BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN BÁ HOÀNG

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA TƢ NHÂN HÓA ĐẾN TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP – TRƢỜNG HỢP CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh, năm 2014

BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN BÁ HOÀNG

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA TƢ NHÂN HÓA ĐẾN TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP – TRƢỜNG HỢP CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

MÃ NGÀNH: 62340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM QUỐC HÙNG TP. Hồ Chí Minh, năm 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Học viên

Nguyễn Bá Hoàng

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CÁC TỪ VIẾT TẮT

TIẾNG ANH

TIẾNG VIỆT

AS

Asia

Châu Á

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

IMF

International Monetary Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế

LA

Latin America

Châu Mỹ - Latinh

MENA

Middle East & North Africa

Trung Đông & Bắc Phi

Doanh nghiệp thuộc sở hữu

SOE

State Owned Enterprise

Nhà nước

SSA

Sub-Saharan Africa

Tiểu vùng Sahara Châu Phi

United Nations Conference on

Hội nghị Liên hiệp quốc về

Trade and Development

Thương mại và Phát triển

WB

World Bank

Ngân hàng Thế giới

UNCTAD

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Kỳ vọng tác động của biến giải thích đối với biến phụ thuộc trong mô hình nghiên

cứu .................................................................................................................................................. 33

Bảng 2.1: Mô tả các biến cơ sở và ký hiệu sử dụng trong mô hình nghiên cứu ....................... 37

Bảng 2.2: Tóm tắt thống kê mô tả dữ liệu của các biến trong mô hình ..................................... 39

Bảng 2.3: Ma trận tương quan của các chỉ số đánh giá về chất lượng thể chế ......................... 40

Bảng 2.4: Ma trận tương quan giữa các biến nghiên cứu ........................................................... 41

Bảng 3.1: Kết quả hồi quy giữa biến tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế -Trường hợp đưa vào

các biến kiểm soát nhóm vùng miền (sa, la và as) ...................................................................... 44

Bảng 3.2: Kết quả hồi quy giữa biến tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế -Trường hợp đưa vào

các chỉ số thành phần đánh giá chất lượng thể chế ..................................................................... 47

Bảng 3.3: Kết quả hồi quy giữa biến tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế -Trường hợp đưa vào

các biến tương tác pr*fdi, pr*open và pr*gov ............................................................................. 48

Bảng 3.4: Ma trận tương quan giữa các biến pr, pr*fdi, pr*open và pr*gov ............................ 50

Bảng 3.5: Kết quả hồi quy giữa biến tư nhân hóa và bất bình đẳng thu nhập -Trường hợp đưa

vào các biến kiểm soát nhóm vùng miền (sa, la và as) ............................................................... 51

Bảng 3.6: Kết quả hồi quy giữa biến tư nhân hóa và bất bình đẳng thu nhập -Trường hợp đưa

vào các chỉ số thành phần đánh giá chất lượng thể chế .............................................................. 54

Bảng 3.7: Kết quả hồi quy giữa biến tư nhân hóa và bất bình đẳng thu nhập -Trường hợp đưa

vào các biến tương tác pr*fdi, pr*open và pr*gov ...................................................................... 56

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................................... 1

TỔNG QUAN ................................................................................................................................ 1

1. Đặt vấn đề nghiên cứu ............................................................................................................. 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................................ 5

3. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 6

3.1 Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................ 6

3.2 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 6

4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ..................................................................................................... 7

5. Những đóng góp mới của luận văn ......................................................................................... 7

6. Kết cấu của báo cáo nghiên cứu .............................................................................................. 8

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................................... 9

1.1 Khái niệm và phân loại Tư nhân hóa .................................................................................... 9

1.1.1 Khái niệm Tư nhân hoá................................................................................................... 9

1.1.2 Phân loại Tư nhân hoá ................................................................................................. 10

1.2 Lý thuyết nền tảng về Tư nhân hóa..................................................................................... 11

1.3 Tư nhân hóa, Tăng trưởng kinh tế và Bất bình đẳng thu nhập .......................................... 14

1.4 Tổng luận về các nghiên cứu thực nghiệm ......................................................................... 16

1.4.1 Giới thiệu một số các nghiên cứu thực nghiệm ........................................................... 16

1.4.2 Những giới hạn của các nghiên cứu thực nghiệm....................................................... 20

1.5 Mô hình nghiên cứu ............................................................................................................. 25

1.6 Các giả thuyết kỳ vọng trong mô hình nghiên cứu ............................................................ 28

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................... 34

2.1 Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................................... 34

2.2 Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................................... 36

2.2.1 Các biến phụ thuộc........................................................................................................ 38

2.2.2 Các biến độc lập ............................................................................................................ 38

2.3 Phân tích sơ bộ dữ liệu nghiên cứu ..................................................................................... 39

CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................................ 43

3.1 Kết quả nghiên cứu thực nghiệm ........................................................................................ 43

3.1.1 Các hồi quy của Tư nhân hóa và Tăng trưởng kinh tế ............................................... 43

3.1.2 Các hồi quy của Tư nhân hóa và Bất bình đẳng thu nhập ......................................... 50

3.2 Tóm tắt các kết quả nghiên cứu .......................................................................................... 57

CHƢƠNG 4: KẾT LUẬN .......................................................................................................... 59

4.1 Thảo luận các kết quả nghiên cứu ....................................................................................... 59

4.1.1 Mối quan hệ giữa tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế ............................................... 59

4.1.2 Mối quan hệ giữa tư nhân hóa và bất bình đẳng thu nhập ........................................ 65

4.2 Một số hàm ý chính sách của bài nghiên cứu..................................................................... 69

4.3 Một số hạn chế của bài nghiên cứu và các đề xuất nghiên cứu trong tương lai............... 71

4.3.1 Hạn chế của bài nghiên cứu ......................................................................................... 71

4.3.2 Các đề xuất nghiên cứu trong tương lai ...................................................................... 72

KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................................................. 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

TỔNG QUAN

1. Đặt vấn đề nghiên cứu

Tư nhân hóa được định nghĩa là sự chuyển giao các tài sản hoặc các quyền phân

phối dịch vụ từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân (Pirie, 1986). Trong thế giới

ngày nay, chính sách tư nhân hoá được xem như là một hiện tượng toàn cầu – một hình

thức tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng hiện đại, cho phép sự tham gia nhiều hơn đối

với khu vực tư nhân. Tư nhân hoá khởi điểm từ đầu những năm 1980 tại Anh, sau đó

nhanh chóng lan rộng đến các quốc gia như: Australia, New Zealand, khu vực Đông

Âu, khu vực Tiểu vùng Sahara Châu Phi và khu vực Nam Mỹ. Các chương trình tư

nhân hoá đã được tiến hành ở nhiều nước trên thế giới trong những thập niên gần đây

có thể được chia làm 3 nhóm chủ yếu sau: Thứ nhất, các chương trình tư nhân hoá

được thực hiện ở các nền kinh tế chuyển đổi ở Trung và Đông Âu sau năm 1989 (quá

trình xây dựng nền kinh tế thị trường). Thứ hai, các chương trình tư nhân hoá được

thực hiện ở các nước đang phát triển dưới tác động của các tổ chức tài chính quốc tế

như World Bank và IMF. Thứ ba, các chương trình tư nhân hoá được tiến hành bởi

chính phủ các nước phát triển, điển hình nhất là ở New Zealand và ở Anh vào thập niên

1980 và 1990.

Theo dữ liệu về tư nhân hóa của World Bank cho thấy, trong giai đoạn 1988 –

2008 các quốc gia đang phát triển đã thực hiện được hơn 10.000 giao dịch về tư nhân

hóa với doanh thu đạt được hơn 773 tỷ USD, con số này tương đương khoảng 0,7%

tổng GDP của các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn này. Riêng ở giai đoạn đầu

thập niên 1990, tư nhân hoá ở các nước đang phát triển đã đem lại trung bình khoảng

từ 20 đến 30 tỷ USD hàng năm. Nguồn lợi này đã tăng mạnh vào năm 1997 lên đến

gần 70 tỷ USD.

Trang 1

Tuy nhiên, xu hướng về tư nhân hóa vẫn không tránh được các tranh luận. Thực

vậy, cuộc tranh luận so sánh về tính hiệu quả hơn giữa khu vực tư và khu vực công

đóng góp vào nền kinh tế vẫn đang diễn ra suốt bốn thập kỷ qua. Cuộc tranh luận này

ban đầu tập trung vào quy mô của khu vực công (được đo lường bằng quy mô chi tiêu

của chính phủ) có tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế (Barro, 1991; Landau,

1986; Ram, 1986 và Rubinson, 1977). Trong khi Rubinson (1977) và Ram (1986) cho

rằng chi tiêu của chính phủ có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế, thì Landau

(1986) và Barro (1991) lại tìm ra các bằng chứng ngược lại khi cho rằng chi tiêu của

chính phủ có tác động tiêu cực với tăng trưởng kinh tế. Theo Rubinson (1977), một quy

mô chính phủ lớn (được đo lường bằng tỷ lệ thu nhập của chính phủ trên GNP) có tác

động tích cực đến tăng trưởng kinh tế bằng việc giảm đi sự phụ thuộc, đặc biệt đối với

các quốc gia nghèo và kém phát triển. Còn theo Landau (1986), ông cho rằng một quốc

gia với quy mô chính phủ lớn (đo lường bằng tỷ lệ chi tiêu của chính phủ trên GDP) sẽ

làm giảm mức thu nhập bình quân đầu người của quốc gia đó.

Vào cuối những năm 1980, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng các

doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp thuộc sở hữu

nhà nước (SOEs). Ví dụ như, Shirley và Walsh (2001) đã thực hiện 52 nghiên cứu thực

nghiệm so sánh giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân với các doanh nghiệp

SOEs, trong đó có 32 nghiên cứu ủng hộ các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân, 15

kết quả chưa xác định rõ ràng và chỉ tìm thấy có 5 kết quả nghiên cứu ủng hộ các

doanh nghiệp SOEs. Theo kết quả nghiên cứu của Villalonga (2000) đối với 104

nghiên cứu về vấn đề sở hữu của khu vực tư và khu vực công, có 55 nghiên cứu ủng hộ

sở hữu tư nhân, 14 nghiên cứu phản đối và 35 nghiên cứu cho kết quả chưa rõ ràng.

Trong 65 nghiên cứu thực nghiệm ở cấp độ doanh nghiệp, khảo sát các doanh nghiệp ở

một số các quốc gia, Megginson và Netter (2001) đã kết luận rằng các doanh nghiệp

thuộc sở hữu tư nhân hoạt động hiệu quả hơn và có mức sinh lợi cao hơn so với các

doanh nghiệp SOEs. Dù vậy, các nghiên cứu cả về lý thuyết và thực nghiệm đều không

Trang 2

giải quyết hoàn toàn được tranh luận về tính hiệu quả hơn giữa quyền sở hữu của khu

vực tư và khu vực công, cuộc thảo luận dường như ủng hộ sở hữu tư nhân bởi vì sự gia

tăng nợ của chính phủ, tính bất ổn của kinh tế vĩ mô và sự suy thoái chung của nền

kinh tế toàn cầu vào những năm 1980.

Quá trình tư nhân hóa vẫn đang được tiến hành và phù hợp để thực hiện các

nghiên cứu thực nghiệm nhằm kiểm tra tác động trực tiếp của tư nhân hóa đến tăng

trưởng kinh tế. Có thể kể đến một số các nghiên cứu nổi bật được thực hiện nhằm kiểm

tra các tác động kinh tế của chính sách tư nhân hóa như: Filipovic, 2005; Cook và

Uchida, 2003; Barnett,2000; Plane, 1997; Yoder và cộng sự, 1991. Cả 5 nghiên cứu

cùng thực hiện kiểm tra tác động của tư nhân hóa đến tăng trưởng kinh tế nhưng đưa ra

các kết quả trái ngược nhau. Trong khi Barnett (2000) và Plane (1997) báo cáo kết quả

nghiên cứu là một tác động dương có ý nghĩa thống kê về mối quan hệ giữa tư nhân

hóa và tăng trưởng kinh tế thì nghiên cứu của Cook và Uchida (2003) lại trình bày kết

quả là tác động âm và có ý nghĩa thống kê; Filipovic (2005) và Yoder cùng cộng sự

(1991) cũng ủng hộ mối tương quan âm về tác động của tư nhân hóa đối với tăng

trưởng kinh tế nhưng lại không có ý nghĩa thống kê. Các kết quả không nhất quán này

có thể đến từ việc bỏ qua sự khác biệt giữa các vùng miền. Tất nhiên, những khác biệt

về vùng miền không chỉ liên quan đến các yếu tố về vị trí địa lý mà có thể bao gồm các

yếu tố khác như: xã hội, chính trị và các hình thức văn hóa, bởi vì chúng góp phần quan

trọng trong việc quyết định cách thức chính sách tư nhân hóa được thực hiện và các tác

động của tư nhân hóa đến tăng trưởng kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của yếu

tố khác biệt vùng miền trong nghiên cứu về chính sách tư nhân hóa như đã đề cập ở

trên, bài nghiên cứu thực hiện kiểm tra tác động của tư nhân hóa ở các vùng miền khác

nhau của các quốc gia đang phát triển.

Bài nghiên cứu này đóng góp một phần vào các nghiên cứu về tư nhân hóa ở 2

khía cạnh chính. Thứ nhất, như đã lập luận ở trên, bằng cách kiểm soát yếu tố khác biệt

vùng miền (phân thành các khối vùng miền: Sub-Saharan Africa (SA), Latin America

Trang 3

(LA), Asia (SA) và Middle East & North Africa (MENA)), bài nghiên cứu góp phần bổ

sung kiến thức về cách thức tư nhân hóa tác động đến tăng trưởng kinh tế ở các vùng

miền khác nhau của các quốc gia đang phát triển. Nhưng quan trọng hơn cả, với việc

kiểm soát yếu tố khác biệt vùng miền (phân thành các khối vùng miền với các quốc gia

có các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội tương đồng nhau) giúp giảm độ chệch từ các

ước lượng của hệ số hồi quy. Thứ hai, nghiên cứu kiểm tra tác động của tư nhân hóa

đến cả hai yếu tố đó là: tăng trưởng kinh tế và mức độ bất bình đẳng thu nhập. Theo

như nhiều nghiên cứu đã minh chứng các hệ quả của chính sách phân phối thu nhập là

rất quan trọng trong phân tích về chính sách tư nhân hóa. Tập trung vào bất bình đẳng

thu nhập, bởi vì nó có thể làm giảm tăng trưởng và góp phần làm gia tăng sự bất ổn về

vấn đề chính trị (Clark, 1995; Alesina và Perotti, 1996). Trong số các nghiên cứu được

đề cập, chỉ có nghiên cứu của Yoder và cộng sự (1991) là thực hiện kiểm tra tác động

của tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế và các chỉ tiêu phát triển kinh tế khác (sự

phân phối thu nhập, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ biết chữ và tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong).Tuy

nhiên, Yoder và cộng sự (1991) đã sử dụng phương pháp phân tích tương quan

(correlational analysis) để nghiên cứu về mối quan hệ giữa tư nhân hóa và các chỉ tiêu

phát triển, do vậy đã không kiểm soát được các yếu tố khác (sự bất ổn của các điều

kiện vĩ mô; cấu trúc thể chế chính trị), những yếu tố này thực sự có tác động đến tăng

trưởng kinh tế và phân phối thu nhập (Yoder và cộng sự, 1991). Chính Yoder và cộng

sự (1991) đã nhận ra khuyết điểm này trong nghiên cứu của mình và đề xuất các nghiên

cứu trong tương lai về tác động của chính sách tư nhân hóa đối với các chỉ tiêu phát

triển kinh tế.

Cuối cùng, bài nghiên cứu thực hiện kiểm tra tác động của tư nhân hóa đối với tăng

trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển, giai đoạn từ

năm 1991 – 2008. Giai đoạn này được lựa chọn nghiên cứu bởi vì đây là khoảng thời

gian mà các quốc gia đang phát triển tích cực thực hiện các chương trình tư nhân hóa,

Trang 4

cũng như mức độ cập nhật của dữ liệu về chương trình tư nhân hóa ở các quốc gia đang

phát triển hiện có (World Bank Privatization Database, 2008).

2. Mục tiêu nghiên cứu

Như đã đề cập ở trên, xét về phương diện học thuật có khá nhiều sự quan tâm đối

với chính sách tư nhân hóa ở các quốc gia đang phát triển, tuy nhiên, hầu hết các

nghiên cứu ở cấp độ quốc gia chủ yếu dừng lại ở việc mô tả và tập trung vào xem xét

mức độ của chính sách tư nhân hóa (Bennell, 1997; Bethelemy, Kaufmann và Valfort,

2004) và chỉ có một vài nghiên cứu thực nghiệm thực hiện phân tích tác động kinh tế

của chính sách tư nhân hóa (Filipovic, 2005; Cook và Uchida, 2003;Barnett,2000;

Plane, 1997; Yoder và cộng sự, 1991). Do đó, mục tiêu mà bài nghiên cứu hướng đến

đó là kiểm tra tác động của tư nhân hóa đối với hai chỉ tiêu phát triển kinh tế (tăng

trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập) ở các quốc gia đang phát triển. Trên cơ sở

ủng hộ chính sách tư nhân hóa, bài nghiên cứu kiểm tra xem có hay không tác động

tích cực của các chương trình tư nhân hóa được thực hiện ở hầu hết các quốc gia đang

phát triển trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2008. Với các mục tiêu cụ thể như sau:

(1) Đánh giá tác động của chính sách tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế và bất

bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1991 - 2008;

(2) Đề xuất một số gợi ý về chính sách tư nhân hóa đối với các quốc gia đang phát

triển.

Cuối cùng, bài nghiên cứu được thực hiện với các câu hỏi nghiên cứu chính sau:

(1) Chính sách tư nhân hóa tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc

gia đang phát triển?

(2) Chính sách tư nhân hóa tác động như thế nào đến bất bình đẳng thu nhập ở các

quốc gia đang phát triển?

Trang 5

3. Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu

3.1 Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tập trung vào kiểm tra tác động của tư nhân hóa đối với tăng

trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập dựa trên mô hình nghiên cứu được kế thừa từ

các nghiên cứu thực nghiệm ban đầu của: Filipovic, 2005; Cook và Uchida, 2003;

Barnett, 2000; Plane, 1997; Yoder và cộng sự, 1991, bên cạnh đó dựa vào đề xuất của

Yoder và cộng sự (1991), tác giả bổ sung vào mô hình các biến Di (SSA, LA, SA và

MENA), biến LLOCK (Kiểm soát vị trí địa lý của các quốc gia không giáp biển) và

biến GOVERNANCE (Chất lượng thể chế của các quốc gia) nhằm kiểm soát sự khác

biệt vùng miền trong phân tích thực nghiệm về tác động của chính sách tư nhân hóa đối

với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển trong

giai đoạn nghiên cứu.

3.2 Phương pháp nghiên cứu

Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, đề tài tiến hành kiểm tra tác động của

chính sách tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở các

quốc gia đang phát triển thông qua kỹ thuật ước lượng bình phương bé nhất (OLS) với

sự hỗ trợ của phần mềm Stata 11. Sau khi kiểm định mô hình theo phương pháp OLS,

tác giả kiểm định tính thích hợp của mô hình để đánh giá độ tin cậy của các kết quả

kiểm định.

Mẫu nghiên cứu được tác giả chọn lọc bao gồm 80 quốc gia đang phát triển có

thực hiện các chương trình tư nhân hóa trong giai đoạn 1991 – 2008 do World Bank

Privatization Database cung cấp. Dữ liệu về tư nhân hóa được cung cấp không nhất

quán theo thời gian giữa các quốc gia được nghiên cứu trong mẫu, do vậy tác giả vận

dụng các hồi quy xuyên quốc gia (cross-country regressions) đối với tư nhân hóa và

tăng trưởng kinh tế mà các nghiên cứu thực nghiệm trước đây đã sử dụng. Giá trị trung

Trang 6

bình của các biến theo thời gian nghiên cứu (1991 – 2008) được sử dụng nhằm khắc

phục tính nhiễu của dữ liệu hằng năm (Gyimah-Brempong và Camacho, 2006; Cook và

Uchida, 2003; Filipovic, 2005; Plane, 1997).

4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Đề tài nghiên cứu mang lại một số ý nghĩa về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn

cho các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách liên quan. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung vào cơ sở lý thuyết về mối quan

hệ giữa tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế, cũng như mối quan hệ giữa tư nhân hóa và

bất bình đẳng thu nhập ở các nền kinh tế đang phát triển. Cụ thể, nghiên cứu chỉ ra

rằng tư nhân hoá không có tác động một cách có ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế và

bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn nghiên cứu.

Thứ hai, kết quả nghiên cứu cũng góp phần giúp cho các nhà hoạch định chính

sách thấu hiểu hơn về vai trò thực sự của chính sách tư nhân hóa đối với vấn đề phát

triển kinh tế ở các quốc gia đang phát triển. Cụ thể, nghiên cứu đã chỉ ra rằng không có

một mô hình cải cách chung nào là phù hợp cho tất cả các quốc gia và chính sách tư

nhân hóa không nhất thiết phải có ở mỗi quốc gia. Điều này đồng nghĩa rằng, trước khi

thực hiện chính sách tư nhân hóa các nhà hoạch định chính sách cần phải xem xét kỹ

lưỡng các điều kiện đặc trưng của mỗi quốc gia, cấu trúc thể chế nhà nước, các yếu tố

về mặt xã hội và chính trị.

5. Những đóng góp mới của luận văn

Thứ nhất, bài nghiên cứu thực hiện kiểm soát yếu tố khác biệt vùng miền (phân

thành các khối vùng miền: Sub-Saharan Africa (SA), Latin America (LA), Asia (SA) và

Middle East & North Africa (MENA)), kết hợp các yếu tố về vị trí địa lý (LLOCK) và

cấu trúc thể chế của quốc gia (GOVERNANCE) góp phần bổ sung vào cơ sở lý thuyết

Trang 7

về cách thức chính sách tư nhân hóa tác động đến tăng trưởng kinh tế ở các vùng miền

khác nhau ở các quốc gia đang phát triển. Nhưng quan trọng hơn cả, với việc kiểm soát

yếu tố khác biệt vùng miền (phân thành các khối vùng miền với các quốc gia có các

điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội tương đồng nhau) giúp giảm độ chệch từ các ước

lượng của hệ số hồi quy.

Thứ hai, nghiên cứu kiểm tra tác động của chính sách tư nhân hóa đối với cả hai

yếu tố đó là: tăng trưởng kinh tế và mức độ bất bình đẳng thu nhập. Bởi vì trách nhiệm

của chính phủ các quốc gia không chỉ là phân phối các hàng hóa và dịch vụ một cách

hiệu quả, mà còn phải đảm bảo cung cấp chúng một cách công bằng hơn. Bên cạnh đó,

nếu cải cách kinh tế mà không làm giảm khuynh hướng bất bình đẳng thu nhập sẽ dễ

tạo ra sự bất mãn và cuối cùng đó là sự phát triển không bền vững (Eduardo và Ugo,

2002).

Thứ ba, với dữ liệu nghiên cứu trong giai đoạn 1991 – 2008, bằng phương pháp

kiểm định OLS, nghiên cứu đã phát hiện được chính sách tư nhân hoá không có tác

động một cách có ý nghĩa đối với cả tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở

các quốc gia đang phát triển.

6. Kết cấu của báo cáo nghiên cứu

Ngoài phần giới thiệu tổng quan và phần kết luận chung, cấu trúc của bài nghiên

cứu bao gồm các nội dung chính sau:

Chương 1: Cơ sở lý thuyết

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Kết quả nghiên cứu

Chương 4: Kết luận

Trang 8

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Chương 1 sẽ trình bày khái quát lý thuyết về “Quyền tài sản” làm nền tảng ủng hộ

cho chính sách tư nhân hóa, đồng thời liên kết mối quan hệ giữa tư nhân hóa với tăng

trưởng kinh tế và giữa tư nhân hóa với bất bình đẳng thu nhập; bên cạnh đó, tác giả

cũng tổng luận một số các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tư nhân hóa đối với

tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập; và ở cuối chương, tác giả trình bày phần

mô hình nghiên cứu thực nghiệm cũng như các giả thuyết kỳ vọng trong mô hình.

1.1 Khái niệm và phân loại Tƣ nhân hóa

1.1.1 Khái niệm Tư nhân hoá

Tư nhân hóa (privatization) có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau,

đơn giản nhất có thể định nghĩa tư nhân hóa là sự chuyển giao các tài sản hoặc quyền

phân phối dịch vụ từ khu vực công sang cho khu vực tư (Pirie, 1986). Trong thời gian

gần đây, thuật ngữ về tư nhân hóa được sử dụng bao hàm ba khái niệm cơ bản sau:

divestiture; deregulation và delegation (Ghosh, 2004 và Savas, 2000). Divestiture hàm

ý là giảm một phần hoặc toàn bộ việc cung cấp hàng hóa của các doanh nghiệp thuộc

khu vực công sang cho khu vực tư nhân đảm nhận. Deregulation còn được biết đến

như là sự tự do hóa, nó được hiểu là sự gỡ bỏ các rào cản thâm nhập thị trường và do

đó thúc đẩy vai trò của yếu tố cạnh tranh trong nền kinh tế. Delegation thường được

hiểu là việc chính phủ duy trì sự kiểm soát và chịu trách nhiệm đối với quá trình phân

phối hàng hóa, dịch vụ nhưng thực tế các hoạt động sản xuất được thực hiện bởi khu

vực tư nhân. Điều này cũng đồng nghĩa rằng chính phủ sẽ cung cấp vốn cho khu vực tư

nhân thực hiện sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Delegation thường được thực hiện thông

qua các hợp đồng, hình thức nhượng quyền hoặc trợ cấp.

Trang 9

Tuy nhiên, bài nghiên cứu chỉ giới hạn ở việc kiểm tra tác động của chính sách tư

nhân hoá đối với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập theo ý nghĩa của khái

niệm divestiture. Bởi vì, divestiture được xem như là phương pháp thực hiện chính

sách tư nhân hóa phổ biến nhất ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn nghiên

cứu (Kikeri và Kolo, 2006; Filipovic, 2005; Cook và Uchida, 2003; Barnett, 2000;

Plane, 1997; Yoder và cộng sự, 1991).

1.1.2 Phân loại Tư nhân hoá

Theo Brada (1996) khi nghiên cứu ở Trung và Đông Âu có 4 loại hình tư nhân

hóa cơ bản:

Thứ nhất, tư nhân hóa thông qua việc trả lại quyền sở hữu. Phương pháp này là

phù hợp khi có thể xác định được quyền sở hữu doanh nghiệp thuộc về những cá nhân

nào trước đó, tức nguồn gốc của doanh nghiệp trước khi trở thành doanh nghiệp nhà

nước. Theo Megginson và cộng sự (2001), hình thức chuyển đổi này gặp khó khăn khi

phải chứng minh chủ sở hữu doanh nghiệp trước đó dễ gây ra những bất ổn do tranh

giành và chuyển giao không tương xứng trong quá trình này.

Thứ hai, tư nhân hóa thông qua việc bán các tài sản nhà nước. Hình thức này có 2

dạng bán tài sản nhà nước: bán trực tiếp toàn bộ hay một phần tài sản cho các cá nhân

hay tổ chức; bán một phần hay toàn bộ cổ phần của công ty đến các nhà đầu tư thông

qua việc bán ra công chúng, hình thức bán cổ phần giống như hình thức phát hành cổ

phiếu lần đầu (IPOs) của các công ty trên thị trường.

Thứ ba, tư nhân hóa thông qua việc phân phối cổ phần dạng voucher. Đây là hình

thức tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước thông qua việc phân phối các cổ phần của

công ty đến công chúng miễn phí hoặc với giá hiện hành. Hình thức này thường được

sử dụng ở các quốc gia có chuyển đổi nền kinh tế, hình thức này tạo ra sự thay đổi căn

Trang 10

bản về hệ thống cấu trúc sở hữu của nền kinh tế, tuy vậy, hình thức này không luôn

luôn đạt được hiệu quả như mong muốn (Megginson và cộng sự, 2001).

Thứ tư, tư nhân hóa bằng cách chuyển đổi sang một công ty mới hay cho thiết lập

các công ty sở hữu tư nhân rộng rãi trong nền kinh tế. Havrylyshyn và McGettigan

(2000) nhấn mạnh đây là hình thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia

chuyển đổi.

Bên cạnh 4 hình thức tư nhân hóa trên, còn có một số hình thức tư nhân hóa khác

được thực hiện nhằm tăng cường vai trò khu vực tư nhân. Theo Florencio López-de-

Silanes và cộng sự (1997) tư nhân hóa ở Mỹ là việc phân phối các công đoạn sản xuất,

cung ứng đến các công ty tư nhân.

1.2 Lý thuyết nền tảng về Tƣ nhân hóa

Xét về phương diện học thuật có khá nhiều lý thuyết ủng hộ chính sách tư nhân

hóa, trong đó nổi bật nhất cần phải nhắc đến đó là lý thuyết về “Quyền tài sản”

(Property Rights theory).

Lý thuyết về “Quyền tài sản” nhìn chung khá đa dạng, nhưng đặc trưng cơ bản

nhất đó là sự tập trung vào tính liên kết giữa các quyền sở hữu, sự ưu đãi và các hành

vi kinh tế (Commander và Killick, 1988). Lý thuyết “Quyền tài sản” đề cập đến vấn đề

tối đa hóa thỏa dụng của các nhà quản lý dựa vào các giới hạn được thiết lập bởi tổ

chức. Các quyền tài sản được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Alchian (1965) đã

định nghĩa các quyền tài sản bao hàm ba đặc điểm sau: tính độc quyền của các quyền

lựa chọn sử dụng một nguồn tài nguyên; tính độc quyền của các quyền đối với các dịch

vụ liên quan đến nguồn tài nguyên; và các quyền đối với việc trao đổi nguồn tài

nguyên theo các điều khoản được thỏa thuận.

Trang 11

Mặt khác, Demetz (1967) đã định nghĩa quyền tài sản như là một công cụ của xã

hội, điều này xuất phát từ quan điểm cho rằng quyền tài sản giúp các cá nhân thiết lập

các kỳ vọng thích hợp mà họ có thể đạt được trong các giao dịch với những người

khác. Các kỳ vọng này được biểu hiện trong luật pháp, phong tục và tập tục của một xã

hội. Người chủ sở hữu của các quyền tài sản sở hữu sự chấp thuận trong việc cho phép

những người khác được thực hiện theo các cách thức riêng. Theo quan điểm này, Starr

(1988) khẳng định rằng lý thuyết về quyền tài sản xác định các mối quan hệ kinh tế và

xã hội mà ở đó mọi người phải tuân thủ đối với việc phân bổ các nguồn lực, trong đó

có xem xét đến cả lợi ích được hưởng của các chủ sở hữu và những thiệt hại mà họ gây

ra cho người khác.

Tương tự như vậy, Hill và Kamer (1996) đã đề cập đến các quyền tài sản như là

sự kiểm soát các tài sản và cho rằng các nhà quản lý có quyền kiểm soát bằng cách xác

định việc phân phối các đầu vào và mức sản xuất của doanh nghiệp hàng ngày. Ví dụ

như trường hợp của Hoa Kỳ, Hill và Kamer (1996) giải thích rằng các quyền tài sản đối

với nước, vật nuôi và đất đai đáp ứng các điều kiện cả về cung và cầu. Khi các tài

nguyên này chưa có giá trị cao, nỗ lực rất ít được tạo ra trong việc xác định và thực

hiện các quyền, nhưng khi mà áp lực cao về dân số và sự gia tăng về nhu cầu đối với

các sản phẩm nông nghiệp đã làm gia tăng giá trị của các quyền tài sản đối với các tài

nguyên này, khi đó nỗ lực lớn hơn được tạo ra trong việc bảo vệ và thực hiện các

quyền này. Điều này là do các quyền tài sản mang lại cho các chủ sở hữu tư nhân “các

yêu cầu về thặng dư” đối với các tài sản của doanh nghiệp (Hanke, 1987). “Các yêu

cầu về thặng dư” đề cập đến khả năng sử dụng của một tài sản, thay đổi nó về mặt hình

thức và chuyển giao toàn bộ hoặc bán một số các quyền (Starr, 1988). Soto (1996) đã

diễn tả các quyền tài sản như là “thành phần còn thiếu” cần thiết để vận hành các thị

trường.

Trang 12

Các thảo luận ở trên cho thấy các cá nhân có khuynh hướng bảo quản các tài sản

của họ tốt hơn khi tồn tại các lợi ích được tạo ra từ các tài sản đó. Trong tác phẩm

“Wealth of Nations”, Adam Smith (1776) đã nói rằng mọi người thường có khuynh

hướng lãng phí tài sản của người khác hơn so với tài sản của họ. Theo đó, từ quan điểm

của các quyền tài sản có vẻ như các doanh nghiệp nhà nước được dự kiến sẽ kém hiệu

quả hơn so với các doanh nghiệp tư nhân, bởi vì chúng được sở hữu bởi các cá nhân

mà họ không có “các yêu cầu về thặng dư” đối với các tài sản của các doanh nghiệp

thuộc khu vực công (Megginson, 2005).

Luận điểm chính của các nhà nghiên cứu về lý thuyết quyền tài sản đó là sự

không hiệu quả của khu vực công đến từ những tình huống mà ở đó không có các cá

nhân hay các nhóm có lợi ích rõ ràng đối với các tài sản của doanh nghiệp (Abdul,

2000). Điều này có nghĩa rằng trong các doanh nghiệp nhà nước, các quyền tài sản

dường như không mang tính độc quyền và cũng không thể chuyển nhượng được. Trong

trường hợp này khả năng các tài sản của khu vực công được quản lý kém là rất cao

(Furobotn và Perjovich, 1972).

Phần tổng kết lý thuyết đã chứng minh được lý thuyết về các quyền tài sản khác

với các lý thuyết cổ điển về doanh nghiệp bằng việc loại bỏ các doanh nghiệp được

xem như là đơn vị phân tích chính ra, thay vào đó tập trung vào vai trò của những

người đưa ra các quyết định cá nhân trong doanh nghiệp. Càng đầy đủ các quyền dành

cho những người ra quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực thì sẽ càng khuyến

khích việc sử dụng và bảo quản các nguồn lực đó một cách hiệu quả. Theo đó, chính

sách tư nhân hóa liên quan đến việc tập trung các quyền tài sản được kỳ vọng sẽ cải

thiện tính hiệu quả của nền kinh tế.

Trang 13

1.3 Tƣ nhân hóa, Tăng trƣởng kinh tế và Bất bình đẳng thu nhập

Chính sách tư nhân hóa có thể tạo ra tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế

và bất bình đẳng thu nhập bằng nhiều cách. Có thể liệt kê ra đây ba cách thức tác động

chính của tư nhân hóa.

Thứ nhất, nếu chính sách tư nhân hóa được triển khai một cách sâu rộng và có

hiệu quả thì nó có thể góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động ở mức độ vĩ mô của nền

kinh tế (Cook và Uchida, 2003). Theo Bennett và cộng sự (2004), tác động tích cực của

tư nhân hóa đối với hiệu quả tài chính và năng suất của các doanh nghiệp có thể được

dự báo bằng lý thuyết kinh tế vi mô và những tác động này đòi hỏi phải có một độ trễ

về mặt chính sách trước khi tạo ra sự gia tăng trong tăng trưởng kinh tế. Tương tự như

vậy, Berg và Berg (1997) cho rằng sự hiện diện của yếu tố cạnh tranh, tính hiệu quả

của doanh nghiệp bắt nguồn từ chính sách tư nhân hóa được kỳ vọng sẽ làm gia tăng

tính hiệu quả của cả nền kinh tế thông qua các thị trường cạnh tranh và sự phân phối tốt

hơn các nguồn lực giữa các doanh nghiệp và các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.

Điều này là do sự cạnh tranh có khả năng thay đổi nền kinh tế theo hướng đó là, một số

các doanh nghiệp sẽ tăng trưởng theo cấp số nhân trong khi đó một số khác sẽ thất bại.

Theo như Olbeter (1994), sự cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải liên tục đổi mới,

nâng cao hiệu quả và tạo ra các dịch vụ với chất lượng ngày càng cao. Kết quả là người

tiêu dùng sẽ được hưởng lợi với giá cả rẻ hơn, chất lượng cao hơn và các dịch vụ ngày

càng mới mẻ hơn.

Thứ hai, tính hiệu quả về mặt sản xuất và phân phối bắt nguồn từ chính sách tư

nhân hóa sẽ góp phần cải thiện vấn đề nợ của khu vực công, cũng như gia tăng các

nguồn lực công để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các chương trình phúc lợi xã hội nhằm

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo (Nellis, 1994). Tương tự, Aghion

và Schankerman (1999) lập luận rằng việc gia tăng hiệu quả hoạt động tài chính và

năng suất của các doanh nghiệp có thể mang lại thu nhập cao hơn cho chính phủ và

Trang 14

nâng cao khả năng chi đầu tư cho các cơ sở hạ tầng, kết quả tạo ra các tác động tích

cực đối với năng suất tổng hợp của nền kinh tế. Tác động tài khóa của chính sách tư

nhân hóa cũng có thể mang lại những kết quả phân phối có lợi bằng việc hỗ trợ vấn đề

ổn định hóa kinh tế vĩ mô và cho phép sự dịch chuyển từ các khoản chi tiêu tốn kém

dành cho các nghĩa vụ nợ sang các khoản chi tiêu xã hội, mà mục tiêu hướng đến trực

tiếp là những người nghèo (Mckenzie và Mookherjee, 2002). Tương tự như vậy,

Ramanadham (1988) cũng lập luận rằng thu nhập tạo ra từ chính sách tư nhân hóa có

thể được đầu tư vào việc phát triển cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp cơ bản,

điều này thể hiện sự hiệu quả trong việc phân phối thu nhập và tạo điều kiện thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, quá trình tư nhân hóa làm gia tăng đầu tư và kích thích sự tăng trưởng

của toàn bộ nền kinh tế (Berg và Berg, 1997). Davis và cộng sự (2000) đã chỉ ra rằng

các thị trường và các nhà đầu tư xem chính sách tư nhân hóa như là một tín hiệu tích

cực về mặt chính trị và ngầm hiểu rằng chính phủ sẽ gắn bó và tạo điều kiện thuận lợi

cho các nhà đầu tư với chương trình cải cách của mình, kết quả là chính sách tư nhân

hóa làm gia tăng tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các nghiên cứu về FDI đã cho

thấy rằng, các nước đang phát triển đã trải qua giai đoạn tăng vọt về tỷ lệ bình quân của

FDI so với tổng đầu tư trong những năm 1990 mà chủ yếu đến từ các chương trình tư

nhân hóa với quy mô lớn, đặc biệt là ở lĩnh vực cơ sở hạ tầng (Kirkpatrick, Parker và

Zhang, 2006). Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo ra các tác động lan tỏa tích cực đối với

toàn bộ nền kinh tế với việc cải tiến công nghệ, nâng cao các kỹ năng về quản lý,

marketing và tiếp cận với các mạng lưới sản xuất quốc tế (Kobrin, 2005 và Sylwester,

2005). Theo Lewis (1948), việc xuất khẩu vốn sang các quốc gia đang phát triển tạo

động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với việc tạo ra các ngành công nghiệp mới, sự

chuyển giao công nghệ và tạo ra một quan điểm hiện đại hơn đối với nền kinh tế của

nước chủ nhà. Như vậy có thể thấy rằng, chính sách tư nhân hóa với việc tạo điều kiện

Trang 15

thu hút nguồn vốn FDI đã tạo ra các tác động tích cực đối với vấn đề tăng trưởng kinh

tế ở các nước đang phát triển (Fillipovic, 2005). Dựa vào các phân tích ở trên về mối

quan hệ giữa tư nhân hóa, tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập, bài nghiên

cứu đề xuất các giả thuyết nghiên cứu như sau:

(1) Chính sách tư nhân hóa có mối tương quan thuận đối với tăng trưởng kinh tế.

(2) Chính sách tư nhân hóa có mối tương quan nghịch đối với bất bình đẳng thu nhập.

1.4 Tổng luận về các nghiên cứu thực nghiệm

1.4.1 Giới thiệu một số các nghiên cứu thực nghiệm

Các nghiên cứu thực nghiệm về tư nhân hóa có thể được chia thành 3 nhóm chính

như sau: các nghiên cứu ở cấp độ doanh nghiệp (firm-level) (Boubakari và Cosset,

1999; Megginson và cộng sự, 1994); các nghiên cứu ở cấp độ ngành (industry-level)

(Galiani và cộng sự, 2002; Wallsten, 2001); và các nghiên cứu ở cấp độ quốc gia

(country-level) (Fillipovic, 2005; Cook và Uchida, 2003; Barnett, 2000; Plane, 1997;

Yoder và cộng sự, 1991). Tuy nhiên, bài nghiên cứu chỉ thực hiện xem xét các nghiên

cứu thực nghiệm ở cấp độ quốc gia bởi vì mục tiêu chính của đề tài là kiểm tra tác

động của chính sách tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập

ở các quốc gia đang phát triển.

Các nghiên cứu thực nghiệm về tư nhân hóa ở cấp độ quốc gia cũng giống như ở

các cấp độ doanh nghiệp và cấp độ ngành đều không đi đến kết luận cuối cùng. Chẳng

hạn như, Barnett (2000), Davis và cộng sự (2000) và Plane (1997) phát hiện được

chính sách tư nhân hóa có tác động dương và có ý nghĩa thống kê đối với tăng trưởng

kinh tế, trong khi Fillipovic (2005), Cook và Uchida (2003), Yoder và cộng sự (1991)

lại tìm ra các kết quả ngược lại.

Trang 16

Barnett (2000) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tư nhân hóa và các biến đo lường

về tài khóa và kinh tế vĩ mô. Nghiên cứu của Barnett được thực hiện với 18 quốc gia,

trong đó có 12 quốc gia đang phát triển. Các kết quả cho thấy chính sách tư nhân hóa

có tương quan thuận với sự cải thiện các hoạt động vĩ mô, cụ thể là tỷ lệ tăng trưởng

GDP cao hơn và tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn.

Tương tự như với kết quả nghiên cứu của Barnett (2000), Plane (1997) đã vận

dụng các kỹ thuật ước lượng Probit và Tobit để nghiên cứu về tác động của tư nhân

hóa ở 35 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn (1984 – 1992) và đã phát hiện ra

được mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê giữa tư nhân hóa đối và tăng

trưởng kinh tế. Các phát hiện của nghiên cứu đã kết luận rằng mối tương quan dương

này sẽ mạnh hơn khi chính sách tư nhân hóa kết hợp với các cuộc cải cách về mặt thể

chế. Cụ thể, khi có cải cách về thể chế, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân tăng từ 0.8%

đến 1.5% trong giai đoạn giữa hai thời kỳ (1984 – 1988) và (1988 – 1992).

Ngược lại với các kết quả trên, Cook và Uchida (2003) đã tìm thấy mối tương

quan âm giữa tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế trong nghiên cứu về tác động của tư

nhân hóa ở 63 quốc gia đang phát triển. Các tác giả sử dụng tổng doanh thu đạt được từ

chính sách tư nhân hóa trong giai đoạn (1988 – 1997) theo phần trăm của GDP để đo

lường cho biến chính sách tư nhân hóa (privatization), và thực hiện kiểm soát các biến

có thể can thiệp vào tác động của tư nhân hóa (chẳng hạn như: quy mô thâm hụt ngân

sách của chính phủ; các khoản vay nợ từ World Bank). Các tác giả đã phát hiện ra mối

tương quan âm giữa tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên kết quả nhất quán về

mối tương quan âm chỉ được tìm thấy ở 61 quốc gia, với điều kiện loại hai giá trị ngoại

lai là Malaysia và Singapore ra khỏi mẫu nghiên cứu.

Tương tự, Fillipovic (2005) cũng báo cáo một mối tương quan âm nhưng không

có ý nghĩa thống kê về mối quan hệ giữa tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế trong

nghiên cứu của tác giả ở 92 quốc gia đang phát triển, giai đoạn (1990 – 2000). Kết quả

Trang 17

này cũng tương đồng với báo cáo nghiên cứu của Yoder và cộng sự (1991), các tác giả

đã phát hiện được mối tương quan âm giữa tư nhân hóa và các chỉ số phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, nghiên cứu của Yoder và cộng sự (1991) tập trung vào phát triển kinh tế,

điều này khác với các nghiên cứu của Cook và Uchida (2003) và một số các nghiên

cứu khác (hầu hết các nghiên cứu này tập trung vào vấn đề tăng trưởng kinh tế).

Nghiên cứu của Yoder và cộng sự (1991) là nghiên cứu duy nhất tập trung giải

quyết vấn đề giữa tư nhân hóa và phát triển kinh tế (bao gồm các chỉ số về kinh tế và

xã hội). Nghiên cứu của họ được dựa trên tiền đề cho rằng các nghiên cứu về tư nhân

hóa cần phải vượt lên trên sự tăng trưởng kinh tế (sử dụng tổng sản phẩm quốc nội

(GDP), hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP)) khi đánh giá về sự phát triển. Cuối cùng,

các tác giả đã sử dụng chỉ số tổng hợp với nhiều thành phần đo lường về sự phát triển

kinh tế, bao gồm: thu nhập GNP bình quân đầu người (GNP per capita income), tuổi

thọ trung bình (life expectancy at birth), tỷ lệ biết chữ (literacy rate), tỷ lệ tử vong của

trẻ sơ sinh (infant mortality rate), sự phân phối thu nhập và tỷ lệ tăng trưởng GNP.

Nghiên cứu của Yoder và cộng sự (1991) bao gồm 45 quốc gia (trong đó có 17 quốc

gia thuộc vùng Sub-Saharan Africa) với thiết kế nghiên cứu cắt ngang (cross-sectional

design) và sử dụng mức độ tham gia của khu vực tư nhân (level of participation) ở năm

1980 hoặc 1981 làm biến giải thích chính (biến nghiên cứu về chính sách tư nhân hóa),

các chỉ số phát triển (thu nhập GNP bình quân đầu người, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ biết

chữ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, sự phân phối thu nhập và tỷ lệ tăng trưởng GNP) ở

năm 1986 là các biến phụ thuộc. Các tác giả đã chia 45 quốc gia thành ba nhóm thu

nhập: nhóm thu nhập thấp (GNP dưới $450); nhóm thu nhập trung bình thấp (GNP

nằm trong khoảng $451 – 1800) và nhóm thu nhập trung bình khá (GNP năm trong

khoảng $1801 – 7500), và đã nhận thấy rằng các chỉ số phát triển có mối tương quan

cao với các nhóm thu nhập. Ngoài ra, các tác giả cũng phát hiện được rằng không có

mối quan hệ có ý nghĩa thống kê nào giữa quy mô của khu vực tư và các chỉ số phát

Trang 18

triển. Tuy nhiên, nghiên cứu này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bao gồm việc sử dụng

mức độ tham gia của khu vực tư nhân (level of participation) như là dẫn xuất để đo

lường biến tư nhân hóa và việc vận dụng kỹ thuật phân tích tương quan đơn giản mà

không đưa vào các nhân tố khác thực sự có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Các tác

giả cũng đã thừa nhận những thiếu sót này và đề nghị cần có các nghiên cứu khác trong

tương lai.

Clarke và Wallsten (2002) đã thực hiện một nghiên cứu xuyên quốc gia (cross –

country) nhằm kiểm tra tác động của tư nhân hóa đến phúc lợi xã hội. Clarke và

Wallsten (2002) đã sử dụng dữ liệu về hộ gia đình trên toàn thế giới để kiểm tra về tác

động của cuộc cải cách tư nhân hoá đối với các tiện ích của dịch vụ công. Các tác giả

đã nhận thấy rằng vấn đề độc quyền nhà nước ở mọi nơi (ngoại trừ khu vực Đông Âu)

đều thất bại trong việc cung cấp các dịch vụ công dành cho người nghèo và các hộ ở

nông thôn. Ngoài ra, các tác giả cũng kết luận rằng tư nhân hóa không gây tổn hại đến

người nghèo và những người tiêu dùng ở nông thôn và trong nhiều trường hợp tư nhân

hóa góp phần cải thiện khả năng tiếp cận với các dịch vụ tiện ích này. Clarke và

Wallsten (2002) đã lập luận rằng ngay cả ở những nơi xảy ra tình trạng phân phối

không hiệu quả thì nhìn chung chính sách tư nhân hóa vẫn có giá trị với việc gia tăng

khả năng tiếp cận và cải thiện hệ thống quản lý tốt hơn hoặc trợ cấp nhằm bảo vệ lợi

ích của những hộ nghèo hoặc ở khu vực nông thôn.

Cũng giống như các nghiên cứu ở cấp độ doanh nghiệp và cấp độ ngành, các

nghiên cứu thực nghiệm xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển cho thấy sự thay

đổi quyền sở hữu về cơ bản không thể là nhân tố quyết định trong việc cải thiện hiệu

quả của nền kinh tế (Boubakari và Cosset, 2004; Zinnes và cộng sự, 2001; Ramamurti,

1999). Trong nghiên cứu về tác động của tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế ở các

nền kinh tế chuyển đổi thuộc khu vực Đông Âu, Zinnes và cộng sự (2001) đã lập luận

rằng sự thay đổi về quyền sở hữu chưa đủ để đảm bảo cho thành công của chính sách

Trang 19

tư nhân hóa. Quan trọng hơn, Zinnes và cộng sự (2001) đã chỉ ra rằng sự thay đổi đơn

thuần về quyền sở hữu từ khu vực công sang khu vực tư có thể tạo ra tác động tiêu cực

đối với các nền kinh tế chuyển đổi. Nghiên cứu của các tác giả đã đi đến kết luận chỉ

khi nào các chính sách tư nhân hóa được thực hiện một cách sâu sắc (deep

privatization), nghĩa là thực hiện chính sách tư nhân hóa kết hợp với việc cải cách về

thể chế, khi đó tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được đảm bảo. Tương tự, trong nghiên

cứu về tác động của các doanh nghiệp thực hiện tư nhân hóa ở các quốc gia đang phát

triển, Boubakari và cộng sự (2005) đã kết luận tính hiệu quả hoạt động được cải thiện ở

những quốc gia mà các thị trường vốn và các quyền tài sản của họ được phát triển

mạnh.

Phần tổng luận về các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng chưa có sự đồng

thuận nào về tác động của chính sách tư nhân hóa đối với chỉ tiêu phát triển kinh tế.

Phần tiếp theo bài nghiên cứu sẽ thảo luận về những hạn chế của các nghiên cứu thực

nghiệm.

1.4.2 Những giới hạn của các nghiên cứu thực nghiệm

Từ phần tổng luận về các nghiên cứu thực nghiệm trước đây có hai vấn đề chính

cần phải xem xét, đó là: Thứ nhất, vấn đề đưa tất cả các quốc gia đang phát triển vào

trong các phân tích hồi quy mà không kiểm soát theo các khối vùng miền khác nhau

(Fillipovic, 2005; Barnett, 2000; Plane, 1997). Thứ hai, vấn đề về phương pháp và các

cách thức đo lường được sử dụng trong nghiên cứu (Berthelemy và cộng sự, 2004;

Bortolotti và Pinotti, 2003; Cook và Uchida, 2003).

1.4.2.1 Vấn đề 1: đưa tất cả các quốc gia đang phát triển vào trong phân tích hồi

quy mà không kiểm soát theo các khối vùng miền khác nhau

Nhìn chung, các bằng chứng thực nghiệm minh chứng cho tác động tích cực của

tư nhân hóa thường gắn liền với các quốc gia đang phát triển (Barnett, 2000; Plane,

Trang 20

1997). Tuy nhiên, Al-Obaidan (2002) đã lập luận rằng việc đưa tất cả các quốc gia thực

sự khác nhau về bản chất vào trong phân tích hồi quy có thể dẫn đến các sai lệch về

mặt thống kê không thể chấp nhận. Rõ ràng, các quốc gia đang phát triển ở các vùng

như: tiểu vùng Sahara của châu Phi, Đông Âu, châu Mỹ Latinh và châu Á có những

đặc điểm kinh tế, xã hội khác nhau. Về nguyên tắc, phân tích hồi quy yêu cầu các giá

trị quan sát phải được thu thập ở cùng một vùng dân cư riêng (Harberger, 1987). Chẳng

hạn như, trong phân tích về tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế, Blonigen và

Wang (2005) đã lập luận rằng sẽ là không phù hợp khi đưa tất cả các quốc gia với các

điều kiện kinh tế xã hội khác nhau vào chung trong phân tích hồi quy, kết quả là mối

tương quan dương giữa FDI và tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra bởi vì hầu hết các

nghiên cứu đã không kiểm soát những sự khác biệt về vùng miền này. Theo đó, việc

đưa vào các quốc gia đang phát triển với các đặc điểm văn hóa, xã hội khác nhau và

được kiểm soát bằng cách phân thành các khối vùng miền riêng (SSA, LA, SA,

MENA) sẽ giúp giảm các vấn đề sai lệch do bỏ sót biến có liên quan đến các nhân tố

đặc trưng về vùng miền và các khác biệt về vị trí địa lý. Việc kiểm soát theo các khối

vùng miền khác nhau như đã phân tích cũng chính là một trong những đóng góp chính

của bài nghiên cứu về tác động của tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế ở các quốc

gia đang phát triển thuộc các vùng miền khác nhau.

1.4.2.2 Vấn đề 2: phương pháp và các cách thức đo lường chính sách Tư nhân hóa

(Privatization) và Phát triển kinh tế (Economic Development) được sử dụng

trong các nghiên cứu

Ngoài ra, sự thiếu nhất quán trong các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tư

nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế có thể đến từ sự đa dạng của các phương pháp

nghiên cứu, các cách thức đo lường khác nhau để dẫn xuất (proxy) cho biến tư nhân

hóa và biến tăng trưởng kinh tế. Plane (1997) đã nhận định rằng vấn đề về các kết quả

thực nghiệm không nhất quán là do thiếu một khung lý thuyết vững về tư nhân hóa và

Trang 21

do vậy mà khái niệm về tư nhân hóa vẫn chưa được định nghĩa một cách rõ ràng.

Trong khi Savas (2000) định nghĩa tư nhân hóa là việc làm thỏa mãn các nhu cầu của

người dân phụ thuộc nhiều hơn vào các doanh nghiệp thuộc khu vực tư và ít hơn ở các

doanh nghiệp thuộc khu vực công; còn Plane (1997) cho rằng tư nhân hóa dường như

là sự chuyển giao đầy đủ các quyền tài sản của chính phủ cho các cổ đông thuộc khu

vực tư nhân. Như đã đề cập ở phần trước, Pirie (1986) cũng đã đưa ra hơn 22 định

nghĩa khác nhau về tư nhân hóa.

Liên quan đến vấn đề về định nghĩa, đó là vấn đề đo lường đối với phương pháp

tư nhân hóa được sử dụng trong việc đánh giá tác động của nó. Ví dụ như, Barnett

(2000), Bortolotti và Pinotti (2003), Cook và Uchida (2003) đã sử dụng doanh thu đạt

được từ chính sách tư nhân hóa theo phần trăm của GDP như là cách thức đo lường cho

biến tư nhân hóa (lấy tỷ lệ doanh thu theo GDP để kiểm soát tác động của quy mô quốc

gia). Tuy nhiên, Berthelemy và cộng sự (2004) cho rằng việc sử dụng giá trị nhận được

từ chính sách tư nhân hóa theo phần trăm của GDP không phải là phương pháp phù

hợp để đánh giá tác động tài khóa của chính sách tư nhân hóa. Điều này là bởi vì các số

liệu về GDP hàng năm có thể làm sai lệch đi các thống kê về tư nhân hóa và tỷ số kết

quả (proceeds/GDP) cũng không phản ánh được quy mô của ngân sách. Do đó,

Berthelemy và cộng sự (2004) đã đề xuất sử dụng giá trị bình quân của doanh thu trong

suốt thời kỳ thực hiện tư nhân hóa theo tỷ lệ phần trăm thu nhập của chính phủ (không

bao gồm các khoản tài trợ). Ngoài ra, sự khác nhau về các kỹ thuật phân tích được sử

dụng cũng là nguyên nhân làm cho các kết quả nghiên cứu không nhất quán (ví dụ như,

Barnett (2000) và Fillipovic (2005) sử dụng kỹ thuật hồi quy OLS, Plane (1997) sử

dụng kỹ thuật Probit và Logit, Cook và Uchida (2003) vận dụng kỹ thuật EBA

(Extreme Bound Analysis)).

Ở một góc nhìn khác, Yoder và cộng sự (1991) cho rằng cách đo lường tốt nhất

đối với biến tư nhân hóa đó là sử dụng mức độ tham gia của khu vực tư nhân trong nền

Trang 22

kinh tế (level of participation) theo tỷ lệ phần trăm GNP (Gross National Product). Chỉ

tiêu này được tính bằng cách lấy 1 – tỷ lệ chi tiêu của khu vực công theo phần trăm của

GNP. Cách đo lường tư nhân hóa của Yoder và cộng sự (1991) dường như không phân

biệt hoạt động của khu vực tư với chính sách tư nhân hóa, mà trong thực tế hoạt động

của khu vực tư trong nền kinh tế khác với hoạt động của các doanh nghiệp vừa mới

thực hiện tư nhân hóa. Mặc dù khá nhiều lập luận đã được đưa ra để ủng hộ cho các

cách đo lường khác nhau về tư nhân hóa, nhưng hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm

về tư nhân hóa đã sử dụng doanh thu đạt được từ chính sách tư nhân hóa theo tỷ lệ

phần trăm GDP để đo lường cho biến tư nhân hóa. Chính vì vậy, bài nghiên cứu cũng

sẽ vận dụng cách đo lường biến tư nhân hóa phổ biến này để đánh giá tác động của tư

nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang

phát triển.

Ngoài ra, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm trước đây đều đánh đồng giữa tăng

trưởng kinh tế và phát triển kinh tế (ngoại trừ nghiên cứu của Yoder và cộng sự, 1991).

Cách đo lường tăng trưởng kinh tế đơn thuần là phép đo lường dựa chủ yếu vào thu

nhập, nó không phản ánh được mức độ các nhu cầu mà người dân cần (Meier và

Rauch, 2000). Do vậy, việc quá nhấn mạnh vào tăng trưởng kinh tế có khuynh hướng

làm phóng đại kết quả tích cực của việc thay đổi các chính sách, bao gồm cả chính sách

tư nhân hóa.

Với một quan điểm toàn diện hơn, Lewis (1984) đã định nghĩa phát triển kinh tế

như là việc nghiên cứu về cơ cấu kinh tế và hành vi của những người nghèo, trong khi

đó Chenery và Srinivasan (1988) và Stiglitz (1998) mô tả phát triển kinh tế như là sự

biến đổi về mặt xã hội. Chenery và Srinivasan (1988) đã giải thích sự biến đổi này có

nghĩa là những sự cải thiện về y tế và giáo dục cho dân chúng, xóa đói giảm nghèo, sự

gia tăng về năng lực sản xuất và sự gia tăng về thu nhập bình quân đầu người. Ủng hộ

quan điểm trên, Seers (1969) cũng cho rằng phát triển kinh tế không chỉ dừng lại ở việc

Trang 23

tạo ra các việc làm cho dân chúng, mà còn phải giải quyết được các vấn đề nghèo đói

và bất bình đẳng thu nhập. Như vậy có thể thấy, phát triển kinh tế đo lường cả về sự

tăng trưởng thu nhập và cách thức các nhu cầu cơ bản của người dân được đáp ứng.

Chính vì vậy, cách đo lường về phát triển kinh tế là thích hợp hơn trong việc đánh giá

tác động của chính sách tư nhân hóa.

Trong thời gian gần đây, cả World Bank và IMF đều nhận ra được tầm quan trọng

trong việc xem xét các tác động của các chính sách đối với các vấn đề về tăng trưởng

thu nhập, nghèo đói và phân phối thu nhập. Việc đánh giá tác động của cải cách chính

sách đối với người dân cũng được đề cập đến trong một số các nghiên cứu thực nghiệm

như: Birdsall và Nellis, 2002; Gupta và cộng sự, 1999; Zinnes và cộng sự, 2001. Tuy

nhiên, hầu hết các nghiên cứu này cho thấy rằng các tiêu chuẩn được dùng để đánh giá

tác động của chính sách tư nhân hóa chủ yếu tập trung vào: lợi nhuận, năng suất lao

động và tăng trưởng của doanh nghiệp, không có nhiều thông tin về tác động của tư

nhân hóa đối với người dân. Trong nghiên cứu về lý thuyết tư nhân hóa của mình,

Birdsall và Nellis (2002) đã tập trung vào một số các đo lường về phúc lợi xã hội (việc

làm và giá cả), các tác giả nhận định rằng chính sách tư nhân hóa nhìn chung gây ảnh

hưởng tiêu cực đến việc phân phối các tài sản và thu nhập trong ngắn hạn. Tuy nhiên,

nghiên cứu của các tác giả chỉ giới hạn ở các quốc gia thuộc khu vực châu Mỹ Latinh

và do vậy nên các phát hiện của họ không mang tính tổng quát. Gupta và cộng sự

(1999) đã xem xét các phương pháp thực hiện chính sách tư nhân hóa khác nhau ở các

nền kinh tế chuyển đổi và một số các quốc gia chọn lọc. Các tác giả nhận định rằng

chính sách tư nhân hóa nhìn chung góp phần thúc đẩy tăng trưởng và hiệu quả kinh tế.

Tuy nhiên, tư nhân hóa cũng dẫn đến tình trạng mất việc làm, giá cả cao hơn cho người

tiêu dùng và sự mở rộng mạnh mẽ trong phân phối thu nhập, đặc biệt là ở các nền kinh

tế chuyển đổi.

Trang 24

Như vậy có thể nhận thấy, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu tập trung

kiểm tra tác động của chính sách tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng chưa

có nhiều các nghiên cứu thực nghiệm ở cấp độ quốc gia (country – level) tập trung vào

nghiên cứu cả về tác động kinh tế và tác động xã hội của chính sách tư nhân hóa đối

với các quốc gia đang phát triển. Việc kiểm tra tác động của chính sách tư nhân hóa đối

với cả tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển

chính là một trong những đóng góp chính của bài nghiên cứu.

1.5 Mô hình nghiên cứu

Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là kiểm tra tác động của tư nhân hóa đối với

tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập. Các phân tích thực nghiệm cho bài

nghiên cứu dựa trên những nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa tư nhân hóa và

tăng trưởng kinh tế (Filipovic, 2005; Cook và Uchida, 2003; Barnett, 2000;

Plane,1997). Bài nghiên cứu vận dụng mô hình tăng trưởng cơ bản đã được sử dụng

trong các nghiên cứu trước đây về tư nhân hóa. Nó được xem như là phương trình tiên

đề của nghiên cứu thực nghiệm về tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế, phương trình có

dạng như sau:

(1) Y = 𝜶0 + 𝜶1B + 𝜶2Z + 𝜶3M + u

Trong đó, Y là tỷ lệ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người; 𝛼i là các hệ số ước

lượng của hồi quy. B là tập hợp các biến, bao gồm: nguồn vốn nhân lực (SEC.), độ mở

thương mại của nền kinh tế (OPEN), mức độ phát triển ban đầu (IRGDP), tỷ lệ tăng

trưởng dân số (POP), tỷ lệ lạm phát (INF) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). M là

biến đại diện cho chính sách kinh tế đang được nghiên cứu, trong trường hợp của bài

nghiên cứu đó là biến tư nhân hóa (PR). Z là tập hợp các biến bổ sung, những biến này

được đưa vào nhằm kiểm soát các điều kiện của quốc gia (những biến này theo lý

thuyết có tác động đến tăng trưởng kinh tế). Các điều kiện quốc gia được đại diện bởi

Trang 25

cấu trúc về thể chế nhà nước và các điều kiện về vị trí địa lý (chẳng hạn như một số

các quốc gia có vị trí địa lý nằm khép kín bên trong lục địa, không tiếp giáp với biển)

và u là sai số ngẫu nhiên.

Để kiểm tra xem tác động của tư nhân hóa ở các quốc gia đang phát triển có nhạy

cảm với sự khác biệt về vùng miền hay không, bài nghiên cứu thực hiện kiểm soát các

quốc gia trong mẫu theo các khối vùng miền riêng (Sub-Saharan Africa, Asia , Latin

America và MENA). Mô hình hồi quy có kiểm soát theo các nhóm vùng miền khác

nhau được viết lại như sau:

(2) Y = 𝜶0 + 𝜶1B + 𝜶2Z + 𝜶3PR + 𝜶4Di + u

Trong đó, Di là biến giả (dummy) đại diện cho các nhóm vùng miền: Sub-Saharan

Africa (SSA), Latin America (LA), Asia (AS) và các quốc gia thuộc vùng Middle

Eastern & North Africa (MENA). Cụ thể:

LA = [1 nếu là quốc gia thuộc vùng Latin America; 0 là các quốc gia ở vùng khác];

SSA = [1 nếu là quốc gia thuộc vùng Sub-Saharan Africa; 0 là các quốc gia ở vùng

khác];

AS = [1 nếu là quốc gia thuộc vùng Asia; 0 là các quốc gia ở vùng khác].

Để ngăn ngừa các vấn đề liên quan đến hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo

(perfect collinearity), chỉ có 3 nhóm vùng miền được đưa vào phương trình hồi quy

cùng một lúc. Theo Stock và Watson (2003), nếu có J nhóm phân loại khác nhau thì số

lượng các nhóm được đưa vào phương trình hồi quy sẽ là J-1. Nhóm còn lại được gọi

là nhóm tham chiếu (reference group). Nhóm so sánh (hay nhóm tham chiếu) được lựa

chọn trong bài nghiên cứu là nhóm các quốc gia thuộc vùng MENA. Hệ số hồi quy của

biến giả đo lường sự khác biệt về mặt giá trị giữa các nhóm nghiên cứu với nhóm tham

chiếu.

Trang 26

Ngoài ra, để kiểm soát sự ảnh hưởng có thể có của các yếu tố khác biệt vùng

miền đến chính sách tư nhân hóa, bài nghiên cứu cũng đưa vào mô hình các biến tương

tác giữa tư nhân hóa và các biến giả vùng miền (PR*Di), mô hình cụ thể như sau:

(3) Y = 𝜶0 + 𝜶1B + 𝜶2Z + 𝜶3PR + 𝜶4Di + 𝜶5PR*Di + u

Tác động của tư nhân hóa ở nhóm tham chiếu (nhóm MENA) sẽ được thể hiện bằng hệ

số hồi quy của PR, ngược lại hệ số hồi quy của biến tương tác PR*Di sẽ thể hiện sự

khác biệt về tác động của tư nhân hóa giữa vùng miền nghiên cứu và nhóm tham chiếu.

Cuối cùng, các lý thuyết về tư nhân hóa đã đề xuất rằng tác động của tư nhân hóa

đối với nền kinh tế chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện về cấu trúc thể chế của quốc gia

(GOV), độ mở thương mại của nền kinh tế (OPEN) và ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài (FDI). Do đó, các biến tương tác giữa tư nhân hóa với các biến

được đề xuất ở trên được đưa vào mô hình như sau:

(4) Y = 𝜶0 + 𝜶1B + 𝜶2Z + 𝜶3PR + 𝜶4I + u

Trong đó, I là tập hợp bao gồm: 0, 1 hoặc nhiều biến tương tác. Các biến tương tác

được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: PR*FDI; PR*OPEN và PR*GOV, các biến

này tương ứng đại diện cho sự tương tác giữa tư nhân hóa với đầu tư trực tiếp nước

ngoài; tư nhân hóa với độ mở thương mại; và tư nhân hóa với cấu trúc thể chế nhà

nước. Việc đưa các biến tương tác vào mô hình được dựa trên giả định đó là, tác động

của một biến giải thích đối với biến phụ thuộc chịu ảnh hưởng bởi giá trị của một biến

giải thích khác. Các biến tương tác được tạo thành bằng cách nhân tương ứng biến tư

nhân hóa lần lượt với từng biến FDI, OPEN và GOV (Stock và Watson, 2003).

Các mô hình hồi quy của biến bất bình đẳng thu nhập được xây dựng giống như

các mô hình hồi quy của biến tăng trưởng ở trên (với 4 phương trình hồi quy cơ bản).

Các phương trình cụ thể như sau:

Trang 27

(5) INEQ = 𝜶0 + 𝜶1B + 𝜶2Z + 𝜶3PR + u

(6) INEQ = 𝜶0 + 𝜶1B + 𝜶2Z + 𝜶3PR +𝜶4Di + u

(7) INEQ = 𝜶0 + 𝜶1B + 𝜶2Z + 𝜶3PR +𝜶4Di + 𝜶5PR*Di + u

(8) INEQ = 𝜶0 + 𝜶1B + 𝜶2Z + 𝜶3PR +𝜶4I + u

Trong đó, biến INEQ đo lường cho sự bất bình đẳng về thu nhập và được sử dụng là

biến phụ thuộc trong các phương trình hồi quy của bất bình đẳng thu nhập. Các đại

lượng (𝛼, B, PR, Z, I, PR*Di và u) có ý nghĩa và vai trò tương tự như trong các mô

hình hồi quy tăng trưởng ở trên. Tuy nhiên, ở đây bài nghiên cứu có đưa thêm vào một

biến bổ sung trong tập B (bổ sung thêm biến bình phương giá trị mức độ phát triển ban

đầu (LIRGDPSQ)) để kiểm soát mối quan hệ phi tuyến (đường cong) có thể tồn tại

trong thực tế giữa bất bình đẳng thu nhập và mức độ phát triển ban đầu. Lập luận này

dựa vào giả thuyết của Kuznet (1955), khi ông cho rằng bất bình đẳng thu nhập tăng

lên cùng với mức độ phát triển ban đầu của quốc gia nhưng trong dài hạn mối quan hệ

này sẽ giảm dần.

1.6 Các giả thuyết kỳ vọng trong mô hình nghiên cứu

Biến LIRGDP kiểm soát mức độ phát triển ban đầu tại thời điểm bắt đầu chính

sách tư nhân hóa (năm 1991). Một số các nghiên cứu trước đây sử dụng GDP bình

quân đầu người để đo lường mức độ phát triển, tuy nhiên điều này gặp phải vấn đề

trong việc so sánh đối với các hồi quy xuyên quốc gia. Nguyên nhân là do việc sử dụng

tỷ giá chính thức dùng để chuyển đổi GDP đo lường theo đồng nội tệ sang GDP đo

lường theo đồng USD, và vì vậy nó không phản ánh được sức mua thực sự giữa các

quốc gia khác nhau (Tsai, 1995). Do đó, việc sử dụng GDP bình quân đầu người thực

(đã điều chỉnh tỷ lệ lạm phát) giúp khắc phục được vấn đề này. Hơn nữa, việc chuyển

đổi biến IRGDP bằng cách lấy logarit cũng được sử dụng do tồn tại sự chênh lệch

Trang 28

tương đối lớn của dữ liệu về GDP bình quân đầu người ở các quốc gia đang phát triển

thuộc các vùng miền khác nhau.

Biến LIRGDPSQ (bình phương của biến LIRGDP) là một biến bổ sung được đưa

vào trong các mô hình hồi quy của bất bình đẳng thu nhập, nhằm khắc phục mối quan

hệ phi tuyến có thể tồn tại giữa biến mức độ phát triển ban đầu và biến bất bình đẳng

thu nhập (Sylwester, 2005; Ahluwalia, 1976; Kuznets, 1955). Theo đó, ban đầu bất

bình đẳng thu nhập được kỳ vọng sẽ tăng nhưng theo thời gian tiếp tục tăng trưởng sẽ

dẫn đến việc giảm bất bình đẳng thu nhập. Do vậy, biến LIRGDP được kỳ vọng sẽ có

dấu dương (+) và biến LIRGDPSQ sẽ là dấu âm (-) trong mối tương quan với biến bất

bình đẳng thu nhập.

Nguồn vốn về nhân lực được dẫn xuất bằng tỷ lệ nhập học cấp hai (SEC) nhằm

kiểm soát mức độ cải thiện nguồn nhân lực dựa theo các tiêu chuẩn về giáo dục cơ bản

(Ahluwalia, 1976). Biến nguồn vốn nhân lực (SEC) được kỳ vọng sẽ có tác động

dương (+) đối với cả biến tăng trưởng kinh tế và sự phân phối thu nhập (Makki và

Somarwu, 2004).

Độ mở thương mại (đo lường bằng tổng xuất khẩu + nhập khẩu so với GDP) dẫn

xuất cho mức độ mở cửa của nền kinh tế ở một quốc gia. Lý thuyết về toàn cầu hóa đề

xuất rằng độ mở thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tuy nhiên nó cũng làm gia

tăng sự chênh lệch về thu nhập ở các quốc gia. Do đó, bài nghiên cứu kỳ vọng độ mở

thương mại có tác động dương (+) đối với tăng trưởng kinh tế và có tác động âm (-) đối

với sự phân phối thu nhập.

Tỷ lệ tăng trưởng dân số (POP) kiểm soát một vấn đề thực tế đó là, các lợi ích của

chính sách tư nhân hóa có thể bị pha loãng bởi tốc độ tăng trưởng dân số quá cao

(Bornschier và cộng sự, 1978). Do vậy, biến tỷ lệ tăng trưởng dân số được kỳ vọng có

tác động âm (-) đối với cả biến tăng trưởng kinh tế và sự phân phối thu nhập.

Trang 29

Đầu tư trực tiếp nước ngoài được đo lường bằng tỷ lệ FDI so với GDP, biến FDI

được đưa vào mô hình nghiên cứu với giả định rằng FDI đóng vai trò quan trọng bằng

việc tạo ra các hiệu ứng lan tỏa tích cực (các công nghệ mới và các kỹ năng quản lý

hiện đại) góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia chủ nhà (Sylwester,

2005). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra rằng FDI có tương quan

âm đối với sự phân phối thu nhập (Beer, 1999). Do đó, bài nghiên cứu kỳ vọng biến

FDI có tác động dương (+) đối với tăng trưởng kinh tế và có tác động âm (-) đối với sự

phân phối thu nhập.

Tỷ lệ lạm phát trong giai đoạn nghiên cứu cũng được đưa vào mô hình nhằm

kiểm soát tính nhất quán của các chính sách tài khóa và tiền tệ, một sự mất cân bằng tài

khóa quá lớn có thể dẫn đến các vấn đề như tiền tệ hóa nợ (debt monetization) và tỷ lệ

lạm phát cao cho nền kinh tế. Các tổ chức quốc tế hàng đầu xem việc kiểm soát lạm

phát như là một cơ chế góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Romer và Romer (1998)

cho rằng, lạm phát có thể gây tổn thương cho người nghèo nhiều hơn so với người

giàu, bởi vì người giàu có những công cụ tài chính khác có thể giúp họ tự bảo vệ trước

những ảnh hưởng tiêu cực của lạm phát. Do vậy, bài nghiên cứu kỳ vọng lạm phát có

tác động âm đối với cả tăng trưởng kinh tế và sự phân phối thu nhập.

Vị trí địa lý cũng được nhắc đến nhiều trong các nghiên cứu thực nghiệm về tăng

trưởng gần đây (Redding và Venables, 2004; Acemoglu và cộng sự, 2003). Các tác giả

này có đồng quan điểm khi cho rằng, những tác động trực tiếp của vị trí địa lý giải

thích được phần lớn sự khác nhau về thu nhập bình quân đầu người giữa các quốc gia.

Redding và Venables (2004) đã lập luận rằng, việc nằm xa các thị trường và các nguồn

cung cấp chính là một trong những lý do giải thích cho việc các quốc gia đang phát

triển dường như không được hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa. Các biến về vị trí địa

lý đã được sử dụng trong các mô hình hồi quy về tăng trưởng xuyên quốc gia trước

đây, bao gồm: vùng khí hậu, điều kiện sinh thái, vị trí địa lý nằm sâu trong đất liền

Trang 30

(landlocked countries). Trong bài nghiên cứu này, biến định tính LLOCK được sử

dụng để xem xét một quốc gia có tiếp cận được với biển hoặc đại dương hay không (có

đường bờ biển bao quanh). Tất nhiên, việc lãnh thổ không tiếp giáp với biển, nằm xa và

bị cô lập với các thị trường của thế giới sẽ làm cho các khoản chi phí vận chuyển cao

hơn và tạo ra các hạn chế về mặt tổng thể đối với vấn đề phát triển kinh tế và xã hội ở

các quốc gia bị khóa kín trong lục địa này. Chính vì vậy, biến LLOCK được dự báo sẽ

có tác động âm (-) đối với tăng trưởng kinh tế và có tác động dương (+) đối với bất

bình đẳng thu nhập.

Biến đo lường về chất lượng thể chế (cơ chế quản lý nhà nước) (GOV) cũng được

đưa vào trong mô hình nghiên cứu giống như lập luận của các một số nhà nghiên cứu

cho rằng chất lượng thể chế tốt góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Rodrik và cộng

sự, 2004; Olson và cộng sự, 2000). Khái niệm về cơ chế quản lý nhà nước khá phức tạp

và được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Bài nghiên cứu vận dụng khái niệm về

cơ chế quản lý nhà nước (governance) theo như định nghĩa của World Bank (1992),

quản lý nhà nước được định nghĩa là một quá trình các hoạt động mà cơ quan chức

năng thực hiện trong việc quản lý các nguồn lực kinh tế, xã hội của đất nước và năng

lực của chính phủ trong việc thiết kế, xây dựng và thực hiện các chính sách. Như vậy

có thể thấy, một cơ chế quản lý nhà nước tốt được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế và giảm bất bình đẳng thu nhập.

Các chỉ số thành phần đánh giá về chất lượng thể chế của Kaufmann và cộng sự

(2010) được sử dụng như là dẫn xuất cho biến chất lượng thể chế trong các phân tích

hồi quy. Bởi vì 2 lý do chính sau đây: Thứ nhất, các chỉ số này là tổng hợp của nhiều

chỉ số thành phần khác và do đó sai số về mặt đo lường của các chỉ số này sẽ thấp hơn

so với các chỉ số đơn lẻ. Thứ hai, tính phổ biến về dữ liệu của các chỉ số này cho hầu

hết các quốc gia đang phát triển trong mẫu nghiên cứu so với dữ liệu của một số các cơ

Trang 31

quan khác như: International Country Risk Guide và Business Environmental Risk

Intelligence (Kaufmann và cộng sự, 2010).

Điểm số của sáu chỉ số quản trị này nằm từ mức -2,5 đến 2,5 và tương ứng ở mức

điểm cao hơn thể hiện cơ chế quản trị tốt hơn. Sáu chỉ số này được Kaufmann và cộng

sự (2010) định nghĩa như sau:

 Tiếng nói và trách nhiệm giải trình (Voice and Accountability) (VOICE) đo lường

mức độ mà công dân của một nước có thể tham gia trong các cuộc bầu cử của chính

phủ.

 Ổn định chính trị (Political stability) (POLST) đo lườngkhả năng kiểm soát các vấn

đề về bạo lực và khả năng chính phủ cầm quyền của một quốc gia không bị lật đổ

bằng bạo lực.

 Tính hiệu quả của chính phủ (Government effectiveness) (GOVEFF) là một thước

đo về chất lượng của các dịch vụ công, bao gồm: chất lượng của bộ máy hành

chính, năng lực của các công chức, tính độc lập về mặt chính trị của các dịch vụ

công và cam kết của chính phủ đối với các chính sách được đưa ra.

 Chất lượng điều hành (Regulatory quality) (REG) tập trung vào mức độ tương thích

của các chính sách đối với thị trường, chẳng hạn như: kiểm soát giá cả, giám sát các

hoạt động ngân hàng và cả sự nhận thức về các gánh nặng có thể tạo ra bởi các quy

định quá mức.

 Các quy định về Luật pháp (Rule of Law) (RULE) là chỉ số đo lường mức độ công

dân của một nước có niềm tin và tuân thủ theo các quy định của luật pháp.

 Kiểm soát tham nhũng (Control of corruption) (CORR) đo lường mức độ nhận thức

về tham nhũng, được định nghĩa như là sự thực hiện các quyền lực của nhà nước

với mục đích thu lợi cá nhân.

Trang 32

Bảng 1.1: Kỳ vọng tác động của biến giải thích đối với biến phụ thuộc trong mô hình

nghiên cứu

Dấu kỳ vọng đối với biến phụ thuộc

Biến độc lập

Tăng trưởng kinh tế

Bất bình đẳng thu nhập

Chính sách tư nhân hóa

+

-

Tỷ lệ lạm phát

-

+

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

+

+

Mức độ phát triển ban đầu

+

+/-

Chất lượng thể chế

+

-

Độ mở thương mại

+

+

Nguồn vốn nhân lực

+

-

Tỷ lệ tăng trưởng dân số

-

+

Biến giả kiểm soát vị trí địa lý

-

+

Kết luận Chƣơng 1

Chương 1 đã trình bày khái quát các lý thuyết nền tảng về tư nhân hoá, cũng như

liên kết mối quan hệ giữa tư nhân hoá với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu

nhập. Bên cạnh đó, tác giả cũng tổng hợp và tóm tắt một số các kết quả nghiên cứu

thực nghiệm về tác động của tư nhân hoá đối với tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia

đang phát triển. Đồng thời mô hình nghiên cứu thực nghiệm và các giả thuyết kỳ vọng

cũng được trình bày trong chương này. Phần phương pháp nghiên cứu sẽ được khảo sát

ở chương tiếp theo.

Trang 33

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong Chương 2 tác giả sẽ tiến hành mô tả phương pháp nghiên cứu và các yêu

cầu cơ bản trong kiểm định; tiếp theo sẽ mô tả dữ liệu nghiên cứu thu thập được và sau

đó tiến hành phân tích sơ bộ số liệu về mối tương quan giữa các biến phụ thuộc và các

biến độc lập trong mô hình.

2.1Phƣơng pháp nghiên cứu

Bài nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang (cross-sectional) để kiểm

tra tác động của tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập.

Mẫu nghiên cứu bao gồm các quốc gia đang phát triển có dữ liệu về chương trình tư

nhân hóa trong giai đoạn 1991 – 2008 do World Bank Privatization Database cung cấp

dữ liệu. Bài nghiên cứu sử dụng kỹ thuật phân tích hồi quy OLS (Ordinary Least

Squares) kết hợp với các biến hồi quy tương tác để kiểm tra tác động của tư nhân hóa

đối với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển.

Dữ liệu nghiên cứu là các giá trị quan sát của mẫu với 80 quốc gia đang phát triển

được chọn lọc. Không có dữ liệu chuỗi thời gian một cách nhất quán cho biến tư nhân

hóa của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu, do vậy bài nghiên cứu vận dụng phương

pháp hồi quy xuyên quốc gia (cross-country regression) giống như các nghiên cứu về

tư nhân hóa trước đây đã thực hiện. Giá trị trung bình của các biến trong giai đoạn

nghiên cứu sẽ được sử dụng để khắc phục tính nhiễu của dữ liệu hằng năm (Brempong

và Camacho, 2006; Filipovic, 2005; Cook và Uchida, 2003; Plane, 1997).

Sau khi sử dụng kỹ thuật phân tích hồi quy OLS kết hợp với các biến tương tác để

kiểm tra tác động của tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu

nhập ở các quốc gia đang phát triển, bài nghiên cứu sẽ tiến hành kiểm định mô hình hồi

quy theo các trình tự như sau:

Trang 34

 Kiểm định các giả thiết theo phương pháp OLS

Các giả thiết trong mô hình hồi quy bội theo phương pháp OLS bao gồm:

- Kỳ vọng (hoặc giá trị trung bình) của sai số ui là bằng không, E(ui) = 0 với mọi i.

Điều đó có nghĩa là với mỗi giá trị của Xi ta có các giá trị của Yi, các trị số của Yi này

phân bố quanh trị số trung bình của nó. - Phương sai của sai số là một hằng số (Homocedasticity), Var (ui) = σ2 với mọi i. Điều đó có nghĩa là sai số ui có tính đồng nhất.

- Hiệp phương sai giữa ui và uj là bằng không, Cov(ui,uj) = 0 với i ≠ j. Điều đó có nghĩa

là giữa sai số ui và uj không có tương quan lẫn nhau (None Autocorrelation)

- Không nhận dạng sai mô hình.

- Không có hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo. Khi có hiện tượng đa cộng tuyến hoàn

hảo (có nghĩa là không thỏa giả định OLS cho mô hình hồi quy bội) thì phương sai của

hệ số ước lượng không còn nhỏ nhất và chúng ta không thể tìm ra giá trị ước lượng của

các hệ số.

 Kiểm định tính thích hợp của mô hình

Để đánh giá tính thích hợp của mô hình, tác giả sử dụng một số kỹ thuật kiểm

định bao gồm: tính toán hệ số xác định, dùng thống kê F để đánh giá mức ý nghĩa toàn

diện của mô hình, tính toán sai số chuẩn của ước lượng và đánh giá ý nghĩa của từng

biến độc lập riêng biệt.

Khi đó hệ số xác định R2 vẫn được sử dụng để xác định phần biến thiên trong

biến phụ thuộc được giải thích bởi mối liên hệ giữa biến phụ thuộc và tất cả các biến

SSR SST

độc lập của mô hình, với R2 được xác định bởi: R2=

(Trong đó: SST là tổng các chênh lệch bình phương toàn bộ; SSR là biếnthiên của hồi

quy).

Việc sử dụng thống kê F (p-value) để kiểm định giả thuyết về ý nghĩa toàn diện

của mô hình hồi quy, công thức đại lượng F được tính như sau:

Trang 35

SSR k SSE n −k −1

F =

(Trong đó: SSR là biến thiên của hồi quy; SSE là tổng các chênh lệch bìnhphương của

phần dư; n và k lần lượt là cỡ mẫu và số biến độc lập). Việc bác bỏ hay chấp nhận giả

thuyết H0 với hệ số βi = 0phụ thuộc vào kết quả của Ftt so với Fgiới hạn.

Sử dụng kiểm định sai số chuẩn nhằm đo lường sự phân tán của các giá trị thực tế

đo lường được của biến phụ thuộc quanh những giá trị của biến phụ thuộc được dự

đoán bằng đường hồi quy.

2.2 Dữ liệu nghiên cứu

Mặc dù, World Bank Privatization Database (2008) cung cấp dữ liệu về doanh

thu đạt được và số lượng các giao dịch tư nhân hóa của các quốc gia đang phát triển

trong thời gian từ năm 1988 đến năm 2008. Tuy nhiên, khoảng thời gian từ năm 1991

đến 2008 được lựa chọn bởi vì hầu hết các báo cáo về chính sách tư nhân hóa ở các

quốc gia đang phát triển cho thấy các hoạt động tư nhân hóa ở các quốc gia đang phát

triển diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn này. Tập trung vào giai đoạn này có thể mang lại

nhiều thông tin hơn trong việc kiểm tra các tác động của tư nhân hóa ở các quốc gia

đang phát triển.

Dữ liệu được xác định là các quan sát hằng năm của mẫu 80 quốc gia đang phát

triển: 33 quốc gia thuộc vùng Sub-Saharan Africa; 22 quốc gia thuộc vùng Latin

America; 12 quốc gia thuộc Asia và 13 quốc gia thuộc vùng MENA. Do sự hạn chế về

mặt dữ liệu nên không có dữ liệu một cách nhất quán cho toàn bộ các quốc gia trong

giai đoạn nghiên cứu, trong đó 75 quốc gia có bộ dữ liệu với đầy đủ các giá trị quan sát

cho các hồi quy của tăng trưởng và 60 quốc gia cho các hồi quy của bất bình đẳng thu

nhập.

Trang 36

Bảng 2.1: Mô tả các biến cơ sở và ký hiệu sử dụng trong mô hình nghiên cứu

Biến

Ký hiệu

Nguồn thu thập dữ liệu

Đơn vị

tính

Doanh thu của tư nhân hóa/GDP (được đo

PRI

- World Bank Privatization

%

lường bằng tổng doanh thu đạt được từ

Database (2008);

chính sách tư nhân hóa so với GDP bình

- World Development

quân trong giai đoạn 1991 – 2008)

Indicators (2012)

Tỷ lệ lạm phát

INF

World Development Indicators

%

(2012)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FDI

World Development Indicators

%

(2012)

Tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân đầu

RGDP World Development Indicators

%

người thực

(2012)

Chất

lượng

thể chế của quốc gia

GOV

Kaufmann và cộng sự (2010)

%

(Governance)

Độ mở thương mại

OPEN World Development Indicators

%

(2012)

Tỷ lệ nhập học cấp hai

SEC

World Development Indicators

%

(2012)

Bất bình đẳng thu nhập (được đo lường

INEQ10 Human Development Report

%

bằng cách lấy tổng thu nhập của 10%

(2012)

những người có thu nhập cao nhất và của

10% những người có thu nhập thấp nhất so

với tổng thu nhập của dân số)

Tỷ lệ tăng trưởng dân số

POP

World Development Indicators

%

(2012)

Biến định tính (kiểm soát vị trí địa lý)

LLOCK

http://en.wikipedia.org/wiki/La

%

ndlocked_developing_countries

Trang 37

2.2.1 Các biến phụ thuộc

Tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập là các biến phụ thuộc trong bài

nghiên cứu và được tách thành các mô hình hồi quy riêng. Biến tăng trưởng kinh tế

được dẫn xuất bằng tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân đầu người thực trong giai đoạn

1991 – 2008. Việc sử dụng GDP bình quân đầu người thực rất quan trọng bởi vì nó đã

được điều chỉnh tỷ lệ lạm phát và do đó phản ánh được giá trị thực của hàng hóa và

dịch vụ so với việc sử dụng GDP bình quân đầu người danh nghĩa.

Đối với biến bất bình đẳng thu nhập, có 2 phương pháp đo lường chính, đó là: hệ

số Gini (GINI) và tỷ lệ các nhóm thu nhập của cá nhân so với tổng dân số (INEQ).

Ahluwalia (1976) cho rằng, hệ số Gini phản ánh một cái nhìn tổng quát về sự phân

phối thu nhập, tuy nhiên trong một phạm vi thu nhập cụ thể hệ số Gini không thực sự

nhạy cảm đối với mức độ bất bình đẳng thu nhập. Bên cạnh đó, Allison (1978) cũng

lập luận rằng, hệ số Gini có khuynh hướng nhạy cảm nhất đối với các vùng thu nhập

trung bình và không thực sự nhạy cảm đối với các vùng thu nhập rất giàu hoặc rất

nghèo. Do đó, bài nghiên cứu sử dụng tỷ lệ nhóm thu nhập của cá nhân so với tổng

mức thu nhập của dân số (INEQ), cụ thể: lấy tổng thu nhập của 10% những người có

thu nhập cao nhất và của 10% những người có thu nhập thấp nhất so với tổng thu nhập

của dân số (INEQ10). Phương pháp đo lường bất bình đẳng thu nhập này giải thích

được sự khác biệt về lợi ích được hưởng từ chính sách tư nhân hóa của những người có

thu nhập cao nhất và những người có thu nhập thấp nhất trong xã hội. Dấu dương (+)

đối với hệ số này đồng nghĩa với việc gia tăng bất bình đẳng thu nhập và ngược lại là

giảm bất bình đẳng thu nhập nếu giá trị của các hệ số này là âm.

2.2.2 Các biến độc lập

Việc lựa chọn các biến giải thích trong bài nghiên cứu dựa vào các nghiên cứu

trước đây (Filipovic, 2005; Cook và Uchida, 2003; Barnett, 2000; Plane, 1997). Các

Trang 38

biến độc lập trong mô hình nghiên cứu bao gồm: doanh thu của tư nhân hóa theo phần

trăm GDP (PR); logarit của GDP bình quân đầu người thực ban đầu (LGDPC); bình

phương của biến LGDPC (LGDPCSQ); logarit của tỷ lệ lạm phát (LINF); tỷ lệ tăng

trưởng dân số (POP); độ mở thương mại so với GDP (OPEN); tỷ lệ nhập học cấp hai

(SEC); biến định tính kiểm soát vị trí địa lý của quốc gia (LLOCK); cấu trúc thể chế

của nhà nước (GOV); và tỷ lệ FDI so với GDP (FDI). Trong đó, các biến mức độ phát

triển ban đầu và tỷ lệ lạm phát được chuyển đổi theo hàm logarit (do dữ liệu thô của

các biến này có độ chệch cao).

Biến độc lập chính cần quan tâm trong bài nghiên cứu đó là biến tư nhân hóa,

được dẫn xuất bằng tổng doanh thu của tư nhân hóa trong giai đoạn 1991 – 2008 so với

GDP bình quân trong cùng giai đoạn này. Việc sử dụng tổng doanh thu tư nhân hóa

trong suốt thời gian nghiên cứu được dựa trên lập luận của Filipovic (2005) đó là, tác

động của chính sách tư nhân hóa không mang tính tức thời và lợi ích của chính sách tư

nhân hóa ở một năm cụ thể nào đó sẽ phụ thuộc vào mức độ tổng thể mà chính sách tư

nhân hóa được thực hiện.

2.3 Phân tích sơ bộ dữ liệu nghiên cứu

Trên cơ sở các biến đã trình bày, số liệu nghiên cứu được mô tả khái quát như sau:

Bảng 2.2: Tóm tắt thống kê mô tả dữ liệu của các biến trong mô hình

Variable Obs Mean

Min

Max

Skewness Kurtosis

inf linf argdp pri ineq10 pop fdi

80 80 80 80 60 80 77

38.85 1.03 3.31 3.84 27.15 1.95 2.73

Std. Dev. 131.22 0.58 2.33 4.98 21.97 0.89 2.85

0.17 -0.77 -3.22 0.00 6.60 0.44 -1.60

891.15 2.95 9.78 24.26 105.00 7.35 14.94

5.296 0.404 -0.092 1.962 1.489 2.657 2.147

30.836 6.068 3.775 7.043 4.807 18.445 8.369

Trang 39

71.74 46.97 -0.05

35.29 25.87 0.93

21.83 5.55 -2.13

204.54 97.82 2.65

3412.68 3074.23 494.12 16368.92

open sec gov irgdp lirgdp lirgdpsq

80 80 80 77 77 77

3.38 11.57

0.36 2.49

2.69 7.24

4.21 17.72

1.113 0.099 0.309 1.861 0.179 0.353

4.356 1.807 3.295 6.991 2.121 2.271

Bảng 2.2 trình bày tóm tắt các thống kê mô tả của các biến nghiên cứu trong mô

hình. Bảng thống kê tóm tắt cho thấy tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân đầu người thực

là khác nhau giữa các vùng miền, dao động từ mức -3.22% (Zimbabwe) và 9.78%

(Qatar) trong giai đoạn 1991 – 2008. Những quốc gia có tỷ lệ doanh thu đạt được từ

chính sách tư nhân hóa so với GDP cao nhất và thấp nhất đều thuộc vùng Sub-Saharan

Africa (Zambia và Sao Tome and Principe). Giá trị doanh thu tư nhân hoá bình quân so

với GDP ở các vùng miền lần lượt như sau: Sub-Saharan (3.64%); Latin America

(5.29%); Asia (2.18) và MENA (2.96%). Các biến tỷ lệ lạm phát (inf) và biến mức độ

phát triển ban đầu (irgdp) thể hiện sự biến thiên khá lớn, do đó chúng được chuyển đổi

bằng cách lấy logarit nhằm giảm độ chệch của mô hình có thể tạo ra do những sự khác

biệt lớn đến từ các giá trị quan sát.

Bảng 2.3: Ma trận tƣơng quan của các chỉ số đánh giá về chất lƣợng thể chế

polst

goveff

reg

rule

corr

voice polst goveff reg rule corr

voice 1 0.526 0.411 0.610 0.417 0.437

1 0.702 0.568 0.663 0.660

1 0.748 0.896 0.885

1 0.733 0.675

1 0.897

1

Ma trận hệ số tương quan của các chỉ số đánh giá chất lượng thể chế cho thấy

chúng có mối tương quan cao với nhau (ở mức ý nghĩa 1%), trong đó các hệ số tương

Trang 40

quan dao động từ mức 0.411 đến 0.897 (Bảng 2.3). Điều này đồng nghĩa rằng, cả sáu

chỉ số này không thể đưa vào cùng lúc trong một mô hình bởi vì nhiều khả năng sẽ xảy

ra hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo.

Do đó, bài nghiên cứu kết hợp vận dụng phương pháp chỉ số tổng hợp (GOV) của

Globerman và Shapiro (2009) để đánh giá toàn diện hơn tác động của chất lượng thể

chế đối với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập; đồng thời cũng khắc phục

được tính tương quan cao giữa các chỉ số thành phần của Kaumann và cộng sự (2010).

Chỉ số thể chế tổng hợp (GOV) dao động từ mức -2.12 (Angola) đến 2.65 (Chile), do

đó có thể thấy mẫu được tạo thành bao gồm cả các quốc gia có chất lượng thể chế tốt

cũng như những quốc gia có chất lượng thể chế kém. Bên cạnh đó, các chỉ số thành

phần của Kaumann và cộng sự (2010) vẫn được đưa vào phân tích hồi quy với các mô

hình riêng (đưa lần lượt từng chỉ số thành phần vào mô hình) để kiểm tra tính nhất

quán của mối quan hệ giữa chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế và bất bình

đẳng thu nhập.

Bảng 2.4: Ma trận tƣơng quan giữa các biến nghiên cứu

argdp

ineq10

pri

lirgdp

linf

pop

fdi

open

sec

gov

llock

1

argdp

1

ineq10

1

pri

1

lirgdp

1

linf

1

pop

1

fdi

1

open

1

sec

1

gov

1

llock

-0.418 (0.0009) -0.085 (0.345) -0.399 (0.004) -0.226 (0.3159) 0.274 (0.0491) 0.070 (0.1906) 0.073 (0.5697) -0.202 (0.1542) -0.007 (0.7328) -0.004 (0.9868)

0.234 (0.0718) 0.282 (0.0293) 0.177 (0.1757) -0.147 (0.2611) 0.396 (0.0017) 0.014 (0.9145) 0.194 (0.1373) 0.055 (0.6739) 0.117 (0.3748)

0.191 (0.3096) 0.198 (0.0992) -0.194 (0.0581) 0.115 (0.9888) -0.055 (0.2924) 0.136 (0.4162) 0.200 (0.1520) -0.129 (0.6684)

0.037 (0.017) -0.550 (0.0001) 0.033 (0.7465) 0.023 (0.1705) 0.766 (0.0000) 0.525 (0.0000) -0.473 (0.0001)

-0.051 (0.4449) 0.073 (0.1179) -0.227 (0.1992) 0.092 (0.186) -0.127 (0.0003) -0.031 (0.8399)

-0.300 (0.1984) -0.016 (0.7314) -0.493 (0.0442) -0.458 (0.1251) 0.217 (0.3529)

0.497 (0.0000) 0.082 (0.3196) 0.261 (0.5926) 0.117 (0.4401)

0.041 (0.7767) 0.210 (0.0759) -0.116 (0.1146)

0.451 (0.0000) -0.389 (0.0005)

-0.250 (0.0446)

Chú ý: giá trị xác suất p-value ở trong ngoặc đơn ().

Trang 41

Bảng 2.4 trình bày ma trận hệ số tương quan giữa các biến nghiên cứu. Ma trận

tương quan cho thấy rằng, biến tư nhân hóa (pri) có tương quan âm với biến tăng

trưởng kinh tế (argdp) nhưng lại có tương quan dương với biến đo lường bất bình đẳng

thu nhập (ineq10). Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp đều không có ý nghĩa thống kê.

Biến chất lượng quản trị (gov) có tương quan âm với biến tăng trưởng kinh tế (argdp)

và có tương quan dương với các thành phần đo lường bất bình đẳng thu nhập. Cũng

tương tự như biến tư nhân hóa (pri), không có trường hợp nào đạt mức ý nghĩa thống

kê đối với hệ số của biến chất lượng quản trị (gov). Biến tỷ lệ tăng trưởng dân số (pop)

có mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê với biến tăng trưởng kinh tế, nhưng

lại có tương quan âm và không có ý nghĩa thống kê với các biến đo lường bất bình

đẳng thu nhập. Ngược lại biến đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi) có mối tương quan

dương và có ý nghĩa thống kê với các biến đo lường bất bình đẳng thu nhập, nhưng lại

có tương quan dương và không có ý nghĩa thống kê với các biến tăng trưởng kinh tế.

Biến định tính đại diện cho vị trí địa lý của các quốc giakhông giáp biển (llock) có mối

tương quan âm với tăng trưởng và tương quan dương với bất bình đẳng thu nhập, tuy

nhiên các hệ số này đều không có ý nghĩa về mặt thống kê.

Kết luận Chƣơng 2

Chương 2 đã tiến hành phân tích thực nghiệm tác động của tư nhân hoá đối với

tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển, cụ thể:

mô tả phương pháp nghiên cứu và các yêu cầu cơ bản trong kiểm định, thực hiện mô tả

dữ liệu nghiên cứu thu thập được và cuối cùng tiến hành phân tích sơ bộ về mối tương

quan giữa các biến phụ thuộc và các biến độc lập. Kết quả thực nghiệm của bài nghiên

cứu sẽ được trình bày ở chương tiếp theo.

Trang 42

CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chương 3 sẽ trình bày các kết quả thực nghiệm của bài nghiên cứu, cụ thể: kết

quả các hồi quy của tư nhân hoá và tăng trưởng kinh tế; cũng như kết quả các hồi quy

của tư nhân hoá và bất bình đẳng thu nhập.

3.1 Kết quả nghiên cứu thực nghiệm

Bài nghiên cứu vận dụng kỹ thuật ước lượng bình phương bé nhất (OLS) kết hợp

với các biến hồi quy tương tác để kiểm tra tác động của tư nhân hóa đối với tăng

trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập. Sau khi kiểm định mô hình bằng phương

pháp OLS, bài nghiên cứu sẽ tiến hành kiểm định tính thích hợp của mô hình để đánh

giá độ tin cậy của kết quả kiểm định.

Kết quả kiểm định cho thấy các mô hình hồi quy là phù hợp và thoả mãn các giả

thuyết của phương pháp OLS (Xem Phụ lục 4).

3.1.1 Các hồi quy của Tư nhân hóa và Tăng trưởng kinh tế

Các kết quả hồi quy ban đầu của biến tư nhân hóa và biến tăng trưởng kinh tế

được trình bày ở Bảng 3.1. Kết quả cho thấy biến tư nhân hóa có tương quan âm nhưng

không có ý nghĩa thống kê với tăng trưởng kinh tế (Mô hình 1). Phát hiện này khác với

hầu hết các kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Trong khi Plane (1997)

và Barnett (2000) tìm thấy mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê giữa tư nhân

hóa và tăng trưởng kinh tế, thì Cook và Uchida (2003) lại báo cáo kết quả là tác động

âm và có ý nghĩa thống kê về mối quan hệ giữa tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế.

Cột 2 trình bày kết quả hồi quy sau khi tác giả thực hiện đưa các biến định tính

đại diện cho các nhóm vùng miền khác nhau vào mô hình, nhằm kiểm tra xem tác động

âm (không có ý nghĩa thống kê) của tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế có phải bắt

nguồn từ việc bỏ sót các nhân tố vùng miền này hay không. Cuối cùng, kết quả cho

Trang 43

thấy rằng dấu của biến tư nhân hóa vẫn không đổi (dấu âm), điều này chứng tỏ tác

động âm của tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế không bắt nguồn từ các đặc điểm

khác biệt của các nhóm vùng miền. Mô hình 2 cũng cho thấy hầu hết tất cả các biến

định tính vùng miền (ssa, la, as) đều có tương quan âm đối với tăng trưởng kinh tế,

trong đó hệ số của biến đại diện cho nhóm vùng miền Latin America (la) là có ý nghĩa

thống kê ở mức 10%.

Bảng 3.1: Kết quả hồi quy giữa biến tƣ nhân hóa và tăng trƣởng kinh tế -

Trƣờng hợp đƣa vào các biến kiểm soát nhóm vùng miền (sa, la và as)

Biến phụ thuộc: argdp

pr

lirgdp

linf

pop

sec

fdi

open

gov

llock

ssa

Mô hình 1 -0.012 (-0.23) -3.156*** (-2.72) -0.629 (-1.21) 1.024** (2.14) 0.006 (0.39) 0.251** (2.15) -0.01 (-1.07) 0.647* (1.76) -1.367* (-1.95)

la

as

pr*ssa

Mô hình 2 -0.011 (-0.23) -2.571** (-2.13) -0.322 (-0.6) 1.05** (2.12) 0.001 (0.08) 0.301** (2.49) -0.013 (-1.4) 0.675* (1.84) -1.27* (-1.82) -1.058 (-1.05) -1.617* (-1.75) -0.277 (-0.27)

pr*la

pr*as

Constant

F-test

12.768*** (3.21) 2.69

11.686*** (2.64) 2.43

Mô hình 3 -0.129 (-0.92) -2.237* (-1.8) -0.419 (-0.77) 1.202** (2.37) -0.001 (-0.06) 0.314** (2.57) -0.014 (-1.48) 0.652* (1.76) -1.472** (-2.06) -1.787 (-1.42) -2.09* (-1.76) 0.003 (-0.05) 0.186 (1.15) 0.115 (0.71) -0.151 (0.608) 11.057** (2.39) 2.09

Trang 44

N R2 R2 adjusted

75 0.2712 0.1702

75 0.3201 0.1885

75 0.3468 0.1807

Chú ý: (i) Thống kê t-statistics ở trong ngoặc; (ii) * ý nghĩa ở mức 10%, ** ý nghĩa ở mức 5%, và *** ý nghĩa ở

mức 1%.

Các biến tương tác (pr*ssa, pr*la, pr*as) giữa tư nhân hóa với các biến định tính

kiểm soát nhóm vùng miền cho thấy có mối tương quan dương với tăng trưởng kinh tế

ở các vùng Sub-Saharan Africa và Latin America, nhưng có tương quan âm với tăng

trưởng ở vùng Asia (Mô hình 3). Tuy nhiên tất cả hệ số hồi quy trong các trường hợp

này đều không có ý nghĩa thống kê. Bên cạnh đó, biến tư nhân hóa (pr) kiểm soát tác

động của tư nhân hóa đối với nhóm tham chiếu (các quốc gia thuộc vùng MENA) cũng

thể hiện mối tương quan âm và không có ý nghĩa thống kê với tăng trưởng kinh tế.

Từ các kết quả ở trên có thể rút ra được hai kết luận chính như sau: Thứ nhất,

không có sự khác biệt về tác động của tư nhân hóa giữa các quốc gia thuộc vùng Sub-

Saharan Africa, Latin America và vùng MENA, cũng như giữa các quốc gia thuộc

vùng Asia và MENA. Thứ hai, chính sách tư nhân hóa không có tác động một cách có

ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn

nghiên cứu 1991 – 2008.

Biến GDP bình quân đầu người ban đầu (lirgdp) cho thấy mối tương quan dương

và có ý nghĩa thống kê đối với tăng trưởng ở tất cả các phương trình hồi quy (Mô hình

1, 2 và 3), điều này hỗ trợ giả thuyết cho rằng các quốc gia có mức độ phát triển ban

đầu thấp thường có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và theo thời gian sẽ đuổi kịp các

quốc gia có mức độ phát triển ban đầu cao hơn (Datta và Agarwal, 2004; Barro, 1991).

Biến nguồn vốn nhân lực (sec) có mối tương quan dương với tăng trưởng kinh tế (Mô

hình 1 và 2), nhưng khi đưa các biến tương tác giữa tư nhân hóa và các nhóm vùng

miền vào mô hình thì hệ số của biến nguồn vốn nhân lực trở thành âm (Mô hình 3).

Trang 45

Biến lạm phát (linf) thể hiện mối tương quan âm và không có ý nghĩa thống kê với tăng

trưởng kinh tế ở cả ba phương trình hồi quy.

Tỷ lệ tăng trưởng dân số (pop) cho thấy mối tương quan dương và có ý nghĩa

thống kê ở mức 5% đối với tăng trưởng ở tất cả các phương trình hồi quy (Mô hình 1, 2

và 3). Kết quả này hàm ý rằng tỷ lệ tăng trưởng dân số đã đóng góp vào tốc độ tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1991 – 2008. Bên cạnh

đó, biến đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi) cũng thể hiện mối tương quan dương và có ý

nghĩa thống kê đối với tăng trưởng kinh tế (hệ số của biến fdi đều đạt mức ý nghĩa 5%

ở cả 3 phương trình). Điều này chứng tỏ đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một trong

những nhân tố chính đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển

trong giai đoạn 1991 – 2008.

Độ mở thương mại của nền kinh tế có tương quan âm, nhưng không có ý nghĩa

thống kê đối với tăng trưởng kinh tế ở cả 3 phương trình hồi quy. Như vậy có thể kết

luận mức độ mở cửa của nền kinh tế không có tác động một cách có ý nghĩa đối với

tăng trưởng ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn nghiên cứu.

Biến định tính kiểm soát vị trí địa lý các quốc gia không tiếp giáp biển (llock) thể

hiện mối tương quan âm và có ý nghĩa thống kê 10% đối với tăng trưởng kinh tế khi

chưa đưa vào các biến kiểm soát nhóm vùng miền (Mô hình 1). Điều này đồng nghĩa

rằng các quốc gia với vị trí địa lý không tiếp giáp biển và bị đóng kín trong lục địa có

tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thấp hơn (khoảng 1.37%) so với các quốc gia tiếp giáp biển.

Khi đưa các biến kiểm soát nhóm vùng miền vào mô hình, cũng như các biến tương tác

giữa tư nhân hóa và các nhóm vùng miền, thì vẫn duy trì mối tương quan âm và có ý

nghĩa thống kê giữa biến định tính llock với tăng trưởng kinh tế (với mức ý nghĩa

thống kê lần lượt là 10% và 5%) (Mô hình 2 và 3). Điều này cho thấy rằng tác động âm

và có ý nghĩa của biến định tính kiểm soát vị trí địa lý (llock) thực sự không nhạy cảm

đối với các nhóm vùng miền khác nhau. Bên cạnh đó, các kết quả của bài nghiên cứu

Trang 46

cũng cho thấy rằng sau khi thực hiện kiểm soát các yếu tố về mặt thể chế (gov) thì mối

tương quan âm và có ý nghĩa thống kê giữa biến định tính kiểm soát vị trí địa lý và

biến tăng trưởng kinh tế vẫn được duy trì. Phát hiện này trái ngược với các kết quả

nghiên cứu của Rodrik và cộng sự (2004), Easterly và Levine (2002), các tác giả này

đã kết luận biến vị trí địa lý không có tác động đến tăng trưởng kinh tế sau khi thực

hiện kiểm soát các nhân tố về thể chế quốc gia. Tuy nhiên, kết quả trên của bài nghiên

cứu lại tương đồng với quan điểm của các tác giả Bosker và Garretsen (2006), Redding

và Venables (2004) khi cho rằng vị trí địa lý có tương quan âm và có ý nghĩa thống kê

đối với tăng trưởng kinh tế.

Biến chất lượng thể chế (gov) thể hiện mối tương quan dương và có ý nghĩa

thống kê ở mức (10%) đối với tăng trưởng kinh tế ở cả 3 phương trình hồi quy (Mô

hình 1, 2 và 3). Để kiểm tra về tính nhất quán trong mối quan hệ giữa biến chất lượng

thể chế nhà nước và tăng trưởng kinh tế, bài nghiên cứu vận dụng các chỉ số thành

phần của Kaumann và cộng sự (2010), các kết quả hồi quy được trình bày ở Bảng 3.2.

Các kết quả cho thấy 3 chỉ số thành phần sau: tính hiệu quả của chính phủ (goveff)

(Mô hình 6), các quy định về Luật pháp (rule) (Mô hình 8) và kiểm soát tham nhũng

(corr) (Mô hình 9) có mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 5% đối với

tăng trưởng kinh tế.

Bảng 3.2: Kết quả hồi quy giữa biến tƣ nhân hóa và tăng trƣởng kinh tế -

Trƣờng hợp đƣa vào các chỉ số thành phần đánh giá chất lƣợng thể chế

Biến phụ thuộc: argdp

pr

lirgdp

linf

pop

Mô hình 4 Mô hình 5 Mô hình 6 -0.003 (-0.06) -2.683** (-2.37) -0.75 (-1.46) 0.972** (2.01) 0.006

-0.019 (-0.37) -3.189*** (-2.83) -0.398 (-0.75) 1.054** (2.25) 0.004

0.009 (0.18) -2.5** (-2.13) -0.952* (-1.9) 0.731 (1.5) 0.007

Mô hình7 0.004 (0.01) -2.736** (-2.28) -0.897* (-1.7) 0.792* (1.67) 0.007

Mô hình8 -0.019 (-0.38) -3.436** (-2.92) -0.433 (-0.8) 1.13** (2.33) 0.008

Mô hình9 0.002 (0.05) -3.346** (2.92) -0.616 (-1.23) 1.092** (2.31) 0.007

sec

Trang 47

fdi

open

llock

(0.38) 0.263** (2.22) -0.012 (-1.22) -1.422** (-1.99)

(0.28) 0.236** (2.04) -0.008 (-0.92) -1.27* (-1.84)

(0.45) 0.255** (2.11) -0.008 (-0.88) -1.319* (-1.83)

(0.54) 0.265** (2.28) -0.011 (-1.13) -1.395** (-2.01)

(0.49) 0.236** (2.04) -0.008 (-0.88) -1.306* (-1.89)

voice

(0.48) 0.257** (2.14) -0.008 (-0.81) -1.295* (-1.79) -0.215 (-0.51)

polst

0.559 (1.51)

goveff

1.477** (2.43)

reg

0.188 (0.34)

rule

1.398** (2.17)

corr

Constant

13.731*** (3.41) 2.84 75 0.285 0.1845

1.489** (2.41) 13.583*** (3.43) 2.99 75 0.2963 0.1973

F-test N R2 R2 adjusted

10.978*** (2.67) 2.19 75 0.2358 0.1283

11.603*** (2.93) 2.48 75 0.2589 0.1546

13.033*** (3.34) 3.01 75 0.2973 0.1984

11.802*** (2.83) 2.17 75 0.234 0.1262

Chú ý: (i) Thống kê t-statistics ở trong ngoặc; (ii) * ý nghĩa ở mức 10%, ** ý nghĩa ở mức 5%, và *** ý nghĩa ở

mức 1%.

Kết quả hồi quy với các biến tương tác giữa tư nhân hóa với các biến fdi, open và

gov được trình bày ở Bảng 3.3.

Bảng 3.3: Kết quả hồi quy giữa biến tƣ nhân hóa và tăng trƣởng kinh tế -

Trƣờng hợp đƣa vào các biến tƣơng tác pr*fdi, pr*open và pr*gov

Biến phụ thuộc: argdp

Mô hình10 Mô hình11

Mô hình14 Mô hình15

pr

lirgdp

linf

pop

sec

0.123 (1.23) -3.326*** (-2.89) -0.716 (-1.38) 0.78* (1.56) 0.005 (0.35) 0.367***

-0.056 (-0.45) -3.068** (-2.58) -0.545 (-0.96) 1.049** (2.16) 0.006 (0.38) 0.259**

Mô hình12 -0.031 (0.57) -3.299*** (-2.83) -0.623 (-1.21) 1.001** (2.09) 0.004 (0.25) 0.253**

Mô hình13 -0.079 (-0.62) -3.207*** (-2.69) -0.533 (-0.94) 1.027** (2.11) 0.004 (0.24) 0.261**

0.097 (0.93) -3.431*** (-2.96) -0.704 (-1.36) 0.779 (1.56) 0.003 (0.24) 0.360**

-3.355*** (-2.91) -0.611 (-1.21) 0.888* (1.83) 0.003 (0.21) 0.301**

fdi

Trang 48

open

gov

llock

(2.17) -0.013 (-1.06) 0.642* (1.74) -1.392** (-1.96)

(2.17) -0.012 (-1.22) 0.519 (1.35) -1.366* (-1.95)

(2.21) -0.015 (-1.21) 0.513 (1.32) -1.393** (-1.97)

pr*fdi

(2.67) -0.009 (-1.01) 0.612* (1.68) -1.118** (-1.57) -0.047 (-1.56)

(2.61) -0.011 (-1.14) 0.509 (1.33) -1.136** (-1.59) -0.044 (-1.42)

(2.46) -0.012 (-1.28) 0.532 (1.39) -1.269** (-1.82) -0.019 (-1.23)

pr*open

0.001 (0.39)

pr*gov

Constant

13.476*** (3.41) 2.71 75 0.2978 0.1881

12.524*** (3.09) 2.41 75 0.2729 0.1593

0.103 (1.08) 13.488*** (3.35) 2.54 75 0.2842 0.1723

0.001 (0.42) 0.104 (1.08) 13.234*** (3.23) 2.31 75 0.2861 0.1615

0.085 (0.89) 14.016*** (3.51) 2.53 75 0.3065 0.1854

0.110 (1.21) 13.859*** (3.46) 2.70 75 0.2970 0.1872

F-test N R2 R2 adjusted

Chú ý: (i) Thống kê t-statistics ở trong ngoặc; (ii) * ý nghĩa ở mức 10%, ** ý nghĩa ở mức 5%, và *** ý nghĩa ở

mức 1%.

Việc đưa các biến pr*fdi, pr*open và pr*gov (tương ứng là sự tương tác giữa

biến tư nhân hóa với các biến đầu tư trực tiếp nước ngoài, độ mở thương mại và chất

lượng thể chế nhà nước) vào mô hình không tạo ra những sự thay đổi đáng kể nào

trong các kết quả hồi quy. Tuy nhiên, một số các kết quả nổi bật cần được quan tâm và

phân tích. Thứ nhất, kết quả về mối tương quan với tăng trưởng kinh tế của các biến

như: mức độ phát triển ban đầu (lirgdp), tỷ lệ tăng trưởng dân số (pop), đầu tư trực tiếp

nước ngoài (fdi), vị trí địa lý (llock) và chất lượng thể chế nhà nước (gov) dường như

không thay đổi so với các mô hình đã phân tích ở Bảng 3.1 và 3.2 và có ý nghĩa thống

kê ở hầu hết các phương trình hồi quy (Bảng 3.3). Thứ hai, việc đưa các biến tương tác

trên vào mô hình dường như không ảnh hưởng nhiều đến mức độ phù hợp của mô hình (Hệ số R2 dao động từ 0.2729 đến 0.3065). Thứ ba, các biến tương tác pr*gov và

pr*open có mối tương quan dương với tăng trưởng kinh tế, trong khi biến pr*fdi lại có

tương quan âm với tăng trưởng. Tuy nhiên trong hầu hết các trường hợp thì các hệ số

này đều không có ý nghĩa thống kê. Bên cạnh đó, khi đưa hai biến tương tác pr*fdi và

Trang 49

pr*gov đồng thời vào cùng mô hình, hệ số của biến tư nhân hóa (pr) thay đổi từ dấu âm

(không có ý nghĩa thống kê) sang dấu dương (không có ý nghĩa thống kê) và bản thân

các biến tương tác này cũng không thể hiện mối tương quan có ý nghĩa thống kê đối

với tăng trưởng kinh tế (Mô hình 13 và 14).

Bên cạnh đó, các biến tương tác pr*fdi và pr*open không được đưa vào đồng thời

trong cùng một phương trình hồi quy bởi vì hai biến này có mối tương quan với nhau

cao (hệ số tương quan ở mức 0.759).

Bảng 3.4: Ma trận tƣơng quan giữa các biến pr, pr*fdi, pr*open và pr*gov

pri

pri*fdi pri*open pri*gov

pri

1

pri*fdi

0.7789

1

pri*open

0.8235

0.7593

1

pri*gov

0.3733

0.2633

0.3929

1

Ma trận tương quan cũng cho thấy mối tương quan cao giữa biến tư nhân hóa (pr)

với các biến tương tác pr*open (hệ số tương quan 0.824) và biến pr*fdi (hệ số tương

quan 0.779), do vậy ở Mô hình 15 kết quả được trình bày với các biến tương tác này

được đưa vào mô hình (đồng thời không đưa biến tư nhân hóa pr vào mô hình) nhằm

kiểm soát mối tương quan cao giữa các biến tương tác trên với biến tư nhân hóa. Kết

quả cuối cùng cho thấy cả hai biến tương tác trên (pr*open và pr*fdi) đều không có

tương quan một cách có ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế.

3.1.2 Các hồi quy của Tư nhân hóa và Bất bình đẳng thu nhập

Bảng 3.5 trình bày các kết quả hồi quy về mối quan hệ giữa tư nhân hóa và bất

bình đẳng thu nhập. Trước khi tiến hành phân tích các kết quả, như đã trình bày ở

Chương 3, tác giả sẽ thực hiện kiểm tra giả thuyết về mối quan hệ phi tuyến giữa bất

Trang 50

bình đẳng thu nhập và mức độ phát triển ban đầu. Điều này là cần thiết nhằm kiểm tra

xem có nên đưa biến lirgdpsq (biến này được tạo thành bằng cách bình phương biến

lirgdp) vào mô hình hay không. Do đó, việc kiểm tra này giúp giảm độ chệch hoặc các

sai sót từ việc định dạng sai mô hình. Kết quả cho thấy biến mức độ phát triển ban đầu

(lirgdp) có mối tương quan âm và biến lirgdpsq có mối tương quan dương với biến bất

bình đẳng thu nhập (ineq10), nhưng cả hai trường hợp đều không có ý nghĩa thống kê

(Mô hình 16). Kết quả này cho thấy rằng, không tồn tại bằng chứng về mối quan hệ

đường cong phi tuyến Kuznets (Xem Chương 3) về mối quan hệ giữa mức độ phát

triển ban đầu và bất bình đẳng thu nhập. Có thể thấy rằng, khi đưa đồng thời cả hai

biến lirgdp và lirgdpsq vào mô hình thì cả hai biến đều thể hiện mối tương quan không

có ý nghĩa thống kê đối với biến bất bình đẳng thu nhập, tuy nhiên, khi loại biến

lirgdpsq ra khỏi mô hình thì hệ số của biến lirgdp có tương quan dương và đạt mức ý

nghĩa thống kê 1% với biến bất bình đẳng thu nhập (Mô hình 17). Do vậy, trong các

mô hình hồi quy tiếp theo, biến lirgdpsq sẽ không được đưa vào trong các phân tích hồi

quy tiếp theo nhằm kiểm soát sự ảnh hưởng của biến này đến giá trị nội tại của các kết

quả nghiên cứu (Stock và Watson, 2003).

Bảng 3.5: Kết quả hồi quy giữa biến tƣ nhân hóa và bất bình đẳng thu nhập -

Trƣờng hợp đƣa vào các biến kiểm soát nhóm vùng miền (sa, la và as)

pr

lirgdp

lirgdpsq

Biến phụ thuộc: ineq10 Mô hình17 0.655 (1.37) 39.585*** (3.09)

Mô hình18 0.596 (1.31) 31.302** (2.19)

Mô hình19 -0.251 (-0.21) 29.378* (2.01)

linf

pop

sec

fdi

Mô hình16 0.672 (1.42) -196.050 (-1.13) 35.454 (1.37) 0.765 (0.13) 8.361 (1.57) -0.017 (-0.11) 5.361*** (3.77)

1.828 (0.32) 7.431 (1.41) -0.035 (-0.24) 5.171*** (3.63)

-1.452 (-0.26) 6.424 (1.18) 0.128 (0.82) 4.492*** (3.21)

-1.966 (-0.34) 6.292 (1.14) 0.103 (0.66) 4.591*** (3.31)

Trang 51

open

gov

llock

ssa

-0.101 (-0.93) -7.675* (-1.94) 9.801 (1.44)

-0.131 (-1.21) -6.015* (-1.59) 11.616* (1.73)

la

as

pr*ssa

-0.057 (-0.55) -6.502* (-1.84) 8.751* (1.38) 22.603** (2.20) 20.128** (2.23) 4.889 (0.51)

pr*la

pr*as

Constant

-0.028 (-0.26) -5.634* (-1.59) 10.155* (1.61) 20.647* (1.54) 10.694 (0.89) -2.228 (-0.16) 0.006 (0.05) 1.803 (1.24) 1.477 (0.56) -111.477* (-1.96) 3.62 60 0.5523 0.3996

-122.637** (-2.22) 4.11 60 0.512 0.3874

254.193 (0.89) 3.57 60 0.4218 0.3037

F-test N R2 R2 adjusted

-129.831*** (-2.88) 3.70 60 0.3997 0.2917 Chú ý: (i) Thống kê t-statistics ở trong ngoặc; (ii) * ý nghĩa ở mức 10%, ** ý nghĩa ở mức 5%, và *** ý nghĩa ở

mức 1%.

Biến tư nhân hóa (pr) thể hiện mối tương quan dương nhưng không có ý nghĩa

thống kê với biến bất bình đẳng thu nhập (Mô hình 17). Việc kiểm soát các nhóm vùng

miền khác nhau dường như không ảnh hưởng đến kết quả của biến tư nhân hóa đối với

bất bình đẳng thu nhập (Mô hình 18), do vậy có thể kết luận mối tương quan dương

giữa biến tư nhân hóa và bất bình đẳng thu nhập không chịu sự ảnh hưởng bởi các khác

biệt về vùng miền trong mẫu nghiên cứu. Các biến định tính đại diện cho vùng Sub-

Saharan Africa và vùng Latin America cho thấy mối tương quan dương và đều có ý

nghĩa thống kê ở mức 5% với bất bình đẳng thu nhập, nhưng biến định tính đại diện

cho các quốc gia đang phát triển thuộc vùng Asia thể hiện tương quan dương và không

có ý nghĩa thống kê đối với bất bình đẳng thu nhập (Mô hình 18).

Bên cạnh đó, để kiểm tra xem có sự khác biệt về tác động của tư nhân hóa ở các

vùng miền khác nhau của các quốc gia đang phát triển hay không, các biến tương tác

Trang 52

giữa biến tư nhân hóa với các biến định tính đại diện cho vùng miền cũng được đưa

vào mô hình phân tích. Kết quả cho thấy mối tương quan dương của cả ba biến tương

tác (pr*ssa, pr*la và pr*as) đối với bất bình đẳng thu nhập, nhưng các hệ số này đều

không có ý nghĩa thống kê. Do vậy có thể kết luận rằng, không tìm thấy sự khác biệt

thực sự có ý nghĩa về tác động của tư nhân hóa ở các vùng miền khác nhau và quan

trọng nhất là biến tư nhân hóa không có tác động một cách có ý nghĩa đối với bất bình

đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn nghiên cứu 1991 – 2008.

Biến đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi) thể hiện mối tương quan dương và có ý

nghĩa thống kê ở mức 1% đối với biến bất bình đẳng thu nhập (ineq10). Điều này đồng

nghĩa rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm gia tăng các vấn đề bất bình đẳng

thu nhập ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1991 – 2008, những người giàu

nhất trong cơ cấu dân số ngày càng giàu hơn và ngược lại những người nghèo nhất sẽ

ngày càng nghèo hơn. Kết quả này của bài nghiên cứu tương tự với các kết quả nghiên

cứu của Reuveny và Li (2003) và Beer (1999) khi cho rằng, sự thâm nhập của nguồn

vốn nước ngoài tạo ra các tác động tiêu cực đối với sự phân phối thu nhập ở các quốc

gia đang phát triển.

Biến lạm phát (linf) có tương quan dương với bất bình đẳng thu nhập (Mô hình

17) nhưng khi đưa các biến kiểm soát nhóm vùng miền khác nhau vào mô hình thì hệ

số của biến lạm phát thay đổi thành dấu âm, tuy nhiên trong tất cả các trường hợp thì

hệ số của biến lạm phát đều không có ý nghĩa thống kê.

Biến độ mở thương mại của nền kinh tế cho thấy có tương quan âm nhưng không

có ý nghĩa thống kê đối với biến bất bình đẳng thu nhập ở hầu hết các phương trình hồi

quy (ngay cả khi đưa các biến kiểm soát vùng miền vào mô hình).

Trang 53

Biến định tính kiểm soát vị trí địa lý của quốc gia (llock) thể hiện mối tương quan

dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 10% đối với biến bất bình đẳng thu nhập (ngay cả

khi đưa các biến kiểm soát vùng miền vào mô hình) (Mô hình 17, 18 và 19).

Biến chất lượng thể chế nhà nước (gov) cho thấy mối tương quan âm và có ý

nghĩa thống kê ở mức 10% trong hầu hết các phương trình hồi quy (ngay cả khi đưa

vào các biến kiểm soát vùng miền vào mô hình) (Mô hình 17, 18 và 19). Tác động của

các chỉ số thành phần đối với biến bất bình đẳng thu nhập được trình bày ở Bảng 3.6.

Bảng 3.6: Kết quả hồi quy giữa biến tƣ nhân hóa và bất bình đẳng thu nhập -

Trƣờng hợp đƣa vào các chỉ số thành phần đánh giá chất lƣợng thể chế

Biến phụ thuộc: ineq10

pr

lirgdp

linf

pop

sec

fdi

open

llock

Mô hình20 Mô hình21 Mô hình22 Mô hình23 Mô hình24 0.662 (1.43) 38.349*** (3.14) -0.626 (-0.11) 6.254 (1.21) -0.005 (-0.03) 5.288*** (3.82) -0.137 (-1.31) 9.698* (1.47)

0.603 (1.26) 35.162*** (2.80) 3.392 (0.61) 7.667 (1.43) -0.042 (-0.28) 5.212*** (3.59) -0.112 (-1.01) 12.370* (1.82)

0.727 (1.54) 39.787*** (3.20) -0.216 (-0.04) 5.140 (0.95) -0.032 (-0.22) 4.839*** (3.51) -0.122 (-1.15) 11.716* (1.78)

0.635 (1.26) 37.215*** (2.78) 2.893 (0.49) 9.094* (1.69) -0.047 (-0.31) 5.022*** (3.41) -0.149 (-1.35) 11.501* (1.67)

voice

Mô hình25 0.533 (1.12) 38.606*** (3.03) 2.477 (0.43) 7.166 (1.34) -0.050 (-0.34) 5.052*** (3.56) -0.141 (-1.31) 11.296* (1.67)

0.546 (1.12) 33.858** (2.51) 3.597 (0.62) 8.760 (1.63) -0.053 (-0.35) 4.827*** (3.34) -0.147 (-1.33) 11.691* (1.68) 0.883 (0.21)

polst

-5.301 (-1.29)

goveff

-14.857** (-2.37)

reg

-3.280 (-0.59)

rule

-13.750** (-2.16)

corr

Constant

-111.024** (-2.29)

-119.479*** (-2.68)

-125.775** (-2.92)

-123.668** (-2.60)

-129.194*** (-2.95)

-9.385 (-1.52) -127.754*** (-2.84)

Trang 54

3.26 60 0.37 0.2566

3.55 60 0.3899 0.2801

4.25 60 0.4333 0.3313

3.32 60 0.3739 0.2612

4.08 60 0.4233 0.3194

3.66 60 0.3975 0.289

F-test N R2 R2 adjusted

Chú ý: (i) Thống kê t-statistics ở trong ngoặc; (ii) * ý nghĩa ở mức 10%, ** ý nghĩa ở mức 5%, và *** ý nghĩa ở

mức 1%.

Kết quả cho thấy các biến như: biến đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi), biến mức

độ phát triển ban đầu (lirgdp) và biến định tính kiểm soát vị trí địa lý (llock) không

thay đổi về mối tương quan đối với biến bất bình đẳng thu nhập so với các phân tích ở

trước, ngoài ra các kết quả hồi quy cũng cho thấy các hệ số của các biến này đều có ý

nghĩa thống kê (biến fdi và biến lirgdp có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, biến llock có ý

nghĩa thống kê ở mức 10%). Tất cả các chỉ số thành phần đo lường về chất lượng thể

chế nhà nước đều thể hiện mối tương quan âm đối với biến bất bình đẳng thu nhập,

trong đó riêng chỉ số về tính hiệu quả của chính phủ (goveff) và chỉ số đánh giá các

quy định về Luật pháp (rule) là có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Mức độ phù hợp của mô hình (Hệ số R2 điều chỉnh) cũng gia tăng khi đưa các chỉ số thành phần vào mô

hình, dao động từ 0.256 (khi đưa vào mô hình biến voice) đến 0.331 (khi đưa vào mô

hình biến goveff).

Các biến tương tác (pr*fdi, pr*open và pr*gov) tương ứng là sản phẩm tương tác

giữa biến tư nhân hóa với các biến đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi), biến độ mở thương

mại (open) và biến chất lượng về quản trị nhà nước (gov) cũng được đưa vào các phân

tích hồi quy đối với biến bất bình đẳng thu nhập, các kết quả được trình bày ở Bảng

3.7.

Trang 55

Bảng 3.7: Kết quả hồi quy giữa biến tƣ nhân hóa và bất bình đẳng thu nhập -

Trƣờng hợp đƣa vào các biến tƣơng tác pr*fdi, pr*open và pr*gov

Biến phụ thuộc: ineq10

pr

lirgdp

linf

pop

sec

fdi

open

gov

Mô hình26 -2.405 (-2.43) 37.635*** (3.23) 1.948 (0.37) 12.019** (2.41) 0.058 (0.43) 0.672 (0.37) -0.165* (-1.67) -4.2 (-1.21) 6.306

llock

Mô hình27 0.190 (0.15) 39.744*** (3.07) 2.945 (0.45) 7.509 (1.40) -0.031 (-0.21) 5.186*** (3.60) -0.171 (-1.13) -5.975 (-1.56) 11.406* (1.68)

Mô hình28 0.566 (1.09) 39.294*** (3.04) 2.033 (0.35) 7.435 (1.39) -0.047 (-0.31) 5.191*** (3.61) -0.136 (-1.24) -6.625* (-1.64) 11.567* (1.71)

Mô hình29 -0.002 (0.01) 39.442*** (3.02) 3.397 (0.51) 7.530 (1.39) -0.043 (-0.28) 5.212*** (3.59) -0.185 (-1.19) -6.662 (-1.64) 11.309* (1.65)

pr*fdi

1.105*** (3.44)

Mô hình30 -2.570 (-2.52) 37.198*** (3.18) 2.239 (0.43) 12.085 (2.4) 0.043 (0.31) 0.643 (0.35) -0.172* (-1.73) -5.035 (-1.37) 6.169 (0.98) 1.120*** (3.46)

pr*open

0.008 (0.38)

pr*gov

Constant

-121.353*** (-2.96) 5.23 60 0.5163 0.4176

-129.449*** (-2.84) 3.29 60 0.4015 0.2794

0.443 (0.47) -128.079*** (-2.81) 3.31 60 0.4024 0.2804

0.010 (0.45) 0.504 (0.52) -127.381*** (-2.77) 2.97 60 0.4049 0.2685

0.623 (0.73) -118.776*** (-2.87) 4.76 60 0.5216 0.412

F-test N R2 R2 adjusted

Chú ý: (i) Thống kê t-statistics ở trong ngoặc; (ii) * ý nghĩa ở mức 10%, ** ý nghĩa ở mức 5%, và *** ý nghĩa ở

mức 1%.

Các kết quả cho thấy rằng, biến tương tác giữa tư nhân hóa và biến đầu tư trực

tiếp nước ngoài (pr*fdi) thể hiện mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê ở mức

1% đối với bất bình đẳng thu nhập (ngay cả khi đưa thêm vào mô hình biến tương tác

pr*gov) (Mô hình 26 và 30). Ngược lại các biến tương tác giữa tư nhân hóa với độ mở

thương mại và chất lượng thể chế (pr*open và pr*gov) đều thể hiện mối tương quan

dương nhưng lại không có ý nghĩa thống kê đối với bất bình đẳng thu nhập (Mô hình

Trang 56

27 và 28). Mô hình 29 cho thấy, đưa đồng thời các biến tương tác pr*open và pr*gov

vào mô hình dường như các kết quả không thay đổi đáng kể và hệ số của cả hai biến

tương tác này đều không có ý nghĩa thống kê đối với biến bất bình đẳng thu nhập, bên cạnh đó mức độ phù hợp của mô hình (hệ số R2 điều chỉnh) cũng giảm từ mức 0.417

xuống còn 0.0.268 (Mô hình 28 và 29). Riêng hai biến tương tác pr*open và pr*fdi tác

giả không đưa vào đồng thời trong mô hình bởi vì hệ số tương quan giữa hai biến này

khá cao (với hệ số tương quan 0.759).

3.2 Tóm tắt các kết quả nghiên cứu

Những phát hiện chính của bài nghiên cứu có thể tóm lược như sau:

 Tư nhân hóa có tương quan âm nhưng không có ý nghĩa thống kê đối với tăng

trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn nghiên cứu.

 Tư nhân hóa có tương quan dương với bất bình đẳng thu nhập ở các vùng miền

được nghiên cứu, nhưng trong hầu hết các trường hợp thì các hệ số này đều không

có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy các quốc gia ở vùng Sub-

Saharan Africa và Latin America đã trải qua mức độ bất bình đẳng thu nhập cao

hơn so với các quốc gia thuộc vùng Asia và MENA trong giai đoạn nghiên cứu.

 Đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê

đối với cả biến tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập.

 Biến vị trí địa lý (kiểm soát các quốc gia không tiếp giáp biển) cho thấy mối tương

quan âm và có ý nghĩa thống kê đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng thể hiện mối

tương quan dương và có ý nghĩa thống kê đối với bất bình đẳng thu nhập.

 Chất lượng thể chế cho thấy mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê đối với

tăng trưởng kinh tế, nhưng tương quan âm và có ý nghĩa thống kê đối với bất bình

đẳng thu nhập.

Trang 57

Kết luận Chƣơng 3

Chương 3 đã trình bày các kết quả thực nghiệm của bài nghiên cứu, trong đó các

phát hiện đã cho thấy tư nhân hoá không có tác động một cách có ý nghĩa đối với cả

tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển trong giai

đoạn nghiên cứu. Phần tiếp theo tác giả sẽ tiến hành thảo luận các kết quả nghiên cứu

và đề xuất một số các gợi ý đối với chính sách tư nhân hoá, cũng như những hạn chế

còn tồn tại của bài nghiên cứu và các hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai.

Trang 58

CHƢƠNG 4: KẾT LUẬN

Trong Chương này tác giả sẽ tập trung thảo luận và phân tích các kết quả thực

nghiệm ở Chương 3. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất một số hàm ý về mặt chính

sách từ các phát hiện của nghiên cứu và các hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai

cần được thực hiện để khắc phục những hạn chế còn tồn tại của đề tài nghiên cứu.

4.1 Thảo luận các kết quả nghiên cứu

4.1.1Mối quan hệ giữa tư nhân hóa và tăng trưởng kinh tế

Các kết quả của nghiên cứu đã cho thấy rằng tư nhân hóa không có tác động một

cách có ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế (kể cả khi đưa các biến kiểm soát nhóm

vùng miền vào mô hình). Tuy nhiên, việc đưa các biến kiểm soát vùng miền vào mô

hình cũng cho thấy rằng biến định tính đại diện cho vùng Latin America (la) có tương

quan âm và có ý nghĩa thống kê đối với tăng trưởng kinh tế. Điều này đồng nghĩa rằng

các quốc gia thuộc vùng Latin America đã trải qua thời kỳ tăng trưởng kinh tế thấp hơn

so với các quốc gia thuộc vùng MENA trong giai đoạn 1991 – 2008. Kết quả cũng cho

thấy không có sự khác biệt thực sự có ý nghĩa giữa tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ở các vùng

Sub-Saharan Africa và Asia so với các quốc gia thuộc vùng MENA trong giai đoạn

nghiên cứu.

Các phát hiện của nghiên cứu ủng hộ Báo cáo về chủ đề “Economic Growth in

the 1990s” của World Bank (2005), kết quả của báo cáo này cũng chỉ ra rằng tăng

trưởng kinh tế trong những năm 1990 thấp hơn nhiều so với mức mong đợi. Do đó, kết

quả của nghiên cứu được xem như là minh chứng cho Báo cáo của World Bank (2005),

Báo cáo cũng cho thấy rằng mặc dù thực hiện cải cách chính sách, cải thiện các môi

trường về chính trị và ngoại giao, gia tăng viện trợ nước ngoài nhưng sau hơn một thập

kỷ thực hiện nhiều quốc gia vẫn không thể bắt kịp tốc độ tăng trưởng của chính họ

Trang 59

trong thời kỳ trước năm 1990. Chẳng hạn như, ở vùng Sub-Saharan Africa chỉ có một

số ít các quốc gia thành công khi thực hiện cải cách chính sách như: Uganda, Ghana,

Tanzania và Mozambique. Tuy nhiên, Báo cáo của World Bank (2005) cũng lưu ý rằng

các nền kinh tế ở các quốc gia này vẫn còn rất mong manh và chưa thật sự tăng trưởng

bền vững sau hơn một thập kỷ thực hiện cải cách chính sách. Ở khu vực Latin

America, Báo cáo cũng chỉ ra rằng mặc dù tích cực thực hiện các chính sách xóa bỏ cơ

chế nhà nước lãnh đạo và các chế độ chính sách mang tính bảo hộ, nhưng GDP bình

quân đầu người trong thời kỳ những năm 1990 vẫn thấp hơn so với giai đoạn 1960 –

1980. Đáng chú ý khi Báo cáo cho thấy rằng, Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ, là

những quốc gia có độ lệch cao trong các gói cải cách chính sách theo đánh giá của

World Bank (chẳng hạn như: chính sách tư nhân hóa và chính sách tự do hóa thương

mại) thì lại có tốc độ tăng trưởng đáng kể. Với mức độ bảo hộ thương mại cao, thiếu

vắng các chính sách về tư nhân hóa, thiếu sự kỷ luật về chính sách tài khóa và chính

sách tiền tệ nhưng Trung Quốc và Ấn Độ vẫn tăng trưởng dựa vào các lực thị trường

trong suốt thời kỳ những năm 1990. Báo cáo của World Bank (2005) đã ủng hộ cho kết

quả của bài nghiên cứu khi cho rằng, tư nhân hóa không có tác động một cách có ý

nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1991 –

2008.

Biến nguồn vốn nhân lực không có ý nghĩa thống kê ở hầu hết các mô hình phân

tích. Phát hiện này trái ngược với kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Makki và

Somarwu (2004). Tuy nhiên, kết quả của bài nghiên cứu tương tự với kết luận trong

nghiên cứu của Sylwester (2005), tác giả cũng đã tìm thấy mối tương quan dương và

không có ý nghĩa thống kê về mối quan hệ giữa nguồn vốn nhân lực và tăng trưởng

kinh tế. Ngược lại, trong nghiên cứu thực nghiệm ở một số các quốc gia đang phát triển

chọn lọc, Nyatepe-Coo (1998) đã cho thấy mối tương quan âm và có ý nghĩa thống kê

giữa nguồn vốn nhân lực và tăng trưởng kinh tế. Sự khác biệt trong các kết quả có thể

Trang 60

bắt nguồn từ sự không đồng thuận trong việc sử dụng dẫn xuất để đại diện cho biến

nguồn vốn nhân lực, chẳng hạn như: Nyatepe-Coo (1998) đã sử dụng tỷ lệ dân số trong

độ tuổi lao động đã nhập học cấp hai, trong khi đó Sylwester (2005) lại sử dụng số năm

đi học trung bình của người trưởng thành, còn ở bài nghiên cứu này tác giả vận dụng tỷ

lệ nhập học cấp hai (gross) để dẫn xuất cho biến nguồn vốn nhân lực.

Biến tỷ lệ lạm phát thể hiện mối tương quan âm nhưng không có ý nghĩa thống kê

ở hầu hết các mô hình phân tích. Do đó, nghiên cứu chưa tìm thấy bằng chứng thực

nghiệm chứng minh rằng lạm phát tạo ra các tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh

tế như kết quả nghiên cứu của Romer và Romer (1998). Tuy nhiên, phát hiện của bài

nghiên cứu tương tự với kết quả thực nghiệm của Easterly và Levine (2002), các tác

giả đã chỉ ra rằng khi thực hiện kiểm soát các yếu tố về thể chế trong mô hình phân

tích, lạm phát không có tác động một cách có ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế.

Mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê giữa biến đầu tư trực tiếp nước

ngoài và tăng trưởng kinh tế trong các mô hình phân tích (ngay cả khi đưa vào các biến

kiểm soát vùng miền) đã ủng hộ quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài góp

phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cơ chế tác động của đầu tư trực tiếp nước có thể mô

phỏng như sau: đầu tư trực tiếp nước ngoài làm gia tăng đầu tư trong nước, lực lượng

lao động, nâng cao các kỹ năng về quản lý và marketing, bên cạnh đó là sự chuyển

giao các công nghệ cao cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước và gia tăng nguồn

thu từ thuế cho ngân sách của chính phủ (Sylwester, 2005).

Mối tương quan âm và không có ý nghĩa thống kê giữa độ mở thương mại và tăng

trưởng kinh tế ở hầu hết các phân tích hồi quy cho thấy sự khác biệt với nhiều kết quả

nghiên cứu thực nghiệm khác, hầu hết các tác giả đều cho rằng sự hội nhập với nền

kinh tế thế giới góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia (Dollar và Kraay,

2002; Sarel, 1997). Tuy nhiên, kết quả của bài nghiên cứu lại tương đồng với các kết

luận của Zagha và cộng sự (2006); Easterly và Levine (2002), các tác giả đã kết luận

Trang 61

rằng các bằng chứng thực nghiệm về tác động của các chính sách vĩ mô và độ mở

thương mại đối với tăng trưởng kinh tế là khá yếu và chưa rõ ràng. Tương tự như vậy,

Zagha và cộng sự (2006) đã lập luận rằng tác động của chính sách cải cách thương mại

còn tùy thuộc vào các điều kiện riêng và cách thức thực hiện tiến trình tự do hóa

thương mại của mỗi quốc gia. Các tác giả đã nhận thấy rằng, một số các quốc gia gia

tăng xuất khẩu bằng cách giảm thuế nhập khẩu, trong khi một số quốc gia khác cũng

làm vậy nhưng bằng cách thành lập các khu chế xuất, hoặc thực hiện các chính sách ưu

đãi xuất khẩu như: giảm bớt gánh nặng về nghĩa vụ thuế xuất khẩu, thiết lập chính sách

tỷ giá hối đoái cạnh tranh hơn và cải thiện cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho các hoạt động

thương mại. Các tác giả cho rằng các chính sách cải cách thương mại có tác động thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo chỉ khi nào các ưu đãi về xuất khẩu được

cải thiện và kết quả ngược lại khi các ưu đãi về xuất khẩu bị suy giảm. Cuối cùng, các

tác giả đã kết luận rằng tự do hóa thương mại cũng chỉ là cơ hội và không có gì bảo

đảm rằng mở cửa hay giảm thuế sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Biến vị trí địa lý có tương quan âm và có ý nghĩa thống kê đối với tăng trưởng

kinh tế (ngay cả khi đưa vào các biến định tính kiểm soát nhóm vùng miền), điều này

đồng nghĩa rằng việc sở hữu vị trí địa lý nằm sâu trong lục địa và không tiếp giáp biển

có ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển. Trong báo

cáo kết quả nghiên cứu của mình, Bosker và Garretsen (2006) cho thấy rằng các biến

kiểm soát về vị trí địa lý (các quốc gia bị khép kín trong lục địa, không giáp biển) đóng

vai trò quan trọng việc giải thích sự chênh lệch về thu nhập giữa các quốc gia. Bên

cạnh đó, Báo cáo của UNCTAD (2008) về các quốc gia đang phát triển với vị trí địa lý

khép kín trong đất liền đã chỉ ra rằng, việc cách xa các thị trường chính của thế giới là

một trong những lý do cơ bản giải thích cho sự không thành công trong việc khắc phục

nhược điểm về vị trí địa lý của các quốc gia đang phát triển so với các quốc gia phát

triển khác ở châu Âu cũng có vị trí địa lý tương tự như vậy. Điều này là bởi vì các thị

Trang 62

trường phát triển thường nằm bao quanh vùng đất liền của các quốc gia phát triển

không tiếp giáp với biển ở châu Âu và các hoạt động thương mại liên quan đến đường

biển chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong các cân ngoại thương của họ. Bên cạnh đó, hoạt động

xuất khẩu của họ chủ yếu tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và khoảng

cách đến các cảng biển là tương đối ngắn. Ngoài ra, Báo cáo của UNCTAD (2008)

cũng cho thấy rằng, ngoài thuế quan, các khoản chi phí vận chuyển cao đối với các

quốc gia đang phát triển không giáp biển cũng là một trong những rào cản hạn chế các

hoạt động thương mại của các quốc gia này. Báo cáo của UNCTAD (2008) đã ước tính

trung bình các quốc gia đang phát triển có vị trí địa lý không giáp biển chi tiêu nhiều

gấp hai lần cho các khoản chi phí vận chuyển và dịch vụ bảo hiểm đối với hàng hóa

xuất khẩu so với mức trung bình chi tiêu của các quốc gia phát triển có vị trí tương tự.

Biến chất lượng thể chế thể hiện mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê

với tăng trưởng kinh t ở hầu hết các mô hình hồi quy. Phát hiện này nhất quán với kết

quả thực nghiệm của Kottaridi (2005) và Rodrik và cộng sự (2004), các tác giả đã chỉ

ra rằng chất lượng thể chế tốt đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế. Điều này là do chất lượng thể chế nhà nước tốt tạo điều kiện phát triển các tổ

chức hỗ trợ thị trường và thiết lập các quyền tài sản, và qua đó góp phần gia tăng tính

hiệu quả trong việc phân phối các nguồn lực (Soto, 1996; North, 1996). North (1996)

đã lập luận rằng chất lượng về thể chế không chỉ quan trọng trong việc thiết lập các thị

trường hiệu quả mà còn là nhân tố quan trọng nhất trong hoạt động của nền kinh tế.

Soto (1996) đã mô tả các thể chế với chất lượng tốt giống như là những mảnh ghép còn

thiếu cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển. Ông đã

kết luận rằng, sự khác biệt giữa các nước giàu và các nước nghèo là do các nước giàu

thường sở hữu các thể chế có chất lượng tốt hơn.

Nhằm kiểm tra sự nhất quán trong tác động của biến chất lượng thể chế đối với

tăng trưởng kinh tế, bài nghiên cứu đã đưa vào các chỉ số thành phần được xây dựng

Trang 63

bởi Kaumann và cộng sự (2010) nhằm cung cấp thêm các bằng chứng thực nghiệm

quan trọng về vai trò của: tính hiệu quả của chính phủ (goveff), các quy định về luật

pháp (rule) và việc kiểm soát tham nhũng (corr) trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế. Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy sự tương đồng với kết luận của Shirley (2003),

tác giả khẳng định tầm quan trọng của việc hạn chế bớt các quyền lực nhà nước, tăng

cường các hợp đồng pháp lý ràng buộc và việc bảo vệ các nhà đầu tư góp phần thúc

đẩy sự tăng trưởng ở các nền kinh tế.

Kết quả hồi quy với các biến tương tác (pr*fdi, pr*open và pr*gov) cho thấy rằng,

không có biến tương tác nào thể hiện tác động có ý nghĩa thống kê đối với tăng trưởng

kinh tế. Do đó, bài nghiên cứu chưa tìm thấy các bằng chứng thực nghiệm minh chứng

cho lập luận rằng tác động của tư nhân hóa đối với nền kinh tế phụ thuộc vào các nhân

tố khác như: đầu tư trực tiếp nước ngoài, độ mở thương mại của nền kinh tế và môi

trường thể chế của quốc gia. Tuy nhiên, kết quả này không nhất thiết đồng nghĩa rằng

môi trường thể chế hoặc độ mở thương mại của nền kinh tế là không quan trọng, mà

đúng hơn là các nhân tố này chưa đạt đến ngưỡng cần thiết (bổ sung cho quá trình thực

hiện tư nhân hóa) để tạo ra các tác động một cách có ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh

tế.

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tư nhân

hóa ở các quốc gia đang phát triển đã chỉ ra rằng, chính sách tư nhân hóa rất có thể là

sự khủng hoảng về mặt định hướng chính sách ở các quốc gia này hơn là sự lựa chọn

cân nhắc với các mục tiêu dài hạn rõ ràng hướng đến sự phát triển kinh tế (Banerjee và

Munger, 2004; Ramamurti, 2000). Do đó, hầu hết các quốc gia đang phát triển dường

như chưa thiết lập được một môi trường thể chế cần thiết cho sự thành công của chính

sách tư nhân hóa (Parker và Kirpatrick, 2005).

Trang 64

4.1.2 Mối quan hệ giữa tư nhân hóa và bất bình đẳng thu nhập

Các kết quả cho thấy rằng, tư nhân hóa không có tác động một cách có ý nghĩa

đối với bất bình đẳng thu nhập (ngay cả khi đưa vào mô hình các biến định tính kiểm

soát các nhóm vùng miền) ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn nghiên cứu.

Tuy nhiên, các kết quả cũng cho thấy dấu dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 5% đối

với hệ số của các biến đại diện cho vùng Sub-Saharan Africa (ssa) và vùng Latin

America (la), nhưng lại không có ý nghĩa thống kê đối với biến đại diện cho vùng Asia

(as). Kết quả này phản ánh các quốc gia đang phát triển thuộc các vùng Sub-Saharan

Africa và vùng Latin America có mức độ bất bình đẳng thu nhập cao hơn so với vùng

MENA, và không có sự khác biệt thực sự có ý nghĩa về mức độ bất bình đẳng thu nhập

giữa vùng Asia và vùng MENA trong giai đoạn 1991 – 2008. Điều này đồng nghĩa

rằng trong giai đoạn nghiên cứu, các quốc gia đang phát triển thuộc vùng Sub-Saharan

Africa và Latin America có mức độ bất bình đẳng thu nhập cao hơn so với các vùng

Asia và MENA. Phát hiện này của nghiên cứu không có gì đáng ngạc nhiên bởi vì khu

vực Latin America được biết đến với mức độ bất bình đẳng thu nhập cao nhất thế giới

và đứng thứ hai chính là các quốc gia thuộc vùng Sub-Saharan Africa.

Trong nghiên cứu thực nghiệm của mình về bất bình đẳng thu nhập ở khu vực

Latin America, Morley (2001) đã chỉ ra rằng các quốc gia thuộc vùng Latin America

có mức bất bình đẳng thu nhập cao nhất so với các khu vực khác là do ba nguyên nhân

chính, bao gồm: mức độ bất bình đẳng về giáo dục rất cao; việc suy giảm mức lương

tương đối của những người lao động phổ thông từ những năm 1980 đến những năm

1990; và cuối cùng một thực tế là những người giàu ở khu vực Latin America ngày

càng giàu hơn một cách tương đối so với phần dân số còn lại (khoảng cách chênh lệch

về thu nhập giữa người giàu và người nghèo là lớn nhất so với các vùng miền khác).

Bên cạnh đó, các kết quả hồi quy cũng cho thấy rằng các biến tương tác giữa tư

nhân hóa với các biến định tính kiểm soát nhóm vùng miền (pr*ssa, pr*la và pr*as)

Trang 65

cũng không thể hiện mối tương quan một cách có ý nghĩa đối với biến bất bình đẳng

thu nhập. Như vậy có thể kết luận rằng, tư nhân hóa không có tác động một cách có ý

nghĩa đối với bất bình đẳng thu nhập ở các vùng miền được nghiên cứu trong giai đoạn

1991 – 2008. Kessides (2004) đã lập luận rằng nếu tư nhân hóa thực sự không có tác

động đến bất bình đẳng thu nhập, vậy tại sao có nhiều sự phản đối và các cuộc biểu

tình ở hầu hết các quốc gia đang phát triển chống lại chính sách tư nhân hóa, đặc biệt là

ở vùng Latin America và Sub-Saharan Africa. Kessides (2004) đã đưa ra hai lý do

chính để giải thích cho sự không nhất quán giữa một bên là lý thuyết và kết quả của các

nghiên cứu thực nghiệm với một bên là thực tế. Thứ nhất, có thể là do sự hạn chế về dữ

liệu và các sai sót đến từ phương pháp luận và mô hình thống kê đã dẫn đến việc không

đánh giá chính xác các tác động phúc lợi thực sự của cuộc cải cách chính sách này. Thứ

hai, sự không nhất quán có thể đến từ những suy nghĩ sai lệch mang tính hệ thống

trong nhận thức của công chúng. Nhận thức sai lệch đối với cuộc cải cách có thể bắt

nguồn từ các suy nghĩ tiêu cực về các ảo tưởng như: sự sa thải lao động, vấn đề gia

tăng giá cả và các tác động phân phối tiêu cực của chính sách tư nhân hóa.

Biến đầu tư trực tiếp nước ngoài có tương quan dương và có ý nghĩa thống kê ở

mức 1% với bất bình đẳng thu nhập ở tất cả các mô hình hồi quy. Phát hiện này của

nghiên cứu tương tự với kết quả trong các nghiên cứu thực nghiệm của Beer (1999) và

Nafziger (1997). Tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phân

phối thu nhập có thể bắt nguồn từ việc hội tụ các tham vọng gia tăng tài sản của các

nhà đầu tư nước ngoài và tầng lớp giàu có của nước chủ nhà (Beer, 1999). Tương tự,

Nafziger (1997) đã lập luận rằng các công ty đa quốc gia có đủ khả năng để tạo ra áp

lực đối với chính phủ của quốc gia chủ nhà trong việc cắt giảm các khoản chi tiêu phúc

lợi và công đoàn lao động nhằm làm giảm tiền lương đối với người lao động, họ cũng

chính là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất khi thực hiện các cuộc cải cách.

Trang 66

Trong tất cả các trường hợp phân tích thì hệ số của biến lạm phát đều không có ý

nghĩa thống kê, kết quả này khác với hầu hết các kết luận trước đây khi cho rằng lạm

phát làm tổn thương những người nghèo nhiều nhất (Easterly và Fischer, 2001; Romer

và Romer, 1998). Easterly và Fischer (2001) đã lập luận rằng lạm phát làm tổn thương

những người nghèo nhiều hơn, điều này là bởi vì những người giàu có nhiều khả năng

để tiếp cận các cộng cụ tài chính có thể bảo vệ họ đối phó với các tác động tiêu cực của

lạm phát. Tuy nhiên, kết quả của bài nghiên cứu lại tương tự với kết luận trong nghiên

cứu thực nghiệm ở 45 quốc gia đang phát triển của Sarel (1997), tác giả đã cho thấy

rằng lạm phát dường như không có tác động đối với bất bình đẳng thu nhập.

Độ mở thương mại của nền kinh tế có tương quan âm nhưng không có ý nghĩa

thống kê đối với bất bình đẳng thu nhập ở hầu hết các mô hình phân tích. Kết luận này

hàm ý rằng, việc hội nhập với nền kinh tế thế giới không có tác động một cách có ý

nghĩa đối với bất bình đẳng thu nhập (Dollar và Kraay, 2002). Phát hiện này của bài

nghiên cứu khác với kết quả thực nghiệm của Tsai (1995), ông cho rằng việc mở cửa

nền kinh tế góp phần gia tăng tính cạnh tranh quốc tế, xóa bỏ các hiện tượng độc quyền

và độc quyền nhóm trong nước, tạo ra sự phân phối có hiệu quả hơn các nguồn lực và

cải thiện sự phân phối thu nhập của quốc gia. Tuy nhiên, kết quả của bài nghiên cứu lại

ủng hộ kết luận của Zagha và cộng sự (2006), các tác giả cho rằng tác động của cuộc

cải cách thương mại còn tùy thuộc vào các điều kiện riêng ở mỗi quốc gia và cách thức

mà quá trình toàn cầu hóa được thực hiện.

Mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê giữa biến vị trí địa lý (llock) và

biến bất bình đẳng thu nhập cho thấy rằng việc sở hữu vị trí không tiếp giáp biển có tác

động tiêu cực đối với những người nghèo nhất của quốc gia (tác động này là độc lập

với nhóm vùng miền). Điều này bắt nguồn từ thực tế đó là các quốc gia với vị trí nằm

sâu trong đất liền, không tiếp giáp biển thường sở hữu cấu trúc thể chế không tốt, cơ sở

hạ tầng nghèo nàn, năng suất sản xuất thấp, thị trường trong nước nhỏ và quan trọng

Trang 67

nhất là nằm xa các thị trường lớn của thế giới. Chính những nhân tố này đã làm cho các

quốc gia với vị trí khép kín trong lục địa rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương với các cú

sốc từ bên ngoài (Báo cáo Liên hiệp quốc, 2006).

Biến chất lượng thể chế thể hiện mối tương quan âm và có ý nghĩa thống kê đối

với bất bình đẳng thu nhập (ngay cả khi đưa các biển kiểm soát nhóm vùng miền vào

mô hình). Phát hiện này của bài nghiên cứu ủng hộ quan điểm cho rằng chất lượng thể

chế tốt góp phần cải thiện sự phân phối thu nhập của quốc gia. Acemoglu và cộng sự

(2003) cho rằng, chất lượng thể chế không chỉ ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng

kinh tế của quốc gia mà nó còn là trung tâm trong việc phân phối thu nhập giữa các cá

nhân và các nhóm trong xã hội. Tương tự như vậy, Lopez (2003) cũng lập luận rằng

chất lượng thể chế tốt góp phần hạn chế sự hoạt động của các nhóm lợi ích vì động cơ

riêng bằng việc kiểm soát tốt hơn bộ máy quan chức nhà nước và gia tăng các cơ hội

dành cho người nghèo.

Kết quả hồi quy sau khi đưa các biến tương tác (pr*fdi, pr*open và pr*gov) vào

mô hình cho thấy biến tương tác giữa tư nhân hóa với đầu tư trực tiếp nước ngoài

(pr*fdi) thể hiện mối tương dương và có ý nghĩa thống kê đối với bất bình đẳng thu

nhập, các biến tương tác còn lại không có tương quan một cách có ý nghĩa đối với bất

bình đẳng thu nhập. Điều này đồng nghĩa rằng chính sách tư nhân hóa được dự kiến sẽ

tạo ra các tác động tiêu cực đối với các nền kinh tế sở hữu dòng vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài lớn. Nafziger (1997) đã lý giải rằng các công ty đa quốc gia có đủ khả năng

để tạo ra áp lực đối với chính phủ của quốc gia chủ nhà trong việc cắt giảm các khoản

chi tiêu phúc lợi và công đoàn lao động nhằm làm giảm tiền lương đối với người lao

động, họ cũng chính là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất khi thực hiện các cuộc

cải cách. Bên cạnh đó, Nafziger (1997) cũng cho rằng các công ty đa quốc gia làm trầm

trọng thêm các vấn đề về bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia chủ nhà bằng cách tạo

Trang 68

ra các công việc, sự bảo trợ và sản xuất hàng hóa mà đối tượng hưởng lợi nhiều nhất

chủ yếu là những người giàu.

4.2 Một số hàm ý chính sách của bài nghiên cứu

Phát hiện chính của bài nghiên cứu đó là chính sách tư nhân hóa không có tác

động một cách có ý nghĩa đối với cả hai chỉ tiêu phát triển, đó là: tăng trưởng kinh tế

và bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1991 – 2008.

Nghiên cứu cũng phát hiện được rằng các biến vị trí địa lý, cấu trúc thể chế và đầu tư

trực tiếp nước ngoài là những nhân tố quan trọng giải thích cho sự khác biệt về tăng

trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển. Các phát hiện

này đã cung cấp một số các gợi ý chính sách quan trọng, cụ thể như sau:

Thứ nhất, các kết quả của bài nghiên cứu và của một số các nghiên cứu thực

nghiệm khác (Filipovic, 2005; Cook và Uchida, 2003, Yoder và cộng sự, 1991) đã chỉ

ra rằng chính sách tư nhân hóa cần thiết phải được xem xét lại một cách thận trọng về

các lợi ích thực sự mà nó mang lại cho các quốc gia đang phát triển.

Thứ hai, các nhà hoạch định chính sách nên tập trung vào các cuộc cải cách chính

sách kinh tế một cách toàn diện (thúc đẩy hoàn thiện chất lượng thể chế và ổn định hóa

nền kinh tế vĩ mô) nhằm kích thích sự phát triển kinh tế. Cook và Uchida (2003) đã

nhận định rằng, việc thiếu các cuộc cải cách thể chế một cách phù hợp là một trong

những nguyên nhân chính tạo ra tác động không có ý nghĩa của tư nhân hóa đối với

tăng trưởng kinh tế. Theo đó, Zines và cộng sự (2001) đã đề xuất rằng một mình sự

thay đổi về quyền sở hữu là không đủ để đảm bảo cho tính hiệu quả của nền kinh tế,

đồng thời các tác giả cũng cho rằng việc mà các quốc gia đang phát triển cần làm đó là

cải thiện tính cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như khuôn khổ pháp lý cần thiết để nâng

cao khả năng thành công của chính sách tư nhân hóa.

Trang 69

Thứ ba, trong tất cả các biến giải thích được xem xét ở các mô hình hồi quy chỉ

có duy nhất biến chất lượng thể chế là thể hiện mối tương quan dương và có ý nghĩa

thống kê đối với tăng trưởng kinh tế và sự phân phối thu nhập, điều này phần nào cho

thấy được vai trò quan trọng của lãnh đạo nhà nước trong việc xây dựng một cơ sở hạ

tầng thể chế cần thiết cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. Ngoài ra, khi đưa các chỉ

số đánh giá thành phần vào mô hình phân tích chỉ có các chỉ số về tính hiệu quả của

chính phủ (goveef) và chỉ số đánh giá các quy định của luật pháp (rule) là có ý nghĩa

thống kê ở mức 5% đối với cả tăng trưởng kinh tế và sự phân phối thu nhập. Zagha và

cộng sự (2006) đã lập luận rằng chính sách tư nhân hóa và vấn đề cải cách khu vực nhà

nước phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện của mỗi quốc gia, đặc biệt là sự hiện diện

của các quy định pháp lý. Để đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế, Zagha và cộng sự

cho rằng cần phải thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường và vấn đề không

phải là làm giảm vai trò của nhà nước mà quan trọng hơn cả là làm thế nào để chính

phủ có trách nhiệm hơn đối với các chính sách đưa ra. Các tác giả đã kết luận rằng

chính sách tư nhân hóa không chỉ là tìm kiếm người chủ sở hữu tốt hơn nhà nước, mà

còn phải cải thiện cả về chất lượng thể chế và năng lực quản trị của nhà nước nhằm

tách riêng hoạt động thương mại ra khỏi chính trị bởi vì chính phủ có thể sử dụng các

quyền lực chính trị (thông qua hàng loạt các loại chính sách) để tác động đến các quyết

định của doanh nghiệp.

Cuối cùng, kết quả không nhất quán của các nghiên cứu thực nghiệm về tác động

của chính sách tư nhân hóa đã cho thấy rằng không có một mô hình cải cách chung nào

là phù hợp cho tất cả các quốc gia, và chính sách tư nhân hóa không nhất thiết phải có

ở mỗi quốc gia. Điều này đồng nghĩa rằng, trước khi thực hiện chính sách tư nhân hóa

các nhà hoạch định chính sách cần phải xem xét kỹ lưỡng các điều kiện đặc trưng của

mỗi quốc gia, cấu trúc thể chế nhà nước, các yếu tố về xã hội và chính trị. Ủng hộ lập

luận này, Zagha và cộng sự (2006) cho rằng việc chỉ tập trung vào cải cách riêng khu

Trang 70

vực tư hoặc cải cách thương mại có thể mang lại tính hiệu quả tức thì cho nền kinh tế,

tuy nhiên các cuộc cải cách riêng lẻ này sẽ đưa nền kinh tế đi theo một con đường phát

triển không bền vững; đồng thời, các thất bại của chính phủ có thể làm giảm bớt những

nỗ lực tích lũy vốn và nâng cao năng suất sản suất của nền kinh tế.

4.3 Một số hạn chế của bài nghiên cứu và các đề xuất nghiên cứu trong tƣơng lai

4.3.1 Hạn chế của bài nghiên cứu

Bài nghiên cứu về tác động của tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế và bất

bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển, giai đoạn 1991 – 2008 vẫn còn tồn

tại một số hạn chế, cụ thể như sau:

Thứ nhất, sự hạn chế về mặt dữ liệu chỉ cho phép bài nghiên cứu thực hiện với cỡ

mẫu nhỏ gồm 80 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2008.

Trong đó, 75 quốc gia dùng cho các hồi quy của tăng trưởng kinh tế và 60 quốc gia cho

các hồi quy của bất bình đẳng thu nhập.

Thứ hai, bài nghiên cứu chỉ thực hiện kiểm tra tác động về mặt tổng thể của chính

sách tư nhân hóa mà không kiểm tra tác động của các phương pháp thực hiện tư nhân

hóa khác đối với sự phát triển kinh tế. Một số các nghiên cứu thực nghiệm cũng đã báo

cáo về các tác động của các phương pháp thực hiện tư nhân hóa khác đối với tăng

trưởng kinh tế (Bennett và cộng sự, 2004).

Thứ ba, các nhóm ngành thực hiện tư nhân hóa cũng có thể tác động đến tăng

trưởng kinh tế. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm về tư nhân hóa ở các doanh nghiệp

thuộc các ngành như: cơ sở hạ tầng, tài chính và sản xuất đã chỉ ra rằng với các nhóm

ngành khác nhau tác động của chính sách tư nhân hóa cũng khác nhau. Tuy nhiên, việc

thiếu dữ liệu cần thiết về doanh thu của chính sách tư nhân hóa phân theo các phương

Trang 71

pháp thực hiện và phân theo các nhóm ngành đã không cho phép bài nghiên cứu kiểm

soát các yếu tố này.

Cuối cùng, tác động của chính sách tư nhân hóa đối với tăng trưởng kinh tế còn

tùy thuộc vào các mục đích sử dụng của doanh thu đạt được từ chính sách tư nhân hóa.

Doanh thu này có thể được sử dụng với các mục đích như sau: trả nợ, tiết kiệm, chuyển

giao cho ngân sách hoặc sử dụng cho chi đầu tư. Do đó, các kết quả của bài nghiên cứu

bị giới hạn trong phạm vi mà các yếu tố kể trên tác động đến tăng trưởng.

4.3.2 Các đề xuất nghiên cứu trong tương lai

Từ những hàm ý chính sách và một số các hạn chế của bài nghiên cứu, tác giả đề

xuất một số hướng nghiên cứu tiếp theo nên được thực hiện trong tương lai, cụ thể như

sau:

Thứ nhất, cần có thêm các nghiên cứu thực nghiệm để kiểm tra tác động của các

phương pháp thực hiện chính sách tư nhân hóa khác, cũng như kiểm tra tác động của tư

nhân hóa theo các nhóm ngành đối với sự phát triển kinh tế.

Thứ hai, để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa tư nhân hóa và sự phát triển kinh tế,

các yếu tố về môi trường thực thi chính sách cũng cần thiết được đưa vào kiểm tra,

chẳng hạn như yếu tố về sự cạnh tranh của thị trường.

Cuối cùng, để định hướng cho các nhà hoạch định chính sách một sách lược tốt

nhất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm tỷ lệ đói nghèo và giảm mức độ chênh

lệch về thu nhập, cần thiết đề xuất một nghiên cứu phân tích tổng hợp trong tương lai

với bộ ba nhân tố, bao gồm: tăng trưởng kinh tế, phân phối thu nhập và nghèo đói.

Trang 72

Kết luận Chƣơng 4

Chương 4 đã thảo luận các kết quả của bài nghiên cứu, từ các phát hiện này

nghiên cứu đã đề xuất một số hàm ý đối với chính sách tư nhân hoá ở các quốc gia

đang phát triển. Bên cạnh đó, chương 4 cũng đưa ra các hạn chế còn tồn tại của bài

nghiên cứu và một số gợi ý cho các nghiên cứu trong tương lai. Việc khắc phục các

hạn chế này sẽ giúp đạt được các kết quả đầy đủ và trọn vẹn hơn cho các nghiên cứu

trong tương lai.

Trang 73

KẾT LUẬN CHUNG

Bài nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của tư nhân hoá đối với tăng trưởng kinh

tế và bất bình đẳng thu nhập ở những vùng miền khác nhau của các quốc gia đang phát

triển trong giai đoạn 1991 – 2008. Nghiên cứu đã phát hiện được chính sách tư nhân

hoá không đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm bất

bình đẳng thu nhập ở các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn nghiên cứu.

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các điều kiện của quốc gia (bao

gồm cấu trúc thể chế tốt) nhiều khả năng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần

làm giảm sự bất bình đẳng thu nhập. Điều này phần nào cho thấy, xét về bản chất các

đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia thể hiện vai trò quan trọng hơn trong việc thúc đẩy

tăng trưởng và giảm bất bình đẳng thu nhập so với bất kỳ một chính sách kinh tế nào

khác. Rõ ràng, chất lượng của thể chế quyết định đến chất lượng và sự thành công của

việc ra quyết định đối với các chính sách kinh tế. Ramamurti (1999) đã nhận định rằng,

vấn đề gặp phải ở nhiều quốc gia đang phát triển đó là việc thiếu vắng các cơ sở hạ

tầng đầy đủ để hỗ trợ cho chính sách tư nhân hoá trong các trường hợp mà người mua

ở địa phương chưa có đủ các năng lực về tài chính và chuyên môn, do vậy chính phủ

cần phải tăng cường sự bảo vệ và các biện pháp trợ cấp dành cho họ. Các vấn đề này

đã gợi ý rằng chính sách tư nhân hoá nhất thiết phải được xem xét một cách thận trọng

và cần có thêm thời gian để các quốc gia đang phát triển có cơ hội học hỏi và phát triển

cơ sở hạ tầng về thể chế một cách đầy đủ nhằm đảm bảo cho sự thành công của các

cuộc cải cách chính sách kinh tế.

Sự không nhất quán về kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm cũng như các

phát hiện của bài nghiên cứu này đã đề xuất một sự phân tích cần thận trọng hơn khi

xem xét về tác động của chính sách tư nhân hoá ở những vùng miền khác nhau ở các

quốc gia đang phát triển. Với điều kiện dữ liệu cho phép, các nghiên cứu trong tương

Trang 74

lai cần thiết được thực hiện nhằm kiểm tra các phương pháp tiến hành tư nhân hoá,

cũng như các lĩnh vực thực hiện tư nhân hoá khác nhau tác động đến nền kinh tế nói

chung.

Cuối cùng, cuộc tranh luận không nên chỉ tập trung vào xem xét tính hiệu quả

hơn đối với nền kinh tế giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân và các doanh

nghiệp nhà nước, mà quan trọng hơn là làm thế nào để tạo ra một môi trường thể chế

cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia

đang phát triển.

Trang 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Abdul, P., 2000. Privatization in Developing Countries: The Governance Issue. 2000(1)

Law, Social Justice and Global Development (LGD).

http://www2.warwick.ac.uk/fac/soc/law/elj/lgd/2001_1/palaiwala/

2. Acemoglu, D., Jackson, S. & Robinson, J., 2003. Geography and Institutions in the

Making of the Modern World Income Distribution. Quaterly Journal of Economics, 118,

1231-1294.

3. Adam, S., 1776. The Wealth of Nations. In Hanke, S. H., 1987, Privatization and

Development (p.48). California: Institute for Comtemporary Studies Press.

4. Aghion, P. & Schankerman, M., 1999. Competition, Entry and the Social Returns to

Infrastructure in Transition Economies. Center of Economic Policy Research. DP 2052.

London.

5. Ahluwalia, M. S., 1976. Inequality, Poverty and Development. Journal of Development

Economics, 3, 307-342.

6. Alchian, A., 1965. Property Rights. The Concise Encyclopedia of Economics. The Library

of Economics and Liberty.

7. Alderson, S. A. & Nielsen, F., 1999. Income Inequality, Development anf Dependence:

American Sociological Review, 64, 617-628.

8. Alesina, A. & Perotti, R., 1996. Income Distribution, Political Instability and Investment.

European Economics Review, 40(6), 1203-1228.

9. Allison, P. D., 1978. Measures of Inequality. American Journal of Sociology, 43(6), 865-

880.

10. Al-Obaidan, A., 2002. Efficiency Effect of privatization in Developing Countries. Applied

Economics, 34, 111-118.

11. Anderson, T. & Hill, P. J., 1975. The Evolution of Property Rights: A Study of the

American West. Journal of law and economics, 18(1), 163-179.

12. Banerjee, G. S. & Munger, M. C., 2004. Move to Markets? An Empirical Analysis of

Privatization in Developing Countries. Journal of International Development, 16, 213-240.

13. Barnett, S., 2000. Evidence on the Fiscal and Macroeconomic Impact of Privatization.

IMF Working Paper, July, Washington D.C.

14. Barro, R., 1991. Economic Growth in a Cross Section of Countries. The Quarterly Journal

of Economics, 106, 407-443.

15. Beer, L., 1999. Income Inequlity and Transnational Corporate Penetration. Journal of

World Systems Research, 5, 1-25.

16. Bennell, P., 1997. Privatization in Sub-Saharan Africa: Progress and Prospects during the

1990s. World Development, 25(11), 1785-1803.

17. Bennet, J., Estrin, S. & Urga, G., 2004. Methods of Privatization and Economic Growth in

Transition Economies. FEEM Working Paper No. 105.

18. Bethelemy, J., Kaufmann, & Valfort, C., 2004. Privatization in Sub-Saharan Africa:

Where do we stand? Paris: OECD Publication.

19. Birdsall, N. & Nellis, J., 2002. Winners and Losers: Assessing the Distributional Impact of

Privatization. Center for Global Development Working Paper No. 6.

20. Borcherding, Thomas, E., (1977). Budgets and Bureaucrats: The Sources of Growth.

Durham. Duke University Press.

21. Bornschier, Volker & Rubinson, R., 1978. Cross-National Evidence of the Effects of

Foreign Investment on Economic Growth. American Journal of Sociology, 84(3), 651-683.

22. Bortolotti, B., Fantini, M. & Siniscalco, D., 2003. Privatization Around the World:

Evidence from Panel Data. Journal of Public Economics, 88, 305-332.

23. Boubakari, N., Cosset, J. & Ghedhami, O., 2005. Liberalization, Corporate Governance

and the Performance of Newly Privatized Firms. Journal of Corporate Finance, 11, 767-

790.

24. Boycko, Maxim & Shleifer, 1996. A Theory of Privatization. The Economic Journal, 106,

309-319.

25. Buchanan, J. M., 1972. The Theory of Public Choice. Ann Arbor: University of Michigan

Press.

26. Chong, A. & Lopez-de-Silanes, F., 2003. The Truth about Privatization in Latin America.

Inter-America Development Working Paper No. R-486. Washington, DC.

27. Clarke, G. & Wallsten, S., 2002. Providing Infrastructure Service to Rural and Poor

Urban Consumers. Policy Research Working Paper 2868. World Bank, Washington, D.C.

28. Clarke, G., 1995. More Evidence on Income Distribution and Growth. Journal of

Development Economics, 47(2), 403-427.

29. Cook, P. & Kirkpatrick, C., 1988. Privatization in Less Developed Countries. New York:

St. Martin Press.

30. Cook, P. & Uchida, Y., 2003. Privatization and Economic Growth in Developing

Countries. Journal of Development Studies, 39(6), 121-154.

31. Cuervo, A. & Villalonga, B., 2000. Explaining the Variance in the Performance Effects of

Privatization. Academy of Management Review, 25(3), 581-594.

32. Davis, R., Ossowski, R. & Barnett, S., 2000. Fiscal and macroeconomic Impacts of

Privatization Occasional Paper 194. Washington: International Monetary Fund.

33. Deninger, K. & Squire, L., 1996. A New Data Set Measuring Income Inequality. World

Bank Economic Review, 10(3), 565-591.

34. Dharwadkar, R., Gerard, G. & Brandes, P., 2000. Privatization in Emerging Economies:

An Agency Theory perspective. Academy of Management Review, 25(3), 650-675.

35. Dollar, D. & Kraay, A., 2002. Growth is Good for the Poor. Journal of Economic Growth,

7(3), 195-225.

36. Dye Thomas, 2002. Understanding Public Policy. New Jersey: Prentice Education, Inc.

37. Earle, J., 2002. Privatization methods and productivity Effects in Romanian Industrial

Enterprises. Journal of Comparative Economics, 30, 657-682.

38. Easterly, W. & Fischer, S., 2001. Inflation and the Poor. Journal of Money, Credit and

Banking, 33(2), 160-178.

39. Easterly, W. & Levine, R., 2002. Tropics, germs, crops: How Endowments Influence

Economic Development. National Bureau of Economic Research Working Paper 9106.

Cambridge, MA.

40. Fama, E., 1980. Agency Problems and the Theory of the Firm. Journal of Political

Economy, 88(2), 288-307.

41. Filipovic, A., 2005. Impact of privatization on Economic Growth. Issues in Political

Economy, Vol. 14, August 2005.

42. Furobotn, G. & Perjovich, S., 1972. Property Rights and Economic Theory: A Survey of

Recent Literature. Journal of Economic Literature 10, 1137-1162.

43. Ghosh, S., 2001. Move to Markets. An Empirical Analysis of privatization in Developing

Countries. Ph.D Dissertation. University of North Carolina at Chapel Hill.

44. Globerman, S. & Shapiro, D., 2003. Governance Infrastructure and US Foreign Direct

Investment. Journal of International Business Studies, 34(1), 1-19.

45. Gupta, S., Schiller, C. & Ma, H., 1999. Privatization, Social Impact and Social Nets. New

York: International Monetary Fund Working Paper 68.

46. Gyimah-Brempong, K. & Camacho, S., 2006. Corruption, Growth and Income

Distribution: Are there Regional Differences?. Economics of Governance, 7, 245-269.

47. Gyimah-Brempong, K., 2002. Corruption, Economic Growth and Income Inequality in

Africa. Economics of Governance, 3, 183-209.

48. Hanke, S. H., 1987. Privatization and Development. California: Institute for Contemporary

Studies Press.

49. Harberger, A., 1987. Growth of the Public Sector in our Time. Address Presented at the

Annual Meeting of Argentine Bankers Association, Buenos Aires.

50. Henderson, V., Shaliza, Z. & Venebles, A., 2000. Geography and Development. Policy

Research Working Paper 2456. Washington, DC. World Bank.

51. Henig, J. R., 1989. Privatization in the US: Theory and Practice. Political Science

Quaterly, 104(4), 649-670.

52. Hill, P. & Karmer, M., 1996. Spontaneous Privatization in Transition Economies. In L.

Terry & J. P. Hill, The Privatization Process: A Worldwide Perspective (pp. 81 -96).

Maryland: Rowman & Littlefield Publishers, Inc.

53. Hodge, G. A., 2000. Privatization: An International Overview of Performance. Oxford:

Westview Press.

54. Jensen, M. & Meckling, H., 1976. Theory of the Firm: Managerial Behavior, Agency

Costs and Ownership Structure. Journal of Financial Economics, 3(4), 305-360.

55. Kaufmann, D., Kraay, A. & Mastruzzi, M., 2010. Governance Indicators for 1996-2008.

Washington, D.C.: Policy Research Working Paper Series No. 3630.

56. Kessides, K. I., 2004. Reforming Infrastructure: Privatization, Regulation and

Competition. Washington, D.C. World Bank.

57. Kikeri, S. & Kolo, A., 2005. Privatization: Trends and Recent Development. World Bank

Policy Research Working Paper 3765 Washington DC.

58. Kikeri, S., 1992. Privatization: The Lessions of Experience. Washington, DC.: World

Bank.

59. Kirkpatrick, C. & Parker, D., 2003. Regulatory Impact Assessment: Developing Its

Potential for use in Developing Countries. Center on Regulation and Competition

Working Paper Series No. 56. Manchester.

60. Kirkpatrick, C., Parker, D., & Zhang, Y., 2006. Foreign Direct Investment in

Infrastructure

in Developing Countries: Does Regulation make a Difference?

Transnational Corporations, 15(1): 143-171.

61. Kottaridi, C., 2005. FDI, Growth and the Role of Governance: Changing the Rules of the

Game. Contributions to Political Economy, 24, 79-98.

62. Kuznet, S., 1955. Economic Growth and Income Inequality. American Economic Review,

45(1), 1-28.

63. La Porta, R. & Lopez-de-Silanes, F., 1997. The Benefits of Privatization: Evidence from

Mexico. Nation Bureau of Economic Research: Working Paper 6215.

64. Laffont, J. & Meleu, M., 1999. A Positive Theory of Privatization for Sub-Saharan

African. Journal of African Economies, 8, 30-67.

65. Laffont, J. & Tirole, J., 1991. Privatization and Incentives. Journal of Law and Economics,

7, 84-105.

66. Landau, D., 1986. Government and Economic Growth in the Less Developed Countries:

An Empirical Study for 1960-1980. Economic Development and Cultural Change, 35(1),

35-75.

67. Lewis, W. A., 1984. The State of Development Theory. American Economic Review, 74,

1-10.

68. Lopez, H., 2003. Macroeconomics and Inequality. The World Bank Research Workshop:

Macroeconomic Challenges Inflow Income Countries. October 23-24, 2003. Washington,

DC.

69. Makki, S. & Somarwu, A., 2004. Impact of Foreign Direct Investment and Trade on

Economic Growth: Evidence

from Developing Countries. American Journal of

Agricultural Economics, 86(3), 795-801.

70. Megginson, W. & Netter, J., 2001. From State to Market: A Survey of Empirical Studies.

Journal of Economic Literature, 39(2), 321-389.

71. Megginson, W. L., Nash, R. C. & Randenborgh, M. V., 1994. The Financial and

Operating Performance of Newly privatized Firms. An International Empirical Analysis.

Journal of Finance, 49(2), 403-52.

72. Meier, G. M. & Rauch, J. E., 2000. Leading Issues in Economic Development. Oxford:

Oxford University Press.

73. Miller, A. N., 1997. Ideological Motivations of Privatization in Great Britain versus

Developing Countries. Journal of International affairs, 50(2), 391-399.

74. Morley, S., 2001. The income Distribution Problem in Latin America and the Caribbean.

Economic Commission for Latin America and the Caribbean: Santiago, Chile.

75. Mueller, E., 1979. Public Choice. Cambridge. Cambridge University Press.

76. Nafziger, W., 1997. The Economics of Developing Countries. Englewood Cliffs, NJ:

Prentice Hall.

77. Nellis, J., 1995. Is Privatization Necessary?. Viewpoint, Finance and Private Sector

Development, World Bank.

78. Nellis, J., 2006. Privatization – A Summary Assessment. Center for Global Development

Working Paper 87. Washington D.C.

79. Niskanen, W. A. Jr., 1971. Bureaucracy and Representative Government. Chicago:

Aldine.

80. Niskanen, W. A. Jr., 1994. Bureaucracy and Public Economics. Aldershot. Edward Elgar

Publishing Limited.

81. North, D., 1996. Privatization, Incentives and Economic Performance. In T. Anderson &

P. Hill, The Privatization Process: A Worldwide perspective (pp. 25 -37). Maryland:

Rowman & Littlefield Publishers, Inc.

82. Okun, A., 1975. Equality and Efficiency: The Big Tradeoff. Washington D.C. Brookings

Institution.

83. Olbeter E., 1994. Opening the global market for telecommunications. Issues in Science

and Technology, 11(2), 57-65.

84. Olson, M., Naveen, S. & Anand, V., 2000. Governance and Growth: A Simple Hypothesis

Explaining cross-country differences in productivity Growth. Public Choice, 102, 341-364.

85. Parker, D. & Kirpatrick, C., 2005. Privatization in Developing Countries: A Review of the

Evidence and the Policy Lessons. Journal of Development Studies, 41(4), 513-541.

86. Pirie, M., 1986. Dismantling the State: The Theory and Practice of Privatization. Texas:

The National Center for Policy Analysis.

87. Plane, P., 1997. Privatization and Economic Growth: An Empirical Investigation from a

Sample of Developing Market Economies. Applied Economics 29(2), 161-179.

88. Ramamurti, R., 1999. Why haven’t Developing Countries privatized Deeper and Faster?

World Development, 27(1), 137-155.

89. Ramanadham, V. V., 1988. Public Enterprises and Income Distribution. London.

Routlege.

90. Redding, S. & Venables, A., 2004. Economic Geography and Institutional Inequality.

Journal of International Economics, 62, 53-82.

91. Reuveny, R. & Li, Q., 2003. Economic Openness, Democracy and Income Inequality: An

Empirical Analysis. Comparative Political Studies, 36(5), 575-601.

92. Rodrik, D., Arvind, S. & Trebbi, F., 2004. Institution Rule: The Supremacy of Institution

over Integration and Geography in Economic Development. Journal of Economic Growth,

9(2), 131-165.

93. Roller, L. H. & Waverman, L., 2001. Telecommunication Infrastructure and Economic

Development. The American Economic Review, 91, 909-923.

94. Romer, C. & Romer, D., 1998. Monetary Policy and the Well – Being of the Poor.

National Bureau of Economic Research Working Paper No. 6793. Cambridge,

Massachusetts.

95. Rubinson, R., 1977. Dependence, Government Revenue and Economic Growth 1955 –

1970. Studies in Comparative International Development, 12(1), 3-28.

96. Ruthenberg, P. J., 1987. Privatization of Public Sector Services in Theory and Practice.

Journal of Policy Analysis and Management, 6(4), 523-540.

97. Sachs, J., 2003. Institutions Don’t Rule: Direct Effects of Geography on Per Capita

Income. National Bureau of Economic Research Working Paper No. 9490. Cambridge,

MA.

98. Sarel, M., 1997. How Macroeconomic factors Affect Income Distribution: The Cross –

Country Evidence. New York: IMF Working Papers 152.

99. Savas, E. S., 1977. Policy Analysis for a Local Government: Public versus Private Refuse

Collection. Policy Analysis, 3(1), 49-74.

100. Seers, D., 1969. The Meaning of Development. In E. Malizia and E. Feser (1999),

Understanding Local Economic Development (p.13). New Jersey: Center for Urban Policy

Research.

101. Shapiro, C. & Willig, D., 1990. Economic Rationales for the Scope of Privatiztion. In

E. N. Suleiman and J. Waterbury, The Political Economy of Public Sector Reform and

Privatiztization (pp.55-87). Boulder: Westview Press.

102. Sheshinski, C. & Lopez-Calva, F., 1999. Privatization and Its benefits: Theory and

Evidence. Havard Institute for International Development: Development Discussion

Papers No. 698.

103. Shirley, M. & Walsh, P., 2001. Public vs. Private Ownership: The Current State of the

Debate. Policy Research Working Paper No. 2420. Washington, DC. World Bank.

104. Soto, Hernando de., 1996. The Missing Ingredient What Poor Countries will to need to

Make their markets work. In T. Anderson & P. Hill, The Privatization Process: A

worldwide perspective (pp. 19-24). Maryland: Rowman & Littlefield Publishers, Inc.

105. Starr, P., 1988. The Meaning of Privatization. Yale Law and Policy Review, 6, 6-41.

106. Stiglitz, J., 1998. The Role of Government in the Contemporary World. In Tanzi Vito

& Ke-young Chu, Income Distribution and High Quality Growth (pp. 21 -54). Cambridge:

MIT Press.

107. Stock, J. H. & Watson, Mark W., 2003. Introduction to Econometrics. United States:

Pearson Education, Inc.

108. Sylwester, 2005. Foreign Direct Investment, Growth and Income Inequality in Less

Developed Countries. International Review of Applied Economics, 19(3), 289-300.

109. Tandon, P., 1997. Effeciency of Privatized Firms: Evidence and Implications.

Economic and Political Weekly, 32(50), 3199-3212.

110. Tanzi, V. & Schuknecht, L., 2000. Pulic Spending in the 20th Century: A global

Perspective. Cambridge. Cambridge University Press.

111. Tsai, P. L., 1995. Foreign Direct Investment and Income Inequality: Further Evidence.

World Development, 23, 469-483.

112. United Nations Conference on Trade and Development (2008). Recognition of the

Problems of Land Locked Developing Countries.

http://unctad.org/en/templates/page.aspx?

113. United Nations, 2005. United Nations Office of the High Representative for the Least

Developed Countries, Landlocked Developing Countries and Small Island Developing

State.

http://www.un.org/special-rep/ohrlls/default.htm

114. Vernon, H. J., Shalizi, Z. & Venables, A. J., 2000. Geography and Development.

Policy Research Working Paper No.2456. World Bank. Washington, DC.

115. Vernon, R. & Aharaoni, Y., 1981. State-Owned Enterprises in the Western Economies.

New York: St. Martin’s Press.

116. Villalonga, B., 2000. Privatization and Efficiency: Differentiating Ownership Effects

from Political, Organizational and Dynamic Effects. Journal of Economic Behavior and

Organization, 42, 43-74.

117. Wallsten, S. J., 2001. An Econometric Analysis of Telecom Competition, Privatization

and Regulation in Africa and Latin America. Journal of Industrial Economics, 59(1), 1-19.

118. World Bank Privatization Database, 2008.

http://rru.worldbank.org/privatization

119. World Bank, 1992. Governance and Development. World Bank: Washington, DC.

120. World Bank, 1992. Privatization: The Lessions of Experience. World Bank Policy

Resarch Bulletin, August – October, Vol.3(4).

121. World Bank, 2005. Economic Growth in the 1990s: Learning from a Decade of

Reform. World Bank: Washington, DC.

122. World Bank, 2006. World Development Report: Equity and Development. Washington,

DC. World Bank

123. Yarrow, G., 1999. Why Bureaucrats are still in Business?. World Development, 27(1),

111-132.

124. Yoder, R., Borkholder, P. & Friesen, B. D., 1991. Privatization and Development: The

Empirical Evidence. Journal of Developing Areas, 25, 425-434.

125. Zagha, R., Nankani, G. & Gill, I., 2006. Rethinking Growth. Finance and

Development. 43(1), 7-11.

126. Zhang, K. H., 2001. Does FDI Promote Economic Growth? Evidence from East Asia

and Latin America. Contemporary Economic Policy, 19(2), 175-185.

127. Zinnes, C., Yair, E. & Sachs, J., 2001. The Gains from Privatization in Transition

Economies: Is Change of Ownership Enough?. New York: IMF Staff papers, Vol. 48.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Dữ liệu của các biến tăng trƣởng kinh tế (argdp), bất bình đẳng thu nhập (ineq10) và biến tƣ nhân hoá (pri) trong giai đoạn 1991 - 2008

STT Quốc gia

argdp

ineq10

pri

1

0.08

Angola

6.88

2

1.37

Benin

5.18

3

0.45

26.2

Burkina Faso

5.18

4

0.45

19.3

Burundi

1.65

5

4.04

15.7

Cameroon

4.73

6

0.06

Chad

5.82

7

0.12

Congo Rep.

2.52

8

5.34

16.6

Coted' Ivoire

2.15

9

0.31

Eritrea

3.02

10

4.24

6.6

Ethiopia

4.57

11

0.06

Gabon

0.3

12

14.74

14.1

Ghana

4.28

13

1.34

12.3

Guinea

4.05

14

2.74

13.6

Kenya

1.25

15

6.88

105

2.62

1.25

19.2

2.3

Lesotho 16 Madagascar 17

1.44

22.7

Malawi

2.18

18

1.76

23.1

Mali

5.47

19

5.19

12

Mauritania

4.28

20

6.74

Mauritius

5.4

21

6.74

12.5

Mozambique

9.28

22

1.49

46

Niger

3.58

23

3.23

24.9

Nigeria

1.75

Tome

and

24

3

0

Sao Principe

25

Senegal

5.33

12.8

8.47

26

Sierra Leone

-1.78

87.2

0.25

27

South Africa

2.27

33.1

2.42

28

Sudan

7.32

0.09

29

Tanzania

4.53

10.8

4.96

30

Togo

1.48

0.99

31

Uganda

5.62

14.9

4.71

32

Zambia

2.65

41.8

24.26

33

Zimbabwe

-3.22

22

3.99

34

Argentina

-2.12

39.1

14.53

35

Bolivia

2.62

24.6

0.05

36

Brazil

1.95

68

20.59

37

Chile

3.03

40.6

0.23

38

Colombia

0.85

57.8

4.46

39

Costa Rica

4.82

25.1

0.02

40

Dominican Rep

6.18

17.7

4.71

41

Ecuador

1.32

44.9

0.82

42

El Salvador

3.08

47.4

11.49

43

Grenada

4.48

1.62

44

Guatemala

3.45

55.1

6.9

45

Guyana

1.57

2.42

46

Haiti

1.13

0.46

47

Honduras

2.67

49.1

1.29

48

0.77

11.4

4.83

3.87

45

11.56

Jamaica 49 Mexico 50

Nicaragua

4.48

15.5

0.01

51

Panama

2.6

62.3

7.77

52

Paraguay

0.95

73.4

0.28

53

Peru

2.33

49.9

15.43

54

Uruguay

-1.43

18.9

0.08

55

Venezuela

0.05

62.9

7.02

56

Algeria

2.8

9.6

0.03

57

Bahrain

4.4

0.14

58

Egypt

4.57

8

5.51

59

Iran

4.45

17.2

0.02

60

Jordan

3.78

9.1

9.39

61

Lebanon

1.83

0.77

62

Morocco

2.88

11.7

16.58

63

Oman

4.07

3.09

64

Qatar

9.78

0

65

Saudi Arabia

1.9

0

66

Tunisia

4.97

13.4

2.7

Arab

67

4.22

0.32

United Emirates

68

Yemen Rep.

4.87

8.6

0.01

69

Bangladesh

5

6.8

0.18

70

India

5.33

7.3

2.9

71

Nepal

4.08

9.3

0.01

72

Pakistan

3.58

7.6

4.43

73

Sri Lanka

3.95

8.1

5.88

74

China

7.75

18.4

4

75

Fiji

2.28

0.11

76

Laos PDR

5.78

9.7

0.04

77

23.8

5.42

Papua New Guinea

-0.52

78

Philippines

3.27

16.5

6.09

79

Thailand

0.4

13.4

2.94

80

Vietnam

5.28

9.4

0.04

Nguồn: World Bank Privatization Database (2008), World Development Indicators (2012) và Human Development Report (2010)

Phụ lục 2: Danh sách các quốc gia có vị trí địa lý không tiếp giáp biển (landlocked countries)

Quốc gia Bolivia Burkina Faso Burundi Chad Ethiopia Laos Republic Lesotho Malawi Mali Nepal Niger Paraguay Uganda Zambia Zimbabwe

Vùng miền Latin America Sub-Saharan Africa Sub-Saharan Africa Sub-Saharan Africa Sub-Saharan Africa Asia Sub-Saharan Africa Sub-Saharan Africa Sub-Saharan Africa Asia Sub-Saharan Africa Latin America Sub-Saharan Africa Sub-Saharan Africa Sub-Saharan Africa

Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Landlocked_developing_countries

Phụ lục 3: Kiểm định phân phối chuẩn của các biến trong mô hình nghiên cứu

Biến inf

Biến linf

Biến argdp

Biến pri

Biến ineq10

Biến pop

Biến fdi

Biến open

Biến sec

Biến gov

Biến irgdp

Biến lirgdp

Phụ lục 4: Kiểm định các giả thiết theo phƣơng pháp OLS

 Mô hình 1

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 2

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 3

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 4

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 5

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 6

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 7

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 8

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 9

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 10

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 11

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 12

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

Mô hình 13

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 14

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 15

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 16

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 17

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 18

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 19

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 20

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 21

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 22

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 23

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 24

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 25

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 26

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 27

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 28

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 29

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

 Mô hình 30

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm định độ phù hợp của mô hình (mô hình không bỏ sót biến)

Phụ lục 5: Các biểu đồ về doanh thu và số lƣợng giao dịch đƣợc thực hiện của chính sách tƣ nhân hoá ở các quốc gia đang phát triển, giai đoạn 1988 - 2008

Hình 1: Doanh thu đạt đƣợc từ chính sách tƣ nhân hóa ở các quốc gia đang phát triển, giai đoạn 1988 - 2008

Doanh thu

140,000

120,000

100,000

80,000

60,000

D S U u ệ i r T

40,000

20,000

0

8 8 9 1

3 9 9 1

8 9 9 1

3 0 0 2

8 0 0 2

9 8 9 1

0 9 9 1

1 9 9 1

2 9 9 1

4 9 9 1

5 9 9 1

6 9 9 1

7 9 9 1

9 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

Năm

Nguồn: World Bank Privatization Database (2008)

Hình 2: Số lƣợng các giao dịch tƣ nhân hóa ở các quốc gia đang phát triển, giai đoạn 1988 - 2008

Số lƣợng giao dịch

h c ị

d o a i g g n ợ ƣ

l ố S

2000 1800 1600 1400 1200 1000 800 600 400 200 0

6 9 9 1

8 9 9 1

0 0 0 2

2 0 0 2

4 0 0 2

6 0 0 2

8 0 0 2

8 8 9 1

9 8 9 1

0 9 9 1

1 9 9 1

2 9 9 1

3 9 9 1

4 9 9 1

5 9 9 1

7 9 9 1

9 9 9 1

1 0 0 2

3 0 0 2

5 0 0 2

7 0 0 2

Năm

Nguồn: World Bank Privatization Database (2008)

Hình 3: Doanh thu đạt đƣợc từ chính sách tƣ nhân hóa (phân theo vùng miền)

Doanh thu

4%

7%

5%

MENA

SOUTH ASIA

EAST ASIA & PACIFIC

41%

LATINH AMERICA

43%

SUB-SAHARAN AFRICA

Nguồn: World Bank Privatization Database (2008)

Hình 4: Số lƣợng các giao dịch tƣ nhân hóa (phân theo vùng miền)

Số lƣợng giao dịch

10%

MENA

27%

12%

SOUTH ASIA

EAST ASIA & PACIFIC

LATINH AMERICA

18%

SUB-SAHARAN AFRICA

33%

Nguồn: World Bank Privatization Database (2008)

Hình 5: Doanh thu đạt đƣợc từ chính sách tƣ nhân hóa (phân theo ngành)

Doanh thu

1% 4%

15%

16%

Energy

Financial

Infrastructure

Manufacturing & Services

24%

Other

Primary

40%

Nguồn: World Bank Privatization Database (2008)

Hình 6: Số lƣợng các giao dịch tƣ nhân hóa (phân theo ngành)

Số lƣợng giao dịch

3%

4%

7%

9%

Energy

16%

Financial

Infrastructure

Manufacturing & Services

Other

Primary

61%

Nguồn: World Bank Privatization Database (2008)