những giai đoạn có giá trị gia tăng cao, hiệu quả cao trong các chuỗi giá trị mà doanh nghiệp Việt Nam tham gia. Trong một nghiên cứu được thực hiện năm 2014, 80% số doanh nghiệp nhỏ và vừa được khảo sát cho biết lãi suất kinh doanh không đủ bù đắp cho lãi vay ngân hàng khiến họ phải huy động vốn từ các nguồn khác với rủi ro cao hơn và yêu cầu/ điều kiện vay ngặt nghèo hơn, đồng nghĩa với việc phải chấp nhận từ bỏ một phần quan trọng các quyết định kinh doanh mà một chủ sở hữu thường có. Năm 2010, lợi nhuận của doanh nghiệp nhỏ và vừa là 80,59 nghìn tỷ đồng (chiếm 22,87% tổng lợi nhuận trước thuế của toàn bộ các doanh nghiệp). Năm 2012, chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế này đã giảm đáng kể, chỉ còn 22,82 nghìn tỷ đồng (chiếm 7,26% tổng lợi nhuận trước thuế của toàn bộ các doanh nghiệp). Từ năm 2010, tỉ lệ doanh nghiệp thua lỗ, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng đáng kể, từ 25,14% (năm 2010) lên 65,8% (vào cuối tháng 9/2013). Tỉ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi cũng giảm từ 64,12% năm 2010 xuống còn 34,12% vào cuối tháng 9-20132. Số liệu thống kê năm 2016 cho thấy tình hình chưa được cải thiện đáng kể. 1 Những số liệu hiện có về tình trạng doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn khá nhiều khác biệt. Theo số liệu của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, hiện có khoảng hơn 32% doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tiếp cận và được vay vốn thường xuyên, còn lại phần lớn rất khó hoặc không thể tiếp cận tín dụng ngân hàng. Lý do phần lớn các doanh nghiệp cho rằng, kinh doanh hiện nay khó có tỷ suất lợi nhuận tới 14-15% để chịu nổi mặt bằng lãi suất cho vay. Trong khi đó, tài sản đảm bảo của họ đang dần cạn kiệt, doanh thu sụt giảm, quy mô thu hẹp... Tuy nhiên, cũng theo số liệu của Hiệp hội, hiện mới chỉ có 30% các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được với nguồn vốn từ ngân hàng, 70% còn lại phải tiếp tục sử dụng nguồn vốn tự có hoặc vay từ nguồn vốn khác với chi phí rất cao. Xem: http://vietstock.vn/2014/11/co-toi-gan-70-so-doanh-nghiep-nho-va-vua-kho-tiep-can-von-757-393612. 2 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 – 2015. Tài liệu đã dẫn.
  6. 1098 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION Hộp 1: Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam Chỉ số quay vòng vốn (tính bằng tổng doanh thu/tổng nguồn vốn) của doanh nghiệp có xu hướng giảm nhẹ trong giai đoạn 2000-2015, từ 0,81 lần năm 2000 xuống còn 0,69 lần năm 2015, cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 2000-2015. Giai đoạn này chỉ số quay vòng vốn giảm ở hầu hết các khu vực doanh nghiệp, ngoại trừ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ số quay vòng vốn của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt cao nhất và có xu hướng tăng, từ 0,66 lần năm 2000 lên 1,01 lần năm 2015. Trong khi chỉ số quay vòng vốn của doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đều thấp và giảm đáng kể, chỉ đạt mức lần lượt là 0,74 lần và 0,41 lần trong năm 2015. Theo khu vực kinh tế, nông, lâm nghiệp và thủy sản và dịch vụ là các khu vực có chỉ số quay vòng vốn năm 2015 đạt thấp với lần lượt là 0,38 lần và 0,53 lần. Công nghiệp và xây dựng là khu vực năm 2015 có chỉ số quay vòng vốn đạt cao nhất với 0,91 lần; trong đó ngành chế biến, chế tạo là ngành có chỉ số quay vòng vốn đạt khá cao với 1,28 lần (trong đó các ngành có công nghệ cao đạt 1,71 lần). Hiệu suất sinh lời trên vốn kinh doanh (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng nguồn vốn kinh doanh) của các doanh nghiệp cũng có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 2000-2015, cụ thể hiệu suất sinh lời của toàn bộ doanh nghiệp năm 2015 đạt 2,3%, thấp hơn tỷ lệ 3,7% của năm 2000. Theo loại hình doanh nghiệp, tỷ lệ này có xu hướng giảm ở cả 3 loại hình doanh nghiệp. Loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hiệu suất sinh lời trên vốn kinh doanh cao và luôn đứng đầu trong 3 loại hình doanh nghiệp. Tỷ suất sinh lời trên vốn kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm từ 9,0% năm 2000 xuống 5,5% năm 2015 và đạt cao nhất trong năm 2005 với 11,2%. Tỷ suất sinh lời trên vốn kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước giảm nhẹ từ 2,4% năm 2000 xuống 2,1% năm 2015. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước luôn có hiệu suất sinh lời trên vốn kinh doanh thấp nhất trong ba loại hình doanh nghiệp, từ 1,9% năm 2010 giảm xuống chỉ còn 1,3% năm 2015, thấp hơn nhiều so với loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước. Theo khu vực và ngành kinh tế, công nghiệp và xây dựng là khu vực có hiệu suất sinh lời trên vốn kinh doanh đạt cao nhất, nhưng cũng có hiệu suất giảm dần trong cả giai đoạn, từ trên 7% năm 2000 giảm xuống còn khoảng gần 4% năm 2015. Hiệu suất sinh lời trên doanh thu (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng doanh thu) của các doanh nghiệp năm 2015 đạt 3,6%, giảm dần trong cả giai đoạn 2000-2015. Các doanh nghiệp nhà nước có hiệu suất sinh lời trên doanh thu tăng trong cả giai đoạn, từ 5,3% năm 2010 lên 5,6% năm 2015. Trong khi hai loại h.nh doanh nghiệp còn lại đều có hiệu suất sinh lời giảm, cụ thể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hiệu suất sinh lời trên doanh thu giảm mạnh nhất trong giai đoạn 2000-2015 từ 13,3% năm 2000 xuống 5,8% năm 2015. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước luôn có hiệu suất sinh lời trên doanh thu thấp nhất trong các loại hình doanh nghiệp, đạt 2,7% năm 2010 giảm xuống chỉ còn 1,9% năm 2015. Theo khu vực và ngành kinh tế, nông lâm nghiệp và thủy sản là khu vực có hiệu suất sinh lời trên doanh thu đạt cao nhất với 6,7% trong năm 2015, nhưng lại thấp hơn nhiều so mức 18% của năm 2010. Tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây dựng với hiệu suất 4,3% năm 2015 và thấp nhất là khu vực dịch vụ, chỉ đạt 2,8% năm 2015. Hiệu suất sử dụng lao động (bằng doanh thu bình quân một lao động/thu nhập bình quân một lao động) của toàn bộ doanh nghiệp có xu hướng giảm trong giai đoạn 2000-2015, từ 19,4 lần năm 2010 xuống 14,2 lần năm 2015. Theo loại hình doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước có hiệu suất sử dụng lao động đạt cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp và có xu hướng tăng lên trong cả giai đoạn, từ 17,3 lần năm 2000 lên 18 lần năm 2015. Trong khi đó, các doanh nghiệp ngoài nhà nước có xu hướng giảm dần hiệu suất sử dụng lao động, từ 23,8 lần năm 2000 xuống còn 14,2 lần năm 2015. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hiệu suất sử dụng lao động thấp nhất, giảm từ 18,7 lần năm 2000 xuống 12,4 lần năm 2015. Theo khu vực và ngành kinh tế, nông, lâm nghiệp và thủy sản là khu vực có hiệu suất sử dụng lao động có xu hướng tăng từ 4,9 lần năm 2000 lên 6,7 lần năm 2015. Dịch vụ là khu vực có hiệu suất sử dụng lao động cao nhất trong ba khu vực, nhưng hiệu suất sử dụng lao động của khu vực này cũng giảm dần, từ 31,8 lần năm 2000 xuống chỉ còn 18,1 lần năm 2015. Công nghiệp và xây dựng là khu vực cũng có xu hướng giảm dần hiệu suất sử dụng lao động từ 13,6 lần vào năm 2000 xuống 12 lần năm 2015. Nguồn: Tổng cục Thống kê (2017), Doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ (2000- 2014). NXB Thống kê. Hà Nội.
  7. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1099 - Doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn, rào cản khi mở rộng thị trường, trong khi thị trường truyền thống bị cạnh tranh gay gắt, thậm chí bị bị co hẹp trên nhiều thị trường quan trọng, kể cả ngay chính trên thị trường trong nước. Tình trạng này một phần xuất phát từ sự cạnh tranh gia tăng do sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, một phần do sức mua của thị trường trong nước bị thu hẹp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế mà chưa kịp phục hồi, một phần do mất thị trường quốc tế bởi tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Tuy Việt Nam có hơn 90 triệu dân, GDP bình quân đầu người liên tục tăng trong mấy thập kỷ qua, nhưng Việt Nam vẫn là nước mà người dân có thu nhập thấp khiến sức mua bị hạn chế. Hơn nữa, dù thu nhập và mức chi tiêu bình quân đầu người vẫn liên tục tăng trong những năm vừa qua nhưng mức tăng này thấp hơn năng lực sản xuất trong nước và giá trị hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế, năm 2008, thị trường bán lẻ Việt Nam được coi là hấp dẫn nhất thế giới. Trong bảng xếp hạng này, vị thế của Việt Nam tụt xuống vị trí thứ 6 vào năm 2009 rồi tiếp tục giảm xuống vị trí thứ 14 vào năm 2010, thứ 23 vào năm 2011 và dưới thứ 30 vào năm 2012. Sau nhiều năm kinh tế gặp khó khăn, từ cuối năm 2014- đầu năm 2015, sức mua của dân cư và các doanh nghiệp đã tăng lên. Theo số liệu từ năm 2015 của Tổng cục Thống kê, sức mua của người dân đã có sự gia tăng khá tốt. Sự gia tăng này diễn ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế gia tăng, các doanh nghiệp nước ngoài tăng cường thâm nhập thị trường Việt Nam qua nhiều kênh, bằng nhiều hình thức khiến thị phần của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang có nguy cơ bị chiếm lĩnh. Hai vấn đề quan trọng khác tác động bất lợi tới các doanh nghiệp Việt Nam là 1) sự suy giảm niềm tin của người tiêu dùng trong nước đối với hàng nội địa và 2) sự thay đổi cơ cấu và thói quen tiêu dùng (đặc biệt là ở tầng lớp trung lưu đang gia tăng nhanh chóng và là nhóm dân cư có sức mua lớn đối với hàng nội địa) theo hướng có lợi cho các mặt hàng có chất lượng ngày càng cao- là nhóm mặt hàng mà các doanh nghiệp nước ngoài đang có ưu thế hơn so với doanh nghiệp Việt Nam. Trong giai đoạn tới, trước yêu cầu phát triển kinh tế nhanh và vững chắc, việc hội nhập quốc tế sẽ diễn ra ngày càng sâu rộng, việc phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn nữa của các doanh nghiệp càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Những kinh nghiệm và bài học về việc phát triển doanh nghiệp của các nước cũng như của chính Việt Nam cho thấy cần có sự kết hợp từ nhiều phía, sử dụng nhiều công cụ/ phương tiện cũng như nhiều hình thức mới có thể đảm bảo cho các doanh nghiệp Việt Nam đảm nhận tốt vị thế của mình, có thể có những đóng góp tương xứng với bản chất của chúng, với kỳ vọng mà xã hội đặt ra cho chúng cũng như đối với những chính sách, những nguồn lực mà Nhà nước đã dành cho chúng. 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIÚP CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG GIAI ĐOẠN TỚI Về cơ bản, các giải pháp phát triển doanh nghiệp phải xuất phát từ chính nhu cầu của chúng, do chính chúng chủ động thực hiện vì mục tiêu và lợi ích trực tiếp của chính bản thân các doanh nghiệp. Hơn nữa, trong khi sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cần được đảm bảo thì yêu cầu phát triển bền vững cũng như mức độ bền vững của các doanh nghiệp cụ thể lại không giống nhau. Do đó, giải pháp phát triển cho mỗi doanh nghiệp không thể giống nhau, mà phải tùy thuộc vào chính nhu cầu của doanh nghiệp và nhu cầu về sản phẩm/ dịch vụ do nó cung cấp cho thị trường, vào chiến lược phát triển, năng lực hiện tại, thị trường và điều kiện kinh doanh cũng như những yếu tố chủ quan khác của từng doanh nghiệp. Do vậy, tùy theo mục đích, trình độ phát triển của mình, mỗi doanh nghiệp cần cân nhắc, lựa chọn và triển khai thực hiện các giải pháp sau: - Rà soát, định vị và định hướng lại chiến lược kinh doanh và chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Thiếu định hướng hoặc định hướng không rõ ràng là điểm yếu cơ bản nhất và có ý nghĩa quyết định nhất
  8. 1100 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Bởi nguyên nhân này mà các doanh nghiệp không thể đầu tư một cách nhất quán, có hiệu quả để có thể phát triển bền vững. Cũng vì thế mà doanh nghiệp không thể lựa chọn được thì trường ổn định cho mình, xây dựng được hình ảnh và củng cố được vị thế của mình đối với khách hàng. Hậu quả là nhiều doanh nghiệp kinh doanh theo kiểu ngắn hạn, chỉ “hớt váng sữa” khi thị trường có nhu cầu lớn về sản phẩm/ dịch vụ của mình, không thể đầu tư chiều sâu để củng cố và phát triển thị trường, có chỗ dựa vững chắc khi thị trường trầm lắng hoặc suy giảm. Để có thể lựa chọn được chiến lược đúng, ổn định, doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu thị trường một cách toàn diện, phân tích rõ thực trạng chuỗi cung ứng, chuỗi gia công, chuỗi giá trị và so sánh, phân tích, định vị mình cũng như các đối thủ và đối tác trong chuỗi này, từ đó chọn vị thế của doanh nghiệp, có mục tiêu và các giải pháp thích hợp để từng bước mở rộng quy mô, tăng cường vị thế, củng cố chỗ đứng của mình trong chuỗi gia công/ chuỗi cung ứng. Đây cũng là cơ sở để mỗi doanh nghiệp thiết lập quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trong bối cảnh hiện nay, do các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa thiết lập được quan hệ hợp tác một cách bền vững, chặt chẽ và có hiệu quả, chiến lược thích hợp hơn cả đối với chúng là đi vào các thị trường ngách, tạo thương hiệu, xây dựng năng lực cần thiết cho mình để từ đó có chiến lược hợp tác thích hợp, đặc biệt là với các tập đoàn kinh tế nước ngoài hoặc tự đứng ra tổ chức mạng lưới hợp tác riêng của mình đối với những sản phẩm có mức độ chuyên môn hóa cao, có thể cạnh tranh tốt với sản phẩm của các doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước. Cần nhận thức rõ rằng trong bối cảnh toàn cầu hóa và tiến bộ khoa học- công nghệ diễn ra với tốc độ ngày càng cao, phạm vi ngày càng rộng thì việc tham gia phân công lao động là tất yếu, do vậy thiết lập được một mạng lưới hợp tác hoặc định vị được mình một cách vững chắc là một điều kiện cần để doanh nghiệp có thể phát triển bền vững. Để từng bước xây dựng, củng cố và mở rộng mạng lưới hợp tác của mình, các doanh nghiệp cần xuất phát tự sự định vị hiện tại và định vị mục tiêu (trong chiến lược phát triển) của mình trong chuỗi cung ứng/ chuỗi gia công, phân tích thế mạnh, những hạn chế của mình khi thực hiện/ đảm nhận những giai đoạn nhất định, sản xuất những sản phẩm hoặc bán sản phẩm nhất định trong các chuỗi trên cũng như hiệu quả của việc tham gia các chuỗi này. Việc xây dựng hệ thống các quan hệ liên kết có thể được triển khai theo nhiều hướng, nhiều mô hình. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam, để giảm thiểu rủi ro và nâng cao tính bền vững cũng như hiệu quả kinh doanh, các quan hệ liên kết cần ưu tiên xây dựng và phát triển nên là các mối quan hệ liên kết trong từng chuỗi cung ứng, đảm bảo đưa sản phẩm đến tận người tiêu dùng. Chiến lược chung mà các doanh nghiệp nên cân nhắc, lựa chọn là tự mở rộng dần quy mô và nâng cao dần trình độ của mình và bắt đầu từ củng cố thực trạng hiện tại để mở rộng dần phạm vi bao quát của danh mục mặt hàng/ dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh trong phạm vi chuỗi gia công. Theo đó, mỗi doanh nghiệp nên bắt đầu từ những khâu, những sản phẩm/ bán sản phẩm mà mình có lợi thế lớn nhất hoặc có điểm yếu thấp nhất trong toàn chuỗi. Từ điểm này, doanh nghiệp tìm cách tăng cường năng lực nội sinh của mình, khẳng định vị thế vững chắc đối với sản phẩm/ dịch vụ hoặc nhiệm vụ gia công đã chọn, đồng thời mở rộng thêm sang sản phẩm/ dịch vụ khác khi đã có năng lực nhất định. Đây là con đường phát triển tuần tự của doanh nghiệp, có thể sẽ mất nhiều năm. Cần khẳng định rõ rằng phương thức này có thể khiến doanh nghiệp phát triển chậm chút ít, nhưng dù chậm chút ít mà phát triển bền vững, ít rủi ro còn hơn là phát triển nhanh nhưng dễ tổn thương và kém hiệu quả trong dài hạn. Con đường “đi tắt” có thể nhanh hơn trong một vài bối cảnh, tại một vài thời điểm nhất định, không thể là cách đi phổ biến, lâu dài cho mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. - Nâng cao năng lực nội sinh của doanh nghiệp. Mức độ và hiệu quả hội nhập cao hay thấp, vị thế mà doanh nghiệp có được trong từng chuỗi cung ứng/ chuỗi giá trị thuận lợi hay bất lợi sẽ đều tùy thuộc vào
  9. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1101 năng lực nội sinh của doanh nghiệp. Quy mô, tốc độ, hiệu quả của việc ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ và hiện đại hóa kỹ thuật- công nghệ của doanh nghiệp (cả đối với trang thiết bị lẫn sản phẩm/ dịch vụ của doanh nghiệp) cũng tùy thuộc vào năng lực nội sinh của doanh nghiệp. Do vậy, mức độ hội nhập càng sâu, nhu cầu đổi mới công nghệ càng cấp bách thì yêu cầu nâng cao năng lực nội sinh của doanh nghiệp cũng càng cấp bách. Tuy nhiên, năng lực nội sinh của mỗi doanh nghiệp thường ổn định trong một thời kỳ nhất định chứ không “động” như nhiều năng lực “mềm” khác, bởi mỗi lần đầu tư, cơ sở vật chất- kỹ thuật (hình thái vật chất của công nghệ và kỹ thuật) thường phải được khai thác, sử dụng một cách lâu dài qua nhiều năm. Điều này càng đòi hỏi doanh nghiệp phải có định hướng và chiến lược dài hạn, có sự định vị doanh nghiệp và sản phẩm/ dịch vụ của chúng một cách tương đối ổn định. Trong các yếu tố cấu thành năng lực nội sinh, yếu tố cơ bản cần phát triển là năng lực quản lý của lãnh đạo và nhân viên quản lý, đặc biệt là những cán bộ, nhân viên có liên quan trực tiếp tới việc nghiên cứu, tác động tới nhu cầu và thị trường, nghiên cứu và phục vụ khách hàng, trong đó có bao gồm cả những cán bộ kỹ thuật- công nghệ tham gia nghiên cứu, cải tiến sản phẩm và dịch vụ phục vụ khách hàng của doanh nghiệp. Năng lực nghiên cứu, đổi mới và thích ứng hóa là yếu tố thứ hai cần được ưu tiên phát triển. Đây chính là yếu tố cho phép doanh nghiệp có thể tiếp nhận những tiến bộ khoa học- công nghệ, biến các năng lực ngoại sinh thành năng lực nội sinh của chính mình, từ đó có thể cung cấp cho thị trường những hàng hóa/ dịch vụ đáp ứng được nhu cầu, có khả năng cạnh tranh tốt hơn để tồn tại một cách bền vững (trước khi nói tới việc nâng cao hiệu quả kinh doanh). Xét trong tổng thể quá trình hình thành, phát triển năng lực công nghệ của mỗi quốc gia, các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp nhỏ và vừa, là chủ thể của cầu về tiến bộ khoa học- công nghệ, trong đó có cả cầu về tiến bộ kỹ thuật- công nghệ mà doanh nghiệp chưa nhận biết (xem hình 1). Năng lực thích hợp về nghiên cứu, đổi mới công nghệ và thích ứng hóa công nghệ được tiếp nhận giúp doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả của đổi mới, chuyển giao và sang tạo công nghệ, đồng thời giúp tăng cung trên thị trường tiến bộ khoa học- công nghệ. Để việc nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển, đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ mới, doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức, có quyết tâm cao, có tinh thần chủ động, có sự đầu tư thích đáng cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật- công nghệ của mình. Về phía Nhà nước, cần có những chính sách phù hợp để cải thiện và nâng cao năng lực một cách đồng bộ và cân đối cho tất cả các khâu, các mắt xích trong toàn bộ hệ thống nghiên cứu- phát triển của quốc gia. Những yếu tố cấu thành năng lực tiếp theo cần được tăng cường là chất lượng nguồn nhân lực và năng lực công nghệ của doanh nghiệp. Những yếu tố này trực tiếp tác động tới năng suất và hiệu quả của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Khai thác, tận dụng một cách có hiệu quả và đảm bảo tác động bền vững từ các chương trình, đề án, dự án hỗ trợ của Nhà nước. Sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ còn được tiếp tục duy trì trong một thời gian khá dài, dưới những hình thức khác nhau, phục vụ những mục tiêu cụ thể khác nhau. Sự hỗ trợ này, nếu tính bình quân cho tổng số các doanh nghiệp thì sẽ không lớn, nhưng nếu khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả thì vẫn có thể đem lại tác động đáng kể cho những doanh nghiệp trực tiếp được thụ hưởng. Để khai thác một cách có hiệu quả các nguồn hỗ trợ này, doanh nghiệp cần tìm hiểu để biết rõ mục đích hỗ trợ, các điều kiện hỗ trợ từ từng nguồn, các yêu cầu và thủ tục để có thể khai thác từng nguồn, đặc biệt là các điều kiện và thủ tục giải ngân cho các khoản hỗ trợ từ từng nguồn. Trên cơ sở này, doanh nghiệp cần xác định rõ nhu cầu hỗ trợ và điều kiện tiếp nhận hỗ trợ để có phương án sử dụng các khoản hỗ trợ đó. Bài học mà nhiều doanh nghiệp đã rút ra từ việc tiếp nhận hỗ trợ của Nhà nước (cũng như các nguồn hỗ trợ khác) là đây hoàn toàn không phải là những khoản cho không, mà doanh nghiệp cũng phải dành những khoản chi tiêu đáng kể mới có thể tiếp nhận được chúng. Nếu không tính toán kỹ lưỡng, xác định đúng và đầy đủ các chi phí dành
  10. 1102 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION cho việc tiếp nhận, khai thác, bảo quản- bảo dưỡng các trang thiết bị cũng như các khoản tài trợ này, doanh nghiệp không thể có được những lợi ích mà mình mong muốn. Nhiều trường hợp, do không xác định đúng, đủ các khoản chi phí và không có phương án hợp lý, các khoản hỗ trợ này đã trở thành gánh nặng mà doanh nghiệp phải mất nhiều thời gian, công sức và chi phí mới có thể khắc phục được. Bên cạnh những nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần phát huy vai trò tích cực, cần triển khai những hoạt động cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vì lợi ích quốc gia và lợi ích của Nhà nước. Những giải pháp mà Nhà nước cần thực hiện trong những năm tới là: - Tiếp tục hoàn thiện các chính sách vĩ mô nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Cụ thể là: o Rà soát, đánh giá hệ thống chính sách kinh tế nói chung và những chính sách cụ thể liên quan tới sự phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là tính nhất quán và tính toàn diện trong nội bộ hệ thống chính sách. Việc thực hiện công tác rà soát, đánh giá hệ thống chính sách nên được giao cho các cơ qua, tổ chức độc lập đảm nhận, trong đó sử dụng các phương pháp khoa học, đánh giá nhiều chiều, dựa trên các thông tin và kết quả nghiên cứu được kiểm định minh bạch, đảm bảo có sự tham gia thực sự của các chủ thể có liên quan tới việc xây dựng, thực hiện và thụ hưởng kết quả của chính sách cũng như các đối tượng chịu tác động từ việc thực hiện chính sách. o Đẩy mạnh chương trình cải cách hành chính, hoàn thiện và đảm bảo tính ổn định khung pháp lý, đơn giản hóa các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nhỏ và vừa được tiếp cận bình đẳng các nguồn lực về đất đai, về vốn, công nghệ... để ổn định sản xuất, phát triển kinh doanh. Việc này cần được thực hiện đồng thời với việc đồng bộ hóa hệ thống các quy định pháp lý của đất nước và củng cố kỷ cương, tính tuân thủ pháp luật trong xã hội. Đây chính là những nội dung cụ thể của góp phần minh bạch hóa và là tiền đề để giảm thiểu các quy định tùy tiện của các cơ quan quản lý hành chính hiện nay, đồng thời cũng góp phần hình thành môi trường cạnh tranh bình đẳng, đảm bảo cho doanh nghiệp nâng cao khả năng hoạch định các chương trình, kế hoạch phát triển dài hạn của mình. o Xây dựng và ưu tiên triển khai thực hiện các chính sách liên quan nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường công nghệ và hỗ trợ hình thành, phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ khởi nghiệp, khuyến khích và thúc đẩy hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo. - Đồng bộ hóa hệ thống các quy hoạch, chiến lược, kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế- xã hội, phát triển ngành và các vùng lãnh thổ. Đây cũng là một trong số các điều kiện tiên quyết, giúp doanh nghiệp có căn cứ để tính toán việc đầu tư, nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất- kỹ thuật, hệ thống phân phối và hệ thống cung ứng- những thứ mà nếu không có thì doanh nghiệp khó có thể thực sự đi vào hoạt động, kể cả trong lĩnh vực sản xuất lẫn trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ. Hệ thống quy hoạch này đã từng bước được xây dựng và ngày càng đồng bộ, nhưng vẫn có những bất cập, đặc biệt là chúng dựa trên những dự báo không chính xác và không đầy đủ khiến những điều chỉnh phải được thực hiện khá thường xuyên. Trong bối cảnh các quy hoạch, chiến lược và kế hoạch dài hạn bị điều chỉnh, nhiều doanh nghiệp đã lỡ dở đầu tư, đặc biệt là những chương trình đầu tư một cách bài bản, khoa học, thường chịu tổn thất khá lớn, ít nhất là phải đầu tư bổ sung hoặc kéo dài thời gian đầu tư. Để khắc phục tình trạng trên, một mặt, các cơ quan chức năng của Nhà nước cần nâng cao chất lượng các quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển của mình thông qua việc đầu tư nhiều hơn cho công tác nghiên cứu, đánh giá thực trạng và các nhân tố tác động, cho công tác dự báo xu hướng phát triển, xu hướng
  11. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1103 biến động của thị trường và các nhân tố tác động tới môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, các cơ quan chức năng của Nhà nước cần đảm bảo sự tham gia rộng rãi của các chủ thể liên quan, đặc biệt là các nhà khoa học và cộng đồng kinh doanh vào việc tham gia hoạch định các quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển dài hạn. - Hỗ trợ hình thành và phát triển các hình thức tổ chức, vận hành các mối quan hệ liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp. Các quan hệ liên kết này nên được tổ chức theo các chuỗi sản xuất/ chế biến. Về cơ bản, các chuỗi sản xuất/ chế biến như thế thường hướng tới sản xuất à tiêu dung bền vững một sản phẩm/ nhóm sản phẩm hoặc một ngành hàng. Tùy thuộc và đặc điểm kinh tế- kỹ thuật mà các chuỗi này có độ dài khác nhau, bao gồm số lượng các đối tượng khác nhau. Các hình thức, các mối quan hệ này có thể tồn tại dưới hình thức thể chế (các hiệp hội, các câu lạc bộ, …) hay các hình thức phi thể chế (các chương trình liên kết, các quan hệ chuyên môn hóa/ hợp tác ngắn hạn và dài hạn, …). Về thực chất, đây chính là nhiệm vụ của các doanh nghiệp, xuất phát từ nhu cầu của chính các doanh nghiệp có liên quan, sử dụng các nguồn lực của các doanh nghiệp phục vụ lợi ích của các doanh nghiệp. Việc Nhà nước hỗ trợ, cung cấp các nguồn lực, thành lập và duy trì hoạt động của các tổ chức liên kết giữa các doanh nghiệp dễ dẫn tới nguy cơ hành chính hóa hoạt động của các tổ chức này, khiến hoạt động của chúng kém hiệu quả. Thực tế này cũng đã diễn ra một cách khá phổ biến trong thời gian qua ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này của Nhà nước vẫn là cần thiết. Vấn đề là làm sao đảm bảo cho sự hỗ trợ này được phân bổ đúng nhu cầu, được sử dụng một cách có hiệu quả. - Thúc đẩy sự hình thành đồng bộ và sự hoạt động hiệu quả của các thị trường và sự vận hành của cơ chế thị trường, vừa cho phép, vừa thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh một cách bình đẳng trên thị trường. Nhà nước cần phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong việc bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là trong các trường hợp gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh và thâu tóm bất hợp pháp của các doanh nghiệp nước ngoài. - Nâng cao hiệu quả của các chương trình, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là: o Rà soát, cân nhắc và lựa chọn sự hỗ trợ để đảm bảo sự hỗ trợ của Nhà nước được cung cấp một cách tập trung (trước mắt là giảm bớt sự phân tán của các chương trình hỗ trợ), chuyển đổi phương thức hỗ trợ theo đối tượng hiện nay sang phương thức hỗ trợ theo đối tượng nhưng tăng cường định hướng theo kết quả, hiệu quả và tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế- xã hội cũng như của chính bản thân các doanh nghiệp được hỗ trợ và tới toàn bộ chuỗi cung ứng/ chuỗi gia công. Thay vì thụ động chờ các đối tượng thuộc nhóm được hỗ trợ xây dựng đề xuất xin hỗ trợ, các cơ quan, tổ chức quản lý các chương trình hỗ trợ, tài trợ từ ngân sách Nhà nước cần chủ động tìm kiếm, đánh giá và sàng lọc để lựa chọn đối tượng cần và nên được hỗ trợ cho những mục tiêu nhất định, từ đó hướng dẫn họ làm các thủ tục cần thiết để thực hiện các đề án này. Phương thức các cơ quan cung cấp hỗ trợ chủ động xây dựng đề án và tuyển chọn cơ quan thực hiện (thông qua đấu thầu hoặc các phương thức xét chọn khác) cần được thử nghiệm. Ngoài ra, cần chuyển trách nhiệm trực tiếp tài trợ cho doanh nghiệp từ cơ quan quản lý nhà nước sang cho tổ chức ngoài nhà nước quản lý, trực tiếp cung cấp hỗ trợ hoặc trực tiếp theo dõi, giám sát các đề án hỗ trợ để đảm bảo hiệu quả của các chương trình hỗ trợ của Nhà nước cho doanh nghiệp. o Đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng chú trọng vào chất lượng, hiệu quả đào tạo một cách bền vững, gắn đào tạo với tư vấn, hỗ trợ quản lý sau đào tạo cho họ. Việc này cần được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm và ưu tiên đào tạo cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong một số ngành, lĩnh vực theo định hướng hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước nên giảm thiểu, tiến tới từ bỏ việc bao cấp cho doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực, đồng thời cũng giảm thiểu dần việc bao cấp cho hệ thống đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất
  12. 1104 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION lượng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Thị trường giáo dục- đào tạo, trong đó bao gồm cả đào tạo nghề, cần được sớm thừa nhận và việc chuyển đổi phương thức vận hành của hệ thống giáo dục- đào tạo theo cơ chế thị trường này cần được nghiên cứu, triển khai. Vấn đề mà Nhà nước cần làm là tăng cường kiểm tra, giám sát để đảm bảo các doanh nghiệp tuân thủ đúng, đủ các quy định về sản xuất kinh doanh cũng như những tiêu chuẩn chất lượng, từ đó buộc các doanh nghiệp phải sử dụng lao động có trình độ cần thiết. Chỉ trên cơ sở này, “đầu ra” của thị trường đào tạo nghề mới được ổn định và lợi thế về nhân lực của Việt Nam mới được các doanh nghiệp hiện thực hóa. o Hình thành mạng lưới hệ thống thông tin hỗ trợ doanh nghiệp để cung cấp thông tin về các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, các chính sách, chương trình trợ giúp phát triển doanh nghiệp và các thông tin khác hỗ trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin về thị trường hàng hóa và dịch vụ, thông tin về tiến bộ khoa học- công nghệ và thị trường công nghệ. o Triển khai các chương trình hỗ trợ, phổ biến, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến tới các doanh nghiệp, khuyến khích hợp tác và chia sẻ công nghệ giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nên được tập trung theo hướng này, trong đó các hoạt động của các chương trình cần hướng tới việc nâng cao trình độ kỹ thuật- công nghệ và đổi mới sản phẩm/ dịch vụ của doanh nghiệp, tới việc thích ứng hóa và truyền bá rộng rãi các công nghệ tiên tiến thích hợp, tới việc nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng công nghệ trong doanh nghiệp. o Bổ sung, đồng bộ hóa các chính sách và thực hiện có hiệu quả việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, giảm thiểu đến mức tối đa tình trạng sản xuất- kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng hóa và dịch vụ không đáp ứng các quy định của Nhà nước về vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường cũng như các yêu cầu khác về chất lượng sản phẩm mà Nhà nước đã ban hành. o Xây dựng và thực hiện các chương trình hội nhập đảm bảo thực hiện lộ trình theo các cam kết quốc tế mà Nhà nước đã cam kết, đồng thời bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể tận dụng được các cơ hội mà hội nhập quốc tế tạo ra, đồng thời vượt qua được những thách thức, hạn chế được những rủi ro và những tác động do chúng gây ra trong quá trình hội nhập quốc tế. Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn để xây dựng và thực hiện một cách nhất quán, có hiệu quả những chính sách liên quan tới bảo hộ hàng trong nước một cách hợp lý, có thời hạn, chính sách và sự hỗ trợ cụ thể cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung) trong các tranh chấp thương mại ở nước ngoài, … - Hoàn thiện chính sách và tăng cường các hoạt động ngoại giao kinh tế tích cực, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, trong đó có các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thâm nhập bền vững và thuận lợi thị trường quốc tế, đặc biệt là ở những thị trường trọng điểm đối với những sản phẩm chiến lược, có thế mạnh ổn định của Việt Nam. Trước hết, Nhà nước cần tăng cường năng lực cho một số cán bộ ở các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài về các kỹ năng quảng bá, xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường, đánh giá đối tác, thẩm định và đánh giá cơ hội kinh doanh, cơ hội đầu tư, … Thứ hai, Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí và hỗ trợ kỹ thuật để thiết lập các kênh hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ những thông tin chung về môi trường kinh doanh, khung khổ pháp lý, phương thức và tập quán kinh doanh, một số đầu mối cần liên hệ khi bắt đầu kinh doanh, những tổ chức tư vấn kinh doanh, tư vấn pháp lý đáng tin cậy và có năng lực cần thiết, … cho tới các thông tin cụ thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu đối tác, ra các quyết định cần thiết trong việc đầu tư và kinh doanh ở các nước. Thứ ba, Nhà nước cần dành kinh phí thích đáng để các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là những thị trường chủ yếu, nghiên cứu và cung cấp thông tin chung về thị trường và cơ hội kinh doanh cũng như những nghiên cứu chuyên đề về các ngành hàng, các nhóm sản phẩm tại các nước,
  13. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 – 2015. Cục Phát triển doanh nghiệp (12. 2014), Báo cáo “Khái quát tình hình doanh nghiệp và trợ giúp phát triển DNNVV năm 2014” tại cuộc họp Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV tháng 12/2014). Thúy Hiền (2018), Thấy gì từ chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Việt?. Xem https://bnews.vn/thay- gi-tu-chat-luong-va-hieu-qua-hoat-dong-cua-doanh-nghiep-viet-/76075.html Kiều Linh (2018), 8 tháng đầu năm 2018, số doanh nghiệp chờ giải thể tăng đột biến. http://vneconomy.vn/8-thang- nam-2018-so-doanh-nghiep-cho-giai-the-tang-dot-bien-20180829105043215.htm Nguyệt Minh (2015), Khối doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp tục hồi phục mạnh. Xem: http://baodauthau.vn/dau-tu/khoi- doanh-nghiep-nho-va-vua-tiep-tuc-hoi-phuc-manh-8672.html Adam Szirmai, Wim Naudé và Ludovico Alcorta (2013), Pathways to industrialization in the 21th century- New challenges and emerging paradigms. Cambridge University Press. Tổng cục Thống kê (2017), Doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ (2000- 2014). NXB Thống kê. Hà Nội. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê các năm 2004, 2009, 2012, 2016. Tổng cục Thống kê (2017), Số liệu về tình hình kinh tế- xã hội Việt Nam năm 2017. L. Văn: Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đang cần gì? Xem: http://www.nguoiduatin.vn/doanh-nghiep-nho-va- vua-viet-nam-dang-can-gi-a204946.html.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2