intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU

Chia sẻ: Nam Nữ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

391
lượt xem
123
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hợp đồng quyền chọn (sau đây gọi tắt là quyền chọn) đã xuất hiện trên thị trường chứng khoán từ nhiều thập kỷ trước, nhưng bắt đầu từ năm 1973 quyền chọn mới được giao dịch một cách phổ biến, và trở thành công cụ kiếm lời cũng như bảo vệ lợi nhuận hữu hiệu của các nhà đầu tư. Khác với các loại chứng khoán khác, quyền chọn không do các công ty cổ phần phát hành, mà do cơ quan quản lý giao dịch quyền chọn phát hành theo yêu cầu của người đầu tư. Có nhiều khái...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU

  1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU 1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN 1. Khái niệm 1. Khái niệm hợp đồng quyền chọn Hợp đồng quyền chọn (sau đây gọi tắt là quyền chọn) đã xuất hiện trên thị trường chứng khoán từ nhiều thập kỷ trước, nhưng bắt đầu từ năm 1973 quyền chọn mới được giao dịch một cách phổ biến, và trở thành công cụ kiếm lời cũng như bảo vệ lợi nhuận hữu hiệu của các nhà đầu tư. Khác với các loại chứng khoán khác, quyền chọn không do các công ty cổ phần phát hành, mà do cơ quan quản lý giao dịch quyền chọn phát hành theo yêu cầu của người đầu tư. Có nhiều khái niệm khác nhau về quyền chọn, tựu trung lại có thể hiểu quyền chọn như sau: Quyền chọn là thỏa thuận giữa hai bên. Trong đó bên mua quyền chọn phải trả phí để có quyền được mua hay bán một chứng khoán cơ sở theo giá thực hiện ghi trong quyền chọn bất cứ lúc nào bằng cách thực hiện quyền chọn trước ngày đáo hạn quyền chọn. Bên bán nhận được khoản tiền phí bán quyền chọn và có nghĩa vu thực hiện quyền chọn nếu người mua quyền chọn có yêu cầu. Giải thích thuật ngữ: Phí (premium): là số tiền mà người mua quyền chọn trả cho người bán quyền chọn. Chứng khoán cơ sở (underlying security): là chứng khoán được mua hay được bán khi quyền chọn được thực hiện, nói cách khác đó là chứng khoán được ấn định trong quyền chọn. Các loại chứng khoán cơ sở có nhiều loại như: cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số hay tiền tệ, hợp đồng future… Giá thực hiện (strike price hay exercise price): là giá mà chứng khoán cơ sở sẽ được bán hoặc mua nếu quyền chọn được thực hiện. Có nhiều mức giá thực hiện khác nhau xoay quanh giá cổ phiếu cơ sở của chứng khoán cơ sở. Ngày đáo hạn (expiration date): là ngày mà quyền chọn trở nên vô giá trị, người sở hữu quyền chọn không có quyền yêu cầu thực hiện quyền chọn nữa. Ngày đáo hạn do công ty thanh toán giao dịch quyền chọn quy định. Thực hiện quyền chọn (exercise): là việc mua hay bán chứng khoán cơ sở. Việc thực hiện quyền chọn khác nhau giữa các kiểu quyền chọn. Trên thế giới hiện nay có ba kiểu quyền chọn là: quyền chọn kiểu Mỹ (American-style options), quyền chọn kiểu châu Au (European-style options) và quyền chọn giới hạn (Capped options). Đối với quyền chọn kiểu Mỹ, người sở hữu quyền chọn có thể yêu cầu thực hiện quyền chọn bất cứ khi nào cho đến ngày đáo hạn. Quyền chọn cổ phiếu kiểu châu Au chỉ
  2. được thực hiện ở ngày đáo hạn. Còn quyền chọn giơí hạn sẽ được tự động thực hiện nếu giá thị trường cổ phiếu cơ sở chạm hay vượt giá giới hạn (cap price) Quyền quyết định của người sở hữu quyền chọn: việc yêu cầu thực hiện quyền chọn là quyền, không phải là nghĩa vụ của người sở hữu quyền chọn. Do đó người sở hữu quyền chọn có thể yêu cầu thực hiện quyền chọn, để quyền chọn hết hạn, hay bán lại quyền chọn trên thị trường thứ cấp. 1. Khái niệm hợp đồng quyền chọn cổ phiếu Hợp đồng quyền chọn cổ phiếu là hợp đồng quyền chọn mà chứng khoán được ấn định trong quyền chọn là cổ phiếu. Cổ phiếu được ấn định trong hợp đồng quyền chọn sau đây được gọi là cổ phiếu cơ sở (underlying stock). Mặc dù có nhiều có quyền chọn của nhiều loại chứng khoán cơ sở nhưng quyền chọn cổ phiếu được giao dịch phổ biến nhất. 1. Phân loại quyền chọn 1. Căn cứ vào quyền của người sở hữu quyền chọn Có hai loại là quyền chọn call và quyền chọn put Quyền chọn call (sau đây gọi tắt là call): là quyền chọn, trong đó người sở hữu call có quyền mua chứng khoán cơ sở với giá thực hiện bất cứ khi nào cho đến ngày đáo hạn. Ví dụ: một người đầu tư muốn mua một scall cổ phiếu IBM, anh ta đặt lệnh như sau: Buy 1 IBM Jun 90 Call at 6 ½ Có nghĩa là quyền chọn này cho phép khách hàng mua 100 cổ phiếu IBM với giá $90 một cổ phiếu bất cứ lúc nào trong khoảng thời gian từ khi mua được cho đến tháng Sáu. Để có được quyền này anh ta phải trả mức phí $650 (100*6 ½ ) cho một quyền chọn. Và khi anh ta muốn thực hiện quyền của mình là mua cổ phiếu IBM thì người bán call có nghĩa vụ bán cổ phiếu IBM cho anh ta với giá $90 một cổ phiếu. Như vậy, người sở hữu Call có quyền mua, và người bán Call có nghĩa vụ bán. Quyền chọn Put (sau đây gọi tắt là put): là quyền chọn, trong đó người sở hữu quyền chọn put có quyền bán chứng khoán cơ sở với giá thực hiện bất cứ khi nào cho đến ngày đáo hạn. Ví dụ: Một người đầu tư muốn mua một put cổ phiếu IBM, anh ta đặt lệnh sau: Buy 1 IBM Jan 100 Put at 7 ¼ Quyền chọn này cho phép người sở hữu bán 100 cổ phiếu của IBM ở giá $100 một cổ phiếu từ lúc mua được quyền chọn cho đến tháng Giêng. Để có được quyền này anh ta phải trả mức phí là $725 cho một quyền chọn (100*7 ¼ ). Người bán quyền chọn có nghĩa vụ mua 100 cổ phiếu IBM với giá $100 một cổ phiếu nếu người sở hữu yêu cầu thực hiện
  3. quyền chọn trong thời hạn của quyền chọn. Với nghĩa vụ này người bán nhận được số tiền phí là $725 cho một quyền chọn. Tóm lại, người sở hữu Put có quyền bán, và người bán Put có nghĩa vụ mua. Trên thị trường mua bán quyền chọn, chỉ có hai loại quyền chọn là call và put, nên có bốn vị thế trong kinh doanh quyền chọn: Vị thế mua call (long call): nhà đầu tư ở vị thế mua call là nhà đầu tư đã mua quyền chọn call và có quyền mua chứng khoán cơ sở của quyền chọn theo giá ấn định vào bất cứ lúc nào trước khi quyền chọnđáo hạn. Vị thế mua put (long put): nhà đầu tư ở vị thế mua put là nhà đầu tư đã mua quyền chọn put và có quyền bán chứng khoán cơ sở của quyền chọn theo giá ấn định vào bất cứ lúc nào trước khi quyền chọnđáo hạn. Vị thế bán call (short call): nhà đầu tư ở vị thế bán call là nhà đầu tư đã bán quyền chọn call và có nghĩa vụ phải bán chứng khoán cơ sở của quyền chọn theo giá đã ấn định cho người sở hữu quyền chọn call nếu người này thực hiện quyền chọn trước khi quyền chọn đáo hạn. Vị thế bán put (short put): nhà đầu tư ở vị thế bán put là nhà đầu tư đã bán quyền chọn put và có nghĩa vụ mua chứng khoán cơ sở theo giá ấn định trong quyền chọn bất cứ lúc nào trước khi quyền chọn đáo hạn nếu người sở hữu quyền chọn Put thực hiện quyền chọn. Khi bán quyền chọn nhà đầu tư có thể đang sở hữu hoặc không sở hữu chứng khoán cơ sở của quyền chọn đó. Nếu nhà đầu tư bán quyền chọn (call hay put) và đang sở hữu cổ phiếu cơ sở quyền chọn đó gọi là bán có đảm bảo (covered writing). Nếu nhà đầu tư bán quyền chọn (call hay put) và không đang sơ hữu cổ phiếu cơ sở quyền chọn đó gọi là bán khống (uncovered writing). 1. Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền chọn Có hai loại là quyền chọn phân phối (physical delivery options) và quyền chọn thanh toán tiền (cash-settled options). Quyền chọn phân phối: cho phép người sở hữu quyền chọn call quyền được nhận chứng khoán cơ sở; người sở hữu quyền chọn put quyền phân phối chứng khoán cơ sở khi quyền chọn được thực hiện. Đơn vị giao dịch: là số lượng chứng khoán cơ sở được mua hay bán nếu thực hiện quyền chọn. Đối với quyền chọn cổ phiếu, đơn vị giao dịch là 100 cổ phần. Điều này có nghĩa là cứ mỗi hợp đồng quyền chọn được thực hiện sẽ có 100 cổ phần được mua hay bán.
  4. Quyền chọn thanh toán tiền: cho phép người sở hữu quyền chọn quyền được nhận thanh toán tiền mặt dựa trên phần chênh lệch giữa giá của chứng khoán cơ sở lúc thực hiện và giá thực hiện. Người sở hữu quyền chọn thanh toán tiền call được nhận tiền thanh toán nếu giá chứng khoán cơ sở lúc thực hiện cao hơn giá thực hiện. Người sở hữu quyền chọn thanh toán tiền put được nhận tiền thanh toán nếu giá chứng khoán cơ sở lúc thực hiện thấp hơn giá thực hiện. Kích thước hợp đồng: là đơn vị giao dịch của loại hợp đồng quyền chọn thanh toán tiền. Đối với quyền chọn cổ phiếu, kích thước hợp đồng là 100; nghĩa là mỗi điểm biến động của quyền chọn thanh toán tiền tương đương với 100$. 1. Lớp, sơ – ri hợp đồng quyền chọn Lớp hợp đồng: những hợp đồng cùng loại có cùng chứng khoán cơ sở là cùng lớp. Ví dụ: Hai hợp đồng quyền chọn sau cùng lớp IBM Jun 90 Calls IBM Jan 100 Calls Sơ – ri hợp đồng: tất cả những hợp đồng quyền chọn cùng lớp, cùng giá thực hiện và cùng tháng đáo hạn thì cùng sơ – ri. 1. SÀN GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU Sàn giao dịch quyền chọn là nơi những quyền chọn được niêm yết và giao dịch. Việc giao dịch quyền chọn cổ phiếu (và các loại quyền chọn chứng khoán khác) trên sàn giao dịch cũng tương tự như việc giao dịch cổ phiếu. Mỗi quyền chọn được ấn định tại một địa điểm cố định trên sàn và mọi giao dịch của quyền chọn này diễn ra tại trạm đó. Các quyền chọn giao dịch tại sàn (còn gọi là các quyền chọn niêm yết) do một cơ quan của sàn giao dịch có tên gọi là “Công ty thanh toán bù trừ hợp đồng quyền chọn” ( Options Clearing Corporation – OCC) phát hành. Mọi giao dịch về quyền chọn đều được diễn ra thông qua hệ thống máy vi tính và được thể hiện trong tài khoản của các môi giới quyền chọn tại sàn, và không có bất kỳ chứng thư nào được phát hành trong các giao dịch này. 1. Các nhân viên trên sàn giao dịch Có hai hệ thống giao dịch quyền chọn đang được áp dụng hiện nay, đó là: hệ thống giao dịch dựa vào các chuyên gia và hệ thống giao dịch dựa vào những người tạo thị trường và nhân viên lưu trữ lệnh. Tùy vào việc ứng dụng hệ thống giao dịch nào mà mỗi sàn giao dịch có những thành viên cụ thể. Nhiệm vụ cụ thể của các nhân viên như sau: 1. Người tạo thị trường (Maket maker): Người tạo thị trường là một trong những thành viên của sàn giao dịch, họ mua bán bất cứ loại quyền chọn cổ phiếu nào theo yêu cầu của các viên chức sở giao dịch hoặc theo
  5. yêu cầu của một môi giới nào đó đang có lệnh mua bán của khách hàng. Khi được yêu cầu, người tạo thị trường thường đưa ra cả giá hỏi mua (bid) và giá chào bán (adk). Giá hỏi mua là giá mà tại đó người tạo thị trường sẵn sàng mua và giá chào bán là giá mà tại đó người tạo thị trường sẵn sàng bán. Vào lúc giá hỏi mua và giá chào bán được niêm yết, người tạo thị trường không biết rằng người kinh doanh đã yêu cầu niêm yết đang muốn mua hay muốn bán. Giá chào bán luôn cao hơn giá hỏi mua. Chênh lệch giữa giá mua và giá bán không được quy định cụ thể nhưng luôn có một giới hạn trên. Ví dụ: mức chênh lệch không được cao hơn 0.25$ đối với các quyền chọn cso giá thấp hơn 0.50$; không được cao hơn 0.50$ đối với các quyền chọn có giá từ 0.50$ đến 10$… Với đặc điểm mua bán nêu trên người tạo thị trường tự tạo ra lợi nhuận cho mình từ chênh lệch giá mua và giá bán. Đồng thời, họ cũng làm tăng khả năng linh hoạt cho thị trường vì sự có mặt của họ trên sàn giao dịch đảm bảo lệnh mua và lệnh bán có thể luôn luôn được thực hiện ở một vài mức giá một cách nhanh chóng. 1. Nhân viên lưu trữ lệnh (Order book official): Nhân viên lưu trữ lệnh có nhiệm vụ lưu giữ các lệnh giới hạn và duy trì các lệnh thị trường một cách trật tự, họ không kinh doanh cho tài khoản của họ. Quy trình lưu giữ lệnh được thực hiện như sau: khi người môi giới trên sàn nhận được lệnh giới hạn, anh ta sẽ chuyển lệnh này đến nhân viên lưu trữ lệnh. Nhân viên này đưa lệnh vào máy tính cùng với những lệnh giới hạn khác để đảm bảo rằng ngay khi đạt đến giá giới hạn, lệnh sẽ được thực hiện. Những thông tin về tất cả các lệnh giới hạn chưa được thực hiện được công bố cho tất cả các nhà kinh doanh. Trên hệ thống giao dịch dựa vào các chuyên gia thì không có các nhân viên lưu trữ lệnh vì như trên đã nói, các chuyên gia chính là những người lưu trữ lệnh. 1. Chuyên gia (Specialist): Theo hệ thống giao dịch dựa vào chuyên gia, nhân viên với chức danh là chuyên gia có nhiệm vụ như người tạo thị trường và giữ hồ sơ về lệnh giới hạn. Không giống như các nhân viên lưu trữ lệnh, chuyên gia không thông tin về lệnh giới hạn sẵn có cho những nhà kinh doanh khác. Cũng giống như các chuyên gia trên sàn giao dịch cổ phiếu, các chuyên gia của sàn giao dịch quyền chọn vừa thực hiện các lệnh do các người môi giới đưa đến, vừa kinh doanh kiếm lời cho chính họ. Nhiệm vụ của các chuyên gia là duy trì thị trường hoạt động ổn định và có trật tự. 1. Nhà môi giới trên sàn (Floor boker): Nhà môi giới trên sàn là những người môi giới làm việc trên sàn giao dịch, thực hiện giao dịch cho khách hàng của công ty mình. Khi nhà đầu tư đặt lệnh cho công ty chứng khoán, các lệnh này sẽ được chuyển đến nhân viên môi giới trên sàn. Nhà môi giới tiến hành giao dịch với các nhà môi giới khác trên sàn và với những người tạo thị trường để thực hiện lệnh nhận được.
  6. Nhà môi giới tự do: trên sàn giao dịch ngoài những nhân viên môi giơi làm việc cho các công ty chứng khoán còn có những nhà môi giới tự do là những người thực hiện các lệnh của bất kỳ công ty chứng khoán nào thuê họ để hưởng huê hồng. 1. Lệnh và các loại lệnh giao dịch quyền chọn 1. Lệnh giao dịch quyền chọn Khi một khách hàng muốn mua hay bán một loại quyền chọn nào đó, anh ta đến công ty chứng khoán nơi môi giới của anh ta làm việc hoặc gọi điện cho môi giới của anh ta để đặt lệnh. Sau khi nhận lệnh, môi giới tại công ty chứng khoán truyền lệnh đến môi giới của công ty tại sàn. Tại sàn giao dịch, môi giới tại sàn nhận lệnh và đặt lệnh mua bán cho các chuyên gia. Lệnh mua bán quyền chọn tại sàn giao dịch là lệnh điện tử, được lưu trong máy vi tính, và không có phiếu lệnh như các giao dịch thông thường. Một lệnh mua hay bán quyền chọn chứa đựng các thông tin sau: Số tài khoản của khách hàng, của nhân viên đại diện có đăng ký • Sàn giao dịch nơi quyền chọn được giao dịch • Cách thức nhận lệnh (method of reciept of the order) • Mua hay bán • Loại quyền chọn (put hay call) • Số lượng quyền chọn muốn mua hay bán • Cổ phiếu cơ sở, tháng đáo hạn, giá thực hiện • Giao dịch mở hay giao dịch đón • Giao dịch mở là giao dịch đầu tiên (lần đầu mua hay bán quyền chọn) hoặc làm tăng vị thế hiện tại của người đầu tư. Giao dịch đóng là giao dịch kết thúc hay làm giảm vị thế hiện tại của người đầu tư. Lệnh thị trường hay lệnh giới hạn • Loại tài khoản (tiền mặt hay ký quỹ) • Lệnh có được yêu cầu hay không (was the order solicited or unsolicited) • Khoảng thời gian giá trị của lệnh: lệnh ngày hay lệnh thời gian khác • Lệnh được đặt cho các phương án straddle, combination hay spread • Có phải là tài khoản tự quyết hay không • Tên khách hàng • Những hướng dẫn cần thiết • Xác nhận của giám đốc • Để đảm bảo giao dịch quyền chọn được chính xác và hiệu quả, mọi quy định trên buộc phải được tôn trọng, nếu có bất cứ sai sót nào, lệnh đó được coi là không hợp lệ và không có giá trị giao dịch.
  7. 1. Các loại lệnh giao dịch quyền chọn Tương tự như mua bán cổ phiếu, các nhà đầu tư có thể lựa chọn và đặt lệnh thích hợp với mong muốn trong hệ thống rất nhiều loại lệnh được áp dụng như: Lệnh thị trường (Market order); Lệnh giới hạn (Limit order); Lệnh dừng (Stop order); Lệnh dừng giới hạn (Stop limit order) Để hướng dẫn thực hiện các lệnh về thời gian có các lệnh sauLệnh ngày; Lệnh có giá trị đến cùng (Good till cancelled – GTC) Lệnh tùy ý (Not held order – NH); Lệnh thực hiện toàn bộ ngay hoặc không (Fill or kill order – FOK); Lệnh ngay lập tức hoặc không (Immediate or cancel order – IOC); Lệnh tất cả hoặc không (All or none order – AON) 1. Xác định giá mở cửa và giá đóng cửa Mỗi ngày trước khi mở cửa sàn giao dịch sử dụng vòng luân phiên giao dịch để xác định giá mở cửa. Trong khoảng thời gian này, tất cả các hợp đồng không giao dịch theo cách ngẫu nhiên. Các lệnh mua và bán được nhận theo nhóm mỗi lần. Khi sàn giao dịch đã hoàn tất đối với nhóm lệnh này thì sẽ chuyển sang nhóm lệnh khác. Giao dịch luân phiên theo thứ tự, bắt đầu với các quyền mua có thời hạn hết hiệu lực gần nhất và giá thực hiện thấp nhất (hoặc với các quyền bán có giá thực hiện cao nhất), rồi cứ tuần tự cho đến khi tất cả các nhóm lệnh đều đã được mở cửa giao dịch. Ơ thời điểm mở cửa, các lệnh thị trường có độ ưu tiên cao hơn các lệnh giới hạn. Các lệnh chênh lệch có độ ưu tiên hơn các lệnh thị trường nhưng lệnh mua có độ ưu tiên khác lệnh bán (liên quan đến luật ưu tiên của các lệnh chênh lệch). Các vòng luân phiên giao dịch cũng được dùng để đóng cửa thị trường vào cuối ngày giao dịch và khi quyền chọn hết hiệu lực. Do ngày hết hiệu lực là ngày thứ bảy sau ngày thứ sáu của tuần thứ ba của tháng đáo hạn nên vòng luân phiên cuối cùng để đóng cửa thị trường xảy ra vào ngày thứ sáu của tuần thứ ba mỗi tháng. Nếu sở giao dịch ngừng giao dịch một loại quyền lựa chọn sẽ không có lệnh nào được thực hiện. Khi giao dịch trở lại, phải sử dụng vòng luân phiên để tái mở cửa giao dịch loại quyền lựa chọn đó. Cuối cùng nếu thị trường hoạt động quá nhanh (nếu hai chuyên viên giao dịch tại sàn cảm thấy rằng thị trường đang dần mất trật tự) sở giao dịch có thể áp đặt sự luân phiên. 1. Các hệ thống chuyển lệnh OCC thường sử dụng các hệ thống chuyển lệnh tự động để xử lý các giao dịch quyền lựa chọn của khách hàng. Thông qua một hệ thống máy tính, các lệnh thông thường được chuyển từ công ty chứng khoán đến khu vực của thành viên (đại diện công ty chứng khoán) tại sàn giao dịch để xử lý. Thành viên (cụ thể là môi giới tại sàn) sẽ nhận lệnh và đem đến đám đông giao dịch để giao dịch. Nếu lệnh được thực hiện, thông báo kết qủa giao dịch sẽ được chuyển về khu vực của thành viên và cũng từ đây, qua hệ thống máy tính của mình, thành viên sẽ thông báo cho người môi giới và khách hàng. Đối với một số lệnh (là lệnh thị trường và lệnh giới hạn có số lượng nhỏ và lệnh khả thị), hệ thống chuyển lệnh có thể gắn với việc so khớp lệnh tự động. Đối với các trường hợp cần sự nhanh chóng, hệ thống chuyển lệnh thẳng tới quầy giao dịch, không qua chỗ
  8. ngồi của thành viên và môi giới tại sàn. Mỗi lệnh được khớp với một lệnh trên sổ lệnh giới hạn hoặc theo báo giá của người tạo thị trường, và thông báo kết quả giao dịch được gửi trực tiếp đến công ty chứng khoán. Hệ thống so khớp lệnh tự động ở mỗi sàn giao dịch đều có tiêu chuẩn, năng lực và tên riêng. CBOE có Hệ thống so khớp lệnh tự động (RAES), AMEX có Hệ thống giao dịch quyền chọn tự động (AUTOAMOS)… Mỗi loại cung cấp khả năng giao diện trực tiếp đến quầy giao dịch. 1. CÔNG TY THANH TOÁN BÙ TRỪ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN (OPTIONS CLEARING CORPORATION) 1. Nhiệm vụ của công ty thanh toán bù trừ hợp đồng quyền chọn Công ty thanh toán bù trừ hợp đồng quyền chọn (sau đây viết tắt là OCC) là công ty của sàn giao dịch nơi quyền chọn được niêm yết. OCC có các nhiệm vụ sau: Chuẩn hóa, phát hành và đảm bảo việc thực hiện các hợp đồng quyền chọn. • Cung cấp cho khách hàng thông tin tài liệu về rủi ro và lợi nhuận của việc đầu tư • vào quyền chọn (Characteristics and Risks of Standardized Quyền chọn) một cổ phiếu được niêm yết, giấy xác nhận giao dịch quyền chọn hay những thông tin mà khách hàng yêu cầu thông qua môi giới. Điều chỉnh các hợp đồng quyền chọn nếu có tách, gộp, chia cổ tức … cổ phiếu cơ • sở. Thay đổi vị thế quyền chọn của nhà đầu tư (closing option position) • Các tiểu chuẩn của hợp đồng quyền chọn do OCC quy định 1. Giá thực hiện 1. OCC quy định sẵn một bảng giá thực hiện, mỗi mức giá này được ký hiệu bởi một ký tự (như mục 1.2.1.2 đã đưa). Theo bảng ký hiệu giá thực hiện, mỗi giá thực hiện cách nhau khoảng 5 đơn vị. Số giá thực hiện của một cổ phiếu được đưa ra phụ thuộc vào sự biến động của cổ phiếu đó. Việc đưa ra giá thực hiện gần với giá thị trường hiện tại của cổ phiếu là hết sức quan trọng. Điều này khuyến khích giao dịch và hình thành mức phí hợp lý. Khi giá cổ phiếu tăng hay giảm sàn giao dịch sẽ đưa ra những giá thực hiện mới. Ví dụ: Một cổ phiếu đang được giao dịch với giá $37 và hợp đồng quyền chọn cổ phiếu này vừa mới được niêm yết trên sàn, sàn giao dịch sẽ đưa ra hai mức giá thực hiện. Một giá thực hiện sẽ cao hơn giá thị trường hiện tại và một mức thấp hơn. Giá thực hiện XYZ 35 37 40
  9. Nếu giá cổ phiếu tăng lên $43 một cổ phiếu thì giá thực hiện 45 sẽ được thêm vào: Giá thực hiện XYZ 35 43 40 43 45 1.3.2.2. Tháng đáo hạn Theo quy định, 12 tháng trong một năm được chia thành 3 chu kỳ, mỗi chu kỳ có 4 tháng. Một quyền chọn có thể có tháng đáo hạn thuộc một trong ba chu kỳ sau: Chu kỳ tháng Giêng gồm : tháng Giêng, tháng Tư, tháng Bảy, tháng Mười Chu kỳ tháng Hai gồm: tháng Hai, tháng Năm, tháng Tám, tháng Mười một Chu kỳ tháng Ba gồm: tháng Ba, tháng Sáu, tháng Chín, tháng Mười hai. JANUARY SEQUENTIAL CYCLE - 1 Front Month Available Expiration Months* January Jan FEB Apr Jul February Feb MAR Apr Jul March Mar Apr Jul OCT April Apr MAY Jul Oct May* May JUN Jul Oct June Jun Jul Oct JAN July Jul AUG Oct Jan August Aug SEP Oct Jan September Sep Oct Jan APR October Oct NOV Jan Apr November Nov DEC Jan Apr December Dec Jan Apr JUL *The most recently added expiration month is listed in all CAPS. For example, at April expiration, the May options will become the new "Front Month" options while the expiration month "JUNE" is added to replace the expired April options. Notice how the most recently added expiration month will have either two months or eight months until its expiration. FEBRUARY SEQUENTIAL CYCLE - 2 Front Month Available Expiration Months*
  10. January Jan Feb May AUG February Feb MAR May Aug March Mar APR May Aug April Apr May Aug NOV May May JUN Aug Nov June* Jun JUL Aug Nov July Jul Aug Nov FEB August Aug SEP Nov Feb September Sep OCT Nov Feb October Oct Nov Feb MAY November Nov DEC Feb May December Dec JAN Feb May *The most recently added expiration month is listed in all CAPS. For example, at May expiration, the June options will become the new "Front Month" options while the expiration month "JULY" is added to replace the expired May options. Notice how the most recently added expiration month will have either two months or eight months until its expiration. MARCH SEQUENTIAL CYCLE - 3 Front Month Available Expiration Months* January Jan FEB Mar Jun February Feb Mar Jun SEP March Mar APR Jun Sep April Apr MAY Jun Sep May May Jun Sep DEC June Jun JUL Sep Dec July* Jul AUG Sep Dec August Aug Sep Dec MAR September Sep OCT Dec Mar October Oct NOV Dec Mar November Nov Dec Mar JUN December Dec JAN Mar Jun *The most recently added expiration month is listed in all CAPS. For example, at June expiration, the July options will become the new "Front Month" options while the expiration month "AUGUST" is added to replace the expired June options. Notice how the most recently added expiration month will have either two months or eight months until its expiration.
  11. 1. Tự động thực hiện quyền chọn Nếu khách hàng không đưa ra các yêu cầu khác, OCC sẽ tự động thực hiện các hợp đồng sinh lời, chứ không để chúng hết hiệu lực. Vào ngày đáo hạn bất kỳ hợp đồng quyền chọn nào do công chúng nắm giữ có giá trị thực ít nhất là ¾ và bất kỳ hợp đồng quyền chọn nào do công ty chứng khoán nắm giữ có giá trị thực ít nhất là ½ sẽ được thực hiện tự động nếu không có bất kỳ yêu cầu thực hiện nào. Ví dụ: Peter mua 10 hợp đồng quyền chọn Call như sau: 10 IBM Jan 110 Call at 3 Anh ta không có ý định thực hiện hợp đồng mà chỉ chờ giá phí tăng lên để bán kiếm lời. Nhưng giá đã không tăng như anh ta dự đoán và anh ta cứ giữ hợp đồng. Đến chiều thứ Sáu của tuần thứ ba của tháng đáo hạn, giá cổ phiếu IBM giao dịch trên thị trường là 110 ¾ . Khi đó quyền chọn sẽ được thực hiện mà không có bất kỳ yêu cầu nào của Peter bởi vì giá trị thực của hợp đồng là ¾ . 1. Chỉ định việc thực hiện và thanh toán (Assignment and Settlement) Khi OCC nhận được thông báo thực hiện quyền chọn, công ty sẽ lựa chọn ngẫu nhiên một công ty chứng khóan và chỉ định công ty này thực hiện quyền chọn. Công ty chứng khoán được chỉ định này sẽ chọn một cách ngẫu nhiên hay theo phương pháp FIFO (first in first out) một trong số các khách hàng của mình để thực hiện quyền chọn. Khi nhận được thông báo thực hiện hợp đồng người bán hợp dồng phải mua lại cổ phiếu (nếu đó là hợp đồng Call) hay bán ra cổ phiếu (nếu đó là hợp đồng Put) cho người sở hữu hợp đồng trong vòng 3 ngày làm việc. Ví dụ: Cổ phiếu IBM đang được giao dịch ở mức giá $110 một cổ phiếu. Khách hàng A dự đoán giá cổ phiếu sẽ tăng. Anh ta gọi cho môi giới của mình là Dean Witter và đặt lệnh sau: Buy 1 IBM Jan 110 Call at market Nhưng khách hàng B có quan niệm ngược với khách hàng A. anh ta cho rằng giá cổ phiếu IBM sẽ giảm và anh ta đặt lệnh sau với môi giới của mình, Merrill Lynch: Sell 1 IBM Jan 110 Call at 4 Cả hai người môi giới sau khi nhận lệnh sẽ truyền lệnh này đến sàn giao dịch nơi thành viên của công ty của họ – những môi giới tại sàn – nhận được, những môi giới tại sàn sau khi nhận được lệnh trên đều đến trạm giao dịch quyền chọn cổ phiếu IBM để thực hiện lệnh. Họ gặp nhau và thỏa thuận mua bán. Giao dịch này sẽ được lưu lại trong máy vi tính tại OCC và không có bất kỳ giấy chứng nhận nào được phát hành. Nếu trong sổ Dean Witter đã có 173 quyền chọn Call trước đó thì bây giờ được thêm 1 là174 quyền. Đồng thời, tài khoản của Dean Witter tại OCC bị trừ $400 tiền phí. Với Merrill Lynch thì ngược lại, số quyền giảm 1 và tài khoản được ghi có $400. Tên của khách hàng A, B là những bên mua
  12. bán thật sự trong giao dịch này không được lưu ở OCC, nhưng những tài khoản của họ ở chỗ của Dean Witter và Merrill Lynch phản ánh vụ mua bán này. Theo luật, tiền phí có thể thanh toán trong bảy ngày làm việc kế tiếp. Nhưng OCC lại yêu cầu thanh toán ngay ngày hôm sau, và những môi giới không muốn phải bỏ tiền của mình ra để thanh toán cho khách hàng; do đó người mua được yêu cầu thanh toán ngay ngày hôm sau. Hai tuần sau, giá cổ phiếu của IBM tăng lên $125 khách hàng A muốn thực hiện hợp đồng, anh ta gọi cho Dean Witter. Người môi giới này gửi lệnh thực hiện đến OCC. Mặc dù hợp đồng này được ký kết với Merrill Lynch nhưng rất có thể một công ty khác sẽ phân phối cổ phiếu chứ không nhất thiết là Merrill Lynch. Sau khi nhận lệnh OCC tra cứu trong máy vi tính xem có bao nhiêu công ty đã bán quyền chọn call cổ phiếu IBM với giá thực hiện là 110. Từ danh sách các công ty này OCC chọn ngẫu nhiên một công ty và thông báo cho họ rằng hợp đồng đã được thực hiện. Công ty được chọn đó có thể là công ty của Merrill hay một công ty khác. Chẳng hạn công ty được chọn là của môi giới Paine Webber. Khi được thông báo để giao cổ phiếu IBM giá 110 cho Dean Witter, Paine Webber có 3 ngày (theo quy định của SEC) để thực hiện công việc này. Paine Webber có thể chọn một trong số các khách hàng đã đặt lệnh bán quyền chọn call cổ phiếu IBM giá thực hiện 110 của mình một cách ngẫu nhiên hoặc theo phương pháp FIFO. Giả sử người được chọn là John Jones. Nếu John đang nắm giữ cổ phiếu IBM, anh ta sẽ gọi cho môi giới để chuyển 100 cổ phiếu IBM cho Dean Witter. Nhưng nếu John đã bán khống hợp đồng Call trước đây thì anh ta phải mua cổ phiếu để chuyển cho Dean. Như vậy, một khi hợp đồng quyền chọn được yêu cầu thực hiện trước ngày đáo hạn thì cổ phiếu phải được chuyển quyền sở hữu. Điều này được đảm bảo bởi OCC. 1. Giới hạn vị thế và giới hạn thực hiện. Giới hạn vị thế Quyền chọn không do công ty có cổ phiếu cơ sở phát hành mà do những người đầu tư tạo ra và bán để thu phí và được phát hành thông qua OCC. Do đó sẽ không có sự giới hạn về số quyền chọn được tạo ra, rất có thể số quyền chọn được tạo ra với số cổ phiếu trên quyền chọn nhiều hơn so với số cổ phiếu cơ sở đang tồn tại trên thị trường. Giả sử IBM có 10 triệu cổ phiếu đang lưu hành, và rất có thể có 150 ngàn quyền chọn cổ phiếu IBM đã được bán ra, số quyền chọn này đại diện cho 15 triệu cổ phiếu (150.000*100 = 15 triệu). Nếu tất cả số quyền chọn này được thực hiện, rõ ràng là không có đủ cổ phiếu để đáp ứng. Thêm vào đó trên thị trường luôn tồn tại những người mong muốn làm giá. Giả sử họ mua 20 ngàn quyền chọn call đại diện cho 2 triệu cổ phiếu (20.000*100 = 2 triệu), trong số 20 ngàn quyền chọn này có những quyền đã được bán khống. Do đó khi người làm giá yêu cầu thực hiện hợp đồng thì những người bán khống buộc phải mua cổ phiếu trên thị trường để giao. Điều này tạo một áp lực lên giá thị trường, làm giá thị trường biến động mạnh… Để hạn chế những tình huống nêu trên, Uy Ban Chứng Khoán (SEC) quy định giới hạn vị thế như sau: Không một người đầu tư nào dù cá nhân hay tổ chức có vị thế vượt quá 8,000 quyền chọn của cùng một cổ phiếu cơ sở trên cùng một phía thị trường. Phía thị trường được hiểu như sau: theo sự dự đoán giá cổ phiếu cơ sở thì thị trường quyền chọn có hai loại: là thị trường giá tăng và thị trường giá giảm. Tùy theo sự dự đoán
  13. của nhà đầu tư mà anh ta sẽ kinh doanh trên loại thị trường nào. Ơ mỗi loại thị trường anh ta sẽ kinh doanh khác nhau, cụ thể như sau: Thị trường giá tăng (Upside) Thị trường giá giảm (Downside) Mua call Mua put Bán put Bán call Ví dụ: Một người đầu tư đầu tư vào quyền chọn cổ phiếu IBM, anh ta mua bán tổng cộng 16.000 quyền chọn ở cả hai phía thị trườn, cơ cấu đầu tư của anh ta như sau là hợp pháp: IBM Thị trường giá tăng Thị trường giá giảm Mua call 6.000 Mua put 4.000 Bán call 2.000 Bán put 4.000 Tổng cộng 8.000 Tổng cộng 8.000 Nhưng nếu cơ cấu đầu tư của anh ta thay đổi như sau thì không hợp pháp IBM Thị trường giá tăng Thị trường giá giảm Mua call 8.000 Mua put 1.000 Bán call 2.000 Bán put 5.000 Tổng cộng 10.000 Tổng cộng 6.000 Cơ cấu này không hợp pháp vì về một phía thị trường giá tăng anh ta ở trong vị thế 10.000 vượt quá quy định. Giới hạn thực hiện Nếu một tổ chức đầu tư muốn tránh giới hạn vị thế, họ có thể hành động như sau: thứ Hai mua 8.000 quyền chọn call và yêu cầu thực hiện chúng vào sáng thứ Ba; chiều thứ Ba lại mua 8.000 quyền chọn call khác và yêu cầu thực hiện vào sáng thứ Tư, cứ thế ngày này qua ngày khác, họ có thể dễ dàng làm giá mà không hề trái quy định về giới hạn vị thế. Để ngăn chặn hành động này, một quy định khác được đưa ra: đó là quy định về giới hạn thực hiện. Quy định này có nội dung như sau: Không một cá nhân cũng như tổ chức nào được phép thực hiện quá 8.000 quyền chọn của cùng một cổ phiếu cơ sở trong vòng năm ngày làm việc liên tiếp. Ví dụ: Một người đầu tư đã thực hiện 5.000 quyền chọn call cổ phiếu IBM vào thứ Ba thì từ thứ Ba này cho đến thứ Ba tuần sau anh ta chỉ có quyền được thực hiện thêm 3.000 quyền chọn call cổ phiếu IBM nữa. 1. Tài liệu công bố thông tin quyền chọn của OCC 1. Cách nhận tài liệu
  14. OCC phát hành tài liệu “Đặc Điểm Và Rủi Ro Của Quyền Chọn Được Chuẩn Hóa”. Tài liệu này vạch ra những rủi ro của việc đầu tư vào quyền chọn. Một người đầu tư phải nhận được tài liệu này từ công ty chứng khoán trước hay ngay khi anh ta được chấp nhận giao dịch quyền chọn. Kèm với tài liệu này khách hàng cũng được cung cấp tài liệu kinh doanh quyền chọn. Tài liệu này không mang tính giáo dục. Khi muốn đầu tư quyền chọn, người đầu tư liên hệ với công ty chứng khoán để nhận được tài liệu trên. Sau đó, anh ta sẽ phải ký một thỏa ước về quyền chọn với môi giới. Trong bản thỏa ước này anh ta phải nói rõ rằng đã đọc tài liệu công bố tin quyền chọn, đồng ý tuân theo các giới hạn mua bán và các qui định khác trong giao dịch quyền chọn. Trong vòng 15 ngày anh ta sẽ được xem xét chấp thuận mở tài khoản giao dịch. Nếu OCC chỉnh sửa tài liệu thì nhà đầu tư phải được cung cấp tài liệu chỉnh sửa trước khi được xác nhận giao dịch quyền chọn kế tiếp. 1. Những rủi ro đối với người đầu tư khi đầu tư vào quyền chọn được thông báo trong tài liệu Rủi ro đối với người nắm giữ quyền chọn Rủi ro mất toàn bộ số tiền phí đã trả để mua quyền chọn chỉ trong một khoảng thời gian. Trong khi quyền chọn có thời gian đáo hạn mà diễn biến giá thị trường lại không có lợi cho người đầu tư nên anh ta có thể không thực hiện, không bán lại quyền chọn nếu không có lợi. Khi đó anh ta sẽ bị mất toàn bộ số tiền đầu tư vào quyền chọn mà không nhận được lợi ích gì. Càng nhiều quyền chọn đang lỗ và thời gian còn lại càng ngắn thì rủi ro mất một phần hay toàn bộ số tiền đầu tư càng cao. Giao động giá của cổ phiếu cơ sở là điều kiện cần thiết để quyền chọn trở nên có lợi nhưng trong một khoảng thời gian ngắn, sự biến động của giá không nhiều, do đó có thể thay đổi trạng thái quyền chọn. Những điều khoản thực hiện một quyền chọn có thể tạo ra những rủi ro cho người nắm giữ quyền chọn. Nếu quyền chọn không có đặc điểm thực hiện tự động, người nắm giữ phải đảm bảo rằng hành động thực hiện diễn ra đúng lúc. Mặt khác đối với quyền chọn có đặc điểm thực hiện tự động người nắm giữ quyền chọn có thể vẫn gặp rủi ro lỗ nếu khoản tiền được thanh toán nhỏ hơn phí anh ta bỏ ra. Hơn nữa giá giới hạn là số tiền tối đa người nắm giữ quyền chọn có thể được hưởng trong khi giá thị trường có thể biến động có lợi và anh ta có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn; như vậy trong trường hợp này anh ta bị rủi ro giới hạn lợi nhuận. Một rủi ro khác người sở hữu quyền chọn có thể gặp phải là rủi ro bị giới hạn thực hiện. Rủi ro này xảy ra trong một hoàn cảnh đặc biệt khi mà SEC hay OCC đặt giới hạn thực hiện nhằm đảm bảo ổn định thị trường, hay vì một lý do nào đó. Rủi ro đối với người bán quyền chọn
  15. Người bán quyền chọn có thể bị chỉ đinh để thực hiện hợp đồng bất cứ khi nào trong suốt thời gian hiệu lực như quyền chọn anh ta đã bán. Bắt đầu từ ngày bán quyền chọn kiểu Mỹ, ngừơi bán quyền chọn luôn ở trong tư thế có thể bị chỉ định thực hiện hợp đồng bất cứ khi nào cho đến ngày đáo hạn hoặc cho đến khi anh ta đóng vị thế của mình. Người bán quyền chọn call gặp rủi ro khi giá thị trường chứng khóan cơ sở tăng cao hơn giá thực hiện vì anh ta phải thực hiện hợp đồng và bỏ qua cơ hội hưởng chênh lệch giá. Mặt khác nếu giá thị trường chứng khoán cơ sở giảm thấp hơn giá thực hiện, người bán call sẽ chịu một khoản lỗ do chênh lệch giá giảm (khoản lỗ này chỉ có thật nếu anh ta phải bán chứng khoán tại thời điểm đó). Người bán khống quyền chọn call sẽ gặp rủi ro lớn nếu giá thị trường tăng mạnh, cao hơn giá thực hiện nhiều. Khoản lỗ tiềm tàng của người bán call trong trường hợp này là không giới hạn vì giá thị trường của cổ phiếu cơ sở có thể tăng không giới hạn. Người bán quyền chọn call gặp rủi ro khi giá thị trường chứng khoán cơ sở giảm mạnh. Giả sử giá thị trường giảm bằng 0 nhưng anh ta vẫn phải mua chứng khoản ở giá thực hiện, cao hơn 0 rất nhiều. Khi bán khống quyền chọn call hay bán quyền chọn put, người đầu tư buộc phải ký quỹ nhiều tiền. Trong trường hợp giá thị trường biến động bất lợi cho vị thế người bán hay do thay đổi của công ty chứng khoán mà người bán được yêu cầu để kỹ quỹ thêm. Nếu anh ta không đáp ứng được yêu cầu này, công ty chứng khóan có thể thanh lý tài khoản của anh ta mà không cần thông báo. Ngoài ra ngừơi bán quyền chọn còn gặp rủi ro trong trường hợp nhận chỉ định trễ; hay giá thị trường chứng khoán cơ sở tăng lên đột ngột… 1. Điều chỉnh hợp đồng quyền chọn 1. Cổ tức tiền mặt và các trường hợp biếu tặng cổ phiếu OCC không điều chỉnh giá thực hiện của quyền chọn khi có cổ tức tiền mặt thông thường và các trường hợp biếu tặng cổ phiếu. Để được quyền nhận cổ tức người chủ quyền call phải thực hiện quyền chọn trước ngày giao dịch không cổ tức. Một người vừa sở hữu quyền put vừa sở hữu cổ phiếu muốn giữ lại cổ tức phải thực hiện quyền chọn sau ngày giao dịch không cổ tức. Ngày giao dịch không cổ tức thường là 5 ngày trước ngày chia cổ tức. 1. Tách, gộp cổ phiếu: Quyền lựa chọn được điều chỉnh khi xảy ra tách cổ phiếu, gộp cổ phiếu, cổ tức bằng cổ phiếu và thực hiện các chứng quyền. Khi cổ phiếu được tách, quyền chọn cũng được tách tương đương. Ví dụ: Nếu cổ phiếu IBM tách theo tỷ lệ 2:1 (1 cổ phiếu cũ đổi lấy 2 cổ phiếu mới), mỗi quyền mua cổ phiếu với giá thực hiện 100 sẽ thành 2 quyền Call cổ phiếu IBM với
  16. giá 50. Và một quyền Put cổ phiếu IBM với giá 105 thành 2 quyền Put cổ phiếu ALF giá 50 ½ . Mỗi chủ quyền chọn bây giờ có số hợp đồng quyền chọn gấp đôi trước đây, và giá thực hiện của mỗi hợp đồng bằng ½ giá thực hiện của hợp đồng gốc. Có một số trường hợp tách không tính theo lô chẵn. Nếu cổ phiếu IBM tách theo tỷ lệ 3:2, mỗi quyền chọn cổ phiếu IBM ở giá thực hiện 120 trở thành một quyền chọn cổ phiếu IBM ở giá thực hiện 80 với 150 cổ phiếu trên hợp đồng. Trong trường hợp này số cổ phiếu trên một hợp đồng không thể chia chẵn theo lô, vì thế OCC điều chỉnh số cổ phiếu trên hợp đồng. Kết quả sẽ không làm thay đổi điều gì vì sở hữu một quyền chọn call hay put 150 cổ phiếu cũng giống như sở hữu 1,5 quyền chọn có 100 cổ phiếu. Giá thực hiện được điều chỉnh xuống còn 2/3 giá trước khi tách, và tổng giá trị của mỗi hợp đồng trước và sau khi tách vẫn bằng nhau. Gộp cổ phiếu: giả sử công ty IBM tiến hành gộp cổ phiếu với tỉ lệ 4:5. Trước khi gộp cổ phiếu, một người đầu tư sở hữu 1 quyền Call cổ phiếu IBM giá thực hiện 100 với 100 cổ phiếu trên mỗi hợp đồng (giá trị hợp đồng là 2.000), sau khi gộp, anh ta vẫn sở hữu 1 quyền call cổ phiếu IBM nhưng hợp đồng sẽ có 80 cổ phiếu với giá thực hiện là 125 (tổng giá trị vẫn là 2.000). 1. Cổ tức bằng cổ phiếu: Nếu một công ty tuyên bố trả cổ tức bằng cổ phiếu, OCC sẽ điều chỉnh giá thực hiện, số lượng cổ phiếu trên hợp đồng hoặc cả hai nếu thấy cần thiết. Ví dụ: Nếu cổ phiếu IBM trả cổ tức bằng cổ phiếu là 5%, người nắm giữ 100 cổ phiếu với giá thị trường 90/cổ phiếu sẽ nhận được 5 cổ phiếu mới và giá trị thị trường của cổ phiếu đó sẽ xấp xỉ 86. Sau khi công ty đã trả cổ tức, một quyền Call cổ phiếu IBM giá 92 có thể được điều chỉnh thành một quyền Call cổ phiếu ALF có 105 cổ phiếu với giá thực hiện là 87,5. Trên thị trường OTC quyền chọn cũng được điều chỉnh khi có sự tách gộp cổ phiếu, chia cổ tức bằng cổ phiếu, spin-off, thực hiện quyền tiên mãi và cả khi chia cổ tức tiền mặt. Giá thực hiện của các quyền chọn trên thị trường OTC sẽ giảm đúng bằng khoản cổ tức được chia, không làm tròn lên hay xuống. 1. Chuyển đổi từ cổ phiếu sang trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi hay một khoản tiền mặt Khi cổ phiếu cơ sở chuyển một phần hoặc toàn bộ sang trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi hay một khoản tiền mặt, quyền chọn sẽ được điều chỉnh; và trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi hay tiền mặt sẽ được thanh toán nếu quyền chọn được thực hiện. 1. Làm tròn: Trong tất cả các trường hợp, việc điều chỉnh giá thực hiện được làm tròn lên 1/8 gần nhất và việc điều chỉnh số lượng cổ phiếu được làm tròn xuống con số chẵn liền trước số tính được.
  17. 1. Thay đổi vị thế quyền chọn của nhà đầu tư (closing option position) Thông qua OCC nhà đầu tư có thể chấm dứt vị thế của mình. Khi muốn chấm dứt vị thế của mình người đầu tư sẽ đặt lệnh bù trừ (offseting order). Nhà đầu tư đang ở vị thế mua quyền chọn có thể chấm dứt vị thế bằng cách bán lại một hợp đồng tương tự và một nhà đầu tư đang ở vị thế bán quyền chọn có thể chấm dứt vị thế bằng cách mua lại một hợp đồng tương tự trên thị trường thứ cấp. 1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ QUYỀN CHỌN VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG ÁN KINH DOANH Khác với giá thực hiện và tháng đáo hạn được OCC quy định, phí mua bán quyền chọn tùy thuộc vào cung cầu thị trường, do đó việc nghiên cứu về phí mua bán quyền chọn là cần thiết. Có nhiều yếu tố quyết định mức phí như: giá thị trường cổ phiếu cơ sở (sau đây gọi tắt là giá cổ phiếu cơ sở), giá thực hiện, thời gian đáo hạn, sự biến động của giá thị trường, lãi suất không rủi ro, cổ tức của chứng khoán cơ sở trong vòng đời của quyền chọn. Để đo lường sự ảnh hưởng của các yếu tố này đến phí có nhiều công cu như: delta, gamma, theta, vega. 1.4.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn cổ phiếu 1.4.1.1. Giá cổ phiếu cở sở và giá thực hiện Sự liên hệ giữa giá cổ phiếu cơ sở và giá thực hiện xác định một hợp đồng đang trong tình trạng nào: đang lời (in-the-money - ITM), đang lỗ (out-of-money - OTM) hay hòa vốn (at-the-money - ATM). Một quyền chọn call đang lời khi giá cổ phiếu cơ sở cao hơn giá thực hiện, đang lỗ khi giá cổ phiếu cơ sở thấp hơn giá thực hiện và hòa vốn khi giá cổ phiếu cơ sở bằng giá thực hiện. Ngược lại một quyền chọn put đang lời khi giá cổ phiếu cơ sở thấp hơn giá thực hiện, đang lỗ khi giá cổ phiếu cơ sở cao hơn giá thực hiện, hòa vốn khi giá cổ phiếu cơ sở bằng giá thực hiện. Những quyền chọn đang lời được xem là có giá trị thực (intrinsic value). Giá trị thực là sự chênh lệch giữa giá thực hiện và giá cổ phiếu cơ sở của cổ phiếu cơ sở. Những quyền chọn có giá trị thực sẽ có giá phí cao hơn những quyền chọn không có giá trị thực (đang lỗ hay hòa vốn). Một quyền chọn call có giá trị thực (ITM call) khi giá cổ phiếu cơ sở cao hơn giá thực hiện. Do đó nếu giá cổ phiếu cơ sở càng tăng thì giá trị thực càng lớn, phí mua bán call càng cao. Một quyền chọn put có giá trị thực (ITM put)khi giá cổ phiếu cơ sở thấp hơn giá thực hiện. Do đó nếu giá cổ phiếu cơ sở càng giảm thì giá trị thực càng lớn, phí mua bán call càng cao và ngược lại. Còn về ảnh hưởng của giá thực hiện. Rõ ràng là giữa hai quyền chọn call đang lời và có cùng thời gian đáo hạn, quyền chọn nào có giá thực hiện cao hơn thì phí mua bán sẽ nhỏ hơn vì có giá trị thực thấp hơn. Và ngược lại, hai quyền chọn put đang lời và có cùng thời gian đáo hạn, quyền chọn nào có giá thực hiện cao hơn lại có phí cao hơn. Điều này cũng đúng đối với quyền chọn đang lỗ (OTM call hay OTM put)hoặc hòa vốn (ATM call hay ATM put).
  18. 1. Thời gian đáo hạn Người đầu tư sở hữu quyền chọn có thời gian đáo hạn dài sẽ có nhiều cơ hội để kiếm lời hơn người sở hữu quyền chọn có thời gian đáo hạn ngắn hơn. Do đó bên c ạnh giá trị thực, phí mua bán quyền chọn còn hàm chứa giá trị thời gian. Quyền chọn có thời gian đáo hạn càng dài thì giá trị thời gian càng lớn. Khi một quyền chọn có giá trị thực thì người đầu tư sẵn sàng mua vì cơ hội có lời rất rõ ràng; nhưng những quyền chọn không có giá trị thực vẫn được giao dịch trên thị trường là vì người đầu tư kỳ vọng vào sự biến đổi trong tương lai của giá cổ phiếu, khi đó giá phí của quyền chọn chính là số tiền phải trả cho giá trị thời gian. Do đó, giữa hai quyền chọn có cùng giá thực hiện dù đang lời, đang lỗ hay hòa vốn thì quyền chọn nào có thời gian đáo hạn dài hơn sẽ có giá phí cao hơn vì có giá trị thời gian lớn hơn. Giá trị thời gian bằng phí trừ giá trị thực. Ví dụ: một quyền chọn call cổ phiếu IBM được giao dịch với mức giá là 6 ½ , giá thực hiện là 80, trong khi giá cổ phiếu là $84, quyền chọn này sẽ có giá trị thực là $4 (= 84 – 80) và giá trị thời gian là 2 ½ (= 6 ½ - 4). 1. Sự biến động của giá cổ phiếu cơ sở Sự tăng giảm giá mỗi cổ phiếu cơ sở ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị thực của quyền chọn cổ phiếu đó nên ảnh hưởng trực tiếp đến phí mua bán quyền chọn (như trên đã đề cập). Ngoài ra độ biến động giá khác nhau của từng cổ phiếu cũng tạo ra sự khác biệt về giá trị thời gian một cách gián tiếp giữa quyền chọn các cổ phiếu khác nhau, do yếu tố tâm lý tác động. Một số cổ phiếu có biên độ biến động giá rất nhỏ trong khi một số khác lại có biên độ biến động lớn hơn nhiều. Điều này ảnh hưởng đến giá trị thời gian. Ví dụ: trong 50 tuần gần nhất, cổ phiếu của PEG chỉ giao động khoảng 25% biến đổi trong khoảng từ 24 ½ đến 17 1/8 , trong khi cổ phiếu IBM tăng hơn 200% với mức giá từ 95 ½ đến 294. Do đó một quyền chọn call cổ phiếu PEG với giá thực hiện là 20, giá cổ phiếu đang giao dịch là 23/8 có giá phí là 2 5/8 thì giá trị thực là 2 3/8 và giá trị thời gian là ¼. Trong khi đó một quyền chọn call cổ phiếu IBM với giá thực hiện là 280, giá cổ phiếu đang giao dịch là 284 ¼ có giá phí là 14 ¼ thì giá trị thực là 4 ¼ và giá trị thời gian là 10. Mặc dù quyền chọn call cổ phiếu IBM hết hạn trước cổ phiếu PEG hai tháng nhưng giá trị thời gian của nó vẫn cao hơn nhiều. Điều này lý giải ảnh hưởng của sự biến động của cổ phiếu đối với giá trị thời gian. 1. Lãi suất không rủi ro Lãi suất không rủi ro ám chỉ lãi suất của những công cụ tài chính không có hay rất ít rủi ro như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc,… Giả định các yếu tố khác không thay đổi, khi lãi suất không rủi ro tăng thì giá cổ phiếu giảm, do đó giá quyền chọn call giảm và giá quyền chọn put tăng. Ngược lại, khi lãi suất không rủi ro giảm, giá quyền chọn call tăng và giá quyền chọn put giảm.
  19. 1. Cổ tức Cổ tức ảnh hưởng làm giảm giá cổ phiếu trong thời gian không cổ tức. Do đó trong thời gian không cổ tức, giá quyền chọn call giảm và giá quyền chọn put tăng. Nói cách khác, giá call tỷ lệ nghịch với độ lớn của cổ tức còn giá put tỷ lệ thuận với độ lớn của cổ tức. 1. Một số phương án kinh doanh hợp đồng quyền chọn 1.4.3.1. Phương án mua, bán quyền chọn Mua hoặc bán quyền chọn là phương án kinh doanh đơn giản nhất nhưng nếu sử dụng có hiệu quả sẽ đem lại kết quả rất tốt cho người đầu tư. Khi dự đoán giá thị trường chứng khoán cơ sở tăng người đầu tư sẽ mua call hoặc bán put, ngược lại nếu dự đoán giá thị trường giảm người đầu tư sẽ mua put hoặc bán call. 1.4.3.2. Phương án kinh doanh chênh lệch (Spread) Phương án kinh doanh chênh lệch là phương án mua và bán cùng lúc một loại quyền chọn một chứng khoán cơ sở, nhưng khác nhau về giá thực hiện hoặc ngày đáo hạn. Tùy vào dự đoán diễn biến giá cổ phiếu trên thị trường mà người đầu tư có phương án kinh doanh chênh lệch giá hay thời gian với call, put một cách thích hợp. Đây là phương án được sử dụng khá phổ biến trên thế giới trong kinh doanh quyền chọn hiện nay. 1.4.3.3. Phương án kết hợp song hành (Straddles) Phương án này được sử dụng khi người đầu tư dự đoán giá cổ phiếu cơ sở sẽ biến động mạnh nhưng anh ta không xác định được chiều hướng biến động của giá là tăng hay giảm. Nội dung phương án là việc mua hay bán cùng lúc call và put có cùng cổ phiếu cơ sở, cùng giá thực hiện và cùng này đáo hạn. Phương án này đảm bảo an toàn cho người đầu tư dù giá có biến động tăng hay giảm, tuy nhiên lợi nhuận thu được không cao. 1.4.3.4. Phương án kết hợp chênh lệch (Combination) Kết hợp mua (Long combination): mua call và put cùng cổ phiếu cơ sở nhưng khác giá thực hiện hoặc khác thời gian đáo hạn Kết hợp bán (Short combination): bán call và put cùng cổ phiếu cơ sở nhưng khác giá thực hiện hay thời gian đáo hạn 1.4.3.5. Một số phương án khác Ngoài những phương án trên, trải qua thời gian nhiều phương án kinh doanh khác được sáng tạo như: Bán quyền chọn call có đảm bảo (Long stock and short calls hay Covered call • writing)
  20. Phương án phòng ngừa giá giảm khi muốn sở hữu cổ phiếu để hưởng • cổ tức (Married put) Phương án bán khống quyền chọn theo tỷ lệ (Ratio call): bán khống quyền chọn có • nghĩa là không sở hữu cổ phiếu cơ sở nhưng vẫn bán call cổ phiếu đó. Bán khống cổ phiếu và bán put (Short stock and short puts) • Bán khống cổ phiếu và mua call (Short stock and long calls) • THUẾ, TÀI KHOẢN VÀ MARGIN TRONG KINH DOANH QUYỀN 1. CHỌN CỔ PHIẾU Thuế 1. Thuế trong giao dịch quyền chọn được quy định như trong các giao dịch vốn khác. Các khoản lời được cộng vào thu nhập từ giao dịch vốn để tính thuế, các khoản lỗ được trừ ra để giảm bớt thuế phải nộp. Tuy nhiên, quyền chọn có đặc điểm là chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian nhất định và người sở hữu quyền chọn có thể thực hiện quyền chọn hoặc không. Do đó, có sự khác nhau trong tính thuế đối với những quyền chọn được thực hiện và những quyền chọn không được thực hiện. 1.5.1.1. Tính thuế đối với những quyền chọn không được thực hiện Giả sử trong giao dịch sau, A là người mua và B là người bán: một quyền chọn call cổ phiếu IBM, đáo hạn tháng Mười hai giá thực hiện 100, phí 3 Vào ngày đáo hạn trong tháng Mười hai, giá cổ phiếu IBM là 95/cổ phần. A sẽ không thực hiện quyền chọn trên. 300 tiền phí mua call của A được coi như là một khoản lỗ. Còn 300 tiền phí bán call B nhận được được coi như là một khoản lời. Đó chính là căn cứ để A và B thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. 1. Tính thuế đối với những quyền chọn được thực hiện. Giả sử cũng với ví dụ trên, nhưng vào đến tháng Mười một giá cổ phiếu IBM đã là 120, lúc này A yêu cầu thực hiện quyền chọn tức là anh ta sẽ mua 100 cổ phiếu IBM của B ở giá thực hiện là 100. vậy tổng số tiền anh ta đã bỏ ra để mua được 100 này là: 10.000 + 300 = 10.300 (tức là bao gồm cả tiền phí mua quyền chọn). Xác định nghĩa vụ thuế của người mua A: Nếu A bán ngay 100 cổ phiếu vừa mua được, anh ta nhận được khoản lời là 1.700 (12.000 – 10.300). Số tiền lời này được cộng vào thu nhập từ giao dịch vốn để tính thuế. Nếu A không bán ngay mà để 1 năm sau mới bán ở giá thị trường là 130, thì số tiền anh ta nhận được là 2.700 sẽ được cộng vào thu nhập từ giao dịch vốn để tính lãi như trên. Nhưng nếu sau một năm giá cổ phiếu IBM chỉ còn 90 và A không muốn giứ cổ phiếu IBM nữa nên anh ta vẫn bán. Lúc này anh ta bị lỗ và số tiền lỗ 1.300 (10.300 – 9.000) được trừ vào thu nhập từ giao dịch vốn để giảm thuế. Xác định nghĩa vụ thuế của người bán B:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2